top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg

 

KHÁNH HOÀNG

Plano, Texas ___________________

Thân mời gia đình, các anh chị, các bạn nghe bài viết qua giọng đọc Thanh Long (Hà Nội).
KH

https://tapchinghiencuuphathoc.vn/so-quat-ve-chu-so-theo-duy-thuc-hoc.h

 

Sơ quát về chữ “Sợ” theo Duy thức học

             

Nếu muốn "Hết Sợ" thì cần buông bỏ rốt ráo Bản Ngã nơi Mạt Na thức qua xuyên phá vượt qua được Mạt Na thức và qua buông bỏ tất cả những mầm giống chủng tử Nghiệp Thức của Bản Ngã nơi A Lại Da thức.

“Sợ” là một trong những biểu hiện phổ quát và thường trực nhất trong tâm thức của tất cả con người và mọi chúng sinh trong cuộc sống thường ngày, bất kể tuổi tác, giới tính, mạnh yếu, giàu nghèo, sang hèn… “Sợ” cũng thường là phản ứng tiêu cực về tâm lý và cả về sinh lý, là cảm ứng nơi thân tâm, là phản xạ tự nhiên của con người bình thường khi gặp phải các mối hiểm nguy, không tốt lành, đe dọa đến sự an ổn, bình yên, vận hành bình thường trong đời sống...

Có rất nhiều nỗi sợ thường xuyên có mặt trong tâm thức cùng biểu hiện ra ngoài, nơi thân thể của con người khiến nhiều lúc biểu hiện ra mặt mũi tái xanh, chân tay cứng ngắc, tim đập loạn xạ, thở không ra hơi... Các nỗi sợ xuất hiện khi ta phải chịu đựng, cảm thọ các tai ách, tai nạn, hoàn cảnh hoạn nạn, có hại cho sinh mạng, sức khỏe, bệnh tật, tài sản… đến bản thân, gia đình, họ hàng, xóm làng, những người thân yêu, những bậc tôn kính…

“Sợ”, xuất hiện ngay từ khi chào đời và liên tục duy trì kéo dài mãi cho đến lúc ta xuôi tay, nhắm mắt.

Xét về nguyên nhân, các mối hiểm nguy có thể xảy đến từ hai căn nguồn chính yếu. Căn nguồn chính yếu thứ nhất là từ thiên nhiên: như các thiên tai về lửa (núi lửa, cháy rừng, các ách nạn về hỏa tai …), về nước (như lũ lụt, sóng thần, nước ngập, nước xoáy, các ách nạn về thủy tai…), về gió (như giông bão, lốc xoáy, các ách nạn về phong tai…), về đất (động đất, đất sụp, đất lở, đất chuồi, các ách nạn về địa tai…), về thú dữ (như hùm, beo, rắn, rết…), về dịch bệnh (như các bệnh do thời tiết khí hậu, do vi khuẩn hoặc do siêu vi khuẩn độc hại...), về các “tai trời, ách nước” (như hạn hán, lụt lội khiến gây ra mất mùa, đói kém, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực...). Ngày nay, nhờ vào khoa học phát triển, các mối hiểm nguy từ thiên nhiên này ngày càng được hiểu biết sâu rộng nên dần được kiểm soát và giảm thiểu.

Căn nguồn chính yếu thứ hai là từ con người, bao gồm các tai ách về chiến tranh, giết chóc, cướp phá, trộm cắp, tranh chấp, ẩu đã, mắng chửi... Do nghiệp thức sâu dày khiến tham vọng, sân hận, si mê, chấp nê… của con người ngày càng lớn thêm. Khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng, cùng với đà dân số gia tăng trên trái đất mà chưa có sự dắt dẫn đúng hướng, đúng mức từ các căn bản đạo đức tâm linh; cộng hưởng sự thiếu hiểu biết và cảm thông với nhau giữa các con người, các quốc gia, các dân tộc, các tôn giáo, các chính kiến... nguyên nhân của nỗi sợ ngày nay phần lớn đã khởi nguyên từ căn nguồn thứ hai này.

Xét về dạng loại, tính chất, sắc thái của nỗi sợ, chúng ta có thể phân định ra rất nhiều hoặc có thể nói là có vô lượng dạng loại của nỗi sợ gắn liền theo mức độ, khả năng tác hại vào thân, tâm; tùy thuộc hoàn cảnh và môi trường sống của người chịu đựng nỗi sợ. Có các nỗi sợ gắn liền với không gian (như sợ khoảng trống, sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ độ cao, sợ vực sâu...); có các nỗi sợ liên hệ đến thời gian (như sợ nhớ về quá khứ, sợ nghĩ đến tương lai, sợ buộc ràng với hiện tại...); có các nỗi sợ liên quan đến con người (người hung dữ, người độc ác, người sâu hiểm...);  đến các sinh vật (thú dữ, sâu bọ , vi trùng, siêu vi trùng… gây ra những mối hiểm nguy, có hại);  hay sợ các vật thể dễ gây tổn thương (vũ khí, đao kiếm, súng đạn, chất nổ...) và cả đến các nỗi niềm ngay trong tâm thức của mỗi người (nỗi muộn phiền, niềm cô đơn, nóng giận, bực bội...). Ngoài ra còn có vô số nỗi sợ khác từ nơi các vọng tưởng đảo điên, huyễn hóa, không có thật.

Mức độ tác hại của nỗi sợ tùy theo hai yếu tố: một là tùy vào nơi cảnh sắc, hoàn cảnh... có hàm chứa những hiểm nguy; hai là tùy vào căn cơ, tâm thức chấp ngã (bám chấp vào cái ta, thân ta, tâm ta) và chấp ngã sở hữu (bám chấp vào những cái của ta, những cái tự cho rằng thuộc về ta như tài sản, danh vọng, gia đình, bạn bè,…) theo các mức độ nhiều-ít, mạnh-yếu, sâu-cạn… Nhìn chung, quy luật tất yếu ở đây là nếu năng lực chấp ngã và ngã sở hữu càng mạnh, càng lớn, càng nhiều thì sự sợ càng khủng khiếp, càng thường trực ở mọi lúc, mọi nơi.

Do vậy, không phải nổi sợ chỉ có ở người nghèo hèn, người không có thế lực, người thân cô thế cô; mà người giàu, người quyền cao chức trọng, có nhiều quyền hành, lắm thế lực cũng thường khi sợ triền miên, sợ trầm trọng, sợ khốc liệt, sợ dữ dội... Vậy, có thể xem “Sợ” là mẫu số chung, là biểu hiện tuyệt vời về tính “Bình Đẳng” nơi tất cả mọi người và cả cho muôn loài chúng sinh. Tác hại nghiêm trọng thường thấy là các nỗi sợ về sự sống còn, sinh tồn, mạng căn của bản thân, gia đình, gia tộc, bạn bè, làng xóm, xã hội, quốc gia... Tác hại bớt nghiêm trọng hơn là các nỗi sợ về bệnh tật, thương tổn, suy giảm về thân tâm, gia đình, thân nhân... Tác hại nhẹ hơn là các nỗi sợ về tiêu hao, mất mát, thiếu hụt về tài sản sở hữu (tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, phương tiện mưu sinh …) và về danh vọng, uy tín, thể diện, thế lực…

Nhưng dù mức độ nặng nhẹ ra sao, chung quy đều là “Sợ”. Sợ khắp nơi, sợ mọi lúc, sợ ngoài, sợ trong, sợ gần, sợ xa, sợ thân, sợ sơ… Trong tiếng Việt, từ “Sợ” cũng được mở rộng theo mức độ cảm nhận có phân biệt tổng quát ra hai nỗi sợ chính là “sợ hãi” và “sợ sệt”, tùy theo sự tương quan đến mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít, nặng hay nhẹ của các nỗi sợ vừa nêu trên tác động vào tâm thức của người chịu đựng nỗi sợ: Sợ hãi - là sợ đến mức kinh hãi, tâm thức bị tán loạn đến mức không còn có ý thức, lý trí phân biệt nên không còn có thể biết cân nhắc, tính toán đúng sai, hay dở, thiệt hơn, nặng nhẹ, thân sơ, tốt xấu.... Sợ sệt, là sợ nhưng còn có khả năng phân biệt, còn có đủ sức để biết e dè, biết chần chừ, biết do dự, đắn đo... vì còn có đủ ý thức, lý trí để nhận định đúng sai, hay dở... Từ nơi hai nỗi sợ (sợ hãi, sợ sệt) chính yếu này, còn có thể kể ra nhiều nỗi sợ trung gian khác như kinh sợ, hoảng sợ, khiếp sợ, ghê sợ, e sợ, kính sợ, nể sợ…

Theo Duy Thức Học, vô lượng các nỗi sợ nêu trên đều cảm nhận là được xuất phát ra từ nơi Bản Ngã (cái Tôi, cái Ta) của tất cả dạng loại chúng sinh trong tam giới  (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới).  Bản Ngã này lại có khởi nguồn từ Mạt Na thức và được trưởng dưỡng, phát triển vững mạnh, kiên cố thêm nơi Tiền Lục Thức (Sáu Thức Trước); nhất là ở  Ý Thức.

Mạt Na thức  là Thức Năng Biến thứ hai (sau A Lại Da thức), cũng là thức thứ bảy của "Bát Thức Tâm Vương". Mạt Na thức cũng là chuyển thức đầu tiên của 7 chuyển thức. Bảy chuyển thức này, còn có tên gọi là Tiền Thất Thức (“Bảy Thức Trước”), bao gồm: 1. Mạt Na thức, 2. Ý Thức, 3. Nhãn Thức, 4. Nhĩ Thức, 5. Tỷ Thức, 6. Thiệt Thức, 7. Thân thức. 

Sáu Chuyển Thức sau chính là Tiền Lục Thức, cũng gọi là Thức Năng Biến thứ ba (sau A Lại Da thức và Mạt Na thức). Năm Chuyển Thức sau còn được gọi chung là Tiền Ngũ Thức (Năm Thức Trước). Mạt Na Thức còn có tên gọi là “Ý Căn” do nó được xem là căn nguồn, đầu mối chính yếu trong sự khởi sinh ra Ý Thức. Do không có khởi nguồn trực tiếp từ A Lại Da thức mà chỉ có khởi nguồn từ các phản ứng tâm thức bảo vệ và phát triển Bản Ngã hư vọng từ Mạt Na Thức và Tiền Lục Thức, "Sợ" không được xem là một loại tâm sở như 51 tâm sở của Bát Thức Tâm Vương. Vì tâm sở trong Duy Thức Học được xem là tướng trạng luôn khởi lên từ Bát Thức Tâm Vương, cùng tương ứng với Bát Thức Tâm Vương và tương quan hệ thuộc vào Bát Thức Tâm Vương (“hằng y tâm khởi, dữ tâm tương ứng, hệ thuộc ư tâm”, với chữ “tâm” ở đây chính là Bát Thức Tâm Vương).

Mạt Na Thức là Chuyển Thức trung gian giữa hai bên là A Lại Da thức (gọi là “Bổn” vì A Lại Da thức còn được gọi tên là Căn Bản thức) và Tiền Lục Thức (gọi là "Tình” vì Tiền Lục Thức chính là nơi khởi nguồn cho tất cả tình cảm của chúng sinh). Mạt Na Thức nương tựa vào A Lại Da thức rồi chấp lấy Kiến Phần của A Lại Da thức làm tự ngã (Ngã Tướng sơ khởi, Ngã Tướng nòng cốt) nên Mạt Na Thức có thể xem là có hai tính chủ yếu: (1) tính Hữu Phú Vô Ký (“Hữu Phú” - có nơi nương tựa là nương bám và thức A Lại Da), (“Vô Ký” - không phân biệt Thiện-Ác, Phải-Trái, Đúng-Sai) và (2) tính Tư Lương Chấp Ngã (Tư Lương - nguồn liệu cần thiết cho công năng tư duy, Chấp Ngã - tất cả các tư duy đều hướng về, xoáy vào trọng tâm Ngã Chấp). 

Ngã tướng không có bản chất thực sự, mà Mạt Na thức lại bám chấp vào Ngã tướng nên Cảnh của Mạt Na thức chỉ là Cảnh “Đới Chất” và thuộc về “Phi Lượng".  Nhưng điều này cũng khiến làm gia tăng số lượng tâm sở và khiến phát triển cả về phẩm chất của các tâm sở ở Mạt Na thức khi đem so sánh với A Lại Da thức: trong khi thức A Lại Da chỉ có 5 tâm sở Biến Hành (1. Xúc, 2. Tác Ý, 3. Thọ, 4. Tưởng, 5. Tư) với tính cách mênh mang, nhẹ nhàng; qua đến Mạt Na thức, số lượng tâm sở được gia tăng lên đến 18 tâm sở. Vậy nếu đem so với A Lại Da thức, Mạt Na thức đã có thêm 13 tâm sở như sau:  1 tâm sở Biệt Cảnh (Huệ), 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não (1. Tham, 2. Si, 3. Mạn, 4. Ngã Kiến) và 8 Đại Tùy Phiền Não (1. Trạo Cử, 2. Hôn Trầm, 3. Bất Tín, 4. Giải Đãi, 5. Phóng Dật, 6. Thất Niệm, 7. Tán Loạn, 8. Bất Chính Tri). 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não của Mạt Na thức, còn gọi là 4 Tư Hoặc, đều là những phiền não thâm sâu, tận cùng nơi tâm thức của chúng ta. Chúng giống như những tiếng nói thầm thì vang vọng thường trực, liên tục nơi đáy tâm thức; nhưng chúng cũng chỉ là những sản phẩm, những bóng dạng xuất sinh từ ý hướng Ngã chấp nơi Mạt Na thức mà thôi. Điều này khiến 4 tâm sở phiền não này đều có danh xưng gắn liền với “Ngã”. Như tâm sở phiền não Tham còn được gọi là “Ngã Ái”, Si còn được gọi là “Ngã Si”, Mạn còn được gọi là “Ngã Mạn”,… Điều đặc sắc là tâm sở (Căn Bản Phiền Não) “Ngã Kiến” chỉ có ở nơi Mạt Na thức mà không có nơi các thức Tâm Vương khác.

Lý do là khi qua đến Tiền Lục Thức, Ngã Kiến đã được phát triển và biến tướng ra thành Kiến Hoặc với 5 loại khác nhau được phân định là: 1. Thân Kiến, 2. Biên Kiến, 3. Kiến Thủ, 4. Giới Cấm Thủ, 5. Tà Kiến. Do đây đã khiến có ra sự gia tăng số lượng tâm sở nơi Tiền Lục Thức. Với tổng số 18 tâm sở trong đó có đến 12 tâm sở (2/3 tổng số) đều thuộc về tâm sở phiền não; Mạt Na thức, căn nguồn chấp Ngã, đích thực cũng chính là căn nguồn của tất cả khổ đau, sợ hãi, sợ sệt thường trực và trọng yếu của mọi con người và mọi sinh vật. Như được đúc kết cô đọng, tinh gọn trong hai bài kệ đầu tiên nói về Mạt Na thức của Bát Thức Quy Củ Tụng  (Tác giả:  Tam Tạng Pháp Sư  Đường Huyền Trang (602-664)):

Bài 1: “Đới chất, hữu phú, thông tình bổn

            Tùy duyên chấp ngã lượng vi phi                                          

            Bát Đại, Biến Hành, Biệt Cảnh Tuệ

            Tham Si Ngã Kiến Mạn tương tùy”

Tạm dịch:

“Mang bản chất, nương tựa vào A Lại Da, thông suốt hai bên Tình và Bổn

Tùy duyên chấp Ngã với phi lượng

Có 8 Đại Tùy Phiền Não, 5 Biến Hành, và 1 Biệt Cảnh Tuệ

Tương hệ và tùy thuộc với 4 Căn Bản Phiền Não là Tham, Si, Ngã Kiến, Mạn”

Bài 2:  “Hằng thẩm tư lương ngã tướng tùy

             Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê

             Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi

             Lục chuyển hô vi nhiễm tịnh y”

Tạm dịch:

“Tùy thuộc Ngã tướng luôn tư lương thẩm xét

Chúng hữu tình ngày đêm bị trấn áp, hôn mê

Bốn Căn Bản Phiền Não và tám Đại Tùy Phiền Não tương ưng sinh khởi

Gọi là làm nơi nương tựa nhiễm tịnh cho Sáu Chuyển Thức”

Qua đến Tiền Lục Thức, Bản Ngã và ý hướng chấp Ngã (xuất sinh từ Mạt Na thức) đã được phong phú hóa, phức tạp hóa và cụ thể hóa nên được thể hiện đậm nét, rõ ràng hơn. Đây là do Tiền Lục Thức có thêm hai yếu tố là Cảnh và Lượng. Hai yếu tố này luôn có ba Tính là Thiện, Ác, và Vô Ký (không Thiện, không Ác); không còn chỉ là Vô Ký như ở A Lại Da thức và Mạt Na thức nữa. Điều này cũng khiến Ngã Tướng hư vọng từ Mạt Na thức có thêm sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) nơi Tiền Lục Thức khiến có phân biệt chi tiết hơn về Năng và Sở, chủ thể và khách thể, Thức và Cảnh, Tâm và Vật, Ta và Người… mà phát triển ra Tứ Tướng là Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sinh Tướng, Thọ Giả Tướng. Sự tựu thành và phát triển ra Tứ Tướng được cảm nhận có tương quan mật thiết đến nghĩa lý thâm sâu về “Hàng Phục Tâm” nơi kinh Kim Cang và về “Chúng Sinh Trược" nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm. Điều này cũng có tương quan đến thể tính và thể tướng của Tiền Lục Thức: số lượng tâm sở được nâng lên 34 ở Tiền Ngũ Thức (tăng thêm 16 tâm sở so với Mạt Na thức) và lên đến mức tối đa là 51 tâm sở ở Ý Thức (tăng thêm 33 tâm sở so với Mạt Na thức, khiến tổng số tâm sở ở Ý Thức gần gấp 3 lần so với Mạt Na thức).

Tiền Ngũ Thức chỉ có Tính Cảnh:  nghĩa là dù Cảnh như thế nào (cảnh Thiện,  Ác, hay Vô Ký)  thì 5 giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân) chỉ tiếp thu, ghi nhận như thế ấy, đầy đủ 3 Tính, một cách khách quan, thụ động, không thêm, không bớt… Do vậy, chất lượng nhận thức của Tiền Ngũ Thức được gọi là “Hiện Lượng”, chất lượng của Tính Cảnh. Trong tu tập Thiền Định, Tiền Ngũ Thức chỉ có đầy đủ hoạt động, dụng năng của 5 giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân) ở Dục Giới, nhưng khi lên đến Nhị Địa của Sắc Giới (Định Sanh Hỷ Lạc Địa), Tiền Ngũ Thức chỉ còn dụng năng ở 3 giác quan là Mắt, Tai và Thân (điều này minh định là mức độ Thiền Định càng cao thì dụng năng của Tiền Lục Thức bấu víu vào 6 trần cảnh càng được giảm bớt). Số lượng 16 tâm sở được tăng thêm nơi Tiền Ngũ Thức so với Mạt Na thức được kể tên và tính toán như sau: thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (1. Dục, 2. Thắng Giải, 3. Niệm, 4. Định) (tâm sở Biệt Cảnh thứ 5 là Huệ đã có sẵn ở Mạt Na thức); thêm 11 tâm sở Thiện (1. Tín, 2. Tàm, 3. Quý, 4. Vô Tham, 5. Vô Sân, 6. Vô Si, 7. Cần (Tinh Tấn), 8. An (Khinh An), 9. Bất Phóng Dật, 10. Hành Xả, 11. Bất Hại) (Mạt Na thức không có bất cứ tâm sở Thiện nào); thêm 2 Trung Tùy Phiền Não (1. Vô Tàm, 2.Vô Quý) (Mạt Na thức cũng không có bất cứ Trung Tùy Phiền Não nào); bớt đi 2 Căn Bản Phiền Não là Mạn và Ngã Kiến, nhưng lại có thêm tâm sở Sân (như thế Tiền Ngũ thức chỉ có 3 tâm sở Căn Bản Phiền Não là 1. Tham, 2. Sân, và 3. Si). Các điều trên được cô đọng qua bài kệ nói về Tiền Ngũ Thức của Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:

Tính Cảnh, Hiện Lượng, thông Tam Tính

Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị Địa cư

Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện thập nhất

Trung nhị, Đại bát, Tham Sân Si”

Tạm dịch:

“Tính Cảnh, Hiện Lượng thông với ba Tính

Đến Nhị Địa vẫn còn dùng 3 căn là mắt, tai, thân thể

Có đủ 5 Biến Hành, 5 Biệt Cảnh, 11 Thiện tâm sở

2 Trung Tùy, 8 Đại Tùy, 3 Căn Bản (Tham, Sân, Si) Phiền Não”

Tính Cảnh và Hiện Lượng của Tiền Ngũ Thức khi được đưa đến Ý Thức (Đệ Lục Thức, Thức thứ 6) đã trở nên có tính chất phong phú, phức tạp và mạnh mẽ hơn, thể hiện qua 3 Cảnh và 3 Lượng của Ý Thức. 3 Cảnh là Tính Cảnh (đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), Đới Chất Cảnh (đã nêu ở phần Mạt Na thức) và có thêm Độc Ảnh Cảnh. Độc Ảnh Cảnh là cảnh chỉ có độc nhất ở Ý Thức, đó chỉ là những bóng hình, ảnh tượng không có thật, do Ý Thức phân biệt, so đo, tính toán, tưởng tượng mông lung mà có. Số lượng 33 tâm sở được tăng thêm nơi Ý Thức so với Mạt Na thức được kể tên như sau: thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 11 tâm sở Thiện (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 1 Căn Bản Phiền Não là Nghi (như thế Ý thức có đủ 5 Căn Bản Phiền Nảo là 1. Tham, 2. Sân, 3. Si, 4. Mạn và 5. Nghi), thêm 10 Tiểu Tùy Phiền Não (1. Phẫn, 2. Hận, 3. Phú, 4. Não, 5. Tật, 6. Xan, 7. Cuống, 8. Xiểm, 9. Hại, 10. Kiêu), thêm 2 Trung Tùy Phiền Não (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 4 tâm sở Bất Định (1. Hối, 2. Miên, 3. Tầm, 4. Tư). Các điều này được đúc kết qua bài kệ nói về Đệ Lục Thức của Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:

“Tam tính, tam lượng, thông tam cảnh

Tam giới luân thời dị khả tri

Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất

Thiện ác lâm thời biệt phối chi”

Tạm dịch:

“Ba tính, ba lượng, thông ba cảnh

Ba cõi xoay vần có thể dễ biết

Tương ưng với năm mươi mốt tâm sở

Đến lúc riêng biệt có ra thiện ác chi phối”.

Đến đây Duy Thức Học lại giúp có câu trả lời cho câu hỏi: “Đến khi nào chúng ta mới bớt sợ và mới hết sợ?”. Câu trả lời tổng quát có thể được cảm nhận và đúc kết là: Do “Sợ” là một đặc thái tâm thức chấp mắc sai lầm vào Bản Ngã nơi mỗi chúng ta, là sản phẩm được xuất sinh từ Mạt Na thức, rồi được bồi đắp nơi Tiền Ngũ Thức và trưởng dưỡng, phát triển tối đa nơi Ý Thức nơi tâm thức chúng ta; nên muốn "Bớt Sợ" thì cần nhận biết rõ tướng trạng Bản Ngã rồi ra sức bào mòn bớt ý hướng chấp Ngã nơi Ý Thức và nếu muốn "Hết Sợ" thì cần buông bỏ rốt ráo Bản Ngã nơi Mạt Na thức qua xuyên phá vượt qua được Mạt Na thức và qua buông bỏ tất cả những mầm giống chủng tử Nghiệp Thức của Bản Ngã nơi A Lại Da thức.

Theo Biện Trung Biên Luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt), tướng trạng Bản Ngã nơi Mạt Na thức được cảm nhận là sẽ dần dà bị bào mòn rồi bị triệt tiêu khi chúng ta ra sức gia công tầm tứ, quán chiếu, tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm qua 5 bước, tạm kể tên và sơ lược như sau:

Bước 1: tu tập pháp quán Tứ Niệm Xứ (quán Thân, quán Thọ, quán Tâm, quán Pháp). Đó là khởi sinh và tăng cường năng lực quán chiếu vào 4 đối tượng biểu hiện về Ngã và Ngã Sở Hữu rõ ràng nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất: Thân, Thọ, Tâm, và Pháp. Có thể nói nôm na đây là bước Thuần hóa Ý Thức, không cho Ý thức hung hãn chạy rong vào 6 trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) mà khiến Ý Thức trở nên thuần hòa, quay hướng về với nội tâm (Mạt Na thức và A Lại Da thức).

Bước 2: tu tập Tứ Chánh Cần, 4 pháp chánh trực, nỗ lực phòng hộ và phát triển tâm thức nhằm giảm diệt Ác pháp và nhằm tăng trưởng Thiện pháp cho Ý Thức, bao gồm: 1. Ngăn cản điều Ác không cho phát sinh, 2. Dứt trừ điều Ác đã phát sinh, 3. Sinh khởi điều Thiện chưa phát sinh, 4.Phát triển điều Thiện đã phát sinh. Có thể nói nôm na đây là bước Thiện hóa Ý Thức.

Bước 3: tu tập Tứ Như Ý Túc (1. Dục Như Ý Túc, 2. Cần Như Ý Túc, 3. Tâm Như Ý Túc và 4. Quán Như Ý Túc) nhằm đưa Ý Thức (đã được thuần thiện) quay ngược trở vào Mạt Na thức, không còn ham thích hướng chạy theo trần cảnh bên ngoài nữa (chữ "Ý" của "Như Ý" chính là Ý Căn Mạt Na thức, là Mạt Na thức, là căn nguồn của Ý Thức). Do công phu tu tập Tứ Như Ý Túc, hành giả hoàn tất được Thuận Giải Thoát phần của Tư Lương Vị, giai vị đầu tiên trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh. Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn sơ khởi (Sơ Tịnh hóa Ý Thức).

Bước 4: tu tập Ngũ Căn (1. Tín Căn, 2. Tấn Căn, 3. Niệm Căn, 4. Định Căn, 5. Huệ Căn): là khởi phát và hình thành đầy đủ 5 căn cứ địa vững chắc cho sự nghiệp tiến tu giải thoát, bao gồm: 1. Tín, là tăng thượng về Dục Như Ý Túc, 2. Tấn, là tăng thượng về gia hành, Tấn Như Ý Túc, 3. Niệm, là tăng thượng về Chánh Niệm, 4. Định, là tăng thượng về Chánh Định, 5. Tuệ, là tăng thượng về tư trạch, quán chiếu. Sự thành công trong tu tập Ngũ Căn sẽ giúp hành giả đạt đến được Noãn Vị và Đảnh Vị, 2 quả vị đầu tiên của Tứ Gia Hạnh Vị. Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn trung gian (Trung Tịnh hóa Ý Thức).

Bước 5: tu tập Ngũ Lực (1. Tín Lực, 2. Tấn Lực, 3. Niệm Lực, 4. Định Lực, 5. Huệ Lực) là phát triển, tăng cường sức lực tiến tu giải thoát nơi 5 Căn, nên khiến sự nghiệp tu tập nơi 5 Căn có thêm hiệu quả tốt đẹp mà đạt được 2 quả vị sau của Tứ Gia Hạnh Vị là Nhẫn Vị và Thế Đệ Nhất Vị. Đến đây, Bồ Tát không còn bị thoái đọa trong tu tập vì đã nhận rõ các pháp thế gian chỉ toàn là hữu lậu, duy tâm nên Bồ Tát đắc được Định Vô Gián, được trí vô lậu mà thể nhập vào giai vị Kiến Đạo.  Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn sau cùng (Cực Tịnh hóa Ý Thức). Bước 4 và bước 5 ở đây tương ưng với Gia Hạnh Vị, giai vị thứ hai trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh.

 

Kiến Đạo được gọi đầy đủ là “Kiến Đạo Sở Đoạn Hoặc”, cũng được gọi là “Kiến Nhất Xứ Trụ Địa Phiền Não”, “Kiến Chướng”, “Kiến Phiền Não”, Kiến Chí, Kiến Đắc… Giai vị Kiến Đạo được xem là đã bắt đầu Thánh vị, vì đã là quả vị Tu Đà Hoàn bên Thanh Văn thừa hoặc là quả vị Bồ Tát Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa) của Thập Địa Bồ Tát bên Bồ Tát thừa. Đến giai vị này, Bồ Tát thấy rõ ra con đường cần dụng công tiếp theo qua tu tập Thất Giác Chi (7 nhánh của Giác thể), bao gồm: 1. Niệm Giác Chi, 2. Trạch Giác Chi, 3. Tinh Tấn Giác Chi, 4. Hỷ Giác Chi, 5. Khinh An Giác Chi, 6. Định Giác Chi, 7. Xả Giác Chi), là đã thấy rõ được 88 loại phiền não (bát thập bát Sử), những phiền não căn bản mà bậc Kiến Đạo cần và sẽ dụng công dứt trừ hoàn toàn trong giai đoạn Tu Đạo, giai đoạn tu tập tiếp theo sau khi Kiến Đạo. Đây thường được gọi là “Kiến đạo khởi tu”. Do vì đã thấy rõ ra các phiền não cần được dụng công đoạn trừ, giai vị Kiến Đạo cũng được cảm nhận là giai vị đã nhận biết rõ tướng trạng huyễn vọng của Bản Ngã nơi Mạt Na thức, căn nguồn của mọi nỗi sợ hãi, rồi ra sức khiến Ý Thức (đã được thuần hóa, thiện hóa, và tịnh hóa) bớt đi vọng chấp, bớt đi sức bám víu vào Bản Ngã, nên khiến mọi nỗi sợ bắt đầu được vơi giảm. Giai đoạn tu tập của Kiến Đạo được xem tương ưng với Thông Đạt Vị, giai vị thứ ba trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh. 

Tuy nhiên, từ giai đoạn Kiến Đạo, các Ngài còn cần phải trải qua và hoàn tất giai đoạn Tu Đạo, Bản Ngã mới thật được đoạn trừ hoàn toàn. Giai đoạn Tu Đạo này tương ưng với 3 quả vị là Tư Đa Hàm, A Na Hàm và A La Hán (bên Thanh Văn thừa) hoặc tương ưng với 7 địa vị Bồ Tát Đăng Địa, từ Đệ Nhị Địa đến Đệ Bát Địa với tên gọi lần lượt là Ly Cấu (Đệ Nhị) Địa, Phát Quang (Đệ Tam) Địa, Diệm Huệ (Đệ Tứ) Địa, Nan Thắng (Đệ Ngũ) Địa, Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa, Viễn Hành (Đệ Thất) Địa,Bất Động (Đệ Bát) Địa (bên Bồ Tát thừa).

Trong giai đoạn Tu Đạo, Bồ Tát với trí huệ Bát Nhã đã tu tập tiếp thêm về Bát Chính Đạo (1. Chính Kiến, 2. Chính Tư Duy, 3. Chính Ngữ, 4. Chính Nghiệp, 5. Chính Mạng, 6. Chính Tinh Tấn, 7. Chính Niệm, 8. Chính Định), tức là các Ngài hoàn tất tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm. Ngoài ra các Ngài cũng tu tập thực hành sâu xa Lục Độ Ba La Mật (1. Bố Thí, 2. Trì Giới, 3. Nhẫn nhục, 4. Tinh Tấn, 5. Thiền Định, 6. Trí Tuệ, bên Bồ Tát thừa) hoặc Thập Độ Ba La Mật (bên Thanh Văn thừa, bao gồm: 1. Bố Thí, 2. Trì Giới, 3. Xuất Gia, 4. Trí Tuệ, 5. Tinh Tấn, 6. Nhẫn, 7. Chân Thật, 8. Quyết Định, 9. Bác Ái,  10. Xả).

Kết quả tu tập ở giai đoạn Tu Đạo là các Ngài chứng đắc được giai vị A La Hán (Thanh Văn thừa), tương ưng với Bất Động (Đệ Bát) Địa bên Bồ Tát thừa và được xem là đã Kiến Tính với ý nghĩa thường được nhắc đến: “Kiến tính thành Phật”. Giai đoạn tu tập của Tu Đạo được xem tương ưng với Tu Tập Vị, giai vị thứ tư trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh. Ở giai vị này, các Ngài đã xả bỏ sạch hết các chủng tử tập khí, nghiệp thức nơi kho tàng A Lại Da thức, thành tựu viên mãn Vô Sinh Pháp Nhẫn (cảnh giới Niết Bàn của Đạo Đế trong Lý Tứ Đế  bên Thanh Văn thừa), đã đắc Sinh Không, vượt qua luân hồi sanh tử trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) và cũng đã thắng vượt Ngã Chấp nên các nỗi "Sợ" đã không còn hiện hữu nữa nơi các Ngài. Do vắng bóng, không còn có "Sợ" nên tâm các Ngài luôn được tự tại vì thường hằng có 2 Tự Tại Sở Y Chỉ là Vô Phân Biệt Tự Tại và Tịnh Độ Tự Tại như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã nêu rõ: “…Bồ Tát y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn”. Có thể tạm dịch thoát đoạn kinh văn này như sau: “Bồ Tát (đã Kiến Đạo) tu tập trí tuệ Bát Nhã Vượt Đến Bờ Kia, tâm sẽ không còn bị trở ngại vọng chướng. Do không còn bị vướng mắc bởi những trở ngại này, Bồ Tát (nay Kiến Tính) không còn có các nỗi sợ hãi, xa rời các mộng tưởng điên đảo, thể nhập vào Niết Bàn tối hậu”.

Trong nhà Thiền có câu chuyện kể: “Đời Trinh Quán nhà Đường, Tứ Tổ Đạo Tín xa xem khí tượng núi Ngưu Đầu, chùa U Thê, biết có dị nhân ở đó, bèn tìm đến. Thấy ngài Pháp Dung đang ngồi cứng đờ, chừng như chưa bao giờ ngoái cổ lại.

Tổ hỏi: “Ông làm gì ở đây?”

Sư đáp: “Quán tâm”

Tổ: “Quán là người nào? Tâm là vật gì?”

Sư không đáp, đứng dậy, đảnh lễ hỏi: “Chẳng hay tôn xá của Đại Đức ở đâu”?

Tổ: “Bần đạo chẳng đình trụ nơi đâu, Đông cũng vậy, mà Tây cũng vậy”.

Sư: “Đại Đức có biết thiền sư Đạo Tín không”?

Tổ: “Hỏi ông ta làm gì”?

Sư: “Vì ngưỡng mộ cao đức đã lâu, những mong được chiêm bái”.

Tổ: “Đạo Tín là bần đạo đây”.

Sư : “Nhân sao lên đây”?

Tổ: “Cốt thăm ông. Có chỗ nào an nghỉ không?

Sư chỉ về phía sau, nói: “Có cái cốc riêng”. Bèn đưa Tổ đến am ấy. Nhìn quanh am, thấy lẩn quất dấu vết loài hổ lang, Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi.

Sư hỏi : “Còn có cái đó sao”?

Tổ: “Có thấy gì nữa không”? Sư không đáp.

Hồi sau, Tổ bèn viết lên tảng đá Sư ngồi tịnh hàng ngày một chữ "Phật"; Sư nhìn thấy, lộ vẻ khó chịu.

Tổ hỏi: “Còn có cái đó sao?”.

Sư chưa hiểu được thâm ý của Tổ, bèn đảnh lễ, xin lắng nghe lời tâm yếu…”

Qua câu chuyện Thiền này, có thể rút ra vài điều sau:

Về câu hỏi thứ nhất: “Quán là người nào?”: Tổ đã quất thẳng vào tận chiều sâu nơi Mạt Na thức chấp Ngã của Sư.

Về câu hỏi thứ hai: “Tâm là vật gì?”: lại có thêm nhát búa bổ vào nơi Ý Thức chấp pháp. Hai câu hỏi này thật không dễ có thể trả lời suôn sẻ, nên Sư im lặng, không đáp.

Rồi Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi dấu vết loài hổ lang: như một điệu bộ nhẹ nhàng như mây bay, giản đơn, quen thuộc mà mọi người ai cũng dễ hiểu để khích dẫn lời phát biểu từ nơi người xem, khiến Sư không thể không buông ra câu hỏi: “Còn có cái đó sao”?

Để nhổ đinh, tháo chốt cho câu hỏi này, Tổ đã viết chữ Phật lên trên tảng đá Sư hàng ngày ngồi tịnh tọa. Rồi ngay khi thấy Sư lộ vẻ khó chịu, Tổ đã ban xuống nhát búa sau cùng: “Còn có cái đó sao?”.  Nhát búa này ban đầu đã đi từ Sư đến Tổ, nay Tổ đã khéo léo, phương tiện thiện xảo xoay ngược đi trở lại Sư .

Sư và Tổ cùng nói về “Cái Đó”. “Cái Đó” này được biểu hiện qua động thái dang hai tay như tuồng tỏ vẻ sợ hãi của Tổ và thái độ khó chịu, ngần ngừ... của Sư. Cũng nơi “Cái Đó”, qua suốt chiều sâu trong tâm thức lại làm bật sáng lên ý nghĩa giải đáp cho cho hai câu hỏi của Tổ lúc sơ kiến cùng Sư: “Quán là người nào? Tâm là vật gì?” và cả cho câu hỏi sau cùng của Tổ: “Còn thấy cái gì nữa không?” vậy.

 

Khánh Hoàng

Plano _ February 15, 2025

_______________

Khái quát một số nét về chữ “Tâm” trong đạo Phật

Kinh Duy Ma Cật phân biệt về các tâm với tên gọi khác nhau có được trên tiến trình tu tập, dựng xây cõi Tịnh Độ, kể tên sơ lược một số tên gọi: thứ nhất là Trực Tâm = tâm không cong vạy, thẳng hướng về bản thể Chơn Như, thứ hai là Thâm Tâm = tâm tinh tấn đi sâu vào Chơn Như, thứ ba là Bồ Đề Tâm = tâm thể phát sáng, cảm nhận được chất liệu trí tuệ - an lạc nơi Chơn Như, thứ tư là Hồi Hướng Tâm = tâm dụng từ Chơn Tâm hướng đến lợi ích cho chúng sanh…để dần dà có Thanh Tịnh Tâm rồi có cõi Tịnh Độ (Phật quốc). Ở đây, kinh Duy Ma Cật xác minh tu tâm không dừng lại ở phương tiện phá dẹp, buông bỏ phiền não nơi các Thức vì đây chỉ giống như hớt bọt trên mặt biển nổi sóng mà không biết đến nguyên nhân sâu xa khiến phát sinh bọt biển chính là do nước biển yên lành đã bị chao động theo những cơn gió từ các duyên trần cảnh từ bên ngoài. Kinh đã nhấn mạnh đến nơi cứu cánh, nổ lực hướng thẳng đến Chơn Tâm bản tánh, tinh tấn cho đến khi thành Phật.

       “Tâm”  là một trong những  từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống thường nhật (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình… với biết bao nổi niềm vui buồn, thương ghét…) cũng như cũng rất  phổ thông, phổ dụng  trong đạo Phật . Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm.  Nhưng “Tâm là gì? Tâm ở đâu? Tu tâm là tu như thế nào?...lại là các điều cần được nắm vững.  Ngoài ra lại có khá nhiều từ ngữ có liên hệ rất mật thiết với chữ “Tâm” như các chữ Tánh, Thức, Ý, Ý Thức, Tình Cảm, Xúc Cảm, Tư Duy, Lo Nghĩ,  … Điều này khiến người học Phật khó tránh khỏi những hoang mang, mờ  mịt, ngờ vực  vì khó có thể phân định chuẩn xác được các phạm trù  về ý nghĩa của chữ “Tâm” trong đạo Phật.

Thông thường, có thể phân biệt tổng quát có hai thứ tâm: (1) “Tâm Vật Thể”  là trái tim thịt thuộc về bộ máy tuần hoàn trong cơ thể,  được gọi là “Nhục Đoàn Tâm” trong đạo Phật, và (2) “Tâm Tính Năng” là những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt, lo nghĩ.. có nơi  tâm thức.  Đạo Phật không  đề  cập nhiều đến Tâm Vật Thể , mà  đặt trọng tâm vào Tâm Tính Năng” với các phần đi từ cạn cợt, vọng huyễn, phiền não như những tình cảm, xúc cảm, tư duy, phân biệt, lo nghĩ..dễ thấy biết  đến các phần sâu xa vi tế , chân thật, trong sáng, thanh tịnh khó  thấy biết (mà  phần sâu xa vi tế  nhất chính  là Phật Tánh, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm, Tri Kiến Phật, Như Lai Tàng Bản Thể..) nơi Tâm Tính Năng này.

Hầu như toàn bộ kinh điển  đạo Phật (3 Thừa, 12 Bộ Kinh)  đều nhằm  nói  về  tâm. Ở  đây chỉ trích một vài đoạn kinh tiêu biểu trực tiếp nói về Tâm trong các kinh thường được biết đến nhiều nhất.

Kinh Pháp Cú (phẩm Song Yếu) xác quyết vai trò chủ yếu của Tâm trong việc tạo tác ra tội - phước : “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe”, và “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịmh tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến, như bóng theo hình “ .

Kinh Hoa Nghiêm khai thị về cội nguồn Tâm của ba đời mười phương chư  Phật:   “ Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thế thập phương Phật, Ưng quán pháp giới tánh, Nhứt thiết Duy Tâm tạo” ( Tạm dịch "Như ai muốn rõ biết, Ba đời mười phương Phật, Nên quán tánh pháp giới, Tất cả Duy Tâm tạo”).

Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật khai thị nơi Tâm của chúng sanh đều có sẵn đầy đủ Pháp Giới thân của chư Như Lai: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên, khi tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tướng phụ của Phật. Tâm tưởng niệm Phật, tâm quán tưởng Phật thì tâm ấy chính là Phật”.

 

Kinh Tâm Địa Quán cũng xác quyết vai trò căn nguồn, cội gốc chủ yếu của Tâm Tính Năng này trong tu hành giải thoát:

“Tam giới chi trung        (Tạm dịch:             Ở trong ba cõi

Dĩ tâm vi chủ                                                   Lấy tâm làm chủ

Năng quán tâm giả                                         Người hay  quán tâm

Cứu cánh giải thoát                                        Rốt được giải thoát

Bất năng quán giả                                            Người không quán tâm

Cứu cánh trầm luân                                        Rốt rồi trầm luân

Chúng sinh chi tâm                                        Tâm nơi chúng sinh

Du như đại địa                                                 Ví như ruộng đất

Ngũ cốc ngũ quả                                             Các loài thực vật

Tùng đại địa sanh                                           Theo đất mà sanh

Như thị tâm pháp                                            Tâm pháp cũng thế

Sanh thế xuất thế                                            Sanh ra thế gian

Ngũ thú thiện ác                                              Năm đường thiện ác

Hữu Học Vô Học                                              Thanh Văn La Hán

Độc Giác Bồ Tát                                                Độc Giác Bồ Tát

Cập ư Như Lai                                                  Cả đến Như Lai

Dĩ thị nhân duyên                                           Bởi nhân duyên này

Tam giới duy tâm                                           Ba cõi chỉ (là) Tâm

Tâm danh vi địa..                                            Tên tâm gọi (là) đất…)

Duy Thức Học dựa trên Pháp Tướng đã phân định rõ vũ trụ vạn hữu được bao gồm trong 100 pháp (Đại Thừa Bách Pháp). 100 pháp này đều có liên hệ mật thiết ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp  đến chữ “Tâm. 100 pháp được phối hợp và liệt kê , chỉ kể tên ra theo 5 loại là:

1.    Tâm Pháp (Pháp Tối Thắng) , chính là “Bát Thức Tâm Vương”, có  thể  gọi nôm na là “Tám Chủ Thể Thấy Biết -  Phân Biệt - Nhận Thức và Lưu Giử NghiệpThức” (“Thấy Biết” là  nói gọn của “Thấy Nghe Hiểu Biết” = “Kiến Văn Giác Tri”).   

“Bát Thức Tâm Vương’ gồm có:

Nhãn thức (Thấy Biết, Phân Biệt Sắc Trần nơi Mắt)

Nhĩ thức (Thấy Biết, Phân Biệt Thanh Trần nơi Tai),

Tỷ thức (Thấy Biết,  Phân Biệt Hương Trần nơi Mũi),

Thiệt thức (Thấy Biết, Phân Biệt Vị Trần nơi Lưỡi),

Thân thức (Thấy Biết,  Phân Biệt Xúc Trần nơi Thân), 

Ý thức (còn gọi  là  Thức 6, = Liễu Biệt Cảnh thức = Phân Biệt Sự thức = Phân Ly thức)  (=  Thấy Biết, Phân Biệt Pháp Trần nơi Ý Thức). Sự phân biệt Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) trội bật nhất là  ở nơi Ý Thức, vì Ý Thức có công năng phân biệt mạnh mẽ nhất.  Năm thức trước (Tiền Ngũ Thức = Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân ) chỉ  có công năng chính là tiếp thu trần cảnh, còn công năng phụ là phân biệt về  Tánh Cảnh của cảnh trần (sự phân biệt này xuất phát từ Ngũ Câu Ý Thức = phần Ý Thức chuyên biệt có nơi 5 căn Nhãn Nhĩ Tỹ Thiệt Thân).

Mạt Na thức (còn gọi là Thức 7, = Ý  = Ý Căn, Căn của Ý Thức =  Tư Lương thức) = dòng tư  lương vi tế bất tận với thấy biết vướng chấp nặng về Năng - Sở, về Ngã - Ngã Sở Hữu, = Ngã – Pháp.

A Lại Da thức  (còn gọi là  Thức 8 = Tàng Thức = A Đà Na Thức = Dị Thục Thức = Tâm Sanh Diệt) =  kho chủng tử, tàng chứa tất cả thành quả của Thấy Biết , Nhận Thức thức  từ bảy Thức trước. Thành quả này được gọi là Nghiệp Thức, cấu chất của chủng tử).

Ba chữ thường được nhắc đến nhiều là  “Tâm”, “Ý”, và “Ý Thức” đến đây đã được Duy Thức Học minh định rõ: Tâm là A Lại Da thức = thức 8, Ý là Mạt Na thức = thức 7, và Ý thức = thức 6. Điều này đã được xác quyết ở Luận Đại Thừa Khởi Tín.

2.    Tâm Sở Hữu Pháp (Tâm Vương Chi Sở Hữu Pháp = Các pháp từ  Tâm Vương khởi, tương ưng  với Tâm Vương và hệ  thuộc nơi Tâm Vương), gồm  51 pháp, có thể xem là 51 sản phẩm được tạo thành từ công năng hoạt động từ 8 thức Tâm Vương nêu trên. Tâm Sở  Hữu Pháp này chính là  những tình cảm của các loài hữu tình, trong đó  nổi bật nhất chính là  những tâm sở  phiền não, thường được nhắc đến là  “Thất Tình” = Hỷ, Nộ, Ai, Cụ, Ái Ố, Dục (mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn) và Lục Dục = những tình cảm phát sinh từ lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) khi tiếp thọ với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp).  Những tình cảm này chi phối mạnh mẽ vào đời sống thường nhật, có khi còn được tôn vinh, ngợi ca (như tình yêu nam nữ) nơi Tục Đế , nhưng qua lăng kính Duy Thức Học, đây chỉ là những phiền não, và quan trọng hơn chỉ là những Tâm Sở, sản phẩm của Tâm,  không phải  là Tâm, mà nhiều người thường tưởng lầm cho  rằng chúng chính là Tâm của họ.

 51 Tâm Sở pháp này gồm có:

5 món Biến Hành (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư),

 5 món Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, Tuệ),

11 món Thiện ( Tín, Tinh Tấn, Tàm, Quí, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Bất Hại),

6 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến),

20 Tùy Phiền Não (Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siễm, Hại, Kiêu, Vô Tàm, Vô Quí, Bất Tín, Giải Đải, Phóng Dật, Hôn Trầm, Trạo Cử, Tán Lọan, Thất Niệm, Bất Chánh Tri),

và 4 món Bất Định (Hối, Miên, Tầm, Từ).

3.    Sắc Pháp (Pháp Sở Hiện Ảnh) gồm 11 món, gồm có  5 món về Căn  (Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân) và 6 món về Cảnh Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) được hình thành từ sự phối hợp của Tâm Vương và Tâm Sở.

4.    Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp (Pháp Tam Vị Sai Biệt) gồm 24 món không là Tâm Sở vì không có tương ưng với Tam Hòa Hợp (Căn- Trần- Thức) nên không có biểu hiện nơi Ý thức mà chỉ xuất hiện nơi Mạt Na thức và A Lại Da thức.  Đó là: Đắc, Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Dị Sanh Tánh, Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định,  Vô Tưởng Báo, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh, Trụ, Lão, Vô Thường, Lưu Chuyển, Định Vị, Tương Ưng, Thế Tốc, Thứ Đệ, Thời, Phương, Số, Hòa Hợp Tánh, và Bất Hòa Hợp Tánh.

5.    Vô Vi Pháp (Pháp Tứ Sở Hiển Hiện) là các pháp vô tướng, vô tác rất vi tế nên  không thuộc vào bốn loại  pháp vừa nêu trên. nhưng lúc nào cũng có hiện diện, không thiếu vắng nơi bốn pháp này.  Vô Vi pháp  gồm có 6 món  là: Hư Không, Trạch Diệt, Phi Trạch Diệt, Bất Động Diệt, Tưởng Thọ Diệt, và Chơn Như.

Qua Duy Thức Học,  có thể thấy A Lại Da thức chính là  cội nguồn chủ  yếu của  tâm thức phàm phu nơi chúng ta. Khi A Lại Da thức được tinh sạch, không còn bị  vướng chấp phiền não che phủ , nó  sẽ  trở  thành Bạch Tịnh thức (Bản thể Như Lai Tàng thanh tịnh). Đó chính là Pháp Thân Như Lai, Giác Thể vô thủy - vô chung, vô tại - vô bất tại, Đệ Nhất Nghĩa Đế, cõi Phật Vô Động, tự đầy đủ thanh lương bất biến, soi chiếu khắp pháp giới hằng nhiên tự  tại. Thông thường,  chúng ta chỉ biết  sống với  “Tâm Vật Thể” và  với các Sắc pháp, chỉ  biết nhiều và  sống thường xuyên cùng với  các phần thô phù, cạn cợt  của “Tâm Tính Năng” như  với 6 món Tâm Vương đầu tiên (Tiền Lục Thức: Nhãn Thức , Nhĩ Thức, Tỹ Thức,  Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức) cùng các món Căn Bản Phiền Não,  và  các món Tùy Phiền Não, ..Do vậy chúng ta quan tâm nhiều đến các món Sắc Pháp và các món Tâm Sở Phiền Não, quan tâm ít hơn đến các món Tâm Sở Thiện và các món Tâm Sở khác, và hầu như rất xa lạ với các pháp Vô Vi.  Điều này đưa đến sự hình thành, phát triển tự nhiên, và  tồn tại lâu dài của vô  minh phiền não, chủng tử hữu lậu, chìa khóa phát khởi nghiệp thức dẫn đưa vào sáu đường sinh tử luân lưu, bất tận trong ba cõi.

Kinh Pháp Cú (phẩm “Tâm”) có câu “Tâm phàm phu cứ xoay vần theo ngũ dục, xao động, không dễ nắm bắt. Chỉ những người nào đã điểu phục được tâm mình mới được an vui”. Do đây, tâm ý phàm phu thường được ví như khỉ, như ngựa (“Tâm viên, ý mã”).

Ngài Thần Quang (về sau là Nhị Tổ Huệ Khả) thưa với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma: ”Tâm con không an xin Thầy dạy con pháp an tâm”. Sơ Tổ nói: Hãy đem tâm của ông ra đây, ta sẽ an cho”. Thần Quang đáp  “Con tìm tâm mà chẳng thấy”. Sơ Tổ bảo  “Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi”. Từ đây, ngài Thần Quang đã  được pháp an tâm. ( = Cái tâm mà  Ngài ban đầu tưởng là  không an chỉ là những tâm sở thô phù, là phiền não, là pháp sanh diệt, chợt có chợt mất, chợt đến chợt đi  theo các duyên trần. Khi tâm ta còn phan duyên và  bị vướng mắc vào phiền não,  tâm chỉ thấy hiện ra có phiền não nên ta dễ có ý cho rằng phiền não chính là bản tâm ta. Chỉ cần lời dạy đơn giản là “hãy đem tâm ra đây”  và “Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi “ khiến ngài Thần Quang xoay lại quán chiếu  nơi bản tâm và dứt bặt tư  duy phân biệt nên thấy phiền não huyễn hóa tự nhiên biến mất, liền được trở về với tâm thanh tịnh bản nhiên tự  sẵn đầy đủ  nên gọi là  được pháp an tâm vậy).

Luận Đại Thừa Khởi Tín xác minh sự khởi phát của ba thức cơ bản của Bát Thức Tâm Vương  là  A Lại Da Thức, Mạt Na Thức, và  Ý Thức  như sau:

1.    Ban đầu tạm gọi là có bản thể Giác Tánh thanh tịnh, viên mãn (Đây chính là Bản Giác vô thủy, vô chung).

2.    Do tác động từ cảnh trần, Bản Giác bị chao động (Đây chính là Vô Minh Nghiệp Tướng, Tế 1 của Tam Tế) nên có xuất hiện A Lại Da thức  (đây là  giai đoạn khởi phát và xuất hiện Thức 8).

3.    Từ đó tiếp tục sinh ra có Năng Kiến Tướng (còn gọi là Chuyển Tướng, tức là Kiến Phần của A Lại Da thức, Tế 2 của Tam Tế)

4.    Rồi có thêm Cảnh Giới Tướng (còn gọi  là Hiện Tướng, tức là Tướng Phần của A Lại Da thức, Tế 3 của Tam Tế). Từ đây đã có sự xuất hiện của Mạt Na thức (đây là giai đoạn khởi phát và xuất hiện Thức 7) với chấp mắc về Năng - Sở,  Ngã - Pháp (Ngã Sở Hữu), Có -Không. 

(Ba tướng Vô Minh Nghiệp, Kiến Phần, và Tướng Phần này được gọi chung là Tam Tế trong Đại Thừa Khởi Tín Luận. Tế 1 minh định sự hình thành A Lại Da thức; hai tế sau:  tế 2 và  tế 3, minh định sự hình thành Mạt Na thức).

5.     Mạt Na thức xuất hiện sẽ tiếp tục phát triển ra Lục Thô bao gồm Thô 1 =Trí Tướng (có thêm phân biệt tốt-xấu, thương-ghét) , Thô 2 =Tương Tục Tướng (vọng niệm tiếp nối liền lạc theo nhau không dứt), Thô 3 = Chấp Thủ Tướng (khiến tâm trở nên chấp luyến, thủ đắc sự vật), Thô 4 = Kế Danh Tự Tướng (và khiến tâm giả đặt ra danh tự gọi tên sự vật), Thô 5 = Khởi Nghiệp Tướng (rồi tâm gây tạo nghiệp lành dữ) và Thô 6 = Nghiệp Hệ Khổ Tướng (tâm phải thọ chịu quả khổ). Hai Thô đầu của Lục Thô còn thuộc về Mạt Na thức, còn bốn Thô sau của Lục Thô chính là Tướng và Dụng của Ý Thức (khởi phát và xuất hiện Thức 6). Như thế, Tam Tế Lục Thô chính là quá trình chuyển biến từ  bản thể Như Lai Tàng thanh tịnh qua các thức A Lại Da, Mạt Na và Ý thức cấu nhiễm, cơ sở cho các tác nhân gây tạo nghiệp khổ luân hồi.

 

Vậy bản thể của tâm là Giác Tánh thanh tịnh luôn có sẵn, chỉ vì Tâm bị chao động trước cảnh trần mà khiến có Bất Giác. Bất Giác chính là sự Động Tâm, cũng chính là Vô Minh vi tế nhất, sâu xa nhất so với các Vô Minh thô phù bên ngoài (như các Tâm Sở phiền não Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến)…Các tông phái đạo Phật đều có cứu cánh nhắm đến chổ loại trừ, buông bỏ Vô Minh vi tế về sự động tâm này. Như Tịnh Độ tông với pháp môn “Niệm Phật nhất tâm bất loạn”, Mật Tông với pháp môn Tam Mật Tương Ưng, Thiền Tông với pháp môn Chỉ Quán…

Mỗi động thái của Bản Giác đưa đến sinh khởi của một tướng trạng tâm. Có nhiều tướng trạng khác nhau nên tên gọi (danh xưng) của các tướng trạng này cũng khác nhau. Từ chổ Tâm bị động, vọng niệm được phát khởi, mỗi vọng niệm phát khởi lại là một dạng tâm sở, mỗi tâm sở lại có thể tương ưng với một dạng loại phiền não, nên thực tế không phải chỉ có 51 tâm sở như Duy Thức Học đã tổng quát hóa, tóm gọn lại, mà có vô lượng tâm sở, vô lượng phiền não rồi. Điều an ủi là dù có vô lượng phiền não, nhưng chúng sanh cũng có vô lượng Bồ Tát sẵn sàng cứu giúp vượt qua chúng. Vô lượng phiền não thường được tượng trưng với con số 84,000 trong đạo Phật như nếu có 84,000 phiền não thì cũng có 84,000 vị Bồ Tát hoặc có 84,000 pháp môn giải thoát…Các Bồ Tát này quí hóa thay lại có sẵn đủ , ở ngay nơi cội nguồn tâm thức của mỗi chúng sanh nên chúng sanh chỉ cần “Hồi Đầu”, thì tức khắc “Thị Ngạn” ngay. Mỗi một niệm Giác là một Bồ Tát,  từ nơi có “Hữu Tình Giác’ mà khiến có nên “Giác Hữu Tình”. Do vậy Lục Tổ đã nói “Không ngại niệm khởi chỉ e giác chậm”. Đây cũng là ý nghĩa của phẩm “Tòng Địa Dõng Xuất” trong kinh Pháp Hoa (có vô số Bồ Tát từ cõi đất của tự tâm vọt lên để hộ trì kinh, không cần đến các Bồ Tát ở các phương khác, cõi đất khác).

Kinh Duy Ma Cật phân biệt về các tâm với tên gọi khác nhau có được trên tiến trình  tu tập, dựng xây cõi Tịnh Độ, kể tên sơ lược một số tên gọi: thứ nhất là Trực Tâm = tâm không cong vạy, thẳng hướng về bản thể Chơn Như, thứ hai là Thâm Tâm =  tâm tinh tấn đi sâu vào Chơn Như, thứ ba là Bồ Đề Tâm = tâm thể phát sáng, cảm nhận được chất liệu trí tuệ - an lạc nơi Chơn Như, thứ tư là Hồi Hướng Tâm = tâm dụng từ Chơn Tâm hướng đến lợi ích cho chúng sanh…để dần dà có Thanh Tịnh Tâm rồi có cõi Tịnh Độ (Phật quốc). Ở đây, kinh Duy Ma Cật xác minh tu tâm không dừng lại ở phương tiện phá dẹp, buông bỏ phiền não nơi các Thức vì  đây chỉ giống như hớt bọt trên mặt biển nổi sóng mà không biết đến nguyên nhân sâu xa khiến phát sinh bọt biển chính là  do nước biển yên lành đã bị chao động theo những cơn gió từ các duyên trần cảnh từ bên ngoài. Kinh đã nhấn mạnh đến nơi cứu cánh, nổ lực hướng  thẳng đến Chơn Tâm bản tánh, tinh tấn cho đến khi thành Phật.

Một vị tăng hỏi thiền sư Thiên Nhan: “Thế nào là Lý Bản Thường ?”. Thiền sư Thiên Nhan đáp : “Động”.. Vị tăng lại hỏi “Khi động thì sao ?”. Ngài đáp : “Chẳng phải Lý Bản Thường”. Ở đây, câu trả lời của thiền sư Thiên Nhan không nhằm giải đáp cho chính câu hỏi (phát khởi từ nguồn thức 6,thức 7  và  thức 8 của học tăng)  mà đã rốt ráo hơn, cụ thể hơn, từ bi thiết thực hơn nhổ đinh, tháo chốt  thẳng vào ngay nơi động thái của Bản Giác nơi người nêu ra câu hỏi vậy. Thiền Sư sau đó đã khai thị tiếp về việc “Nhận” và “Chẳng Nhận” (động thái vi tế hơn ở nguồn tâm của học tăng): “Nhận tức chưa thoát khỏi căn trần, còn chẳng nhận thì còn hằng chìm trong sanh tử”.

Kinh Duy Ma Cật, phẩm 12 “Kiến A Súc Phật”  khai thị  về  cõi nước Diệu Hỹ  cũng nhằm vào ý  nghĩa này: khi tâm thức không bị chao động trước cảnh trần, quán chiếu thấu được “Thực Tướng” ngay nơi tự thân sẵn đủ thì  chính lúc đó là quốc độ Diệu Hỷ rồi. Tâm “Hỷ Lạc” ở đây có ý nghĩa thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc nơi Tục Đế thế gian (tâm vui thích vì được thành toại tham dục với cảnh trần  bên ngoài), cũng thắng vượt qua các tâm Hỷ Lạc của thiền cảnh cõi trời Sắc Giới (Ly Sanh Hỷ Lạc = Xa rời ngũ dục thế gian mà tâm được  vui thích, Định Sanh Hỷ Lạc = Tâm không còn chao động với ngũ dục thế gian mà được vui thích.), nên được gọi là Diệu Hỷ (cái vui mầu nhiệm bất khả tư nghì mà ai cũng sẵn có đầy đủ nhưng lại thường hay bị bỏ quên nên không thể biết về nó và không thể sống với nó).

Cuộc vấn đáp giữa ngài Triệu Châu (người hỏi) và thầy mình là Tổ Nam Tuyền (người đáp) minh định tâm Vô Động (gọi là Tâm Bình Thường ở đây)  với ý nghĩa Tâm Bình Thường không phải là tâm hằng ngày thường khiến ta bận bịu,  phiền não vướng chấp theo duyên trần, nghĩ ngợi lăng xăng phải -quấy, tốt xấu, khen chê, thương- ghét) mà Tâm Bình Thường chính là Đạo,  là tâm ở nơi cội nguồn thanh tịnh, nơi đó không còn có vọng động, khiến tâm xa lìa các ý niệm về tiến – lùi, nghĩ ngợi, nhận biết theo duyên trần của Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da thức:  

-        Thế nào là đạo?

-        Tâm bình thường là đạo.

-        Lại có thể nhằm tiến đến chăng ?

-     Nghĩ nhằm tiến đến là sai rồi.

      -     Vậy khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo ?

       -    Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký.    Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy?

Ngay câu nói này, thiền sư Triệu Châu được ngộ lý.

Như trên đã nói, đạo Phật chính là đạo về Tâm.  Nhưng nếu cho rằng đạo Phật là đạo Duy Tâm thì cần khéo hiểu ý nghĩa của chữ Tâm này, chữ Tâm với ý nghĩa trọn vẹn, bao trùm đầy đủ các pháp giới  từ thô đến tế,  từ cạn cợt đến vào sâu suối nguồn ẩn kín, chữ Tâm vượt qua khỏi các  phạm trù “Duy” và “Chẳng Duy” với nhậm vận diệu dụng  “Bất Biến mà Tùy Duyên”, và tuy là “Tùy Duyên nhưng lại Bất Biến” .

Còn nếu cho rằng đạo Phật là đạo Vô Thần, thì cần khéo  hiểu ý nghĩa về bản thể và diệu dụng của nguồn tâm thể bản hữu. Chính ngay từ ngữ “Vô Thần” đã bị vướng chấp vào hai ý niệm: thứ nhất là ý niệm về Vô - Hữu (Có - Không), thứ hai là ý niệm về “ Là (Thần) - Chẳng Là (Thần)”.  Hai ý niệm này còn thuộc phạm trù của các Thức (Ý thức, Mạt Na thức, A Lại Da thức), chưa chạm vào đến nơi cội nguồn bản thể thanh tịnh của A Lại Da thức là Bản Giác hằng nhiên thanh tịnh mà chiếu soi cùng khắp, vượt qua tất cả ý niệm về không gian và thời gian, về Có –Không, về Là-Chẳng Là . Đó là diệu dụng bất khả tư nghì của cội nguồn Chơn Tâm Thường Trú “thanh tịnh bản nhiên, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, chu biến pháp giới” (kinh Thủ Lăng Nghiêm). Cội nguồn này là nơi xuất sanh và cũng là nơi trở về (sanh hay diệt tùy theo các nhân duyên tụ tán) của vô lượng sanh thể, sanh khí, sanh tướng của chúng sanh , bao gồm tất cả dạng loài chúng sanh trong ba cõi ( Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới), trong sáu đường (Trời, Người, thần A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, Địa Ngục), và cả mười pháp giới (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và sáu đường nêu trên).

Như thế, gán ép cho “Tâm” nói riêng và cho đạo Phật nói chung bất kỳ một danh hiệu nào, một nhãn hiệu nào… đều không chuẩn xác và xứng hợp hoàn toàn. Bởi vì Tâm nơi cứu cánh chính là nguồn sống thiên sai vạn biệt của tất  cả chúng sinh mà ở tận cùng nguồn sống ấy lại là giác thể thanh tịnh bản hữu chung cùng, bản vị bình đẳng nơi mỗi sinh linh. Đây cũng chính là điểm tinh yếu vô cùng đặc sắc và độc đáo của đạo Phật Đại Từ - Đại Bi - Đại Hỷ - Đại Xả vậy.

 

  Khánh Hoàng

  Plano_ February 22, 2017

TL_pháo.jpg

XUÂN THĂM QUÊ

 

Dẫn:

Đi vòng quanh xóm nhỏ

Chẳng gặp một ai quen

Quày đầu nhìn sóng nước

Ồ! Ánh trăng đây rồi

 

Xuân Thăm Quê

Thoắt chốc quê hương bỗng hiện tiền
Sông xưa bóng nguyệt lại đoàn viên
Vân du mấy thuở bao lưu luyến
Tĩnh lặng phút giây bặt não phiền
Tha thiết sóng vờn cung nhịp điệu
Hài hòa trăng ngự thể an nhiên
Tiếng ai gọi bạn sang Xuân mới
Cánh hạc thanh bình vô tận thiên!


Khánh Hoàng
Plano - December 25, 2000

__________________________

Khái Quát về chữ "Không"  trong Tâm Kinh Bát Nhã

 Khánh Hoàng

 

Bài Tâm Kinh Bát Nhã có tất cả 7 chữ 'Không" trong đó chữ "Không Tướng"  đã được  đề cập, ngay ở câu văn thứ ba: "Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không Tướng..."(Xá Lợi Tử ! Tướng Không của các pháp...). Nếu hiểu 'chư pháp' (các pháp) ở đây chính là các pháp đã vừa được nêu ra ở câu văn thứ nhì ("Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị") thì các pháp này chính là Ngũ Uẩn pháp và chính câu văn kinh thứ nhì này đã khai thị về Không Tướng (và cả Không Thể) của Ngũ Uẩn.

 

Ngũ Uẩn  bao hàm 5 yếu tố cấu thành con người cùng tất cả sinh hoạt nơi sự sống con người là Sắc (thân thể thất đại với địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, và thức), Thọ (cảm giác, cảm thọ khi căn và cảnh tiếp xúc nhau, nghĩa là khi  sắc thân  thất đại tiếp xúc với hoàn cảnh bên ngoài là lục trần bao gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), Tưởng (ấn tượng đầu tiên được hình thành do sự tiếp nối theo Thọ, đây chính là suy tư vừa chớm khởi sự), Hành (suy tư được trưởng dưỡng với tính toán, so đo, phân biệt kết thành dòng chảy liên tục của Tưởng), và Thức (sản phẩm cuối của Hành, kết thành chủng tử đặc sắc nơi tâm thức của mỗi người). Năm pháp Ngũ Uẩn này cũng được xem như tượng trưng cho 100 pháp Đại Thừa (Đại Thừa Bách Pháp) và do đó, Ngũ Uần cũng tượng trưng cho vạn pháp trong vũ trụ nhân sinh.

Chữ "Không" được nêu trong đoạn văn kinh trên không có nghĩa là cái rỗng không, ngoan không (như lông rùa, sừng thỏ), mà chính là Chơn Không với ý nghĩa 'Chơn Không Diệu Hữu'. Chơn Không đây còn được gọi tên là Chơn Tâm (kinh Thủ Lăng Nghiêm : "Chơn Tâm Thường Trú"),Phật Tri Kiến (kinh Pháp Hoa), Phật Tánh (kinh Đại Bát Niết Bàn), Như Lai Viên Giác Diệu Tâm (kinh Viên Giác), Như Lai Tàng Bản Thể hoặc Như Lai Tàng Tâm (kinh Thủ Lăng Nghiêm), "Nhứt Pháp Giới Đại Tổng Tướng Pháp Môn Thể" (Đại Thừa Khởi Tín Luận), Chơn Như (Đại Thừa Khởi Tín Luận), Chơn Như Vô Vi (một trong sáu pháp Vô Vi trong Duy Thức Học), Đệ Bát thức hay A Lại Da Thức hay A Đà Na thức... (Duy Thức Học)...

            Tổ Mã Minh nơi Đại Thừa Khởi Tín Luận, đã khai thị về Như Lai Tàng như sau: "Do Như Lai Tàng (chơn) mà có "Tâm Sanh Diệt"; nghĩa là Chơn (không sanh diệt) và Vọng (sanh diệt) hòa hiệp, không phải một, không phải khác gọi là thức A Lại Da (tâm sanh diệt). Thức này tóm thu tất cả các pháp và xuất sanh tất cả các pháp. Thức này có hai nghĩa Giác và Bất Giác (mê)"... "Như Lai Tàng được giải thích là chỉ cho cái "Tổng Tướng" của tâm, đây là tướng của nhứt tâm nên tuy nó cũng chơn tịnh, nhưng vì có phiền não che khuất, nên làm nhơn cho động".

 

Do vậy, Như Lai Tàng  có hai nghĩa là (1) Như Lai Xuất Triền có nghĩa là Phật Tánh thanh tịnh và (2) Như Lai Tại Triền có nghĩa Phật Tánh còn bị vướng mắc nhiễm ô phiền não. Chơn Như được giải thích là chỉ cho cái 'Tổng Thể" của tâm, đây là thể của 'Nhứt Tâm" nên thanh tịnh, không động.  A Lại Da thức được giải thích là chỉ cho cái "Thể, Tướng, và Dụng" về nhiễm và tịnh hòa hiệp của tâm.

 

Nếu xác định các phạm trù ý nghĩa như trên, ta có thể thấy ra thể của "Không ("Không Thể") và tướng của "Không" ("Không Tướng") của các pháp đã được Tâm Kinh trực tiếp diễn bày  qua 24 chữ ở câu kinh văn:" Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị" hoặc đầy đủ hơn với 80 chữ: "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Thọ bất dị Không, Không bất dị Thọ, Thọ tức thị Không, Không tức thị Thọ; Tưởng bất dị Không, Không bất dị Tưởng, Tưởng tức thị Không, Không tức thị Tưởng; Hành bất dị Không, Không bất dị Hành, Hành tức thị Không, Không tức thị Hành; Thức bất dị Không, Không bất dị Thức, Thức tức thị Không, Không tức thị Thức". Như thế, "Không Thể" chính là thể của Như Lai Tàng bao gồm có "Sắc" (tượng trưng và bao gồm tất cả hiện tượng từ Thất Đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức, và cả từ  'Tứ Khoa ': 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới) và "Không" (Như Lai Tàng bản thể thanh tịnh) tương ưng hòa hiệp, vận động qua lại với nhau một cách huyền nhiệm, bất khả tư nghì. Sự vận động qua lại bất tư nghì, tương ưng  hòa hiệp nhiệm mầu giữa "Sắc" và "Không" này tạo ra "Không Tướng".

Sự vận động qua lại bất tư nghì này đã được khai thị rõ nét qua kinh Thủ Lăng Nghiêm như sau: "Tánh Sắc chơn Không, Tánh Không chơn Sắc, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện". Như thế "Không Tướng"  không phải là 'không có tướng' qua cách nhìn của Tục Đế (phàm phu với nhục nhãn thông thường) mà chính là tướng của Như  Lai Tàng bản thể qua cái thấy của Đạo Đế (Thánh nhân với Huệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn). Qua cái thấy của Đạo Đế, các sự vật có tướng tưởng như là "tướng nhất định" (tướng có thể xác định qua dạng thể, kích thước, màu sắc) đều chỉ là các pháp tạm có rồi không, pháp sanh diệt, pháp như huyễn, pháp hữu vi . Kinh Kim Cang đã khẳng định "Phàm cái gì có tướng đều là hư dối, nếu thấy rõ các tướng chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai" và về các bản chất vô thường, khổ, không, vô ngã của chúng : "Tất cả các pháp hữu vi, Như mộng huyễn bọt bóng, Như sương và như chớp, Nên quán sát như thế".  Do đây kinh Kim Cang đã có cách hành văn : "Thuyết... tức phi... thị danh..." (tạm dịch nôm na là : "Nói vậy... mà không phải vậy...chỉ tạm gọi tên là vậy") vô cùng đặc sắc và kỳ thú để khai thị về phương cách hàng phục và an trụ tâm thức.

            "Không Tướng" là tướng của pháp Vô Vi Như Lai Tàng bản thể nên ‘Không Tướng’ không có tướng nhất định (như như chẳng động) như ở nơi các pháp Hữu Vi. Và dù Như Lai Tàng không có tướng nhất định mà nó lại có đầy đủ tất cả các tướng qua sự vận động, chuyển hóa qua lại linh diệu cùng khắp và không dừng nghỉ của chính nó. Như Lai Tàng chính là bản thể thâm diệu nhất, là sanh khí, là mạch sống bản nguyên, là sức sống hồn nhiên vô thỉ vô chung, vô tác nhậm vận của vũ trụ vạn hữu, pháp giới chúng sinh. Từ Như Lai Tàng bản thể, tất cả hiện tượng vạn hữu được duyên sanh (Y tha duyên nhi sanh khởi tánh theo Duy Thức học) theo qui luật "Tùy Duyên Bất Biến, Bất Biến Tùy Duyên". Đây cũng được gọi là "Thực Tướng" của các pháp. Thực Tướng này thường được minh giải qua câu    "Thực Tướng chính là Vô Tướng". Chính vì thế, Như Lai Tàng rời tất cả tướng mà lại hiện ra tất cả pháp, nơi Như Lai Tàng không có vấn đề "Là " hay "Không Là", theo qui luật "bất tức bất ly"  giống như sự liên hệ giữa sóng và nước, giữa bản thể (Như Lai Tàng "Không") và hiện tượng("Sắc" của 4 khoa và 7 đại nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm). Nói cách khác, Như Lai Tàng có sự tương dung, tương nhiếp, tương ưng, tương hợp với Ngũ Uẩn mà nó lại không là Ngũ Uẩn.  Bản thể Như Lai Tàng luôn thanh tịnh mà lại thường chiếu soi (tịch mà chiếu) đầy đủ tất cả sự vật mà nói theo ngôn ngữ nhà Thiền là "Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán". Đây là sự biến đổi qua lại một cách tự nhiên và nhiệm mầu,kỳ ảo giữa Bản Thể (tịch tịnh, rỗng lặng) và Hiện Tượng (tỉnh sáng, chiếu soi liên tục,thường trực đầy đủ muôn cảnh, muôn vật không bỏ sót một thứ gì). Như mặt gương trong sáng tự nhiên hiện ra nơi nó đầy đủ mọi thứ sắc tướng mà nó tiếp xúc. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đã khai thị cho ngài Phú Lâu Na về tánh sáng tỏ này khi ngài hỏi tại sao Như Lai Tàng thanh tịnh mà bỗng nhiên sanh khởi ra các tướng hữu vi : "Nếu ngươi phát minh cái hư không thì hư không hiện ra. Địa thủy hỏa phong mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra. Nếu cùng phát minh thì cùng hiện ra".

Không Thể, Không Tướng vừa được đề cập trên là sự biểu hiện của cái tiềm ẩn hơn, gốc rễ ở nơi thâm sâu hơn trong tâm thức được gọi là Không Tánh. Tướng, Thể  và Tánh chỉ là các khía cạnh (phương diện) của cùng bất cứ sự vật gì được xem xét. Nên bất cứ sự vật gì, nếu đã nói đến Thể, Tướng thì cũng cần nói đến Tánh để trọn nghĩa.

Do vậy, ngay sau đoạn kinh văn đề cập đến Không Thể và Không Tướng nêu trên, bài Tâm Kinh Bát Nhã đề cập ngay đến Không Tánh đươc diễn tả  qua 6 cái "Bất" về sanh diệt, nhơ sạch, thêm bớt : "Xá Lợi Tử, thị chư pháp Không tướng,bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm". Lục Tổ khi ngộ đạo nơi Ngũ Tổ đã thốt lên 5 cái đâu ngờ về Tự Tánh Không và về các cái 'bất'  này: "Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh. Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt. Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ. Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động. Đâu ngờ tự tánh hay sinh muôn pháp". Ý nghĩa về 'bất sanh, bất diệt" gắn bó khắn khít với ý nghĩa "thường trú" của Chơn Tâm nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ý nghĩa về 'thường trú' này được kinh chỉ rõ là tính cách sẵn có của Chơn Tâm, được tự thể hiện sau khi các ngoại duyên hữu vi sanh diệt bên ngoài Chơn Tâm  được gạn lọc ra. Đây chính là "vật không đầu, không đuôi, không tên, không chữ, không sau lưng, không trước măt..." mà Lục Tổ nhắc đến.  Kinh Thủ Lăng Nghiêm còn khai thị chi tiết hơn về Chơn Tánh của tứ khoa (bao gồm ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới) và thất đại (bao gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) đều vốn từ  Như Lai Tàng bản thể lưu xuất, hiện khởi ra chứ chúng thật không có tự tánh, tự ngã hay thực thể cố định nào. Như khai thị về Tánh của Sắc (Địa Đại), kinh Thủ Lăng Nghiêm có đoạn như sau: "Tánh Sắc chơn Không, Tánh Không chơn Sắc, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện". Đây là lý Vô Sanh (không tự sanh, không tha sanh, không cọng sanh, không vô nhân sanh) của hiện tượng vật chất. Tánh của các đại còn lại, kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng khai thị tương tợ. Do vậy, vạn pháp hiện tượng đã được khai thị là "Phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi hòa, phi hợp";  vạn pháp là "Như Thị" với 10 món Như Thị là: Như thị(-) Tướng,- Tánh,- Thể, -Lực,-Tác,-Nhơn,-Duyên,-Quả, Báo,- Bổn Mạt Cứu Cánh.

Các vị Bồ Tát có năng lực quán chiếu thấu suốt được Ngũ Uẩn, đưa Ngũ Uẩn về vị trí bản nguyên 'Tự Tại". Đây là vị trí của "Không Thể", "Không Tướng" và "Không Tánh" nhiệm mầu của Như Lai Tàng Bản Thể, và đây là các vị đã vượt thoát được mọi sự khổ ách. Như câu kinh văn đầu tiên của bài tâm kinh đã nêu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách". Chổ bản nguyên này không có ngôn ngữ, văn tự thế gian nào có thể diễn đạt đúng mức và đầy đủ được. Như qua bài kệ của Tổ Mã Minh: "Nhất thiết chư pháp, tùng bản dĩ lai, ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng,tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm, bất khả phá hoại, cố danh Chân Như". Chỗ không thể diễn bày này cũng được kinh Giải Thâm Mật nhắc đến qua bài kệ:

"A Đà Na thức thậm thâm tế

Tập khí chủng tử như bộc lưu

Ngã ư phàm phu bất khả diễn

Khủng bỉ phân biệt chấp vi ngã"

Tạm dịch:

“Thức A Dà Na quá sâu xa vi tế

Tập khí chủng tử như dòng thác

 Ta không đành nói ra với phàm phu

 Lo là họ phân biệt chấp làm ngã”

Vượt thoát ra mọi ràng buộc, khổ đau, sinh tử, luân hồi chính là cái Dụng của tâm thể Như Lai Tàng thanh tịnh. Chính cái Dụng quá nhiệm mầu này là cái vượt lên trên mọi sự vật, cảnh giới của thế gian và của cả xuất thế gian. Nghĩa là vượt qua các địa vị phàm thánh, vượt qua tất cả các "thừa", từ Thanh Văn thừa đến Duyên Giác thừa và cả Bồ Tát thừa. Do vậy, tâm kinh đã khai triển tiếp tục là ở nơi cái "Không" (Như Lai Tàng thanh tịnh) này một loạt cái "Không Có" ("Vô") về ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức, pháp Thập Nhị Nhân Duyên ( Vô Minh- Hành- Thức- Danh Sắc- Lục Nhập- Xúc- Thọ- Ái _ Thủ- Hữu- Sanh _ Lão Tử của Duyên Giác thừa), pháp Tứ Đế ( Khổ- Tập- Diệt- Đạo của Thanh Văn thừa), và cả pháp Lục Độ (Bố thí- Trì Giới- Nhẫn nhục- Tinh Tấn- Thiền Định- Trí Huệ của Bồ Tát thừa) : "Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão Tử diệc vô Lão Tử tận; vô Trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố". Đây là cảnh giới mà tên gọi “Đại Bát Nhã Đáo Bỉ Ngạn” (Ma ha Bát Nhã Ba La Mật) đã được Lục Tổ khai thị hiển bày nghĩa lý trong Pháp Bảo Đàn kinh. Câu hỏi của tổ Động Sơn Lương Giới về Tâm Kinh (khi ngài còn là sa di đã thưa với thầy của ngài : "Con có mắt...mà tại sao Tâm Kinh lại nói là không có?") như vậy cũng đã được Tâm Kinh trả lời trong ý nghĩa này.

Sau cùng, cái Dụng thù thắng rốt ráo của Như Lai Tàng thanh tịnh được Tâm Kinh đề cập qua cảnh giới của Bồ Tát và của chư Phật đã sống thành tựu trọn vẹn nơi Bát Nhã Ba La Mật của Như Lai Tàng thanh tịnh: "Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề". Nơi đây không còn bóng dáng của ngữ ngôn, văn tự, tình thức phân biệt chấp ngã, chấp pháp nữa. Nếu có muốn biết về nó và muốn diễn đạt nó, chỉ tạm dùng phương tiện qua dạng "ngữ ngôn phi ngữ ngôn" là câu thần chú: "Cố tri Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thực bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú tức thuyết chú viết : Yết đế Yết đế Ba La Yết đế Ba La Tăng Yết đế Bồ Đề Tát Bà Ha".  

Với vỏn vẹn 265 chữ kể cả tựa đề, bài Tâm Kinh Bát Nhã là một kết tinh trọn vẹn cô đọng những tinh yếu, thắng nghĩa của Phật đạo với  chữ "Không" được dùng với ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi tế, huyền nhiệm  qua đầy đủ bốn phương diện của "Không" là Thể, Tướng, Tánh, và Dụng của Như Lai Tàng bản thể. Phân biện về Tướng- Thể- Tánh- Dụng của Như Lai Tàng chỉ là phương tiện tạm nói, không thể chính xác rốt ráo được. Vì đây thuộc về cảnh giới "Bất Nhị" dứt tuyệt mọi phân biệt, tư duy, chấp trước. Tựu trung, bài Tâm Kinh ngắn ngủi đã hé mở ra  phương cách chấm dứt mọi ràng buộc,luân hồi sanh tử, ưu bi khổ não , chiếu ngời lên ánh sáng của cứu cánh giải thoát trên con đường tu học Phật đạo vậy .

 

       Khánh Hoàng

       Plano _ May 25, 2015

___________________________

Có Điều Gì Đất Trời Muốn Nói

(Riêng về những cơn bão dữ hoành hành trên địa cầu; như bão Katrina, bão Rita vào tháng 8, năm 2005 ở miền Đông Nam nước Mỹ)

 

Có Điều Gì Đất Trời Muốn Nói

Mà ta vẫn vô tình chưa hiểu

Ôi Katrina Ôi Rita

Các nàng đến tự trời cao

để bao gia đình khổ đau

Đổ nát

Và trên những xa lộ thênh thang

miền Nam nước Mỹ

Tìm về nơi đâu?

Trú ẩn phương nào?

Những con tim âu lo

Vất vưỡng trong đêm tối

Mịt mờ

 

Có phiền muộn ướt nhòa nước mắt

Dòng xe vẫn vô tình bất động

Ôi Katrina Ôi Rita

Giữa màn đêm của sợ hãi

Tìm nhau để nhận ra nhau

Cùng khốn

Cầu mong chút hơi nồng thương yêu

vượt qua khổ nạn

Đường về xa xăm

Bước mỏi rã rời

Khắp không gian bao la

Đâu là nơi yên ấm

Quê nhà

 

Hãy mở lòng ra

Cùng thắp lên ngọn đèn

Bi Trí

Và hãy mở cửa căn nhà

Từ Ái

Để làm nơi

An trú cho nhau

Có điều gì đất trời muốn nói?

 

                    Khánh Hoàng

         Plano _ September 24, 2005

 

Nhạc & Lời: Khánh Hoàng

Ca sĩ: Thùy Dương

Hòa âm: Thái Bảo Lộc

https://quangduc.com/a77332/co-dieu-gi-dat-troi-muon-noi

_________________________

SÓNG XUÂN (Nguyên bản)

Sông gợn ý tình lượn sóng Xuân

Hàm tàng vô lượng cỏi thanh tân

Rộn ràng bóng nước tuôn hình sắc

Thinh lặng hư không ánh tuyệt trần

Nhật nguyệt đôi bờ cùng chiếu tỏa

Cỏ hoa muôn dặm trọn hồng ân

Thời gian ngưng nghỉ cần chi vội

Biến hiện diệu huyền ngát bảo trân!

(Lê Khánh Hoàng)

Plano, TX

9/9/24

 

THIỀN LÃO (Họa)

Hạ thu nhàn hạ nhã đông xuân

Hành kiến Thiền tâm nhật nhật tân

Sự nghiệp chu toàn chung quả nghiệp

Tục trần ẩn dật thoát phong trần

Đồng tình nhân loại tri khiêm ái

Hòa cảnh thiên nhiên hưởng phước ân

Lão giả diệu tâm an tịch tĩnh

Niết bàn tự tánh sính huyền trân.

(Phan Thượng Hải)

9/9/24  

____________________

Khai Bút Xuân

Tết này bận quá không cầm bút
Đành tạm dùng tay viết vào không
Một nét tròn vo theo thật tướng
Đĩnh đạc mây trôi chẳng bận lòng!

 

Khánh Hoàng

Link nghe Thầy Thích Thắng Hoan giảng về Duy Thức:

https://www.youtube.com/watch?v=eOwvS89oz0I

 

Tiễn Thầy

Thành kính bái biệt Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan (1928-2024)

 

Bao niềm hỷ lạc nghe Thầy giảng

Chất giọng Cần Thơ thật rộn ràng

Biến Kế chuyển hành tâm Bát Nhã

Viên Thành định vị tuệ Kim Cang

Tận tường khảo nghiệm tông Duy Thức

Tỉ mỉ tinh chuyên nghĩa Đạo Vàng

Nhẹ bước hài vân buông lối mộng

Tiễn người bửu sắc ánh từ quang!

 

Khánh Hoàng

Plano _ January 27, 2024

___________________

Sơ Quát về Năm Giai Vị Tu Tập trong Phật Đạo                               

qua Duy Thức Học

Khánh Hoàng ____________________

 

             Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả:  tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài  tụng, mỗi bài  có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ (mỗi bài có 20 chữ); trong đó có 5 bài tụng (100 chữ), thuộc phần Duy Thức Hạnh đã nêu rõ về 5 giai vị tu tập trong Phật Đạo.  Đó là 5 giai vị với tên gọi là: Tư Lương vị, Gia Hạnh vị, Thông Đạt vị, Tu Tập vị, và Cứu Cánh vị. Năm giai vị này bao quát con đường tu tập đưa đến quả vị giải thoát cứu cánh trong đạo Phật. Bài viết sau đây chỉ là sự tổng hợp, góp nhặt, cảm nhận, suy luận có khi mang tính chủ quan  từ những điều đã thu thập được nơi một số kinh luận, các bài giảng thuyết; các giai đoạn tu tập cũng chỉ được nêu ra một cách rất khái quát  …nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo.

             Giai vị đầu tiên của Duy Thức Hạnh là Tư Lương vị. Được gọi tên là "Tư Lương" vì đây là giai đoạn xây dựng, tạo lập hành trang, vật thực cần thiết cho các giai trình tu tập sau đó. Trong giai đoạn Tư Lương,  hành giả bắt đầu tìm tòi,học hỏi, suy nghĩ, tư duy, thắc mắc, lễ lạy và cúng dường Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) cùng các Thiện Tri Thức, luận bàn về Phật pháp nơi các kinh sách, các vị tôn đức tăng ni, các vị thiện tri thức nơi các tôn tự, các chùa, ,các phương tiện truyền thông có được...  Điều này tương hợp với Tam Huệ Học (Văn- Tư- Tu) trong giáo lý đạo Phật: Tư Lương vị chính là toàn phần "Văn" (học hỏi, tìm hiểu kỹ càng, tường tận giáo pháp qua nghe giảng pháp, đọc kinh sách...);  là một phần "Tư" (bắt đầu có được suy nghĩ, phân biệt, thắc mắc, xác định, phủ định, vấn đáp về giáo pháp) ; và là một phần  “Tu” (những bước tu tập sơ khởi như qui y Tam Bảo, thọ trì 5 giới, thọ Bát Quan Trai, ăn chay, niệm Phật, ngồi Thiền...).

        Bài tụng thứ nhất (Tư Lương vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Nãi chí vị khởi thức

            Cầu trụ Duy Thức tánh

             Ư Nhị Thủ tùy miên

             Do vị năng phục diệt"

       Tạm dịch:

             "Đến khi chưa khởi thức

              Mong  trụ tánh Duy Thức

             Còn hai Thủ tiềm ẩn

             Do chưa hàng phục, đoạn trừ"

       Ý nghĩa chi tiết 4 câu của Tư Lương vị được ghi nhận là:

       Câu 1: "Nãi chí vị khởi thức" (Đến khi chưa khởi thức): “Thức chưa khởi” ở đây chính là thức A Lại Da. Vì ở giai đoạn này, Ý thức (Thức Thứ Sáu) hiện có của hành giả cùng với Tiền Ngũ Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) còn đang dong ruổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) và còn bị ngăn che với A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) bởi Mạt Na thức (Thức Thứ Bảy).

       

      Tựu trung, thức A Lại Da có 7 đặc điểm chính yếu như sau:

             1. A Lại Da thức là thể trung gian,chuyển tiếp, cầu nối giữa Chơn Tâm (Giác Thể thanh tịnh, Chơn Như, Phật Tánh,  Như Lai Tàng…) và Vọng Tâm.  Vọng Tâm chính là 8 thức Tâm Vương bao gồm A Lại Da và 7 Chuyển Thức: Mạt Na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận (tác giả = tổ Mã Minh (80-150), Dịch giả Phạn- Hán = ngài Chơn Đế Tam Tạng(499-569), dịch giả Hán- Việt = Hòa thượng Thích Thiện Hoa(1918-1973), sự liên hệ giữa Chơn Tâm và A Lại Da thức được diễn tả như sau: "Do không thật biết pháp "Chơn Như" nên tâm Bất Giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có thật thể, nên chẳng rời Bản Giác".

            2. Do vì từ nơi A Lại Da thức mà có ra sự lưu xuất, hình thành nên 7 Chuyển Thức nên A Lại Da còn có tên gọi khác là Căn Bản Thức. Căn Bản Thức chỉ mới có 5 tâm sở sơ khởi, sơ khai có dụng năng còn rất yếu ớt gọi là 5 Biến Hành tâm sở bao gồm: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, và Tư. Vì thế, cảnh giới của A Lại Da thức được mô tả là "vô phú, vô ký" (không có chỗ nương tựa, chưa có phân biệt thiện ác) nên là rất nhẹ nhàng, bao la, mênh mang, hồn nhiên, không vướng mắc, không trụ chấp, không phân biệt thiện ác, dở hay, tốt xấu.

            3. Tuy nhiên, A Lại Da thức chính là cội nguồn sâu xa nhất của Vọng Tưởng vì là nơi khởi phát ra 5 tâm sở Biến Hành trong đó có tâm sở Tưởng và tâm sở Tư, bản chất cố hữu của các loại Vọng Tưởng.

            4. A Lại Da thức có công năng tích chứa chủng tử nghiệp thức nên  A Lại Da còn có tên gọi khác  là “Tàng Thức” ( hay Tạng Thức, Thức Tích Chứa, Thức Kho Tàng) hoặc là "Nhất Thiết Chủng Thức" (Thức Chứa Tất Cả Chủng Tử).  Các chủng tử đã được gây tạo bởi 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) rồi được tàng trử, tích chứa nơi A Lại Da thức thật an toàn, không bị mất mát, hư hao từ đời này qua đời khác trong vô lượng kiếp sống của tất cả chúng sinh.

           5. Với sự biến hành của kho chủng tử, thức A Lại Da còn có tên gọi là Dị Thục Thức. Do vì các chủng tử này chính là đầu mối của chu trình nhân quả luân hồi, nôm na gọi là "Quả Báo". Nhưng từ nhân đến quả có các điểm dị biệt về thời gian ("Dị Thời nhi Thục"), về hoàn cảnh ("Dị Biến nhi Thục"), và về phẩm loại ("Dị Loại nhi Thục").

           6. A Lại Da thức là tâm thức vi tế, sâu thẳm nhất, và bị ngăn che bởi 2 tầng lớp là Mạt Na thức (Thức tư lương chấp ngã) và Ý thức (Thức tư duy chấp pháp) nên rất khó nhận biết được trong đời sống thường nhật. Chỉ có các vị Thánh, từ giai vị Tu Đà Hoàn ( Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Sơ Địa ( Bồ Tát thừa) mới có thể thấy biết đươc từng phần mà thôi. Đây là các bậc Thánh đã hoàn tất giai đoạn Kiến Đạo, giai đoạn đã thấy biết rõ ràng về con đường Tu Đạo chơn chánh do đã hoàn tất đoạn trừ xong 5 Kiến Hoặc (Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Kiến thủ, 4. Giới cấm thủ, và 5. Tà kiến), đã ngộ nhập vào A Lại Da thức, đã mấp mé thấy được Chơn Tâm, Phật Tánh dù đây chỉ mới là từng phần, chưa là trọn vẹn. 

           7. A Lại Da thức chỉ được xả hết công năng chấp trì chủng tử nghiệp thức khi tu tập đạt đến giai vị A La Hán(Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Bát Địa (Bồ Tát thừa), các bậc đã hoàn tất tốt đẹp chặng đường Tu Đạo. Lúc này, A Lại Da thức được gọi tên là "Bạch Tịnh thức" hay là “Vô Cấu thức”.  

            

       Câu 2: "Cầu trụ Duy Thức tánh" (Mong trụ tánh Duy Thức): đây là nét đặc sắc nhưng rất quan yếu trong tu tập Phật đạo cho hành giả Tư Lương vị. Đó là hành giả cần phát tâm mong cầu thấy được, ngộ nhập được vào tánh Duy Thức, vào A Lại Da thức.  Điều này đương nhiên hàm chứa 2 ý nghĩa:  Ý nghĩa thứ nhất là hành giả cần có lòng tin chơn chánh (chánh tín) về Phật tánh và về tánh của thức A Lại Da. Hai tánh này vốn có tương quan gắn bó mật thiết với nhau như đã nêu ở phần trên. Ý nghĩa thứ hai là hành giả cần phát tâm ham thích, mong muốn, khát khao được hội nhập, an trụ vào thức A Lại Da. Tâm mong muốn, ham thích này cũng chính là bước khởi đầu của Dục Như Ý Túc, 1 trong 4 Thần Túc (Tứ Thần Túc : 1.Dục Thần Túc, 2. Tinh Tấn Thần Túc, 3.Tâm Thần Túc, 4. Quán Thần Túc), cũng là 4 trong 37 Phẩm Trợ Đạo, Đạo Đế của Tứ Diệu Đế, giáo lý căn bản của Phật Đạo.  Tâm ham thích ở đây có thể xem là một dạng thái của tâm tham nhưng  không phải là tâm tham phiền não , một trong 5 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến) của thế gian,  vốn là tâm Ý thức bôn ba bám chấp, chạy đuổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) ở bên ngoài. Trái lại, nó là tâm ngược chiều với tâm tham Ý thức phiền não vì là tâm hướng nội quay về hội nhập với A Lại Da thức. Do vậy, tâm ham thích hướng nội này  được xem là một dạng thái sơ khởi của Định (Tam Ma Địa), nên còn có tên gọi là "Dục Tam Ma Địa" hoặc tên gọi đầy đủ là "Dục Tam Ma Địa Đoạn Hành Thành Tựu Thần Túc”. Có thể nói nôm na đây là Tham để nhập Định, không là Tham phiền não, khổ đau luân hồi.  Như thế, ở giai đoạn Tư Lương, hành giả ngoài sự học hỏi, hiểu biết về Phật pháp, về Duy Thức còn cần phát khởi tín tâm chân chính và phát khởi lòng ưa muốn, ham thích ngộ nhập vào A Lại Da thức nữa.

        Câu 3 và câu 4: “Ư Nhị Thủ tùy miên, Do vị năng phục diệt” (Còn hai Thủ tiềm ẩn  Do chưa hàng phục, đoạn trừ). Thủ là bám giữ (thủ chấp). Hai Thủ gồm Năng Thủ (chủ thể thủ chấp) và Sở Thủ (đối tượng bị thủ chấp). Hai Thủ này được cảm nhận là công năng và tính chất chủ yếu của Mạt Na thức. Chúng là 2 dạng thể chuyển hành tinh khôi nơi tâm thức chúng sinh: Mạt Na thức (Năng Thủ) đã chấp thủ Kiến Phần của A Lại Da thức (Sở Thủ) làm bản ngã. Từ đây bắt đầu thấy ra có cái ta (Ngã) và có những cái không phải là ta (Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả). Như thế, muốn trở về hội nhập vào A Lại Da thức, Ý thức cần hoàn tất 2 việc: Việc thứ nhất là xa rời sự ràng buộc, tham chấp vào cảnh trần phiền não của Ý thức; đây được xem như tương ưng với công phu "Ly Sanh Hỷ Lạc" của cảnh giới Sơ Thiền. Việc thứ hai là cần vượt qua sự cản ngại của Mạt Na thức, nghĩa là cần khắc phục và đoạn trừ 2 thủ chấp, Năng Thủ và Sở Thủ, nơi Mạt Na thức. Việc thứ nhất cần được hoàn tất ở giai vị Tư Lương. Sau đó, việc thứ hai sẽ bắt đầu được hoàn tất ở các giai vị sau.  Nên bài tụng nói là ở giai vị Tư Lương, hai Thủ còn hiện hữu ở trạng thái tiềm ẩn, do chưa được hàng phục, đoạn trừ.

 

Bài tụng thứ hai (Gia Hạnh vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

              "Hiện tiền lập thiểu vật

              Vị thị Duy Thức tánh

             Dĩ hữu sở đắc cố,     

            Phi thật trụ Duy Thức"

      Tạm dịch:

              "Lúc này đã tạo được chút thành tựu

              Chưa là Duy Thức tánh

             Do đã có chỗ sở đắc

             Không là thật trụ Duy Thức"

      Ý nghĩa 4 câu của Gia Hạnh vị được ghi nhận là:

            Câu 1 và câu 2: " Hiện tiền lập thiểu vật Vị thị Duy Thức tánh " (Lúc này đã tạo được chút thành tựu,  Chưa là Duy Thức tánh): Ở giai đoạn này, hành giả đã tạo thêm được một số thành tựu trên con đường tu tập. Cảm nhận theo  Biện Trung Biên Luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt),  các thành tựu tu tập này bao gồm các thành tựu công phu tu tập về 4 Niệm Xứ, 4 Chánh Cần, 4 Như Ý Túc, 5 Căn, 5 Lực, và Tứ Gia Hạnh (tổng cọng là 22 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm). Theo luận Hiển Dương Thánh Giáo (Tác giả: Đại sĩ Vô Trước (310-390), Dịch giả Phạn- Hán: Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), Dịch giả Hán- Việt: Quảng Minh), và theo Biện Trung Biên luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt) , ý nghĩa của 22 phẩm này được ghi nhận tổng quát như sau:

       1) Tứ Niệm Xứ: là 4 chỗ qui huớng, tập trung tâm thức  để giảm thiểu bớt đi tạp niệm  và để tăng cường thêm sức Định, sức Huệ.  4 chỗ đó là:

             1. Thân: tâm niệm qui hướng về nhục sắc thân, theo sát và rõ biết về thân, về hơi thở vào ra nơi thân, cảm nghiệm được sự Bất Tịnh nơi thân của chính mình.

            2.  Thọ: tâm niệm qui hướng và rõ biết về các cảm thọ nơi thân và nơi tâm của chính mình. Có 5 cảm thọ chính là Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ, nhưng tất cả rõ ra đều chỉ là khổ đau, não phiền.

            3. Tâm : tâm niệm qui hướng và rõ biết về các hành chuyển, các trạng thái Vô Thường, các sắc thái hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.

           4. Pháp: tâm niệm qui hướng và rõ biết về dạng loại, hành trạng, bản chất Vô Ngã của các pháp hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.

     2) Tứ Chánh Cần: bao gồm 4 pháp rèn luyện tâm thức qui hướng về chỗ thiện lành, lìa xa các nẻo ác trược. 4 pháp này là:

          1. Pháp ác đã sanh thì khởi ước muốn, nỗ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để đoạn trừ chúng,

          2. Pháp ác chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để giữ cho chúng không sanh,

         3. Pháp thiện chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để phát sinh chúng,

         4. Pháp thiện đã sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để an trú, không quên lãng, tu viên mãn, tăng trưởng rộng lớn thêm.

     3) Tứ Như Ý Túc (còn gọi là “Tứ Thần Túc”) bao gồm 4 thứ : Dục Như Ý Túc, Cần (Tinh Tấn) Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc. Ý nghĩa Tứ Như Ý Túc được ghi nhận theo Hiển Dương Thánh Giáo luận là:

          1. Dục Như Ý Túc: là Dục Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Dục Như Ý Túc và ba Như Ý Túc còn lại đều là các loại Tam Ma Địa (Định). Dục Như Ý Túc được gọi là Dục Tăng Thượng Tam Ma Địa. Định này bắt nguồn từ công phu tu tập Tứ Chánh Cần, từ nơi tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên. Định sau đó được tiếp tục triển chuyển ra thành Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh.

         2. Cần Như Ý Túc: là Cần Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là tinh tấn, dũng mãnh, nhiệt thành, siêng năng tu tập 8 pháp Đoạn Hành để chứng đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh. Tám pháp Đoạn Hành là pháp tu căn bản của Tứ Như Ý Túc, đặc biệt ở 3 Như Ý Túc sau (Cần Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc). Tám pháp Đoạn Hành bao gồm:

        (1) Dục : là tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên.

       (2) Cần (Tinh Tấn): là siêng năng tu tập Xa Ma Tha (Chỉ) và Tỳ Bát Xá Na (Quán).           

       (3) Tín: là nhân tố để khởi Dục, là sở nhân cho Dục, do từ Tín mà có Dục sanh khởi.

      (4) An: là nhờ có Tinh Tấn mà thân tâm không còn nặng nề, thô nặng mà trở nên nhẹ nhàng, thư thái để có thể kham nhiệm.

      (5) Chánh Niệm: là phòng hộ tâm hôn trầm và trạo cử của Tùy Phiền Não khiến cho tâm ghi nhớ, không quên.

      (6) Chánh Tri: là tâm liền nhận ra, nhận thấy, nhận biết bất cứ khi nào có Tùy Phiền Não hiện hành.

      (7) Tư: là tâm tạo tác trong khi Tịnh Chỉ (tâm chán ghét các cảnh sở duyên nổi lên từ trạo cử) và khi Sách Cử (tâm phấn chấn trở lại sau khi hôn trầm).

     (8) Xả: là tâm bình đẳng, chánh trực, an trú Bất Nhiễm Ô, đã rời xa trạo cử, hôn trầm.

    3. Tâm Như Ý Túc: là Tâm Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là hành giả tu tập hạnh Xa Ma Tha, tư duy nội pháp (các Tưởng Uẩn, Hành Uẩn của 5 Uẩn), đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh mà thành tựu Tam Ma Địa.

   4. Quán Như Ý Túc: là Quán Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là do công phu tu tập quán sát mà thành tựu Tam Ma Địa: hành giả nghe học Chánh Pháp, ghi nhớ rồi dùng trí tuệ giản trạch, quán sát, biến giác quán sát mà đắc Tam Ma Địa”.

Các thành quả này là tiền đề cơ bản để xây dựng và hình thành nên hai phần tiếp theo trong tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm là Ngũ Căn và Ngũ Lực.

      4) Ngũ Căn (Năm Căn) và Ngũ Lực (Năm Lực): bao gồm Tín Căn và , Tấn Căn và, Niệm, Căn và, Định Căn và, và Tuệ Căn và. Chữ “Căn” ở đây có thể được xem là căn nguồn, cội nguồn, căn cứ địa, căn cứ xuất phát, nơi khởi phát ra 5 Lực, 5 khả năng, 5 trạng thái hoạt dụng thiện lành của tâm thức là Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ . Ý nghĩa của 5 Căn và 5 Lực được sơ lược ghi nhận như sau:

            1. Tín Căn và Tín Lực: là do Thế Gian Đạo khiến tâm thanh tịnh, trong sáng, không dơ bẩn, lìa Tùy Phiền Não, được trú Bất Động. Rồi sau cầu Thánh Đế Hiện Quán đễ vĩnh đoạn Tùy Miên, tu tập các phương tiện đối trị, nhờ đó tăng khởi Thượng Tín Căn, Thượng Tín Lực.

           2. Tấn Căn (còn gọi là Chánh Cần Căn) và Tấn Lực: là dựa vào Tín Căn và Tín Lực, tu tăng tiến dũng mãnh, cùng hành chuyển với Tín Căn và Tín Lực.

          3. Niệm Căn và Niệm Lực: là dựa vào Tấn Căn và Tấn Lực nên trí được sáng tỏ, không quên lãng, cùng hành chuyển với Tấn Căn và Tấn Lực.

         4. Định Căn (còn gọi là Đẳng Trì Căn) và Định Lực: là dựa vào Niệm Căn và Niệm Lực, Tâm Trú Nhất Cảnh, cùng hành chuyển với Niệm Căn và Niệm Lực.

         5. Tuệ Căn và Tuệ Lực: là dựa vào Định Căn và Định Lực, Tuệ giản trạch các pháp, cùng hành chuyển với Định Căn và Định Lực.

    5) Tứ Gia Hạnh: bao gồm 4 giai vị là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị, và Thế Đệ Nhất vị.

         1. Noãn Vị: (Noãn là ấm nóng) là giai đoạn tâm thức cảm thấy được ấm nóng do từ công phu tu tập 5 Căn, 5 Lưc. Đây là giai đoạn báo hiệu sắp có lửa, ánh sáng nơi Thánh Đạo. Ở giai vị này, hành giả quán thấy các pháp tự tướng, các pháp cộng tướng đều chỉ là ý ngôn mà hoạch đắc Trí Pháp Minh, quán sát được chân xác các cảnh sở duyên của các pháp.

         2. Đảnh Vị: (Đảnh là đỉnh đầu, đỉnh núi) là từ Noãn Vị được tăng trưởng rồi thành mãn mà chuyển lên.

         3. Nhẫn Vị: Nhẫn là xác nhận (nhẫn khả) các pháp chỉ toàn là duy tâm, nên từ đây không còn bị thoái đọa trên con đường tu tập nữa.

        4. Thế Đệ Nhất Vị: là thấy rõ cả thế gian chỉ là pháp hữu lậu. Trong các pháp hữu lậu này, pháp Hiện Quán của Bồ Tát là hơn cả nên gọi là Thế Đệ Nhất. Đến đây, Bồ Tát tu tập pháp Hiện Quán Thánh Đế, quán sát thành công nên thấu rõ được Lý Tứ Đế ở ba cõi (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới) mà có đủ được 16 Tâm (16 Trí) cần thiết để “Thấy Đạo”(Kiến Đạo), đắc Thánh vị. Bồ Tát hội nhập Cảnh Không, hòa nhập vào A Lại Da thức nên khiến 7 Chuyển Thức không còn phát sinh, làm điều kiện đưa đến Định Vô Gián để phát sinh Trí Vô Lậu, gọi là đắc nhập Kiến Đạo và Chánh Tánh Ly Sanh. Đắc nhập Kiến Đạo được gọi là đã chứng Thánh vị, đắc quả vị Tu Đà Hoàn (bên Thanh Văn thừa), tương đương với quả vị Bồ Tát Sơ Địa (quả vị đầu tiên trong 10 quả vị Bồ Tát Đăng Địa bên Bồ Tát thừa).

       Câu 3 và câu 4: “Dĩ hữu sở đắc cố, Phi thật trụ Duy Thức” (Do đã có chỗ sở đắc, Không là thật trụ Duy Thức): Chỗ thành tựu tu tập trong 24 phẩm Trợ Đạo vừa nêu trên được gọi là chỗ "Sở Đắc". Đắc chính là 1 trong 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành, được kể đến đầu tiên trong Duy Thực 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành bao gồm: 1. Đắc, 2. Mạng Căn, 3.Chúng Đồng Phận, 4. Dị Sanh Tánh, 5. Vô Tưởng Định, 6. Diệt Tân Định, 7. Vô Tưởng Báo, 8. Danh Thân, 9. Cú Thân, 10. Văn Thân, 11. Sinh, 12. Trụ, 13. Lão, 14. Vô Thường, 15. Lưu Chuyển, 16. Định Vị, 17. Tương Ưng, 18. Thế Tốc, 19. Thứ Đệ, 20. Thời,  20.Phương,  22. Số, 23.Hòa Hợp, 24. Bất Hòa Hợp.  Được gọi là "Bất Tương Ưng Hành" vì 24 Tâm này không tương ưng, không lệ thuộc vào bộ ba "Căn-Trần-Thức" hòa hợp mà sinh khởi.  Nói cách khác, tâm thức của hành giả đã không còn bám đuổi theo 6 trần cảnh bên ngoài, mà quay ngược vào bên trong nội tâm, hướng về Mạt Na thức và ra sức vượt qua Mạt Na thức. Tựu trung, Mạt Na thức có 6 đặc điểm chính yếu, tạm nêu như sau:

                1. Mạt Na thức là thức đầu tiên của 7 Chuyển Thức triển chuyển từ A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) nên nó còn có tên gọi là Thức Thứ Bảy. Mạt Na thức có tánh Hữu Phú Vô Ký; gọi là Hữu Phú vì nó có chỗ nương dựa vào nơi thức A Lại Da, gọi là Vô Ký vì nó không  có công năng phân biệt thiện ác như  Ý thức.

               2. Mạt Na Thức là thức trung gian giữa A Lại Da thức và Ý thức nên nó còn được gọi là Ý Căn (Căn nguồn của Ý thức). Gọi là Căn nguồn của Ý thức, vì Mạt Na thức có công năng đem các chủng tử từ Tạng thức A Lại vào nơi Ý thức, khiến Ý thức có thêm cơ sở cho hoạt dụng phân biệt cảnh trần. Ngoài ra, cũng chính Mạt Na thức đem các pháp hiện hành từ nơi Ý thức mà truyền ngược vào Tạng thức, biến thành chủng tử thêm cho kho Tạng thức, nên nó lại còn có tên là ”Truyền Tống thức”.

              3. Mạt Na thức có tánh chấp trụ, đầu mối của tâm phan duyên và tâm phân biệt:   Mạt Na thức chấp Kiến Phần của A Lại Da làm tự ngã nên có ra Ngã Tướng đầu tiên. Rồi từ Ngã Tướng này lại có sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) mà tiếp tục phát triển tựu thành 3 tướng còn lại là Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng. Sự tựu thành và phát triển ra 4 tướng (Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả) được cảm nhận là ý niệm về "Chúng Sanh Trược" ở kinh Thủ Lăng Nghiêm.

            4. Dưới ảnh hưởng tác động từ vô lượng chủng tử nghiệp thức, Mạt Na thức cũng có tánh tuôn chảy không ngửng nghỉ giống như ở A Lại Da thức. Nó thường được ví như tiếng nói thầm thì liên tục đêm ngày, lúc tỉnh thức và cả lúc mộng ngủ; hoặc ví như nước liên tục rỉ chảy từ ống nước ăn thông, nối liền vào biển lớn.

           5. Mạt Na thức cũng chính cưu mang sẵn trong nó tính chất phiền não. Điều này được thể hiện qua sự hiện diện nơi Mạt Na thức của 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não (Tham, Si, Mạn, Ác Kiến) và của 8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chính Tri). Tổng cọng là 12 tâm sở, chiếm đến 2 phần 3 trong 18 tâm sở cố hữu của Mạt Na thức (gồm 12 tâm sở Phiền não và có thêm 5 tâm sở Biến Hành cùng 1 tâm sở Biệt Cảnh Huệ).

          6. Mạt Na thức chính là lớp ngăn che ở giữa Ý thức và A Lại Da thức. Nó khiến tâm hành giả không thể cảm nhận, còn mờ mịt về A Lại Da thức và về Như Lai Tạng tâm nên nó cũng thường được nhà Thiền ví như Thùng Sơn Đen, Đầu Sào Trăm Trượng, Vô Thủy Vô Minh… Muốn cảm nhận và thể nhập vào A Lại Da thức, tâm thức hành giả cần phải vượt qua lớp rào chắn Mạt Na thức Vô Thủy Vô Minh, tức là vượt qua lớp rào chắn tư lương chấp ngã này. Khi đó, tâm hành giả không còn có chấp Ngã nữa, tâm được hòa nhập vào thức A Lại Da, trụ vào Duy Thức tánh.

       Do vậy, các thành tựu nơi Tứ Gia Hạnh vị này cũng chỉ được xem là "chút ít", chưa có thể hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức nên bài tụng nói " Chưa là Duy Thức tánh”. 

 

Bài tụng thứ ba (Thông Đạt vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Nhược thời ư sở duyên

            Trí đô vô sở đắc

             Nhỉ thời trụ Duy Thức

            Ly Nhị Thủ tướng cố "

       Tạm dịch:

              "Nếu khi đối trước cảnh

            Trí đều không có chỗ đắc

            Lúc đó trụ Duy Thức

            Đã lìa tướng Hai Thủ"

       Thông Đạt vị tương ưng với quả vị Kiến Đạo nơi Bồ Tát Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa), quả vị đầu tiên trong 10 Thánh vị Đăng Địa của Thập Địa Bồ Tát.  Bên Thanh Văn thừa, quả vị này tương ứng với Sơ Quả vị Tu Đà Hoàn. Gọi là Kiến Đạo bởi vì bắt đầu từ quả vị này, tâm Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, đã không còn có chấp Ngã nên Bồ Tát đã bắt đầu sống được với phần nào Giác Tánh, đã thấy biết  ("Kiến") rõ con đường ("Đạo") tu tập chơn chánh thâm sâu nhất trong Phật Đạo.  Bậc Sơ Quả Tu Đà Hoàn, còn gọi Nhập Lưu hay Thất Lai, nhờ vào tuệ giác có được từ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh nên đã tận diệt ba kiết sử Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ; nhưng các vị còn phải có bảy lần tái sanh trở lại vào Dục Giới để tiếp tục con đường tu tập tối thượng. Theo kinh Hoa Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: Đại sư Thật Xoa Nan Đà (652-710), Dịch giả Hán-Việt: Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Bồ Tát Sơ Địa được  goi tên là Hoan Hỷ Địa vì từ nay, Bồ Tát được vui mừng rất lớn (hỷ duyệt, hân khánh...) do đã bắt đầu khởi nhận được trí Bát Nhã, thấy rõ con đường Tu Đạo. Các Ngài mong cầu Phật Trí, luôn nghĩ tưởng về Tam Bảo, không còn tham luyến danh sắc, ưa thích thực hành Bố Thí Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), Bố Thí Nhiếp Pháp, Ái Ngữ Nhiếp Pháp (2 trong 4 Tứ Nhiếp Pháp), Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả) nên tâm các Ngài được Vô Úy, không còn kinh sợ nơi thế gian, sinh tử.  Đây chính là " KIẾN ĐẠO KHỞI TU " (thấy ra con đường Đạo mà bắt đầu hành trì pháp Tu Tập tối thượng ) trong đạo Phật. Qui luật tất yếu ở đây là cần phải thấy ra con đường ("Kiến Đạo"), sau đó mới có thể bước đi trên con đường ("Tu Đạo").

 

           Qua Biện Trung Biên Luận và qua Hiển Dương Thánh Giáo Luận, giai vị Kiến Đạo Tu Đà Hoàn chuyên chú tu tập về Thất Giác Chi, 7 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm sau khi đã hoàn tất tốt đẹp 22 phẩm ở các giai vị trước. Thất Giác Chi được định nghĩa là “Bảy chi hổ trợ cho Tuệ Giác”. Bảy chi này bao gồm:

                1. Niệm Giác Chi: là chi phần sở y cho Tuệ Giác, là tâm trí sáng tỏ Thánh Đế, không quên Thánh Đế. Đây là do đã có đủ thiện lực để Kiến Đạo hiện tiền, đắc nhập xuất thế Vô Công Dụng, Vô Phân Biệt.

                2. Trạch Pháp Giác Chi: là chi phần tự tánh của Tuệ Giác, là do đã có Tuệ Giác vô phân biệt, vô công dụng nên y chỉ nơi Niệm, cùng Niệm câu hành, vì thế hiểu rõ, giác ngộ Thánh Đế.

               3. Tinh Tấn Giác Chi: là chi phần xuất ly của Tuệ Giác, là sanh tâm dũng mãnh nơi Thánh Đế.

                4. Hỷ Giác Chi: là chi phần lợi ích của Tuệ Giác, là có tâm hỷ duyệt nơi Thánh Đế.

                5. Khinh An Giác Chi: là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, có thể là Tuệ tâm sở, là có thân tâm kham nhiệm ở trong Chân Đế Hiện Quán (Kiến Đạo ly Tam Giới), lấy tánh Kham Năng làm chỗ dụng công tu tập.

                6. Định (Tam Ma Địa) Giác Chi:  là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là chỗ sở y của Vô Nhiễm để có được Chuyển Y, là có tâm trú Nhất Cảnh Tánh ở trong Chân Đế Hiện Quán.

                7. Xả Giác Chi: cũng là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là tự tánh của Vô Nhiễm , là có tâm bình đẳng, tâm chánh trực, tâm không chuyển động ở trong Chân Đế Hiện Quán. Nơi Xả Giác Chi, các phiền não tạp nhiễm đều bị đoạn trừ nên hiển lộ tự tánh Vô Nhiễm .

Ý nghĩa 4 câu của Thông Đạt vị được ghi nhận là:

            Câu 1: " Nhược thời ư sở duyên " (Nếu khi đối trước cảnh): Câu này có 2 điểm quan trọng sau:

                   1. Chữ "Thời" trong câu kệ này cũng chính là một trong 24 món Tâm Bất Tương Ưng Hành pháp, giống như chữ "Đắc" đã đề cập ở phần trên: Còn có "Thời" là còn chưa vượt thoát khỏi tầm tác động, ảnh hưởng của thức A Lại Da dù trí Bát Nhã đã được hé lộ.

                  2. Cảnh sở duyên của Thông Đạt vị có thể được phân biệt ra 2 loại: Loại 1 vẫn còn là 6 cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) của phần Tư Duy nơi Ý Thức hướng ngoại; loại 2 là cảnh giới của A Lại Da thức chỉ với 5 tâm sở Biến Hành và với 1 Xả Thọ nơi Ý thức hướng nội đã vượt qua "thùng sơn đen" Tư Lương chấp ngã Mạt Na thức. Nói cách khác, Thông Đạt vị là bậc Thánh đã có thêm được Thiên Nhãn, Huệ Nhãn nhưng Nhục Nhãn vẫn không mất.

          Câu 2: " Trí đô vô sở đắc " (Trí đều không có chỗ đắc):

                 "Trí không có chỗ đắc" này được cảm nhận chính là trí Bát Nhã. Trí Bát Nhã tự hiển bày khi tâm hành giả đã có đầy đủ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh vị và khi A Lại Da không còn bị Mạt Na thức che khuất.  Tựu trung, trí Bát Nhã có 6 đặc điểm sau:

              1. Trí Bát Nhã là Trí của các bậc Thánh, của các Bồ Tát Đăng Địa (Thập Địa Bồ Tát), bắt đầu từ Bồ Tát Sơ Địa (tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn bên Thanh Văn thừa) lên đến Bồ Tát Bát Địa (tương đương với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa). Trí này vượt hẳn qua trí tuệ thế gian: phàm phu và ngay cả các nhà bác học, thông thái của thế gian cũng không thể biết được Trí Bát Nhã khi chưa Kiến Đạo. Đến giai vị Thiện Huệ (Cửu Địa), không còn gọi là trí Bát Nhã vì Bồ Tát đã được thể nhập vào Phật trí bất tư nghì.

            2. Trí Bát Nhã là Trí đã khuất phục và đã vượt qua 2 chấp trụ cơ bản nhất của tâm thức:  Hai chấp trụ này là Ý thức tư duy chấp pháp khiến có sinh khởi ra mê mờ, phiền não (Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Căn Bản Phiền Não, Tùy Phiền Não...) và là Mạt Na thức tư lương chấp ngã khiến có ra 2 Thủ (Năng Thủ và Sở Thủ). Điều này khiến Trí Bát Nhã còn được gọi là Trí Vô Trụ, trí không có chỗ trụ (vượt qua ý niệm về không gian), trí không có lúc trụ (vượt qua ý niệm về thời gian) vì Thể và Dụng của trí Bát Nhã hằng hữu bàng bạc, mênh mang khắp không gian, khắp thời gian.

           3. Do đã vượt qua các chấp trụ nêu trên, Trí Bát Nhã là Trí sẵn có khả năng hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức. Nói cách khác, tầng bậc nhập Định của các bậc Thánh này có khi khiến tâm các vị chỉ còn có 5 tâm sở Biến Hành và Xả thọ của A Lại Da thức.

          4. Trí Bát Nhã là Trí thấy được Pháp thân (hay Pháp tánh, Phật tánh..) nên kinh Bát Nhã gọi Trí Bát Nhã là mẹ đẻ của chư Phật, chư Bồ Tát. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào mức độ tu tập: Ở Sơ Địa Bồ Tát (giai vị vừa được Kiến Đạo), Bồ Tát chỉ thấy được một phần Pháp thân mà thấy không rõ ràng; còn ở Bát Địa Bồ Tát (giai vị hoàn tất Tu Đạo), Bồ Tát thấy Pháp thân được trọn vẹn, toàn phần rõ ràng hơn.

           5. Do đã thấy ra Phật tánh, trí Bát Nhã là Trí tràn đầy thiết tha với Phật tánh nên đến lúc này, tâm Bồ Tát thực thụ chỉ hướng về Phật tánh, về Như Lai,về Vô Dư Y Niết Bàn mà không còn có chỗ bám víu,  chỗ sở đắc nào khác nên bài tụng nói là “Trí đều không có chỗ đắc”.

           6. Trong tu tập, trí Bát Nhã là Trí đã đã thấu rõ các hành chuyển, qui hướng, ưa thích...của tâm chúng sinh để giúp cho Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về Tứ Nhiếp Pháp  (4 pháp cấn thiết để nhiếp phục mà giáo hóa, hóa độ cho tất cả chúng sinh, bao gồm 1. Bố thí, 2. Ái ngữ, 3. Lợi hành, 4. Đồng sự);  và cũng là Trí thông thấu về 2 bờ, bờ bên này và bờ bên kia, để giúp Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về 10 Ba La Mật,  10 pháp tu tập đưa qua bờ bên kia, bao gồm: 1. Bố thí, 2. Trì giới, 3. Nhẫn Nhục, 4. Tinh Tấn, 5. Thiền Định, 6. Bát Nhã, 7. Phương tiện, 8. Nguyện, 9. Lực, 10. Trí Huệ,  mà đi từ bờ bên này  (bờ khổ đau- sinh tử) qua đến bờ bên kia (bờ giải thoát- tịch diệt).

         Câu 3 và câu 4: " Nhỉ thời trụ Duy Thức ,  Ly Nhị Thủ tướng cố " (Lúc đó trụ Duy Thức,  Đã lìa tướng Hai Thủ):  "Trụ Duy Thức" là an trụ A Lại Da thức, là an trụ Duy Thức tánh vì A Lại Da chính là tánh của Duy Thức. An trụ vào A Lại Da cũng có nghĩa là tâm thức Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, vượt qua Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức. Như thế, đến đây tâm thức Bồ Tát đã hoàn toàn rời lìa được 2 tầng lớp mê mờ quan trọng: Tầng lớp 1 là các tâm thức mê mờ của Kiến Hoặc (Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới Cấm thủ, Tà Kiến) từ nơi Ý thức chấp thủ, bám víu vào thân tâm 5 uẩn và vào dụng năng Thấy- Nghe- Hay- Biết (Kiến Văn Giác Tri) của thân tâm 5 uẩn; tầng lớp 2 là tâm thức bám víu chấp Ngã, tâm thức cội nguồn của Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức.  Chỗ này cũng chính là nền tảng cần thiết để Bồ Tát có thể tiếp tục tu tập đoạn trừ Tư Hoặc và xả bỏ A Lại Da thức trong các giai vị Tu Tập tiếp theo.

 

        Bài tụng thứ tư (Tu Tập vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Vô Đắc bất tư nghì

            Thị xuất Thế Gian Trí

            Xả nhị Thô Trọng cố

            Tiện chứng đắc Chuyển Y"

Tạm dịch:

              " Vô Đắc không thể nghĩ bàn

            Đây là trí xuất thế gian

            Xả xong hai Thô Trọng

            Liền Chuyển Y chứng đắc"

        Tu Tập vị tương ưng với quả vị Tu Đạo, bao gồm 7 quả vị của Bồ Tát Đăng Địa từ Địa 2 (Ly Cấu Địa) đến Địa 8 (Bất Động Địa). Kinh Hoa Nghiêm khai thị về các quả vị này, được ghi nhận sơ lược như sau :

               1. Bồ Tát Nhị Địa (Ly Cấu Địa): các Ngài tu tập thiên về Trì Giới (1 trong 10 Ba La Mật); về Ái Ngữ Nhiếp Pháp( 1 trong 4 Nhiếp Pháp);  các Ngài không còn có Tham, Sân, Si; xa lìa Tà Kiến cấu bẩn , nên được gọi tên là “Ly Cấu”.

               2. Bồ Tát Tam Địa (Phát Quang Địa): các Ngài tu tập thiên về Nhẫn Khả Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Lợi Hành Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); thông thạo Tứ Thiền, Bát Định, xuất nhập các Tam Muội; thành tựu vô lượng sức thần thông cùng Trí Quán Tướng, quán được tướng chơn thật của các pháp Hữu Vi, nên được gọi tên là "Phát Quang".

              3. Bồ Tát Tứ Địa (Diệm Huệ Địa):  các Ngài tu tập thiên về Tinh Tấn Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Đồng Sự Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); 10 pháp Minh Môn quán sát vào 10 Giới mà đắc được Trí Thành Thục, phát khởi Huệ phương tiện để Tu Đạo và Trợ Đạo, nên được gọi tên là "Diệm Huệ".

              4. Bồ Tát Ngũ Địa (Nan Thắng Địa):  các Ngài tu tập thiên về Thiền Định Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về tất cả công hạnh của 4 Nhiếp Pháp; (kể từ Ngũ Địa trở lên, các Bồ Tát đều có tu tập, công hạnh đầy đủ trọn vẹn 4 Nhiếp Pháp để nhiếp hóa chúng sinh), đắc các Đế Trí,Tín Giải Trí,Phương Tiện Trí; biết như thật về Tứ Thánh Đế, thấu đạt được Tâm Bình Đẳng; là giai vị khó vượt qua, khó ngăn hoại nên được gọi tên là "Nan Thắng".

             5. Bồ Tát Lục Địa (Hiện Tiền Địa):  các Ngài tu tập thiên về Bát Nhã Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), quán thế gian sinh diệt với tâm Đại Bi, quán về Ngã chấp, về nhị biên Có- Không chấp,  thông tỏ lý Duyên Khởi cùng 12 Nhân Duyên, quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng , nên các Ngài được Giải Thoát hiện tiền, Bát Nhã hiện tiền, Không Tam Muội hiện tiền, do vậy được gọi tên là "Hiện Tiền".

            6. Bồ Tát Thất Địa (Viễn Hành Địa):  các Ngài tu tập thiên về Phương Tiện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật),  9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật, thành tựu 10 môn Phương Tiện Huệ; 4 Nhiếp Pháp, 37 phẩm Trợ Đạo, 3 môn Giải Thoát; lại có thể nhập- xuất Diệt Tận Định nhưng không tác chứng, gọi là đã viễn ly Vô Hành thậm thâm nên được gọi tên là "Viễn Hành".

            7. Bồ Tát Bát Địa (Bất Động Địa):  Giai vị Bát Địa bên Bồ Tát thừa chính là A La Hán bên Thanh Văn thừa, giai vị hoàn tất giai đoạn Tu Tập Phật đạo. Các Ngài tu tập thiên về Nguyện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; đã thành tựu Phương Tiện Huệ, thành tựu về các Tánh Vô Sanh, Vô Khởi, Vô Tướng, Vô Tánh …; trong một niệm có thể dùng Trí Vô Công Dụng nhập cảnh giới Nhứt Thiết Chủng Trí.  Các Ngài đã lìa các tưởng phân biệt nơi Tâm – Ý – Ý thức, đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, được hạnh Vô Tránh, Tịch Diệt hiện tiền, bình đẳng 3 thuở (Sơ–Trung-Hậu), thanh tịnh các Đạo, khéo nhiếp trì Đại Nguyện lực, được Phật Lực gia hộ ban cho Như Lai Trí, Tự Lực khéo giữ gìn, Trí Nhẫn đệ nhất, thâm tâm Tuệ Giác, có thể khởi phát vô lượng, vô biên Trí sai biệt, như thuyền vào biển lớn chỉ cần theo gió mà đi, không cần tốn hao công hạnh  nên được gọi tên là "Bất Động" hay “Vô Sở Hành”, “Vô Công Dụng”, ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn’...

 

       Ý nghĩa 4 câu của Tu Tập vị được ghi nhận là:

              Câu 1: “ Vô Đắc bất tư nghì”  (Vô Đắc không thể nghĩ bàn):

                   “Vô Đắc” là cảnh giới đã thoát qua khỏi ảnh hưởng tác động của Mạt Na thức và của cả A Lại Da thức, cảnh giới không còn có chỗ Sở Đắc, khách thể , hay cảnh Sở Đắc; cũng không còn có Năng Đắc, chủ thể,  hay khả năng có thể có thêm, tiếp nhận thêm bất cứ sự vật gì vào trong tâm thức vốn đã quá thanh tịnh.  Vô Đắc là hệ quả tất yếu của công phu tu tập xả bỏ thức A Lại của Tu Tập vị. Công phu này được diễn đạt rõ qua 4 câu tụng trong Bát Thức Qui Củ Tụng, tác giả: ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), như sau:

                "Bất Động Địa tiền tài xả Tàng

                Kim Cang Đạo hậu Dị Thục không

                Đại Viên, Vô Cấu đồng thời phát

                 Phổ chiếu thập phương sát trần trung"

Tạm dịch:

                "Trước địa vị Bất Động  còn phải xả bỏ Tàng thức

                Sau Kim Cang Đạo, thức Dị Thục không có nữa

                Trí Đại Viên, thức Vô Cấu đồng thời phát

                Chiếu khắp mười phương vi trần quốc độ"

Cảnh giới Vô Đắc được cho là “bất tư nghì” (không thể nghĩ bàn) vì nó đã  vượt qua A Lại Da thức, vượt khỏi các tâm Bất Tương Ưng của A Lại Da thức là Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân. Ba Thân này chính là bản thể, là chất liệu căn bản của tất cả nghĩ bàn, bao gồm ngôn ngữ, văn tự, suy tư, hiểu biết, phân biệt cho muôn loài chúng sinh.

 

             Câu 2: "Thị xuất thế gian trí” (Đây là trí xuất thế gian):

Trí thế gian là trí chỉ có thể thu nhận, quán sát, phân biệt cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,Pháp) mà không thể thấy biết thấu suốt được, không hội nhập, ứng hợp được với cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc. Nhưng  đây không phải là cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc xuất ra khỏi thế gian trí mà chính là trí thế gian do không còn có sự ứng hợp nên tự xuất ly, tự cách ly ra khỏi cảnh giới u tuyệt, huyền nhiên, bất khả tư nghì này.

            Câu 3: " Xả nhị Thô Trọng cố” (Xả xong hai Thô Trọng):

            Trong  5 thọ, A Lại Da thức chỉ có duy nhất một Xả thọ. Các Bồ Tát Đăng Địa đã thể nhập, tương ưng vào A Lại Da thức nên các Ngài ứng hợp với thọ Xả này, công phu tu tập đầy đủ về Hạnh, Nguyện, Thiền Định khiến phát sinh các Đại Tâm, các trí tuệ thanh tịnh mà xả bỏ 2 thứ Thô Trọng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng.  Đây là hai rào cản rất vi tế và thâm sâu trong tâm thức, khiến tâm thức bị ngăn ngại không được thông thấu với Phật tánh, Bồ Đề trí, nên được gọi là "Chướng".  

 

             Phiền Não Chướng chính là 6 tâm sở Căn Bản Phiền Não bao gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến; trong đó 5 tâm sở đầu (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi ) được gọi là Tư Hoặc, còn Ác Kiến được gọi là Kiến Hoặc. Kiến Hoặc lại chia ra 5 loại là Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ và Giới Cấm Thủ. Do vậy, 6 Căn Bản Phiền Não cũng thường được gọi là Kiến Tư Hoặc. Gọi là “Hoặc” vì đây là Bất Giác, mê mờ, vô minh khiến chúng sanh phải chịu trầm luân sanh tử. Duy Thức Học minh định lý do sâu thẳm nhất khiến có ra Bất Giác chính là do còn có sự hiện hữu của kho tàng chủng tử tập khí nghiệp thức nơi A Lại Da thức. Nên chỉ khi nào kho tàng này bị xả bỏ hoàn toàn qua tu tập tối thượng nơi các vị Bồ Tát Đăng Địa, tâm thức mới có thể trở về tương hợp, ứng nhập vào với Chơn Tâm, Chơn Như bản hữu. Do vậy, lý Tứ Đế và lý Thập Nhị Nhơn Duyên ít nhiều có liên hệ đến bóng dáng và sự biến hành, tác động của kho tàng chủng tử này. Như phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa, Bồ Tát mới rõ thấu được Lý Duyên Khởi 12 Nhơn Duyên nhưng vẫn còn tu tập tiếp tục xả bỏ chủng tử Tàng Thức. Chỉ khi đến được giai vị Bất Động (Đệ Bát) Địa, Tàng Thức mới được xả bỏ xong; lúc này, Tàng Thức A Lại Da được đổi tên gọi là Bạch Tịnh Thức, hay Vô Cấu Thức; hành giả được xem là đã Kiến Tánh.

 

          Trong khi Phiền Não Chướng là chướng có liên hệ đến các chủng tử của 6 Căn Bản Phiền Não, thì Sở Tri Chướng được cảm nhận là chướng có liên hệ đến tất cả dạng loại chủng tử còn lại có trong A Lại Da thức. Đây là bao gồm tất cả các chủng tử có công năng tri giác, nhận biết, phân biệt vào một đối tượng nào đó; nôm na gọi là có chỗ trụ, có chỗ để tri giác, nhận biết (gọi là "Sở Tri" = "chỗ biết").  Còn có "chỗ" là còn chưa được bình đẳng, là còn trái với Giác thể Chơn Như vốn là bình đẳng, nhất như. Lý tánh bình đẳng, nhất như cao diệu này lại bị che lấp bởi các tâm thức chấp ngã và chấp pháp của chúng sinh.  Nên các Bồ Tát Đăng Địa phải tu tập đến giai vị Nan Thắng (Đệ Ngũ) Địa mới có được 10 Tâm Bình Đẳng,  rồi phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa mới quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng.

 

                    Câu 4: " Tiện chứng đắc Chuyển Y” (Liền Chuyển Y chứng đắc):

                  "Tiện chứng đắc" được cảm nhận là có ý nghĩa rất vi tế, sâu sắc  vì chữ "chứng đắc" ở đây không đồng nghĩa với chữ "Đắc" nơi 24 Tâm Bất Tương Ưng nơi các giai vị tu tập trước. Câu tụng này là cảnh giới của Bồ tát Bất Động (Đệ Bát) Địa: sau khi đã hoàn tất công phu xả bỏ trọn vẹn kho tàng chủng tử nghiệp thức, xả bỏ A Lại Da thức; thân tâm các vị Bồ tát Bất Động Địa (tương ưng với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa) đã được hoàn toàn thanh tịnh, lìa xa các Tưởng nơi Tâm, Ý, và Ý thức; nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ngoài ra, do sức bản nguyện rộng lớn, các Ngài còn được thấy vô lượng chư Phật hiện ra và được chư Phật ban cho Như Lai Trí...Như thế "Tiện chứng đắc" có thể được tạm giải thích là "sự tương ưng, ứng hạp tự nhiên được tiếp nhận ân phước từ chư Phật", nên đây tạm gọi là sự chứng đắc mà không có thêm vào, không có bớt ra, không có dụng công như sự chứng đắc thông thường ở các giai vị trước.

          "Chuyển Y" là chuyển đổi 4 chỗ Y chỉ, là chuyển đổi từ Thức sang Trí, bao gồm 4 chuyển đổi: Chuyển Ý thức ra Diệu Quán Sát Trí, chuyển Mạt Na thức ra Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Tiền Ngũ thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) ra Thành Sở Tác Trí, và chuyểnA Lại Da thức ra "Đại Viên Cảnh Trí". Đây cũng là sự chuyển đổi tự nhiên, như nhiên, tự  hiện khởi sau khi đã Kiến Tánh mà không qua bất kỳ dụng công, tác ý nào.

 

              Bài tụng thứ năm (Cứu Cánh vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

                         "Thử tức Vô Lậu giới

                         Bất tư nghì Thiện Thường

                        An lạc giải thoát thân

                        Đại Mâu Ni danh pháp"

          Tạm dịch:

                       "Đây là cõi Vô Lậu

                        Thiện Thường không thể nghĩ bàn

                        Thân giải thoát, an lạc

                        Tên gọi Đại Tịch Tịnh"

 

                  Cứu Cánh vị là giai vị tu tập sau cùng của Duy Thức Học, bao gồm các địa vị từ Bồ Tát Thiện Huệ (Đệ Cửu) Địa, Bồ Tát Pháp Vân (Đệ Thập) Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, và Phật. Kinh Hoa Nghiêm khai thị về Thiện Huệ  Địa và Pháp Vân Địa, được ghi nhận sơ lược như sau :

                        1.     Bồ Tát Cửu Địa (Thiện Huệ Địa):  các Ngài tu tập thiên về Lực Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; thâm nhập Phật Tam Muội, quán sát bất tư nghì Đại Trí tánh; tu tập 10 Lực, đức Vô Úy và 18 Bất Cộng pháp của chư Phật, theo chư Phật chuyển Pháp luân; được 4 Vô Ngại Trí, khéo diễn thuyết hóa độ, điều phục chúng sinh; thể nhập Tịch Diệt, Giải Thoát, Phật Trí bất tư nghì nên được gọi tên là "Thiện Huệ".

                       2.     Bồ Tát Thập Địa (Pháp Vân Địa):  các Ngài tu tập thiên về Trí Huệ Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; các Ngài thể nhập Phật cảnh giới, được Phật quán đảnh làm bậc Thọ Chức; tùy thuận công hạnh Tịch Diệt của Như Lai, thể nhập Tam Muội tối hậu, thể hiện được các quang minh của chư Phật; Bồ Tát hạnh ví như Đại Hải, có thể an trì, nhiếp thọ vô lượng Đại pháp của Như Lai; các Ngài dùng Tự Nguyện Lực nổi mây Phước Đức Đại Bi, chấn sấm Đại Pháp, nháng chớp Trí Huệ Vô Úy, nên được gọi tên là " Pháp Vân ".

 

           Ba  giai vị sau cùng (Đẳng Giác, Diệu Giác, Phật) không còn có dụng công tu tập nữa, cảnh giới chư Phật lại quá huyền diệu, quá nhiệm mầu, quá bất khả tư nghì nên kinh luận rất ít khi đề cập đến.

 

       Ý nghĩa 4 câu của Cứu Cánh vị được ghi nhận là:

                Câu 1 và câu 2:“ Thử tức Vô Lậu Giới, Bất tư nghì Thiện Thường

                   (Đây là cõi Vô Lậu, Thiện Thường không thể nghĩ bàn)

          Cảnh giới của chư Phật là cõi Vô Lậu, không còn bị rơi rớt trở lại vào thế gian. Cảnh giới này được tạm mô tả là cảnh giới cực kỳ thanh tịnh, không còn hiện hữu bất kỳ dấu vết, bóng dáng của chủng tử, nghiệp thức nên cũng không còn có bất cứ tỳ vết nào của phiền não, khổ đau,  đã tuyệt nhiên vắng bóng tất cả phân biệt, chấp trước nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thiện. Cảnh giới nhiệm mầu, như nhiên, tận xuất Thế Gian này lại cũng tuyệt đối thường hằng, đã siêu tuyệt, vượt thoát khỏi các chu trình biến hoại Sinh-Tử, Có-Không của thế gian nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thường.

    Câu 3 và câu 4:“ An lạc giải thoát thân  Đại Mâu Ni danh pháp

                          (Thân giải thoát, an lạc   Tên gọi Đại Tịch Tịnh)

 

                  Thân an lạc, giải thoát tối hậu chính là pháp thân của chư Phật. Gọi là An Lạc vì đã tuyệt nhiên không có bất cứ vướng chấp phiền não, cũng là nghĩa của chữ “Tịch” (tuyệt nhiên vắng bóng);  gọi là Giải Thoát vì đã vượt thoát ra khỏi tất cả ràng buộc của kho tàng chủng tử nghiệp cảm nơi A Lại Da thức, cũng là nghĩa của chữ “Tịnh”(tuyệt nhiên trong sáng). Do từ ý nghĩa này,  2 chữ An Lạc và Giải Thoát cũng được gọi là Tịch và Tịnh. Tịch Tịnh cũng được gọi là Mâu Ni, là danh hiệu của đức Bổn Sư vậy.

 

                     Do bổn tánh Bình Đẳng và thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân an lạc và giải thoát vốn thường sẳn đủ, quang minh thường hằng biến chiếu nơi muôn loài chúng sinh. Nhưng theo Duy Thức Học, chúng sinh không thể thấy biết, thụ hưởng, sử dụng nguồn quang minh này là do còn bị ngăn che bởi 3 lớp màn che, rào ngăn chính. Lớp 1 là Tiền Lục Thức (Ý thức và Tiền Ngũ Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân:) tư duy chấp mắc vào cảnh trần (6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) khiến không ngớt gây tạo, phát sinh biết bao chủng tử phiền não nghiệp chướng.  Lớp 2 là Mạt Na thức, cội nguồn tư lương chấp ngã, đón đưa chủng tử nghiệp thức, gây tạo ra vô lượng phiền não, nghiệp chướng mà phải đến giai vị Kiến Đạo mới vượt qua được lớp màn che Ngã chấp này và mới rõ ra được con đường tu tập tối thượng (Kiến Đạo Khởi Tu). Lớp 3 là A Lại Da thức, cội nguồn tàng trử kho tàng chủng tử nghiệp thức; kho tàng này cần được xả bỏ hoàn toàn, gọi là Kiến Tánh, để chuyển Thức thành Trí và để cảnh giới, pháp thân an lạc- giải thoát tự hiện khởi trở lại.

 

                  Trong nhà Thiền có câu chuyện kể:  Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) đến Tào Khê tham yết Lục Tổ Huệ Năng (638-713).  Tổ hỏi: "Ở đâu đến?", Ngài thưa: "Ở Tung Sơn đến." Tổ lại hỏi: "Đem vật gì đến?", Ngài trả lời không được, bèn ở lại với Tổ. Sau tám năm, Ngài chợt có tỉnh, liền đến trình Tổ :"Nói một vật là không đúng". Tổ liền hỏi: "Lại có thể đạt đến chăng?" Ngài đáp: "Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được." Tổ bèn ấn chứng:  "Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế".  Và khi đã trở về được với bổn tánh Bình Đẳng, thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân tịch tịnh, an lạc và giải thoát này thì "ai ai cũng như thế" vậy.

 

 

Khánh Hoàng

Plano _ January 15, 2024

Sơ Quát Về Cội Nguồn Vọng Tưởng

Qua Duy Thức Học

 

 Khánh Hoàng

 

Tưởng là một trong những sắc thái sự sống căn bản nhất của tất cả các loài chúng sinh, bao gồm hữu tình chúng sinh và cả vô tình chúng sinh. Tưởng cũng là tác nhân có vai trò tác động chủ yếu trong vô vàn khổ-vui, thất tình, lục dục... của bao kiếp sống luân hồi; và nó cũng là đối tượng thử thách lớn cần được chế phục, vượt qua trong tu tập thiền định, giải thoát. Theo Duy Thức Học, cội nguồn của Tưởng xuất phát từ nơi A Lại Da thức , mà sự  hiện diện của Tưởng thì bao khắp, xuyên suốt 8 thức Tâm Vương (Bát thức Tâm Vương).  8 thức Tâm Vương bao gồm A Lại Da thức, Mạt Na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức,Thiệt thức, và Thân thức . Từ Mạt Na thức đến Thân thức được gọi tên là 7 Chuyển thức, từ Ý thức đến Thân thức  được gọi tên là Tiền Lục Thức (Sáu Thức Trước), từ Nhãn thức đến Thân thức được gọi tên là Tiền Ngũ Thức (Năm Thức Trước). 8 Thức Tâm Vương được chia ra làm 3 nhóm Năng Biến là: A Lại Da thức, Mạt Na thức, và Tiền Lục Thức.

Thức A Lại Da (nhóm Năng Biến thứ nhất ) thuộc về Tâm sinh diệt, để phân biệt với Chơn Tâm (Như Lai Tàng Chơn Như Tâm) bất sinh, bất diệt. Thức này hiện diện ở tất cả các loài chúng sinh hữu tình (chúng sinh có đủ 8 thức Tâm Vương) và ở cả chúng sinh vô tình (chúng sinh chỉ có 2 thức là thức A Lại Da và thức Mạt Na mà không có Ý thức và Tiền Ngũ thức). Nó có rất nhiều tên gọi khác như Dị Thục thức (Thức chuyển biến đổi khác, thành thục từ nhân ra quả), Nhất Thiết Chủng thức (Thức có tất cả, vô lượng chủng tử), Tàng Thức (Thức kho tàng có công năng tích chứa), Đệ Bát Thức (Thức thứ tám trong Bát Thức Tâm Vương), Căn Bản Thức (Thức cội nguồn, từ đó sinh xuất ra 7 Chuyển thức kia), ...Đặc điểm chính yếu của A Lại Da thức là vô phú (rất mênh mang, do không có đủ sức để trụ bám, chấp trước, vướng mắc) và vô ký (hồn nhiên,  không có sự phân biệt thiện ác, tốt xấu, hơn thua, hay dở;  không có âu lo, khổ sở, mừng vui, an vui vì không có các Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, mà chỉ duy nhất có một Xả thọ...). Do là vô phú,  vô ký nên trong tổng số 51 tâm sở của Duy Thức Tam Thập Tụng (Tác giả: Tổ Thế Thân (316-396)), A Lại Da thức chỉ có 5 tâm sở gọi tên là 5 Biến Hành Tâm Sở,  bao gồm Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, và Tư.

Được gọi là Tâm Sở vì đây là hành trạng (trạng thái chuyển hành, chuyển biến, hiện tướng sanh diệt) của 8 thức Tâm Vương. Chữ "Tâm Sở" có thể được tạm dịch là "Chỗ Tâm" cũng như các chữ "Sở Kiến", "Sở Văn", "Sở Tri", "Sở Trụ"...có thể tạm dịch là "Chỗ Thấy", "Chỗ Nghe", "Chỗ Biết", "Chỗ Y Nương"… Như thế,  "Tâm sở Tác Ý" có thể được tạm dịch là "Chỗ Tâm khởi tạo ra Ý",  "Tâm sở Xúc" được tạm dịch là "Chỗ Tâm chạm biết",  "Tâm sở Thọ" là "Chỗ Tâm cảm nhận biết"... Tương tợ, chữ “Tâm Sở Hữu” có thể được dịch là "Chỗ Tâm Có" hoặc "Chỗ Có Tâm" (tức là chỗ Tâm có mặt, chỗ Tâm có biểu lộ sự hiện hữu).  Lý do được gọi tên như vậy là vì Thức A Lại Da nói riêng và bản thể tâm thức nói chung vốn là mênh mang biến khắp ra các nơi chốn, không có chỗ ở nhất định, nhưng nay do ở trạng thái bị tác động bởi các duyên nào đó, nên chúng bắt đầu có sư hiện khởi ra các chỗ có tướng trạng khác nhau. Các tướng trạng này chính là các Tâm Sở hoặc Tâm Sở Hữu.  5 Biến Hành Tâm Sở  nơi A Lại Da thức chính là 5 tướng trạng chuyển hành tâm thức tinh khôi, sơ khai nhất của chúng sinh.  Sở dĩ có tên gọi là Biến Hành vì do các tâm sở này có sự hiện diện ở khắp các nơi chốn trong không  gian, ở trong mọi lúc của thời gian, bao gồm tất cả tánh (thiện, ác, và vô ký) ,  và ở nơi  tất cả 8 thức Tâm Vương cùng có tương quan liên hệ với tất cả tâm sở.  Duy Thức Tam Thập Tụng  (tác giả: tổ Thế Thân(316-396))  có bài kệ về thức A Lại Da cùng 5 Biến Hành tâm sở như sau:  

"Sơ A Lại Da thức

Dị Thục, Nhứt Thiết Chủng

 

Bất khả tri chấp thọ

Xứ liễu thường dữ Xúc

Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư

Tương ưng duy Xả thọ

 

Thị vô phú vô ký

Xúc đẳng diệc như thị

Hằng chuyển như bộc lưu

A la hán vị xả" 

 

 Tạm dịch:

“Sơ khởi là thức A lại da

Còn có tên gọi là Dị thục, Nhứt thiết chủng

 

Không thể biết, nương chấp và cảm thọ

Xứ cảnh rõ biết với Xúc

Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư

Chỉ tương ưng với Xả thọ

 

 Là vô phú, vô ký

 Năm Biến Hành cũng như  vậy                                            

 Luôn chuyển động như dòng thác chảy xiết

 Bậc A La Hán mới xả bỏ xong thức này"

 

Theo Hiển Dương Thánh Giáo Luận (Tác giả: Đại sĩ  Vô Trước (310-390), Dịch giả Phạn- Hán: Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), Dịch giả Hán- Việt: Quảng Minh) giải thích về 5 tâm sở Biến Hành được ghi nhận khái quát như sau:

“1. Tác Ý:  được sinh ra từ chủng tử nơi A Lại Da thức, dựa vào A Lại Da mà sinh khởi,  cùng tương ưng với A Lại Da, và cùng A Lại Da chuyển hiện.

2. Xúc: là sự phân biệt có được từ sự hòa hợp 3 sự Căn, Cảnh, Thức. Xúc làm chổ sở y cho tâm sở Thọ tiếp nối theo ngay sau đó.

3. Thọ: là cảm nghiệm, lãnh nạp (những cảm nhận, cảm giác....).

4. Tưởng: là những ảnh tượng, ấn tượng, hình bóng... trong tâm thức được tiếp nối ngay sau tâm sở Thọ.

5. Tư: là ý nghiệp nơi cảnh khiến có tâm tạo tác các điều thiện, ác, phi thiện phi ác...

Ngay đây, ta có thể tạm rút ra 2 điều:

Điều 1: Có thể rõ thấy là tâm sở Tưởng đã xuất hiện rất sớm trong sự vận hành của tâm thức chúng sanh: Tưởng đã có mặt ngay nơi cội nguồn tâm thức là thức A Lại Da và Tưởng được xem là có vai trò căn bản và trọng yếu nhất trong 5 Biến Hành Tâm Sở. Nói vậy là do sau 3 tâm sở Tác Ý, Xúc, và Thọ (tạm gọi chung là 3 tâm sở mầm của niệm tưởng), Tưởng liền đã xuất hiện;  rồi liền sau đó nó được tâm sở "Tư" duy trì, trưởng dưỡng, nuôi nấng, phát triển . Tâm sở Tư có thể được cảm nghiệm là một chuổi "Tưởng" liền lạc, rõ ràng được nối kết, phát triển qui mô ra các quan niệm, quan điểm, chủ trương, thành kiến, định kiến …theo nghiệp thức của mỗi chúng sinh. 

Điều 2: Có thể xem tất cả Tưởng chỉ là Vọng Tưởng. Lý do là Tưởng chỉ là một động thái của Thức mà chính ngay cội nguồn Thức A Lại Da còn chưa là chơn thực, chỉ là ảo huyễn, không có thực thể, thiếu vắng tự thể huống là động thái của chính nó. Điều này khiến trong đạo Phật nói chung, và Duy Thức Học nói riêng dù có đề cập về Chơn Tâm, Chơn Tánh, Chơn Tướng, Chơn Thể , Chơn Kiến, Chơn Tri, Chơn Giác...mà không hề có đề cập đến Chơn Tưởng.

Do bởi thức A Lại Da có tánh mênh mang, mong manh, nhẹ nhàng, hồn nhiên, không vướng mắc nên tâm sở Tưởng nơi A Lại Da cũng chỉ là những dạng tướng tâm thức rất vi tế, chuyển động rất nhanh nhạy, không có sức bám trụ, biến hiện và ẩn khuất rất khó có thể nhận thấy và suy lường.  Vì thế, phàm phu và kể cả các bậc Hiền Thánh chưa đạt đến Tam Quả (quả vị A Na Hàm, còn gọi là Bất Lai, không còn luân hồi trở lại vào Dục Giới) không thể thấy và chưa có khả năng nhận biết được 5 tâm sở Biến Hành nói chung và tâm sở Tưởng nói riêng nơi A Lại Da thức cùng sự vận hành ẩn hiển, có không của chúng  nơi A Lại Da thức.  

A Lại Da thức có thể được cảm nhận là Thức Ấm, một trong 5 Ấm (Sắc Ấm, Thọ Ấm, Tưởng Ấm, Hành Ấm, và Thức Ấm) hình thành nên thân và tâm của chúng sinh.  Gọi là Thức Ấm vì chính sự hiện hữu của lớp thức này đã khiến làm che mờ đi Giác Tánh. Trong tiến trình tu tập giải thoát khỏi sự buộc ràng của 5 Ấm, kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (đời nhà Đường, Trung quốc), dịch giả Hán- Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) gọi Thức Ấm là Điên Đảo Vọng Tưởng. Điều này khẳng định là ngay nơi căn nguồn sự sống , tâm sở "Tưởng" nơi A Lại Da thức của chúng sinh, đã sẵn cưu mang tính chất điên đảo rồi. Tính chất điên đảo này được tạm giải thích qua 2 khía cạnh:

Khía cạnh 1:  là tính cách dị biệt giữa Như Lai Tàng tâm và A Lại Da thức. Tính cách này được phân biệt khái quát như sau: Thức A Lại Da (Tâm Sanh Diệt) được hình thành chính là do sự hòa hợp giữa Như Lai Tàng Chơn Như Tâm (được xem là Giác Tánh, là Phật Tánh,  là Chơn Tâm,  là cái chơn tịnh, bất động, không có Sinh- Diệt, đã vượt qua phân biệt hai bên về Có và Không, về Sinh và Diệt ) và vô lượng chủng tử  (là cái có Sanh- Diệt, Có- Không, cái nhiễm ô, luôn động chuyển theo các duyên); nên khi A Lại Da ở thể Tịnh thì nó không khác biệt với Như Lai Tàng, còn khi A Lại Da ở thể Động thì nó có khác với Như Lai Tàng.  Như Lai Tàng Chơn Tâm thì không có Đồng- Khác (không có Một- Khác, không có Hòa Hợp- Bất Hòa Hợp) nên chỉ nói là A Lại Da khác (là khác với Như Lai Tàng ) và nói A Lại Da đồng (là đồng với Như Lai Tàng). Hai thuật ngữ khác hay  được nhắc đến là "Như Lai Xuất Triền"("Triền" là trói buộc, xoay vấn chung quanh) dùng để chỉ cho Như Lai Tàng Chơn Tâm, bao hàm các pháp vô lậu thuần chơn thanh tịnh, không  bị trói buộc bởi những phiền não, triền phược; và thuật ngữ "Như Lai Tại Triền" dùng để chỉ cho thức A Lại Da, bao hàm các pháp hữu lậu, nhiễm ô, còn bị trói buộc, che mờ, lấp khuất bởi vô lượng não phiền.

 

Khía cạnh 2:  là trong tất cả kinh điển của đạo Phật, đức Phật đại từ, đại bi đã khai thị và hàm ý xác quyết là "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, câu nói được đức Phật tuyên thuyết nhiều lần là“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.”  Như thế, mỗi loài chúng sinh đều có sẵn Phật Tánh, sẵn có Như Lai Tàng Chơn Như Tâm, sẵn có cảnh giới Đại Niết Bàn tự tại, giải thoát.  Nhưng do vì chúng sinh mê lầm, không thấy được tánh Phật (gọi là "Bội Giác":  là quay lưng lại với Như Lai Tàng Chơn Như Tâm , Giác thể, Chơn Trí) mà lại nhận chấp, hòa nhập vào với  các thứ lớp Vọng Tưởng  (gọi là "Hiệp Trần": là theo Vọng Thức A Lại Da rồi cùng các Vọng Tưởng choàng ôm, nâng niu các trần cảnh) nên bị các phiền não kiết sử trói buộc mà đành chịu lưu chuyển trong sanh tử, luân hồi. Như thế, tính chất "Điên Đảo" của Vọng Tưởng nơi Thức Ấm A Lại Da có thể được rút gọn là: do mê lầm, không có Trí Tuệ nên gọi là "Điên"; do nhận chấp sai quấy nên gọi là "Đảo".

Lại nữa, kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng ghi nhận Vọng Tưởng Điên Đảo do nương chấp nơi thức A Lại Da, nên tự gánh mang vào nó duyên phần, thân phận có sinh có diệt, gọi là Mạng Căn, căn nguyên sự sống và thọ mạng của thân tâm chúng sinh trong vô lượng kiếp luân hồi. Mạng Căn là một trong 24 món Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp trực thuộc nơi thức A Lại Da, không thuộc phạm vi Tam Hòa Hợp (Căn- Trần - Thức) của Tiền Lục Thức, nên được gọi là "Bất Tương Ưng" (để phân biệt với nhóm tâm sở được gọi là "Tương Ưng" của Tiền Lục Thức). Chính Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp “Mạng Căn” nơi thức A Lại Da đã khiến có ra Mạng Trược, lớp ô trược, uế trược về thọ mạng, về ràng buộc tái sinh, về vọng chấp y nương vào thân tái sinh, và là 1 trong 5 lớp trược của đời sống chúng sinh trong Tam Giới.

Tựu trung, tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da, cội nguồn sơ khai nhất của Vọng Tưởng, tạm nêu có 3 đặc điểm sau:

Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da được xuất sinh, biến thể từ 3 tâm sở Biến Hành khác của Thức này là  Xúc, Tác Ý, và Thọ. Nhưng nguyên nhân xuất sinh của 3 tâm sở Xúc, Tác Ý, và Thọ lại khó có thể xác định rõ ràng vì chỉ có các bậc Thánh từ quả vị A Na Hàm trở lên mới có khả năng phân biệt, nhận biết được.

Đặc điểm 2: Tâm sở Tưởng nói riêng và 5 Tâm sở Biến Hành nói chung nơi thức A Lại Da có cường lực, sức lực không đáng kể. Có thể ví các tâm sở này chỉ là những chuyển biến rất nhẹ nhàng, mềm mỏng, có tác động như là chỉ để đánh thức, khơi nguồn chảy cho thức A Lại Da. Điều này có nghĩa là nếu ví A Lại Da thức như biển lớn thì những chuyển biến này chỉ là các động thái còn rất vi tế, rất mơ hồ, chỉ như nước nổi tăm, nổi bọt, nổi bong bóng …, chưa đủ sức tạo ra những nét nhăn lăn tăn mong manh huống chi là những gợn sóng, làn sóng , lượn sóng chao động trên mặt biển.

Đặc điểm 3: Do có tính cách rất nhẹ nhàng, hồn nhiên nên tâm sở Tưởng nơi thức A Lại Da không có khả năng kết nghiệp, tạo lập thêm các chủng tử mới vào trong thức A Lại Da mà nó chỉ có thể làm chỗ dựa, nền tảng để sinh khởi và phát triển thêm cho tâm sở Tư. Tâm sở Tư nơi thức A Lại Da này cũng chưa có khả năng kết nghiệp mà chỉ đóng vai trò chủ yếu, quan trọng trong sự sinh khởi, hình thành, và phát triển ra tất cả các dạng tướng tâm thức khác của 7 Chuyển Thức sau (Mạt Na thức và Tiền Lục Thức).

 

Khi A Lại Da thức theo dòng tập nghiệp chuyển biến mà lại có sự tự chấp nơi Kiến phần (năng lực, năng lượng tri giác) của chính nó rồi chấp trì, gìn giữ thì khi đó có thêm một biến thể mới, một tâm vương mới gọi là thức Mạt Na. Tâm sở Tư theo sự chấp ngã này cũng có biến chuyển, trở nên rõ ràng, đậm nét hơn và phát triển tối đa thành một nguồn tư lương vô tận. Nguồn tư lương vô tận này chính là nét đặc trưng, là Tánh, là Tướng của Mạt Na thức. Tạm nói là vô tận bởi vì thức Mạt Na cũng như thức A Lại Da đều vẫn còn tồn tại khi chúng sinh còn có mê chấp; 2 Thức này chỉ biến mất, không còn tồn tại sau khi chúng sinh đã kiến tánh, đắc A La Hán quả, đã được giải thoát, không còn luân hồi, đã chuyển Thức thành Trí.

 Trong khi A Lại Da thức có đặc tánh là Vô Phú, Vô Ký; Mạt Na thức cũng có đặc tính là Vô Ký (giống như ở A Lại Da thức) nhưng nó lại là Hữu Phú, vì nó có chổ y nương, chỗ trụ chấp là nương dựa vào thức A Lại Da. Do tính cách Hữu Phú và do là nguồn Tư Lương Chấp Ngã bất tận, nên Mạt Na thức ngoài 5 tâm sở Biến Hành còn có thêm 13 tâm sở khác bao gồm 1 tâm sở Biệt Cảnh và 12 tâm sở Phiền Não:

 1 tâm sở Biệt Cảnh nơi Mạt Na thức = là tâm sở Huệ;

Biệt Cảnh là phân biệt trần cảnh, đối tượng được thu nhận, thấy biết, nghe biết...từ nơi 6 căn (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý Thức). 5 tâm sở Biệt Cảnh gồm: 1. Dục = Tâm ham muốn nhận biết, phân biệt;  2.Thắng Giải = Tâm liễu tri rõ được đối tượng muốn nhận biết;  3. Niệm = Tâm nghĩ nhớ về các đối tượng  liễu tri;  4. Định = Tâm an ổn, không chao động;  và 5. Huệ = Tâm sáng suốt, không chướng ngại, rõ biết các đối tượng.  Cần rõ thêm là tâm sở Biệt Cảnh Huệ nơi Mạt Na thức không là rõ biết về các đối tượng trần cảnh mà là rõ biết về các đối tượng nội tâm, về Ngã chấp sơ khai nơi nội tâm, và về hai bên Năng và Sở nơi nội tâm. Do vậy, trong 5 Biệt Cảnh tâm sở, Mạt Na thức chỉ duy có một tâm sở Huệ.

 12 tâm sở Phiền Não nơi Mạt Na thức = bao gồm  4 Căn Bản Phiền Não (gồm có 3 tâm sở thuộc về Tư Hoặc là Tham, Si, Mạn và 1 tâm sở thuộc về Kiến Hoặc là Ác Kiến), và 8 Đại Tùy Phiền Não (gồm có Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chánh Tri).

Gọi là “Phiền Não” vì chúng khiến gây ra các khổ đau, các tập nghiệp khiến che mờ Giác Tánh và khiến chúng sinh chịu đày đọa trong các nẻo luân hồi bất tận.  Gọi là "Căn Bản Phiền Não " vì những phiền não này có tính cách cội gốc trong Mạt Na thức, chỉ thuần là các đối tượng tâm thức mênh mang trong nội tâm, chưa nhuốm hình tướng, bóng dạng của đối tượng cảnh trần nên chúng là tiền đề để sinh khởi ra các Tùy Phiền Não.  Gọi là "Tùy Phiền Não" vì các phiền não này được sinh khởi tùy vào Căn Bản Phiền Não và tùy vào các đối tượng cảnh trần.

Căn Bản Phiền Não trong Duy Thức Học gồm có 6 tâm sở chính:

1.Tham = tâm ham muốn chỉ mong được có và cứ có thêm, thủ đắc bất tận ;

2. Sân = tâm giận tức, nổi nóng, bực bội, thù oán;

 3. Si = tâm vô minh, u muội, không rõ chơn lý, đạo lý;

4. Mạn = tâm cao ngạo, luôn thấy mình hơn người khác;

5. Nghi = tâm chưa liễu tri, chưa phân biệt rõ ràng;

6. Ác Kiến = là tâm nhận biết, phân biệt, chấp thủ còn sai lầm, trái nghịch với chơn lý, đạo lý.  Ác Kiến lại được phân định ra 5 thứ:  6.1.Thân Kiến = là cái thấy biết chấp trước có thân tâm 5 uẩn, có Ngã và Ngã Sở; 6.2. Biên Kiến = là cái thấy biết chấp trước về 2 bên như chấp đoạn - thuờng, chấp có – không, chấp sinh – diệt, chấp khổ – vui, chấp thương – ghét, chấp đẹp – xấu …;   6.3. Tà Kiến = là cái thấy biết chấp trước chấp sai lầm đối với chơn lý và đạo lý;   6.4.Kiến Thủ = là thủ chấp cái thấy biết sai lầm của mình, không chấp nhận các ý kiến đúng đắn khác;  và 6.5. Giới Cấm Thủ =là thủ chấp vào các cảnh giới, các cấm giới còn sai lầm của mình nên còn thiếu sót sự tu tập chân chính.

5 tâm sở Phiền Não Căn Bản đầu tiên (Tham, Sân, Si, Mạn và Nghi) còn được gọi là Tư Hoặc . Tư Hoặc là những mê mờ, sai lầm, có tánh nhiễm ô nơi tà tư, tà niệm, nơi nghĩ suy, tư duy không đúng với chơn lý, đạo lý. Tâm sở Phiền Não Căn Bản còn lại (Ác Kiến) được gọi là Kiến Hoặc dùng để chỉ cho tất cả những mê mờ, sai lầm nơi dụng năng của 6 thân căn là thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, xúc biết, và nhận biết.  Như thế 6 Căn Bản Phiền Não chính là toàn bộ Kiến Tư Hoặc. Trong  6 tâm sở Căn Bản Phiền Não trên, Mạt Na thức do bản tính mênh mang, nhẹ nhàng nên chỉ có 4 tâm sở là Tham, Si, Mạn, và Ác Kiến mà không có 2 tâm sở Sân và Nghi.

Tùy Phiền Não trong Duy Thức Học được phân định chi tiết ra 3 loại tùy vào phạm vi tương ưng với nhận thức, và tùy vào kích thước, dung lượng dính mắc vào đối tượng nhận thức (nơi nội tâm hoặc nơi trần cảnh bên ngoài) là rộng lớn hay nhỏ hẹp. Đó là 3 loại:  Đại Tùy Phiền Não, Trung Tùy Phiền Não, và Tiểu Tùy Phiền Não:

Đại Tùy Phiền Não: là Tùy Phiền Não có phạm vi rộng lớn, không có đối tượng rõ ràng, mà lại mênh mang, khó nhận biết rõ.  Đại Tùy Phiền Não có 8 tâm sở là:  1. Trạo Cử = thân tâm chao động, không tĩnh lặng;  2. Hôn Trầm = tâm nặng nề, không sáng suốt;      3. Bất Tín = không có lòng chánh tín nơi Tam Bảo;  4. Giải Đãi= lười biếng,không tinh tấn;  5. Phóng Dật = tâm phóng túng, buông lung;  6. Thất Niệm = tâm hay quên, không nhớ các sự việc đã trải qua; 7. Tán Loạn = tâm rối ren nhiều việc, không thể nhất tâm vào một việc;  8. Bất Chánh Tri = không biết đúng sự việc thực tế nơi thân tâm. (Mạt Na thức có đủ 8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não này);

Trung Tùy Phiền Não: là Tùy Phiền Não có phạm vi trung bình, có đối tượng rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn so với Đại Tùy Phiền Não. Trung Tùy Phiền Não có 2 tâm sở là: 1. Vô Tàm = không biết tự hổ thẹn với chính mình; 2. Vô Quý = không biết xấu hổ với mọi người khác.  (Mạt Na thức không có tâm sở Trung Tùy Phiền Não do không thích hợp về phạm vi tương ưng);

Tiểu Tùy Phiền Não:  là Tùy Phiền Não có phạm vi nhỏ hẹp, có đối tượng cụ thể, rõ ràng, dễ dàng nhận biết như phiền não về một người, một việc, một vật...nào đó rõ rệt, không mông lung. Tiểu Tùy Phiền Não có 10 tâm sở là: 1. Phẫn = tâm giận dữ;  2. Hận = tâm trì giữ những phẫn nộ trong quá khứ; 3. Phú = tâm che dấu các tội lỗi, các việc xấu ác của mình;  4. Não = tâm chao động, xáo trộn, băn khoăn, muộn phiền;  5. Tật = tâm đố kỵ, ganh ghét;  6. Xan = tâm bỏn xẻn, xan tham, không san xẻ, giúp đỡ người khác;  7. Cuống = tâm dối trá, lường gạt;  8. Siễm = tâm a dua, nịnh hót;  9. Hại = tâm gây tổn thương, thiệt hại đến người khác;  10. Kiêu = tâm tự mãn, xem mình hơn người khác về chuyên biệt một sự việc nào đó. (Mạt Na thức không có tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não do không thích hợp về phạm vi tương ưng).

Có thể cho rằng 13 tâm sở có thêm nơi Mạt Na thức này đều được sinh khởi, phát triển ra từ cội nguồn là tâm sở Tư, tâm sở Biến Hành có mặt nơi A Lại Da thức và nơi Mạt Na thức, nên chúng nhận tâm sở Tư là Chánh Nguồn và nhận tâm sở Tưởng là Sơ Nguồn.  Duy Thức Tam Thập Tụng có bài kệ về Mạt Na thức cùng 18 tâm sở tương ứng như sau:

“Thứ đệ nhị năng biến

Thị thức danh Mạt na

Y bỉ chuyển duyên bỉ

Tư lương vi tánh tướng

 

Tứ phiền não thường câu

Vị Ngã si, Ngã kiến

Tinh Ngã mạn, Ngã ái

Cập dữ Xúc đẳng câu

 

Hữu phú vô ký nhiếp

Tùy sở sanh sở hệ

A la hán  Diệt định

Xuất thế đạo vô hữu”

 

Tạm dịch:

“Thức Năng Biến thứ hai

Thức này tên Mạt Na

Nương A Lại Da rồi lại duyên A Lại Da

Tánh tướng là tư lương

 

Thường cùng bốn phiền não

Là Ngã Si, Ngã Kiến

Thuần Ngã Mạn, Ngã Ái

Cùng gắn liền với 5 Biến Hành

 

Nhiếp trì tánh Hữu Phú - Vô Ký

Tùy chỗ nào khởi sanh, chỗ đó hệ thuộc

Bậc A La Hán, Diệt Tận Định

Đạo Xuất Thế Gian, không còn có Thức này”

Thức Mạt Na được cảm nhận là Hành Ấm vì nó là dòng chuyển biến của nguồn năng lượng vô tận từ nơi vô lượng chủng tử rất nhanh nhạy, rất vi tế, khó nhận biết của tâm thức A Lại Da. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Hành Ấm (Mạt Na thức) với tên gọi là U Ẩn Vọng Tưởng (vọng tưởng u nhàn, ẩn mật, mờ tối, bị khuất lấp, khó nhận biết), tượng trưng cho Chúng Sinh Trược (lớp uế trược về sự thọ nhận thân phận chúng sinh, có sinh rồi có diệt cùng với bao điều xấu ác nơi thân tâm).

Nhìn chung, tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức tạm nêu có 4 đặc điểm:

Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức được xuất sinh từ vô lượng chủng tử tàng trữ sẵn có nơi A Lại Da thức. Do vậy nó có tính cách giống như là bất tận, như dòng nước chảy ào ạt, dữ dội từ ống nước thông với biển cả tâm thức khiến cho dòng Tưởng này cứ chảy mãi miết, liên tu bất tận, không ngưng nghỉ.

Đặc điểm 2: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức có tướng trạng được thể hiện như một dòng Tưởng chảy liên tục nên được xem là rõ nét, đậm đà hơn so với tướng trạng bọt Tưởng, tăm Tưởng nơi A Lại Da thức. Lý do là Mạt Na thức luôn có khuynh hướng chấp Ngã, chấp trước vào 2 bên (Năng- Sở, Bỉ- Thử...) khiến cho 5 Biến Hành tâm sở nơi A Lại Da thức từ trạng thái mênh mang, nhẹ nhàng trở nên có chút nặng nề hơn khi được chuyển hóa thêm ra, tạo thành 18 tâm sở nơi Mạt Na thức. 18 tâm sở này cũng có thể được xem là 18 sắc thái, 18 giai điệu tâm thức khiến phong phú hóa và cường lực hóa cho tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức. Tuy vậy, cũng giống như ở A Lại Da thức, tâm sở  Tưởng nơi Mạt Na thức cũng chưa có đủ sức gây tạo, hình thành nên các chủng tử mới.

Đặc điểm 3: Sự đậm nét rõ ràng hơn của tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức lại gắn liền với tính chất phiền não, gây tạo khổ đau từ chính nó và cho chính nó. Điều này được thể hiện rõ là trong 18 Tâm Sở của Mạt Na thức có đến 12 Tâm Sở (12/18 = 2/3) thuộc về nhóm Tâm Sở Phiền Não . Như thế ở A Lại Da thức, tâm sở Tưởng đã sẵn mang tính cách điên đảo, nay qua đến Mạt Na thức, lại mang thêm tính cách u buồn, não phiền, tăm tối, ẩn khuất (U Ẩn Vọng Tưởng).

Đặc điểm 4: Tâm sở Tưởng nơi Mạt Na thức có quan hệ mật thiết với khuynh hướng chấp Ngã. Khuynh hướng này không có ở A Lại Da thức, mà chỉ bắt đầu xuất hiện ở Mạt Na thức khi Mạt Na thức trụ nương, chấp mắc vào Kiến phần của A Lại Da thức rồi khiến phát sinh Ngã Tướng. Từ Ngã Tướng (tướng chúng sinh này) lại sẽ có thêm Nhân Tướng (tướng chúng sinh kia), Chúng Sinh Tướng (tất cả các tướng chúng sinh này và tướng chúng sinh kia hợp lại), Thọ Giả Tướng (khoảng thời gian hiện hữu lâu mau của Chúng Sinh Tướng). Bốn tướng này chính là cơ sở tiền đề của Chúng Sinh Trược vừa được đề cập bên trên.

 

Thế nhưng khi theo nghiệp tái sinh vào trong thế gian, thân và tâm của chúng sinh dần dà được kết tụ, hình thành thì 2 lớp Ấm (Thức Ấm, Hành Ấm), 2 lớp Tưởng (Điên Đảo Vọng Tưởng, U Ẩn Vọng Tưởng) của 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na chưa dừng lại nơi đó mà còn tiếp tục được bồi đắp thêm 3 lớp Ấm, 3 lớp Tưởng nơi Tiền Lục Thức (Đệ Tam Năng Biến, Thức Năng Biến Thứ Ba).

Tiền Lục Thức chính là 6 nguồn thức để nhận biết, phân biệt trần cảnh bên ngoài và được gán mắc, nương gá vào 6 cơ quan nơi thân: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Bộ Óc (Não Bộ) cùng hệ thống dây thần kinh tương quan.  Do vậy, Tiền Lục Thức có tánh Hữu Phú (có chỗ nương trụ), Hữu Ký (có phân biệt về thiện, ác, và vô ký) khác với A Lại Da thức (Vô Phú, Vô Ký), và khác với Mạt Na thức (Hữu Phú, Vô Ký).  Duy Thức Tam Thập Tụng có bài kệ về thức Đệ Tam Năng Biến như sau:

"Thứ Đệ Tam Năng Biến

 Sai biệt hữu lục chủng

 Liễu cảnh vi tánh tướng

 Thiện, bất thiện, câu phi"

 

Tạm dịch:

“ Thức Năng Biến thứ ba

Có sáu thứ sai biệt

Tánh tướng là rõ cảnh

Thiện, Ác cùng Vô Ký”

 

Tùy vào các giai đoạn hình thành và phát triển công năng liễu cảnh, Tiền Lục Thức được phân định ra 2 nhóm là Tiền Ngũ Thức (5 Thức Trước) và Ý Thức (Đệ Lục Thức).

 Tiền Ngũ Thức nương dựa vào A Lại Da thức mà phát khởi;  5 thức này khởi phát đồng thời (như vừa nhìn, vừa nghe...), hoặc không đồng thời (như chỉ nhìn, hoặc chỉ nghe …) và được ví như sóng nước biển trên mặt biển A Lại Da,  trong bài kệ của Duy Thức Tam Thập Tụng  sau:

 "Y chỉ Căn Bản Thức

Ngũ thức tùy duyên hiện

Hoặc câu hoặc bất câu

Như đào ba y thủy"

 

Tạm dịch:

“Nương vào Căn Bản Thức

Năm thức hiện theo duyên

Hoặc cùng hoặc chẳng cùng

Như sóng nương trên nước”

Tiền Ngũ Thức đóng vai trò thu gom, đón nhận trần cảnh tiếp xúc được từ bên ngoài rồi đưa vào Ý thức tổng hợp, chọn lọc, và phát triển ra thành những nhận thức, những nhận định, những phân biệt qui mô, chính xác. Theo Bát Thức Quy Củ Tụng (Tác giả: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664)), Tiền Ngũ Thức được xem là có 34 tâm sở qua 2 câu:

"Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện thập nhất

 Trung nhị, Đại bát, Tham Sân Si"

Tạm dịch:

"Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện mười một

 Hai Trung, tám Đại, Tham Sân Si"

 

 Như thế, 34 tâm sở nơi Tiền Ngũ Thức bao gồm:

 5 tâm sở Biến Hành gồm:  1. Xúc, 2. Tác Ý, 3. Thọ, 4. Tưởng, 5. Tư.  5 tâm sở này xuất sinh và chuyển hóa trọn vẹn từ A Lại Da thức và Mạt Na thức (đã đề cập ở phần A Lại Da thức);

5 tâm sở Biệt Cảnh gồm: 1. Dục,   2.Thắng Giải,  3. Niệm , 4. Định  và  5. Huệ.  (đã đề cập ở phần Mạt Na thức). Như thế Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Biệt Cảnh nhiều hơn so với A Lại Da thức (A Lại Da thức không có tâm sở Biệt Cảnh), và nhiều hơn cả với Mạt Na thức (Mạt Na thức chỉ có tâm sở Huệ);

11 tâm sở Thiện gồm: 1. Tín = Tâm tin vào chơn lý, đạo lý, vào Tam Bảo;  2. Tàm = Tâm tự hổ thẹn với chính mình;  3. Quý = Tâm xấu hổ với người khác;  4. Vô Tham = Tâm không tham cầu;  5. Vô Sân = Tâm không giận dữ;  6. Vô Si = Tâm không u tối;  7. Cần = Tâm tinh tấn, chuyên cần; 8.  An = Tâm an lành, nhẹ nhàng; , 9. Bất Phóng Dật = Tâm không giải đãi, buông lung, phóng túng;  10. Hành Xả = Tâm buông bỏ, không chấp trước, vướng víu, níu kéo; và 11. Bất Hại = Tâm không làm tổn thương, thiệt hại đến các chúng sanh khác. Như thế phải đến Tiền Ngũ Thức mới có hiện diện 11 tâm sở Thiện (vì cả 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na đều không có Thiện tâm sở);

8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não: (đã đề cập ở phần Mạt Na thức), Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Đại Tùy Phiền Não bằng với Mạt Na thức và nhiều hơn so với A Lại Da thức (thức A Lại Da không có Đại Tùy Phiền Não tâm sở);

2 tâm sở Trung Tùy Phiền Não:  (đã đề cập ở phần Mạt Na thức), Tiền Ngũ Thức có số lượng tâm sở Trung Tùy Phiền Não nhiều hơn Mạt Na thức và A Lại Da thức (cả 2 thức A Lại Da và thức Mạt Na đều không có Trung Tùy Phiền Não tâm sở);

3 tâm sở Căn Bản Phiền Não cua Tiền Ngũ Thức chỉ bao gồm: 1.Tham,  2. Sân, và 3. Si  (đã đề cập ở phần Mạt Na thức). Tiền Ngũ Thức có số lượng Căn Bản Phiền Não nhiều hơn so với thức A Lại Da (A Lại Da thức không có Căn Bản Phiền Não) và ít hơn so với thức Mạt Na (thức Mạt Na không có tâm sở Sân nhưng có thêm 2 tâm sở Mạn và Kiến).

Tiền Ngũ Thức nương gá nơi nhục thân nên thuộc về Sắc Ấm. Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Sắc Ấm là Kiên Cố Vọng Tưởng. Gọi là Kiên Cố vì đây là loại vọng tưởng khó phá vỡ, loại vọng tưởng có từ vô lượng kiếp trong quá khứ, loại vọng tưởng giao kết chồng chất thêm vào vọng tưởng của cha và của mẹ trong khi tái sinh. Kiên Cố Vọng Tưởng tượng trưng cho Kiếp Trược, lớp uế trược về sự thọ nhận muôn vàn khổ đau, vô thường nơi thân phận chúng sinh.

Ngoài Tiền Ngũ Thức, Đệ Tam Năng Biến còn có thành phần cơ bản, rất trọng yếu là Ý Thức. Đây là tâm vương Đệ Lục Thức được nương gá vào bộ óc (não bộ), nơi có sự tương hệ mật thiết với các cơ quan khác trong toàn thân thể qua hệ thống dây thần kinh chằng chịt, phức tạp, và cũng là nơi có hoạt động gắn liền với 2 tâm vương Đệ Thất Mạt Na thức và Đệ Bát A Lại Da thức. Do Ý Thức  là nơi 8 Thức Tâm Vương tụ hội , nơi dồn tụ, duy trì và phát triển tối đa tâm sở Tưởng nói riêng và tất cả các tâm sở khác nói chung nên Ý thức có đẩy đủ tất cả 51 tâm sở của Duy Thức Học, bao gồm:

5 Biến Hành (Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, và Tư) (đã đề cập ở phần A Lại Da thức);

5 Biệt Cảnh (Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, và Huệ) (đã đề cập ở phần Mạt Na thức);

11 Thiện (Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Cần, An, Bất Phóng Dật, Hành Xả và Bất Hại ) (đã đề cập ở phần Tiền Ngũ Thức);

6 Căn Bản Phiền Não: gồm 1. Tham, 2. Sân, 3. Si, 4. Mạn, 5. Nghi, và 6. Ác Kiến (đã đề cập ở phần Mạt Na thức); 

20 Tùy Phiền Não , chia ra gồm 8 Đại Tùy Phiền Não: 1. Trạo Cử, 2. Hôn Trầm, 3. Bất Tín, 4. Giải Đãi, 5. Phóng Dật, 6. Thất Niệm, 7. Tán Loạn, 8. Bất Chánh Tri (giống như nơi Mạt Na thức);  thêm 2 Trung Tùy Phiền Não : 1. Vô Tàm, 2. Vô Quý (giống như nơi Tiền Ngũ Thức);  và nay Ý Thức đặc biệt có thêm 10 Tiểu Tùy Phiền Não (1. Phẫn, 2. Hận, 3. Phú, 4. Não, 5. Tật, 6. Xan, 7. Cuống, 8. Xiểm, 9. Hại, và 10. Kiêu) ( 20 Tùy Phiền Não này đã được đề cập ở phần Mạt Na thức). Quan trọng là 10 Tiểu Tùy Phiền Não không có hiện diện ở A Lại Da thức, ở Mạt Na thức, và cả ở Tiền Ngũ Thức.  Chúng chỉ xuất hiện nơi Ý thức và là một nét vô cùng độc đáo, đặc sắc của Ý thức vì chúng đã đưa sự rõ biết cảnh trần (Liễu Biệt Cảnh) đến tận cùng qua các tâm sở có phạm vi tương ưng nhỏ nhiệm, cụ thể nhất . Thí dụ: tâm sở Phẫn không thể hiện hữu mà không có đối tượng cụ thể mà phải là có thấu suốt rõ ràng phẫn về việc gì, phẫn với ai, phẫn trong hoàn cảnh, trường hợp nào.

 4 tâm sở Bất Định: gồm 1. Hối = là tâm nuối tiếc những sự việc, sự vật thiện hay bất thiện đã trải qua; 2. Miên = là tâm không tỉnh giác, mệt mỏi, buồn ngủ; 3. Tầm =là tâm tìm tòi, truy cứu để liễu tri; và 4. Tứ = là tâm cảm nhận, dò xét, tìm hiểu tinh tế và đánh giá đối tượng được tìm thấy. Gọi là Bất Định vì các tâm sở này không nhất định là thiện hay bất thiện, cũng không nhất định là thuộc về ngoại trần cảnh hay nội tâm thức. Cũng như 10 Tiểu Tùy Phiền Não,  4 tâm sở Bất Định này không có hiện diện ở A Lại Da thức, ở Mạt Na thức, và cả ở Tiền Ngũ Thức. Chúng chỉ xuất hiện nơi Ý thức và cũng làm nên nét đặc sắc quan trọng khác của Ý thức vì chúng đã mở rộng thêm phạm vi về thời gian và về không gian cho tâm sở Tưởng nói riêng cũng như cho tất cả các tâm sở khác của Ý thức nói chung.  Thí dụ tâm sở Hối là tâm thức quay ngược vào quá khứ với xiết bao sự việc, cảnh vật, tình huống đã trải nghiệm qua;  tâm sở Tầm và tâm sở Tứ là hướng về tương lai cũng với xiết bao sự việc...sẽ thực hiện.

Ý thức thuờng xuyên hiện hữu , ngoại trừ trong 5 trường hợp là : 1. Sanh ở cõi trời Vô Tưởng;  2. và  3. Ở 2 Vô Tâm Định (là Vô Tưởng Định và Diệt Tận Định, cả 2 đều không còn có sự hiện hữu của Tiền Lục Thức); 4. Ở ngủ say;  và ở 5. Ở chết ngất. Như trong bài kệ của Duy Thức Tam Thập Tụng  sau:

"Ý thức thường hiện khởi

Trừ sanh Vô Tưởng thiên

Cập Vô Tâm nhị định

Thùy miên dữ muộn tuyệt"

 

Tạm dịch:

“Ý thức thường khởi hiện

Ngoại trừ sanh nơi cõi trời Vô Tưởng

Cùng hai định Vô Tâm

Ngủ say với chết ngất"

 

Ý thức được cảm nhận gồm cả 2 Ấm là Thọ Ấm và Tưởng Ấm.  Lý do là 5 loại cảm thọ (Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ) và tất cả hoạt động về tư tưởng của não bộ đều được xuất hiện, nhận biết và phân biệt thông qua Ý thức.  Kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi Thọ Ấm và Tưởng Ấm với tên gọi lần lượt là "Hư Minh Vọng Tưởng" và "Dung Thông Vọng Tưởng". Hư Minh Vọng Tưởng là lớp vọng tưởng mờ tối, hư huyễn; là cái rõ biết ("minh") về những cảm thọ vốn là  hư vọng, không có thực thể ("hư").  Hư Minh vọng tưởng tượng trưng cho Kiến Trược (lớp uế trược về sự thấy biết sai lầm, không đúng với chân tướng, thực tướng của vạn pháp). "Dung Thông Vọng Tưởng" là lớp vọng tưởng liền lạc, hòa nhập, thông suốt không chướng ngại, biến hóa khắp thân tâm, khắp trần cảnh. Dung Thông Vọng Tưởng tượng trưng cho Phiền Não Trược (lớp uế trược do nơi phiền não, tưởng niệm lấp che Giác Tánh).

Nhìn chung, tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức tạm nêu có 5 đặc điểm:

Đặc điểm 1: Tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức là sự tiếp nối trọn vẹn và có thêm sự phát triển rộng lớn, sâu sắc, tinh tế trong dòng tư lương cuộn chảy ào ạt, dữ dội, mãi miết, liên tu bất tận, không ngưng nghỉ từ tâm sở Tưởng nơi cội nguồn là 2 thức Năng Biến thứ nhất (A Lại Da thức ) và thức Năng Biến thứ hai (Mạt Na thức).

Đặc điểm 2: Khác với cảnh giới của thức A Lại Da và thức Mạt Na chỉ thuần là nơi nội tâm với những nét hành chuyển tâm thức còn mơ hồ, u huyền, ẩn khuất; thì khi qua đến Tiền Lục Thức, cảnh giới này đã được mở sâu, mở rộng thêm ra bên ngoài trần cảnh có tính cách cụ thể hơn. Điều này khiến cảnh giới của Tiền Ngũ Thức có thêm muôn vàn các hình ảnh, các sắc thái, các tướng trạng rõ ràng, với đầy đủ hình tướng, sắc màu, âm thanh, hương vị, xúc chạm...được thu thập từ xiết bao trần cảnh bên ngoài nơi vũ trụ, không gian, núi sông, mây nước, cây cỏ, hoa lá, con người, thú vật,...

Đặc điểm 3: Do cảnh giới của Tiền Lục Thức vừa là nội tâm, vừa là ngoại trần nên tâm sở Tưởng và dòng tư lương nơi Tiền Lục Thức cũng được phát triển vô cùng mạnh mẽ, phong phú. Điều này được thấy rõ qua sự phát triển về số lượng (và cả về chất lượng) các tâm sở nơi 3 thức Năng Biến: nơi thức A Lại Da chỉ có 5 tâm sở, Mạt Na thức có 18 tâm sở; còn nơi Tiền Lục Thức, Ý thức có đầy đủ 51 tâm sở. Chi tiết hơn, từ Mạt Na thức với 18 tâm sở qua đến Ý thức với 51 tâm sở có độ cách biệt (có thêm) là 33 tâm sở. Vậy 33 tâm sở này có thể được dùng làm sự biểu hiện của công năng liễu cảnh của Tiền Lục Thức. 33 tâm sở này bao gồm:

4 tâm sở Biệt Cảnh: Dục, Thắng Giải, Niệm, và Định

2 tâm sở Căn Bản Phiền Não: Sân, và Nghi

11 tâm sở Thiện: Tín, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Cần,An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, và Bất Hại

2 tâm sở Trung Tùy Phiền Não: Vô Tàm, Vô Quý

10 tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật,Xan, Cuống, Xiễm, Hại, và Kiêu;

4 tâm sở Bất Định: Hối, Miên, Tầm, và Tứ

Đặc điểm 4: Tiền Lục Thức nói chung và Ý thức nói riêng là nơi tụ hội của 3 nguồn thức Năng Biến. Mỗi nguồn thức lại có một sự chấp mắc riêng biệt, không giống nhau : thức A Lại Da (Năng Biến 1) chấp mắc vào chủng tử nghiệp thức, thức Mạt Na (Năng Biến 2) chấp Ngã, thức Năng Biến 3 chia ra có Tiền Ngũ Thức chấp cảnh trần (chấp cảnh), còn Ý thức chấp pháp trần (chấp pháp). Tất cả sự chấp mắc, vướng víu này thể hiện các hành tướng, hiện tướng của tâm sở Tưởng tập trung nơi Ý thức.  Điều này khiến nếu cho tâm sở Tưởng nơi A Lại Da thức ví như các bọt nước, tăm nước nơi mặt biển âm thầm, phẳng lặng thì Tưởng ở nơi Ý thức lại được xem là các cơn sóng ào ạt nhất, lớn lao nhất, dữ dội, có khi điên cuồng nhất.

Đặc điểm 5: Chính do bản thân, bản chất là các cơn sóng lớn nên tâm sở Tưởng nơi Tiền Lục Thức có tính cách kết nghiệp, gây tạo nghiệp thức rất mạnh mẽ. Nghiệp thức lâu ngày, năm này tháng nọ, lại được kết tinh thành các chủng tử. Các chủng tử kết tinh này do là sản phẩm từ tâm thức nên không thể bị tiêu hao, hủy diệt bởi bất kỳ phương tiện nào ở bên ngoài mà chúng chỉ có thể được chuyển hóa từ công phu thiền định nội tại. Tiến trình chuyển hóa này chỉ có thể thành tựu nơi quả vị A La Hán, sau khi đã Kiến Tánh, được gọi là "Chuyển Thức thành Trí" trong Duy Thức Học: chuyển Ý thức thành "Diệu Quán Sát Trí", chuyển Mạt Na thức thành "Bình Đẳng Tánh Trí", chuyển Tiền Ngũ Thức thành "Thành Sở Tác Trí", và chuyển A Lại Da thức thành "Đại Viên Cảnh Trí".

Trong nhà Thiền có câu chuyện kể:

"Tăng hỏi tổ Hoàng Bá: "Vọng tưởng hay chướng ngại tâm. Lấy gì để trừ vọng?”

Tổ đáp: "Nếu khởi tâm muốn trừ vọng, là đã có thêm một lớp vọng.

Vọng vốn không có gốc, vì nó chỉ do nơi phân biệt mà có. Nếu ở hai đầu phàm thánh mà không có khởi tâm suy lường, nhớ nghĩ thì tự nhiên không có vọng. Đâu cần phải tính toan trừ bỏ nó..."

Tựu trung, trong hào quang Phật đạo Đại Từ, Đại Bi soi rọi;  khi ngay cả thức A Lại Da chưa là Chơn Tâm mà chỉ là Vọng thức và khi cả kho tàng vô lượng chủng tử, tập khí nghiệp thức cũng chỉ là các kết tinh từ vọng ngã, vọng tưởng, vọng tình...hư vọng chấp mắc, vướng víu, đan bện vào nhau nơi tâm thức hàng ngày của chúng sinh; lại có điều oái oăm, đau đớn là những hư vọng này lại có thể khiến chúng sinh cứ phải trôi lăn, gắn kết vào vòng sinh tử luân hồi vô tận. Chỉ khi nào tâm thức chúng sinh có khả năng ngược dòng cuộn chảy ào ạt, không ngừng nghỉ của 7 Chuyển Thức ; rồi ngược dòng tư lương của Tiền Lục Thức và của Mạt Na thức;  vượt qua 5 lớp Ấm, 5 lớp Vọng Tưởng, 5 lớp Trược mà trở về tắm mát nơi biển lớn A Lại Da thức ảo huyền cùng với phước trí, thiện duyên đầy đủ; một lúc nào đó, sương tuyết rã tan, khói bụi không còn,  bỗng lại nhận ra được cội nguồn chơn tâm thường hằng thanh tịnh vậy.

 

 Khánh Hoàng

 Plano _ October 02, 2023

Tuổi Già

 

Bạn đến đón ta nơi cuối đường

Nẻo mây sự thế chẳng biên cương

Diệt sanh hành chuyển đâu hề dứt

Già trẻ luân phiên khó thể lường

Mưa nắng mấy mùa còn chấp luyến

Thong dong cánh hạc lại hồi hương

Cùng ta bạn khẽ ngân câu hát

Mọi việc rồi ra cũng tỏ tường!

 

Khánh Hoàng

       Plano _ July 19, 2023

Khanhhoang_teapot.jpg

NGUYỆT TR​À

 

Dẫn:

Thênh thang chiếu nguyệt

Lồng lộng sắc vàng

Chiêu một ngụm trà

Ực cả ngàn trăng!

    

    Nguyệt Trà

Vườn khuya trăng tỏa bóng toàn chân

Lấp loáng chung trà lộng sắc vân

Cung thỉnh đất trời nguồn phước lộc

Hòa nhiên mây nước cội thanh tân

Núi sông rộn rã mừng khai hội

Hoa lá an nhàn khéo chuyển luân

 Nâng chén trầm hương thường lạc xứ

Đẹp dòng nhậm vận ngát huyền ân!

 

   Khánh Hoàng

   Plano _ June 15, 2023

KhanhHoang_mainaydivaonui.jpg

Mai Này Đi Vào Núi
 

https://quangduc.com/a75361/mai-nay-di-vao-nui

 

Mai này đi vào núi
Đường mây bặt dấu hài
Thân tâm chút cát bụi
Điểm hồng đời thêm vui!

Mai này đi vào núi
Trăng sáng vẫn mỉm cười
Trời đất ươm thơ mộng
Ửng một màu tinh khôi

Núi chập chùng tuôn dài
Mưa và nắng vẫn hoài
Luân chuyển bao vi diệu
Hiển bày trong hư thái

Chốn tuyệt lộ mịt mùng
Trăng vẫn chiếu vô cùng
Thơm ngát hương hạnh nguyện
Từng bước về thung dung

Mai này đi vào núi
Quê xưa đó rạng ngời
Thênh thang xứ tĩnh lặng:
An vui!

   
Khánh Hoàng
Plano_ December 15, 2006

KhanhHoang_Tam.jpg

Vài nét về

"Bảy Chỗ Tìm Tâm" trong kinh Thủ Lăng Nghiêm qua Duy Thức Học                                                                                                                         Khánh Hoàng

Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", thường được xem là kinh diễn đạt rõ ràng nhất về công đức của sáu căn.  Đây là kinh thuộc hệ thượng thừa, viên đốn, liễu nghĩa nên kinh này đã là quốc bảo của xứ Ô Trường (Trung Thiên Trúc), bị cấm đem ra nước ngoài. Tuy thế, kinh đã được sa môn Bát Lạt Mật Đế (?-?) xả thân, tự xẻ cánh tay để dấu kinh rồi đem kinh đến Quảng Châu (Trung Quốc) vào năm 705 (đời vua Đường Trung Tông).  Kinh sau đó đã được dịch từ Phạn văn sang Hán văn với ngài Bát Lạt Mật Đế là vị “dịch chủ” (người đứng đầu Hội Đồng Phiên Dịch, chủ tọa đạo tràng dịch Kinh): Ngài tụng nguyên bản Phạn văn của Kinh gồm 10 quyển, sa-môn Di Già Thước Khư dịch nghĩa, sa môn Hoài Địch dịch văn, cư sĩ Phòng Dung nhuận sắc, hiệu chính.  

 

"Bảy Chỗ Tìm Tâm" ("Thất Xứ Truy Tâm") hoặc còn gọi là "Bảy Chỗ Bày Tâm" ("Thất Xứ Trưng Tâm") là đoạn kinh văn khởi đầu trong quyển 1 của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đoạn kinh văn này được tóm lược nội dung với các mấu chốt quan trọng về nạn Ma Đăng Già của ngài A Nan như sau: "Vào ngày mãn hạ tự tứ, vua Ba Tư Nặc kính thỉnh đức Phật cùng hàng thánh chúng vào thành để cúng dường thọ trai. Tất cả thánh chúng đều đầy đủ, chỉ riêng ngài A Nan trước đó đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về kịp. Nên hôm ấy chỉ một mình ngài A Nan ôm bình bát đi khất thực.  Ngài y theo lời dạy của đức Phật, thực hiện lòng từ bình đẳng, theo thứ lớp từng nhà, không phân biệt các nhà thí chủ giàu nghèo, quí tiện mà khất thực. Do đó, Ngài đã đi qua nhà nàng Ma Đăng Già, bị mắc phải tà chú huyễn thuật của nàng, sắp bị hủy giới thể.  Đức Phật rõ biết, liền trở về tinh xá. Rồi từ trên đỉnh đầu đức Phật  phóng ra ánh sáng báu vô úy, trong ánh sáng ấy xuất hiện tòa sen báu ngàn cánh, trên đó có hóa thân của Phật ngồi kiết già, tuyên nói thần chú. Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù đem thần chú này đến cứu hộ,tiêu trừ ác chú, dẫn đại đức A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đưa về chỗ Phật. Ngài A Nan gặp Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nên nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai về phương tiện đầu tiên của ba thứ thiền quán: Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma Bát Đề (Quán), và Thiền Na (Thiền) mà mười phương Như Lai đã tu được thành Chánh Giác” .

Qua đoạn toát yếu trên, ta có thể rút ra vài điểm mấu chốt và nhận định như sau:

1/ Bối cảnh của kinh xảy ra vào mùa lễ Tự Tứ, một trong những mùa lễ có ý nghĩa quan trọng trong đạo Phật. Trong mùa lễ này, chư tăng ni sau ba tháng an cư, thúc liễm thân tâm, sẽ có thêm được một tuổi đạo (còn gọi là tuổi hạ hay hạ lạp), thêm thanh tịnh và gần gũi hơn với nguồn cội Chơn Tâm. Đặc trưng tinh thần của lễ Tự Tứ là chư tăng ni trợ giúp nhau trong việc tự quán xét thân tâm và trình bày, diễn đạt những điểm còn thiếu sót hay chưa được hoàn hảo về Thân- Khẩu- Ý trong quá trình tu tập Phật đạo, và sau đó phát tâm chí thành sám hối (nếu có lỗi lầm) để khiến gia cố thêm tín tâm cùng hạnh nguyện rốt ráo thanh tịnh đối với Tam Bảo.

2/  Tôn giả A Nan (605 TTL – 485 TTL) là đương cơ chính của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Ngài là em họ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (624 TTL – 544 TTL) và cũng là thị giả lâu năm nhất của đức Phật. Ngài học rộng, nhớ nhiều về Phật pháp nên đươc mệnh danh là "Đa Văn Đệ Nhất" trong hàng 10 vị đại đệ tử của đức Phật. Tuy vậy, khi đức Phật nhập đại NiếtBàn, Ngài vẫn chưa đắc Thánh quả A La Hán (còn là bậc Hữu Học, chưa là bậc Vô Học). Mãi sau đó 3 tháng, Ngài mới có đủ cơ duyên để chứng đắc quả vị A La Hán mà tham dự đại hội kiết tập kinh điển lần thứ nhất tại nước Ma Kiệt Ðà của vua A Xà Thế  và được Tôn giả Đại Ca Diếp  truyền trao chánh pháp  làm vị Tổ thứ hai của Thiền Tông.

3/   Trong Tam Huệ Học (Văn- Tư- Tu) của nhà Phật, "Văn" (học rộng, nhớ nhiều) mới chỉ là giai đoạn khởi đầu, giai đoạn tiếp nhận và làm quen với chân lý nguồn cội nên chưa có thể tiếp cận, đắc nhập đến cảnh giới Kiến Đạo (“Thấy Đạo”) của các bậc Thánh ở giai vị Tu Đà Hoàn (Thanh Văn thừa ) hoặc ở giai vị Bồ Tát Sơ Địa (Bồ Tát thừa). Ở giai vị Kiến Đạo, các Ngài đã được nhập vào dòng Thánh nên đã thấy rõ ra con đường tu tập để thành Phật. Theo Tổ Vô Trước (300-370) với Hiển Dương Thánh Giáo Luận và Tổ Thế Thân (315-395) với Biện Trung Biên Luận,  con đường tu tập của bậc Tu Đà Hoàn (Sơ Địa Bồ Tát) là tập trung vào phần Thất Giác Chi; còn con đường tu tập của các bậc từ Tư Đa Hàm đến A La Hán (Bồ Tát Nhị Địa đến Bồ Tát Bát Địa) là tập trung vào phần Bát Chánh. Vậy đây không phải là con đường mà các phàm phu và cả các vị hiền thánh chưa Kiến Đạo có thể tu tập có hiệu quả được. Trong giai đoạn tu tập Thất Giác Chi và tu tập Bát Chánh Đạo, Liễu Biệt Cảnh thức dù vẫn còn hiện hữu nhưng tác dụng của nó dần dà càng ngày càng bị giảm sút để nhường chỗ cho Tuệ Tri, Giác Trí  lưu xuất từ  Như Lai Tàng thanh tịnh. Duy Thức Học cũng minh định giai đoạn"Văn" còn tùy thuộc và còn nằm trong hoạt động của Ý thức (Đệ Lục thức) hay nói rộng hơn là còn thuộc phạm trù ảnh hưởng của Liễu Biệt Cảnh Thức.

4/  Theo tinh thần Văn-Tư-Tu, muốn tu tập có hiệu quả (trước là Kiến Đạo của bậc Tu Đà Hoàn, sau là Kiến Tánh của bậc A La Hán) trong đạo Phật thì không nên dừng lại, đứng chựng lại ở giai đoạn "Văn” mà cần vượt qua nó. Vì đây còn là giai đoạn thuộc về tu tập của Tiền Lục Thức (Liễu Biệt Cảnh Thức). Điều này có nghĩa là trong tu tập, hành giả không những cần hiểu biết thấu đáo lời Thầy, lời Tổ mà còn cần phải vượt qua các phạm trù ngữ ngôn này. Do đó, trong nhà Thiền vẫn thường nghe câu "không để các lão Hòa Thượng trong thiên hạ đánh lừa”. Thực tế, không có Hòa Thượng nào muốn đánh lừa kẻ hậu học mà đây là câu hành giả tự nhắc nhớ, nhắn nhủ cho chính mình, không để tâm thức của mình bị trôi lăn theo cảnh trần bên ngoài, theo Tiền Lục Thức, theo Ý thức bám chấp vào lời lẽ, ngữ ngôn của các ngài. Chương 5 (chương "Như Lý Thật Kiến") trong kinh Kim Cang xác quyết không nên chấp mắc nơi công năng Thấy của Tiền Lục Thức: "Đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề: "Có thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai?", ngài Tu Bồ Đề liền thưa rằng "Không thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai vì thân tướng Như Lai nói đó tức chẳng phải thân tướng". Ngài liền được đức Phật tán thán: "Đúng thế, phàm cái gì có tướng đều là hư dối.  Nếu thấy các tướng là phi tướng, tức là thấy Như Lai". Ngoài ra, nơi chương 6 (chương “Chánh Tín Hy Hữu") của kinh này cũng xác quyết không nên chấp mắc nơi công năng Nghe của Tiền Lục Thức : “Pháp của Như Lai nói dụ cũng như bè, đến pháp còn nên xả bỏ hà huống phi pháp”. Điều này có nghĩa là nếu muốn thấy, muốn nghe ra thật tướng, thật pháp  thì cần phải vượt qua chỗ thấy, chỗ nghe  của Tiền Lục Thức do vì Tiền Lục Thức chỉ thấy, chỉ nghe được nơi cảnh trần bên ngoài.

5/  Theo Duy Thức Học, Ý thức cùng với 5 Thân Thức  (5 thức nơi Thân gồm có Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức; còn gọi là Tiền Ngũ Thức hoặc "Năm Thức Trước"), được gọi chung là Tiền Lục Thức ("Sáu Thức Trước"). Tiền Lục Thức được xếp vào cùng một nhóm Năng Biến , nhóm Năng Biến thứ ba,  với tên gọi là "Liễu Biệt Cảnh Thức". Hai Năng Biến kia là A Lại Da thức (Đệ Bát thức, Năng Biến thứ nhất) và Mạt Na thức (Đệ Thất thức, Năng Biến thứ nhì).  Trong khi công năng chính yếu của A Lại Da thức là tàng chứa tất cả chủng tử có từ bao đời kiếp, công năng của Mạt Na thức là tư lương chấp ngã, thì công năng của Liễu Biệt Cảnh thức là phân biệt, phân định, so đo, tính toán, suy lường rõ ràng về trần cảnh.  Do vậy, Ý thức nói riêng và Liễu Biệt Cảnh thức nói chung (Tiền Lục Thức) có 3 đặc điểm sau:

   (1) Đó là Tâm Phan Duyên, tâm có khuynh hướng và có khả năng bám chấp một cách tích cực mạnh mẽ, khắn khít vào trần cảnh bên ngoài (6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp).  Thật ra, cả 3 thức Năng Biến (8 thức Tâm Vương) đều có khả năng bám chấp này nhưng mức độ thể hiện và hiệu dụng khác nhau: thức A Lại Da chỉ có 5 Biến Hành tâm sở (Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, Tư) nên mức độ phan duyên chỉ là sơ khởi,  không có tác dụng gây tạo chủng tử, nghiệp quả;  thức Mạt Na với 18 tâm sở (5 Biến Hành, thêm 1 Biệt Cảnh Dục, thêm 8 Đại Tùy Phiền Não: Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Bất Chánh Tri, thêm 4 Căn Bản Phiền Não: Tham, Si, Mạn, Ác Kiến) nên có mức độ phan duyên mạnh hơn so với A Lại Da, nhưng cũng chưa đủ sức để gây tạo ra chủng tử nghiệp quả; chỉ có Ý thức với đầy đủ 51 tâm sở (gia cố vững chắc thêm cho sự bám chấp) nên có sức phan duyên mạnh mẽ, dữ dội nhất để gây tạo ra vô lượng chủng tử nghiệp quả. Ở phẩm “Văn Thù Thăm Bệnh” (phẩm 5), kinh Duy Ma Cật cũng xác quyết tâm phan duyên chính là gốc bệnh của tất cả chúng sanh: "Sao gọi là gốc bệnh? Ấy là phan duyên. Do theo việc có phan duyên, ắt nảy ra gốc bệnh. Phan duyên với những cảnh nào? Ấy là ba cõi: Dục giới, Sắc giới,Vô sắc giới...”

    (2) Đó là tâm "Có Chỗ Trụ"("Hữu Sở Trụ") để làm chỗ nương tựa phát sinh ra Tâm Phan Duyên.  Điều này cho thấy có sự khác biệt cơ bản rất thú vị giữa A Lại Da thức (Căn Bản thức) và 7 Chuyển Thức (7 thức còn lại của Bát Thức Tâm Vương, bao gồm Mạt Na thức, Ý thức, và Tiền Ngũ Thức):  chỉ có A Lại Da thức, vô phú vô ký tánh lồng lộng mênh mang, là tâm Vô Sở Trụ nên không không có đủ lực để phan duyên ; còn lại tất cả 7 chuyển thức kia đều là các tâm thức "Có Chỗ Trụ"("Hữu Sở Trụ") nên đều khiến có ra phan duyên.  

   (3) Đó là tâm làm căn nguồn cơ bản cho việc hình thành vọng tưởng trong đời sống hiện tại. Vọng tưởng là kết quả thể hiện rõ rệt nhất của tâm phan duyên nơi Đệ Tam Năng Biến (Liễu Biệt Cảnh Thức) trong đời sống thường nhật của tất cả chúng sanh, nhất là nơi các phàm phu. Từ vọng tưởng, chúng sanh lại cứ tiếp tục gây tội và tạo phước, đón nhận và sử dụng các chủng tử cũ từ vô lượng kiếp sống trong quá khứ (xuất ra từ A Lại Da thức) cùng hình thành, sinh khởi thêm các chủng tử mới cho các kiếp sống trong thời vị lai (đưa vào A Lại Da thức) mà duy trì vòng sinh tử luân hồi liên miên, bất tận.

Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng về Tiền Lục Thức (bài thứ 8 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):

                " Thứ đệ tam năng biến      

                   Sai biệt hữu lục chủng                            

                   Liễu cảnh vi tánh tướng                          

                  Thiện, bất thiện, câu phi"                        

(Tạm dịch: "Thức năng biến thứ ba

                      Có sáu thứ khác biệt

                      Rõ cảnh làm tánh tướng

                     Thiện, ác, cùng vô ký")

6/   Thần chú là những câu Chân Ngôn có công năng diệu dụng bất khả tư nghì như đem đến  sự an tĩnh, thành tựu đại định nơi tâm thức cùng tiêu trừ, hóa giải ảnh hưởng độc hại từ các tâm phan duyên, từ các ác chú, ác duyên bên ngoài. Ngoài các bài chú có nhiều câu như chú Thủ Lăng Nghiêm, chú Đại Bi…,  cũng có các bài chú chỉ có môt câu như các chân ngôn Tịnh Pháp Giới, chân ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp, chân ngôn Tịnh Thân Nghiệp, chân ngôn Tịnh Tam Nghiệp, chân ngôn An Tâm, chân ngôn Phổ Cúng Dường… Trong đoạn kinh văn trên, đức Phật đã thị hiện phóng quang (vô úy quang) trong đó xuất hiện hoa sen báu ngàn cánh (bửu liên hoa) cùng vị hóa Phật ngồi kiết già, tuyên nói thần chú. Thần chú mật âm này được Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù đem đến cứu hộ ngài A Nan cùng nàng Ma Đăng Già, đưa về chỗ Phật. Đây là chỗ "cắt đứt con đường ngôn ngữ, dứt bặt chỗ tâm tư lự  (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ tuyệt) của kinh. Theo cảm nhận về Duy Thức Học, các câu chú có được công năng diệu dụng là do âm thanh, ngữ ngôn của chúng đã không còn thuộc về phạm trù phân biệt, hiểu biết của Ý thức , tức là đã  vượt qua Ý thức mà thể nhập, thâm nhập vào đến tận Như Lai Tàng bản thể. Do vậy, các câu Chơn Ngôn thanh tịnh, mật nhiệm này không thể dung hợp, chứa mang các ý nghĩa thông thường của các loại ngôn ngữ thường ngày (như các ngôn ngữ giao tiếp, ngôn ngữ bác học, khoa học và của cả ngôn ngữ Đạo học) để có thể phân biệt, hiểu biết qua Ý thức, mà chỉ có thể thành tâm nương vào để phát triển chánh tín, kiện toàn tâm thức. 

7/   Phương pháp tu thiền trong đạo Phật có 2 pháp môn căn bản là "Chỉ” (Sammatha) và "Quán" (Vipassana).

   (1) "Chỉ" có nghĩa là đình chỉ, là dừng lại, thôi dứt: đó là dừng lại, thôi dứt tất cả mọi vọng tưởng, không cho vọng tưởng dấy khởi. Do công phu tu tập thiền Chỉ, tâm hành giả dần được an trụ vào đối tượng Chánh pháp mà có ra  các kết quả tốt đẹp như  thành tựu tịnh chỉ, tịch tĩnh, và nhất tâm; tạo ra các công đức để làm cơ sở căn bản đi vào Định (Samadhi)”.

   (2) "Quán" có nghĩa là quán sát , chiếu soi, xem xét các đối tượng nơi tự tâm, làm cơ sở căn bản để phát Huệ (Prajna). "Quán" luôn cần có đối tượng nên Quán luôn có hai bên là bên Năng Quán (chủ thể năng quán, chủ thể này được công phu tu "Chỉ" thanh lọc và gia cố sức mạnh) và bên Sở Quán (đối tượng sở quán). Có rất nhiều đối tượng sở quán, các đối tượng thường được nhắc đến nhiều nhất là quán về 4 Niệm Xứ (Thân, Thọ, Tâm, Pháp)...

    (3) Ngoài Chỉ và Quán, Thiền (Dhyana) có thể được cảm nhận là sự vượt thoát lên cả hai công phu  Chỉ và Quán này.  Nếu "Chỉ" là yên lặng cùng tột, "Quán" là phân biệt, rõ biết mọi sự vật như huyễn, thì “Thiền" được xem là tâm không trụ chấp vào cả hai bên (Chỉ và Quán).  Do đó, “Thiền” là một từ ngữ rất khó định nghĩa chuẩn xác vì phạm vi nội dung của Thiền quá bao quát khắp cả một cách sống, một lối sống, một hướng sống, một đời sống... Như từ ngữ "Thiền" đã có hiện hữu trong nhiều danh xưng quen thuộc hàng ngày như  thiền tọa, thiền hành, thiền trà, thiền cắm hoa...

Tiếp nối toát yếu đoạn kinh văn trên:

"Đức Phật hỏi ngài A Nan lý do khiến ngài phát tâm xuất gia theo Phật. Ngài thưa là do được thấy 32 tướng vàng kim sáng rỡ, trong sạch, tốt đẹp vi diệu của đức Phật mà khát ngưỡng xuất gia theo Phật. Đức Phật liền khai thị về nguyên nhân của luân hồi sinh tử nơi tất cả chúng sinh từ vô thỉ là do chỉ sống theo vọng tưởng mà quên mất Chơn Tâm. Nên nay đức Phật muốn ngài A Nan dung Trực Tâm để trả lời các câu hỏi từ đức Phật. Do đây, liền tiếp theo có 8 lần hỏi đáp giữa đức Phật và ngài A Nan, trong đó có 7 lần hỏi đáp trực tiếp về Tâm ("Bảychỗ tìm tâm”) như sau:

Hỏi 1: “ Lúc thấy 32 tướng của Như Lai mà phát tâm xuất gia, thì ông dùng cái gì để thấy, và dùng cái gì để ưa thích?”

Đáp 1: “Con dùng tâm và mắt để thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ sanh tử.”

Hỏi 2: “Ông nói là do tâm và do mắt để thấy. Vậy cần nên biết chỗ của chúng. Mắt và tâm của ông hiện ở chỗ nào?”

Đáp 2:  “Con mắt con ở trên mặt, tâm con ở trong thân.”

Hỏi 3:  “Nếu tâm ở trong thân thì phải rõ biết về mọi vật thể (lục phủ, ngũ tạng,..), mọi sự việc (tóc,móng tay mọc dài ra, gân cốt động chuyển,...) trong thân mà tại sao tâm ông lại  không biết bên trong thân, chỉ biết bên ngoài thân?”

Đáp 3:  “Như thế, tâm con ắt là ở ngoài thân.”

Hỏi 4: “Nếu tâm ở ngoài thân, thì thân và tâm cách lìa, thân và tâm không thể cùng biết vì chúng không có liên can gì với nhau. Nghĩa là cái gì tâm biết thì thân không thể biết, và ngược lại, cái gì thân biết thì tâm không thể biết sao?”

Đáp 4:  “Do tâm con không ở trong thân, cũng không ở ngoài thân. Vậy tâm con ở giữa thân, tức là nó núp sau con mắt.”

Hỏi 5: “Nếu tâm núp sau con mắt thì khi tâm trông thấy cảnh bên ngoài, tại sao lại chẳng thấy được con mắt? Còn giả sử, tâm thấy được con mắt thì con mắt đã đồng như ngoại cảnh rồi; khi đó mắt thấy nhưng tâm sẽ không biết sao?”

Đáp 5:  “Cái thân của chúng sinh đây, phủ tạng ở bên trong, khiếu huyệt ở bên ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Vậy,mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong.”

Hỏi 6:  “Khi thấy ra ngoài mà nhắm mắt thấy tối, cái cảnh giới tối ấy là đối với con mắt, hay không đối với con mắt? Nếu đối với con mắt thì cảnh giới tối ấy ở trước con mắt, vậy tại sao lại nói là ở trong thân?  Và nếu cảnh giới tối ấy quả thật ở trong thân, thì mọi vật trong nhà tối, chẳng lẽ đều là phủ tạng của ông?  Vả lại, nếu cảnh giới tối không đối trước con mắt thì không thể được gọi là thấy!  Còn nếu có thể thấy ngược vào trong, khi nhắm mắt thấy tối ông gọi là thấy bên trong thân, thế tại sao khi mở mắt thấy sáng lại không thấy được mặt mình?  Khi đó, chẳng lẽ cái tâm rõ biết và con mắt đều ở nơi hư không?  Khi đó, tâm và mắt còn là thân thể của ông sao? Khi đó, tâm và mắt còn có thể cùng biết sao? ”

Đáp 6:  “Theo lời Phật khai thị chúng rằng: "Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh":  Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con; tùy sự suy nghĩ ở đâu, tâm liền có ở đó, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chính giữa.”

Hỏi 7:  “Nếu nói là "nơi pháp sanh nên các tâm sanh, hễ suy nghĩ hòa hợp ở chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó"; vậy, tâm này có tự thể hay không có tự thể? Nếu tâm không có tự thể thì tâm chẳng thể suy nghĩ. Còn nếu tâm có tự thể thì khi dùng tay tự búng thân mình, cái tâm biết bị búng của ông là từ bên trong thân ra hay từ bên ngoài thân vào? Nếu từ bên trong thân ra thì phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài thân vào thì trước tiên phải thấy mặt của ông...Vả lại, cái tâm hay biết của ông nếu thật có tự thể, thì đó là một thể hay nhiều thể?  là cùng khắp thân ông hay chẳng cùng khắp?  Nếu tâm chỉ có một thể, thì khi búng vào tay (khiến tay đau) thì cả tứ chi, tất cả chỗ nơi thân thể ông đều phải thấy đau, nay sao lại chỉ thấy một chỗ đau ở nơi tay?  Còn nếu tâm có nhiều thể thì thành ra có nhiều người, vậy thể nào là của ông?  Mặt khác, nếu cái tâm thể ở cùng khắp cả thân thì giống như luận thuyết “một thể” vừa nói; còn nếu nói tâm thể không cùng khắp, thì khi ông đụng cả ở hai nơi đầu và chân thì lẽ ra hễ đầu biết đau thì chân không thể biết đau sao?”. 

Đáp 7:   “Theo lời Phật với Bồ Tát Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về thật tướng, con cũng nghe Phật nói “tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài”.Do vì chẳng biết trong nên tâm con chẳng phải ở trong, thân tâm cùng biết một lượt nên tâm con chẳng phải ở ngoài, nay cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong, tất tâm con phải ở giữa”.

Hỏi 8: “Nếu nói là tâm ở khoảng giữa, tâm là Thức hòa hợp của Căn và Cảnh, thì tâm thức ấy có bao gồm hay không có bao gồm hai bên Căn và Cảnh? Nếu tâm ấy bao gồm cả hai bên thì Căn (có tánh tri giác, phân biệt) và Cảnh (vô tri, không có tánh tri giác, phân biệt) xen lộn, đâu thể có khoảng giữa? Còn nếu tâm không bao gồm cả hai bên thì cái thấy biết của Tâm sẽ không giống với cái thấy biết của Căn, cũng không  giống với cái không thấy biết của Cảnh, tức là Tâm ông không có thể tánh sao?”.

Đáp 8:  “Theo lời Phật  với bốn đại đệ tử (Mục Kiền Liên,Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm”. Vậy con vô trước, được gọi là tâm chăng?

Đức Phật liền khai thị là nếu cái tâm hiểu biết phân biệt không có ở chỗ nào cả, vậy những hiện tượng trong thế gian và các loài sinh vật (trên mặt đất, dưới nước, trong không trung) mà tâm ngài A Nan thấy biết là có hay là không có? Nếu chúng không có thì đâu cần nói là tâm không dính bám? Còn nếu có mà tâm không dính bám vào, thì đây chưa thể nói là Không. Vì không có tướng, mới gọi là Không; nếu chẳng phải Không, tức là có tướng. Có tướng thì nhất định phải có chỗ nơi, đâu có thể nói là không dính bám được! Cho nên biết rằng, cái không dính bám vào đâu cả, gọi đó là tâm hiểu biết, cũng là điều không hợp lý.”

Qua đoạn toát yếu trên, ta có thể rút ra vài điểm mấu chốt và nhận định như sau:

1/   Trong sinh hoạt đời thường, sự sống con người được thể hiện qua các họat động, sự việc về thấy - nghe- hay- biết (Kiến Văn Giác Tri). Đây chính là nói gọn về sự biểu hiện của các tác năng nơi Tiền Lục Thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý): ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi gọi là ngửi, ở lưỡi gọi là nếm, ở thân gọi là hay biết (cảm thấy), ở Ý gọi là hiểu biết. Do Tiền Ngũ Thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân) đều tập trung về Ý thức, kết hợp với Ý thức để khởi ra phân biệt, nên các tác năng nơi Tiền Ngũ Thức đều có thêm chữ "biết": như do nơi mắt gọi là thấy, khi mắt kết hợp với Ý thức gọi là "thấy biết"; nơi tai gọi là nghe, khi tai kết hợp với Ý thức gọi là "nghe biết"; nơi mũi gọi là ngửi,khi mũi kết hợp với Ý thức gọi là "ngửi biết"...Đức Phật đã khéo léo, đại từ bi, đại trí tuệ, đại phương tiện theo thứ lớp chỉ bày về 3 pháp môn (Chỉ, Quán, Thiền) qua câu hỏi nhắm ngay về các tác năng thông thường nhất nơi Tiền Lục Thức này: "Lúc thấy 32 tướng của Như Lai mà phát tâm xuất gia, thì ông dùng cái gì để thấy, và dùng cái gì để ưa thích?" (Hỏi 1). Đây cũng chính là căn nguồn khiến có ra "Bảy Chỗ Tìm Tâm" mà qua đó, ngài A Nan đã “thẳng tắp“ trả lời các câu hỏi khéo léo, đại phương tiện, đại thiện xảo, từ nơi đức Phật.

2/   “Tâm” là một trong những  từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống hằng ngày (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình…) cũng như cũng rất  phổ thông, phổ dụng trong đạo Phật. Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm, với những điều thường đươc nghe như "vạn pháp duy tâm", "nhất thiết pháp duy tâm tạo"... Tuy vậy, Tâm lại là một trong những từ ngữ khó có thể định nghĩa một cách chính xác, chắc nịch. Như các câu hỏi căn bản “Tâm là gì? Tâm ở đâu? Tu tâm là tu như thế nào… cũng là các điều cần được nắm vững mà lại không dễ dàng có thể hiểu biết thông suốt, rõ ràng được. Lý do là Tâm có nhiều tầng lớp hoạt động, nhiều thứ lớp hiểu biết, nhiều trình độ thể nhập, nhiều giai vị xả ly... tùy theo căn cơ, môi trường, hoàn cảnh, sự gắng sức...của mỗi người, mỗi hành giả. Thông thường, ở giai vị phàm phu, Tâm chính là Ý thức (Đệ Lục thức) hoặc nói rộng hơn, Tâm là Tiền Lục thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức) vì đời sống phàm phu chỉ quanh quẩn trong 6 giác quan này mà không thể thâm nhập và vượt qua Mạt Na thức cùng A Lại Da thức như các bậc Hiền Thánh.

3/ “Trực Tâm” được xem là một trong các Tâm căn bản trong tu tập Phật Đạo. Đó là  tâm ngay thẳng, tâm không cong vạy, tâm thẳng hướng về Giải Thoát, về bản thể Chơn Như.  Trực Tâm được xem là đã bắt đầu, không còn thuộc về Tâm Thế Gian (tâm chấp cảnh, tâm thuộc về Ý thức phân biệt, luôn có khen chê, thô phù điên đảo...) mà thuận hợp với Tâm Xuất Thế Gian (xa lìa  chấp cảnh, xoay hướng về cảnh giới vi tế thẳm sâu Như Lai Tàng thanh tịnh). Theo kinh Duy Ma Cật, từ Trực Tâm sẽ đạt đến các tâm thanh tịnh khác như :Thâm Tâm, Bồ Đề Tâm, Hồi Hướng Tâm… Các tâm này sẽ khiến Ý thức bớt đi và không còn có những chấp mắc từ phân biệt hướng ngoại mà có được sự chú tâm, định tâm hướng nội. Do đây, Ý thức thay vì "liễu cảnh", rõ biết về cảnh trần bên ngoài, sẽ bắt đầu dần dà phân biệt, hiểu biết về các hiện tượng vi tế, thâm mật hơn ở Mạt Na thức và A Lại Da thức bên trong.

 

 4/ Với câu hỏi 1, ngài A Nan đã dùng Trực Tâm, trả lời ngay thẳng với sự thật khách quan và hiển nhiên, thông thường, dễ dàng nhận biết về công năng của tâm và mắt là “Dùng tâm và mắt để thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xả bỏ  sanh tử ” (Đáp 1). Đây là chỗ của Nhãn Căn, Nhãn thức và Ý thức, chỗ phát khởi ra các động lực lôi kéo vào trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử; chỗ còn hệ thuộc vào các hình tướng hữu vi và vào các tâm thức hữu lậu. Câu trả lời này của ngài A Nan lại tỏ ra rất thuận hợp xít xao theo thường tình thế gian “theo Trần, bỏ Giác” (hiệp Trần, bối  Giác). Mặt khác, câu trả lời này cũng có liên hệ và tương ưng mật thiết với Duy Thức Học:  Qua lăng kính Duy Thức Học, cái Thấy được minh định không chỉ xuất sinh từ một duyên Mắt (Nhãn Căn) mà từ 9 Duyên, bao gồm: 1.Mắt (Nhãn Căn), 2.Vật thể (Cảnh Trần, bao gồm tất cả cảnh, người, và vật), 3. Ánh sáng (Minh), 4. Hư Không (nền của vật cảnh và của ánh sáng), 5.Chủng tử (hạt giống tâm thức, được tích chứa, tàng trử trong A Lại Da thức để làm nguồn năng lực định hướng cho toàn diện sự sống), 6. Tác Ý (động thái kích hoạt công năng hoạt động của chủng tử vào nơi đối tượng, Tác Ý có mặt trong tất cả 8 Thức Tâm Vương), 7. Ý thức (Phân Biệt Y, Thức Thứ Sáu, có công năng dong ruổi, phân biệt, rõ biết theo trần cảnh bên ngoài), 8. Mạt Na thức (Nhiễm Tịnh Y, Thức Thứ Bảy, có công năng tư lương chấp ngã), và 9. A Lại Da thức (Căn Bản Y, Thức Thứ Tám, cũng gọi là Tàng thức, có công năng nhiếp trì thân tâm). Do vậy, tướng Thấy có các thành phần bao trùm khắp mọi nơi, như nơi nhục thân (nhãn căn), nơi khí thế gian và cảnh trần (vật thể, hư không, ánh sáng, con người,  động vật và thực vật), và cả ở nơi Thức (5 thức duyên còn lại: Chủng tử, Tác Ý, Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Da thức). Nói cách khác, cái Thấy bao trùm cả Ba Hòa Hợp là Căn, Cảnh  và Thức. Các thành phần này khiến có ra cái Thấy mà tiến trình hình thành cái Thấy có thể phân biệt ra  3 giai đoạn, tạm tóm lược như sau: giai đoạn 1 là mắt (nhãn căn) tiếp nhận, thu nhận bóng hình trần cảnh (vật thể, hư không, ánh sáng) với nguồn năng lực có sẳn từ thức A Lại Da (tác ý, chủng tử để thấy), thí dụ: “thấy một nhánh hoa”; giai đoạn 2 là bóng hình trần cảnh được đưa vào đến Ý thức để khởi ra phân biệt, rõ biết chi tiết về trần cảnh qua các tính chất như hình dạng, màu sắc, tên gọi, công dụng...của trần cảnh, thí dụ: “À! đây là nhánh hoa mai vàng 8 cánh rất đẹp”; giai đoạn 3 là từ sự phân biệt, rõ biết này mà tiếp tục sanh ra các tâm sở yêu-ghét, thích-sợ, .. nơi Ý thức , thí dụ:” Thích quá, phải cắt nhánh hoa mai này đem về nhà”. Hai giai đoạn sau được thể hiện cùng với 5 duyên sau cùng, 5 thức duyên (Chủng tử, Tác Ý,  Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Da thức).

5/ Theo đoạn kinh văn trên, ngài A Nan thưa với đức Phật là do Ngài thấy 32 tướng thù thắng của Như Lai mà sanh lòng ham thích, xuất gia theo đức Phật. Vậy cái Thấy của Ngài ở đây  đã lậm thấu đến giai đoạn 3, giai đoạn phát sinh tâm sở ham thích. Duy Thức Học phân định, chỉ bày rõ tâm sở ham thích chính là Tham Ái, là một trong sáu Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến). Mong dựa vào phiền não (tham ái) để tu tâp, thoát ly ra khỏi phiền não (giải thoát, giác ngộ) là điều không có thể hiện thực được. Do vậy trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán đã chí thiết dặn dò:

"Chí đạo vô nan,

 Duy hiềm giản trạch.

 Ðản mạc tắng ái,

 Ðổng nhiên minh bạch"

Tạm dịch:

"Tột đạo không khó

 Cốt đừng lựa chọn

 Chỉ đừng ghét thương

 Tự nhiên sáng rõ"

Phước nghiệp- duyên sự, động lực nguyên ủy xuất gia của mỗi người mỗi khác. Ở đây,   động lực xuất gia của ngài A Nan là dựa vào tâm sở ham thích. Động lực này  không giống như của đức Phật là dựa vào lòng khát khao tìm cầu chân lý, giải thoát ra khỏi các buộc ràng, chi phối nơi thế gian ắp đầy khổ đau và đại nguyện phổ độ chúng sanh thể hiện qua 4 điều yêu cầu vua cha Tịnh Phạn:

      1. Làm sao cho con trẻ mãi không già?

      2. Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh?

      3. Làm sao cho con sống mãi không chết?

      4. Làm sao cho mọi người, tất cả chúng sinh không còn khổ đau?

6/   Từ câu trả lời của ngài A Nan có liên hệ, dính líu chặt chẽ đến Mắt và Tâm, đức Phật liền nhân đó mà đặt ra thêm các câu hỏi về hai Căn này, mà câu hỏi thiết thực gần gũi nhất là hỏi về chỗ ở, vị trí của chúng:  “Mắt và tâm của ông hiện ở chỗ nào?” (Hỏi 2).

Bảy chỗ của Tâm được ngài A Nan trả lời,  xác định từ Trực Tâm của Ngài nhưng dĩ nhiên  câu đáp của Ngài tùy thuộc rất nhiều vào tâm lượng phân biệt, hiểu biết, ghi nhớ của Ngài ngay lúc đó. Bảy chỗ lần lượt được ghi nhận tóm lược như sau:

Chỗ 1: ”Tâm ở trong thân" : Đây là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức với sự tương hệ, gắn liền với nhục thân (ở trong thân);  là cái thấy có đủ 9 duyên ( 1.Mắt , 2.Vật thể,  3. Ánh sáng, 4. Hư Không, 5.Chủng tử, 6. Tác Ý (bao gồm tất cả các Tác Ý của A Lại Da thức, Mạt Na thức, Ý thức và Nhãn thức, đại diện cho Tiền Lục Thức), 7. Ý thức, 8. Mạt Na thức và 9. A Lại Da thức). Đây cũng là cái Thấy thường tình nhất, "thấy đâu biết đó", nơi thế tục. Đức Phật đã nhân nơi đó,nêu lên lý đơn giản nhưng trái ngược để phá chấp vào lý lẽ thường tình này : "Nếu tâm không thể thấy biết ở trong thân, thì tâm không thể ở trong thân".  Ở đây, kinh chỉ rõ chỗ thấy của ngài Anan còn là tri kiến phân biệt, hiểu biết nơi thân tâm thường tình thuộc về thức tình nên đức Phật thị hiện nhổ bỏ chỗ thức tình này.

Chỗ  2: “Tâm ở ngoài thân”:  Đây còn là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức với sự tương hệ, gắn liền với nhục thân (ở ngoài thân); cái thấy có đủ 9 duyên như ở chỗ 1. Nhưng cái thấy đã bắt đầu không còn thường tình khi cho rằng Tâm ở ngoài Thân, một ý tưởng kỳ đặc không thể được chấp nhận trong đời sống thông thường. Đây cũng là bắt đầu có sự tương ưng, hội nhập với chỗ phạm vi hiểu biết, tri giác đã vượt thoát qua thân thể thịt xương mà hòa quyện vào chỗ  liễu nghĩa của Tâm Chơn Như, cái tâm trùm khắp mênh mang khắp đất trời, vũ trụ trong vô lượng đời sống. Thế nên ngài A Nan mới nói “Tỉnh ngộ biết cái tâm con thật ở ngoài thân”, lại nói thêm “Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là không lầm”. Nhưng do ngài chấp thủ vào kiến giải “Tâm ở ngoài thân” này, chấp Tâm chỉ có ở ngoài Thân, vậy chẳng lẽ Tâm không có trong Thân sao? Lại nữa, nếu Tâm ở ngoài Thân, thì Thân với Tâm không thể cùng biết Tâm sao?  nên đức Phật cũng đã thị hiện dứt trừ chỗ chấp mắc này.

Chỗ 3:  “Tâm ở giữa thân” (tâm núp sau con mắt): Đây cũng còn là cái thấy có đủ Căn-Cảnh-Thức  với sự tương quan xít xao với nhục thân (ở giữa thân); cái thấy có đủ 9 duyên như ở chỗ 2 và chỗ 3.  Cái Thấy ở chỗ này quá đỗi dị thường vì khó có ai có thể nghĩ đến.  Tuy nhiên, đây cũng là chỗ tương hợp với chỗ diệu dụng, trùm khắp mọi nơi, kể cả những chỗ không thể nghĩ đến, không thể ngờ đến của tâm Chơn Như. Nhưng do thấy ngài A Nan chấp thủ vào kiến giải này, đức Phật bèn nhẹ nhàng nhổ đinh, tháo chốt giúp Ngài: "Nếu tâm núp sau con mắt, vậy tại sao tâm không thấy được con mắt?”

 Ba chỗ 1, 2, và 3 đều có liên hệ đến quan niệm "thân ở đâu thì tâm ở đó", và "thân tâm cùng biết", thân tâm kết hợp khắn khít, không thể phân ly. Quan niệm này rất gần gũi với đời sống hằng ngày, nên rất dễ được đồng tình và dễ được chấp nhận nơi tất cả mọi người. Tuy nhiên, dưới con mắt nhà Thiền, quan niệm này có 3 vướng mắc: 1. Chấp tâm (với Tâm còn là Ý thức, chưa là A Lại Da thức, chưa là Chơn Tâm) và chấp thân (thân 5 uẩn) đều là thật có, 2. Chấp có sự tương hệ giữa tâm và thân (tâm ở trong-ở ngoài- ở giữa thân, và 3. Chấp có và chấp không.  Do vậy, 3 chỗ vướng mắc này chỉ là các vọng tưởng, chấp trước không hợp lý Đạo nên Ngài A Nan đã được đức Phật từ bi chỉ bày, khai thị mà dẹp phá .

  Chỗ 4:  “Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong”: Đây là cái Thấy không có vật thể, cái Thấy chỉ còn có 8 duyên là 1.Mắt, 2. Ánh sáng, 3. Hư Không, 4. Chủng tử, 5. Tác Ý (cũng bao gồm tất cả các Tác Ý của các Thức như ở các chỗ nêu trên), 6. Ý thức, 7. Mạt Na thức  và 8. A Lại Da thức. Do vậy, có thể cảm nhận cái Thấy ở chỗ này đã được nhẹ nhàng, thênh thang, phóng khoáng vì không còn bị trói buộc, đóng khung theo vật thể nữa. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu cho cái Thấy “cởi ngược trâu vào Phật điện” (“Đảo kỵ ngưu nhập Phật điện”), theo cách nói trong nhà Thiền. Nói là "cởi ngược trâu" vì Ý thức nay quay ngược vào nội tâm (Mạt Na thức, A Lại Da thức, Như Lai Tàng tâm) không còn hướng ngoại, phân biệt, xét đoán theo cảnh trần để gây tạo nghiệp quả nữa. Vật thể cảnh trần càng cụ thể, càng dễ nhận bắt, càng dễ tạo ra các cảm thọ thích khoái cho các giác quan nơi thân tâm ngũ uẩn thì lại càng khiến Ý thức mắc vướng sâu nặng vào các phiền não nghiêm trọng. Duy Thức Học nêu rõ về sự nghiêm trọng nơi các phiền não là tùy vào phạm vi đối tượng mà Ý thức tác ý là rộng hay hẹp, là bao quát, mênh mang, vô hình tướng hay là cụ thể, hữu hình tướng. Đối tượng càng hẹp, càng cụ thể, càng có hình tướng để thương hoặc ghét thì Ý thức tác ý, gây tạo nghiệp quả càng mạnh mẽ, dữ dội qua 10 tâm sở Tiểu Tùy Phiền Não (Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Xiểm, Hại, Kiêu). Đối tượng của 10 Tiểu Tùy Phiền Não được gọi là “vật thể”, một duyên trong chín duyên của cái Thấy. Ở chỗ Cái Thấy 8 Duyên này, Tâm đã trở nên thanh tịnh hơn vì không còn có Tiểu Tùy Phiền Não thô trọng nữa. Tuy vậy, tâm vẫn còn các phiền não vi tế hơn. Các phiền não vi tế hơn bao gồm và được gọi tên lần lượt là 2 Trung Tùy Phiền Não (Vô Tàm, Vô Quý) và 8 Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Tán Loạn, Thất Niệm, Bất Chánh Tri). Tuy nhiên, đây cũng chỉ là cái thấy từ Ý thức vọng tưởng, cái thấy còn có các tướng hai bên (nhị biên) như tối-sáng, trong-ngoài, nhắm- mở; còn là cái Thấy chưa viên mãn (thấy có ở bên này tức là thấy không có ở bên kia) nên đức Phật đã giúp phá trừ đi các kiến chấp này qua các câu hỏi và giải minh giúp Ngài vượt thoát qua chúng.

  Chỗ 5:  Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh . Chính cái suy nghĩ ấy là tâm; tùy sự suy nghĩ ở đâu, tâm liền ở đó, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chính giữa:  Chỗ này không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và ghi nhớ lời đức Phật khai thị chúng rằng: "Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh".  Đây cũng là cái Thấy không có vật thể (như chỗ 4 bên trên), nhưng lại thêm là không có cả con mắt (nhãn căn), hư không, và ánh sáng. Như thế, cái Thấy nay chỉ còn có 5 duyên, và toàn là 5 thức duyên: 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ bao gồm các Tác Ý của các thức A Lại Da, Mạt Na, và Ý thức; không còn có Tác Ý nơi Nhãn thức), 3. Ý thức, 4. Mạt Na thức  và 5. A Lại Da thức. Đây là cái Thấy tinh thuần của Tâm Thức, cái thấy hòa hợp giữa Năng Kiến (Ý thức) và Sở Kiến (Pháp trần). Cái Thấy tinh thuần Tâm Thức này vi tế, thâm sâu, có công năng bắt đầu gần gũi với cái Thấy của Thiên Nhãn nên ít khi được thế gian (chỉ chuyên về cái Thấy của Nhục Nhãn) thông hiểu và chấp nhận. Ngay cả ngài A Nan ở vào thời điểm này vẫn chưa có thể tự mình thực thấy ra chỗ này nên Ngài phải dựa vào lời đức Phật để nêu ra. Tuy nhiên, nơi đây ngài A Nan còn bám chấp vào Ý thức, tâm thức suy nghĩ, suy tưởng, tư duy phân biệt.. cho rằng phải có hai bên Năng- Sở hòa hợp thì Tâm mới có còn nếu như không có hai bên Năng Sở hòa hợp thì Tâm không có, nên đức Phật đã bày ra các câu hỏi về tự thể của Ý thức là có hay không, Ý thức là một thể hay là nhiều thể.. để phá trừ các chấp mắc này giúp Ngài.

Chỗ 6:  Tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, Tâm và thân cùng biết, mà lại không biết ở bên trong, như thế thì tâm phải ở khoảng giữa:  Đây cũng là chỗ không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và nhớ lại lời đức Phật cùng Bồ Tát Văn Thù và các Pháp Vương Tử luận về nghĩa Thật Tướng,và nghe được đức Phật nói là "tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài". Đây cũng là cái Thấy tinh thuần của Tâm Thức giống như ở chỗ 5 nhưng nay đã tách ly ra khỏi Ý thức mà hòa nhập vào Mạt Na thức. Như thế, cái Thấy nơi đây chỉ còn có 4 duyên là : 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ còn có các Tác Ý của hai thức A Lại Da và Mạt Na; không còn có Tác Ý nơi Nhãn thức và Ý thức), 3. Mạt Na thức, và 4. A Lại Da thức.  Do tách ly khỏi Ý thức nên cái Thấy nay không còn có sự phân biệt về các pháp trần nữa, nhưng do còn kẹt vướng vào Mạt Na thức nên cái Thấy vẫn còn có bám chấp vào hai bên Năng và Sở. Mạt Na thức chỉ duyên, chỉ trụ, chỉ xoay về, quay vào chiếu soi các chủng tử và hiện hành nơi A Lại Da thức. Mạt na thức sanh ra từ A lại da thức rồi lại lấy thức này làm đối tượng sở duyên. Các chủng tử và hiện hành của A lại da thức luôn bị Mạt na thức chấp làm cảnh sở duyên mà chiếu soi, tư lương chấp ngã. Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng (bài thứ 5 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):

"Thứ đệ nhị Năng Biến

 Thị thức danh Mạt Na

 Y bỉ chuyển duyên bỉ

 Tư lương vi tánh tướng"

Tạm dịch:

"Thức Năng Biến thứ hai

 Thức này tên Mạt Na

 Dựa đó rồi duyên đó

 Tư lương làm tánh tướng"

Để giúp ngài A Nan vượt thoát ra khỏi vướng chấp này, đức Phật đã khéo nêu lên các câu hỏi về sự dị biệt quan trọng nơi bản chất của 2 bên Năng (Căn,Thức, có tánh tri giác và phân biệt) và Sở (Cảnh, Trần không có tánh tri giác và phân biệt).

Chỗ 7:  “Cái tâm không có bám víu vào chỗ nào cả. Vậy không bám víu, chấp mắc vào bất cứ đâu, đó gọi là tâm”:  Đây cũng là chỗ không phải là do ngài A nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết mà là do Ngài đã lắng nghe và nhớ lại lời đức Phật cùng với bốn vị đại đệ tử (Mục Kiền Liên,Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm”. Đây là cái Thấy tinh thuần nhất của Tâm Thức, cái Thấy đã vượt qua Ý thức và cả Mạt Na thức, cái Thấy đã đến và đã hội nhập vào A Lại Da thức. Cái Thấy ở chỗ này chỉ còn có 3 duyên là : 1. Chủng tử, 2. Tác Ý (chỉ thuần là Tác Ý của thức A Lại Da), và 3. A Lại Da thức. Do không còn có sự hiện diện của 7 Chuyển Thức (Mạt Na Thức cùng Tiền Lục Thức) nên tất cả dạng lọai Sở Phân Biệt (các tiền trần và pháp trần) và cả Năng Phân Biệt (Ý thức, Mạt Na thức) đều cũng không còn có bóng hình hiện diệntrong cái Thấy chỗ này nữa.  Đây là cái Thấy không có chỗ trụ chấp, vướng mắc nên là cái Thấy rất mênh mang, lồng lộng, khoá ng đạt (do là "Vô phú, vô ký") nhưng lại chuyển biến như thác nước, rất linh động, mạnh mẽ không thể ước lường (do năng lực thấy biết từ muôn vàn chủng tử trong vô lượng kiếp sống). Đây cũng chính là cái Thấy  đã có sự gần gũi với Chơn Tâm (Như Lai Tàng tâm) thanh tịnh.  Các điều trên được nêu rõ qua bài tụng (bài thứ 4 trong 30 bài của Duy Thức Tam Thập Tụng):

“Thị vô phú vô ký

Xúc đẳng diệc như thị

Hằng chuyển như bộc lưu

A la hán vị xả”

Tạm dịch:

“Là không trụ chấp, không thiện ác

 Năm Biến Hành cũng vậy

 Luôn chuyển động như thác nước

 Giai vị A La Hán mới xả bỏ”

 Đến đây đức Phật đã khai thị thêm về ý nghĩa trụ trước, dính bám và chỗ Không Tướng cho ngài A Nan: "Những hiện tượng trong thế gian và các loài sinh vật (trên mặt đất, dưới nước, trong không trung) là có hay là không có. Nếu chúng không có thì đâu cần nói là tâm không dính bám? Còn nếu có mà tâm không dính bám vào, thì đây chưa thể nói là Không. Vì không có tướng, mới gọi là Không; nếu chẳng phải Không, tức là có tướng. Có tướng thì nhất định phải có chỗ nơi, đâu có thể nói là không dính bám được!".  Đây là chỗ đức Phật đã phủi sạch các tướng, xóa trọn các chỗ, nên dù tạm nói là có chỗ (“Tại”) nhưng thật ra không có chỗ nhất định (“Bất Tại’). Đây cũng chính là đức Phật đã ngầm chỉ bày về Chân Tâm mầu nhiệm, Chân Tâm không có Tự Tánh, vô thể, vô tướng, vô tại - vô bất tại (không có ở đâu nhưng không đâu chẳng có; không là gì, nhưng không gì chẳng là), vô sanh, phi hòa, phi hợp; về cảnh giới Giải Thoát, nơi Nhất Như, nơi không còn có hai bên; nơi Năng Sở, Tâm-Cảnh không đến nhau.

"Bảy Chỗ Tìm Tâm" qua các phần nêu trên, là bảy chỗ thấy biết, nhớ biết do ngài A Nan nêu ra. Bảy chỗ này gồm có 4 chỗ (từ chỗ 1 đến chỗ 4) do Ngài A Nan tự mình suy nghĩ, hiểu biết và có thêm 3 chỗ (từ chỗ 5 đến chỗ 7) do Ngài đã lắng nghe, ghi nhớ lời đức Phật khai thị đại chúng, hoặc lời đức Phật nói với các vị Đại Bồ Tát, hoặc lời đức Phật luận bàn cùng các vị đại đệ tử. Qua lăng kính Duy Thức Học, bảy chỗ của Tâm ngài A Nan trình bày  không phải được nêu ra  một cách hồn nhiên, "biết đâu nói đó", không có thứ lớp mà thật sự chúng đã hiển bày một cách chí thành, chí thiết từ nơi Trực Tâm của ngài A Nan qui về một trình tự nghiêm chỉnh, mạch lạc theo 9 duyên của cái Thấy, của Căn- Cảnh- Thức, của Bát Thức Tâm Vương từ Nhãn thức đến Ý thức, qua Mạt Na thức và vào tận A Lại Da thức. Tuy nhiên 7 chỗ này chỉ đều là những vọng tưởng chấp trước từ thô đến tế nên tất cả cần được dứt trừ để mở lối cho con đường dẫn đến Chơn Tâm thanh tịnh. Tựu trung, ý nghĩa thẳm sâu, thú vị nơi đoạn kinh văn này cũng chính là tiền đề, mầm mống nền tảng đưa đến sự thành tựu đạo quả Kiến Đạo, giai vị Tu Đà Hoàn (Bồ Tát Sơ Địa, Địa 1 trong 10 giai vị Bồ Tát Đăng Địa) của ngài A Nan trong quyển 3 của kinh Thủ Lăng Nghiêm này vậy.

 

Khánh Hoàng

Plano _ March 21, 2023

KhanhHoang_Nangmuakhongngai.JPG

    Thơ: Khánh Hoàng

    Nhạc: Khánh Hải

    Ca sĩ: Quang Minh

    Hòa âm: Thái Bảo Lộc

    pps: Thường Minh

https://quangduc.com/a69796/nhac-pham-nang-mua-khong-ngai

 

08 Nắng Mưa Không Ngại.mp3

NangMuaKhongNgai .pps

 

Nắng Mưa Không Ngại

 

Dẫn:

Có hai điều

cần được nhắc nhớ cho chính mình

về nổi muộn phiền

Điều thứ nhất:

Nếu ta nhìn thấy được nổi muộn phiền

ta có thể nhặt nó lên

rồi buông nó xuống

Điều thứ hai:

Nổi muộn phiền không thường hằng

nó luôn biến đổi và sinh diệt

Nó có thể chuyển hóa

từ một kén sâu xấu xí

để trở thành cánh bướm xinh đẹp

bay vút lên trời hồng

Tất cả những nổi niềm buồn vui khác

trong đời sống thế tục

cũng đều như vậy

Hãy ra sức buông đi

Không hối tiếc, không ngăn ngại

Để ngày nào đó,

Ta có thể sống nhẹ nhàng, thanh thoát

và an lạc trọn vẹn

với tấu khúc của mùa Xuân

Miên viễn!

 


Ta nhặt nổi muộn phiền
Bỏ vào túi hư không
Ngày kia bỗng hóa bướm
Bay lên cõi trời hồng

Ta thả nổi bâng khuâng
Trôi vào dòng sinh mệnh
Tuôn chảy niềm không tên
Hóa xum la vạn tượng

Ta nhặt nổi hân hoan
Tô môi son tịnh khẩu
Khẽ mỉm cười lặng yên
Niềm tịch nhiên miên viễn!

Ta thả niềm âu lo
Vào chung trà u nhã
Thong dong bơi như cá
Ðùa vui hương đậm đà

Nhặt lên rồi buông xuống
Nổi niềm đầy lại vơi
Như đêm rồi chợt sáng
Tấu khúc Xuân dâng đời

Buông rồi không nhặt lại
Bao nắng mưa không ngại
Núi sông muôn hình tướng
Chẳng thiếu-thừa, khứ-lai!

     
 Khánh Hoàng
    Plano _ March 13, 2007

KhanhHoang_Bepnha.JPG

Mời xem bài thơ, mp3, và pps "Bếp Nhà"

            Nhạc và lời: Khánh Hoàng

          Ca sĩ: Xuân Trường

          Hòa âm: Thái Bảo Lộc

          Trình bày pps: Thường Minh

https://thuvienphatviet.com/khanh-hoang-bep-nha/

PPS: https://docs.google.com/presentation/d/1Yi8h69_ZXigXnooHlTNxYF_KUS5wNOX3/edit?usp=sharing_eil_se_dm&rtpof=true&sd=true&ts=63f18b3f

 

Bếp Nhà  

                          

Ngăn tủ mở ra nồng thơm rau quả

Kết tụ tinh khôi vạn nẻo đất trời

Chén đũa thì thầm đôi lời thăm hỏi

Ngôn ngữ diệu vợi tâm ý thảnh thơi

 

Chùm nho im lìm không màu phẫn nộ

Táo chín ngoan hiền đỏ bóng chơn nguyên

Nheo mắt vườn ngoài nụ hồng tủm tỉm

Bất động thần kỳ sợi nắng soi nghiêng

 

Ngón tay thon gầy tợ những nhành mai

Thoăn thoắt vân du chẳng hề quái ngại

Xanh đỏ tím vàng dưới trên quán xuyến

Nhật nguyệt tịnh huyền thinh không lặng yên!

 

Dọc ngang qua lại như một cõi riêng

Nước lửa reo vang bốn mùa hóa hiện

Khói ấm vờn bay chưa hề lên tiếng

Hương vị diệu thường sung túc an nhiên!

 

               Khánh Hoàng

               Plano _ March 05, 2012

            (Riêng tặng Hiền Nội HMH)

KhanhHoang_baoLiXi.jpg

Mời xem bài thơ, mp3, và pps "Bếp Nhà"

            Nhạc và lời: Khánh Hoàng

          Ca sĩ: Xuân Trường

          Hòa âm: Thái Bảo Lộc

          Trình bày pps: Thường Minh

https://thuvienphatviet.com/khanh-hoang-bep-nha/

PPS: https://docs.google.com/presentation/d/1Yi8h69_ZXigXnooHlTNxYF_KUS5wNOX3/edit?usp=sharing_eil_se_dm&rtpof=true&sd=true&ts=63f18b3f

 

Bếp Nhà  

                          

Ngăn tủ mở ra nồng thơm rau quả

Kết tụ tinh khôi vạn nẻo đất trời

Chén đũa thì thầm đôi lời thăm hỏi

Ngôn ngữ diệu vợi tâm ý thảnh thơi

 

Chùm nho im lìm không màu phẫn nộ

Táo chín ngoan hiền đỏ bóng chơn nguyên

Nheo mắt vườn ngoài nụ hồng tủm tỉm

Bất động thần kỳ sợi nắng soi nghiêng

 

Ngón tay thon gầy tợ những nhành mai

Thoăn thoắt vân du chẳng hề quái ngại

Xanh đỏ tím vàng dưới trên quán xuyến

Nhật nguyệt tịnh huyền thinh không lặng yên!

 

Dọc ngang qua lại như một cõi riêng

Nước lửa reo vang bốn mùa hóa hiện

Khói ấm vờn bay chưa hề lên tiếng

Hương vị diệu thường sung túc an nhiên!

 

               Khánh Hoàng

               Plano _ March 05, 2012

            (Riêng tặng Hiền Nội HMH)

bottom of page