
.jpg)

TIẾNG HÁN CỔ (II)
với Ông Đồ ĐỖ CHIÊU ĐỨC
CHS Phan Thanh Giản (Cần Thơ)
Cựu GS Trung Học Tân Hưng (Cái Răng)
Cựu Giảng Viên ĐH Xã Hội - Nhân Văn (Sài Gòn)
Houston,Texas________
Trân trọng giới thiệu TRANG NHÀ ĐỖ CHIÊU ĐỨC:
https://sites.google.com/view/dochieuduc5/startseite?authuser=0

Nối tiếp theo những câu truyện nói lên "Hai Nhân Cách" của thi nhân Lý Thân là "Bài thơ Mẫn Nông thứ ba" của ông được tìm thấy trong "Đường Triều Tàn Quyển 唐朝残卷", được khai quật gần đây trong hang động Đôn Hoàng của tỉnh Cam Túc, có ghi lại tích sau đây :
Mùa hạ năm đó Lý Thân 李紳 về Hào Châu để thăm lại thân bằng quyến thuộc, cũng cùng lúc với Giang Đông Tiết Độ Sứ Lý Phùng Cát 李逢吉 về triều trình tấu, đi ngang qua Hào Châu. Hai người trước đó là bạn đỗ cùng khoa, cùng bảng Tiến sĩ, lại cùng là bạn văn thơ với nhau, nên gặp nhau rất là tương đắc. Sau tiệc mừng gặp cố tri, ngày hôm sau hai bạn cùng nắm tay lên tận Quan Giá Đài (Đài dùng để quan sát, nhìn ngắm) của thành đông để ngắm cảnh núi sông, ruộng đồng non nước. Trước cảnh non sông ngàn dặm, Lý Phùng Cát cảm khái mà ngâm rằng :
何得千里朝野路, Hà đắc thiên lý triều dã lộ,
累年遷任如登台。 Lũy niên thiên nhậm như đăng đài !
Có nghĩa :
Sao được đường quan ngàn dặm đó,
Năm năm thay bậc tựa leo đài !
Cảm khái cũng không quên tiến thủ, ông ước mơ cho con đường làm quan ngàn dặm của mình, mỗi năm mỗi bậc thuyên chuyển lên cao mãi, suông sẻ như là các bậc thang leo lên trên đài cao nầy vậy. Còn Lý Thân ngắm cảnh trên cao với một góc độ khác, ông trông thấy cảnh giữa trưa nắng gắt như thế nầy mà các nông phu vẫn phải cày sâu cuốc bẫm ngoài đồng ruộng, mới buộc miệng ngâm rằng :
鋤禾日當午, Sừ hòa nhật đang ngọ,
汗滴禾下土。 Hạn trích hòa hạ thổ.
誰知盤中餐, Thùy tri bàn trung xan,
粒粒皆辛苦。 Lạp lạp giai tân khổ !
Có nghĩa :
Cuốc cày giữa ngọ ban trưa,
Mồ hôi đổ xuống như mưa lúa trồng.
Ai người biết cơm trong mâm,
Từng hạt từng hạt muôn phần đắng cay !
Lý Phùng Cát nghe xong khen lấy khen để, cứ luôn miệng nói là bài thơ thật tuyệt diệu : Mỗi hạt cơm hạt gạo chúng ta ăn đều do công sức và mồ hôi nước mắt của nông dân mới có được. Lý Thân ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng ngâm tiếp bài thơ thứ 2 :
春種一粒粟, Xuân chủng nhất lạp túc,
秋收萬顆子。 Thu thâu vạn khỏa tử.
四海無閒田, Tứ hải vô nhàn điền,
農夫猶餓死。 Nông phu do ngạ tử !
Có nghĩa :
Mùa xuân một hạt gieo trồng,
Đến thu thu hoạch muôn lần nhiều hơn.
Khắp nơi chẳng có ruộng hoang,
Nông dân đói chết vẫn còn khắp nơi !

Lý Phùng Cát nghe xong, thầm nghĩ rằng : Đây chẳng phải là những lời chê trách triều đình vua quan chẳng quan tâm đến đời sống khốn khó của quần chúng nông dân hay sao ? Quả là đáng chết! Nên khi về đến thư phòng, Lý Phùng Cát mới nói với Lý Thân rằng :"Bạn có thể chép lại hai bài thơ khi nảy để tặng cho tôi không, để kỷ niệm và cũng để không uổng phí công sức vì chúng ta đã cùng đăng cao ngắm cảnh chung với nhau một chuyến". Lý Thân trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói rằng :"Hai bài thơ chỉ có bốn mươi chữ, bạn nghe qua chắc đã cũng nhớ rõ trong lòng rồi, cần chi phải viết lại; Còn như muốn có bút tích của tôi thì tôi sẽ viết tặng bạn một bài thơ mới làm ngay bây giờ". Lý Phùng Cát lở bộ đành phải nói xuôi theo:"Cũng được, thế lại càng qúy hoá lắm !" nhưng trong lòng rất thất vọng, vì bản thân y muốn có được bài thơ có ý "phản động" kia hơn. Lý Thân bèn chuẩn bị giấy mực, sáng tác và viết ngay lên giấy hoa tiên bài MẪN NÔNG thứ 3 như sau :
壟上扶犁兒, Lũng thượng phù lê nhi,
手種腹長飢。 Thủ chủng phúc trường ki (cơ).
窗下織梭女, Song hạ chức thoa nữ,
手織身無衣。 Thủ chức thân vô y.
我愿燕趙姝, Ngã nguyện Yên Triệu thù,
化为嫫女姿。 Hóa tác Mô Nữ ti (tư).
一笑不值錢, Nhất tiếu bất trị tiền,
自然家國肥。 Tự nhiên gia quốc phì !
Có nghĩa :
Những chàng trai đang ngã tay cày trên luống cày; Tay trồng lúa nhưng bụng lại đói dài dài. Các cô gái ngồi dệt dưới song cửa sổ; Tay dệt vải nhưng trên mình chẳng có được manh áo mới nào cả. Ta ước gì các cô gái đẹp của nước Yên nước Triệu đều hóa thành bà Mô Mẫu là bà phi thứ tư xấu như ma của vua Huỳnh Đế (nhưng lại rất đãm đang). Nụ cười của họ sẽ không đáng ngàn vàng nữa, nhưng tự nhiên nhà nước sẽ giàu thêm ra.
Diễn Nôm :
Nông phu trên luống cày,
Tay trồng bụng đói dài.
Dưới song cô gái dệt,
Tay dệt không áo may.
Ước gái đẹp Yên Triệu,
Như ma xấu hoài hoài.
Nụ cười không đáng giá,
Tự nhiên nước giàu ngay !

Lý Phùng Cát trông thấy bài thơ, chuyển thất vọng thành vui mừng. Lòng mừng khấp khởi vì thấy lời lẽ của bài thơ nầy chê trách vua quan và triều đình còn thậm tệ hơn là bài thơ trước nữa. Nhất là các câu cuối như có ý chê trách nhà vua chỉ quan tâm và phung phí tiền bạc trên mình các người đẹp mà không chăm lo đến đời sống của nông dân nghèo khổ. Ngoài mặt thì Lý Phùng Cát tỏ ra rất thân thiện và nể phục tài làm thơ của Lý Thân, nhưng trong bụng thì ngầm tính toán là sẽ mượn "cái bàn đạp Lý Thân" nầy để thăng quan tiến chức thêm một bậc nữa.
Hôm sau bèn giả biệt Lý Thân rời khỏi Hào Châu để về kinh thành. Sau khi diện kiến nhà vua để trình tấu mọi việc xong xuôi, thì lại tâu riêng với nhà vua rằng :"Hàn Lâm Học Sĩ Lý Thân đã làm thơ phản nghịch chê trách triều đình để hả giận trong lòng". Đường Võ Tông hoàng đế lấy làm lạ hỏi rằng :"Khanh có gì làm bằng chứng không ?" Lý Phùng Cát bèn trình bài thơ Mẫn Nông Kỳ Tam do chính tay Lý Thân viết lên cho nhà vua xem. Vua xem xong trầm ngâm không nói gì cả.
Buổi thiết triều sáng hôm sau, vua Đường Võ Tông hạ chiếu triêu hồi Lý Thân về triều. Trước mặt bá qua văn võ, nhà vua cất tiếng phán rằng :"Trẫm ở trên ngôi cao lâu ngày, quên mất thăm hỏi về dân tình, may nhờ có Lý Phùng Cát tiến cử trình lên bài thơ Mẫn Nông của Hàn Lâm Học Sĩ Lý Thân nhắc nhở về dân tình. Nay trẫm thăng cho Lý Thân lên làm Thượng Thư Hữu Bộc Xạ (tương đương như chức Hữu Thừa Tướng) để giúp trẫm cùng bàn việc triều chính, trị quốc an dân". Sau khi tạ ơn nhà vua, Lý Thân cũng đã đích thân đến phủ tạ ơn Lý Phùng Cát đã có lòng tiến cử cho mình, làm cho Lý Phùng Cát đâm ra thật ngỡ ngàng : Định hại người thành ra giúp người, định dìm người khác xuống để mình được thăng quan, không ngờ lại giúp cho người ta thăng quan tiến chức cao hơn mình nữa. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau nhà vua cũng biết được thâm ý sàm tấu của Lý Phùng Cát, nên Lý đã bị giáng chức và bị biếm đi đến vùng Vân Nam xa xôi làm Quan Sát Sứ.
Về bài thơ MẪN NÔNG thứ 3 của Lý Thân vì trình lên cho nhà vua nên được giữ lại trong cung; mãi cho đến gần đây khi khai quật thạch động Đôn Hoàng ở tỉnh Cam Túc mới phát hiện trong "Đường Triều Tàn Quyển 唐朝残卷". Nên bài thứ 3 nầy không được phổ biến rộng rãi như bài 1 và bài 2. Nhất là bài đầu (theo giai thoại nầy) gần như trong giới bình dân già trẻ gì đều biết cả. Ngay cả ca dao của Việt Nam ta cũng có bài nghi là bản phỏng dịch tuyệt vời của bài thơ nầy :
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!
Trở lại với Trương Hựu Tân 張又新, một đối thủ chính trị từng hại cho Lý Thân suýt chút nữa thì bị chém đầu. Nhưng khi Trương Hựu Tân bị bãi quan rồi lâm nạn, ghe chìm con chết, ngỏ lời tạ lỗi, thì chẳng những Lý Thân không trả oán, mà còn mời Trương Hựu Tân đến nhà để đãi đằng. Trong bửa tiệc Trương Hựu Tân tình cờ gặp lại cô ca Kỹ mà mình đã giao tình khi làm quan ở đất Quảng Lăng hồi 20 năm trước. Nên đã xúc động mà làm bài thơ tứ tuyệt TẶNG QUẢNG LĂNG KỸ 贈廣陵妓 (Tặng nàng ca kỹ đất Quảng Lăng) :
雲雨分飛二十年, Vân vũ phân phi nhị thập niên,
當時求夢不曾眠。 Đương thời cầu mộng bất tằng miên.
今來頭白重相見, Kim lai đầu bạch trùng tương kiến,
還上襄王玳瑁筵。 Hoàn thướng Tương Vương đại mạo diên !
Có nghĩa :
Mây mưa cách biệt hai mươi năm,
Chưa mộng hằng mơ thổn thức lòng.
Đầu bạc hôm nay còn gặp lại,
Tương Vương tiệc rượu hết còn mong !

Khi nàng ca kỹ ngâm nga và hát bài thơ trên theo lối Nhạc phủ, thì cả nàng và Trương Hưu Tân đều ngậm ngùi rơi lệ; và Lý Thân đã làm một cử chỉ thật đẹp là trả nàng ca kỹ năm xưa lại cho Trương Hựu Tân để hai người được đoàn tụ bên nhau. Nghĩa cử nầy của Lý Thân làm cho ta lại nhớ đến tích GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH giữa Từ Đức Ngôn và Lạc Xương Công Chúa của thời Nam Bắc Triều.
Còn về bài thơ của "Tô Châu Thứ Sử" Lưu Vũ Tích vì có tựa là "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓". Có nghĩa là "Bài thơ làm riêng tặng cho nàng ca kỹ của Lý Tư Không" Nên lại có thể hiểu như sau :
Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô Châu (833), Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Có một nàng ca kỹ thật đẹp ăn mặc như các cung nữ trong cung vua và lại ca múa hát khúc "Đỗ Vi Nương" trong cung đình. Lưu Vũ Tích đã choáng ngợp trước buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy và bàng hoàng trước vẻ đẹp sắc nước hương trời của nàng ca kỹ, nên Ông đã xúc động mà viết bài thơ tứ tuyêt "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓" (Tặng nàng ca kỹ của ông Tư Không họ Lý) với những lời lẽ ngưỡng mộ như sau :
高髻雲鬟宮樣妝, Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
春風一曲杜韋娘。 Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương.
司空見慣渾閒事, Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
斷盡蘇州刺史腸。 Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
Có nghĩa :
Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
"Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
Tư Không quen mắt không cho lạ,
Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !

Ông là quan lớn Tư Không, đã quen sống xa hoa và nhìn ngắm các giai nhân đẹp như tiên nga, hát hay múa giỏi như thế nầy quen rồi, nên cho là chuyện bình thường không có gì là lạ cả. Nhưng đối với chức quan nhỏ nhoi Thứ Sử Tô Châu như tôi, thì đối diện với bửa tiệc cao sang và nhất là đối diện với giai nhân tuyệt sắc như thế nầy, làm cho tôi xúc cảm rung động đến như đứt từng đoạn ruột ra hết vậy (Đoạn Tận 斷盡 là Đứt hết. Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường : là "Đứt hết ruột gan của Thứ Sử Tô Châu rồi!) Cho nên, sau buổi tiệc, Lý Thân cũng rất điệu nghệ và hào phóng cho kiệu hoa đưa nàng ca kỹ với "cung dạng trang"(là Trang điểm như là các cung nhân trong cung vua vậy) về với Thứ Sử Tô Châu Lưu Vũ Tích để cho ông khỏi phải đứt từng đoạn ruột nữa ! Câu thơ cuối của Lưu Vũ Tích lại làm cho ta nhớ đến một câu ca dao rất đa tình dễ thương của cô gái quê Nam bộ :
Đưa tay em bứt cọng ngò,
Thương anh Đứt Ruột, giả đò làm ngơ !
Qua hai câu chuyện trên, ta thấy Lý Thân qủa là một thi nhân hào sảng, hào hoa phóng khoáng, mặc dù có đời sống xa hoa phóng túng. Nhưng chính cái xa hoa phóng túng của ông nên mới lần lượt tặng cả hai nàng ca kỹ tài hoa đẹp đẽ của mình cho hai người bạn thơ một cách thật hào phóng !
Trở lại với "MẪN NÔNG KỲ TAM"...
Thực ra thì bài thơ "MẪN NÔNG thứ ba" nầy trước đây đã có tên là "KHỔ TÂN NGÂM 苦辛吟" (Khúc Ngâm Cay Đắng) của VU PHẦN 于濆, tự là TỬ Y 子漪, đậu Tiến sĩ năm Hàm Thông thứ hai đời vua Đường Ý Tông (861), là một thi nhân cũng ở thời vãn Đường. Nhưng khi khai quật hang động Mạc Cao 莫高窟 (Mạc Cao Quật) ở Đôn Hoàng thì tài liệu trong Đường Triều Tàn Quyển kể lại giai thoại trên, nên bài thơ lại trở thành của Lý Thân. Vấn đề còn đang tranh cải. Nhưng...

Bài thơ trên dù là của tác giả nào đi nữa thì cũng nói lên được cái đời sống cơ cực của nông dân và nỗi lòng của các thi nhân ở buổi Tàn Đường đã quan tâm và cảm thông với đời sống của quần chúng nông dân trong xã hội loạn lạc nhiễu nhương của lúc bấy giờ.
Hẹn bài viết tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


Theo "Vân Khê Hữu Nghị 云溪友議 và Cựu Đường Thư 舊唐書 ghi chép lại : Khoảng năm Trinh Nguyên đời vua Đường Đức Tông (799), chàng thư sinh LÝ THÂN 李紳 lai kinh ứng thí đã làm hai bài thơ MẪN NÔNG 憫農 (Thương xót cho nhà nông) dâng lên cho Tập Hiền Điện Hiệu Thư Lang LỮ ÔN 呂温 để cầu tiến thân, rất được Lữ xem trọng. Hai bài thơ đó như sau :
其一 Kỳ Nhất
春種一粒粟, Xuân chủng nhất lạp túc,
秋收萬顆子。 Thu thâu vạn khỏa tử.
四海無閒田, Tứ hải vô nhàn điền,
農夫猶餓死。 Nông phu do ngạ tử !
Có nghĩa :
Mùa xuân một hạt gieo trồng,
Đến thu thu hoạch muôn lần nhiều hơn.
Khắp nơi chẳng có ruộng hoang,
Nông dân đói chết vẫn còn khắp nơi !
其二 Kỳ Nhị
鋤禾日當午, Sừ hòa nhật đang ngọ,
汗滴禾下土。 Hạn trích hòa hạ thổ.
誰知盤中餐, Thùy tri bàn trung xan,
粒粒皆辛苦。 Lạp lạp giai tân khổ !
Có nghĩa :
Cuốc cày giữa ngọ ban trưa,
Mồ hôi đổ xuống như mưa lúa trồng.
Ai người biết cơm trong mâm,
Từng hạt từng hạt muôn phần đắng cay !
Có học giả cho rằng bài ca dao sau đây của ta là bản phỏng dịch tuyệt vời của bài thơ MẪN NÔNG Kỳ Nhị nêu trên :
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!
Qua hai bài thơ MẪN NÔNG nêu trên, ta thấy LÝ THÂN quả là một chàng trai có bầu nhiệt huyết, có hoài bão lo cho dân cho nước. Thấy được sự bất công của xã hội và cảm thông với đời sống khốn khó của nông dân, những người làm ra hạt lúa để nuôi sống nhân dân lại là những người bị chết đói nhiều nhất; Cho nên, phải biết trân trọng từng hạt thóc hạt gạo do nông dân cực khổ lắm, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới làm ra được, như hai câu ca dao đã nhắn nhủ :
Ai ơi, bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!!!
Vào đời với bầu nhiệt huyết là thế, có ai ngờ rằng đến năm Nguyên Hòa Nguyên niên (806) khi Lý Thân đã thi đỗ Tiến sĩ ra làm quan, thì lại đâm ra ăn chơi trác táng, chạy theo đời sống xa hoa hưởng thụ, làm uy làm quyền, vô tình vô nghĩa. Trong Vân Khê Hữu Nghị 云溪友議 có chép lại rằng :
Lý Thân khi chưa phát tích thường đến chơi nhà của một người trong họ tộc là Lý Nguyên Tướng. Vì Tướng lớn tuổi hơn, nên Thân thường gọi Tướng là "Thúc Thúc". Đến khi Thân phát tích thi đậu làm quan thì Tướng vì muốn lấy lòng Thân nên tự hạ mình xuống gọi Thân là "Huynh trưởng", tự xưng là "Tiểu đệ", nhưng Thân vẫn không vui dạ, bắt Tướng phải gọi mình bằng "Gia gia" và tự xưng là "Tôn tử"(cháu) thì mới vừa lòng. Lại một lần...
Có người bạn họ Thôi cùng khoa Tiến sĩ với Lý Thân, nhưng chỉ là một Tuần Quan nhỏ ở Tuyên Châu Dịch Quán. Nghe Lý được thăng đến chức Tư Không, bèn khăn gói đến thăm. Khi vừa đến khách sạn, chẳng may người nhà và một thị dân tranh chấp ẩu đả nhau gây náo loạn. Lý Thân bèn xử cực hình cả hai và hạ lệnh bắt Thôi Tuần Quan trói lại mắng rằng :"Trước kia chúng ta đã từng quen biết, sao nhà ngươi đến đây mà chẳng đến bái kiến ta, còn để cho người nhà gây náo loạn là cớ làm sao ?!" Bèn hạ lệnh đánh hai mươi trượng và đày đi xứ khác, mặc cho người bạn hết lời xin lỗi giải thích cũng chẳng thèm nghe.
Mọi người đều kháo nhau chê trách Lý Thân rằng : Người đáng bậc cha chú trong họ tộc thì kêu bằng cháu; bè bạn cũ đến thăm thì bị đánh đòn và đi đày. Dưới sự bạo hành và hà khắc của Lý Thân, một số dân chúng đã vượt qua sông Trường Giang mà đi xứ khác ở. Lại một lần nữa...
Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉禹錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô Châu (833), Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Các cô ca kỹ ăn mặc như các cung nữ và ca múa những điệu nhạc trong cung đình. Lưu Vũ Tích bàng hoàng ngỡ ngàng trước buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy của tác giả hai bài thơ Mẫn Nông năm xưa. Trong khi dân chúng Tô Châu đang lâm vào cảnh lũ lụt đói kém khắp nơi, nên Ông đã xót xa mà viết bài thơ tứ tuyêt "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈李司空妓" (Tặng cô kỹ nữ của ông Tư Không họ Lý) với những lời lẽ chua chát mĩa mai như sau :
高髻雲鬟宮樣妝, Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
春風一曲杜韋娘。 Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương.
司空見慣渾閒事, Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
斷盡蘇州刺史腸。 Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
Có nghĩa :
Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
"Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
Tư Không quen mắt không cho lạ,
Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !
Ông đã ăn chơi quen thói, nên cho cảnh ăn chơi trác táng xa xỉ trước mắt là chuyện bình thường, là chuyện nhàn rỗi (hồn nhàn sự), nhưng đối với tôi, đang lúc phải cầu xin triều đình mở kho lương thực để cứu tế dân tình đang trong cơn thiên tai lũ lụt, đói kém khắp nơi, thì cảnh ăn chơi sa đọa trước mắt qủa thật làm cho con người ta phải đau lòng đứt ruột ! Sao bây giờ ông lại vô tâm thế, ông đã quên mất khi xưa mình đã từng làm hai bài thơ MẪN NÔNG rất hay, rất có tình người, rất có tính nhân bản hay sao ?!
Bài thơ trên của Thi Hào Lưu Vũ Tích còn hình thành một thành ngữ vẫn thông dụng cho đến hiện nay. Đó là bốn chữ "TƯ KHÔNG KIẾN QUÁN 司空見慣", nghĩa đen là : Quan Tư Không nhìn đã quen rồi; nghĩa bóng thường dùng để chỉ : Chuyện gì đó rất bình thường, không có gì là lạ cả; không làm cho ai đó phải trầm trồ hay ngạc nhiên gì cả ! Chuyện gì đó dù có lạ, có hiếm cở nào đi nữa, nhưng khi đã nhìn thấy nhiều lần rồi thì đều là "Tư Không Kiến Quán", là "Chuyện thường ngày ở huyện !".
Lại một lần khi Lý Thân đang làm Tiết Độ Sứ ở đất Hoài Nam, lúc đó Tam nguyên Trương Hựu Tân 張又新 (một đối thủ chính trị từng hại cho Lý Thân suýt chút nữa thì bị chém đầu) bị bãi quan về quê, khi đi ngang qua địa phận của Lý Thân lại bị đắm thuyền, chết mất hai đứa con, lại sợ bị Lý Thân trả thù. Đau khổ, rối rắm và lo lắng vô cùng bèn hạ mình xuống nước viết một bức thư trần tình thật dài tạ lỗi với Lý Thân. Lý tỏ ra rất đồng tình và cảm thông cho nỗi bất hạnh của Trương, chẳng những bỏ qua những hiềm khích cũ, mà còn mời Trương đến nhà để thiết tiệc khoản đãi. Hai người cùng thù tạc như là bạn tâm giao lâu ngày vừa găp lại, nên uống đến say mèm... Chợt...
Trương Hựu Tân như tỉnh hẵn rượu ra vì trông thấy một ca kỹ mà Lý Thân vừa cho ra hát để giúp vui trong bữa tiệc... Thì ra đó là người yêu cũ hai mươi năm trước của Trương Hựu Tân khi ông đang làm quan ở đất Quảng Lăng, hai người yêu nhau nhưng chẳng thành quyến thuộc. Nay lại gặp mặt nhau trong hoàn cảnh trớ trêu nầy, bốn mắt nhìn nhau mà nói chẳng nên lời. Thừa lúc Lý Thân vào trong rửa mặt thay áo, Trương Hựu Tân bèn dùng ngón tay chấm vào rượu tức cảnh một bài tứ tuyệt viết lên mặt bàn như sau :
雲雨分飛二十年, Vân vũ phân phi nhị thập niên,
當時求夢不曾眠。 Đương thời cầu mộng bất tằng miên.
今來頭白重相見, Kim lai đầu bạch trùng tương kiến,
還上襄王玳瑁筵。 Hoàn thướng Tương Vương đại mạo diên !
Có nghĩa :
Mây mưa cách biệt hai mươi năm,
Chưa mộng hằng mơ thổn thức lòng.
Đầu bạc hôm nay còn gặp lại,
Tương Vương tiệc rượu hết còn mong !
Lý Thân thay áo xong ra uống tiếp, thấy Trương Hựu Tân lộ vẻ âu sầu, bèn lệnh cho ca kỹ hát để giúp vui. Nàng ca kỹ bèn cất tiếng ngâm và hát bài thơ TẶNG QUẢNG LĂNG KỸ 贈廣陵妓 nói trên khiến cho Trương Hựu Tân và nàng cả hai cùng rơi lệ. Lý Thân hỏi biết chuyện, nên sau tiệc rượu, bèn cho người khiêng kiệu đưa nàng ca kỹ theo Trương Hựu Tân về để cùng nhau đoàn tụ.
Qủa là một nghĩa cử cao đẹp của một thi nhân. Chẳng những không trả thù, mà còn giúp cho kẻ thù cũ được tròn mộng uyên ương. Lý Thân là như thế đó !
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ LÝ THÂN :
LÝ THÂN 李紳(772-846)tự là Công Thùy 公垂, người đất Hào Châu (An Huy), sau dời về Nhuận Châu, Vô Tích (Giang Tô). Con của Ô Trình Lệnh Lý Ngộ, là thi nhân, làm quan cao đến chức Tể Tướng.
Lý Thân đậu tiến sĩ năm Nguyên Hòa nguyên niên đời Đường (806), được bổ về làm Chưởng Thư Ký cho Triết Tây Quan Sát Sứ Lý Ky. Năm sau Lý Ky mưu phản, ông can gián, nhưng không nghe, lại nhốt ông vào ngục. Lý Ky mưu phản thất bại, ông được thả và được triệu về kinh thăng chức Hiệu Thư Lang rồi Quốc Tử Trợ Giáo. Đời Đường Mục Tông lại được thăng Hàn Lâm Học Sĩ, cùng với Lý Đức Dũ và Nguyên Chẩn xưng là TAM TUẤN 三俊 (Ba người Tuấn Kiệt). Khi Đường Kính Tông tức vị, ông bị Lý Phùng Kiết, Trương Hựu Tân hãm hại, bị biếm làm Đoan Châu Tư Mã. Đầu những năm Đại Hòa đời Văn Tông (827), ông chuyển nhậm Từ Châu rồi Thọ Châu Thứ Sử. Sau thăng lên các chức vụ quan trọng như Triết Đông Quan Sát Sứ, rồi Hà Nam Doãn và Tuyên Võ Tiết Độ Sứ. Đường Võ Tông năm Hội Xương thứ 2 (842), về triều nhậm chức Trung Thư Thị Lang, đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, Tể Tướng. Hai năm sau lại bị chuyển về làm Hoài Nam Tiết Độ Sứ, không lâu thời mất, hưởng thọ 75 tuổi.
Lý Thân cùng với Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị giao du xướng họa rất thân mật, họ đều là thành viên của việc vận động và đề xướng ra lối thơ Tân Nhạc Phủ. Ông sáng tác 20 bài Nhạc Phủ Tân Đề (đã thất truyền). Tác phẩm nổi tiếng để đời của ông là 《Mẫn Nông nhị thủ 憫農二首》nói về đời sống cơ cực vất vả của nông dân, rất được mọi người tán thưởng và thuộc lòng. Trứ tác thì có《Truy Tích Du Thi 追昔遊詩》trong Toàn Đường Thi thu tập lại được bốn quyển.
Xin được khép lại bài viết "Một Thi Nhân nhưng với hai nhân cách" ở đây.
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初唐四傑 là "VƯƠNG DƯƠNG LƯ LẠC 王楊盧駱", đó chính là VƯƠNG BỘT 王勃, DƯƠNG QUÝNH 楊炯, LƯ CHIẾU LÂN 盧照鄰 và LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王. Họ đều là những văn thi sĩ sống dưới thời Đường Cao Tông và Võ Hậu, họ đã bứt phá ra khỏi Cung Thể Thi của thời Lục Triều, mặc dù lúc đó có rất nhiều người chỉ trích bài bác cười chê, nhưng họ đã thành công trong việc phát triển và hoàn chỉnh thể Ngũ ngôn Luật thi trong buổi sơ Đường. Thi Thánh ĐỖ PHỦ của buổi thịnh Đường đã có thơ về họ như sau :
王楊盧駱當時體, VƯƠNG DƯƠNG LƯ LẠC đương thời thể,
輕薄為文哂未休。 Khinh bạc vi văn sẩn vị hưu.
爾曹身與名俱滅, Nhĩ tào thân dữ danh câu diệt,
不廢江河萬古流。 Bất phế giang hà vạn cổ lưu !
Có nghĩa :
VƯƠNG, DƯƠNG, LƯ, LẠC, xướng thơ,
Những phường khinh bạc mù mờ chê bay.
Lũ ngươi chết chẳng còn ai...
Thơ kia như nước chảy hoài muôn năm !
Quả nhiên, thơ văn của TỨ KIỆT như "giang hà vạn cổ lưu" chảy mãi cho đến ngày nay. Nào, ta hãy bắt đầu bằng người đứng đầu của Tứ Kiệt là VƯƠNG BỘT nhé !
Vương Bột 王勃 (650-676), tự là Tử An 子安, người đất Giáng Châu, Long Môn (tỉnh Sơn Tây ngày nay). Xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc, ông nội là Kinh học Đại Nho Vương Thông dưới triều Tùy Dương Đế; cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Châu Hoan Giao Chỉ. Lên sáu tuổi đã biết làm thơ, nổi tiếng là thần đồng, thuộc làu kinh sử, 9 tuổi đã đọc Hán Thư của Nhan Thị, 10 tuổi đã thuộc làu cả Lục Kinh, 14 tuổi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của triều đình.. Nổi tiếng với thơ ngũ ngôn và biền văn.
Tương truyền, Vương Bột có tật rất lạ là trước khi muốn viết văn thì mài sẵn tới mấy nghiên mực, và sau khi chuẩn bị giấy bút xong thì rót rượu uống liên tục cho đến khi say mèm, bèn trùm mền lại ngủ một giấc ngon lành. Đến khi thức dậy thì hưu bút viết một hơi thẳng thét từ đầu đến cuối bài văn thât hay, mà không cần phải sửa chửa hay thêm bớt một chữ nào cả. Người đời xưng tụng ông là PHÚC CẢO 腹稿.Có nghĩa là : Làm nháp ở trong bụng.

Năm Vương Bột 16 tuổi trên đường đi thăm cha, hay tin Đô Đốc Diêm Bá Dư trấn nhậm Hồng Châu trùng tu Đằng Vương Các mở cuộc thi thơ văn và khoản đãi tân khách bốn phương. Chủ ý muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương, nên đã cho Chương trau chuốt sẵn một bài phú thật hay để ngày hôm đó viết lại. Bột hay tin muộn, thời may có cụ già mách cho Bột rẻ thuyền vào Chương Giang sẽ có gió giúp đưa đến Đằng Vương Các. Bột nghe theo lời, đến đêm quả có gió lớn nổi lên chỉ trong một đêm mà vượt qua gần 800 dặm đường ( có thể là nhờ gió của đêm Trùng Cửu mùng 9 tháng 9 ). Kịp lúc Đằng Vương Các vừa phát giấy bút chiêu đãi khách làng văn. Thấy Bột chỉ là một thằng bé con, Đô Đốc Diêm Bá Dư không muốn cấp giấy bút, nhưng Bột kiên quyết muốn làm văn. Diêm không tiện từ chối, bèn cho người đứng phía sau lưng Bột, hễ Bột viết được câu nào thì chép lấy dâng đến cho Diêm xem, hễ thấy không xong là tống cổ ra khỏi buổi tiệc ngay. Khi Bột mở đầu bài văn bằng câu : Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ 南昌故郡,洪都新府 (Xưa là quận Nam Xương, nay là phủ Hồng Đô), thì Diêm cười và bảo : Cũng là sáo ngữ của các thầy Đồ Nho mà thôi. Đến câu : Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hành Lư 星分翼軫,地接衡廬 (chỉ địa thế của Đằng Vương Các : Phân chia giữa sao Dực và sao Chẩn, còn đất thì nối tiếp giữa Hành Sơn và Lư Sơn) thì Diêm lặng thinh. Lại đến câu : Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu đẩu chi Khư. Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 物華天寶,龍光射牛斗之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 (Của đẹp báu trời, ánh long quang chiếu sao Ngưu sao Đẩu; Đất linh người giỏi, cao nhân Từ Trĩ hạ giường Trần Phồn) thì Diêm lại tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Kịp đến câu :
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
落霞與孤鶩齊飛, 秋水共長天一色
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Long lanh thu thủy nước mây một màu
... thì ông không còn dằn được cảm xúc, vỗ bàn đứng dậy khen là tuyệt cú ! Rồi giấu nhẹm luôn bài phú làm sẵn của con rể không dám trình làng. Vương Bột nổi tiếng luôn từ đấy và bài phú Đằng Vương Các Tự 滕王閣序 của Vương Bột cũng được lưu truyền thiên cổ với các câu đã trở thành Thành Ngữ như :
* Trong câu : Lão đương ích tráng, ninh di bạch thủ chi tâm 老當益壮, 寧移白首之心. Cho ta thành ngữ : LÃO ĐƯƠNG ÍCH TRÁNG 老當益壯 : Chỉ Già mà còn mạnh khỏe.
* Trong câu : Cùng thả ích kiên bất trụy thanh vân chi chí 窮且益堅,不墮青雲之志. Cho ta thành ngữ : CÙNG THẢ ÍCH KIÊN 窮且益堅 : Có nghĩa Nghèo mà biết kiên trì phấn đấu.
* Trong câu : Thiên cao địa quýnh, giác vũ trụ chi vô cùng 天高地迥,覺宇宙之無窮. Cho ta thành ngữ : THIÊN CAO ĐỊA QUÝNH 天高地迥 : Chỉ Trời cao đất rộng.
* Trong câu : Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số 興盡悲來,識盈虛之有數. Cho ta thành ngữ : HỨNG TẬN BI LAI 興盡悲來 : Hết vui tới buồn.
* Trong câu : Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân 關山難越,誰悲失路之人. Cho ta thành ngữ : QUAN SAN NAN VIỆT 關山難越 : Núi non khó vượt.
* Trong câu : Bình thủy tương phùng tận thị tha hương chi khách 萍水相逢,盡是他鄉之客. Cho ta thành ngữ : BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG 萍水相逢 : Bèo nước gặp nhau.
* Trong câu : Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻. Cho ta thành ngữ : NHÂN KIỆT ĐỊA LINH 人傑地靈 hay ĐỊA LINH NHÂN KIỆT : Cuộc đất linh thiêng thì sẽ nảy sinh ra người tuấn kiệt.
... và còn rất nhiều rất nhiều câu hay khác nữa !...
Vì tích của Vương Bột, nên trong Tăng Quảng Hiền Văn lại có câu :
Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣
Có nghĩa :
Khi thời cơ đã đến rồi thì sẽ có gió đưa đến Đằng Vương Các ngay.
Ý của câu trên chỉ khi thời vận tốt đã đến, thì con người sẽ rất dễ dàng mà có cơ hội để phát tích về mặt tiếng tăm hay công danh sự nghiệp. Nhưng khi qua đến Việt Nam ta, thì câu nói đó lại chuyển sang ý chỉ về tình duyên thuận lợi, may mắn, mà gọi là Duyên Đằng. Như ...

Trong Truyện Kiều để tả cuộc tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư với Thúc Sinh, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy :
Duyên Đằng thuận nẽo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.
Ngay cả trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập với sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông cũng mượn từ GÁC ĐẰNG để chỉ dịp may hiếm có, cơ hội thuận lợi cho tình duyên như :
Thương nhĩ, Hồng nhan nguyền khéo lỗi,
Gác Đằng nhờ gió những ai vay !
... và như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, bài thứ 8 tả lại mối tình giữa Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử có câu :
Tiên-Dung gặp buổi đi chơi,
Gió đưa Đằng-Các, buồm xuôi Nhị-Hà,
Hay như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả lại mối tình tiên tục giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cũng có câu :
Gác Đằng Vương mấy dặm khơi,
Có duyên đành đã gió trời thổi đưa.
Cho thấy bài "Đằng Vương Các Tự" của Vương Bột ảnh hưởng rất lớn đến văn học Trung Hoa và Việt Nam ta. Cuối bài Tự lại được kết bằng một bài thơ Thất ngôn Bát cú Cách điệu với bốn câu đâu gieo vần trắc và bốn câu sau gieo vần bằng rất hay như sau :
滕王高閣臨江渚, Đằng Vương cao các lâm giang chữ,
佩玉鳴鸞罷歌舞。 Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
畫棟朝飛南浦雲, Họa đống triêu phi nam phố vân,
珠簾暮卷西山雨。 Châu liêm mộ quyển tây sơn vũ.
閒雲潭影日悠悠, Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
物換星移幾度秋。 Nhật hoán tinh di kỷ độ thu.
閣中帝子今何在? Các trung đế tử kim hà tại?
檻外長江空自流。 Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu !

Gác Đằng sừng sửng bờ xa,
Rộn ràng ngọc chuốc sanh ca đã dừng.
Bờ nam mây sớm ngập ngừng,
Rèm châu cao cuốn bâng khuâng nắng chiều.
Bóng mây đầm nước đìu hiu,
Sao dời vật đổi đã nhiều thu qua.
Vua tôi trong gác đâu ta ?
Trường Giang ngoài mái là đà chảy xuôi !
Thật là cảm khái ! Trải biết bao vật đổi sao dời, tang thương biến đổi, Đằng Vương Các vẫn đứng sừng sửng ở ven sông, nhưng Đằng Vương giờ ở nơi đâu ? Cảnh cũ vẫn còn đây mà người xưa đà vắng bóng.
Vương Bột, vốn xuất thân là con nhà gia thế của đất bắc, tuổi trẻ tài cao, nên khi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của triều đình thì được Bái Vương Lý Hiền vời vào phủ để thị độc (đứng hầu để chỉ điểm cho thái tử học hành, như là một teacher assistant) rất được tin dùng. Nhưng vì làm bài "Hịch Anh Vương Kê 檄英王雞" để trách đùa con gà chọi của Anh Vương, cũng là một thái tử con của vua Cao Tông, khi hai anh em cùng chọi gà chơi với nhau. Vua Cao Tông nổi giận, cho là Vương Bột ỷ tài làm lếu, châm biếm và đụng chạm đến người của hoàng tộc, nên sai trục xuất ra khỏi phủ. Bột thất chí buồn tình, bèn đi chu du nhiều nơi ở phương nam. Khi đến đất Thục, lại nhằm lúc xuân về, vốn dĩ muốn mượn cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ của núi sông đất Thục để tiêu sầu, nhưng lòng quê nhớ về đất bắc vẫn canh cánh khôn nguôi nên mới làm bài thơ "Ký Xuân 羈春" (KÝ là Ở lại, giữ lại. Nên KÝ XUÂN có nghĩa là "Xuân đến mà vẫn phải ở lại nơi đất khách) để giải tỏa nỗi lòng :
客心千里倦, Khách tâm thiên lý quyện,
春事一朝歸. Xuân sự nhất triêu quy.
還傷北園里, Hoàn thương bắc viên lý,
重見落花飛. Trùng kiến lạc hoa phi ?
Trên bước đường ngàn dặm, lòng người khách tha hương đã mỏi mê chán ngán rồi. Trước mắt lại thấy cảnh trí của mùa xuân ập về nên lòng lại càng muốn về ngay quê nhà. Cảnh quê xưa ở phương bắc còn để lại nhiều thương cảm ở trong lòng, không biết đến bao giờ mới thấy lại được cảnh hoa rụng bay lả tả ở quê nhà đây :
Ngàn dặm lòng quê mòn mõi,
Xuân về một sớm nhớ thay,
Đất bắc quê xưa trông ngóng,
Bao giờ thấy lại hoa bay ?!
Vương Bột còn nổi tiếng với các bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt, như bài "Tư Quy 思歸" tràn ngập đầy hình ảnh lá vàng của mùa thu dưới đây :
長江悲已滯, Trường Giang bi dĩ trệ,
萬里念將歸。 Vạn lý niệm tương quy.
況屬高風晚, Huống thuộc cao phong vãn,
山山紅葉飛。 Sơn sơn hồng diệp phi.
王勃 Vương Bột
Có nghĩa :
Trường Giang sầu nước lửng,
Muôn dặm muốn về ngang.
Núi cao ngăn quê cũ ,
Non non rụng lá vàng !
Hai câu cuối của bài thơ còn có một dị bàn là :
Huống PHỤC cao SƠN VIỄN, 況復高山遠,
Sơn sơn HOÀNG diệp phi. 山山黃葉飛。
* HUỐNG THUỘC hay HUỐNG PHỤC gì đều có nghĩa là : Hơn nữa, Vả lại...
* CAO PHONG VÃN : là Gió thu trên cao thổi vi vút vào buổi chiều tối, còn ...
* CAO SƠN VIỄN : là Núi cao chập chùng xa xăm diệu dợi.
* HỒNG DIỆP hay HOÀNG DIỆP gì cũng đều là lá mùa thu, và cũng đều nên thơ cả ! Có điều, người Việt ta thì hay dùng "Lá Vàng" để chỉ mùa thu, còn người Hoa thì hay dùng "Lá Đỏ", vì họ có nhiều rừng phong đỏ thắm lúc thu về, còn ta thì lại có :
Lá VÀNG trước gió sẻ đưa vèo ! ...
hoặc thi vị hơn như Tản Đà :
Trận gió thu phong cuốn lá VÀNG,
Lá bay hàng xóm lá bay sang....
Lại diễn Nôm:

Trường Giang nước đọng lòng sầu,
Xa nhà muôn dặm mấy thâu muốn về.
Núi cao ngăn cách làng quê,
Ngàn non lá đổ tái tê lòng sầu !
Nhưng nổi tiếng nhất là bài "Tống Đỗ Thiếu Phủ Chi Nhậm Thục Xuyên 送杜少府之任蜀川", có những câu thơ bất hủ cũng hình thành những thành ngữ dược thông dụng cho đến hiện nay, tiêu biểu như hai câu thơ sau đây :
海內存知己, Hải nội tồn tri kỷ,
天崖若比臨。 Thiên nhai nhược tỉ lân.
Có nghĩa :
Trong vòng tứ hải mà có được một người tri kỷ, thì... Dù cho có xa xôi tận chân trời góc biển thì cũng như là ở sát vách với nhau vậy.
Thế gian có một tri âm,
Chân trời góc biển cũng gần bên nhau.

Cả bài thơ như sau :
城闕輔三秦, Thành khuyết phó tam Tần,
風煙望五津。 Phong yên vọng ngũ tân.
與君離別意, Dữ quân ly biệt ý,
同是宦遊人。 Đồng thị hoạn du nhân.
海內存知己, Hải nội tồn tri kỷ,
天涯若比鄰。 Thiên nhai nhược tỉ lân.
無爲在歧路, Vô vi tại kỳ lộ,
兒女共沾巾。 Nhi nữ cộng triêm cân.
Có nghĩa :
Tam Tần phủ lấy Trường An
Mịt mờ sương khói mơ màng Ngũ Tân.
Chia tay ly biệt phân vân,
Cùng là hoạn lộ phong trần đồng tâm.
Bốn bể có được tri âm,
Chân trời góc biển như gần bên nhau.
Phân kỳ lưu luyến biết bao,
Đừng như nhi nữ lệ trào ướt khăn !
Đường Lân Đức Nguyên niên (664), Vương Bột dâng thư cho hữu Thừa tướng Lưu Tường Đạo, Đạo kinh ngạc vì văn tài của Bột, nên tiến cử cho triều đình, được phong là Triều Tán Lang. Nhưng tính của Bột hay ỷ tài ngạo mạn, thường đắc tội với những người chung quanh; sau đó Bột lại nhậm chức Tham Quân ở Hoắc Châu. Trong khoảng thời gian nầy, Bột lại che dấu cho một tội nô là Tào Đạt. Chuyện lỡ vỡ, Bột sợ tội giết Tào Đạt, nên bị khép tội chết vì "giết quan nô của triều đình". Cha của Vương Bột cũng vì thế mà bị biếm đi làm Huyện Lệnh ở tận đất Giao Chỉ. Chẳng bao lâu, gặp dịp đại xá, Bột được tha tội chết chỉ tước đi quan chức mà thôi.
Tài hoa mệnh bạc, năm Đường Thượng Nguyên thứ 2 (675), Vương Bột 26 tuổi trên đường đi đến Giao Chỉ thăm cha. Năm sau, trên đường về, Vương Bột đã bị đắm thuyền và chết đuối trên dòng Chương Giang khi mới có 27 tuổi. Tương truyền, vì Vương chết trẻ nên rất thiêng, trên khúc sông Chương Giang nơi ông chết đuối, cứ vào khoảng đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng ngâm hai câu trong bài Tự Đằng Vương Các bất hủ của ông là :
... 落霞與孤骛齐飞, Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
秋水共长天一色. Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc...
Sứ thần Hồ Tông Thốc 胡宗鷟 đời Trần Nghệ Tông của Việt Nam ta, trong dịp đi sứ Trung quốc, một buổi chiều tà, nhân chèo thuyền dạo chơi trên khúc sông Chương Giang nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên, Hồ Tông Thốc nghe xong, bèn ra đứng ở mũi thuyền nói to lên rằng:
何必"與 共"二字 !? Hà tất "Dữ Cộng" nhị tự !?
Có nghĩa :
Sao lại phải dùng hai chữ DỮ 與 và CỘNG 共 (Với và Cùng) vậy !?
Mọi người hỏi tại sao, thì Hồ Tông Thốc giải thích rằng:
Hai câu văn tuy hay, song thừa hai chữ Dữ 與 và Cộng 共, vì đã nói "tề phi" (cùng bay) thì mặc nhiên là có ý Dữ 與 (Với) trong đó rồi; đã nói "nhất sắc" (một màu) thì mặc nhiên là có ý Cộng 共 (Cùng) trong đó rồi! Nên, hai câu trên nên sửa lại như sau:
落霞孤骛齐飞, Lạc hà cô vụ tề phi,
秋水长天一色. Thu thuỷ trường thiên nhất sắc.
Mọi người nghe nói, đều phục ông bắt bẻ có lý, và hai câu của ông tuy về mặt âm hưởng không bằng hai câu của Vương Bột, nhưng về mặt văn tự thì quả có gọn ghẽ và hàm súc hơn.
Rôi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn thi nhân họ Vương nữa.
Thật ra, hai câu văn tuyệt tác đó cũng không phải là do Vương Bột hoàn toàn nghĩ ra, mà đã mượn lời và ý trong bài "Tam Nguyệt Tam Nhật Hoa Lâm Viên Mã Xạ Phú 三月三日華林園馬射賦" của Dữu Tín 庾信 người đời Bắc Chu 北周 (thời Lục Triều). Trong bài phú của Dữu Tín có hai câu tả cảnh du xuân như sau :
落花與芝蓋同飛, Lạc hoa dữ chi cái đồng phi,
楊柳共春旗一色. Dương liễu cộng xuân kỳ nhất sắc.
Có nghĩa :
Hoa rụng cùng bay phất phới với rèm xe,
Hàng dương liễu cùng cờ xuân xanh xanh một màu.
Hai câu tả cảnh mùa xuân nêu trên, tuy hay nhưng ít người biết tới, vì chưa thật xuất sắc, kịp đến khi Vương Bột vận dụng hai câu trên để tả cảnh mùa thu trong bài Đằng Vương Các Tự thì mới trở thành bất hủ và lưu danh thiên cổ ! Hễ nhắc đến Vương Bột là người ta nghĩ ngay đến bài phú Đằng Vương Các Tự, và hễ nhắc tới Đằng Vương Các Tự thì người ta cũng nghĩ ngay đến hai câu tả cảnh mùa thu bất hủ nầy :
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, 落霞與孤鶩齊飛,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. 秋水共長天一色.
Có nghĩa :
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Long lanh thu thủy nước mây một màu.
Sau khi Vương Bột chết, rất nhiều ngư phủ và những người sống trên vùng sông nước miền nam đã tưởng nhớ tôn xưng ông là "Thủy Tiên Vương" và thờ phượng ở trên thuyền, trên bến nước bên bờ sông. Hiện nay ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An của Việt Nam ta vẫn còn mộ và đền thờ Vương Bột..
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

TỰA CỬA chữ Nho là Ỷ MÔN 倚門 hay Ỷ LƯ 倚閭 : Chỉ Cha mẹ mong ngóng con cái. Theo《Chiến Quốc sách 戰國策· Tề Sách Lục 齊策六》có ghi lại truyện sau đây :
Vương Tôn Giả 王孫賈 là Đại phu của nước Tề thời Chiến Quốc. Năm 15 tuổi ông đã theo phò Tề Mẫn Vương. Tề Vương là người rất kiêu ngạo, nên chư hầu đều bất mãn. Nước Yên bèn họp với các nước Triệu, Ngụy, Hàn, Tần đem binh đánh Tề. Tề vương bèn cầu cứu với nước Sở. Sở sai đại tướng Náo Xỉ đem binh tiếp viện; nào ngờ Náo Xỉ cấu kết với nước Yên thừa cơ giết chết vua Tề. Trong cơn binh biến Vương Tôn Giả thất lạc với vua Tề, bèn chạy về nhà. Bà mẹ thấy con về rất giận mà mắng rằng :"Mỗi sáng con đi, mẹ đều tựa cửa ngóng trông con về. Đến tối con vẫn chưa về thì mẹ lại ra tựa trước cổng nhà để ngóng con về. Nhưng nay con theo phò vua, vua bị lạc mất, con không tìm vua mà còn dám vác mặt về đây gặp ta được sao !?" Vương Tôn Giả cả thẹn, bèn đi tìm Tề Mẫn Vương. Khi nghe tin Vương đã mất, bèn hô hào các dũng sĩ nước Tề, tập họp lại hơn được 400 trăm người cùng kéo nhau đi tìm và giết chết tướng Náo Xỉ của nước Sở.
Do tích trên, nên hình thành thành ngữ "Ỷ LƯ CHI VỌNG 倚閭之望", có nghĩa là "Tựa Cửa Ngóng trông"; thường dùng để chỉ cha mẹ nhớ mong ngóng trông khi con cái đi xa nhà. Như trong Truyện Kiều khi Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nhớ về cha mẹ với câu :
Xót người TỰA CỬA hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?!

TƯỚC BÌNH 雀屏 là "Bình phong có vẽ hình chim khổng tước", là từ nói gọn lại của thành ngữ TƯỚC BÌNH TRÚNG TUYỂN 雀屏中選 theo như tích sau đây :
Vào thời Nam Bắc Triều của Trung Hoa, một trong những nước của Bắc Triều là Bắc Chu 北周 (557-581) có một đại thần tên là Đậu Nghị 竇毅, người đất Hàm Dương (Thiểm Tây) được phong hiệu là Thần Võ Quận Công. Đâu Nghị có một cô con gái tài mạo song toàn, cầm kỳ thi họa mỗi thứ đều tinh thông; nên ông không muốn gả con cho những kẻ tầm thường theo mai mối; ông muốn chọn một chàng rễ thật sự có tài, bèn cho thợ vẽ hai con khổng tước (con Công) lên trên bức bình phong trước nhà và ra thông cáo rằng : Hễ chàng trai nào cùng lúc dùng 2 tên bắn trúng vào 2 con mắt của 2 con khổng tước thì ông sẽ gả con gái cho. Rất nhiều vương tôn công tử đến xin bắn thử đều không cùng lúc trúng đích. Lúc đó Đường Cao Tổ Lý Uyên 唐高祖李渊 còn là một bạch y tú sĩ, đã phát 2 tên cùng trúng vào 2 mắt của chim công; nên được Đậu Nghị gả Đậu tiểu thơ cho chàng; bà chính là Thái Mục Hoàng Hậu 太穆皇后 sau nầy khi Lý Uyên Đường Cao Tổ lên ngôi nhà Đường.
Nên "Tước Bình Trúng Tuyển 雀屏中選" là "Trúng tuyển được làm rể vì bắn chim khổng tước trên bình phong" và một thành ngữ tương cận nữa là "Xạ Bình Đắc Ngẫu 射屏得偶" là "Vì bắn vào bình phong mà có được người phối ngẫu". Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng có câu :
Có chi mà dám Châu Trần,
Mà đem gương ngọc vào sân TƯỚC BÌNH.
Trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái thì gọi là RẠNG BÌNH XẠ TƯỚC với hai câu sau :
Nguyện lòng này với lửa hương,
RẠNG BÌNH XẠ TƯỚC níu giường thừa long.
Nhưng vì chữ TƯỚC 雀 khi được ghép với chữ Khổng là KHỔNG TƯỚC 孔雀 thì là con Công; nhưng khi được ghép với chữ Hoàng thành HOÀNG TƯỚC 黃雀 thì là con chim Sẻ. Nên XẠ TƯỚC 射雀 còn được hiểu lệch đi là "Bắn Sẻ" như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều khi tả sắc đẹp của nàng cung nữ cũng đã có câu :
Làng cung kiếm rắp ranh BẮN SẺ,
Khách công hầu gấm ghé mong sao.
Nhưng BẮN CÔNG hay BẮN SẺ gì đều có nghĩa là "việc đua tài trong một cuộc kén rể qúy, rể hiền ngày xưa" mà thôi.

TƯƠNG GIANG 湘江 là Sông Tương; còn có tên là Tương Thủy 湘水, là một nhánh lớn của sông Trường Giang chảy qua Quảng Tây, Hồ Nam, Trường Sa rồi đổ vào Động Đình Hồ. Tương truyền khi vua Thuấn đi tuần ở miền Nam, ngã bệnh và mất ở đất Thương Ngô. Hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm chồng và cùng tự trầm ở dòng sông Tương nầy. Trong một khúc cổ cầm có tựa là Tương Giang Oán 湘江怨 với lời từ của Lương Ý Nương 梁意娘, một nữ sĩ Hậu Chu đời Ngũ Đại ở đất Hồ Nam, trong đó nổi tiếng với các câu :
君在湘江頭, Quân tại Tương Giang đầu,
妾在湘江尾。 Thiếp tại Tương Giang vĩ.
相思不相見, Tương tư bất tương kiến,
淚滴湘江水。 Lệ trích Tương Giang thủy !
Có nghĩa :
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Nhớ nhau mà chẳng gặp được nhau,
Giọt lệ nhớ thương cùng nhỏ xuống dòng sông Tương !
Một dị bản của câu cuối là :
同飲湘江水。 Đồng ẩm Tương Giang thủy.
Có nghĩa là : Cùng uống nước của dòng sông Tương.
SÔNG TƯƠNG hay TƯƠNG GIANG thường dùng để nói lên sự mơ ước nhớ nhung mến thương của lứa đôi, trai gái, người yêu, chồng vợ. Như sau khi trao đổi tín vật và hứa hẹn đá vàng thủy chung với nhau thì Kim Trọng và Thúy Kiều càng tưởng nhớ đến nhau hơn :
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ.
SÔNG TƯƠNG một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia !
Còn trong truyện Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng thì có câu :
Ve gầy vẳng tiếng cầm xoang,
Hành Sơn nhạn liệng, TƯƠNG GIANG cá chìm.

Mãi cho đến hiện nay, SÔNG TƯƠNG vẫn còn là dòng sông tương tư thương nhớ của văn nhân thi sĩ và cả nhạc sĩ nữa. Khoảng thập niên năm mươi của Thế kỷ trước, giới thanh niên tuổi trẻ ai mà không biết đến bản nhạc "Ai Về SÔNG TƯƠNG" của nhạc sĩ Thông Đạt. Cho đến hiện nay giới ca nhạc trong nước cũng như hải ngoại vẫn còn hát mãi "Ai có về bên bến SÔNG TƯƠNG, nhắn người duyên dáng tôi thương...."
Ngoài ra, ta còn gặp các điển :
- TƯƠNG PHI 湘妃 chỉ hai bà phi vợ của vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh. Như trong truyện thơ Nôm Tây Sương Ký có câu :
Hay là quyến luyến lòng trần,
TƯƠNG PHI dắt díu, Lạc Thần đi đêm.
Khi vua Thuấn mất ở cánh đồng Thương Ngô bên bờ sông Tương, hai bà phi đã khóc đến nước mắt chảy thành máu vẫy đầy lên trên những cây trúc xanh ở quanh nơi đó thành các đóm đỏ sậm màu. Loại trúc có đốm nầy rất đẹp và qúy, gọi là Tương Phi Trúc 湘妃竹. Nên RÈM TƯƠNG là loại rèm được làm bằng trúc Tương Phi, ý chỉ rèm qúy của các gia đình quyền quý giàu sang, như trong Bích Câu Kỳ Ngộ tả lúc Tú Uyên và Giáng Kiều cùng nhau uống rượu giao bôi :
Phòng tiêu dìu dặt chén đồng,
RÈM TƯƠNG rủ thấp, trướng hồng treo cao.
Còn trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du lại gọi là MÀNH TƯƠNG để tả lúc Kim Trọng tương tư Thúy Kiều :
MÀNH TƯƠNG phân phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
- TƯƠNG PHỐ 湘浦 : PHỐ là bến sông; nên TƯƠNG PHỐ là "Bên bến sông Tương". Sông TƯƠNG là dòng sông thương nhớ của hai bà phi khóc chồng; Có lẽ vì thế mà nữ sĩ Đỗ Thị Đàm, một thi nhân thời Tiền Chiến, vì làm thơ khóc chồng nên đã lấy bút hiệu là TƯƠNG PHỐ chăng !?. Tương Phố trong văn học cổ thường được dùng để chỉ "bên bờ sông thương nhớ" như nàng chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã luôn luôn thương nhớ đến chồng đang dấn thân vào miền gió cát chiến chinh :
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi TƯƠNG PHỐ bến xưa...

TƯỜNG ĐÀO NGÕ MẬN là "Trong tường trồng cây Đào, ngoài ngõ trồng cây Mận". MẬN chữ Nho là LÝ 李; nên ĐÀO MẬN là ĐÀO LÝ 桃李, là hai loại trái cây qúy, không có vỏ cứng lại dòn ngọt thanh thanh, nên được ví như là phần tử xuất sắc, giỏi giang, là con ngoan trò giỏi, là nhân tài trong xã hội, như câu nói trong "Ấu Học Quỳnh Lâm 幼學瓊林" về Khổng Tử : "Hiền nhân thất thập, đệ tử tam thiên. Đào Lý tại công môn, xưng nhân đệ tử chi đa ... 賢人七十,弟子三千。桃李在公門,稱人弟子之多..." Có nghĩa : Người hiền tài có bảy mươi người trong số ba ngàn đệ tử. Những người ƯU TÚ (Đào Lý) đều làm quan, được xưng tụng là đệ tử nhiều hơn những người khác...
Trong Truyện Kiều lúc quan Phủ gia hình cho người đánh Thúy Kiều ở công môn, cụ Nguyễn Du đã hạ câu :
Tiếc thay ĐÀO LÝ một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen !
Trong truyện thơ Nôm "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" (Bạch Viên Tôn Các) thì có câu :
Cửa chen ĐÀO LÝ người sum họp,
Nhà chật trân châu của đãi đằng.
Trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì có câu :
Sân ĐÀO LÝ mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
Còn trong thơ của cụ Nguyễn Trãi thì sử dụng "Tường Đào Ngõ Mận":
Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
TƯỜNG ĐÀO NGÕ MẬN ngại thung thăng.

TƯƠNG TIẾN TỬU 將進酒 : TƯƠNG 將 là Sắp, là Sẽ; ở đây có nghĩa là Mời; TIẾN TỬU 進酒 là Đưa rượu vào (bụng), nên TƯƠNG TIẾN TỬU có nghĩa là "Mời Uống Rượu; Mời Cạn Ly". Đây là tên khúc hát thứ 9 trong "Hán Cổ Xuy Nhiểu Ca thập bát khúc 漢鼓吹鐃歌十八曲".
Đầu năm Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông, Lý Bạch được triệu vào cung để giữ chức Hàn Lâm Học Sĩ, nhưng vì không chịu xu phụ quyền thế, nên bị các quan đương quyền bài xích. Đến năm Thiên Bảo thứ 3 (CN 744) Đường Huyền Tông đành phải "Tứ Kim Phóng Hoàn 赐金放还" (tặng vàng cho về quê). Lý Bạch trong lòng phiền muộn nên cứ nấn ná mãi ở miền sông nước Giang Hoài, kết giao với một bạn rượu mới là Sầm Huân 岑勛(岑夫子 Sầm Phu Tử)cùng rủ nhau du ngoạn Tung Sơn để hội ngộ với một người bạn khác là Nguyên Đan Khâu 元丹丘 ở Dĩnh Dương Sơn. Cả ba cùng đăng cao bày tiệc rượu trên núi để uống cho thỏa thích và để giải toả nỗi lòng ẩn ức vì chính trường thất ý, hoài bão không thực hiện được nên mượn rượu để giải sầu và để bày tỏ ý chí, sự bất bình ở trong lòng của mình. Bài thơ bất hủ TƯƠNG TIẾN TỬU đuợc làm ra trong tiệc rượu nầy.
Cái tính khinh thế ngạo vật nầy của Thi Tiên Lý Bạch ta còn thấy được qua tính cách ngông cuồng bất phục của Chu Thần Cao Bá Quát. Cao Chu Thần cũng đã chán nản qua thế thái nhân tình và nhất là sự bát nháo của quan trường lúc bấy giờ, nên đã nhại theo cách sống của Thi Tiên Lý Bạch qua bài hát nói "Uống Rượu Tiêu Sầu" là :
...Gõ nhịp lấy, đọc câu “TƯƠNG TIẾN TỬU”:
“Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.”
Làm chi cho mệt một đời !
(Mời đọc bài "Tương Tiến Tửu của Lý Bạch" trong phần Góc Đường Thi)
Hẹn bài viết tới :
THẢ, THẠCH, THÁI, THAM, THANG.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


TÙNG 松 là TÙNG BÁCH 松柏, còn đọc là TÒNG BÁ, là loại cây cao bóng cả và xanh tốt quanh năm, QUÂN 筠 là một loại tre to, đốt thẳng, có màu xanh tươi quanh năm; nên TÙNG QUÂN 松筠 thường được dùng để chỉ những người có uy tín lớn, có chức có quyền, có thế lực, có thể che chở, giúp đỡ hay bảo bọc cho người khác. Khi đưa tiễn Thúy Kiều đi theo Mã Giám Sinh, Thúc Ông đã ví họ Mã như một chính nhân quân tử mà nhờ thương yêu che chở cho phận liễu yếu đào tơ của Thúy Kiều bằng câu tâng bốc họ Mã là :
Nghìn tầm nhờ bóng TÙNG QUÂN
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng !
Ngoài ra, QUÂN 筠 còn là từ thế thân cho TRÚC 竹 là Tre : Như Quân Song 筠窗 là Cửa sổ bằng tre; Quân Liêm 筠簾 là Bức rèm bằng tre; Quân Tịch 筠席 là Chiếu bằng tre; Quân Sàng 筠床 là Giường bằng tre...
TÙNG CÚC có hai nghĩa :
* TÙNG CÚC 松菊 là Cây Tùng và Hoa Cúc. Trong bài "Quy Khứ lai Từ 歸去來辭" của ẩn sĩ cao khiết Đào Uyên Minh 陶淵明 đời Tấn có câu :
三徑就荒,松菊猶存。 Tam kính tựu hoang, TÙNG CÚC do tồn.
Có nghĩa :
Ba luống đất đều hoang phế, chỉ có cây tùng và hoa cúc là còn mà thôi.
Ý muốn nói những thứ dẽo dai bất khuất như cây tùng, đẹp đẽ cao khiết như hoa cúc thì vẫn luôn còn tồn tại mặc cho đất đai có bị bỏ hoang, như kẻ sĩ cao nhã vẫn luôn vui thú điền viên mặc dù sống trong cảnh bần hàn.
Trong "Quốc Âm Thi Tập" của Nguyễn Trãi, bài "Ngôn Chí thứ 15 (Am Cao Thấp)" có bốn câu cuối như sau :
Phần du lẽo đẽo thương quê cũ,
TÙNG CÚC bù trì nhớ việc hằng.
Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,
Thiên kim ước đổi được hay chăng.
* TÙNG CÚC 叢菊 : là Một khóm hoa cúc, là Một bụi hoa cúc. Như trong hai câu luận trong bài "Thu Hứng thứ nhất" của Thi Thánh Đỗ Phủ là :
叢菊兩開他日淚, TÙNG CÚC lưỡng khai tha nhật lệ,
孤舟一繫故園心. Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Có nghĩa :
(Trên bước đường lưu lạc)... Hai lần cúc nở là hai lần khơi dậy dòng lệ sầu của những ngày tháng cũ; Cột chặc chiếc thuyền nan phiêu bạc như cột chặc lòng ta luôn nhớ đến quê hương.
Hai lần cúc nở khơi dòng lệ,
Một chiếc thuyền neo gợi nhớ nhà.
TÙNG LĨNH 松嶺 : là Đỉnh núi có nhiều cây thông. Theo "Thuật Dị Ký 述異記" của Nhậm Phưởng 任昉 đời Tây Tấn : Có tiều phu tên là Vương Chất 王質 lên trên "tùng lĩnh" để hái củi, tình cờ phát hiện một hang đá, bèn lần mò đi vào sâu bên trong. Bỗng trời đất như sáng ra, bên trong động dưới gốc cây tùng có hai tiên đồng đang ngồi đánh cờ. Hiếy kỳ Vương Chất bèn đặt búa xuống đất ngồi xem cờ. Thấy hai tiên đồng đi những nước cờ tiên thật hay nên cứ mãi mê xem. Hai tiên đồng chẳng nói gì, thỉnh thoảng lấy trái đào trái táo lên ăn, lại mời cả Vương Chất cùng ăn nữa. Khi ván cờ đánh xong thì Vương Chất cầm cây búa đứng lên định đi về, nào ngờ cán búa đã mục nát, chỉ còn có lưỡi búa mà thôi. Khi về đến thôn làng thì thấy toàn người lạ, không có ai quen mặt cả; tìm nhà cũ cũng không thấy. Hỏi thăm bà con lối xóm về cha mẹ mình, thì có người già cho biết là đã chết hơn trăm năm rồi.
Trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái có hai câu sau :
Một là vui thú tiên hương,
Thăm miền TÙNG LĨNH, tìm đường Đào Nguyên.
TUỔI HẠC chữ Nho là HẠC LINH 鶴齡 : Tuổi của con Hạc, vì Hạc là con vật nổi tiếng sống dai, lại có lông màu trắng như tóc bạc của người già. Trong các tích xưa, các tiên cô tiên ông hay cởi hạc để bay lên trời, vì thế hạc còn được gọi là Tiên Hạc, nên TUỔI HẠC thường dùng để chỉ tuổi của các cụ già, như trong Truyện Kiều khi Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã an ủi và trấn an Vương Ông rằng :
Cỗi xuân TUỔI HẠC càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh Phạm Tải- Ngọc Hoa (cón có tên là Phạm Công Cúc Hoa) thì có câu :
Mẹ cha TUỔI HẠC cao vời,
Nỡ nào con lại xa chơi suối vàng !?
TUỔI RÙA chữ Nho gọi là QUY LINH 龜齡, là tuổi của con rùa. Rùa cũng được xem là một động vật bò sát sống lâu, lại là một con vật trong Tứ Linh là LONG LÂN QUY PHỤNG 龍麟龜鳳. Niệt Nam ta cũng nổi tiếng với các "Cụ Rùa" ở trong Hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm) với các lời thơ trong bài "Nước Tôi" của một thi sĩ Tiền chiến Nguyễn Văn Cổn như :
Mặt Hồ Gươm trăng vàng rung động,
Nhắc đêm xưa sóng vổ chập chùng.
Rùa thiêng nổi trước thuyền rồng,
Trên Hồ Hoàn Kiếm anh hùng là ai ?!
Trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái có câu :
Đã ngoài sáu dật QUY LINH,
Phương đông lại rạng tiểu tinh một nàng.
Nên...
QUY LINH hay TUỔI RÙA cũng đều chỉ TUỔI THỌ, chỉ sống lâu, sống thọ. Trong tác phẩm thơ Nôm khuyết danh "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" (còn có tên là Bạch Viên Tôn Các) có câu :
Minh Ngọc vóc vàng tiên dưới động,
TUỔI RÙA tóc bạc báu trên đời.
TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU 司馬鳳求 là Tư Mã Tương Như 司馬相如 đàn khúc "Phượng cầu kỳ Hoàng 鳳求其凰" để đánh động lòng của nàng góa phụ Trác Văn Quân 卓文君 (Xem Thành Ngữ Điển Tích 84 : Phù, Phương, Phượng). Trong Truyện Kiều, khi tả tiếng đàn của Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn ý của khúc đàn nầy với câu :
Khúc đâu TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?...
TƯ VĂN 斯文 : là "Cái văn minh văn hóa nầy". Có xuất xứ từ sách Luận Ngữ 論語 Tử Hãn thiên 子罕篇.Đệ ngũ chương 第五章 : Tử úy ư Khuông. viết : [Văn Vương ký một, văn bất tại tư hồ ? Thiên chi tương táng tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dữ ư tư văn dã. Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kỳ như dư hà ?] 子畏於匡,曰:「文王既沒,文不在茲乎?天之將喪斯文也,後死者不得與於斯文也。天之未喪斯文也,匡人其如予何?」Có nghĩa :
"Khổng Tử bị dân đất Khuông vây hãm, bèn trấn an học trò rằng : Vua Văn Vương tuy đã chết, nhưng văn minh văn hóa của ông cũng chẳng còn ở đây hay sao ? Nếu trời muốn diệt cái văn minh văn hóa nầy, thì kẻ hậu sinh là ta đây làm sao có được cái văn minh văn hóa nầy. Trời đã không muốn diệt thì người đất Khuông làm gì ta được nào ?". Nên...
TƯ VĂN là cái văn minh văn hóa của đạo Nho; con người TƯ VĂN là con người nho nhã có văn học. Chấn chỉnh TƯ VĂN là chấn chỉnh NHO HỌC. Trong "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái khi nói đến vua Lê Thánh Tông đã có câu :
Thánh Tông mở rộng khoa trường,
Lập bia Tiến sĩ, trọng đường TƯ VĂN.
TỪ PHI 徐妃 là Thứ Phi Từ Huệ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, theo tích sau đây :
TỪ HUỆ 徐惠(627-650)người đất Trường Thành Hồ Châu, là cháu gái bốn đời của Từ Nguyên Hầu Từ Văn Chỉnh, là trưởng nữ của Thứ Sử Từ Hiếu Đức. Bốn tuổi bà đã thuộc Luận Ngữ và Kinh Thi, Tám tuổi đã biết làm văn. Cha của bà muốn thử tài con gái mới lấy thiên "Ly Tao 離騷" của Khuất Nguyên để bà mô phỏng theo đó mà làm bài phú "Tiểu Sơn Thiên 小山篇" rất nổi tiếng, từ đó tiếng tăm của bà lừng lẫy đương thời. Đường Thái Tông nghe tiếng mới nạp bà vào trong cung làm Tài Nhân. Từ Huệ hưu bút thành văn, tứ thi mẫn tiệp, nên rất nhanh đã thăng làm Tiệp Dư, rồi lại thăng làm Sung Dung, Thứ Phi. Bà là Phi Tần được Lý Thế Dân yêu mến nhất. Cuối năm Trinh Nguyên triều đình bận chinh phạt tứ Di, rồi lại xây cất cung điện, sưu cao thuế nặng, dân chúng lầm than. Thứ Phi Từ Huệ đã làm sớ dâng lên vua can gián và tiết chế đời sống xa hoa trong cung, lời lẽ khảng khái chân thành thẳng thắngđược nhà vua hết lời ngợi khen tán thưởng. Sau khi Đường Thái Tông mất, bà cũng ưu sầu nhuốm bệnh rồi mất theo khi mới được 24 tuổi.
Trong truyện thơ Nôm "Lục Vân Tiên" của cụ Đồ Chiểu tả lúc Lục Vân Tiên khen tài làm thơ của Kiều Nguyệt Nga bằng câu :
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày TỪ PHI.
Còn trong tác phẩm "Sãi Vãi" của cụ Nguyễn Cư Trinh thì Bà Vãi đã tranh luận với Ông Sãi để bênh vực cho phái yếu như là :
Chương gián chúa khỏi vòng vật dục, ấy là Đường TỪ HUỆ THỨ PHI;
Thơ cứu cha khỏi bước lâm nguy, nọ như Hán Đề Oanh thiếu nữ..
TỨ ĐỨC 四德 : là Bốn cái đức hạnh ngày xưa của phụ nữ theo quan niệm của Nho Gia là : ĐỨC, NGÔN, DUNG, CÔNG. Có xuất xứ từ《sách Chu Lễ, chương Thiên Quan, Nội Tễ 周礼 天官 内宰》NỘI TỄ là chức nữ quan trong cung có từ đời nhà Chu, chuyên dạy cho các cung tần mỹ nữ trong cung về Phụ Đức, Phụ Ngôn, Phụ Dung, Phụ Công 妇德, 妇言, 妇容, 妇功. Giáo dục cho người phụ nữ trước tiên là phải có phẩm hạnh đạo đức tốt (Đức), thể hiện qua lời ăn tiếng nói phải hòa nhã thích đáng (Ngôn), phải chú ý dung mạo đoan trang vén khéo (Dung), sau cùng là phải giỏi về tề gia nội trợ, tướng phu giáo tử (Công). Sang đến Việt Nam ta thì các cụ túc Nho lại nói thành : CÔNG, DUNG, NGÔN, HẠNH. Đảo ngược hoàn toàn cái thứ tự giáo dục phụ nữ của Nho gia Trung Hoa ngày xưa; Vì lẽ gì ? hay chỉ là vì muốn nói nghe cho xuôi tai mà thôi ?!
Trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái nói về phụ đức có câu :
Giữ bề TỨ ĐỨC tam tòng,
Xướng tùy cho vẹn đạo trong cương thường.
TỨ HUNG 四凶 là Bốn kẻ hung bạo, cũng là bốn con quái thú hung dữ trong truyền thuyết Trung Hoa xưa. Đó là Hổn Đôn 混沌、Cùng Kỳ 窮奇、Đào Ngột 檮杌、Thao Thiết 饕餮. Theo Sơn Hải Kinh 山海經 thì Hổn Đôn là Hoan Đâu 驩兜, thủ lĩnh của Tam Miêu Tộc khi chết hóa thân mà thành. Cùng Kỳ là hóa thân của Cộng Công 共工 là một Thuỷ Thần. Đào Ngột là ông Cổn cha của vua Hạ Vũ khi chết oán khí hóa thân mà thành. Thao Thiết là Xi Vưu khi chết oán khí hóa thân mà thành. Tứ Hung nầy bị vua Nghiêu đày đi bốn phương để trấn áp chế ngự quỷ dữ của tứ vi.
Trong tác phẫm "Sãi Vãi" của cụ Nguyễn Cư Trinh có câu :
Đọc Ngu Thư, ghét đảng TỨ HUNG,
Coi Tống Sử, ghét bầy Ngũ quỷ.
TỨ HỶ 四喜 là Bốn điều vui, còn được gọi là TỨ ĐẠI KHOÁI SỰ 四大快事. Bốn chuyện mà các cụ ngày xưa cho là "Vui nhất khoái nhất trong đời người". Đó chính là :
久旱逢甘雨, Cửu hạn phùng cam vũ,
他鄉遇故知. Tha hương ngộ cố tri.
洞房花燭夜, Động phòng hoa chúc dạ,
金榜掛名時。 Kim bảng quải danh thì.
Có nghĩa :
Hạn lâu gặp được mưa rào,
Xa quê lại được chào người quen xưa.
Động phòng hoa chúc vui chưa,
Bảng vàng tên gọi khi vừa thi xong.
Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa- Lưu Nữ Tướng" có câu :
Ngâm thơ TỨ HỶ ngại ngùng,
Nghỉ câu kim bảng động phòng tối nan.
TỨ MINH 四明 là HẠ TRI CHƯƠNG 賀知章 (659-744) tự là Quí Chân 季真, về già tự xưng hiệu là "Tứ Minh Cuồng Khách 四明狂客", là thi nhân lại vừa là nhà Thư Pháp nổi tiếng đời Thịnh Đường. Ông người đất Vĩnh Hưng thuộc Việt Châu (Huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang hiện nay), đậu Trạng Nguyên khoa Ất Mùi (695), được phong là Quốc Tử Tứ Môn Bác Sĩ, Thiên Thái Thường Bác Sĩ. Ông tuần tự giữ các chức vụ Lễ Bộ Thị Lang, Bí Thư Giám, Thái Tử Tân Khách... Ông tính tình khoáng đạt, phóng túng, không thích gò bó, vì xưng hiệu là Tứ Minh Cuồng Khách, nên người đời gọi ông là THI CUỒNG 詩狂, cùng với Lý Bạch 李白, Trương Húc 张旭, Lý Thích Chi 李适之, Tiêu Toại 焦遂, Lý Tấn 李琎, Thôi Tông Chi 崔宗之 và Tô Tấn 苏晋, xưng là "ẨM TRUNG BÁT TIÊN 飲中八仙" (Tám ông tiên trong rượu). Đến 86 tuổi HẠ TRI CHƯƠNG mới cáo lão về quê, rồi mất ở quê cùng năm. Tác phẩm phần nhiều thất tán, chỉ còn lưu lại khoảng 20 bài thơ mà thôi.
Trong các bài thơ về điền viên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu :
Cửu Lão kìa ai nhàn được thú,
TỨ MINH nọ khách dạy làm thơ.
TỬ KỲ 子期 tức là CHUNG TỬ KỲ 鍾子期 người bạn Tri Âm của Du Bá Nha 俞伯牙. Bá Nha giỏi đánh đàn, Tử Kỳ giỏi nghe đàn. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đập bể cây đàn không đàn nữa vì cho rằng không còn ai nghe hiểu được tiếng đàn của mình nữa.( Xem Thành Ngữ Điển Tích 17). Nên sau nầy dùng rộng ra, từ TRI ÂM chỉ những người bạn rất thân thiết, hiểu rõ cả ruột gan lòng dạ của nhau. Nguyễn Du còn dùng để chỉ những cặp đôi yêu nhau nữa, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :
Nàng rằng : Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với TRI ÂM bấy chầy !
Còm Kim Trọng cũng rất trân trọng và xem Thúy Kiều như là Bá Nha, nên mới khẩn khoản :
Rằng nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai CHUNG KỲ.
Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "TRINH THỬ" cũng có câu :
Bá Nha đã gặp TỬ KỲ,
Bảo sơn ai nở trở về tay không ?!
TỬ LÝ 梓里 : TỬ 梓 là cây Tử (dùng để đóng đàn; tượng trưng cho con), LÝ 里 là Làng xóm. TỬ LÝ là từ chỉ quê hương. Trong truyện thơ Nôm "Nhị Độ Mai" có câu :
Ngại ngùng thay lúc phân bào,
Kẻ về TỬ LÝ, người vào Ngọc Kinh.
TỬ PHẦN 梓枌 : là cây TỬ và cây PHẦN, hai loại cây hay được cha mẹ trồng ở quanh nhà ngày xưa. Nên TỬ PHẦN hay PHẦN TỬ đều chỉ nơi cha mẹ ở; dùng rộng ra để chỉ nơi quê hương mà ta được sinh ra và lớn lên. Trong truyện Kiều, sau mười mấy năm lưu lạc Thúy Kiều cũng đã nhớ về nơi quê nhà với câu :
Đoái thương muôn dặm TỬ PHẦN,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa...
TỬ PHÒNG 子房 : Tên tự của TRƯƠNG LƯƠNG 張良(250—186 trước Công Nguyên), thụy hiệu là Văn Thành, được phong là Lưu Hầu. Ông người đất Dĩnh Xuyên Thành Phụ (TP Vũ Châu tỉnh Hà Nam hiện nay). Thuộc nước Hàn thời Chiến Quốc. Sau khi nước Hàn bị Tần tiêu diệt, ông đã từng thích khách Tần Thủy Hoàng nhưng thất bại. Sau theo làm mưu thần cho Hán Cao Tổ Lưu Bang lập nên nhà Hán. Ông cùng với Tiêu Hà, Hàn Tín được xưng tụng là "Hán Sơ Tam Kiệt 漢初三傑", là ba vị khai quốc công thần của nhà Tiền Hán.
Trong truyện thơ Nôm Khuyết danh "Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng" có câu :
Nghe lời chính trấn mừng thay,
Khen rằng tài chẳng dưới tay TỬ PHÒNG.
TỬ CÁC, TỬ THẤT 紫閣,紫室 : TỬ 紫 là màu tím, màu tía. CÁC 閣 là gác, là lầu. THẤT 室 là phòng, là nhà. Nên các từ trên chỉ chung cho các lâu đài nhà cửa mang màu tím, là màu của các quý tộc thời xưa. Như Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Bích câu Kỳ Ngộ, chàng thư sinh Tú Uyên khi gặp Giáng Kiều bèn:
Mượn người thăm hỏi gần xa,
HỒNG LÂU TỬ CÁC đâu mà đến đây?
Còn trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái thì có câu :
Qúy canh phỏng độ đôi mươi,
Chẳng người TỬ THẤT, cũng người HỒNG LÂU.
Ta có thành ngữ HỒNG LÂU TỬ CÁC 紅樓紫閣 là "Lầu màu hồng, gác màu tím" ta thường nói thành "LẦU SON GÁC TÍA" để chỉ chỗ ở của vua chúa hoặc các người quyền qúy ngày xưa.
Hẹn bài viết tới :
TỰA, TƯỚC, TƯƠNG, TƯỜNG, TỬU.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
____





LỤC NGÔN THI, thơ 6 chữ, cũng là một thể loại thi ca từ thời cổ đại của Trung Hoa. Mỗi câu thơ đều có 6 chữ, toàn bài thường là 4 câu trở lên, tuy không được lưu hành rộng rãi như thơ Ngũ ngôn (5 chữ) và thất ngôn (7 chữ), nhưng cũng là một thể thơ "Lục Ngôn" có nét độc đáo riêng, như bài "Điền Viên Lạc 田園樂" của Thi Phật Vương Duy đời Đường sau đây :
桃紅複含宿雨, Đào hồng phục hàm túc vũ,
柳綠更帶朝烟。 Liễu lục cánh đái triêu yên.
花落家僮未掃, Hoa lạc gia đồng vị tảo,
鳥啼山客猶眠。 Điểu đề sơn khách do miên !
Có nghĩa :
Hoa đào hồng vì mưa tối,
Sương sớm đưa cành liễu bay.
Hoa rụng gia đồng chưa quét,
Chim ca khách núi còn say !
Về nguồn gốc của thơ 6 chữ thì có đến 3 nguồn như sau đây :
1. Xuất xứ từ Kinh Thi :
Theo Chấp Ngu đời Đông Tấn 東晋挚虞 thì Lục Ngôn Thi bắt nguồn từ những câu 6 chữ trong Kinh Thi, ví dụ như trong bài "Quyển Nhĩ chương Chu Nam của Kinh Thi《詩經·周南·卷耳》bài thứ hai như sau :
陟彼崔嵬、 Trắc bỉ tồi ngôi,
我馬虺隤。 Ngã mã khôi đồi,
我姑酌彼金罍、 Ngã cô chước bỉ kim lôi. (6)
維以不永懷。 Duy dĩ bất vĩnh hồi (hoài).
Có nghĩa :
Cởi ngựa lên núi đá đồi,
Ngựa ta mõi mệt, ta ngồi nghỉ ngơi.
Cốc rượu vàng, rót uống chơi,
Để phai nỗi nhớ bồi hồi lòng ta !
Trong bài "Vũ Vô Chính 雨無正" cũng trong Kinh Thi thời Tiên Tần có câu :
謂爾遷于王都, Vị nhĩ thuyên vu vương đô,
曰予未有室家. Viết dư vị hữu thất gia.
Có nghĩa :
Gần đây ta chuyển về kinh,
Rằng ta chưa có gia đình.
2. Có xuất xứ từ Cốc Vĩnh đời Tây Hán 西漢谷永 :
Theo thuyết của Lương Nhậm Phưởng 南朝梁任昉 thời Nam Triều, trong "Văn Chương Duyên Khởi nói rằng : Thơ 6 chữ bắt đầu từ Đại Tư Nông Cốc Vĩnh đời Hán mà ra. Trong "Thương Lãng Thi Hoa" của Tống Nghiêm Vũ 宋嚴羽-滄浪詩花 cũng nói rằng :" Thơ ngũ ngôn bắt đầu từ Lý Lăng, Tô Vũ; Thơ thất ngôn bắt đầu từ " Bá Lương- Hán Vũ"; Thơ Tứ ngôn bắt đầu từ Vương Phó, Duy Mạnh đời Hán Sở; Thơ LỤC NGÔN bắt đầu từ Hán Tư Nông Cốc Vĩnh; Thơ tam ngôn bắt đầu từ Hạ Hầu Trạm đời Tấn và thơ cửu ngôn bắt đầu từ các hương thân cao qúy.
3. Có xuất xứ từ Đông Phương Sóc đời Hán 漢朝-東方朔 :
Theo "Vịnh Sử Thi" của Tả Tư trong "Văn Tuyển" của Lý Thiện đời Đường cho là : Lục Ngôn Thi bắt đầu từ Đông Phương Sóc đời Tây Hán. Nhưng Lý Thiện chỉ dẫn chứng có 2 câu; Một câu ở quyển 21 của Vịnh Sử Thi trong Văn Tuyển Là :"Kế sách quyên khí bất thu 計策捐棄不收"(Kế sách cho đi không nhận); Một câu nữa trong "Thục Đô Phú, Tả Tư quyển 4 là : "Hiệp tôn xúc tịch tương ngu 合樽促席相娱"(Chai rượu cùng vui với tiệc).
Ba nguồn gốc của Lục Ngôn Thi nêu trên, chỉ có Kinh Thi là có cơ sở và đáng tin cậy nhất; hai thuyết còn lại đều còn nghi vấn. Một là Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc đều không thấy có thơ 6 chữ lưu truyền lại ở đời Tây Hán; Hai là theo "Hán Thư" của Ban Cố và "Sử Ký" của Tư Mã Thiên đều không có ghi lại Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc có tài làm thơ; Ba là trong "Văn Chương Lưu Biệt Luận" của Chấp Ngu đời Đông Tấn chỉ nói là trong Kinh Thi có những câu thơ 6 chữ, chứ không nói rõ ở đời nào, trong "Văn Tâm Điêu Long 文心雕龍" của Lưu Hiệp 劉勰 đời Nam triều cũng không có nhắc đến những cống hiến gì của Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc về Lục Ngôn Thi cả.
Nhưng trong Kinh Thi thơ Lục Ngôn cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ bằng những câu lẻ chen vào bài thơ như đã ví dụ ở trên; họa hoằn lắm mới có 2 câu 6 chữ đi liền nhau như trong bài "Bắc Môn- Bội Phong 邶風.北門" trong Kinh Thi :
王事適我、 Vương sự thích ngã
政事一埤益我。 Chính sự nhất tỳ ích ngã. (6)
我入自外、 Ngã nhập tự ngoại,
室人交徧讁我。 Thất nhân giao biến trích ngã.(6)
Có nghĩa :
Việc làng bận bịu chưa xong,
Việc quan hối thúc càng không thể ngồi.
Việc nhà lại rối bời bời,
Người nhà cửi nhửi bồi hồi lòng ta !
Cho đến "Sở Từ 楚辭" của Khuất Nguyên nước Sở trong thiên "Ly Tao 離騷" đã có những câu 7, 6 chen nhau như :
駟玉虯以乘鷖兮, Tứ ngọc cù dĩ thừa ế hề,
溘埃風余上征; Kháp ai phong dư thượng chinh.
朝發軔於蒼梧兮, Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề,
夕余至乎縣圃; Tịch dư chi hồ Huyền Phố.
Có nghĩa :
Quay ra đạp gió rẽ mây,
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.
(thơ dịch của Nhượng Tống)
Đến bài từ "Cửu Biện 九辯" của Tống Ngọc 宋玉, cũng người nước Sở, thì mới có 4 câu 6 chữ liền nhau như một bài tứ tuyệt :
慷慨绝兮不得, Khảng khái tuyệt hề bất đắc,
中瞀乱兮迷惑。 Trung mậu loạn hề mê hoặc.
私自怜兮何极, Tư tự lân hề hà cực,
心怦怦兮諒直。 Tâm phanh phanh hề lượng trực !
Có nghĩa :
Khảng khái cũng chẳng được chi,
Trong lòng rối rắm lại khi mơ hồ.
Tự thương xót đến bao giờ,
Lòng trung vằng vặc ai ngờ được sao !
Đến đời Đông Hán thì những bài phú trữ tình đã có những câu 6 chữ rất tề chỉnh, và đã bỏ được trợ từ "Hề 兮" ở giữa câu; nếu tách rời ra thì có thể thành một bài thơ "Lục Ngôn Tứ Tuyệt" như trong bài "Quy Điền Phú 歸田賦" của Trương Hành 張衡 có những câu :
游都邑以永久, Du đô ấp dĩ vĩnh cửu,
無明略以佐時; Vô minh lược dĩ tá thì;
徒临川以羡魚. Đồ lâm xuyên dĩ tiện ngư,
俟河清乎未期。 Tự hà thanh hồ vị kỳ.
Có nghĩa :
Trong kinh chẳng cống hiến gì,
Cũng không sách lược phò trì quân vương.
Bên sông thưởng thức cá ngon,
Hoàng Hà sông cạn đá mòn chưa trong !
Đến thời kỳ Kiến An (cuối đời Đông Hán) lúc Tam Quốc Phân tranh thì Lục Ngôn Thi lần đầu tiên được Khổng Dung, một trong Kiến An Thất Tử 建安七子 (7 người tài tử trong thời Kiến An) sáng tác ba bài thơ Lục Ngôn hoàn chỉnh. Dưới đây là bài thứ nhất trong ba bài thơ đó :
漢家中葉道微, Hán gia trung diệp đạo vi,
董卓作乱乘衰, Đổng Trác tác loạn thừa suy,
僭上虐下專威, Tiếm thượng ngược hạ chuyên uy,
萬官惶怖莫違, Vạn quan hoàng bố mạc vi,
百姓惨惨心悲. Bá tánh thảm thảm tâm bi !
Có nghĩa :
Giữa thời nhà Hán suy vi,
Đổng trác làm loạn thị uy.
Ép vua hiếp cả triều nghi,
Muôn quan sợ chẳng nói chi,
Trăm họ thảm lòng sầu bi.
Hai người nối tiếp và phát huy để ổn định cho thơ sáu chữ cũng là hai trong số Kiến An Thất Tử là Tào Phi 曹丕 và Tào Thực 曹植 (Tào Tử Kiến 曹子建), cả 2 đều là con trai của Tào Tháo 曹操(Bản thân Tháo cũng là một trong Kiến An Thất Tử, cho thấy Tháo là người văn võ song toàn). Tào Phi với bài Lê Dương Tác Thi 黎陽作詩 (Buổi sáng làm thơ) như sau :
奉辭罰罪遐征。 Phụng từ phạt tội hà chinh,
晨過黎山巉崢。 Thần qúa Lê Sơn sàm tranh.
東濟黃河金營。 Đông tế Hoàng Hà kim doanh,
北觀故宅頓傾。 Bắc quan cố trạch đôn khuynh.
中有高樓亭亭。 Trung hữu cao lâu đình đình,
荊棘繞蕃叢生。 Kinh cức nhiểu phồn tùng sinh.
南望果園青青。 Nam vọng qủa viên thanh thanh,
霜露慘淒宵零。 Sương lộ thảm thê tiêu linh.
彼桑梓兮傷情。 Bỉ tang tân hề thương tình !
Có nghĩa :
Phụng chỉ đi đánh giặc xa,
Lê sơn hiểm trở sáng qua,
Đóng trại phía đông Hoàng Hà,
Hướng bắc dinh thự của ta,
Trong có lầu các nguy nga,
Cỏ gai bao bọc quanh nhà.
Phía nam cây trái vườn hoa,
Lạnh lùng mù mịt sương sa,
Quê nhà đau xót lòng ta !
Sau đây là bài thơ 6 chữ được xếp trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂府詩集" sớm nhất :"Thiếp Bạc Mệnh 妾薄命" của Tào Tử Kiến :
携玉手喜同車, Huề ngọc thủ hỉ đồng xa,
北上雲閣飛除。 Bắc thướng vân các phi trừ.
钓台蹇產清虚, Điếu đài khiên sản thanh hư,
池塘觀沼可娱。 Trì đường quan chiểu khả ngu.
仰泛龍舟绿波, Ngưỡng phiếm long chu lục ba,
俯擢神草枝柯。 Phủ trạc thần thảo chi kha.
想彼宓妃洛河, Tưởng bỉ Mật Phi Lạc Hà,
退咏漢女湘娥。 Thoái vịnh Hán nữ Tương Nga.
Có nghĩa :
Nắm tay người ngọc cùng xe,
Cùng lên lầu bắc mây che lưng trời.
Đài câu yên lặng thảnh thơi,
Ao hồ sông lạch vui chơi thỏa lòng.
Sóng xanh bao lấy thuyền rồng,
Cúi mình hái cọng cỏ thần linh chi.
Lạc Hà lại nhớ Mật Phi,
Tương Nga Hán nữ sầu bi đoạn trường !
Sau Khổng Dung, Tào Phi, Tào Thực, những người có thành tựu trong Lục Ngôn Thi thì đời Ngụy có Kê Khang, Tây Tấn có Phó Huyền, Lục Cơ; Đông Tấn có Dưu thiền, Nam Triều có Tạ Hối, Lương Giản Văn Đế; Bắc Chu có Vương Bao, Dữu Tín... Đến đời Lương, Trần của Nam Bắc Triều thì Lục Ngôn Thi đã phát triển khá hoàn chỉnh với 6 câu 3 vần gián cách như bài "Mạo Tuyết Thi 貌雪詩" (thơ Tuyết) của Lương Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống 梁昭明太子蕭統 như sau :
既同摽梅英散, Ký đồng phiếu mai anh tán,
複似太谷花飛。 Phục tự thái cốc hoa phi.
密如公超所起, Mật như công siêu sở khởi,
皎如淵客所揮。 Giảo như uyên khách sở huy.
無羡昆岩列素, Vô tiện côn nham liệt tố,
豈匹振鷺群歸。 Khỉ thất chấn lộ quần quy.
Có nghĩa :
Trông như cánh mai rơi rụng,
lại tựa Thái cốc hoa bay.
Nhặt tựa muối rây khắp chốn,
Trắng như vực thẳm thác bày.
Côn nham chập chùng đá trắng,
Lối về cò trắng cùng bay !
Kịp đến đời Đường thì Lục Ngôn Thi cùng với Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi cùng phát triển và hoàn chỉnh song song với nhau, nhưng quan trường cũng như quần chúng chỉ chú trong vào Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Thi mà thôi, nên Lục Ngôn Thi bị lép vế, nhưng không vì thế mà bị quên lãng, hầu hết những thi nhân nổi tiếng của buổi Thịnh Đường đều có Lục Ngôn Thi, như bài "Điền Viên Lạc" của Thi Phật Vương Duy ở đầu bài viết nầy. Bây giờ thì ta cùng đọc bốn bài Lục Ngôn Thi của Thi Tiên Lý Bạch tả cảnh của bốn mùa Xuạn, Hạ, Thu, Đông nhé!
《春景》 XUÂN CẢNH
門對鹤溪流水, Môn đối hạc khê lưu thủy,
雲連雁宕仙家。 Vân liên nhạn đãng tiên gia.
誰解幽人幽意, Thùy giải u nhân u ý,
惯看山鳥山花。 Quán khan sơn điểu sơn hoa.
李白 Lý Bạch
Có nghĩa :
Cửa đối suối trong khe hạc,
Mây liền đàn nhạn bay xa.
Ai biết người nhàn ý tản,
Ngắm quen chim núi cùng hoa.
《夏景》 HẠ CẢNH
竹簟高人睡覺, Trúc điệm cao nhân thụy giác,
水亭野客狂登。 Thủy đình dã khách cuồng đăng.
窗外熏風燕語, Song ngoại huân phong yến ngữ,
庭前綠樹蟬鳴。 Đình tiền lục thọ thiền minh.
李白 Lý Bạch
Có nghĩa :
Đệm trúc cao nhân an giấc,
Nhà sàn khách lạ lăng xăng.
Ngoài song gió đưa én liệng,
Trước sân cây rậm ve ngâm.
《秋景》 THU CẢNH
昨夜西風忽轉, Tạc dạ tây phong hốt chuyển,
驚看雁度平林。 Kinh khan nhạn độ bình lâm.
詩興正當幽寂, Thi hứng chánh đang u tịch,
推敲韵落寒帧。 Thôi xao vận lạc hàn tranh.
李白 Lý Bạch
Có nghĩa :
Đêm qua gió tây chợt nổi,
Giật mình nhạn vượt bình lâm.
Thi hứng lúc đang hiu hắt,
Đẽo gọt vần rơi mất tăm !
《冬景》 ĐÔNG CẢNH
凍笔新詩懒寫, Đống bút tân thi lãn tả,
寒爐美酒時温。 Hàn lô mỹ tửu thời ôn.
醉看梅花月白, Túy khán mai hoa nguyệt bạch,
恍疑雪落前村。 Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn !
李白 Lý Bạch
Có nghĩa :
Thơ xong bút se biếng tả,
Rượu ngon lò lạnh khó ôn.
Say nhìn hoa mai trăng tỏ,
Giật mình ngỡ tuyết ngoài thôn !
Ta thấy kỹ thuật làm thơ đã điêu luyện, bằng trắc phân minh, đối xứng nghiêm cẩn, ý thơ cao vút không thua gì ngũ ngôn và thất ngôn thi chút nào cả ! Ta hãy đọc thêm một bài "Lục Ngôn Luật Thi" 《Cách Hán Giang Ký Tử An 隔漢江寄子安》của Ngư Huyền Cơ 魚玄機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân đời Đường" sau đây sẽ rõ :
江南江北愁望, Giang nam giang bắc sầu vọng,
相思相憶空吟。 Tương tư tương ức không ngâm.
鴛鴦暖卧沙浦, Uyên ương noãn ngọa sa phố,
砠矦閑飛桔林。 Thư hầu nhàn phi cát lâm.
烟里歌聲隱隱, Yên lý ca thanh ẩn ẩn,
渡頭月色沉沉。 Độ đầu nguyệt sắc trầm trầm.
含情咫尺千里, Hàm tình chỉ xích thiên lý,
况聽家家遠砧。 Huống thính gia gia viễn châm.
Có nghĩa :
Buồn trông giang bắc giang nam,
Thương nhau nhớ lắm âm thầm ngâm nga.
Uyên ương ấm áp noãn nà,
Côn trùng chấp chới bay ra sau vườn.
Tiếng ca văng vẳng khói sương,
Bóng trăng bến vắng vấn vương một mình.
Dặm ngàn gang tất hàm tình,
Lại nghe tiếng giặt xập xình xa xa.
Bài thơ với đầy đủ "mạo, thực, luận, kết" bố cục của một bài Luật Thi, hai cặp Thực và Luận đối nhau chan chát, cách luật nghiêm cẩn, trắc bằng đúng phép không khác gì một bài ngũ ngôn hay thất ngôn luật thi cả.
Không phải chỉ riêng Ngư Huyền Cơ, Vương Duy và Lý Bạch, mà Vương Xương Linh,Đỗ Mục, Sầm Tham... đều có làm thơ 6 chữ cả ! Theo thống kê của quyển "Toàn Đường Thi 《全唐诗》" thì trong đó có tất cả 75 bài thơ 6 chữ và Lục Ngôn Thi thẳng tiến đến đời Tống, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Lục Du, Tần Quan... đều cũng có lục ngôn thi. Trong quyển "Thiên Thủ Tống Nhân Tuyệt cú 千首宋人绝句" (Một ngàn bài tuyệt cú của người đời Tống) thì có đến 98 bài là thơ 6 chữ (chiếm tỉ lệ 1/10 của thi tập). Xuyên suốt qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh và mãi cho đến hiện nay, Lục Ngôn Thi vẫn luôn luôn tồn tại một cách âm thầm nhưng tích cực bên cạnh các hào quang rực rỡ của Ngũ Ngôn và Thất ngôn Thi nhưng không hề tàn lụi bao giờ.
Để kết thúc bài viết nầy, kính mời tất cả cùng đọc một bài lục ngôn dưới hình thức của một bài từ rất độc đáo "Thiên Tịnh Sa 天淨沙 Thu Tứ 秋思" của Mã Trí Viễn 馬致遠 đời nhà Nguyên :
枯藤老樹昏鴉, Khô đằng lão thọ hôn nha,
小橋流水人家, Tiểu kiều lưu thủy nhân gia,
古道西風瘦馬。 Cổ đạo tây phong xú mã.
夕陽西下, Tịch dương tây hạ,
斷腸人在天涯。 Đoạn trường nhân tại thiên nha !
Có nghĩa :
Mây cằn cây cỗi qụa buồn,
Đìu hiu cầu nhỏ nước tuôn mấy nhà,
Đường xưa ngựa ốm gió qua,
Nắng chiều dần tắt...
Bên trời hiu hắt... người xa đoạn trường !
Ta thấy, chẳng những "thi ca" có thơ 6 chữ mà cả "ca từ" cũng có những câu 6 chữ nữa !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
* PHỤ LỤC :
Để cho mọi người rộng đường tham khảo, đính kèm theo đây là các "cách Luật" của thơ 6 chữ khi đã hoàn chỉnh ở đời Đường :
六言詩的格律编辑 BIÊN TẬP VỀ CÁCH LUẬT CỦA LỤC NGÔN THI
* 平声韵 GIEO VẦN BẰNG :
《一》绝句押平声韵 Tuyệt cú gieo vần BẰNG :
《A》六言绝句仄起首句不押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú không gieo vần ở câu đầu :
T T B B T T, B B T T B B (Vần)(đối xứng)
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平 (韵). (对仗)
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平 (韵). (Bốn câu Hai vần)
《B》六言绝句仄起首句押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú gieo vần ở câu đầu:
T T B B T B (vần), B B T T B B (vần).
仄仄平平仄平 (韵),平平仄仄平平 (韵)。
平平仄仄平仄, 仄仄平平仄平 (韵)。(Bốn câu Ba vần)
Trên đây là Lục Ngôn Tuyệt Cú bắt đầu bằng "thanh TRẮC". Tương tự, nếu bắt đầu câu một bằng "thanh BẰNG" thì sẽ như sau đây :
《C》六言绝句平起首句不押韵格式:
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵)。(对仗)
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(韵)。(4 câu 2 vần)
《D》六言绝句平起首句押韵格式:
平平仄仄平平(韵),仄仄平平仄平(韵)。
仄仄平平仄仄, 平平仄仄平平(韵)。(4 câu 3 vần)
《二》律诗押平声韵 LUẬT THI GIEO VẦN BẰNG
《A》六言律诗平起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh BẰNG và gieo vần ở cuối câu 1 :
B B T T B B (vần), T T B B T B (vần)
平平仄仄平平(韵), 仄仄平平仄平 (韵).
仄仄平平仄仄, 平平仄仄平平 (韵).(对仗 đối xứng)
平平仄仄平仄, 仄仄平平仄平 (韵).(对仗 đối xứng)
仄仄平平仄仄, 平平仄仄平平 (韵).(8 câu 5 vần)
《B》六言律诗仄起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh TRẮC và gieo vần ở cuối câu 1 :
仄仄平平仄平(韵),平平仄仄平平(韵).
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵).(对仗)
仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(韵).(对仗)
平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵).(8 câu 5 vần)
* 仄声韵 GIEO VẦN TRẮC :
Tất cả đều giống như trên, chỉ đổi thanh BẰNG thành thanh TRẮC mà thôi.
《一》绝句押仄声韵 Lục Ngôn Tuyệt Cú gieo vần TRẮC :
《A》六言绝句平起式:
平平仄仄平仄(韵),仄仄平平仄仄(韵).
仄仄平平仄平, 平平仄仄平仄(韵).
《B》六言绝句仄起式:
仄仄平平仄仄(韵),平平仄仄平仄(韵).
平平仄仄平平,仄仄平平仄仄(韵).
(Tất cả đều cùng 4 câu 3 vần)
《二》律诗押仄声韵 LUẬT THI VẦN TRẮC
《A》六言律诗平起式:(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh BẰNG)
B B T T B T(vần), T T B B T T(vần)
平平仄仄平仄(韵), 仄仄平平仄仄(韵).
仄仄平平仄平, 平平仄仄平仄(韵).(对仗 đối xứng)
平平仄仄平平, 仄仄平平仄仄(韵).(对仗 đối xứng)
仄仄平平仄平, 平平仄仄平仄(韵).(8 câu 5 vần TRẮC)
《B》六言律诗仄起式 :(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh TRẮC)
仄仄平平仄仄(韵),平平仄仄平仄(韵).
平平仄仄平平, 仄仄平平仄仄(韵).(对仗)
仄仄平平仄平, 平平仄仄平仄(韵).(对仗)
平平仄仄平平, 仄仄平平仄仄(韵).
Nhìn chung, tất cả Cách Luật của Lục Ngôn Thi đều giống như là Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi vậy !
Đỗ Chiêu Đức
Tạp Ghi và Phiếm Luận:
TIẾT TRÙNG CỬU

Sau Tết Trung Thu là Tết Trùng Cửu, chữ Tết do chữ Tiết đọc trại ra mà thành. TIẾT 節 là Thời Tiết 時節 chỉ Khí hậu có liên quan đến mùa màng. TIẾT cũng có nghĩa là ngày Lễ Tết trong năm. Một năm có mấy cái Tết lớn. Nguyên Đán là cái Tết lớn nhất mở đầu cho một năm nằm trong tháng Giêng, Thanh Minh là Tết nằm trong tháng 3, Đoan Ngọ là Tết của tháng 5, Tháng 8 thì có Tết Trung Thu và Tháng 9 thì ta có Tết Trùng Cửu.
Trùng Cửu, Trùng là Trùng lắp, là lặp lại. Cửu là số 9. Nên Trùng Cửu 重九 là 2 số 9 được lặp lại, tức là ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch. Theo Kinh Dịch thì số 9 thuộc Dương, nên Trùng Cửu còn được gọi là Trùng Dương 重陽. Đây là cái Lễ tiết cuối cùng sau mùa thu hoạch của tháng tám, rồi trời sẽ trở lạnh để vào đông cho đến Tiết Đông Chí về, sẽ lại chuẩn bị để đón mừng năm mới !

Ngoài việc được gọi là Tiết Trùng Dương 重陽節 ra, Trùng Cửu còn được gọi là Tiết Đạp Thu 踏秋節, có nghĩa là Đạp lên lá vàng khô của mùa Thu, tức là Đi dạo chơi trong mùa Thu trước khi trời trở lạnh. Trong dân gian xưa còn gọi ngày này là Ngày Của Người Già : LÃO NHÂN TIẾT 老人節 hoặc KÍNH LÃO TIẾT 敬老節. Có thể là do sau khi mùa màng được thu hoạch vào mùa Thu, con cháu có nhiều món ngon vật quý để dâng hiến cho Ông Bà, hoặc đã có tiền để chăm lo săn sóc đến đời sống của Ông Bà hơn. Khi ông bà cha mẹ già đã quá cố, thì con cháu cũng nhân dịp Đạp Thu mà kéo nhau lên núi để Tảo Mộ (Ở những nơi có đồi núi thì người chết được chôn cất ở trên cao, vùng đồng bằng để trồng trọt canh tác. Cho nên ta thấy Cụ Nguyễn Du tả cảnh Tảo mộ của Tiết Thanh Minh là : " Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay, là thế !). Vì vậy, mà Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Tiết ĐĂNG CAO 登高節. Ngoài ra, Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Tiết THÙ DU 茱萸節, Tiết CÚC HOA 菊花節....

THÙ DU là loại cây ăn trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây lá có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ Trùng Cửu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt bên mình để "trừ tà", để được bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là Thù Du Tiết 茱萸節 là vì thế.

Trong bài thơ "Bốn mùa ăn chơi" của người xưa thì câu thứ 3 là "Thu ẩm Hoàng Hoa tữu". Hoàng Hoa tức là Hoa Cúc đó, loại hoa có màu vàng và nở vào mùa thu, nên được dùng để ủ rượu uống cho ấm vào những ngày cuối thu lạnh lẽo nầy, để ngừa cảm cúm, như ta chích "flu shot" vào mùa nầy ở Mỹ vậy ! Nên Tiết Trùng Cửu còn được gọi là Cúc Hoa Tiết 菊花節 là vì thế !
Theo truyền thuyết thì ...
Vào thời Nam Bắc Triều, người của Nam Triều là Ngô Quân Chi thuộc nước Lương, ghi trong " Tục Tề Hài Ký " rằng : Đời Đông Hán, ở huyện Nhữ Nam có một người tên là Hoàn Cảnh, cha mẹ đều chết vì bệnh ôn dịch ở cuối thu, nên anh ta quyết định lên núi tầm sư học đạo để trừ ôn dịch ôn thần. Đạo nhân Phí Trường Phòng dạy cho phép tiên dưỡng sinh và y học. Một năm, sau Trung Thu, đạo nhân gọi Hoàn Cảnh đến mà bảo rằng : mùng 9 tháng 9 năm nay, ôn thần lại đến gieo rắc bệnh dịch, con hãy về quê mà cứu nhân độ thế. Nói đoạn bèn trao cho anh ta một cây Thanh Long Kiếm, một bao lá Thù Du và một bình Rượu Cúc, căn dặn mọi người phải lên cao mà tránh nạn.
Đến hôm mùng 9 tháng 9, Hoàn Cảnh gọi hết bà con lối xóm cùng đăng cao lên núi, giắt cho mỗi người một lá Thù Du và uống một ly rượu Cúc, rồi đơn thân độc mã đứng chặn ở sườn núi, chiến đấu và tiêu diệt ôn thần. Từ đó về sau không ai còn bị chết về bịnh dịch nữa, và cũng từ đó về sau mới có tục Đăng Cao, cài lá Thù Du lên áo và uống rượu Cúc trong ngày Tiết Trùng Cửu cho đến hiện nay.

Trong văn học, nhất là trong Đường Thi, ngày Trùng Cửu luôn luôn được nhắc đến một cách thân thiết gần gũi qua các thi nhân nổi tiếng như Lưu Trường Khanh với ...
九日登李明府北樓 CỬU NHẬT ĐĂNG LÝ MINH PHỦ BẮC LÂU
九月登高望, Cửu nguyệt đăng cao vọng,
蒼蒼遠樹低。 Thương thương viễn thọ đê.
人煙湖草裡, Nhân yên hồ thảo lý,
山翠現樓西。 Sơn thuý hiện lầu tê.(tây)
劉長卿 Lưu Trường Khanh
Diễn nôm:
NGÀY CHÍN LÊN BẮC LÂU CỦA LÝ MINH PHỦ
Tháng chín lên cao ngắm,
Xanh xanh cây cỏ xa.
Hồ mờ sương người vắng,
Lầu tây núi biếc nhòa !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm

Còn Thi tiên Lý Bạch với ...
九月十日即事 CỬU NGUYỆT THẬP NHẬT TỨC SỰ
昨日登高罷, Tạc nhật đăng cao bãi
今朝再舉觴。 Kim triêu tái cử trường.
菊花何太苦, Cúc hoa hà thái khổ,
遭此兩重陽。 Tao thử lưỡng Trùng Dương .
李白 Lý Bạch
Chú Thích :
Mùng 9 tháng 9 gọi là Tiết Trùng Dương, hái hoa cúc, uống rượu cúc, nhưng...
Mùng 10 tháng 9 gọi là Tiểu Trùng Dương, lại hái hoa cúc, lại uống rượu cúc.
Chỉ trong hai ngày, hoa cúc BỊ HÁI, BỊ VÙI DẬP đến 2 lần. Lý Bạch ví thân phận đi đày của mình giống như là hoa cúc liên tiếp bị vùi dập vậy, nên mới hạ 2 câu cuối là : "Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng Trùng Dương". Có nghĩa : Hoa Cúc sao mà lại khổ thế, phải gặp cái nạn của 2 lễ Trùng Dương nầy !
KHỔ 苦 là Khổ sở, Cực khổ. KHỔ cũng có nghĩa là ĐẮNG nữa ! Tân là Cay, nên Tân Khổ là Cay Đắng, Đắng Cay!
Diễn nôm :
Chuyện của ngày mười tháng chín
Hôm qua sau leo núi,
Sáng nay lại nâng ly.
Hoa Cúc sao mà khổ,
Trùng Dương đến nhị kỳ !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Nhưng nổi tiếng và tiêu biểu nhất cho lễ Trùng Cửu là bài thơ của Thi Phật Vương Duy....
《九月九日憶山東兄弟》CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
獨在異鄉爲異客, Đôc tại dị hương vi dị khách,
每逢佳節倍思親。 Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
遙知兄弟登高處, Diêu tri Huynh đệ đăng cao xứ,
遍插茱萸少一人。 Thiên tháp thù du thiểu nhất nhân !
王维 Vương Duy
Chú Thích :
Khi làm bài thơ nầy Vương Duy chỉ mới 17 tuổi, đang xa nhà đến Trường An để mưu cầu công danh. Nhà ông ở Bồ Châu, phía đông của núi Hoa Sơn, nên mới đề tựa là " Ức Sơn Đông Huynh Đệ ". Bài thơ nổi tiếng với 2 câu đầu mà không có người du tử nào không trầm trồ với 2 từ " dị hương, dị khách ".
Nghĩa bài thơ :
Mùng chín tháng chín nhớ anh em ở phía đông núi.
Ta một mình ở nơi đất lạ làm người khách lạ, nên mỗi lần gặp Lễ Tết là lại nhớ người thân thêm bội phần. Ta biết rằng ở nơi xa xôi kia, anh em ta đang đăng cao trong ngày lễ nầy, và mỗi người đều có giắt một nhánh Thù Du lên áo, chỉ thiếu có một người không được giắt là ta đây mà thôi !
Diễn nôm :
Xứ lạ quê người làm khách lạ,
Mỗi lần lễ tết nhớ khôn nguôi.
Anh em mùng chín đăng cao đó,
Đều giắt thù du thiếu một người !
Lục bát :
Đơn thân xứ lạ quê người,
Mỗi khi lễ tiết ngậm ngùi nhớ nhau.
Quê xa huynh đệ đăng cao,
Thù du giắt áo nghẹn ngào riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Để kết thúc bài viết, mời tất cả cùng đọc bài thơ CỬU NHẬT ĐĂNG CAO của Thi Thiên Tử Vương Xương Linh sau đây :
九日登高 CỬU NHẬT ĐĂNG CAO
青山遠近帶皇州, Thanh sơn viễn cận đới hoàng châu,
霽景重陽上北樓。 Tễ cảnh trùng dương thướng bắc lâu.
雨歇亭臯仙菊潤, Vũ yết đình cao tiên cúc nhuận,
霜飛天苑御梨秋。 Sương phi thiên uyển ngự lê thu.
茱萸插鬢花宜壽, Thù du tháp mấn hoa nghi thọ,
翡翠橫釵舞作愁。 Phỉ thúy hoành thoa vũ tác sầu.
謾說陶潛籬下醉, Mạn thuyết Đào Tiềm ly hạ túy,
何曾得見此風流。 Hà tằng đắc kiến thử phong lưu !
王昌齡 Vương Xương Linh

*CHÚ THÍCH :
- Hoàng Châu 皇州 : là Vùng châu thổ của hoàng thành.
- Tễ Cảnh 霽景 : là Cảnh trí lúc trời vừa mới tạnh mưa.
- Đình Cao 亭臯 : là Bờ, luống chung quanh đình.
- Thiên Uyển 天苑 : là Vườn hoa của Thiên Tử.
- Ngự Lê 御梨 : là Cây lê trồng trong vườn ngự uyển.
- Thù Du 茱萸 : là loại cây ăn trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây lá có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ Trùng Cữu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt bên mình để "trừ tà", để được bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là Tiết Thù Du. Thù Du là trái cherry ở Mỹ đó.
- Mạn Thuyết 謾說 : Ta còn nói thành Mạn Đàm, là nói lan man, nói chơi về người nào hoặc việc gì đó.
- Đào Tiềm 陶潛 : tức Đào Uyên Minh, là một ẩn sĩ cao nhã đời Tấn, thích hoa cúc và chuyên trồng cúc ở bờ giậu phía đông, nổi tiếng với câu : Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下 悠然見南山. Có nghĩa : Hái cúc ở rào phía đông, xa xa trông thấy núi nam.
* NGHĨA BÀI THƠ :
NGÀY CHÍN LÊN CAO
Núi xanh gần gần xa xa như là một vành đai bao quanh mảnh đất của hoàng thành. Cảnh vật sau cơn mưa của Tiết Trùng Dương khi lên lầu phía bắc để ngắm nhìn. Những luống hoa cúc tiên bên đình mượt mà hơn sau cơn mưa, và những trái lê trong vườn ngự uyển ửng hồng hơn khi nhuốm sương thu. Nhánh thù du cài lên tóc mai cùng với hoa cúc là hoa trường thọ, giống như là cành trâm phỉ thúy lắc lư trên mái tóc khi đang ca múa càng gợi niềm sầu. Đừng nói là Đào Tiềm say dưới giậu hoa cúc là vô cớ, vì trong đời ta há dễ được mấy lần nhìn ngắm cái cảnh phong lưu tao nhã nầy ?!
Vương Xương Linh là nhà thơ biên tái nổi danh thời Thịnh Đường, nổi tiếng là Thánh thủ của thơ Thất ngôn Tứ tuyệt và là Thi Thiên Tử của đương thời, cùng với Thi Tiên Lý Bạch, Thi Phật Vương Duy, Cao Thích, Sầm Tham và Vương Chi Hoán giao tình rất hậu. Những bài thơ tả cảnh ghi lại các phong tục dân gian như bài thơ nầy rất hiếm thấy trong thi phẩm của ông, nên được mọi người rất trân qúi.
* DIỄN NÔM :
Mùng Chín Đăng Cao
Núi xanh vây phủ lấy hoàng châu,
Trời tạnh Trùng Dương lên bắc lâu.
Đình cúc sau mưa vàng sắc mượt,
Ngự lê sương nhuốm ửng màu thu.
Thù du cài lẫn hoa trường thọ,
Phỉ thúy vắt chung tóc gợi sầu.
Chả trách Đào Tiềm say dưới giậu,
Bao lần được thấy nét phong lưu ?!
Lục bát :
Núi xanh cao thấp bốn phương,
Hoàng thành trời tạnh Trùng Dương lên lầu.
Sau mưa luống cúc tươi màu,
Nhuốm sương lê cũng đỏ au trong vườn.
Thù du cài tóc thọ trường,
Lắc lư phỉ thúy vấn vương mối sầu.
Đào Tiềm say khước vì đâu
Trong đời há dễ qua cầu phong lưu ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Hẹn bài viết tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

TẾT TRUNG THU chữ Nho gọi là TRUNG THU TIẾT 中秋節. Một năm có 4 mùa, gọi là Tứ Qúy 四季, mỗi một qúy có 3 tháng, chia làm Mạnh, Trọng, Qúy 孟、仲、季 3 phần; nên theo Âm lịch, Tháng Bảy là Mạnh Thu 孟秋, tháng Tám là Trọng Thu 仲秋 và Tháng Chín là Qúy Thu 季秋. Tết Trung Thu nằm trong Tháng Tám nên còn gọi là Tiết Trọng Thu 仲秋節.
TẾT TRUNG THU là ngày rằm (15) tháng Tám Âm lịch với tiết trời trong vắt, nên ta thấy trăng tròn, to và sáng hơn những tháng trước đó, vì thế nên dân gian còn gọi đêm rằm tháng Tám là NGUYỆT TịCH 月夕, có nghĩa là Đêm Trăng, vì mọi người cùng nhau ngắm trăng nên còn gọi là Tiết NGOẠN NGUYỆT 玩月, và vì dân gian có tục lệ cúng trăng nên lại có tên là Tiết BÁI NGUYỆT 拜月, nhất là các cô gái đương xuân mới lớn, lòng xuân phơi phới bái nguyệt để gởi gắm những ước nguyện trong lòng, nổi tiếng nhất trong lịch sử cổ xưa là Điêu Thuyền Bái Nguyệt 貂嬋拜月. Nên ngày rằm tháng Tám còn được gọi là ngày NỮ NHI TIẾT 女兒節, là ngày lễ hội của các cô gái mới lớn.

Môt trong những khúc hát nổi tiếng ở các giáo phường của đời Đường là Bái Tân Nguyệt 拜新月, có nghĩa là "Lạy mừng trăng mới", có nguồn gốc xa xưa từ đời Tần Hán, mãi cho đến đời Đường mới thịnh hành tục lệ cúng trăng nầy. Gọi là cúng vầng trăng mới, chứ thực ra chỉ có ngày Thất Tịch, mùng bảy tháng bảy âm lịch là trăng mới thôi, còn thì đa số các bà các cô cúng trăng vào ngày Trung Thu rằm tháng tám. Cúng để ước nguyện gặp được người chồng tốt, hay gia đạo bình an hạnh phúc, nhất là luôn luôn được đoàn viên sum họp một nhà, như khi nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều được tuyển vào cung đã mơ ước cùng nhà vua :
Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên !
Còn các cô gái đương xuân với lòng xuân phơi phới thì bái lạy vầng trăng bất cứ lúc nào để ước ao và để gởi trao tâm nguyện, như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt rất nổi tiếng của Lý Đoan 李端 đời Đường sau đây :
開簾見新月, Khai liêm kiến tân nguyệt,
即便下階拜。 Tức tiện hạ giai bái.
細語人不聞, Tế ngữ nhân bất văn,
北風吹裙帶。 Bắc phong xuy quần đái.
Có nghĩa :
Vén rèm ra thấy vầng trăng mới, nàng bèn bước ngay xuống thềm mà vái lạy. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to không ai nghe biết được gì, chỉ thấy dải lụa đào thắt lưng phất phơ trước làn gió bấc mà thôi !
Cuốn rèm thấy ánh trăng trong,
Xuống thềm qùy lạy lầm rầm ước ao.
Khấn chi ai biết được nào...
Bắc phong phe phẩy lụa đào phất phơ !
Trăng rằm Trung Thu còn là một khối Đoàn Viên 團圓, ĐOÀN là Khối tròn, VIÊN là Tròn trịa không sứt mẻ. Nên ĐOÀN VIÊN là một khối tròn đầy đặn hoàn hảo. Gia Đình Đoàn Viên 家庭團圓 là tất cả những thành viên trong gia đình đều về hội tụ đầy đủ không thiếu ai cả. Nên TẾT TRUNG THU còn được gọi là ngày TẾT ĐOÀN VIÊN 團圓節. Người du tử ngày xưa lang bạt giang hồ, hay những thương nhân buôn bán phương xa... nhưng đến Tiết Trung Thu cũng phải rán cố gắng quay về để gia đình được đoàn viên mà cùng ngắm trăng tròn đón Tết. Những ai không về được nhà thì ngắm trăng Trung Thu cũng nhớ về quê nhà, như Thi Tiên Lý Bạch đã viết trong bài Tĩnh Dạ Tư 靜夜思 :
床前明月光, Sàng tiền minh nguyệt quang,
疑是地上霜。 Nghi thị địa thượng sương.
舉頭望明月, Cử đầu vọng minh nguyuệt,
低頭思故鄉。 Đê đầu tư cố hương !

Có nghĩa :
Trước đầu giường nhìn ánh trăng sáng bàng bạc khắp nơi, cứ ngỡ như là sương gieo đầy mặt đất. Ngẩn đầu lên nhìn vầng trăng sáng tròn trịa, nên cúi đầu xuống lại nhớ đến cố hương ! Nhớ đến gia đình không thể về được để đoàn viên như vầng trăng đầy đặn.
Trước giường nhìn trăng sáng,
Ngỡ sương gieo khắp nơi,
Ngẩn trông trăng đầy đặn,
Nhớ quê dạ bời bời !
Còn Thi Thánh Đỗ Phủ trong bài Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ 月夜憶舍弟 (Đêm trăng nhớ về em trai) nổi tiếng với 2 câu thơ bất hủ là :
露從今夜白, Lộ tòng kim dạ bạch,
月是故鄉明。 Nguyệt thị cố hương minh.
Có nghĩa :
Đêm nay sương trắng từ đây,
Quê nhà trăng mới sáng đầy khắp nơi !
Từ nay sương thu trắng sẽ phủ khắp nơi, nhưng chỉ có vầng trăng ở quê nhà là sáng nhất mà thôi ! Cũng cùng một ánh trăng, nhưng trong mắt kẻ tha hương vầng trăng của xứ người vẫn lạnh lẽo cô đơn và luôn gợi nhớ đến vầng trăng ấm áp vui tươi ở quê nhà. Nhất là những người yêu nhau càng nhớ nhau lắm trong những đêm trăng. Như trong bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn 望月懷 遠, ngắm trăng mà nhớ về nơi xa của Trương Cửu Linh 張九齡 thi nhân đời Đường với 4 câu đầu như sau :
海上生明月, Hài thượng sanh minh nguyệt,
天涯共此時。 Thiên nhai cộng thử thời.
情人怨遥夜, Tình nhân oán diêu dạ,
竟夕起相思。 Cánh tịch khởi tương tư...

Có nghĩa :
Trăng lên trên biển khơi,
Cùng lúc khắp chân trời.
Người yêu xa vắng quá,
Đêm thương nhớ khôn nguôi !...
Từ xưa đến nay, vầng trăng Trung Thu cũng gợi nên biết bao ý thu cho thi nhân, hãy đọc bài thơ "Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt Ký Đỗ Lang Trung 十五夜望月寄杜郎中 của Vương Kiến 王建 sau đây sẽ rõ :
中庭地白樹棲鴉, Trung đình địa bạch thụ thê nha,
冷露無聲濕桂花. Lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa.
今夜月明人盡望, Kim dạ nguyệt minh nhân tẫn vọng,
不知秋思落誰家. Bất tri thu tứ lạc thuỳ gia ?!
Có nghĩa :
Trong sân sáng trắng qụa nương cây,
Lặng lẽ sương sa hoa quế lay.
Trăng sáng đêm nay ai chẳng ngắm,
"Ý thu" ai biết ... lạc nhà ai ?!
Càng thi vị hóa ánh trăng hơn với bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt "Ức Đông Sơn 憶東山" của Thi Tiên Lý Bạch :
不向東山久, Bất hướng Đông Sơn cửu,
薔薇幾度花。 Tường vi kỷ độ hoa.
白雲還自散, Bạch vân hoàn tự tán,
明月落誰家。 Minh nguyệt lạc thùy gia ?!

Có nghĩa :
Đông Sơn lâu qúa không qua,
Tường vi mấy độ hoa đà phôi phai.
Ngẩn ngơ mây trắng còn bay...
Trăng vàng rụng xuống nhà ai đêm này ?!
Vầng trăng, ánh trăng, bóng trăng... trong văn học và cả trong dân gian cũng có rất nhiều tên để gọi. TRĂNG chữ Nho là NGUYỆT 月, theo thần thoại Trung Hoa trong mặt trăng có cây quế, nên còn gọi trăng là Vầng NGUYỆT QUẾ 月桂, và vì trong trăng còn có những vùng tranh tối tranh sáng, nên lại gọi là QUẾ PHÁCH 桂魄, như 2 câu đầu trong bài thơ Thu Dạ Khúc 秋夜曲 của Vương Nhai 王涯 đời Đường là :
桂魄初生秋露微, QUẾ PHÁCH sơ sanh thu lộ vi,
輕羅已薄未更衣。 Khinh la dĩ bạc vị canh y.
Có nghĩa :
TRĂNG vừa mới mọc sương thu nhẹ,
Mỏng mảnh áo là chửa kịp thay.
Ngoài QUẾ PHÁCH, trăng còn được gọi là QUẾ CUNG 桂宫 mà thi sĩ Tản Đà nhà ta đã gọi là CUNG QUẾ trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội":
Đêm thu buồn lắm! CHỊ HẰNG ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả nàng cung nữ thất sủng trong cung với tâm trạng :
Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần...
CHỊ HẰNG tức Hằng Nga, người Hoa ít khi gọi bằng HẰNG NGA 姮娥, mà thường gọi Chị Hằng là THƯỜNG NGA 嫦娥. Như trong bài thơ "Thường Nga 嫦娥" của Lý Thương Ẩn trong buổi tàn Đường :
雲母屏風燭影深, Vân Mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
長河漸落曉星沉. Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
嫦娥應悔偷靈藥, THƯỜNG NGA ưng hối thâu linh dược,
碧海青天夜夜心. Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm !

Có nghĩa :
Bình phong Vân mẫu nến lay thềm,
Sao rụng Ngân hà trở sáng thêm.
Trộm thuốc HẰNG NGA chừng tiếc nuối,
Trời xanh biển biếc hận đêm đêm !
Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du gọi Trăng là GƯƠNG NGA, BÓNG NGA. Trong buổi đầu khi Kim Kiều gặp gỡ; lúc trở về nhà, đêm đó khi :
GƯƠNG NGA chênh chếch vòm sông,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lã ngọn đông lân,
Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà...
thì Thúy Kiều đã :
Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời !...
Theo thần thoại Trung Hoa, Thường Nga hay Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ 后羿, người đã bắn rơi chín cái mặt trời là chín con qụa lửa thiêu đốt nhân gian, nên được bà Tây Vưong Mẫu tặng cho viên thuốc trường sinh bất tử. Hằng Nga đã lén trộm thuốc của chồng uống vào, nên thân hình nhẹ nhõm bay lên và bay tuốt... vào cung trăng lạnh lẽo, rồi trở thành chủ nhân của cung Quảng Hàn và con Thỏ Ngọc giả thuốc trường sinh. Vì tích nầy mà mặt trăng còn được gọi là QUẢNG HÀN CUNG 廣寒宫 hay CUNG QUẢNG, như khi Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh lúc chàng về thăm Hoạn Thư :
Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như CUNG QUẢNG Ả HẰNG nghĩ nao !
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa Vành Trăng khuyết, ba sao giữa trời !

Vì có con Thỏ Ngọc giã thuốc trong trăng, nên mặt trăng còn được gọi là NGỌC THỐ 玉兔. Khi Vương Quan kể lể về thân thế của ca nhi Đạm Tiên đã kết bằng 2 câu :
Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !
THỎ LẶN là Trăng lặn, ÁC TÀ là Mặt Trời chiều; Trăng lặn là hết đêm, Mặt Trời về chiều là hết ngày. Nên THỎ LẶN ÁC TÀ chỉ ngày tháng qua đi. "Trãi bao THỎ LẶN ÁC TÀ," là biết bao là ngày tháng đã qua đi !
Cũng theo thần thoại Trung Hoa, trong cung trăng lại có con Thiềm Thừ 蟾蜍 (con cóc) ba chân; vì các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng trông giống như các hoa văn trên lưng con Thiềm Thừ; Lại có tích cho rằng vì Hằng Nga trộm thuốc bay lên cung trăng nên mới bị trời phạt biến thành con Thiềm Thừ tinh. Vì thế người Hoa còn gọi Cung Trăng là THIỀM CUNG 蟾宫. Trong bài thơ Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士của Thi Nô Giả Đảo 賈島 có câu :
閩國揚帆去, Mân quốc dương phàm khứ,
蟾蜍虧復圓。 THIỀM THỪ khuy phục viên.
Có nghĩa :
Mân Nam giương buồm tách bến,
THIỀM THỪ đang khuyết đã tròn.
Còn trong truyện Nôm khuyết danh Trinh Thử của ta cũng có câu :
THIỀM CUNG bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.

Trong cung trăng còn có một nhân vật nam là Ngô Cương 吴剛, vốn là lính gác Nam Thiên môn, tình cờ gặp được Hằng Nga qúa đẹp, nên ở lại cung trăng chơi một ngày, bị Ngọc Đế phạt phải đốn cây Quế trong cung Quảng Hàn. Tương truyền hễ Ngô Cương ban cành quế cho ai thì người đó sẽ thi đỗ Trạng Nguyên, vì thế mà hình thành thành ngữ THIỀM CUNG CHIẾT QUẾ 蟾宫折桂. Có nghĩa là "Bẻ Quế Cung Thiềm" để chỉ những người thi đậu. Trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa của ta cũng có câu :
Những mong BẺ QUẾ nên danh,
Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.
Qua đến Việt Nam ta thì Ngô Cương thành Chú Cuội, và Cành Quế thành Cành Đa. Cũng trong bài thơ "Muốn Làm Thằng Cuội" của Tản Đà cũng có câu :
CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa ?
CÀNH ĐA xin chị nhắt lên chơi !
Tục lệ cúng trăng đã có từ xa xưa, nhưng đến đời Tùy, Đường mới thật sự thịnh hành các lễ ngoạn nguyệt, thưởng nguyệt, bái nguyệt; và đến đời Nam Bắc Tống thì tất cả nam phụ lão ấu, giàu nghèo qúy tiện gì đều cúng trăng vào đêm rằm tháng tám, cầu cho gia đạo bình an, đoàn viên hạnh phúc. Vật cúng thường là các loại qua qủa 瓜果 là dưa trái có hình tròn, như bưởi bồng, hồng, Thị, dưa hấu, khoai môn được xắt thành từng khoanh tròn, bánh in bánh đậu xanh, bánh được làm bằng các loại mứt, loại hạt... có hình tròn gọi là BÁNH TRUNG THU tượng trưng cho trăng tròn và cũng là niềm mơ ước cho gia đình cũng mãi mãi được đoàn viên hạnh phúc. Đến đời Minh, Thanh thì các tục lệ đón Tết Trung Thu càng đa dạng hơn với các hoa đăng đủ loại, múa lân múa rồng, thả đèn trời để cầu an...
TẾT TRUNG THU qua đến Việt Nam ta thì lại diễn tiến thành TẾT NHI ĐỒNG với các lồng đèn đủ loại... Người lớn thì cũng mừng trăng cúng trăng và thưởng thức Bánh Trung Thu, nhưng trẻ em thì lại vui mừng hơn vì được dịp rước đèn như lời hát...
TẾT TRUNG THU đốt đèn đi chơi,
Em đốt đèn đi khắp phố phường...

Trước mắt người Châu Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở rải rác khắp các châu lục; nhất là sau 1975, người Việt Nam ta cũng hiện diện khắp nơi trên thế giới. Tuy định cư ở nước ngoài, nhưng cứ mỗi lần Trung Thu ngắm cảnh trăng tròn thì lại nhớ đến chốn cũ quê xưa, nhớ về làng xưa người cũ... rồi cũng phải đành âm thầm ngâm hai câu thơ của Tô Đông Pha trong Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭 để cùng an ủi nhau :
但願人長久, Đản nguyện nhân trường cửu,
千里共嬋娟。 Thiên lý cộng THUYỀN QUYÊN.*
Có nghĩa :
Những mong người mãi trường tồn,
Cùng chung ngàn dặm trăng tròn một thôi !
Chỉ cần còn sống để ngắm trăng, thì tuy có cách trở xa xôi ngoài ngàn dặm, ta cũng nên cảm thấy yên ủy vì cũng cùng ngắm chung một vầng trăng nầy mà thôi !
Cầu mong cho tất cả mọi người đều có được một cái TẾT TRUNG THU sum vầy vui vẻ, ĐOÀN VIÊN như ánh trăng rằm tháng Tám vằng vặc mãi trên không.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
* THUYỀN QUYÊN 嬋娟 : là từ chỉ các cô gái có thân hình yểu điệu đẹp đẽ; ở đây Tô Đông Pha mượn để chỉ vầng trăng tròn, sáng và đẹp của đêm Trung Thu. Bài từ "Thủy Điệu Ca Đầu 水調歌頭" của Tô Đông Pha 蘇東坡 đã được nhạc sĩ Lương Hoằng Chí 梁弘志 phổ nhạc và danh ca Đài Loan Đặng Lệ Quân 鄧麗君 hát. Mời tất cả cùng thưởng thức ...
Ca sĩ Đặng Lệ Quân hát bài "Thủy Điệu Ca Đầu" :


Khoảng thập niên 1960-1970 của thế kỷ trước, hễ chiều chiều là người ta lại đón báo mới phát hành, để xem tin tức thời sự thì ít, mà để đọc truyện võ hiệp của Kim Dung thì nhiều hơn. Già trẻ lớn bé gì đều say mê theo dõi các tình tiết gay cấn, hấp dẫn, khúc chiết và có đượm chút gì đó như truyện trinh thám của sherlock home. Không phải chỉ có người Việt ở Sài Gòn mà người Hoa ở trong Chợ Lớn cũng thế; và không phải chỉ có dân Sài gòn Chợ lớn mới mê truyện võ hiệp của Kim Dung mà dân Lục tỉnh cũng như thế luôn !
Tôi nhớ, khoảng đầu thập niên bảy mươi, trên tờ báo Tia Sáng có đăng bài phỏng vấn dịch giả truyện Kim Dung là Hàn Giang Nhạn, đại khái có đoạn như sau :
Ký giả báo hỏi dịch giả Hàn Giang Nhạn rằng : Truyện "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" dịch là "Anh Hùng Xạ Điêu" thì đúng rồi, vì xem truyện ai cũng biết, người được ám chỉ là Anh Hùng Xạ Điêu thì ai cũng biết đó là Quách Tĩnh; "Thần Điêu Hiệp Lữ" dịch là "Thần Điêu Đại Hiệp" thì ai cũng biết đó là để ám chỉ Dương Qúa và Tiểu Long Nữ; Nhưng, "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記" mà dịch là "Cô Gái Đồ Long" thì đọc giả hoang mang và thắc mắc vô cùng. Sao lại là "Cô Gái Đồ Long" ? và Cô Gái Đồ Long là để ám chỉ AI ? Quách Tương, Ân Tố Tố, Chu Chỉ Nhược hay Triệu Mẫn ?! Ai là Cô Gái Đồ Long ??!! Lúc đó, dịch giả Hàn Giang Nhạn mới cười và giải thích rằng : Không có ai là "Cô Gái Đồ Long" cả ! Vì truyện dịch từ Minh Báo của Hồng Kông gởi qua từng ngày, dịch ngày nào hay ngày nấy, đâu có ai biết truyện sẽ diễn tiến ra sao. Thấy tựa là "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" thì dịch là "Anh Hùng Xạ Điêu", Thấy "Thần Điêu hiệp Lữ" thì cũng dịch gọn là "Thần Điêu Đại Hiệp", nhưng "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記" lúc mở đầu truyện, đâu có ai biết được Kim Dung sẽ viết về CÁI GÌ ? Cái tựa "Ỷ Thiên" "Đồ Long" lại rất mơ hồ; Đâu có ai biết đó là "Ỷ Thiên Kiếm" và "Đồ Long Đao" đâu ? Còn theo nghĩa thì "Ỷ Thiên" là "Dựa vào trời" có vẻ cao siêu quá; còn "Đồ Long" là "Giết Rồng" nghe hấp dẫn hơn; Đã có "Anh Hùng Xạ Điêu" và "Thần Điêu Đại Hiệp" rồi, thì bây giờ đổi giới tính là nữ cho thành "Cô Gái Đồ Long" đi, nghe vừa lạ tai vừa hấp dẫn vừa gợi tính tò mò của đọc giả nữa. Vì thế mà mới có cái tựa "CÔ GÁI ĐỒ LONG" ra đời. Lúc đó, các bạn người miền Bắc cũng hay nói đùa rằng : Có cô gái nào mà "Đồ" không có "Lông" đâu ?!
Bây giờ, hơn 50 năm sau, nhà văn Chu Vương Miên đem bốn chữ "CÔ GÁI ĐỒ LONG" dịch ngược lại thành "ĐỒ LONG NỮ TỬ 屠龍女子" để châm biếm, mỉa mai hay xỏ xiên nhà văn Kim Dung chăng ? Bản thân Kim Dung cũng đâu có biết "Đồ Long Nữ Tử" là ai đâu !?
Nhà văn nhà thơ Chu Vương Miện có trình độ Hán văn thật giỏi, có kiến thức hiểu biết thật rộng về mọi mặt, chỉ tiếc là chỉ nhận định sự việc thiếu nghiêm túc, và theo cảm tính riêng của mình, nên có vẻ như bới lông tìm vết và như có vẻ đố kỵ đối với sự thành công nổi tiếng của nhà văn Kim Dung. Ta hãy đọc đoạn Chu Vương Miện viết trong bài "NƠI VẠN AN TỰ - Phụ lục “Đồ Long nữ tử” của Chu Vương Miện" được trích dưới đây thì sẽ rõ :
"... Qua vài giây suy nghĩ ngắn ngủi giáo chủ Minh Giáo Trương Vô Kỵ trân trọng trả lời:
- Khải bẩm quận chuá kể ra thì cũng hơi dài dòng, chả là xíng xáng Kim Dung [tức Trà Lương Dung tức Louis Cấm Dùng] là một trong 10 vị tài chủ giầu có nứt đó đổ vách nhất Hương Cảng, tiên sinh có nhà in riêng kiêm luôn nhà xuất bản và phát hành sách báo, lại làm chủ một lúc nào là Hồng Kông Minh Báo [nhật báo] rồi Tuần báo rồi Nguyệt báo, lại kiêm nhiệm luôn cả hãng phim Minh Thị, công việc đa đoan bề bộn như vậy nên cái chuyện Kiếm Hiệp Kỳ Tình “Ỷ Thiên Đồ Long Ký” tiên sinh chỉ có thì giờ viết phác hoạ dàn bài, phần còn lại toàn là thuê thợ công nhân nhà văn viết thế vào. Kẻ viết ít thì mươi trang, kẻ nhiều thì vài chục vài trăm trang, viết feiulleton cho báo ngày, Viết xong là hết, có ai ngờ đâu lại ăn khách, lại quay thành phim cinema, rồi lại in ấn thành tác phẩm dầy cộm đồ sộ, bộ nào bộ nấy cũng tròm trèm từ sáu đến tám đến mười tập...
Xin được góp ý :
* Thứ Nhất : KIM DUNG họ TRA 查, không phải họ TRÀ. Tra Lương Dung 查良鏞, chữ DUNG 鏞 có nghĩa là cái Chuông lớn; Ông đã tách chữ DUNG nầy ra thành 2 chữ KIM DUNG 金庸; Chữ DUNG 庸 nầy có nghĩa là Tầm thường, như ta thường nói là DUNG TỤC 庸俗: là Tầm Thường không có gì đặc biệt.
Cố ý đọc sai tên họ người khác là có ý khinh khi ngạo mạn đùa bỡn.
* Thứ Hai : Kim Dung không phải là "... một trong 10 vị tài chủ giầu có nứt đó đổ vách nhất Hương Cảng" như Chu Vương Miện đã nói. Trong tạp chí Tư Bản xuất bản năm 1991, có bài viết "Những tấm gương người Hoa triệu phú của Hồng Kông trong thập niện 90" KIM DUNG chỉ được xếp hàng thứ 64 mà thôi; và ông cũng đã được lấy làm ví dụ để vinh danh là tấm gương điển hình của một nhà văn trở nên giàu có. 在1991年的《资本杂志》的《九十年代香港华人亿万富豪榜》名列中排第64位,他亦被誉为文人致富的典型例子.
Cố ý nói thêm bớt để gièm xiễm châm biếm người khác, ganh tị chăng !?
* Thứ Ba : Kim Dung được sanh ra trong thời loạn (1924) lúc Dân Quốc sơ khai. Quốc Cộng tranh giành đấu đá nhau, nên học hành không ổn định. Năm 1929 học Tiểu học ở huyện Hải Ninh nơi quê nhà của ông; 1946 phải xa nhà học ở Trung học Gia Hưng, 1937 nổ ra toàn quốc kháng chiến chống Nhật, phải di dời vì loạn lạc phải theo trường về các nơi Lâm An, Lệ Thủy... 1938 chuyển đến học ở trường Liên Hiệp Cao Sơ Trung của tỉnh Chiết Giang. 1939 mới tốt nghiệp Sơ Trung (Trung học đệ nhất cấp = Cấp 2)Ông đã cùng các bạn soạn quyển《Cấp Đầu Khảo Sơ Trung Giả 给投考初中者》là sách "Hướng đẫn cho những người mới bắt đấu học Trung học. Sách bán rấy chạy. 1941 trong một bài bích báo trong trường, Kim Dung đã viết bài châm biếm cho cái tư tưởng đầu hàng của ông Tổng giám thị trường nên bị đuổi học. Nên lại chuyển qua học ở Đệ Nhất Trung Học ở Cù Châu và 1942 mới tốt nghiệp Cao trung (Tú Tài = Cấp 3). 1944 ông thi vào trường Đại học Chính Trị Trung Ương Trùng Khánh khoa ngoại giao. Vì phản đối một số học sinh là Đảng viên nên bị đuổi học. 1945 Kháng chiến chống Nhật thành công, ông về lại quê nhà, vừa học vừa làm ký giả ngoài giờ cho《Đông nam Nhật Báo 东南日报》. 1946 xin vào học ngoại khóa Luật khoa của Đông Ngô Đại Học Thượng Hải, khoa Luật Quốc tế, vừa làm ký giả cho Đại Công Báo của Thượng Hải. 1948 thì tốt nghiệp và được tòa báo điều qua làm phiên dịch cho chi nhánh ở Hồng Kông.
1952 ông được điều phụ trách Phụ trang của《Tân Vãn Báo 新晚报》trong thời gian nầy ông đã viết 2 kịch bản cho Điện ảnh là《Tuyệt Đại Giai Nhân 绝代佳人》và《Lan Hoa Hoa 兰花花》Cũng trong thời gian nầy ông quen biết và làm bạn với Lương Vũ Sinh 梁羽生.
1954, do "Ngô Thị Thái Cực Quyền 吴氏太极拳" và "Bạch Hạc Phái 白鹤派" quảng cáo rầm rộ mở võ đài thi đấu ở Áo Môn (Ma-Cao). Để hưởng ứng phong trào, Tổng biên tập Đại Công báo giao cho Tra Lương Dung và Lương Vũ Sinh viết truyện võ hiệp kỳ tình đăng trên phụ trang của báo để câu khách. Lương Vũ Sinh viết truyện《Long Hổ Đấu Kinh Hoa 龙虎斗京华》còn Tra Lương Dung lấy bút hiệu là KIM DUNG viết truyện《Thư Kiếm Ân Cừu Lục 书剑恩仇录》Cả hai đều nổi tiếng vang dội lúc bấy giờ, đưa tiểu thuyết võ hiệp lên đỉnh cao trào. 1956 ông viết "Bích Huyết Kiếm", 1957 viết "Xạ Điêu Anh Hùng Truyện" đều đăng suốt năm trên《Hương Cảng Thương Báo 香港商报》đầu năm 1959 viết "Tuyết Sơn Phi Hồ" đăng trên《Tân Vãn Báo 新晚报》.
Cuối năm 1959 Kim Dung mới cùng các bạn đứng ra thành lập MINH BÁO《明报》và ông làm việc rất cật lực. Tự mình viết bình luân, xã luận suốt hai mươi mấy năm, được báo giới và bạn bè khen tặng là “Tả thủ tả xã bình, hửu thủ tả tiểu thuyết 左手写社评,右手写小说”. Có nghĩa : "Tay trái viết xã luận, tay phải viết tiểu thuyêt"... (Qúy vị nào giỏi chữ Nho cứ dán hai chữ "金庸" nầy vào google thì sẽ đọc được tất cả về cuộc đời sự nghiệp.... của nhà văn Kim Dung).
Sở dĩ tôi phải viết dài dòng như trên để cho thấy là nhà văn Kim Dung tự bản thân mình từ học tập đến lập nghiệp đều do tự mình cố gắng phấn đấu mà có được. Không phải như Chu Vương Miện đã viết :
"... tiên sinh chỉ có thì giờ viết phác hoạ dàn bài, phần còn lại toàn là thuê thợ công nhân nhà văn viết thế vào. Kẻ viết ít thì mươi trang, kẻ nhiều thì vài chục vài trăm trang, viết feiulleton cho báo ngày, Viết xong là hết, có ai ngờ đâu lại ăn khách, lại quay thành phim cinema..."
Viết vô lý như thế mà cũng viết được. Thuê mỗi người viết vài chục trang thì làm sao ráp cho ăn khớp được, không ăn khớp thì làm sao ăn khách và quay thành phim được ?!
Nếu không thích Kim Dung thì thôi, đâu có ai bắt mình phải thích đâu ? Kim Dung cũng không cần Chu Vương Miện phải khen mình, vì cả thế giới đã có qúa nhiều người khen kim Dung rồi ! Nhưng sao lại phải nói những lời châm biếm mát mẻ ganh tị làm chi ?
Thì thôi, có bới lông tìm vết để xỏ xiên chê bai Kim Dung thì cũng là thường tình thôi; Nhưng sao lại phải mất lịch sự đến đỗi đụng chạm cả một dân tộc vậy ? Có cần phải như thế không !? Mời đọc tiếp bài viết rất vô ý thức và thiếu lịch sự của Chu Vương Miện trong bài "PHỤC VIÊN (VỀ VƯỜN) – Phụ lục “Đồ Long nữ tử” – Chu Vương Miện" sau đây :
"... Trong lán trại của Minh Giáo an toạ trong khu rừng phía sau của Thiếu Lâm Tự giáo chủ Trương Vô Kỵ ngồi chủ trì đại cuộc, bên cạnh là Triệu Mẫn quận chúa có hai vị Tiêu Dao nhị tiên [tức hai vị sứ giả Dương Tiêu và Phạm Dao], Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, cùng nhị sư bá Dư Liên Châu phái Võ Đang, cuộc họp nội bộ này dùng tiếng Mông Cổ là chính, để khỏi lọt bí mật ra ngoài tiếng Háng chỉ là phụ..."
Lúc đầu tôi cứ tưởng là đánh máy lầm hay sai lỗi Chính tả, nhưng càng đọc về sau thì càng thấy đó là CHỦ Ý muốn LÀM NHỤC DÂN TỘC KHÁC của Chu Vương Miện. Mời đọc các phần trích tiếp của bài viết trên như sau :
"... Phần còn lại là nhà Đại Tống thì do một phần Mông Cổ gọi là Nguyên cai trị, hầu như đa số người Mông Cổ đã bị Háng đồng hóa hết trọi. Hiện giờ trong tình cảnh này, không cần dân Háng vùng dậy đòi tự trị thì quân Mông Cổ từ từ cũng sẽ tan!..."
"... Dân số từ đầu nhà Tống dân hai miền Nam Bắc tính chung là 100 triệu dân, qua 300 năm đô hộ của Đại Liêu, Đại Kim, dân số chỉ có chết mà chỉ giữ ở khoảng khiêm nhượng này. Đến 90 năm đô hộ của Mông Cổ, thì tàn sát giết chết hơn nửa, bây giờ dân Háng chỉ còn có 46 triệu dân mà thôi ! Quân lính Mông Cổ tuỳ tiện muốn giết dân Háng lúc nào cũng được, kể như cơm bữa, nếu là họ Triệu, họ Trương, họ Lý... thì muốn giết cứ giết không cần tra vấn tội vạ gì cả, nhà quan binh rất rộng rãi, tuy nhiên muốn chiếm nhà đất của dân Háng thì cũng rất là giản đơn giản kép, bằng cách chỉ cần bắn một mũi tên lửa sang nhà láng giềng, nhà láng giềng bốc cháy, bà con dân chúng phải hiểu là di tản chiến thuật ngay tức thời..."
"... Để tỏ ra quân Mông Cổ là thứ quân thiện chiến, có một không hai đánh đâu thắng đó, Hốt Tất Liệt lấy oai với người Mông Cổ, với ngườì Háng cũng có, ra lệnh một lúc cho mấy đạo quân tinh nhuệ, đạo thì xâm lăng Đài Loan, đạo thì uýnh Nhật bản, đạo thì đánh Cao Ly [Triều Tiên], đạo thì qua dậy cho An Nam một hai bài học, đạo thì đánh Chiêm Thành, cũng may là đạo quân nào cũng thua cả! Có một vấn đề thắc mắc nêu ra ở đây, các nước nhỏ này, đều đánh bại toàn quân Thát Đát Hồ Lỗ mà sao quan binh Trung Nguyên cuả người Háng Tộc lại thua dài dài ? ..."
Nhìn lên bảng đồ thế giới thì nước Ta ở dưới nước Tàu, và ông bà ta ngày xưa đều học chữ HÁN và đều chịu ảnh hưởng của văn hóa HÁN TỘC; Ngay cả hiện nay tuy chữ Quốc Ngữ đã thông dụng rồi, nhưng vẫn còn cần phải sử dụng rất nhiều từ HÁN VIỆT, Ta lại có Bô môn HÁN NÔM, Từ điển HÁN NÔM, Viện HÁN NÔM... Nếu tất cả chữ HÁN nêu trên đều viết là HÁNG thì Chu Vương Miện nghĩ sao ?!
Trong sách "Minh Tâm Bửu Giám" của ta có câu : "Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu 含血噴人,先污自口". Có nghĩa :"Ngậm máu phun người thì dơ miệng mình trước". Mong rằng nhà văn, nhà thơ Chu Vương Miện viết lách, làm thơ... cũng nên giữ phong cách đạo đức của người cầm bút để khỏi thẹn với tiền nhân ! Mạt sát một người là đã không nên rồi, huống hồ lại mạt sát cả một dân tộc !
Trung ngôn tự nhiên nghịch nhĩ, lời thật dễ mất lòng, mong bạn tam tư châm chước !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Tài liệu tham khảo:
* NƠI VẠN AN TỰ - Phụ lục “Đồ Long nữ tử” của Chu Vương Miện
* PHỤC VIÊN (VỀ VƯỜN) – Phụ lục “Đồ Long nữ tử” – Chu Vương Miện



Từ đời thượng cổ, Rằm Tháng Bảy là ngày Lễ Tế Tổ 祭祖節, cúng tế ông bà vì đã bắt đầu mùa thu hoạch; Và vì tháng bảy là tháng bắt đầu cho giữa năm về sau nên được gọi là TRUNG NGUYÊN TIẾT 中元節; Ta gọi là Tiết Trung Nguyên. Theo thuyết TAM NGUYÊN 三元 của Đạo Giáo bắt nguồn từ đời Đông Hán là : Thiên quan thượng nguyên tứ phước, Địa quan trung nguyên xá tội, Thủy quan hạ nguyên giải ách 天官上元賜福,地官中元赦罪,水官下元解厄. Có nghĩa : Thượng Nguyên (Rằm tháng giêng) tế các quan trên trời nhờ ban phước lộc; Trung Nguyên (Rằm tháng bảy) tế các quan dưới đất mong được xá tội; Hạ Nguyên (Rằm tháng mười) tế các quan dưới nước cầu xin giải hết mọi tai ách. Sau đời Hán khi Phật giáo đã du nhập và được tryền bá rộng rãi trong dân gian rồi, thì gọi ngày Rằm Tháng Bảy là ngày VU LAN BỒN TIẾT 盂蘭盆節, ta gọi là ngày Lễ Vu Lan, ngày xá tội vong nhân là tha tội cho người chết, nên mới có tục lệ cúng Cô hồn Ngạ qủy 孤魂餓鬼, là các hồn phách cô đơn và những con ma đói.
Theo Kinh Chu Dịch, thì số 7 là con số của biến hóa phục sinh : "Phản phúc kỳ đạo, thất nhựt lai phục, thiên hành dã 反覆其道,七日來複,天行也。Có nghĩa : Cái đạo ngược xuôi tuần hoàn, trong bảy ngày sẽ trở lại, đó là vận hành của trời". Nên số 7 là số DƯƠNG, khí dương của trời đất tiêu hao và mất đi thì trong 7 ngày sẽ tái sinh có lại. Đó là sự tuần hoàn của ÂM DƯƠNG TIÊU TRƯỞNG 陰陽消長. Số 7 còn có sắc thái thần bí riêng mình như : Trên trời thì có THẤT TINH 七星, con người thì có THẤT TÌNH 七情, Cơ thể thì có THẤT KHIẾU 七竅, đến âm nhạc cũng có THẤT ÂM 七音, màu sắc cũng có THẤT SẮC 七色 (7 màu)... Nên theo Đạo giáo thì Tiết Trung Nguyên là ngày 14 (7+7) tháng 7, còn Tiết Vu Lan Bồn là ngày 15 (rằm) tháng 7.
Tóm lại, tháng 7 là tháng bắt đầu thu hoạch nông phẩm; Người nông dân ngày xưa tin tưởng vào việc nông phẩm bội thu là do thần linh tổ tiên phù hộ, nên mới nhân dịp đầu Thu dùng những nông phẩm mới thu hoạch được hiến dâng lên để cúng tế ông bà tổ tiên cầu mong cho năm sau lại được mùa bội thu; Vì thế mà hình thành ngày Rằm Tháng Bảy là ngày LỄ TẾ TỔ. Đến đời Đông Hán theo thuyết "TAM NGUYÊN" của Đạo Giáo nên mới gọi TIẾT TRUNG NGUYÊN; Kịp đến khi Phật Giáo hòa nhập vào dòng tín ngưỡng của dân gian, thì ngày Rằm tháng bảy mới được gọi là LỄ VU LAN BỒN. Ba cái tục lệ tín ngưỡng nầy truyền đến đời Đường thì hợp nhất lại vào ngày Rằm Tháng Bảy : Dân gian thì cúng tế ông bà tổ tiên; Đạo giáo thì cúng tế các Địa Quan, các thần linh dưới đất để cầu xá tội; Phật Giáo thì cúng cô hồn ngạ qủy, xá tội vong nhân. Nói chung, tất cả mục đích cuối cùng đều xoay quanh hiếu đạo và nhớ đến cha mẹ ông bà tiên tổ mà ăn ở cho phải đạo làm người.
Đến tháng bảy thì mọi người đều muốn trở thành hiếu tử, ai cũng tỏ ra hiếu kính đối với ông bà cha mẹ như bài thơ "Trung Nguyên Tiết 中元節" của Tống Học Nghĩa 宋學義 sau đây :
草木升溫金漫坡, Thảo mộc thăng ôn Kim Mạn Pha,
借籌祭祖賞山河。 Tá trù tế tổ thưởng sơn hà.
百思不解紅塵事, Bách tư bất giải hồng trần sự,
一到中元孝子多。 Nhất đáo Trung Nguyên hiếu tử đa !
Có nghĩa :
Kim Mạn lên gò ấm cỏ hoa,
Trên cao cúng Tổ ngắm sơn hà.
Nghĩ hoài không hiểu đời sao lạ...
Hễ đến Trung Nguyên hiếu tử đa !
Leo lên gò Kim Mạn nhiều hoa cỏ, mượn cớ để cúng mả cho Tổ Tiên mà nhìn ngắm cảnh núi sông; Nghĩ hoài cũng không sao hiểu được chuyện trên đời nầy, hễ cứ đến Tết Trung Nguyên thì ai cũng tỏ ra mình là người con có hiếu cả !
Thường các lễ hội cúng bái cầu đảo đều diễn ra ở bên ngoài các Đạo Quán 道觀 (là Chùa của các đạo sĩ tu luyện) với các tục lệ như thả đèn trời, thả đèn hoa đăng dưới nước... cùng với các nghi thức Tế Địa Quan của các Đạo Trưởng như trong bài thơ "Trung Nguyên Nhật tặng Trương Tôn Sư 中元日贈張尊師" của Lệnh Hồ Sở 令孤楚 như sau :
偶來人世值中元, Ngẫu lai nhân thế trực Trung Nguyên,
不獻玄都永日閒。 Bất hiến Huyền Đô vĩnh nhật nhàn.
寂寂焚香在仙觀, Tịch tịch phần hương tại tiên quán,
知師遙禮玉京山。 Tri sư dao lễ Ngọc Kinh san.
Có nghĩa :
Nhân gian nhằm lễ Trung Nguyên,
Huyền Đô tạm gác lặng yên cả ngày.
Khói hương đạo quán không ai,
Biết thầy đã lễ tận đài Ngọc Kinh.
Ngọc Kinh Sơn là tên của núi Huyền Đô nằm trong dãy núi Côn Luân. Theo Đạo Giáo tương truyền đây là nơi của những người đắc đạo thành tiên ở, là nơi giáp ranh với Thiên đình trên trời.
Việt Nam ta không có lệ thả đèn trời, nhưng trong dân gian lại có tục Thắp Đèn Trời, có nghĩa là khi thắp nhang cúng xong thì để yên các ngọn đèn và hương hoa ở ngoài trời cho đến sáng, như câu ca dao Nam Bộ sau đây :
Mỗi năm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con !
Đây cũng là cách đơn giản chân thành biểu hiện tấm lòng của người con hiếu thảo đối với công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha.
Tết TRUNG NGUYÊN truyền sang đến Việt Nam ta thì không còn mang sắc thái của Đạo giáo nữa mà hoàn toàn thiên về các nghi thức cúng bái cầu an của Phật Giáo; đặc biệt là đối với cha mẹ thì đây là mùa "Vu Lan Báo Hiếu"; chữ Nho gọi là VU LAN BỒN 盂蘭盆 : Còn gọi là VU LAN BỒN HỘI 盂蘭盆會 hay VU LAN THẮNG HỘI 盂蘭勝會. Căn cứ theo ghi chép của "Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh 佛说盂蘭盆经",Vu Lan Bồn 盂蘭盆 là(ullambana)Tiếng Phạn là उल्लम्बन,Nghĩa gốc của VU LAN là "Treo Ngược", BỒN là "Cái Chậu", nên VU LAN BỒN 盂蘭盆 là: Cái Chậu dùng để đựng đầy ngũ qủa bách vị để cúng dường Phật Đà và Tăng Lữ, để cùng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh bị treo ngược dưới địa ngục Âm Phủ, được siêu sinh hóa kiếp.
VU LAN BỒN theo PHẬT GIÁO 佛教 là ngày rằm tháng 7 Âm lịch, ngày xá tội vong nhân, thí thực cho cô hồn ngạ quỷ, nhưng theo ĐẠO GIÁO 道教 ngày rằm tháng 7 gọi là Tiết Trung Nguyên, là ngày đản sinh của Địa Quan Đại Đế 地官大帝, nên có lệ tế đất đai và cúng bái người chết, còn theo NHO GIÁO 儒教 thì là mùa thu hoạch, nên con cháu cúng tế ông bà tổ tiên. Kết hợp Tam Giáo và các tục lệ dân gian lại, nhưng nhộn nhịp nhất vẫn là hoạt động của các chùa chiền trong lễ hội Vu Lan với sự tích Mục Kiền Liên cứu mẹ 目犍連救母.
Mục-Kiền-Liên (tiếng Pali : Moggallāna; Tạng ngữ: མོའུ་འགལ་གྱི་བུ་, Hán tự : 目犍連; tên Latinh hóa : Maudgalyayana, Mahāmoggallāna hay Mahamaudgalyayana) hay gọi tắt là Mục-Liên (目連) (Sinh khoảng năm 568 - mất khoảng năm 484 trước Công nguyên ở nước Magadha, nay thuộc miền Bắc Ấn Độ) là một vị Tỳ-kheo của Phật giáo trong thời kỳ Phật Thích-Ca Mâu-Ni tại thế. Cùng với tôn giả Xá-Lợi-Phất 舍利弗, Mục-Kiền-Liên là một trong 2 đệ tử hàng đầu của Phật Thích-Ca. Ông đã đắc quả A-la-hán và trở nên nổi tiếng là bậc "Thần thông đệ nhất" (Manda Galỳayana) trong hàng Thanh văn đệ tử của Đức Phật.
Theo truyền thuyết Phật giáo Bắc Tông, Mục-Kiền-Liên được cho là đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông qua đó biết mẹ mình đang lâm kiếp ngạ quỷ; ông hỏi Phật Tổ về cách cứu mẹ.
Phật dạy rằng:
“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ”
Theo lời Phật, mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp 盂蘭盆法 ).
Từ đó ngày lễ VU LAN ra đời.
Trong khi Phật giáo thí thực cho các cô hồn ngạ qủy bằng ngũ cốc rau củ qua quả, thì Đạo giáo lại cúng bằng "tam sên", đọc trại của từ TAM SANH 三牲 là Heo, Gà, Cá. Nhớ hồi nhỏ khi thấy mấy ông thợ mộc động thổ cất nhà thường cúng "tam sên" bằng : Một miếng thịt ba rọi luộc, một qủa trứng gà và một con khô mực (hay một con tôm luộc) để tượng trưng cho TAM SANH; Còn ở các Đạo quán thì lại cúng rất linh đình với : Một con heo quay, một con gà luộc và một con cá rán; Các Đạo quán lớn cúng bằng NGŨ SANH 五牲 thì thêm một con bò và một con dê thui nữa ! Ta hãy nghe bài thơ "Trung Nguyên Tiết Hữu Cảm 中元節有感" của Vương Khải Thái 王凱泰 đời Thanh thì sẽ rõ :
道場普渡妥幽魂, Đạo tràng phổ độ thỏa u hồn,
原有盂蘭古意存。 Nguyên hữu Vu Lan cổ ý tồn.
卻怪紅箋貼門首, Khước quái hồng tiên thiếp môn thủ,
肉山酒海慶中元。 Nhục sơn tửu hải khánh Trung Nguyên !
Có nghĩa :
Đạo tràng phổ độ u hồn,
Vu Lan cổ ý trường tồn mãi đây.
Lạ thay giấy đỏ dán đầy,
Núi thịt biển rượu mừng ngày Trung Nguyên !
Lượm lặt trên mạng, kể lể cho vui lúc trà dư tửu hậu. Chúc cho tất cả mọi người đều có được một mùa Lễ VU LAN BÁO HIẾU có ý nghĩa, vui vẻ và... hiếu thuận với cha mẹ cũng như được con cháu hiếu thuận với mình !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

HƯ 虛 là Không thực; CẤU 構 là Cấu Tạo, là Làm nên. Nên nghĩa đơn giản nhất của HƯ CẤU là : Cấu tạo hay làm nên một viêc gì đó hay một câu chuyện nào đó không có thật. Từ nghĩa gốc nầy phát sinh thêm những nghĩa rộng hơn như :
- HƯ CẤU là chỉ vựa vào trí tưởng tượng, tưởng tượng ra những sự việc hay những câu truyện không có thực trong đời sống thực tại.
- HƯ CẤU là vựa vào truyện có thực rồi tưởng tượng thêm thắc những chi tiết ly kỳ khúc chiết để hấp dẫn người nghe người đọc hơn.
- HƯ CẤU là vựa vào những sự kiện có thật trong lịch sử, rồi dựng nên một câu truyện hay nhân vật có kết cấu hợp "lô-gích" để giải thích hoặc chứng minh là những sự kiện đó có thật một cách hợp tình hợp lý.
- HƯ CẤU trước mắt thường xuất hiện dưới các hình thức Tiểu thuyết, Điện Ảnh, Kịch nghệ, Hoạt họa...
Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài viết nầy, ta chỉ điểm qua một vài HƯ CẤU trong Lịch Sử và Văn Học mà thôi.
A. HƯ CẤU là sản phẩm của trí tưởng tượng :
Như thuyết TAM HOÀNG NGŨ ĐẾ 三皇五帝 của Trung Hoa nhằm giải thích và tôn vinh nguồn gốc của Hán tộc mà thôi :
* TAM HOÀNG 三皇 theo ý nghĩa nguyên thủy của thời thượng cổ thì TAM HOÀNG là Thiên Hoàng Thị 天皇氏、Địa Hoàng Thị 地皇氏、và Nhân Hoàng Thị 人皇氏. Nhưng theo các sử sách ghi lại của các đời sau thì mỗi người ghi mỗi khác.
- Theo Thượng Thư Đại Truyện《尚書大傳》thì Tam Hoàng là :
Toại Nhân 燧人、Phục Hi 伏羲、Thần Nông 神農.
- Theo Xuân Thu Vận Đấu Xu《春秋運鬥樞》thì Tam Hoàng là :
Phục Hi 伏羲、Nữ Oa 女娲、Thần Nông 神農.
- Theo Phong Tục Thông Nghĩa《風俗通義》thì Tam Hoàng là :
Phục Hi 伏羲、Chúc Dung 祝融、Thần Nông 神農.
- Theo Tam Tự Kinh《三字經》thì Tam Hoàng là :
Phục Hi 伏羲、Thần Nông 神農、Huỳnh Đế 黄帝.
* NGŨ ĐẾ 五帝 là năm vị Đế Vương thời bàng cổ tượng trưng cho Ngũ Phương Thượng Đế 五方上帝; nhưng thực ra đó chỉ là Năm vị Thủ lĩnh của Năm Bộ lạc thời thượng cổ mà thôi.
- Theo Lã Thị Xuân Thu《吕氏春秋》thì Ngũ Đế là :
Thái Hạo 太昊、Viêm Đế 炎帝、Huỳnh Đế 黄帝、Thiếu Hạo 少昊、Chuyên Húc 顓頊.
- Theo Đại Đái Lễ Ký《大戴禮記》thì Ngũ Đế là :
Huỳnh Đế 黄帝、Chuyên Húc 顓頊、Đế Khốc 帝嚳、Nghiêu 堯、Thuấn 舜.
- Theo Tư Trị Thông Giám Ngoại Kỷ《資治通鑒外紀》thì Ngũ Đế là :
Huỳnh Đế 黄帝、Thiếu Hạo 少昊、Chuyên Húc 顓頊、Đế Khốc 帝嚳、Nghiêu 堯.
Vì là sản phẩm của HƯ CẤU nên mỗi nơi nói một cách; mỗi đời nói một kiểu không giống nhau, nhưng tựu trung cũng cùng một mục đích là tôn vinh lòng tự hào về nguồn gốc của dân tộc mình mà thôi; Cũng như nguồn gốc của dân tộc Việt Nam ta vậy. Ta cũng tự hào mình là...
- Con Rồng Cháu Tiên là "Con cháu của Rồng và Tiên" theo truyền thuyết : Lạc Long Quân kết duyên với bà Âu Cơ sanh được một trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Âu Cơ là giống tiên nên dẫn năm mươi người con lên núi, còn Lạc Long Quân là giống rồng nên dẫn năm mươi người con đi về hướng biển; và người con trưởng lên làm vua nước ta, lấy hiệu là vua Hùng Vương thứ Nhất.
- Theo Đại Việt sử lược và nhiều tài liệu khác, triều đại Hùng Vương được truyền qua 18 đời, từ năm 2919 trước Công Nguyên đến năm 258 trước Công Nguyên, vị chi là 2661 năm, nếu đem chia đều cho 18 đời, thì mỗi đời vua Hùng là 148 năm. Đủ thấy đó chỉ là Hư Cấu, nhưng với người Việt Nam, các vua Hùng đại diện cho Tổ tiên, cho truyền thống dựng nước và là niềm tự hào về nền văn minh đậm đà bản sắc riêng xuyên suốt nhiều nghìn năm. Bấm vào link dưới hình minh họa để xem cụ thể về 18 đời vua Hùng Vương của nước Văn Lang.
https://vtc.vn/18-doi-vua-hung-gom-nhung-ai-ar669738.html
B. HƯ CẤU là vựa vào truyện có thực rồi tưởng tượng thêm thắc những chi tiết ly kỳ khúc chiết để hấp dẫn người nghe người đọc hơn. Như hai giai thoại văn chương của hai câu thơ trong Tăng Quảng Hiền Văn mà ta đã từng biết qua :
時來風送滕王閣, Thời lai phong tống Đằng Vương Các,
運去雷轟薦福碑. Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc Bi.
* Câu "Thời lai phong tống Đằng Vương Các" chỉ là chuyện của Vương Bột 王勃(650—676), người đứng đầu của Tứ Kiệt buổi Sơ Đường, trên đường đi thăm cha đang làm quan ở Giao Chỉ, nhân đi ngang qua phủ Hồng Châu, nhằm lúc Đô Đốc Diêm Bá Dư đang mở tiệc khoản đãi các văn nhân thi sĩ, ông tham dự và làm bài "Đằng Vương Các Tự 滕王閣序" nổi tiếng và dương danh khắp thiên hạ. Vì bài tự quá nổi tiếng, quá xuất sắc, nên người đời sau hư cấu thêm thắt những chi tiết thần bí khúc chiết để làm cho câu chuyện ly kỳ và lý thú hơn như sau :
Năm Vương Bột 16 tuổi trên đường đi thăm cha đang làm quan ở Giao Chỉ, hay tin Đô Đốc Diêm Bá Dư 閻伯嶼 trấn nhậm Hồng Châu trùng tu Đằng Vương Các mở cuộc thi thơ văn và khoản đãi tân khách bốn phương. Chủ ý của Diêm Bá Dư là muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương 吳子章, nên đã cho Chương trau chuốt sẵn một bài phú thật hay để ngày hôm đó viết lại.
Vương Bột từ Sơn Tây theo sông Vận Hà vào Trường Giang để xuôi nam. Nhưng khi đến Mã Đương Sơn thì gặp sóng to gió lớn đành phải lên bờ tạm lánh, đồng thời du ngoạn để ngắm cảnh đẹp của nơi nầy. Khi định quay trở về thuyền thì gặp phải một cụ già râu tóc bạc phơ ra dáng tiên phong đạo cốt, nói với Bột rằng :"Tiết Trùng Dương này, Đô Đốc Hồng Châu thiết tiệc để cho các văn nhân thi tài, nếu như nhà ngươi đến đó tham dự thì chắc chắn sẽ được nổi tiếng và sẽ được lưu danh muôn đời". Vương Bột bèn cười mà đáp rằng :"Cám ơn lão trượng đã xem trọng, nhưng từ đây đến đó cách nhau gần 700 dặm đường mà ngày mai thì đã là Tiết Trùng Dương rồi, làm sao có thể đến đó cho kịp?". Ông cụ bèn cười mà đáp rằng :"Ta chính là người cai quản thủy phủ nơi đây, nếu các hạ chịu lên đường ngay hôm nay, ta sẽ giúp cho một tay!". Nói đoạn, ông lão bèn quay lưng đi mất. Bột nghe theo lời, đến đêm quả có gió lớn nổi lên và chỉ trong một đêm mà vượt qua hơn 700 dặm đường (có thể là nhờ gió của đêm Trùng Cửu mùng 9 tháng 9 đó). Khi đến nơi cũng vừa kịp lúc Đằng Vương Các đang phát giấy bút chiêu đãi khách làng văn. Thấy Bột chỉ là một thằng bé con, Đô Đốc Diêm Bá Dư không muốn cấp giấy bút, nhưng Bột kiên quyết muốn làm văn. Diêm bèn cho người đứng phía sau lưng Bột, hễ Bột viết được câu nào thì chép lấy dâng đến cho Diêm xem, hễ thấy không xong là tống cổ ra khỏi buổi tiệc ngay. Khi Bột mở đầu bài văn bằng câu : Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ 南昌故郡,洪都新府 (Xưa là quận Nam Xương, nay là phủ Hồng Đô), thì Diêm cười và bảo : Cũng là sáo ngữ của các thầy Đồ Nho mà thôi. Đến câu : Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hành Lư 星分翼軫,地接衡廬 (chỉ địa thế của Đằng Vương Các : Phân chia giữa sao Dực và sao Chẩn, còn đất thì nối tiếp giữa Hành Sơn và Lư Sơn) thì Diêm lặng thinh. Lại đến câu : Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu đẩu chi Khư. Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 物華天寶,龍光射牛斗之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 (Của đẹp báu trời, ánh long quang chiếu sao Ngưu sao Đẩu; Đất linh người giỏi, cao nhân Từ Trĩ hạ giường Trần Phồn) thì Diêm lại tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Kịp đến câu : Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色 (Ráng chiều và cánh cò trắng như cùng bay, Dòng nước mùa thu long lanh hòa với sắc trời xanh như liền nhau cùng một dãy) thì ông không còn dằn được cảm xúc, vỗ bàn đứng dậy khen là tuyệt cú ! Rồi quay lưng đi vào trong. Kịp đến khi Vương Bột viết xong toàn bài văn, ông mới trở ra nắm tay Vương Bột mà khen rằng :"Gác Đằng Vương mà có được bài văn nầy, buổi tiệc hôm nay mà có được bài văn nầy, cái phong lưu của sự việc hôm nay cũng sẽ nhờ có bài văn nầy mà lưu truyền thiên cổ. Ta sẽ hậu tạ cho các hạ !". Chàng rể Ngô Tử Chương đứng bên tỏn tè vì bài văn viết trước của mình không được trình làng, bèn lặng lẽ đọc hết bài văn của Vương Bột rồi cười khẩy mà nói rằng :"Đây là bài văn cũ của quận Hồng Đô chớ có chi là lạ đâu !". Nói xong bèn đọc hết bài văn của Vương Bột từ đầu đến cuối, không sai một chữ nào cả ! Vương Bột cũng rất ngạc nhiên mà cười rằng :"Tài học thuộc lòng của các hạ không thua gì Dương Tu và Trương Tòng thời Tam Quốc chút nào cả ! Nhưng các hạ có biết là sau bài văn nầy còn có một bài thơ tám câu nữa hay không ?". Tử Chương đáp là :"Không biết !" Vương Bột bèn hươu bút viết thêm tám câu thơ để kết thúc cho bài văn trên như sau :
滕王高閣臨江渚, Đằng Vương cao các lâm giang chữ
佩玉鳴鸞罷歌舞。 Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
畫棟朝飛南浦雲, Họa đống triêu phi nam phố vân,
珠簾暮卷西山雨。 Chu liêm mộ quyển tây sơn vũ.
閒雲潭影日悠悠, Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
物換星移幾度秋。 Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
閣中帝子今何在? Các trung đế tử kim hà tại?
檻外長江空自流。 Hạm ngoại trường giang không tự lưu !
Có nghĩa :
Gác Đằng sừng sửng bờ xa,
Rộn ràng ngọc chuốc sanh ca đã dừng.
Bờ nam mây sớm ngập ngừng,
Rèm châu cao cuốn bâng khuâng nắng chiều.
Bóng mây đầm nước đìu hiu,
Sao dời vật đổi đã nhiều thu qua.
Vua tôi trong gác đâu ta ?
Trường Giang ngoài mái la đà chảy xuôi !
Ngô Tử Chương lặng thinh không nói được lời nào. Các quan khách thấy thế muốn chửa thẹn cho Ngô Tử Chương bèn cùng ứng tiếng :"Bài văn tài tình của Vương Bột và sức nhớ tài tình của Tử Chương đều là kỳ tài thiên hạ hiếm có, đều đáng được trân trọng cả !" Vương Bột và Ngô Tử Chương cùng bắt tay nhau và cùng tạ ơn quan khách trong buổi tiệc.
Vương Bột nổi tiếng luôn từ đấy và Gác Đằng Vương với bài Đằng Vương Các Tự 滕王閣序 của Vương Bột cũng được lưu truyền thiên cổ với các câu đã trở thành Thành Ngữ cho đến hiện nay như :
* Lão Đương Ích Tráng 老當益壯 : Già mà còn mạnh khỏe.
* Cùng Thả Ích Kiên 窮且益堅 : Nghèo mà biết kiên trì phấn đấu.
* Thiên Cao Địa Quýnh 天高地迥 : Trời cao đất rộng.
* Hứng Tận Bi Lai 興盡悲來 : Hết vui tới buồn.
* Quan San Nan Việt 關山難越 : Núi non khó vượt. (Núi non cách trở).
* Bình Thủy Tương Phùng 萍水相逢 : Bèo nước gặp nhau .....
Ta thấy qua những chi tiết HƯ CẤU thêm, câu truyện kể đã trở nên khúc chiết, lý thú và hay ho hơn nhiều. Một điều đáng ngạc nhiên nữa là...
Vì tích của Vương Bột, mà trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送滕王閣
Có nghĩa :
Khi thời đã đến rồi thì sẽ có gió đưa đến Đằng Vương Các ngay.
Ý của câu trên là : Khi thời vận tốt đã đến, thì con người sẽ rất dễ dàng có cơ hội để phát tích về mặt tiếng tăm hay công danh sự nghiệp. Nhưng khi qua đến Việt Nam ta, thì lại chuyển sang ý chỉ về TÌNH DUYÊN thuận lợi, may mắn, và gọi là DUYÊN ĐẰNG. Như ...
Trong Truyện Kiều để tả cuộc tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư với Thúc Sinh, cụ Nguyễn Du cũng mượn tích nầy :
DUYÊN ĐẰNG thuận nẽo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.
Ngay cả trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập với sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông cũng mượn từ GÁC ĐẰNG để chỉ dịp may hiếm có, cơ hội thuận lợi cho tình duyên như :
Thương nhỉ, Hồng nhan nguyền khéo lỗi,
GÁC ĐẰNG nhờ gió những ai vay !
Hay như hai câu thơ trong Truyện thơ Nôm khuyết danh Trinh Thử :
Đưa duyên nhờ gió GÁC ĐẰNG ,
Đành tay con tạo nhắc bằng đồng cân.
...và như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, bài thứ 8 tả lại mối tình giữa Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử cũng có câu :
Tiên-Dung gặp buổi đi chơi,
Gió đưa ĐẰNG CÁC, buồm xuôi Nhị-Hà,
Hay như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả lại mối tình tiên tục giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cũng có câu :
GÁC ĐẰNG VƯƠNG mấy dặm khơi,
Có duyên đành đã gió trời thổi đưa.
Trong truyện Quan Âm Thị Kính thì đổi từ Gác Đằng thành Gió Đằng, nhưng cũng cùng một ý dùng để chỉ tình duyên :
GIÓ ĐẰNG kể khéo đưa duyên,
Chàng Lưu dung dủi đến miền Thiên Thai.
Cái "May mắn trong công danh sự nghiệp ở bên Tàu" qua đến Việt Nam ta thì trở thành "Cái may mắn trong tình duyên đôi lứa" ! Chỉ trong bài Văn Tế Nguyễn Thị Tồn, viết để tế vợ mình, cụ Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa đã diễn cái ý của tích nầy bằng bốn chữ GIÓ THẦN ĐƯA GÁC với ý nghĩa giống như nghĩa gốc lúc ban đầu mà thôi :
Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần Sấm Đất Tan Bia,
Bay kịp chúng, nhảy kịp người, mới đặng hưởng GIÓ THẦN ĐƯA GÁC.
Ta thấy trong vế trên trong bài văn tế của cụ Bùi Hữu Nghĩa còn có bốn chữ SẤM ĐẤT TAN BIA. Bây giờ thì ta đến với giai thoại của câu :
運去雷轟薦福碑. Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc Bi.
Như ta đã biết...
Đại văn Hào đời Tống là Phạm Trọng Yêm 范仲淹 khi làm Quận Thú ở Nhiêu Châu (thuộc Quận Ba Dương tỉnh Giang Tây hiện nay). Một hôm có thư sinh Trương Hạo 張鎬 lưu lạc giang hồ đến xin cứu giúp. Phạm thương vì người tài hoa mà chửa gặp thời, định giúp đỡ, nhưng Phạm là một ông quan thanh liêm, không lấy đâu ra tiền để giúp. Cuối cùng ông bèn đến nhờ trụ trì chùa Tấn Phúc, xin cho thư sinh kia được in một số bản văn ở thạch bia phía sau chùa bán mà độ nhật để về quê. Đây là bản văn khắc trên đá với bút pháp của Âu Dương Tuân 歐陽詢, là một trong Sơ Đường Tứ Đại Thư Pháp Gia 初唐四大書法家, nên rất được mọi người ưa chuộng.
Nhà sư Trụ trì vì nể mặt Phạm Trong Yêm mà chấp thuận, còn hướng dẫn cho cách để in ấn. Phạm lại phải giúp thư sinh mua sắm giấy mực, bàn chải... định sáng ngày sẽ khởi công. Nào ngờ đêm hôm đó trời mưa to gió lớn, sấm sét đánh bể tan bia đá kia luôn. Thế là khỏi in ấn gì hết cả !
Số của chàng thư sinh nầy đã xui rồi, lại càng thúi củ hủ hơn nữa, cho nên mới nói là :
運去雷轟薦福碑. Vận khứ lôi oanh Tấn Phúc Bi.
Khi đã hết thời rồi, thì sấm sét cũng đánh bể bia của chùa Tấn Phúc là vì thế ! Truyện nghe đã hấp dẫn rồi, càng hấp dẫn hơn với các chi tiết thần thoại mà nhân gian đã thêm thắt vào như trong vở tạp kịch "Bán dạ lôi oanh Tấn Phúc Bi 半夜雷轟薦福碑" của kịch tác gia Mã Trí Viễn 馬致遠 đời nhà Nguyên như sau :
Tú Tài TRƯƠNG HẠO 張鎬 (HẠO là Sáng loáng) nhà nghèo hiếu học, ở nhờ nhà của một người đồng tông ở Trương Gia Trang, làm nghề dạy học để mưu sinh. Trang chủ cũng tên TRƯƠNG HẠO 張浩 (HẠO là To lớn). Một hôm có bạn là Quận Thú ở Nhiêu Châu tên Phạm Trọng Yêm đến thăm, biết Trương Hạo có chí lớn mà chưa gặp thời, bèn khuyến khích bạn viết một bài Vạn Ngôn Trường Sách 萬言長策, là sách lược an bang trị quốc trên một vạn chữ, để mình mang về triều đình tiến cử lên cho nhà vua. Đồng thời, Phạm còn viết thêm ba lá thư để gởi gắm cho ba người bạn thân nhờ giúp đỡ cho Trương Hạo, đó là Huỳnh Viên Ngoại, Lưu Sĩ Lâm và Tống Công Tự đều là quan viên đương triều. Chẳng may số của Trương Hạo còn quá lận đận, nên khi tìm đến Huỳnh Viên Ngoại và Lưu Sĩ Lâm thì hai người đều đã nhuốm bệnh qua đời, còn Tống Công Tự thì ở quá xa. Trên bước đường lưu lạc, trong một đêm mưa gió Trương Hạo trú mưa trong miếu Nam Hải Xích Tu Long Thần lại xin được một lá xăm Hạ Hạ. Lúc đang thất chí bi phẩn cùng cực vì số phận hẩm hiu của mình, Trương Hạo đã đề thơ trên vách miếu xúc phạm đến Long Thần. Long Thần nổi giận chờ có dịp sẽ báo phục.
Phạm Trọng Yêm về triều dâng lên Vạn Ngôn Trường Sách của Trương Hạo. Nhà vua xem xong rất đẹp ý, bèn phong cho Trương Hạo làm Huyện lệnh huyện Cát Dương. Khi sứ giả mang chiếu chỉ đến Trương Gia Trang thì Trương Hạo 鎬 đã Lưu lạc tha phương; trang chủ Trương Hạo 浩, bèn mạo nhận chức huyện lệnh Cát Dương, rồi cho gia nhân là Triệu Thực tìm giết Trương Hạo để phi tang. Trương Hạo đã phải nài nỉ van xin kể lể nổi bất hạnh của mình. Triệu Thực thương tình tha không giết nhưng khi về đến huyện đường thì Trương Hạo giả định giết Triêu Thực để diệt khẩu, may nhờ có đại thần Tống Công Tự là bạn của Phạm Trọng Yêm đến tìm Trương Hạo thật, bèn bắt hết tất cả đem về triều.
Trương Hạo (thật) lưu lạc đến chùa Tấn Phúc. Trưởng lão trong chùa vì quen biết với Phạm Trọng Yêm nên cảm thông cho sự chìm nổi thất sở thân sơ của Trương Hạo mà cho tiểu hòa thượng mua giấy mực định giúp cho Trương Hạo in một ngàn bản của bia Tấn Phúc với bút tích của Nhan Chân Khanh 顏真卿, một trong Tứ Đại Thư Pháp Gia đời Đường, để bán mà độ nhật và để có tiền để lai kinh ứng thí. Chẳng ngờ Long Thần hay tin, giận vì Trương Hạo vô cớ mà oán trách mình, nên ngay trong đêm đó kéo mây làm mưa và nổi sấm đánh tan bia Tấn Phúc. Thế là tiêu tan hy vọng, khỏi in ấn vì cả ! Quá thất vọng, vì thấy vận xui của mình đã đến mức cùng cực, Trương Hạo định đập đầu vào cây cổ thụ để tự sát, may nhờ Phạm Trọng Yêm đến kịp cứu khỏi.
Trương Hạo theo Phạm Trọng Yêm về triều để triều kiến Thiên tử. Nhà vua vì đã xem qua Vạn Ngôn Trường Sách nên phong cho Trương Hạo là Trạng Nguyên Cập Đệ của khoa thi năm đó, đồng thời khen thưởng cho Triêu Thực và trừng phạt tên Trương Hạo trưởng thôn tội khi quân vì dám mạo nhận quan tước của triều đình. Một kết thúc có hậu theo đúng như các kịch bản ngày xưa.
Ta thấy thông qua HƯ CẤU, một câu truyện đơn giản trở nên phức tạp và khúc chiết rất nhiều vì các chi tiết được thêm thắt vào cho ly kỳ gây cấn hơn, nhất là khi đưa vào Tạp kịch 雜劇 là một bộ môn của sân khấu xưa.
Mời xem bài dưới đây:
HƯ CẤU trong các tác phẩm võ hiệp của KIM DUNG.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


15 tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được ông viết thành đôi câu đối sau đây :
飛雪連天射白鹿,Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc,
笑書神俠倚碧鴛. Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên.
Vế đầu :
1. PHI là Phi Hồ Ngoại Truyện 飛狐外傳.
2. TUYẾT là Tuyết Sơn Phi Hồ 雪山飛狐.
3. LIÊN là Liên Thành Quyết 連城訣.
4. THIÊN là Thiên Long Bát Bộ 天龍八部.
5. XẠ là Xạ Điêu Anh Hùng Truyện 射雕英雄傳.
6. BẠCH là Bạch Mã Khiếu Tây Phong 白馬嘯西風.
7. LỘC là Lộc Đỉnh Ký 鹿鼎記.
Vế sau :
8. TIẾU là Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑傲江湖.
9. THƯ là Thư Kiếm Ân Cừu Lục 書劍恩仇錄.
10. THẦN là Thần Điêu Hiệp Lữ 神雕俠侶.
11. HIỆP là Hiệp Khách Hành 俠客行.
12. Ỷ là Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚天屠龍記.
13. BÍCH là Bích Huyết Kiếm 碧血劍.
14. UYÊN là Uyên Ương Đao 鴛鴦刀.
Còn một quyển thứ...
15. là VIỆT NỮ KIẾM 越女劍 được viết năm 1970, được in ở phía sau truyện HIỆP KHÁCH HÀNH như là một Phụ Lục. Kim Dung vốn định viết 33 truyện võ hiệp đoản thiên theo "TẠP TAM KIẾM KHÁCH ĐỒ 卅三劍客圖" (Bức tranh vẽ 33 kiếm khách), nhưng mới chỉ viết được có truyện đầu tiên là VIỆT NỮ KIẾM rồi ngưng luôn.
Cách đặt tên những nhân vật trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung cũng rất uyên bác và lý thú với những kiến thức vừa bình dân vừa bác học lại vừa có tính cách văn chương... Ta thử điểm qua tên hiệu của một số nhân vật sau đây :
Năm nhân vật sừng sỏ nhất võ lâm trong "Anh Hùng Xạ Điêu" (Xạ Điêu Anh Hùng Truyện 射雕英雄傳.) và "Thần Điêu Đại Hiệp" (Thần Điêu Hiệp Lữ 神雕俠侶.) được gọi là "Càn Khôn Ngũ Tuyệt 乾坤五绝" mà trong các bản dịch, ta hay gọi là "Võ Lâm Ngũ Bá 武林五霸". NGŨ TUYỆT hay NGŨ BÁ gì thì tên hiệu và sắc phục của họ cũng đều có liên quan đến Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương như sau :
1. Đông Tà Hoàng Dược Sư 東邪黄藥師 : Đông phương Giáp Ất thuộc Mộc, ứng với màu xanh. Nên Hoàng Dược Sư thường xuất hiện với áo bào màu xanh và ở trên đảo Đào Hoa. Ông được nhà văn Kim Dung ưu ái dùng hiệu của danh tướng và là nhà quân sự nổi tiếng giúp gầy dựng nên nhà Đường là Lý Tịnh 李靖(571-649) hiệu là DƯỢC SƯ để đặt tên cho ông. Dưới chữ DƯỢC 藥 có một chữ MỘC 木 lớn.
2. Tây Độc Âu Dương Phong 西毒歐陽鋒 : Tây phương Canh Tân thuộc Kim, ứng với màu trắng, nên thầy trò Âu Dương Phong đều mặc đồ trắng và đến từ Bạch Đà Sơn Trang. Chữ PHONG 鋒 có nghĩa là bén nhọn, nên bên trái có bộ KIM 金.
3. Nam Đế Đoàn Hoàng Gia 南帝段皇爺 : Nam phương Bính Đinh thuộc Hỏa, ứng với màu đỏ của lửa, nên khi xuất gia, Ngài lấy hiệu là NHẤT ĐĂNG 一燈. ĐĂNG là đèn nên bên trái chữ ĐĂNG 燈 có bộ HỎA 火 là lửa. Kinh Pháp Hoa có câu : "Dĩ nhất đăng truyền chư đăng, chung chí vạn đăng giai minh 以一燈傳諸燈,终至萬燈皆明。Có nghĩa : Lấy lửa của một cây đèn truyền cho những cây đèn khác, rốt cuộc muôn cây đèn đều được sáng sủa cả.
4. Bắc Cái Hồng Thất Công 北丐洪七公 : Bắc phương Nhâm Qúy thuộc Thuỷ, ứng với màu đen của nước. HỒNG 洪 là nước lụt mênh mông, bên trái chữ HỒNG 洪 có ba chấm Thủy 氵là Nước. Ông lại là Chúa Ăn Mày nên ăn mặc lam lũ đen đúa hợp với màu đen.
5. Trung Thần Thông Vương Trùng Dương 中神通王重陽 : Trung Ương Mậu Kỷ thuộc Thổ, ứng với màu vàng. Vương Trùng Dương là nhân vật lịch sử có thật, tên thật của ông là Vương Triết 王喆, sống ở trong Hoạt Tử Nhân Mộ 活死人墓, có nghĩa là người còn sống sống trong mộ như người đã chết. Các đạo sĩ có xu hướng mặc áo bào màu vàng và đội mão che bui tóc cũng màu vàng, gọi là Hoàng Quan 黄冠.
Một số tên tuổi danh hiệu được Kim Dung đặt theo hoàn cảnh sống chung quanh như thầy trò của phái Võ Đang chẳng hạn : Trương Tam Phong và Thất hiệp là Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc.
Võ Đang 武當 còn có tên là THÁI HÒA SƠN 太和山, nằm ở tây nam bộ của tỉnh Hà Bắc. Trong đời nhà Minh (1368~1644) được nhà vua sắc phong là "Đại Nhạc 大岳", rồi "Huyền Nhạc 玄岳" đứng trên cả "Ngũ Nhạc 五岳". Cao nhất có Thiên Trụ Phong 天柱峰 (1612m); Chung quanh bao bọc bởi "Thất Thập Nhị Phong 七十二峰", "Tam Thập Lục Nham 三十六岩" và "Nhị Thập Tứ Giản 二十四涧" nhiều thắng cảnh bao bọc chung quanh, phong quang đẹp đẽ, khí thế hùng tráng, được người đời xưng tụng là "Vạn Sơn Lai Triều 萬山来朝". Có nghĩa : Muôn núi đều chầu về đây. Bây giờ thì ta điểm lại tên hiệu của các thầy trò phái Võ Đang xem sao :
- Trương Tam Phong 張三丰 : PHONG 丰 là Sắc cỏ tươi tốt, đồng âm với PHONG 峰 là ngọn núi. TAM PHONG là Ba ngọn núi cao nhất trong "Thất Thập nhị Phong".
- Tống Viễn Kiều 宋遠橋 : Viễn Kiều là Những chiếc cầu xa xa chung quanh các rặng núi.
- Du Liên Châu 俞蓮舟 : Liên Châu là thuyền hái sen của các ao sen trên núi.
- Du Đại Nham 俞岱巖 : Đại Nham là những tảng đá lớn như núi Thái Sơn; mà trên rặng núi Võ Đang có đến "Tam Thập Lục Nham".
- Trương Tùng Khê 張松溪 : Tùng là cây Thông, Khê là Khe suối. Tùng Khê là có thông có suối, có rừng thông bên bờ các con suối.
- Trương Thúy Sơn 張翠山 : Thuý là xanh om, Sơn là núi. Thúy Sơn là những rặng núi xanh om cây cỏ.