top of page
hmpg.jpg
TL_HaveANiceDay.gif

Cần xem tiết mục nào xin click vào Trang bài / webpage trong MENU dưới đây:

TRANG CHÍNH / HOME  . BÀI MỚI ĐĂNG SINH HOẠT HOUSTON, TX  .  ĐH XXIII-MARYLAND 2019  .  ĐH XXII-SAN JOSE 2018  .  ĐH XXI-HOUSTON 2017   .  SINH HOẠT CANADA  .  SINH HOẠT ÚC CHÂU  CÁC ĐẶC SAN ĐH  .  SINH HOẠT BẮC - NAM CALI SINH HOẠT VÙNG NEW ENGLAND -  SINH HOẠT VIỆT NAM - TIN SINH HOẠT CÁC NƠI  GÓC SÂN TRƯỜNG NHÀ  .  VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT  .  VÒNG TAY NGHĨA TÌNH  .  CHIA BUỒN - CHUNG VUI  TÌM NGƯỜI - NHẮN TIN

TÁC GIẢ: Anh Tú, Cao Vị KhanhChân Diện MụcDương Hồng ThủyĐan Quế PhongĐoàn Xuân ThuĐỗ Chiêu ĐứcĐỗ Mỹ ThuậtHoàng Thị Tố LangHồ NguyễnHồ Trung ThànhHương Sơn Lê Khánh Duệ, Kim LoanKim Quang, La Thanh Khải, La Tuấn DzũngLê Cần ThơLê Dung, Lê Trúc KhanhLương Liên HoaLương Ngọc Thành, MailocMỹ Trinh, Ngô Thị Trường XuânNguyên Nhung, Nguyễn Đấu Lộc, Nguyễn Hồng Tuyền, Nguyễn Như HùngNguyễn Ngọc Tuyết, Nguyễn Thanh BìnhNguyễn Thiên Long, Nguyễn Thị Thanh Dương, Nguyễn Trung Nam, Nguyễn Văn TrườngNguyễn Vĩnh LongNgười Ô MônPhan Thượng Hải, Phạm Khắc Trí, Phạm Khắc Trí & Các Thi Hữu, Phạm Trinh CátPhương Hà, Phượng TrắngSongquang, Thái Vĩnh Thụy Biên, Thanh VũTrầm Vân, Trần Bang ThạchTrần Bá Xử, Trần Cẩm Quỳnh NhưTrần Phù Thế, Trương Nhị Kiều, Võ Thị Bạch Nữ

KL_ThoTruyenKL_pageTittle.JPG
tl_boat.jpg

   MÓN NỢ NĂM XƯA      

 

Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui:

-  Vậy là vài năm nữa con gái có quốc tịch Mỹ, sẽ bảo lãnh hai vợ chồng Đức qua đoàn tụ, chắc chắn sẽ có ngày chúng mình tái ngộ ở Dallas, Đức ơi!

Hắn trả lời liền:

-  Cám ơn Nàng, nhưng lần này đừng... tài lanh làm mất giỏ đồ của tui nữa nha.

-  Quỷ sứ, nhớ dai quá chừng! Tui hứa danh dự, lần tái ngộ sắp tới, sẽ mua một cái giỏ mới toanh, hàng hiệu, trả lại cho bà xã ông luôn nghen.

Hắn để icon mặt cười, rồi kết luận:

-  Ừa, Đức mong đến ngày nhận cái giỏ của Nàng lắm.

Chúng tôi gặp nhau tại bãi hẹn vượt biên, là bến xe Bà Hạt Quận 10, chuẩn bị theo nhóm dẫn đường đưa lên xe đò chạy qua biên giới Mộc Hóa Long An, rồi tiến vào đất Cambodia trực chỉ thủ đô PnomPenh. Ngồi trên xe đò, từ xa lạ cũng trở thành quen biết, cả nhóm 41 người, vì từ đây sẽ cùng chung số phận trên con đường vượt biển tìm tự do.

Tôi và ba cô con gái, cũng mới quen trong chuyến đi, cùng vài thanh niên khác, trong đó có Đức, vì hơn kém nhau 1-2 tuổi, nên thường trò chuyện đùa giỡn với nhau.

Đức có giọng hát hay, biết chơi đàn organ, vừa tốt nghiệp trường Âm Nhạc Sài Gòn, tính tình hài hước có sẵn trong máu, hầu như ở mọi tình huống, lúc buồn lúc vui, lúc gặp hiểm nguy, Đức luôn biến thành những khoảnh khắc vui cười, khiến mọi căng thẳng và nỗi sợ tan biến .

Chỉ vài ngày đầu tiên trên đất Cambodia, đi chợ, đi dạo, đi chơi, tối về khu nhà trọ “nằm vùng” chờ lệnh lên đường đi phố biển Kongpom Som, chúng tôi đã biết khá rõ về mỗi người, gia đình ra sao, hoàn cảnh thế nào, càng thân nhau hơn trong cách xưng hô, thoải mái gọi ông gọi bà xưng tui, riêng Đức có cách gọi riêng khá dễ thương, là luôn gọi đám con gái chúng tôi là Nàng.

Đêm tàu ra khơi từ Cảng Kongpom Som, trời 8 giờ tối tháng 12 mù căm, gió lạnh, cả tàu nằm dưới hầm như cá hộp, chật chội, chỉ có tài công và người thợ máy, cùng người dẫn đường của ban tổ chức được ở trên boong tàu. Suốt những ngày qua mệt mỏi nơi đất Cambodia, nay vừa lên tàu, mọi người bắt đầu tìm vào giấc ngủ trong tiếng máy chạy đều đều của con tàu. Dưới hầm tàu tối như hũ nút, nhưng bốn đứa con gái chúng tôi biết mình nằm cạnh nhóm của Đức, mạnh ai nấy ngủ, co ro trong hầm tàu chật chội. Bỗng nửa đêm tôi giật mình vì nghe tiếng là hét, lộn xộn, ồn ào:

-  Chuyện gì vậy cà?

-  Máy thoát nước của tàu bị hư, bên ngoài đang có mưa bão.

Lúc này tôi mới để ý dưới sàn tàu có nước, ba cô bạn xung quanh tôi cũng đang dáo dác hỏi tin tức từ boong tàu đưa xuống. Tình hình không mấy khả quan, thợ máy đang sửa ống thoát nước nhưng mưa gió càng mạnh hơn, lại có sấm chớp, con tàu nghiêng ngả mỗi khi nước biển và nước mưa tràn xuống hầm tàu. Mỗi lần như vậy, đàn bà con gái trong tàu rú lên, vì lạnh và vì sợ hãi.

Lúc này, có lệnh đưa ra, các thanh niên đàn ông trong tàu phải thay nhau lên boong phụ tát nước ra ngoài, dù biết đó là việc chẳng thấm thía gì so với nước mưa như thác lũ, nhưng đúng như câu “còn nước còn tát”, chứ chẳng lẽ chịu ngồi im chờ con tàu chìm xuống đáy đại dương.

Trong bóng tối mờ mờ, lúc này trời có lúc sáng lóe lên vì ánh sấm chớp và ánh đèn pin trên boong tàu thỉnh thoảng chiếu rọi xuống hầm tàu kêu người lên tát nước. Tôi thấy Đức ngồi ủ rũ như gà mắc mưa (mà đang mưa thiệt), tôi bảo:

-  Tới phiên Đức lên tát nước kìa.

Đức uể oải đứng lên, vẫn không quên khôi hài:

-  Từ hồi cha sanh mẹ đẻ chỉ biết cầm đờn, cầm micro, giờ kêu Đức cầm xô tát nước là coi như thua rồi đó, tàu có chìm đừng trách nha Nàng.

-  Coi chừng cái miệng ông ăn mắm ăn muối

Rồi thì đàn ông thanh niên kéo nhau lên boong, còn lại là những ông già bà cả, phụ nữ và con nít ở dưới hầm tàu, tiếng ồn ào không thua gì trên boong.  Nhiều người bắt đầu ói mửa khi “lắc lư con tàu đi”, chúng tôi theo nhóm xúm lại đọc kinh, ai đạo gì thì đọc kinh theo đạo ấy, trong tiếng la, tiếng khóc hỗn độn của đủ thứ âm thanh.

Lại có lệnh đưa xuống, mọi người nên vứt bỏ thực phẩm và hành lý cá nhân ra ngoài biển để tàu nhẹ bớt. Bốn đứa con gái chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành, tôi cũng còn kịp nhớ giữ lại chiếc phao được cuộn tròn trong cái bịch nhỏ trước khi giao giỏ xách của mình cho người ta truyền nhau lên boong để quăng xuống biển. Cô Nhạn, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong nhóm, đang nằm vật vờ nơi góc hầm, khều tay ra hiệu cho tôi chuyển mấy giỏ xách của cô ấy lên boong giùm, tôi mệt lắm, nhưng cũng cố làm, nhân tiện thấy một cái túi xách gần đó, tôi cũng chuyển lên boong, rồi tìm chỗ ngồi ngả lưng. Mưa có vẻ đang nhẹ dần, bão cũng bớt điên cuồng, tuy máy thoát nước chưa sửa xong nhưng con tàu đã lặng yên phần nào, Đức từ boong bước xuống hầm, đến hỏi tôi:

-  Nàng có thấy cái túi xách của tui đâu không? Rõ ràng là hồi khuya tui nằm chỗ này mà.

Tôi hơi chột dạ, tỉnh hẳn người, lắp bắp:

-  Có phải cái... túi da, có buộc... cái khăn bên ngoài?

-  Đúng rồi, đúng rồi.

-  Mình... lỡ tay đưa lên boong quăng ra ngoài biển rồi.

-  Trời, ai xui ai khiến Nàng chớ!

-  Thì lệnh của ban tổ chức, ai cũng phải nghe theo mà.

-  Thì tui đang xuống đây để làm theo lệnh đó.

-  Thì ai làm cũng vậy, làm gì dữ vậy!?

-  Sao không dữ? Nàng có biết tui có 2 chỉ vàng ở trỏng không! Giời ạ!

Tôi giật mình, tá hỏa, chẳng biết phải nói gì, đây là tình huống đầu tiên Đức không hài hước. Tôi biết lỗi, nhưng vẫn cố cãi:

- Đi vượt biên thì vàng phải dấu trong người, trong áo quần đang mặc, ai lại để trong giỏ xách bao giờ.

Đức chẳng nói gì thêm nữa, đi ra phía đầu máy, nơi đó có miếng ván cao ráo, nằm xuống để ngủ bù sau một đêm mệt đừ tát nước. Tôi bước đến, lí nhí:

- Đức ơi, cho mình xin lỗi nhé, hồi khuya quay cuồng theo sóng gió con tàu, mình không được ... tỉnh táo cho lắm, chỉ nghe cô Nhạn nhờ quăng giùm mấy cái giỏ, nên tiện tay gom hết luôn, ai dè...

Đức xua tay, dịu giọng:

- Thôi cho qua đi, tui ngủ chút xíu.

Biển nổi cơn thịnh nộ, rồi biển cũng trở lại dịu dàng, máy thoát nước trên tàu cũng đã sửa xong, và chiều ngày hôm sau đã thấy vết đất liền Thailand ở xa xa. Đến mờ tối, tàu nhanh chóng thả 41 người chúng tôi xuống bãi san hô giữa biển, rồi vội vã quay tàu, tăng tốc độ đi ngược ra phía biển trở lại Cambodia. Chúng tôi chơ vơ giữa bãi san hô, cũng may nhờ tôi có chiếc phao, đem ra thổi, cho hai thanh niên trẻ bơi vào bờ, gọi ghe của dân đánh cá Thái ra cứu. Sau đó có 2 chiếc ghe chèo ra bãi san hô, nói chuyện với chúng tôi bằng Tiếng Anh “to quơ”, đại khái là mỗi nhóm tối đa 3-4 người được lên một ghe, và phải trả cho họ bằng tiền, vàng, hoặc bất kỳ trang sức nào đó như nhẫn, dây chuyền, đồng hồ. Tôi quay qua Đức:

-  Chút Đức đi với mình nhe, vì Đức thì đâu còn vàng bạc gì.

Đức cười cười, liếc tôi:

-  Đương nhiên rồi Nàng, còn phải hỏi!

Từng nhóm lần lượt lên hai chiếc ghe, xong mỗi chuyến, họ quay lại đón nhóm kế tiếp, tôi và Đức cùng một cô bạn là nhóm cuối cùng trên chiếc ghe cuối cùng đi vào bờ. Ôi trời ơi, vừa bước chân xuống đất, mới biết đó là vùng đầm lầy, sình ngập qua đầu gối, nặng chịch, không nhấc chân lên nổi. Cô bạn gặp được một chú đi trước giữa bãi sình, đứng đợi rồi họ giúp nhau, tôi chỉ còn biết dựa vào Đức. Mấy ngày nay trên tàu nào có ăn được gì vì lương thực quăng ra biển hết ráo, giờ mới thấy đói khát và kiệt sức. Tôi mềm như cọng bún, ôm cổ Đức ghì chặt, chàng thư sinh nhạc viện gầy yếu cũng ráng gồng hết sức kéo tôi lê lết qua bãi sình lầy rất khó nhọc nặng nề.

Có thể nói, trên con đường vượt biên, rồi đến trại tỵ nạn, những người chung chuyến tàu là những người thân thương nhất, vì cùng trải qua những chặng đường sinh tử trên biển, gắn bó có nhau, qua đến trại vẫn phải dính chùm nhau mọi nơi mọi lúc. Cao Ủy chia mỗi nhóm tàu một lô nhà ở chung, thành hàng xóm của nhau. Đi lãnh gạo lãnh thực phẩm cũng đi theo lô nhà, đi làm giấy tờ trên văn phòng trại cũng phải theo lô nhà, tới ngày dọn vệ sinh khu trại cũng phải đi theo lô nhà, hỏi sao không gần gũi như người trong một đại gia đình.

Có những buổi trưa rảnh rang, hoặc chiều mưa ướt chẳng đi đâu được, nhóm tàu chúng tôi quay quần tán dóc, nhắc về chuyến vượt biển, Đức lại hí hứng khoe với mọi người:

- Cái đêm đến bờ biển Tha Luông, chính tui là người ẵm nàng Loan này vào bờ chớ ai.

Mọi người cười ha hả, tôi phải đính chính:

- Ẵm, bế hồi nào vậy cà!? Nói chính xác là kéo lê kéo lết.

- Ối, lúc đó Nàng mệt lả người, mắt nhắm mắt mở, nhớ gì chớ!

Một buổi sáng, bốn đứa con gái chúng tôi vừa thức dậy, cây kem đánh răng cứng quá, đúng lúc Đức bước qua tính xin chút kem đánh răng, tôi nói:

- Nè, nhờ Đức bóp giùm.

Đức chớp thời cơ:

- Bóp trên hay bóp dưới?

Vì miệng chưa đánh răng, mặt mũi chưa rửa, nên tôi khép nép trả lời:

- Phải bóp từ dưới lên trên, mà phải bóp từ từ, đừng bóp mạnh quá.

Mấy chị mấy cô xung quanh lô cười rần rần, tôi mới biết đang bị Đức chọc phá.

Bữa khác, buổi chiều, chúng tôi chuẩn bị đi lễ nhà thờ, đi qua nhà Đức thấy Đức vẫn ngồi ngoài cửa:

- Ủa, sao bữa nay Đức không đi lễ?

- Có cái quần Jeans tối qua thằng bạn lô kế bên mượn đi chơi với bồ chưa trả.

- Trời đất! À mà nè, mặc quần shorts đi lễ cùng được mà, Chúa đâu chấp nhất chuyện áo quần.

- Không! Đức đi lễ hoặc đi hát, thì phải nghiêm chỉnh đàng hoàng, còn không thì ở nhà.

- Ở trại tỵ nạn mà cũng... chảnh dữ hen?

- Ừa, tui dzậy đó!

Có lẽ, cái máu thích đùa và máu “điên” tiềm ẩn từ lâu trong tôi, đã được đánh thức từ khi gặp Đức.

Đời tỵ nạn vẫn trôi qua, có ngày vui xen lẫn ngày buồn, thấm thoát đã qua năm thứ ba của đời tỵ nạn. Tình hình Thanh Lọc càng căng thẳng, chương trình cưỡng bách hồi hương thông báo sẽ bắt đầu, và thuyền nhân đã biểu tình rầm rộ. Đám đông phá hàng rào, tràn ra ngoài lộ, giương biểu ngữ chống cưỡng bách trước hàng trăm họng súng và xe cảnh sát Thái bao vây. Cả trại hoang tàn vì một số người bạo động đã phá các cửa hàng người Thái ngoài chợ, phá cửa nhà tù, khiến Bộ Nội Vụ Thái báo động khẩn cấp, các văn phòng thiện nguyện ngoại quốc đóng cửa, không dám vào trại, đại diện Cao Ủy phải đi máy bay trực thăng từ Bangkok đáp xuống bãi biểu tình để đàm phán với dân tỵ nạn.  

Đi trong buổi chiều đầy vỡ vụn xung quanh, Đức hỏi tôi:

- Nếu rớt thanh lọc, Nàng có ghi danh hồi hương?

- Theo quy định, chúng ta được quyền xin tái thanh lọc 2 lần nếu có những giấy tờ mới bổ sung, nên mình sẽ chờ đủ hai lần tái, rồi sau đó tính tiếp, còn Đức thì sao? Thú thiệt, thấy nhóm tàu mình có người lai rai hồi hương, đôi lúc cũng thấy nản chí, lung lay.

- Đức sẽ theo Nàng, là chờ tái đến phút chót, cho đến khi “chín” thì thôi.

Hai đứa nhìn nhau, cười buồn. Sau đợt biểu tình đó, cả trại được chuyển lên trại mới Sikiew. Tương lai định cư đối với đa số đám đông vẫn là một giấc mơ xa vời, vì nhóm tàu của chúng tôi, chỉ có 8 người may mắn được đậu thanh lọc trong đó có tôi.

Buổi tối chia tay để sáng hôm sau đi qua trại transit dành cho người đậu thanh lọc, tôi đi dạo cùng Đức. Tôi nói:

- Thế là hành trình tỵ nạn đang khép lại, chỉ vì cuộc Thanh Lọc đáng ghét mà nhóm tàu chúng ta phân chia trăm ngả, mà ngã đông nhất là hồi hương về Việt Nam, thật là buồn.

Đức trầm ngâm:

-  Chẳng ai muốn trở về nơi họ đã dứt áo ra đi, mà thôi, vượt biên có số định cư có phần. Riêng Đức sẽ nhớ mãi cái cảm giác sung sướng vỡ òa khi bước chân lên bờ biển đất Thái sau mấy ngày bão giông tơi tả. Những ngày ấy có lẽ là những ngày hạnh phúc nhất của đời tỵ nạn, vì chúng ta chưa nhập trại lớn, chưa biết gì về cuộc thanh lọc, ba tuần ở trại nhỏ vui và đẹp như cõi thần tiên.

Đúng vậy, khoảng thời gian ở trại Cảnh Sát Tha Luông êm đềm xiết bao. Sáng ngủ dậy, chào cờ Thái, xong mọi người tản ra xung quanh trại nhặt rác, gọi là vệ sinh chung, rồi sau đó tự do, từng nhóm tàu nấu cơm trưa, ai rảnh rang thì tụ năm tụ ba nói chuyện tán dóc, kể chuyện cười, cho hết thời gian. Sau bữa trưa, là ... ngủ trưa, rồi lại lo cơm chiều, rồi ra hồ nước kế bên trại tắm rửa giặt giũ, ôi vui còn hơn Tết. Buổi tối, mấy nhà cảnh sát Thái mở Tivi cho bà con tỵ nạn vào xem ké, riêng nhóm tàu chúng tôi náo động nhất trại, vì có một anh từng sinh hoạt trong Hướng Đạo, nên chúng tôi chơi trò chơi Mật Thư, hoặc sinh hoạt vòng tròn ca hát, các trò chơi tập thể. Nhiều người các nhóm tàu khác vây quanh xem chúng tôi chơi, thậm chí ông Cảnh Sát trưởng trại cũng có lần ghé đến xem, thích thú, rồi tặng cả nhóm một thùng mì gói Mama bồi dưỡng.

Đức ngập ngừng nói tiếp:

- Và dĩ nhiên, Đức nhớ nhất cái đêm tháng 12 lạnh lẽo không trăng không sao, đã được dìu Nàng vào trong bờ đất liền, kỷ niệm đẹp quá, Đức sẽ không bao giờ quên.

Tôi cũng mơ màng theo dòng cảm xúc kỷ niệm:

- Còn Loan ư, sẽ nhớ nhất tuần đầu tiên nhóm tàu mình ở khu trại Cảnh Sát Thái, được nấu nồi chè ăn mừng đến bờ tự do, Đức đã hát bài “Yêu Một Mình”, giọng ca ngọt ngào tha thiết, đúng là dân tốt nghiệp trường Âm Nhạc.

- Bài hát đó tặng Nàng chớ ai!

- Xạo vừa thôi! Mới gặp nhau trên đường vượt biển, biết gì mà tặng. Vả lại, nhà mình ở Việt Nam có giàn hoa giấy màu đỏ, đâu phải “nhà em có hoa vàng trước ngõ, tường thật là cao có dây leo kín rào ...”

- Lúc đó cũng biết nhau cả tháng rồi chớ bộ. Mà ai ngờ bài hát đó lại đúng y chang, sau này khi nhập trại Panatnikhom,  là “mọi người thầm mong được đưa đón chân em ...” trong khi Đức chỉ là một chàng nhạc sĩ nghèo, con bà “Phước” ở trại, nào dám ngỏ lời, nào dám mơ xa ...

- Thôi, hổng nói tào lao nữa, Đức nói đùa y như nói thiệt, nhưng Loan sẽ nhớ mãi cuộc nói chuyện hôm nay, cám ơn Đức vì tất cả. Chẳng biết tụi mình có được gặp nhau nữa không, chúc Đức nhiều sức khỏe, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống tương lai.

- Nàng cũng vậy nhé, đừng bao giờ quên nhóm tàu 41 và trại tỵ nạn Thailand.

 

Chúng tôi từ biệt nhau từ đó, có ngờ đâu, hơn 30 năm sau giấc mơ tái ngộ sẽ trở thành sự thật, vấn đề chỉ là thời gian sớm muộn mà thôi. Tôi mong chờ đến ngày đó, để được thực hiện lời hứa tôi đã nói với Đức trên Facebook, là sẽ mua một cái giỏ mới, thật đẹp, tặng cho bà xã Đức, coi như “ nợ nần” xưa được xóa bỏ.

Đó là món nợ vật chất, còn cái nợ tình thân, Đức dìu tôi vào bờ biển Thái năm nào, và những kỷ niệm chia ngọt sẽ bùi của nhóm tàu 41 người, làm sao trả cho hết!

Edmonton, April 2024

KIMLOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

KimLoan_Panatnikon.jpg

                         PANATNIKHOM NHỚ BIDONG

 

Buổi tối hôm ấy, Quân đến nhà Phượng chơi như thường lệ. Sau vài câu thăm hỏi tình hình bệnh của má Phượng, chàng thầm thì:

-          Vài ngày nữa có chuyến vượt biên, xuất phát từ Bến Tre, là mối thân quen của bạn anh đang ở đảo Galang giới thiệu, chúng mình có nên đi không?

Phượng e dè:

-          Nghe nói mối quen là an tâm rồi, nhưng anh biết đó, má đang bị tai nạn đụng xe, nằm một chỗ, sạp gạo ngoài chợ phải nhờ Dì Hường coi giúp, làm sao em đi được?

Hai người yêu nhau cũng hơn ba năm, hai gia đình chưa chính thức gặp mặt, nhưng gia đình Quân yêu mến Phượng như thế nào thì gia đình Phượng cũng xem Quân như người thân thiết trong nhà. Giữa phong trào tìm đường vượt biển rầm rộ thuở ấy, Phượng chưa bao giờ được má cho đi chuyến nào vì ngại thân gái nơi biển cả, nhưng từ khi yêu Quân thì má thoải mái cho hai người đi vượt biên chung, vì dù sao có người yêu đi theo bảo vệ và che chở vẫn tốt hơn đi với đám đông xa lạ. Hai đứa em gái của Phượng tuyên bố không bao giờ đi vượt biên vì sợ biển, chúng bảo chờ anh Hai bên Mỹ bảo lãnh đi máy bay sướng hơn.

Quân và Phượng đã từng  hụt hai chuyến hồi năm trước. Một chuyến tập trung gần Bến Bạch Đằng Sài Gòn, rồi bị Công An phát hiện, hơn một nửa nhóm bị bắt trong khi hai người may mắn thoát nạn. Chuyến thứ hai tại Rạch Giá Vũng Tàu, chưa kịp lên taxi (ghe nhỏ) thì ghe cuả ban tổ chức bị bắt, cả đám như ong vỡ tổ mạnh ai nấy chạy về Sài Gòn. 

Phượng nhìn Quân, quyết định:

-          Em nghĩ, anh cứ ra đi chuyến này, vì em tin vào câu “quá tam ba bận”, em linh tính thì không bao giờ sai.

-          Còn em thì sao?

-          Tới đâu hay tới đó anh ạ, còn những chuyến sau nữa mà, hơn nữa, chúng ta cứ giao cho số phận chuyện tương lai, còn bây giờ khi có thời cơ thì anh không nên bỏ lỡ.

Thế là Quân lên đường. Hơn một tháng sau, Phượng nhận được thư báo tin của Quân từ đảo Pulau Bidong, Malaysia. Bức thư đầu tiên của nỗi vui đến bờ tự do, nhưng cũng có nỗi lo vì có cuộc thanh lọc dành cho các thuyền nhân nào đến trại sau ngày Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hợp Quốc tuyên bố đóng cửa các trại tỵ nạn từ ngày 14/3/1989.

 

Ở Việt Nam, Phượng có hiểu gì hai chữ “thanh lọc” nên cũng tự tin (xen lẫn ngây thơ) ra khơi vào một chiều cuối năm khi sức khỏe của má đã ổn định trở lại bình thường. Lúc ấy, sau nhiều chuyến tàu vượt biên bị hải tặc Thailand cướp bóc hãm hiếp, nhiều chủ tàu tổ chức vượt biên đã cam kết với “khách hàng” sẽ không đi ngã Thailand dù đó là con đường biển ngắn nhất, thay vào đó sẽ đi xa hơn về hướng Indonesia, Malaysia, Philippines để bảo đảm an toàn. Tàu của Phượng cũng trực chỉ hướng Malaysia vì nhiều người trong chuyến tàu (trong đó có Phượng) đang có người thân ở đảo tỵ nạn Bidong. Nhưng người tính không bằng trời tính, tàu ra ngoài hải phận quốc tế nửa ngày liền bị chết máy, tàu cứ thế mà trôi trên biển Đông. Năm ngày sau, may mắn gặp một chiếc tàu đánh cá của ngư dân Thái tốt bụng, họ kéo tàu vào bờ biển tỉnh Chad của Thaland. Dù không đến được Malaysia như dự định, nhưng mọi người bước lên bờ trong niềm sung sướng vỡ òa, thoát cảnh lênh đênh ngoài đại dương bao la, không bị hải tặc “ghé thăm”.

Lá thư đầu tiên Phượng gửi cho Quân từ trại tỵ nạn Panatnikhom Thailand là những nhung nhớ đầy vơi, và tiếc nuối khi không đến được Bidong đoàn tụ người yêu. Quân  vội vàng hồi âm:

-          Phượng ơi, kể từ khi biết tin em sẽ ra khơi, lòng anh mỗi ngày ngóng trông. Em biết không, đảo Bidong có cây cầu mang tên Jetty, là cây cầu đón những người mới nhập trại từ biển vào đảo. Biết bao nhiêu lần anh chạy ra cầu Jetty khi nghe tin có người mới đến trại, nhưng giữa những đoàn người bước lên cầu, anh đợi mãi vẫn chưa thấy bóng dáng của em. Hôm nay biết tin em đã đến Thailand, anh mừng lắm. Thôi thì chúng ta không được ở chung trại tỵ nạn, cũng là thử thách cho hai đứa mình. Cả anh và em từ nay sẽ “gặp” nhau qua những lá thư, cùng nhau cầu nguyện qua cuộc thanh lọc đáng ghét này, và hẹn ngày đoàn tụ ở Mỹ, em nhé.

Thế là từ đó, hai người truyện trò qua thư, cùng hứa hẹn mỗi tuần phải gửi thư cho nhau. Quân và Phượng đều đi làm thiện nguyện, chờ đến cuối tuần viết thư, nhiều chuyện tâm tình, những câu chuyện thời sự, chuyện thường ngày ở trại, cũng như cho nhau những tin tức cần thiết cho cuộc thanh lọc.

Phượng làm ở bệnh viện trại Panatnikhom, đúng nghề y tá của Phượng bên Việt Nam. Tại bệnh viện, Phượng kết thân với bác sĩ Nguyệt, trước khi vượt biên chị Nguyệt đã có kinh nghiệm mười năm làm bác sĩ tại bệnh viện Gia Định. Chồng và con trai chị đã định cư ở Canada trong chuyến vượt biển mấy năm trước, nên chị qua Thailand một mình, thế là hai chị em cùng ở chung căn nhà lá ngay kế bên bệnh viện trại.

Hằng ngày cuộc sống ở trại trôi qua đều đặn như mọi ngày. Buổi sáng thức dậy, trước khi đi làm, Phượng tạt qua bưu điện dò thư, có khi là thư từ gia đình và bạn bè bên Việt Nam, có khi là thư người anh ruột bên Mỹ, và vui nhất là ngày có thư của Quân. Chiếc phong bì luôn là màu xanh, bên góc trái là tên người gửi Vũ Đức Quân từ Pulau Bidong thương mến. Sau khi tan ca làm ở bệnh viện, hai chị em về nhà cùng nấu cơm, tắm rửa giặt giũ, đi dạo vài vòng trong trại, sau đó là buổi tối, mỗi người một góc nhà làm việc riêng, đọc sách báo, viết thư, học English hoặc đơn giản là nằm tán gẫu, kể nhau nghe những kỷ niệm còn để lại nơi quê nhà.

Mỗi lần buổi sáng lãnh thư của Quân là Phượng vui lắm, để dành đó, chờ buổi tối mở ra xem, và cả buổi làm ở bệnh viện chộn rộn mong hết giờ về nhà. Chị Nguyệt đùa:

-          Bữa nay nàng không ăn cơm cũng no ngang hen!? Chị lại được tha hồ ăn hết dĩa gà mìn kho.

-          Ối, em nhường chị hết, em sẽ ăn mì gói Mama ngon hơn nhiều.

-          Mà em có kể cho Quân nghe, lần trước vì mải đọc thư mà nồi gà mìn kho của tụi mình bị khét chưa nà!?

-          Thì em biết lỗi rồi, bây giờ chỉ dám đọc thư buổi tối thôi.

Lần này, thư có kèm mấy tấm hình Quân chụp ở quán cafe Khu C gần đồi Tôn Giáo ( Phượng thuộc lòng các địa danh trong trại Bidong của Quân, cũng như Quân biết hết những chợ Lào, Bưu Điện,  trường ESL, khu trường tiểu học Nhà Sàn của Panatnikhom. Ôi, người ta yêu nhau, yêu cả đường đi lối về). Hình chụp Quân cùng vài bạn đồng nghệp dạy Tiếng Anh ở trại và có cả mấy cô gái là học trò trong lớp Quân dạy. Quân kể trong thư:

-          Chiều nay anh đang tắm, thì nghe bên nhà tắm nữ (cách nhau bởi bức tường xi măng) vài cô gái nói chuyện với nhau, bảo nhau tắm lẹ lẹ để kịp chạy đến lớp thầy Quân, kẻo hết chỗ phải chạy qua lớp thầy khác, dạy hổng hay bằng thầy Quân. Em thấy anh của em ... có uy không? Đời tỵ nạn, đó là những niềm vui nho nhỏ, khi mình giúp cho đồng bào học thêm Tiếng Anh, được người ta tin tưởng, cũng như em giúp bệnh nhân, được họ tặng quà, chút trái cây, bịch kẹo bánh, ấm lòng phải không em? Chiều nay dạy học xong cả nhóm đi uống cafe tiễn một Thầy đậu thanh lọc chuẩn bị rời trại chuyển qua Sungei Besi đi định cư.

Chị Nguyệt ngắm nghía tấm hình rồi trêu Phượng:

-          Mấy cô gái trong hình xinh quá, coi chừng có người yêu thầm thầy Quân đó nghen. Ráng mà giữ chàng từ xa nhe nàng.

Phượng bảo vệ người yêu:

-          Hồi còn ở Viêt Nam, có cô con gái chủ tiệm vàng cùng xóm ảnh, mê ảnh lắm, mà em đâu cần phải giữ, ảnh vẫn chọn em đấy thôi.

-          Ừa, tại em gái của chị xinh đẹp, duyên dáng quá chừng, chàng Quân chẳng dại gì.

 

Đó là lá thư cuối cùng Phượng nhận được từ Quân, rồi sau đó, vài tuần cho đến cả tháng vắng thư. Nỗi lo lắng, hoang mang với bao nhiêu câu hỏi trong đầu, Phượng chỉ biết chia sẻ cùng chị Nguyệt. Nếu trước đây chị hay nói đùa, thì lúc này chị rất nghiêm túc, khuyến khích Phượng thật nhiều:

-          Theo những gì em kể về Quân, và theo những lá thư chị đọc được của Quân, chị không nghĩ Quân là người tệ bạc, đổi thay mà không nói một lời giải thích. Trong một lá thư, Quân từng nói đã bàn bạc với các đồng nghiệp dạy English tại Bidong, nếu rớt thanh lọc, sẽ biểu tình chống cưỡng bách hồi hương và sẽ tuyệt thực nếu cần thiết, nên chị đang nghĩ đến khả năng Quân bị rớt thanh lọc.

Đúng vậy, đâu riêng gì Bidong, mà ở tất cả các trại tỵ nạn Đông Nam Á, từ Hongkong, Indonesia, Malaysia, Thailand, người tỵ nạn đều tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ, nhiều người bị bắt biệt giam, tình hình tỵ nạn cuối mùa rối ren.

Chị Nguyệt vì có chồng con bên Canada, còn Phượng thì nhờ lý lịch ba mất trong tù “cải tạo”, nên hai chị em may mắn đậu thanh lọc. Trong lúc chị Nguyệt chờ danh sách chuyến bay đi Canada thì Phượng có tên lên đường đi Mỹ, chị dặn dò:

-          Em cứ an tâm và vững tin đi định cư, giữ liên lạc với chị. Còn chị, thời gian này, sẽ nhờ người bạn bên bưu điện, nếu có thư Quân chị sẽ báo cho em. Đồng thời, qua tới Mỹ em phải mau chóng viết thư về Việt Nam dò hỏi bên gia đình Quân. Chị tin rằng, mọi việc sẽ tốt đẹp, chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi và cầu nguyện. 

Máy bay cất cánh khỏi phi trường Bangkok, mang theo Phượng với nỗi lòng ngổn ngang biết bao cảm xúc vui buồn suốt hơn ba năm gắn bó nơi mảnh đất tạm dung này. Hành lý của Phượng đơn sơ vài bộ quần áo, vật dụng cá nhân, và nặng trĩu những lá thư hình ảnh của Quân. Suốt chặng đường bay đến Japan đầy thao thức, nghĩ suy, cho đến khi máy bay đáp xuống phi đạo Tokyo Airport, trong đầu Phượng cũng làm xong một bài thơ .

 Phi trường sạch đẹp, rộng lớn, người ta qua lại tự do, Phượng chợt xót xa cho những đồng bào Việt Nam tỵ nạn còn đang kẹt ở trại, đang bị giam cầm vì chống đối cưỡng bách hồi hương, biết đâu cũng có Quân của nàng trong số đó.

Phượng mua một ly cafe, đầu óc bỗng tỉnh táo hơn, ngồi viết lại bài thơ trên trang giấy, với niềm tin Quân sẽ đọc được bài thơ vào ngày hai người tương phùng, và ngày ấy chắc không xa lắm, phải không Quân ơi!?

PANATNIKHOM NHỚ BIDONG

 

Ở nơi đây không có biển đâu anh

Trại tỵ nạn bốn bề hàng rào vắng

Thailand những buổi trưa hè đầy nắng

Em ước ao nghe sóng vỗ rì rào

 

Những lá thư anh gởi, ôi ngọt ngào

Pulau Bidong bỗng thật gần gũi

Em như thấy anh đứng bên bờ biển

Mắt xa xăm nghe gió gọi tên em

Panatnikhom thao thức từng đêm

Em ngậm ngùi xuyến xao bao nỗi nhớ

Đại dương mênh mông đôi mình cách trở

Kể từ thuyền em cập bến Thailand

 

Để mỗi chiều anh dạo bước lang thang

Đến bên cầu Jetty thầm chờ đợi

Cầu tàu đón đưa bao dòng người tới

Mà bóng em vẫn xa thẳm mù khơi

 

Những lá thư trao nhau, tình đầy vơi

Em say sưa nghe anh đang kể chuyện

Kìa Đồi Tôn Giáo những lần cầu nguyện

Hay đêm mưa quán vắng uống cà phê

 

Bãi biển Khu C gió lồng lộng về

Nơi đây em đếm sao trời xứ Thái

Ngôi sao nào có lạc về bên ấy

Nhắn giùm em trăm nhớ với ngàn thương

 

Mong một ngày mình thôi hết vấn vương

Cùng hẹn nhau mừng vui trên đất mới

Bỏ lại sau lưng tháng ngày rong ruổi

Rời xa quê hương, mang phận lưu vong

 

Trại tỵ nạn xưa vẫn ở trong lòng

Dù thời gian phủ bụi mờ, tăm tối

Panat, Bidong cỏ hoang giăng lối

Ký ức ta vẫn rực rỡ hiện về

 

Đất nước mình rồi sẽ qua cơn mê

Mình nắm tay nhau thăm lại chốn cũ

Có một thời Panat buồn khắc khoải

Những đêm dài thương nhớ người Bidong

 

Tháng 3/ 2024, nghe Biển Gọi …

KIM LOAN

_____________________

THE GOOD SAMARITANS

Hồi gia đình tôi còn ở căn nhà cũ, garage nằm ở phía sau nhà. Bữa chiều đó vợ chồng vừa về đến nhà sau khi đón hai đứa nhỏ tan học, thì tá hỏa thấy cửa garage vẫn mở tang hoang, chắc là buổi sáng lu bu nên vội chạy xe ra ngoài mà quên kéo cửa garage. Tôi đang xem xét mọi thứ có mất gì không thì hai vợ chồng hàng xóm da trắng, ở phía đối diện sau nhà, bước qua mỉm cười thân thiện. Thực ra, nhà của họ ở phía đường bên kia, nhà tôi phía đường bên này, chỉ có hai cái garage hai nhà mới là... hàng xóm của nhau, nên chúng tôi chưa bào giờ có dịp đối mặt nói chuyện, chỉ là thỉnh thoảng lúc chạy xe đi làm, đúng lúc họ luẩn quẩn trong garage hoặc đang làm vườn thì gật đầu chào nhau mà thôi. Người chồng đứng ngay cửa garage, bắt chuyện:

-          Cô quên kéo cửa garage từ buổi sáng.

-          Dạ, tôi lu bu với hai đứa nhỏ trên xe nên đã quên.

-          Nhưng cô đừng lo, đồ đạc trong garage còn y nguyên vì đã có tôi dòm chừng.

Tôi trố mắt ngạc nhiên, tưởng ông hàng xóm nói đùa, nhưng bà vợ đã kịp chen vào:

-          Cô may mắn đấy thôi, bữa nay ổng được nghỉ làm, nên ngồi ngoài garage cả buổi sửa xe nhân tiện để mắt qua garage nhà cô.

Thế là từ đó tôi biết tên hai vợ chồng là Jerry và Wendy. Rồi cỡ hơn một tháng sau, khi gia đình tôi đang quay quần ăn bữa cơm tối thì Jerry đến gõ cửa trước nhà, tôi ngạc nhiên:

-          Có chuyện gì vậy Jerry ?

-          Laura nè, nhà cô lại quên kéo cửa garage nữa đấy.

-          Không thể nào! Sáng nay tôi đã nhìn rất kỹ sau khi chạy xe ra ngoài.

-          Đúng vậy, buổi sáng cô có đóng, nhưng ý tôi là mới đây, cửa garage vẫn mở, tôi nhìn qua, thấy đủ hai chiếc xe, rồi đợi thêm gần nửa tiếng vẫn không thấy cửa garage đóng lại, nên tôi đi qua đây báo tin nè.

Lúc này chồng tôi mới thú nhận:

-          Là lỗi tại tôi, hồi nãy tôi là người về nhà sau cùng, đúng lúc có người gọi phone nên tôi ra khỏi xe đi thẳng vào nhà. Cám ơn Jerry thật nhiều.

Nhà của Jerry là một căn nhà cũ, nhưng nhờ khéo tay mà Jerry biến nó thành căn nhà xinh xắn, mỹ thuật, đẹp mắt, ai đi ngang qua cũng phải dừng lại ngắm. Jerry còn là handy man yêu thích sửa xe, thỉnh thoảng nếu không ở miếng vườn nhỏ trước nhà thì y như rằng Jerry đang ngồi ngoài garage với ngổn ngang dụng cụ xe cộ. Có lần hai vợ chồng tôi đi bộ ngang qua, thấy Jerry say sưa chăm chút một giàn hoa leo, tôi khen thật lòng:

-          Trời, nhìn khu vườn nhà ông, tôi thấy đời đẹp hơn nhiều.

Jerry cười hài lòng nói “thank you”, đúng lúc bà vợ Wendy bưng ra khay bánh muffin còn nóng hổi, đưa Jerry một cái, và mời cả hai vợ chồng tôi, còn bỏ thêm hai cái vào túi giấy bảo đem về cho hai đứa nhỏ. Wendy cười rạng rỡ:

-          Bánh ngon không? Ngày mai tôi đem qua Nhà Thờ làm Bake Sale đó!

-          Oh,  Angelican Church ngày đầu ngã tư phải không, tôi sẽ ghé mua ủng hộ muffin của Wendy để cám ơn Jerry đã nhắc nhở chúng tôi chuyện cái cửa garage, vì tôi vẫn... rình rập nhà của ông bà, hy vọng có ngày ông bà quên đóng garage để tôi được canh chừng giúp mà vẫn chưa có dịp.

Jerry cười vang:

-          Cô mơ đi, sẽ không có ngày ấy đâu, vì Wendy nhà tôi đã nghỉ hưu non, ở nhà mỗi ngày lo chuyện bếp núc và cuối tuần giúp việc ngoài Nhà Thờ.

Tối hôm đó chồng tôi cảm hứng:

-          Xóm này ngay khu đường lớn, xe cộ tấp nập, hàng xóm cùng con đường không có dịp giao tiếp nhiều, nhưng bù lại, hai nhà hàng xóm ở phía hai con đường song song với con đường nhà mình rất dễ thương, tử tế.

Ý của ông xã tôi muốn nhắc đến nhà hàng xóm bên kia con đường phía trước. Hôm ấy chúng tôi đang đứng hái trái cây táo trước nhà, có chiếc xe tấp vào bên đường và hai mẹ con người da trắng bước ra, đưa tôi gói quà nhỏ:

-          Cái này là của nhà cô, vì chúng ta chung một số nhà, nhưng nhà cô đường 97, nhà tôi đường 96, nhân viên bưu điện sơ ý giao lộn.

Tôi nhìn qua gói quà, tên tôi là người nhận, và tên người gửi là bà chị ruột bên Texas, rồi đáp:

-          Đúng là của chị tôi, tôi có thể nhắm mắt đọc địa chỉ bà chị cho cô làm tin nhé.

-          Không cần đâu, tôi đã nhìn địa chỉ trên bảng số nhà cô rồi kìa, tôi giao cho cô luôn, khỏi mất công làm phiền bưu điện.

Trong Kinh Thánh có câu chuyện Chúa Giesu kể một dụ ngôn, một người kia dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy chức sắc khác đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari, thuộc tầng lớp vô danh thấp hèn trong xã hội, tới ngang chỗ người ấy, chạnh lòng thương, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán săn sóc. Từ đó, chúng ta có câu “the good Samaritan” dành cho những người không quen biết nhưng sẵn lòng giúp đỡ người khác, dù chỉ là những việc bé mọn. Tôi cũng đã có những good Samaritans thiệt dễ thương.

Rồi chúng tôi tìm được ngôi nhà mới ở phía Bắc thành phố. Mấy bữa lục đục khiêng mấy thùng đồ ra ngoài garage, Jerry đã mau mắn qua thăm hỏi:

-          Nhà cô sắp bỏ xóm này rồi ư?

-          Đúng vậy Jerry ơi, các con tôi đã lớn, chúng muốn đổi nhà, hơn nữa, khu đó thuận tiện hơn cho chồng tôi đi làm, mà lại gần Nhà Thờ Việt Nam nữa. Chúng tôi đã tính cuối tuần  qua chào tạm biệt ông và Wendy.

-          Mà sao không thấy cô để bảng bán nhà?

-          Dù không được làm hàng xóm với ông nữa, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi cũng sẽ về đây, vì căn nhà này cho người ta mướn, chớ không bán.

-          Vậy thì chúc mừng, cuối tuần chắc chắn Wendy sẽ có muffins để tiễn gia đình cô.

Về căn nhà mới hiện tại, garage dính liền phía trước căn nhà. Do “kinh nghiệm” từ căn nhà cũ, tôi luôn cẩn thận đóng cửa garage mỗi khi ra khỏi nhà cũng như khi về nhà, thậm chí buổi tối trước khi đi ngủ, tôi còn hé cửa để kiểm tra cửa garage mấy lần mới an tâm, thành ra chưa có cơ hội cho good Samaritan xuất hiện.

Một buổi sáng cuối tuần, tôi đang nằm “nướng” trên lầu thì nghe tiếng máy thổi tuyết bên hông nhà, tôi thầm nghĩ anh chàng xúc tuyết người Việt bữa nay chịu khó đến sớm. Tôi xuống dưới nhà pha cà phê, nhân tiện mở cửa trước xem xét thì, ủa, sao tuyết vẫn ngập đầy thềm, và ngập lối đi trước nhà, chả lẽ cậu xúc tuyết sẽ trở lại làm tiếp? Đến trưa tôi đang nấu cơm thì nghe tiếng cào tuyết trước nhà, tôi liền chạy ra, gặp cậu xúc tuyết, tôi hỏi:

-          Có phải hồi sáng em đến thổi tuyết bên hông nhà?

-          Dạ không chị ơi, em mới tới à, chắc nhà hàng xóm sau nhà chị, chung cái sidewalk bên hông đó, họ làm sạch sẽ lắm, mà nhiều lần rồi đó, hổng phải bữa nay thôi đâu, em tưởng chị biết chớ!

-          Chà, chiều dài hai căn nhà, hai vườn sau nữa, cộng lại cũng không ít, mà trời thì lạnh lẽo.

Vài bữa sau có một trận tuyết nữa, buổi sáng hôm đó tôi lại nghe tiếng máy thổi tuyết bên dưới. Tôi bước ra khỏi giường, nhìn xuống cửa sổ, thấy một người đàn ông trùm áo lạnh kín mít, nón che đầu và khăn quàng che miệng, đang đi chầm chậm thổi tuyết suốt chiều dài sidewalk, đúng như lời cậu xúc tuyết suy đoán. Tôi liền vào phòng vệ sinh đánh răng, rửa mặt, rồi xuống dưới nhà, tìm chiếc áo khoác, mang vớ và giày boots ấm áp, mở cửa trước nhà, đi bộ qua bên hông, với ý định cám ơn người hàng xóm tốt bụng, nhưng đã quá trễ, tôi chỉ kịp nhìn thấy bóng dáng người ấy đang đi bộ ngược trở về phía bên kia.

Vậy thì hai năm đã rõ mười, chính người ấy là good Samaritan của gia đình tôi chớ còn ai trồng khoai đất này. Tôi lại chợt nhớ hồi mùa thu, một buổi chiều có một cơn mưa dữ dội, giông gió như thác đổ. Đến tối, ông xã đi làm về muộn, thấy sidewalk bên hông nhà vương đầy những nhánh cây, cỏ, hoa, lá ... có lẽ chúng kẹt lại do nước rút sau cơn mưa, định bụng sáng hôm sau ngủ dậy sẽ ra quét dọn. Nhưng dù cố dậy sớm hơn thường lệ, chồng tôi mới biết có người còn dậy... sớm hơn và đống rác cỏ đêm qua đã biến mất, sạch sẽ, như “chưa hề có cuộc bão giông”.

Tôi quyết chí sẽ ... rình cho bằng được, để “bắt quả tang” the good Samaritan này, thì mới cuối tuần rồi, vừa nghe tiếng thổi tuyết thân quen như thường lệ, tôi nhanh chóng tung mền gối, khỏi cần vào phòng đánh răng rửa mặt, lao ngay xuống nhà, chụp vội chiếc áo khoác và xỏ vội đôi giày boots, chạy ào ra sân, đúng lúc người ấy đang thổi đoạn cuối ngay góc nhà. Tiếng máy thổi tuyết quá ồn nên anh ta không nghe tôi la lớn “hello” đến mấy lần, tôi đành phải bước ra trước mặt anh ta mới dừng máy, ngước nhìn tôi trong bụi tuyết còn bay mù trời. Tôi chắp hay tay trước ngực như thay lời cám ơn, rồi nói:

-          Té ra, anh thổi tuyết cho nhà tôi bấy lâu nay mà hôm nay tôi mới biết!

Anh ta cười hiền hòa, xua tay:

-          No problem, cô đừng quan tâm.

-          Gia đình tôi có nhờ cậu xúc tuyết làm giùm, nhưng cậu ấy đi làm nên chỉ đến sau giờ trưa.

-          Tôi đã nói không sao mà.

Nói rồi anh ta quay bước, tôi gọi giật lại:

-          Thank you again, à mà nè, hồi mùa thu anh cũng quét lá khúc này giùm tôi luôn, có phải?

Anh ta lại gật đầu, cười cười, rồi tiếp tục bước đi.

Tôi kể chuyện này cho cô bạn thân cùng xóm Edmonton, cô ấy nói:

-          Ở xứ này tình làng nghĩa xóm không đậm đà thân thiết như hồi còn bên Việt Nam, nhưng không có nghĩa là không có. Tóm lại, nơi đâu lúc nào cũng có người tốt, bất kể dân tộc, màu da, mà ông hàng xóm của bà bao nhiêu tuổi, già trẻ ra sao ?

-          Ui, thỉnh thoảng hai nhà có “gặp” nhau xa xa qua hàng rào sân sau, nhưng đó là gia đình đạo Hồi, chồng thì râu ria rậm rạp, vợ thì khăn che kín chỉ lòi hai con mắt, đố ai biết ổng bao nhiêu tuổi, mà tui cũng chưa kịp hỏi tên, nhưng có một điều chắc chắn, đó là một good Samaritan.

 

Edmonton, Tháng 3/2024

KIMLOAN

_____________

ĐẦU NĂM ... NHIỀU CHUYỆN

Hôm rồi, gia đình chúng tôi bảy người, có đặt bàn tại nhà hàng The Keg (the steak house and bar nổi tiếng ở Canada) lúc 7.30 pm. Gần tới giờ, chúng tôi phone hỏi nếu chúng tôi đến 7pm được không, họ trả lời ok, và chúng tôi liền chạy xe đến, có mặt trước 15 phút.

Chờ ngoài sảnh rất đông đúc, đến 7 giờ, rồi mười phút sau cũng chưa được gọi vào, con gái tôi lại chỗ tiếp tân nhắc nhở nhẹ nhàng, rằng chúng tôi chờ bàn 7pm chứ không phải 7.30pm vì sợ họ quên. Cô ấy trả lời có biết, nhưng vì đột xuất có chuyện phát sinh, nên xin lỗi không thể cho chúng tôi vào 7pm như đã hứa. Chúng tôi hiểu và thông cảm, tiếp tục chờ đợi. Rồi sau đó, chúng tôi cũng được gọi vào bàn, vui vẻ.

Vào bàn, chúng tôi vừa gọi món xong, người waiter rời đi, một người đàn ông mặc đồ vest lịch sự, đến giới thiệu là manager, rồi ông ta giải thích "sự cố" một lần nữa, tại sao chúng tôi bị vào bàn trễ, và nói lời xin lỗi chân thành .

 

Chuyện chỉ có thế, chẳng ai còn nhớ nữa, chúng tôi ăn uống thoải mái, đến lúc kêu bill tính tiền, thì người waiter nói, tất cả 6 dĩa khai vị (appertizer) được miễn phí, họ chỉ tính tiền main dishes, drinks và dessert.

Trời đất, 6 dĩa khai vị đó, gồm 2 dĩa mực chiên, 2 dĩa nấm và ốc đút lò với cheese, và 2 dĩa tôm lạnh, tổng cộng các món khai vị là $110.

Chúng tôi không hề trông đợi sự xin lỗi hào phóng này, người manager ra tận bàn xin lỗi là quá dư rồi. Về nhà, tôi viết ngay lời Review trên website cho tiệm này, chúng tôi là khách khá thường xuyên, và chắc chắn sẽ quay lại nhiều lần nữa.

Tôi tự hỏi, chuyện này có thể xảy ra ở các nhà hàng Việt Nam ở Canada, ở Mỹ không? Với tôi, đi ăn nhiều nơi tiệm Việt, nhất là lúc khách hàng đông đúc vào cuối tuần hoặc dịp lễ lạc, sự cố có xảy ra, may ra thì có lời xin lỗi vội vàng, chớ khó mà "mơ" tới chuyện giảm giá hoặc tặng món khai vị.

Còn bên Việt Nam thì sao? Nghe nói có Bún Chửi, Cháo Mắng ở Hà Nội. Mà lạ kỳ nghen, các "thượng đế" vẫn xếp hàng, đưa mặt ra chịu trận, nghe chủ quán vừa múc bún vừa chửi "ngọt" như hát, rồi líu ríu đón lấy tô bún, nhẹ nhàng đi tìm chỗ ngồi ăn, len lén kẻo bà chủ lại ... nổi giận, lại chửi sa sả vào mặt, cứ như là đi xin ăn từ thiện vậy.

 

Nói thiệt, nếu có đi ăn đồ từ thiện mà nghe chửi kiểu đó thì thà tôi ... nhịn đói chứ nhất định không thèm ăn!

 

Tôi chỉ kể chuyện cá nhân chứng kiến (bên đây), và xem video (bún chửi Hà Nội), chớ không vơ đũa cả nắm cho bất cứ nơi chốn nào.

 

Người bạn thân của tôi bên Little Sài Gòn, California nghe chuyện tôi trên facebook xong, cũng góp thêm:

-         Không bao giờ!!! Mình không muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng có thật 100 %. Một lần mấy chị em mình hẹn nhau ăn trưa ở Quán H, gọi món bún bò xào đặc biệt (có thêm tôm nứớng và chả giò). Chờ khá lâu vì đông khách. Khi món bún bò xào được bưng ra, mình phát hiện có một nùi giấy thấm lẫn trong thịt bò (loại giấy họ dùng thấm bớt nước và máu của thịt bò trước khi xào). Cô manager xin lỗi qua loa, đổi dĩa khác.S au đó tính tiền... bình thường, tỉnh bơ! Bởi làm ăn kiểu đó nên nhiều nhà hàng Việt mình thường ở trong tình trạng “tưng bừng khai trường, âm thầm dẹp tiệm”, họ nghĩ là khách cần đến ăn ư? Nếu thức ăn ngon cỡ nào đi nữa, nhưng thái độ phục vụ cũng có thể khiến cho khách bye bye, một đi không trở lại.

 

Một anh bạn khác cũng chia sẻ:

-         Gia đình và bạn bè tụi mình có đi nhà hàng Tàu ở Toronto vào ngày Christmas, chờ đợi xếp hàng cũng khá lâu mới được gọi vào bàn, người waiter cho biết chúng tôi 10 người có thời gian là 1 tiếng hoặc tối đa là một tiếng rưỡi để ăn. Trời ơi, đã vậy trong lúc ăn, có hai waiters đứng phía sau, thỉnh thoảng lại hỏi: “are you done yet?” làm mất hứng, ăn chả thấy ngon nữa.

 

Nhà hàng Tàu thì miễn bàn nghen quý vị. Đi ăn nhà hàng Việt, dù không tiếp đãi tuyệt vời như nhà hàng Tây, nhưng đôi khi cũng có những nhà hàng khá lịch sự, không đến nỗi nào, chớ nhà hàng Tàu thì trăm lần như một, tôi luôn bị “ám ảnh” bởi dàn waiters/waitresses, lúc nào cũng mang bộ mặt ... hình sự, chỉ để ... canh chừng khách ăn xong, để dẹp bàn mau lẹ, cho khách tới sau đang đợi ngoài kia.

 

Trở lại chuyện các tiệm Việt, tôi có một kinh nghiệm cũng rất ư là “đau thương”, xảy ra lâu rồi, lúc tôi mới qua định cư Canada .

 

Bấy giờ còn thịnh hành các DVDs, CDs ca nhạc của các trung tâm hải ngoại như Asia, Thúy Nga, Mây, nên hễ vào thời điểm các trung tâm ra sản phẩm mới là các tiệm bán băng nhạc tấp nập khách ra vào, (lúc ấy chưa có facebook, chưa có youtube nên đó là phương tiện giải trí cho hầu hết dân Việt Nam ở hải ngoại). Bữa cuối tuần đó, mùa đông lạnh lẽo tuyết rơi, sau khi đi chợ xong là trời sẫm tối, tôi vào một tiệm băng nhạc. Lần đầu đến tiệm này, vào trong thì người khá đông, kẻ xem DVDs, người hỏi giá CDs, người mua sách báo, người gửi tiền về Việt Nam, nhộn nhịp. Nhưng tôi thấy cô chủ tiệm tuổi sồn sồn với khuôn mặt khó đăm đăm, chẳng thấy mỉm cười tiếp khách mà luôn trả lời trống không, trịch thượng, có khi còn liếc xéo khi khách hàng hỏi điều không đúng ý, cứ như họ đang làm phiền chị ta, y như thái độ hách dịch cửa quyền dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam. Tôi bèn ... ngứa miệng, góp ý với một nụ cười duyên:

-         Chị ơi, khách đến mua hàng chớ đâu có xin miễn phí, sao chị đối đãi với khách như dùi đục chấm mắm tôm vậy?

Chị ta trừng cặp mắt như ăn tươi nuốt sống tôi:

-         Tui ăn to nói lớn quen rồi, ai cũng biết mà! Còn cô, nếu không hài lòng thì xin mời đi chỗ khác nha!

 

Ủa! Ủa! Ủa! Tôi đang bị chị chủ đuổi ra khỏi tiệm chỉ vì một câu góp ý nhẹ nhàng đó sao? Tôi bất ngờ đến nghẹn họng, không nói nên lời, chỉ biết đứng nhìn chị ta, mặt chị ta bừng bừng sát khí. Chả lẽ tối qua chị ta mới goánh nhau với chồng, hoặc là chồng chị ta đang có bồ bịch và đòi ly hôn nên chị ta mới ... căm ghét cả thế giới này? Tôi cũng cố lấy lại bình tĩnh:

-         Chị không cần đuổi, tôi cũng sẽ xin chào tiệm này ngay lập tức. Có điều, mong chị nên sửa đổi cung cách tiếp khách, kẻo có ngày không còn ai thèm ghé đấy.

 

Thôi thì chắc tại tôi ... xui, kiếp trước đường tu của tôi dở dở ương ương, nên tôi chưa may mắn gặp tiệm Việt Nam nào trân trọng khách hàng, nhưng tôi tin đây đó cũng có những nhà hàng Việt uy tín, vui lòng khách đến vừa lòng khách đi .

 

Cuối cùng là câu chuyện kể của con gái tôi, vừa mới xảy ra còn nóng hổi:

 

Nó thường hay book làm móng tay ở tiệm gần nhà, tuy nhiên vào mùa holidays vừa rồi quá lu bu, nó bèn tìm online một tiệm Nails gần chỗ làm để tranh thủ chạy ra đó làm bộ móng tay trong giờ break buổi trưa. Sau khi book online xong xuôi, đến gần ngày hẹn thì nó bỗng nhận được text báo tin rằng cái hẹn đã cancelled. Nó ngạc nhiên, liền phone cho tiệm Nails. Người trả lời phone là một phụ nữ, với accent và “broken English” của người Việt. Nó trình bày bằng tiếng Anh, rằng nó không cancel mà tại sao lại nhận được tin báo cancelled? Chị chủ cũng trả lời bằng tiếng Anh, biểu nó đợi phone để chị check với nhân viên trong tiệm xem sao. Chị để phone đó rồi quay vào nói chuyện bằng tiếng Việt với nhân viên, mà con gái tôi, tuy sanh trưởng bên đây, nhưng có khiếu nghe và nói Tiếng Việt khá sành sõi, nên nó nghe được toàn bộ cuộc đối thoại của chị chủ:

-         Ê, có con nhỏ tên Amanda phone tới, nó nói nó không cancel mà sao mình lại cancel nó kìa!

Cô nhân viên kia la toáng lên:

-         Trời! Cái con quỷ sứ Amanda nữa hả? Ba hồi cancel ba hồi không là sao, rắc rối quá đi!

-          Nó nói nó không cancel, mày thử xem lại có trùng tên không?

 

Rồi im lặng, có lẽ hai người vào bàn computer/laptop để check danh sách khách hàng, nói qua nói lại lao xao thầm thì, rồi vỡ lẽ ra là trùng tên, rồi cười ha hả. Cô chủ trở lại cầm phone, giải thích với con gái tôi bằng tiếng Anh:

-         Oh, sorry. It’s a mistake.

Nó liền cắt lời chị ta, lần này sổ luôn một tràng tiếng Việt:

-         Dạ chị ơi, em là người Việt nên nghe hết câu chuyện của chị và nhân viên của chị rồi đó.

-         Ủa, vậy hả? Trùng tên đó em, em vẫn còn cuộc hẹn nghen.

-         Dạ không! Bây giờ thì em chính thức cancel cái hẹn của em, và nhờ chị nhắn với cô nhân viên không nên gọi khách hàng là “con quỷ sứ”! Và chị nữa, chị nên tắt phone rồi tìm hiểu sự việc, rồi phone lại cho khách, chứ đừng để phone kiểu đó, khách nghe thấy không hay ho gì đâu!

 

Chị chủ chưng hửng, không biết chị ta có tính nói lời xin lỗi hoặc đề nghị giảm giá hay không, nhưng con gái tôi đã nhanh chóng nói lời chào và không hẹn tái ngộ!

 

Nghe xong chuyên, tôi cười, nói với con gái:

-         Rồi!! Kể từ nay tên Amanda cũng sẽ chính thức nằm trong sổ bìa đen của tiệm đó với biệt danh “con quỷ sứ”!

Edmonton, Jan. 2024

KIM LOAN

TẾT ĐẾN MẦN CHI ??

 

Tự dưng, người bạn xóm cũ nhắn tin hỏi thăm tôi nhân dịp năm hết Tết đến. Rồi hai đứa nhắc tên những nhân vật trong xóm ngày xưa, những câu chuyện cũ rích, vui nhất là chuyện những người đẹp, và tại sao hồi đó tụi mình hổng lấy nhau.

Là xóm tôi đó, chỉ với diện tích chưa đầy cây số vuông, mà những mỹ nhân kể ra cũng khá nhiều.

Đẹp ở đây là đẹp thiệt, chứ không phải “coi được, có duyên, dễ thương” đâu nhé. Hồi đó, mỗi chiều Chúa Nhật sau giờ tan lễ Nhà Thờ, cả xóm được ngắm những chị đẹp thướt tha trong tà áo dài muôn màu. Riêng vài người đẹp nổi bật “nghiêng nước nghiêng thành” thì có Bích Thủy được chàng công tử nhà Bác Sĩ ngay chợ Gò Vấp mê như điếu đổ, là Mỹ Linh từng làm rung rinh bao trái tim các chàng trai khu xóm Z.751, là chị Hồng quán chè, chị Nữ xe nước mía. Đẹp trí thức thì có chị Hạnh (Nha Sĩ), chị Hà, chị Yến, đều là cư dân xóm Chùa Vĩnh Quang.

Đặc biệt xóm tôi có vài gia đình thuộc loại “đẹp đều”, nghĩa là cả cha mẹ đẹp, sanh ra các con trai gái cũng đều đẹp như nhau. Xóm Nhà Thờ có chị Kiêm, bốn đứa con chị đủ trai đủ gái thừa hưởng nét đẹp mạnh mẽ sắc sảo của chị, (chị Kiêm còn có các anh chị em cũng rất đẹp, đó là chị Hoài có đôi mắt mơ màng như nước hồ thu, em trai của chị là anh Đạt, đi chung chuyến tàu vượt biên với tôi qua Thailand). Kế bên nhà Cha Xứ, hai căn nhà của gia đình cô Ngọc cô Nga là hai chị em có chút nét lai Pháp từ ông bà ngoại nên các con của hai cô thuộc loại trắng trẻo, trai xinh gái đẹp cả nhà. Cô bé út nhà cô Nga năm nào cũng được chọn làm Đức Mẹ trong đêm Canh Thức đón Chúa Giáng Sinh.

Bên xóm Chùa có hai gia đình “đẹp đều” là nhà bác Đại và bác Kỷ. Nhà bác Đại, các con cao ráo, thanh lịch, trong đó có chị Hà từng đi với tôi một chuyến vượt biên hụt ở Miền Tây. Mấy đứa em trai chị xấp xỉ tuổi tôi, từng là “mơ ước” của nhiều đứa con gái trong xứ, vì đó là gia đình khá giả, lãnh đồ Mỹ đều đều. Nhà bác Kỷ, các cô con gái dịu dàng, ăn nói ngọt ngào, các cậu con trai cũng thế, nổi bật là chị Hằng, là cô giáo, với mái tóc dài mượt mà, khuôn mặt trái soan như Thanh Nga, được thầy Trần Văn Triệu, hiệu trưởng trường cấp 2 của tôi trồng “cây si” miệt mài một thời gian dài. Mỗi chiều thầy Triệu chạy xe đạp đến nhà chị Hằng, phải đi qua nhà tôi, vì nhà chị Hằng cuối ngõ, hễ Thầy thấy tôi đứng sớ rớ trước cổng là Thầy bối rối (hơi quê), nhìn qua chỗ khác, nhưng tôi luôn mau mắn... lập công:

– Thầy ơi, chị Hằng có nhà đó Thầy!

Dĩ nhiên, cuộc tình “một chiều” này cũng chẳng tới đâu, vì chị Hằng khôn ngoan, mơ ước cao hơn nhiều. Thầy Triệu chỉ là hiệu trưởng, đồng lương có là bao, cả đời chạy xiếc xe đạp, đã vậy suốt ngày chỉ biết viết lách, làm Thơ, sống như ở “trên mây”, là những thứ chị Hằng không cần.

Mà cái xóm gì kỳ lạ, ngay cả người rũ áo bụi trần để khoác áo nâu sòng cũng... đẹp hơn người thường đó đa. Sư cô Huyền, nay là trụ trì Chùa Vĩnh Quang, cũng là người trong xóm vào Chùa tu từ bé. Hồi tôi còn ở Việt Nam, sư cô Huyền dù là trong tấm áo cà sa, mái tóc không còn, nhưng khuôn mặt vẫn đẹp đậm đà, nên thường bị đám thanh niên ăn không ngồi rồi quanh xóm Chùa tụ tập ở khu gò mả kế bên Chùa, đờn ca các bài nhạc vàng bolero chọc ghẹo sư cô, đại loại như: “Em tôi xinh đẹp hơn người thường, không áo xanh áo đỏ thơm hương, nhưng trong vườn Chùa lá thu bay, ôi ngọc ngà nhan sắc thơ ngây” (nhái nhạc Trần Thiện Thanh).

Nói đến “gái sắc” thì cũng nên kể về “trai tài” cho đồng đều, phải không quý vị?

Ở đây, tôi chỉ xin nói về “tài” học vấn thôi nhé, còn các chàng có những tài khác trong xóm, như tài chơi nhạc, ca hát, họa sĩ, kể cả tài “phá làng phá xóm” cũng có luôn nha, xin hẹn dịp khác.

Mở màn cho nhóm trai tài, tui xin được “ưu tiên” giới thiêu bốn ông ... anh ruột của tui, chớ cần gì kiếm đâu xa. Ngoài ông anh Hai vào Đại Học trước năm 1975 khi Miền Nam chưa lọt vào tay Cộng Sản Bắc Việt, thì ba ông anh kế tiếp lần lượt đậu Đại Học trong vinh quang, khi mà lý lịch gia đình còn vướng “ngụy quyền”, nhưng vì điểm đậu quá cao không thể bị đánh rớt. Riêng người anh thứ Năm, mùa thi Đại Học năm 1979 căng thẳng chiến tranh phía Bắc và Tây Nam, sợ bị gọi đi “nghĩa vụ quân sự”, anh liền thi hai trường Đại Học, một trường Cao Đẳng, kết quả đều đậu điểm cao, nhưng vẫn bị nhận giấy nhập ngũ. Gia đình tôi bèn lập kế hoạch cho anh đào ngũ từ quân trường, rồi phiêu bạt nơi sông nước Miền Tây mấy tháng trời, trước khi vượt biên trót lọt qua Songkla, Thailand.

Xóm Chợ có nhà ông Y tá Long, có 5 người con trai đều học giỏi, trong đó có Điền học trên tôi hai lớp, sau đó đậu vào Bách Khoa, và em kế là Hiệp vào Y Khoa dễ như ...ăn cháo. Kế bên nhà bác Long, cũng là gia đình có mấy cậu con trai học hành siêu đẳng, có bán quán tạp hóa, mà hễ ai đi ngang thấy cậu trai nào ngồi canh hàng giúp gia đình, là y như rằng trên tay họ cầm cuốn sách, đọc đọc, ghi ghi chép chép, cặp kiếng dày cộp, bảo đảm có bị ai lấy trộm hàng cũng chả biết, có người ngồi coi hàng cũng như không.

Xóm Chùa có gia đình cô Kết, cô giáo mẫu giáo của tôi hồi bé, ngoài chị Hạnh là con cả làm Nha Sĩ, các cậu em của chị cũng thuộc nhóm hiền lành, ngơ ngác “chỉ biết ... học thôi, chả biết gì!”. Tôi nhớ nhứt anh Tư có biệt danh là “Tư Bác Học”, nghe tên là đủ biết rồi nha, khỏi nói nhiều.

Là “gái sắc” thì sẽ có nhiều “cây si” theo đuổi, là “trai tài” cũng sẽ có nhiều bóng hồng ái mộ, mến tài. Anh Hai tôi, dạy học ngoài Cần Thơ, mỗi lần về thăm nhà vội vàng, thời “Cả Nước Xuống Hố”, đem theo quà Miền Tây, nào xoài, nào chuối khô, cốm dẹp, bồi dưỡng đám em nhỏ trong nhà, rồi dẫn chúng tôi đi trám răng nhổ răng... miễn phí (của nhóm bạn học chung Đại Học Khoa Học thuở xưa, nay họ làm Nha Sĩ, Bác sĩ), rồi chiều tối anh bắt chúng tôi đem bài vở ra để anh dạy kèm, nên anh chẳng có thời gian đi chơi trong xóm. Có lần, một chị hàng xóm đến thăm anh, hai người ngồi nói chuyện đến khuya, khi tiễn chị ra về, đi ngang qua chiếc giường tôi nằm ngủ ngay phòng khách, nên nghe được câu trách móc dỗi hờn của chị (không phải tôi nghe lén đâu á):

– Mỗi lần anh về xóm chắc là bận đủ điều, em đợi hoài chẳng thấy bóng anh sang nhà chơi, nên hôm nay em phải ... hạ mình đến gặp anh đó, anh biết chưa!

Nào phải anh là gỗ đá mà hổng có trái tim, có điều, sau hai mối tình không thành với hai cô gái vùng “gạo trắng nước trong”, anh đã ấp ủ con đường vượt biên để lo cho gia đình, chuyện tình cảm tính sau.

Có một thời gian, căn nhà của gia đình tôi trở thành “Xóm Học” vì các bạn chung trường Đại Học của mấy ông anh, kẻ ở Miền Trung xa lắc, người ở Hốc Môn, người ở Miền Tây, đều tá túc ăn ngủ nhà tôi. Thỉnh thoảng vào cuối tuần, ông anh Ba nhóm họp bạn có máu văn nghệ tại nhà, đờn địch ăn uống vui vẻ. Trong nhóm có anh Tiến, cao ráo, nước da sạm màu phong sương, đang quen biết với chị Cẩm, tiểu thơ con gái nhà giàu. Bữa đó, mấy anh đang ca hát rộn ràng bên trong nhà, thì chị Cẩm chạy chiếc Honda Dam dừng ngay cổng, tôi đi ra chào, chị mừng rỡ:

– Có anh Tiến ở trỏng không em? Chị muốn gặp ảnh chút xíu!

Tôi hớn hở:

– Dạ có, để em vô kêu ảnh nha.

Vào trong, vừa báo tin có chị Cẩm kiếm, anh Tiến xua tay:

– Thôi, em ra nói hổng có anh ở đây.
– Ủa, sao được! Em lỡ nói có anh rồi?!
– Bữa nay anh không muốn gặp, em ra nói sao thì nói, cho chừa cái tật ... tài lanh!
– Anh ác lắm nghen anh Tiến! Người ta là con nhà lá ngọc cành vàng, chạy xe từ Cầu Chữ Y xuống vùng mút chỉ cà tha Gò Vấp này thăm anh, mà anh nỡ lòng nào ...

Tôi đành mặt sưng mày sỉa, ra ngoài nói với chị Cẩm là anh Tiến đã về hồi nãy, nhưng nhìn vào mắt chị, tôi biết chị biết tôi nói dối, tôi áy náy lắm, nhưng biết làm sao hơn.

Thực tình mà nói, trong chuyện tình yêu, tôi đồng ý với trường phái “ai tỏ tình cũng được”. Không nhất thiết con gái phải thụ động, chờ chàng trai lên tiếng trước. Có khi chàng hiền lành, vụng về, hoặc vì lý do nào đó chưa dám thổ lộ, mà nàng cứ chờ, chờ mãi, sẽ vuột mất cơ hội cho cả hai, sau này lại ca bài “Tình Lỡ” . Chi bằng, nàng cứ mạnh dạn bày tỏ, như hai trường hợp tôi vừa kể trên, cho “người ta” biết tình cảm của mình, để còn biết kết quả sớm sủa, đặng nếu thất bại thì đi tìm... mục tiêu khác, khỏi mất thời gian.

Giờ đến chuyện “tên trùng tên” của xóm tôi. Một trong hai nhỏ bạn thân của tôi trong xóm là Bích Vân. Ngay bên chợ Đức Tin có nhỏ Vân Củi (vì nhà bán củi). Nhỏ này, nhìn kỹ thì rất đẹp, mũi nhỏ, môi xinh, mắt to tròn, nhưng nó bị điểm trừ rất lớn là nước da đen thui (gái Cambodia còn ... trắng hơn nó luôn đó đa!), mà khổ nỗi, đàn ông ít ai chịu nhìn kỹ nên nó hơi bị ...ế, và vì người Việt mình cũng khoái “nhất dáng nhì da”.

Xích lên khu trại gia binh thì có Vân Gà, con của bà Năm bán gà. Nhà thầy giáo Đăng cũng có cô con gái làm cô giáo tên Vân. Chị này luôn luôn đeo đôi bông tai hình tròn bự tổ chảng nên xóm gọi là Vân Khoen Tai. Bên hông nhà thờ có nàng Vân (Tấu) là con của bà Tấu. Nàng Vân Tấu và nàng Bích Vân hiện nay là hai ca trưởng của hai ca đoàn nhà thờ Đức Tin, vẫn còn kèn cựa, cạnh tranh nhau trong việc hát ca phụng vụ, thậm chí Cha xứ phải ra tay mà vẫn chưa có... hòa bình, chỉ bằng mặt chớ chưa bằng lòng, (hỏi xem Chúa trên tòa cao có dzui!?).

Ngõ hẻm Đất Đỏ thì có Hồng Vân bán thuốc là trước cổng Z751, nhỏ này xinh xắn miệng nói không lành da non nên lấy chồng cũng rất sớm là chàng cầu thủ của Z751! Ngoài ra còn có Vân Bún Măng Vịt con ông bà Đông chuyên bán bún vịt.

Tới đây tôi xin mở ngoặc, kể chút chuyện. Một anh bạn học chung ngoài Sài Gòn có lần hỏi tôi:

– Ủa, sao xóm em mang cái tên Z751 giống như... bí số, nghe như phim hình sự, phim 007 vậy cà, hổng lãng mạn thơ mộng chút nào.

Tôi cười:

– Anh đến đấy, coi chừng bị giật mình, vì kế bên xóm Z751 của em sẽ là các xóm mang các “bí số” khác nữa: Xóm C30, X28, X32, đó là chưa kể phải ngang qua... Ngã Năm Chuồng Chó nữa nghen! Hết hồn chưa nà?!

Quả thật, trước năm 1975, nơi đây là khu quân sự của quân đội VNCH với các trại Quân Cụ, Quân Nhu, Quân Trang, Truyền Tin, Quân Khuyển, và sau khi rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt, họ vẫn giữ các khu quân sự này với các tên toàn các chữ số khó hiểu.

Trở lại chuyện các tên trùng tên của xóm, tên KimLoan của tôi ngoài xã hội thì đại trà bao la, nhưng trong xóm chỉ trùng với một chị Loan. Nhưng có điều thú vị, cả tôi và chị chỉ xài tên Loan trên giấy tờ, trong xóm chẳng ai biết, vì họ chỉ biết tên của tôi ở xóm là Thoa, và chị Loan kia ở xóm gọi là Hương.

Bởi vậy, nếu có chàng nào ngơ ngác lạc vào xóm tui, hỏi nhà cô Loan, thì phần nhiều sẽ nhận được câu trả lời rất... chảnh, rất lạnh lùng rằng:

– Xóm này hổng có ai tên Loan hết á!

Ủa, đang yên đang lành, Tết đến mần chi, để tôi bỗng nhớ da diết xóm cũ thương yêu của tôi thế này!

– Thôi, tui đi khóc đây.


Kim Loan

Edmonton Feb 3/2024 

 

 

 

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

ĐI MỸ ĂN TẾT

 

Có lần tôi thông báo với nhỏ bạn trong ca đoàn nhà thờ là sắp đi Mỹ ăn Tết, nó la lên:
– Trời, tưởng bà về Việt Nam ăn Tết chứ đi Mỹ ăn Tết thì cứ ở đây ăn Tết. Canada và Mỹ cũng là Tết tha hương nơi nào chẳng giống nhau.
– Đồng ý, nhưng có khác nghen, bên đó tui có đầy đủ người thân: có Ba, có các anh chị em, các cháu và họ hàng gần xa, như vậy là đủ ấm áp và ý nghĩa với tui rồi, đó là chưa kể bên Texas hổng có tuyết rơi mù mịt vào ngày Tết nha.

Nhỏ gật gù:
– Cũng có lý.
– Càng có lý nữa là qua Mỹ tôi sẽ là … thượng khách của các anh chị tôi. Nay ăn (chực) nhà này mai ăn (chực) nhà khác, rồi mấy đứa em họ dẫn đi ăn nhà hàng, tóm lại là khỏi phải thò tay nấu nướng gì cả, cứ việc ra ngoài du Xuân và về nhà ăn cỗ cùng gia đình.

Thật vậy, trong khi Tết ở Canada tuyết trắng xóa đất trời, thì Arlington vùng Dallas Texas chỉ hơi se lạnh, gió mát hiu hiu trong bầu không khí khô ráo, tuyệt vời biết bao.

Nhớ lần đầu, tôi qua Mỹ ăn Tết cách đây gần 30 năm, Ba tôi và ông anh dẫn 2 đứa con từ California về Texas, gia đình ông anh khác từ Oklahoma cũng chạy xe về Texas, rồi với gia đình bà chị ở Texas, tất cả cùng kéo nhau ra phi trường Dallas Fort Worth cho tôi một niềm vui bất ngờ. Cha con anh chị em gặp nhau ríu rít mới thấy cái thiêng liêng của sum họp, của ngày Tết Nguyên Đán nơi xứ người quý giá thế nào.

Lúc ấy thành phố Arlington còn ít người Việt, không đông đúc như bây giờ và dĩ nhiên Tết cũng trầm lắng hơn, chợ búa Việt Nam ít ỏi, chưa có ngôi nhà thờ Các Thánh Tử Đạo rộng rãi bề thế như ngày nay, mà chỉ là căn nhà thờ bé nhỏ share với cộng đồng của Mỹ. Hàng hóa Việt Nam chưa xuất cảng qua nhiều, cũng may có bà chị dâu của tôi mới trở về thăm mẹ bệnh ở Việt Nam trước Tết nên đem qua được các món: các phong bao đỏ lì xì, bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng, các bịch mít sấy, khô mực xé nhỏ ướp sẵn gia vị, kẹo chuối, kẹo dừa, kẹo đậu phộng … cũng đủ cho mâm bánh kẹo ngày Tết của đại gia đình.

Mấy bà chị tôi cao hứng quyết định nấu bánh chưng như ngày xưa còn ở Việt Nam để kỷ niệm mùa Xuân đoàn viên đầu tiên trên đất Mỹ. Chao ôi là nhớ, hồi ấy cứ gần ngày 30 là ông chú họ đến gói bánh chưng giùm nhà tôi. Chị em tôi vo gạo đãi đậu xanh, Ba tôi cắt thịt heo và ướp tiêu ướp muối, người rửa lá chuối, người chẻ lạt. Khi mọi nguyên liệu đã sẵn sàng, ông chú oai phong ngồi trên chiếc chiếu ngay sân sau nhà, cẩn thận và khéo léo gói mấy chục chiếc bánh, chúng tôi ngồi quây quần bên chú xem chú gói bánh để học hỏi. Đến con chó Kiki nhà tôi hình như cũng cảm nhận được giây phút vui vẻ đầm ấm này, nó góp mặt nằm gối đầu lên 2 chân xoải ra thảnh thơi bên cạnh tôi và ngay cả suốt đêm canh củi lửa nồi bánh, con KiKi cũng luẩn quẩn sau nhà, không rời nửa bước vì sợ lỡ … cuộc vui.

Nhưng nay ở Mỹ không còn cảnh gói bánh chưng “linh đình” như thế nữa, chỉ gói vừa đủ trong chiếc nồi lớn ngoài garage. Đêm Texas yên bình, chúng tôi ngồi uống trà, ăn kẹo đậu phộng, canh nồi bánh để tìm lại những kỷ niệm xưa, những mùa Xuân xưa nơi quê nhà, mà ngậm ngùi, mà xao xuyến nhớ thương.

Lúc đó cũng chưa có các hoa mai hoa đào giả như bây giờ, tôi chợt nhớ hồi ở trại tỵ nạn Thailand chúng tôi tìm các cành cây khô về, dán hoa mai bằng giấy vàng lên, điểm vài lá xanh, cũng … rực rỡ lắm. Tôi bèn rủ đứa cháu cùng ra sau vườn chặt một nhành cây, đem vào để ngay góc phòng khách, rồi treo các phong bì lì xì màu đỏ, nhìn cũng vui mắt và có màu Tết!

Đêm Giao thừa, không pháo nổ, đại gia đình ăn bữa cơm tất niên, có thịt kho trứng, chả lụa, bánh chưng, dưa muối, miến gà, rồi lì xì lẫn nhau. Ba tôi rưng rưng nước mắt, giây phút đoàn tụ mà trước đây, khi các anh của tôi và tôi lần lượt đi vượt biên, chúng tôi không dám mơ. Tạ ơn cuộc đời, tạ ơn nước Mỹ.

Một chợ lớn duy nhất tại Arlington lúc đó là chợ Hongkong có tổ chức buổi văn nghệ Mừng Xuân vào tối Mồng Một, với 2 danh ca đang nổi như cồn là Don Hồ và Ngọc Lan. Ui chu choa, mấy chị em dì cháu chúng tôi nao nức đi xem văn nghệ để được tái ngộ ca sĩ Ngọc Lan vì chị ấy chính là hàng xóm cũ thuở xưa. Chị là ca viên có giọng ca solo hay nhất giáo xứ Đức Tin mà! Thiệt là vui khi được đi xem chị hát, ủng hộ chị Thanh Lan, là tên thật ở xứ hay gọi chị như thế, qua đây chị lấy nghệ danh Ngọc Lan. Hồi đó tôi chỉ là cô bé 9-10 tuổi mà đã mê mẩn ngắm sắc đẹp của chị Lan mỗi khi chúng tôi đến nhà xứ chơi, gặp ca đoàn chị đang tập hát.

Chúng tôi đến buổi Hội Xuân-Văn Nghệ rất sớm, tìm được mấy chỗ ngồi tốt gần sân khấu để chút nữa sẽ lách vào cánh gà tìm thăm chị Lan, nhắc lại kỷ niệm xóm cũ. Chương trình văn nghệ bắt đầu với các ca sĩ địa phương, điệu nhạc rộn ràng “Xuân đang đến bên em, dáng xuân tuyệt vời ...” làm tôi ngứa chân, rủ đứa cháu trai ra sàn nhảy. Đang tưng bừng trong tiếng nhạc xập xình, bỗng người bên cạnh dừng lại, nhìn tôi:
– Chị Loan! Chị Loan đúng không?

Trong tranh tối tranh sáng của ánh đèn mờ ảo, tôi khựng lại vài giây rồi reo lên:
– Thảo! Thảo, trời ơi là trời, chị đi tìm Ba Má em mấy năm nay!

Thế là chúng tôi nắm tay nhau nhảy cẫng lên sung sướng, rồi tiếp tục nhảy tưng tưng như điên vì hạnh phúc vỡ òa, tìm lại người quen cũ ngày xưa rất thân thiết bên Việt Nam. Sau bài nhạc đó, chúng tôi kéo nhau ra phía ngoài nói chuyện, những câu chuyện bất tận của 7-8 năm xa cách tưởng như không bao giờ được gặp lại, niềm vui này còn vui hơn đi tìm … Ngọc Lan. Chúng tôi hỏi thăm nhau tới tấp:
– Chị sống ở Mỹ hả, thành phố nào?
– Từ trại tỵ nạn chị qua Canada, bữa nay qua Mỹ ăn Tết với gia đình. Còn Ba Má và tụi em ở đâu?
– Nhà tụi em ở Dallas, tụi em xuống Arlington đêm nay vì Đạo chồng của em chơi nhạc keyboard trong ban nhạc Văn Nghệ Mừng Xuân nè chị. Tối nay về tụi em báo tin chắc Ba Má tụi em sẽ mất ngủ để chờ nói chuyện phone với chị đó.

Sau này, vợ chồng Đạo- Thảo sinh đứa con đầu lòng, Celine Thiên Ân, cô bé ấy nổi danh cả vùng Dallas vì có giọng ca đặc sắc, đã từng đoạt giải tại cuộc thi VStar Kids 2017 của trung tâm Thúy Nga và hiện nay là ca sĩ đắt show nhất trong các dịp Lễ, Tết tại địa phương. (Tôi sẽ viết về cô bé này trong một dịp khác).

Đó là kỷ niệm của cái Tết đầu tiên trên đất Mỹ, và mới đây lại có thêm một cái Tết khó quên.

Tháng Một năm 2023, vợ chồng con cái chúng tôi bay qua Arlington, Texas nhân dịp ông xã đi Pharmacy Conference bên New Orleans và kết hợp ăn Tết cùng đại gia đình. Cũng giống như thường lệ, ngoài mục đích chính họp mặt những người thân yêu, chúng tôi còn dành thời gian ngao du các thành phố lân cận thăm viếng bạn bè, người quen.

Đến thành phố Arlington như trở về “ngôi nhà thứ hai”của mình. Ông xã tôi cũng thuộc tất cả các con đường từ nhà các anh chị em của tôi đến các khu khác của thành phố Arlington, nếu cần lái xe đi Fort Worth, Plano, Garland, Dallas, Houston, San Antonio… chúng tôi cũng tự tin thẳng tiến, chẳng cần nhờ ai hướng dẫn, chỉ đường (vì còn có GPS khi cần thiết, lo gì).

Bây giờ chợ búa Việt Nam đã phong phú, đã nhập về đủ các món Tết từ Việt Nam, Taiwan, các loại bánh mứt, hạt dưa, các món muối chua củ kiệu dưa món. Trái cây cũng nhập về “cầu dừa xài đủ” cho bà con tha hồ mua sắm, chưa kể các loại hoa Xuân rực rỡ một góc chợ, từ hoa cúc tươi vàng rực, đến hoa mai Mỹ, và cả mấy chậu hoa mai Việt Nam nữa, chẳng hiểu họ kiếm ở đâu ra.

Dù thời đại này youtube chỉ dẫn đầy đủ cách gói bánh chưng, bánh tét nhưng các chị tôi không gói làm chi cho cực thân, vì đã có những hội đoàn nhà thờ, nhà chùa bao giàn, món mặn món chay không hề thiếu.

Một cái Tết đầy đủ vật chất, nhưng chúng tôi đã vắng đi một người thân. Ba tôi mất ở tuổi 95 ngay sau mùa dịch Covid. Từ khi Ba còn khỏe mạnh bình thường chúng tôi đã hỏi ý Ba sau này qua đời Ba có muốn chôn cất hoặc mang tro cốt về quê quán ở Việt Nam không, Ba trả lời ngay:
– Ba đã sống ở Mỹ thì chết và an táng ở Mỹ, Ba yêu nơi đây, nước Mỹ quê hương thứ hai đã cho Ba cuộc sống hạnh phúc, con cháu của Ba đang sinh sống và lớn lên ở Mỹ.

Hồi đó nghe câu tuyên bố của Ba, tôi đã gọi phone sang khen Ba và nói vui:
– Nước Mỹ mà nghe được câu nói này của Ba họ sẽ cảm động lắm và trao tặng Ba huy chương vàng đó.

Chiều 30 Tết các anh chị em chúng tôi đi thăm mộ Ba, Má ngay tại thành phố Arlington này. Nghĩa trang Moore khu «gia cư» của Ba Má tôi đây. Khi an táng Ba, chúng tôi đã gởi theo cả hũ tro hài cốt của Má mang từ Việt Nam sang, để hai ông bà “gặp lại nhau” chung một nấm mồ, tiện cho con cháu viếng thăm. Ba Má tôi có duyên với nước Mỹ đấy, ngày xưa cách đây mấy chục năm có thầy bói nào đoán Ba Má tôi về già qua đời sẽ được an táng tại một nghĩa trang ở Mỹ thì không ai tin nổi.

Nhắc lại chuyện Ba tôi yêu nước Mỹ, tôi xin kể về một người hàng xóm cũ, cũng đang sống cùng thành phố Arlington mà gia đình tôi rất quý mến.

Chị tên Lưu, cũng có những ý tưởng như Ba tôi. Hai vợ chồng chị không có con cái, sang Mỹ diện H.O, vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ 2, 3 năm thì chồng chị bị đột quỵ nằm một chỗ. Chị đã cực khổ chăm nom chồng gần chục năm trời. Khi chồng qua đời thì tuổi chị đã ngoài 60 không còn cơ hội đi làm và chị tiếp tục hưởng trợ cấp chính phủ. Chị Lưu không có thân nhân ruột thịt ở Mỹ, chỉ có gia đình người chị chồng. Chị Lưu share phòng ở nhà một người quen. Nhiều người khuyên chị Lưu về Việt Nam sống, có mấy gia đình người em để nương tựa khi tuổi già sức yếu, nhưng chị Lưu luôn khẳng định chọn con đường ở lại Mỹ. Ở Mỹ sức khỏe được bảo vệ và an toàn tài chính cho tới khi chị qua đời không phải lo nghĩ gì cả. Nếu phận số không may về già đau ốm bệnh hoạn thì vào nursing home, khỏi phiền lụy đến thân nhân nào. Về Việt Nam được gần gũi người nhà, được sống trên quê hương mình nhưng nghĩ mỗi khi đến chốn công quyền, khi vào bệnh viện lúc đau yếu, phải năn nỉ biếu quà biếu tiền là chị đủ khiếp sợ. Mấy chục năm qua chị Lưu đã quen nếp sống ở Mỹ, nơi mà quyền con người được tôn trọng dù là một người nghèo đang ăn tiền trợ cấp chính phủ.

Tôi mừng cho chị Lưu đã quyết định sáng suốt. Vợ chồng tôi có ghé nhà chị uống cafe, vui mừng hơn khi thấy chị sống khỏe mạnh, bình an trên quê hương mới mà chị nói sẽ chọn nơi này suốt quãng đời còn lại.

Một niềm vui khác, tôi được gặp vợ chồng người bạn cùng lớp thời học cấp III sau gần 40 năm xa cách. Người bạn này, đi vượt biên năm 1986 và định cư bên Úc, chúng tôi chỉ “gặp” nhau trên facebook, chưa bao giờ có ý nghĩ được “tay bắt mặt mừng” vì tôi chưa có ý định đi Úc và bạn cũng chưa có lý do đến Canada. Nhưng đời ai biết được chữ ngờ, “hữu duyên thiên lý” khi vợ chồng bạn từ Úc bay qua Oklahoma thăm gia đình người chị ruột cùng lúc tôi cũng từ Canada bay qua Arlington, thế là vợ chồng bạn book ngay vé từ Oklahoma đến Arlington để gặp tôi. Một niềm vui không biết trước, một cuộc hội ngộ không hề nghĩ tới, và đã xảy ra, vui không kể xiết.

Có phải nước Mỹ luôn mang niềm vui hội ngộ bất ngờ cho tôi để… thưởng công tôi đã yêu mến nước Mỹ chăng?

Ngày hẹn gặp mặt, ông xã tôi bận đi Conference ở New Orleans nên tôi phải nhờ ông anh ruột chở tôi đến hotel đón bạn, (vì bạn ở Úc lái xe vô-lăng bên tay phải nên qua Mỹ hổng dám lái), sau đó anh đưa chúng tôi đến nhà thờ Các Thánh Tử Đạo để chụp hình, viếng nhà thờ, rồi cuối cùng đưa chúng tôi đến Hội Chợ Tết tại Bến Thành Plaza vì anh phải ra phi trường đón một người thân khác của gia đình từ Seattle về Arlington ăn Tết. Trước khi lái xe rời đi, anh tôi có chút lo lắng, không muốn để “người Canada và người Úc” bơ vơ trên xứ Mỹ, tôi vui vẻ:
– Trời ơi, em qua đây như đi chợ, cái Bến Thành Plaza và Asia Times Square em thuộc như lòng bàn tay, hơn nữa, hội chợ toàn người Việt thì anh lo gì chúng em bị lạc chớ!

Tôi và vợ chồng người bạn đến Hội Chợ Tết khá sớm, lưa thưa vài người bắt đầu vào parkinglot, dạo quanh các cửa tiệm ăn uống bên ngoài và bên trong Plaza. Ngay cửa vừa bước vào là gian hàng các món ăn vặt của Thiền Viện Quang Chiếu (Arlington), các anh chị bán hàng niềm nở chào đón và giới thiệu các món: bánh bò nướng, bánh tằm, bánh da lợn, bánh waffles đổ nóng hổi ngay tại chỗ. Vợ chồng người bạn còn đang say sưa nhìn ngắm, chưa quyết định thử món nào, tôi bèn nhanh nhẩu lên tiếng để “điền vào chỗ trống”:
– Đây là 2 người bạn của tôi từ Úc Châu mới qua Mỹ lần đầu, còn tôi từ Canada, chúng tôi đang “khám phá” (vừa khám vừa… phá) nước Mỹ, các anh chị thông cảm chờ chút nhe!

Nghe vậy họ cười thật tươi, vui vẻ:
– Ồ vậy sao, welcome to America!

Vì câu “bạn tôi mới đến Mỹ lần đầu”, nên ai cũng nhiệt tình xúm xít giới thiệu các món ăn một cách ưu ái, cũng là cách giới thiệu về nước Mỹ, về sự thân thiện của người Mỹ gốc Việt dành cho những người “ngoại quốc” là chúng tôi. Thấy mọi người tiếp đón chúng tôi nồng nàn, tôi vui quá, vì được lộc Tết hưởng ké theo bạn, cứ “dạ dạ vâng vâng” rồi thoải mái thong thả ăn thử hết tất cả samples các loại bánh, mà món nào cũng ngon tuyệt.

Bạn tôi cảm động hứng chí đề nghị chụp chung một tấm hình kỷ niệm tình thân ái “Mỹ- Úc-Canada”. Sau đó chúng tôi mua một số bánh ủng hộ gian hàng Thiền Viện Quang Chiếu, lại tiếp tục đi vòng quanh khu hội chợ xem các món hàng và xem ca nhạc. Vừa ngồi xem văn nghệ, vừa cầm ly nước mía tươi, và dĩa xôi xoài, cùng mớ bánh bò, bạn tôi luôn miệng xuýt xoa, ở Mỹ cái gì cũng … bự, cũng ngon, no quá nhưng sẽ quyết chí ăn cho hết kẻo về Úc lại thèm.

Đến khuya, sau khi no căng bụng, chúng tôi kêu ông anh tới đón. Trước khi đưa vợ chồng bạn tôi về hotel, anh đề nghị đưa họ xuống downtown Dallas ngắm cảnh Dallas By Night. “Thật là một kỷ niệm không bao giờ quên của nước Mỹ” là câu nói của bạn tôi sau khi trở về nhà. Tôi cũng vậy, về Canada mà lòng còn vương vấn những dư âm của phút giây hội ngộ mùa Xuân trên đất Mỹ.

Nhỏ bạn thân có lần thắc mắc:
– Bà ở Canada gần 30 năm trời, mà sao gia đình chưa bảo lãnh qua bển, để bà cứ suốt ngày ở đây viết bài nhớ nhung ca tụng Mỹ Quốc?

Thực ra cách đây hơn 10 năm, sở di trú Mỹ đã gửi giấy kêu cả nhà tôi 4 người đóng tiền Visa, chuẩn bị qua Mỹ đoàn tụ theo giấy bảo lãnh của ông anh Hai. Nhưng vì nhiều lý do, nhất là công việc của ông xã và hoàn cảnh gia đình lúc bấy giờ, nên tôi, một lần nữa, không có duyên với “anh” Mỹ, nhưng có nợ với “chàng” Canada. Mà thôi, như vậy tôi được yêu thương cả 2 quốc gia, lời quá nhiều.

Hồi mùa hè, ông xã tôi hớn hở báo tin:
– Đầu năm 2024, anh sẽ đi Conference ở San Diego từ Feb 1 tới Feb 5, tức là 5 ngày sau là mồng Một Tết Giáp Thìn, em có muốn đi theo như năm ngoái, tụi mình sẽ lái xe xuống Little Sài Gòn đón Xuân?
– Thế ư? Chương trình hấp dẫn đấy, dù California không có anh chị em đông đảo như bên Texas, chỉ có mỗi ông anh làm hãng Boeing, nhưng ổng đi công tác liên miên, chẳng biết kỳ này có nhà không?
– Thì em đã từng nói, hễ em qua Mỹ ăn Tết là có tin vui mà, năm nay thử xem. Em cứ từ từ suy nghĩ, muốn ở lại nhà làm MC Tết cho Hội Người Việt Edmonton hay qua Mỹ đón Xuân, rồi cho anh biết để book vé.

Nhưng lần này tin vui đến sớm hơn mong ước, vì ngay vài hôm sau, tôi nhận được tin trúng giải Chung Kết cuộc thi Viết Về Nước Mỹ 2023, để rồi cuối tháng 11 tôi có một chuyến đi lãnh giải, gặp gỡ những cây bút “biết tên từ lâu, giờ mới biết mặt” đầy ắp kỷ niệm yêu thương nhớ đời. Bất ngờ hơn nữa, là tôi, một dân “ngoại đạo” (không phải công dân Mỹ) mà may mắn được nhận giải Vinh Danh Tác Giả, hạnh phúc như một giấc mơ.

Vậy đó, lần nào qua Mỹ ăn Tết, thậm chí chỉ mới dự định thôi nhé, mà xứ Mỹ luôn tặng tôi những thú vị bất ngờ .

Ôi, lòng tôi còn vui hơn … Tết


KIM LOAN

Edmonton, Xuân Giáp Thìn 2024 

KimLoan_Xuantinhyeu.jpg

Mùa Xuân anh ơi, là mùa vui

Ngày hăm ba ông Táo về trời

Rộn ràng niềm yêu đời phơi phới

Đón ba ngày Xuân vang tiếng cười

 

Mùa Xuân anh ơi, là mùa hoa

Nở rộ khắp nơi, khắp mọi nhà

Mai, đào, hồng, cúc …màu rực rỡ

Thắm tươi theo cánh gió chan hoà

 

Mùa Xuân anh ơi, mùa tình yêu

Anh nắm tay em, chớ nói nhiều

Phố phường nhộn nhịp người dạo bước

Mắt em long lanh dưới nắng chiều

 

Anh sẽ cùng em đón giao thừa

Ôi thiêng liêng giây phút sang mùa

Lắng nghe anh nhé, chồi nảy lộc

Tóc em xôn xao, ngọn gió lùa

 

Pháo nổ vang trời, kìa Tết đến

Đôi tim rạo rực, bóng Xuân sang

Tình anh tặng là quà mừng tuổi

Giấc ngủ đêm về, em bâng khuâng

 

Ba ngày xuân rồi cũng qua mau

Nhưng mối duyên mình sẽ bền lâu

Mùa Xuân anh ơi, mùa hạnh phúc

Hãy đến trao em mộng ban đầu

 

Edmonton, Xuân Giáp Thìn 2024

KIM LOAN

KimLoan_MC.png

NGƯỜI HÙNG CỦA MÙA XUÂN

Trong buổi họp chuẩn bị cho ngày liên hoan Tết năm ấy, cô giáo trẻ sung sức là tôi, cao hứng giao cho nhóm lớp trưởng lớp phó lo phần trang trí, mua bánh kẹo, nước uống, còn tôi sẽ nấu một nồi chè bà ba và một hũ đậu phộng rang.

Thú thật, tôi chưa bao giờ đảm đang chuyện bếp núc, từ bé tới lớn tôi chỉ biết ăn rồi học, mọi việc trong nhà đều có các anh chị lớn lãnh hết. Có một dạo, bà chị Cả bận đi làm sớm, giao cho tôi canh củi lửa nồi cơm nhưng mười lần như một, đều bị khét hoặc nhão nhẹt. May mà sau này có nồi cơm điện thì tôi được “ưu ái” làm nhiệm vụ cắm nồi cơm mỗi buổi sáng trước khi đi học, vậy thôi, chứ tôi chưa hề biết nấu món nào khác.

Sở dĩ tôi tự tin dám nhận nấu nồi chè và đậu phộng rang, vì nhà tôi có quán nước giải khát bán bia, chị tôi thường xuyên rang đậu phộng đem ra quán nên tôi cũng gọi là biết cách rang đậu, còn nồi chè thì mới hồi mùa hè, các bạn lớp cấp 3 có nhóm họp ở nhà tôi, tôi cũng được chứng kiến và phụ hợ các bạn nấu chè ngay trong bếp nhà tôi, có gì khó đâu.

Đến ngày liên hoan, tôi tất bật từ 9 giờ sáng, mặc dù đậu xanh đã ngâm và đãi vỏ từ chiều hôm qua, bịch dừa nạo cũng sẵn sàng trong tủ lạnh. Tôi thong thả xắt khoai lang, ngâm bột khoai, bột bán, vắt nước dừa và bắc nồi chè lên cái bếp điện lớn, đồng thời quay qua bếp củi để rang chảo đậu phộng. Ngồi đảo đậu, liếc mắt trông chừng nồi chè bắt đầu sôi sùng sục, tôi vặn nhỏ bếp điện, còn bên chảo đậu cũng bắt đầu chuyển sang màu nâu đậm, thơm nức mũi. Tôi dập tắt củi lửa, bước qua chăm sóc nồi chè thì than ôi, dưới đáy nồi là khoai lang và đậu xanh đóng khét lẹt,  cả nồi chè tỏa ra một mùi khê không còn cách nào chữa nổi dù tôi đã mau mắn đổ chè qua nồi khác, bỏ phần bị khê dưới đáy nhưng thật uổng công vô ích.

Tồi ngồi thừ ra, mặt mũi lấm tấm mồ hôi, chưa biết sẽ phải làm gì, thì lại nghe mùi khét từ bên chảo đậu. Ủa, tôi đã dập tắt củi rồi mà, nhưng có lẽ vì đống than dưới chảo vẫn còn nóng nên cả chảo đậu từ từ chuyển qua màu đen và bốc khói. Tôi hoảng hốt, bắc chảo đậu xuống, mọi sự đã muộn màng, rồi tôi bật khóc tức tưởi, tiếc hùi hụi công sức đã chuẩn bị mọi thứ với lòng háo hức từ chiều hôm trước.

Để nguyên “hiện trường” bề bộn nơi bếp, tôi đứng dậy, lấy chiếc nón lá che nắng, chạy qua tiệm giải khát tìm bà chị Cả . Bà chị liền cho bài học:

-         Đậu rang xong phải bắc xuống ngay, ai lại để nguyên si trên bếp than còn âm ỉ như thế! Còn nồi chè bự cho 40 học sinh ăn thì phải đảo liên tục, chứ không thể ngồi xa dòm chừng.

Rồi thấy mặt tôi méo xẹo, chị thương hại:

-         Chị còn dư nhiều đậu phộng mới rang hôm kia, chút nữa lấy mà xài, còn bây giờ mau đi kiếm chị Năm Chè Đậu xem chị ấy có giúp gì được không, chị phải bận bán hàng.

Tôi bước đi như người không hồn, biết tìm chị Năm Chè Đậu ở đâu? Chị Năm là người khá thân với gia đình tôi, mỗi sáng cỡ 9-10 giờ chị gánh chè đậu đi bán dạo khắp xóm trên làng dưới, giờ biết chị đang ở chỗ nào mà kiếm?

Tôi rẽ vào nhà Thủy, đứa bạn thân cùng xóm cùng lớp suốt cấp hai và cấp ba Trung Học. Nó nghe đầu đuôi xong, suy nghĩ, tính toán:

-         Một giờ trưa bắt đầu buổi học ca chiều, vậy nhà ngươi phải xong xuôi mọi sự lúc 12 giờ 30, nghĩa còn khoảng hơn 2 tiếng nữa, có là Thánh cũng không kịp ngâm đậu nấu nồi chè khác.

Tôi vẫn im lặng nhìn nó cầu cứu, nó liền nói:

-         Hay là mình nấu chè khoai lang bột khoai nước dừa, khỏi cần đậu xanh? À mà thôi, từ đây ra chợ cũng 15 phút, vừa đi vừa về mất nửa tiếng, rồi gọt khoai, nạo dừa, ôi thôi, có khi làm gấp gáp còn thêm hư bột hư đường. Giờ chỉ còn cách đến nhờ chàng Lãm ra tay.

-         Lãm? Nhưng liên quan gì chứ? Hắn không phải thợ nấu, cũng chẳng phải chủ quán chè, giúp được gì?

-         Ngáo ạ! Tiệm chè nhà hắn đông khách nhất chợ Gò Vấp, từ 10 giờ sáng đến 10 giờ tối, thì lúc nào mà chẳng có sẵn đậu nấu chín, đường, nước cốt dừa, hiểu chửa?

-         Nhưng lâu rồi tao và hắn không gặp nhau, ngại quá.

-         Lâu là bao lâu?

-         Cách đây cả tháng, hay nói chính xác là 5 tuần , bữa đó hắn đến trường đón tao sau giờ dạy, rủ tao đi ăn hủ tíu, tới giờ không thấy mặt mũi hắn luôn á!

-         Chao ôi, nàng còn nhớ là đúng 5 tuần luôn hen, để tao sẽ hỏi tội chàng. Tại hắn miệt mài học hành, hắn từng nói với tụi mình rằng, từ khi vào trường Y Khoa hắn không biết cái xóm của hắn tròn méo ra sao, vì hắn ra khỏi nhà đi học lúc tờ mờ sáng và trở về khi trời sập tối, chỉ kịp ăn qua loa, rồi vùi đầu học tiếp đấy thôi. Vả lại, hắn thích mày từ năm lớp 9 đến ròng rã ba năm cấp ba, cả trường cả lớp ai mà hổng biết, tao bảo đảm hắn sẽ bằng mọi giá phải làm “anh hùng cứu mỹ nhân”. Mà cho dù hắn không còn mê mày nữa thì đã sao, bạn bè thân giúp đỡ nhau cũng được, ai cấm? Không nhưng nhị gì nữa, lấy xe Honda Dame của tao chạy ngay đến nhà hắn, kẻo không kịp.

Tôi chỉ biết răm rắp nghe lời Thủy. Tiệm chè nhà Lãm kế bên chợ, người ta nhộn nhịp chợ búa sắm Tết, rồi nghỉ chân ăn chè đá đậu ba màu, ngồi kín gần hết các bàn trong nhà và ngoài sân. Tôi dừng xe trước tiệm, may quá, Lãm đang đứng bào đá bào, phụ má bỏ đá bào vào các ly chè, vừa nhìn thấy tôi Lãm liền chạy ra. Nhìn mặt tôi rầu rĩ như sắp khóc, Lãm giúp tôi dựng xe rồi dẫn tôi vào, lấy hai chiếc ghế cho tôi và Lãm ngồi chỗ góc sân. Tôi kể lể mọi sự, Lãm nghe đến đâu khuôn mặt đăm chiêu đến đó. Tôi ngây thơ hỏi thẳng:

-         Quán nhà Lãm có dư chè giúp mình được không?

Lãm lắc đầu:

-         Thời gian gấp quá, những ngày giáp Tết như thế này đậu ngâm liên tục, nấu không kịp bán, chắc không được, Loan ơi.

Hai đứa cùng in lặng, Lãm vẫn bóp đầu bóp trán nghĩ suy, căng thẳng lắm. Tôi nản chí, nặng nề đứng lên:

-         Thôi mình về đây.

Lãm lặng lẽ nhìn theo tôi dắt xe ra vỉa hè, bỗng tôi nghe tiếng gọi:

-         Loan ơi, mình có cách rồi!

Tôi reo lên trong lòng, thật không hổ danh một trong những chàng trai thông minh nhất lớp (vào ngành Y còn được, sá chi cái vụ chè cháo này chỉ là chuyện vặt). Lãm đến bên tôi:

-         Ở trong nhà lồng chợ có lò làm sương sáo, tụi mình đến đặt mua, kế bên là tiệm bán dừa khô, họ sẽ nạo và vắt nước dừa cho mình luôn, Lãm sẽ nhờ chị Bảy giúp việc ở quán nhà thắng nước đường, Lãm sẽ mua nước đá, rồi chở đến trường cho Loan thành món chè sương sáo béo ngọt mát lạnh, Loan thấy thế nào?

Tôi sung sướng hơn cả mong đợi, rối rít theo Lãm vào chợ, mọi sự diễn ra như dự định, tôi thênh thang cõi lòng chạy về trả xe và chia sẻ niềm vui với Thủy, nó liếc tôi:

-         Cuối cùng thì mày vẫn là tiểu thơ, chẳng phải nấu nướng chi ráo, chút nữa chỉ việc ghé tiệm chị mày lấy đậu, rồi có hoàng tử chở chè sương sáo đến tận nơi. Phải công nhận, sức mạnh của ...

Tôi cắt lời nó:

-         Mày lại ăn nói linh tinh gì đấy.

-         Chớ không phải sao, vì nàng mà chàng sinh viên chỉ biết ăn học lại trở thành... thợ làm chè sương sáo.

-         Thì con nhà nòi... tiệm chè mà lị.

-         Thôi, bây giờ mời tiểu thơ đi về tắm rửa, thay bộ quần jeans với áo thun màu hồng hôm bữa tụi mình mua ở chợ trời Tạ Thu Thâu, rồi đi đến trường cho xinh đẹp rạng rỡ nha.

-         Quỷ sứ! Tủ quần áo của tao có bao nhiêu cái mày biết hết trơn.

-         Bạn thân để làm gì chớ? Bữa nay mày khai mạc bộ đồ đó rồi ra giêng cho tao mượn đi coi phim với người yêu, haha.

Tôi đến trường lúc gần 1 giờ, mấy đứa học trò đón tôi với bịch đậu phộng rang, rồi ngơ ngác:

-         Ủa, chè đâu cô?

Đúng lúc Lãm xuất hiện, tắt máy xe, hai thau chè được buộc gọn gàng nơi yên sau, tụi nhỏ liền khoanh tay:

-         Dạ, tụi em chào... Thầy!

Tôi vui vẻ nạt chúng:

-         Thầy gì chớ! Đây là chú Lãm bạn thân của cô, mấy đứa phụ chú mang chè vào trong lớp nghen.

Tôi mở nắp thau chè, màu đen những miếng sương sáo nổi bật trong nước dừa trắng béo ngậy, trộn lẫn những miếng đá lạnh trong veo lấp lánh, và ô kìa, những chùm hạt lựu bé tí màu hồng, màu xanh ở đâu ra vậy cà?  Lãm giải thích:

-         Hồi nãy Lãm nhờ chị Bảy thắng nước đường, Má thấy vậy kêu chị Bảy làm thêm mớ hạt lựu, vừa đẹp mắt lại vừa ngon.

-         Trời ơi! Ngày mồng một Tết Loan sẽ đến nhà cám ơn bác thật nhiều.

Lũ học trò rộn ràng bày biện mọi thứ trong lớp, tôi đi bộ theo Lãm ra ngoài cổng trường, chờ Lãm dừng lại ngồi lên xe chuẩn bị nổ máy, tôi níu tay Lãm:

-         Lãm ơi!

-         Gì vậy Loan?

-         Lãm là... người hùng của mình, à không, người hùng của mùa xuân này đó, biết không?

Chàng trai ít nói nhất lớp, bữa nay cũng chẳng nói nhiều, chỉ mỉm cười ngại ngùng:

-         Có gì đâu. Loan vào trong với đám nhỏ đi, ở ngoài này nắng nóng. Mình hẹn nhau mồng một Tết nhe?

-         Ừa!

Tôi đứng nhìn theo xe Lãm hòa vào dòng xe cộ bận rộn ngược xuôi của những ngày gần Tết, khi bóng Lãm dần khuất nơi ngã ba, tôi quay bước vào sân. Một lớp nào đó đang bắt đầu tiệc liên hoan, chiếc máy cassette mở bản nhạc “Mùa Xuân Tình Yêu” của nhạc sĩ Từ Huy đang thịnh hành:

“ Anh ơi, Xuân nay vừa đến
Xuân chưa hề nói, chỉ trao nụ hồng ...’

Nắng trong sân trường vàng rực cái nắng hanh khô của mùa cuối năm rạo rực, tôi bỗng thấy mình ngân nga tiếp theo điệp khúc của bài hát ấy:

“ Mùa Xuân đến nhắc ta những điều
Mà ta chưa nói ra ...
Và hôm nay bước trên phố này
Tưởng như nghe tiếng trái tim mình hát ca ...”

Edmonton, Xuân Giáp Thìn 2024

KIM LOAN

TL_Broken heart.jpg

VALENTINE CHO NGƯỜI CHƯA GẶP MẶT

 

Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố, mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi terminal, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver mến thương…từ thuở nào! 

Khi tôi vượt biên cuối năm 1989 đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand, liền viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tỵ nạn đã bị Cao Uỷ đóng cửa từ ngày 14/3/1989, những ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh lọc rất khắt khe. Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam.

Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc.
Ôm một đống thư về chỗ ở trại tỵ nạn, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm English, làm bạn bè cũng tốt.

Giờ thì xin mở ngoặc nói về ông anh Th. yêu quý của tôi. Trước đây ở Việt Nam anh làm thầy giáo, rồi sau năm lần bảy bận đi vượt biên vào tù tội mới trót lọt, với câu nói cương quyết: “Nếu bỏ xác ngoài biển thì đành chịu, chớ còn đôi chân là còn đi vượt biên, đi hoài cũng tới, trời không phụ lòng người”.  Không biết anh có uy tín cỡ nào, mà kể từ khi anh bắt đầu toan tính ra đi, vài bạn thân trong xóm với gia đình tôi cứ hay đến nhà tôi thầm thì có chỗ nào vượt biên thì kêu tui nhe, đi chung với anh Th. cơ. Người có quyết tâm và niềm tin như anh thì chắc sẽ gặp may. 

Trước năm 1975, anh đã từng học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ nên rất khát khao đến được xứ tự do dân chủ này. Khi qua đến Mỹ như mong ước thì anh càng yêu Mỹ nhiều hơn. Anh còn khuyến khích tôi, đừng e ngại nếu kết hôn với người Mỹ vì có rất nhiều điểm lợi, nào là học được English hàng ngày hàng giờ, nào là sinh ra con sẽ cao lớn, xinh đẹp, nào là sẽ mang last name của chồng là last name Mỹ, khi đi học đi làm rất khó bị phân biệt chủng tộc…vân vân...và vân vân.

Nghe anh nói vậy tôi cũng yên tâm và hứng thú phần nào, dù lúc đó tôi vẫn có suy nghĩ phải quen và lấy chồng người Việt, chứ không hình dung được cái cảm giác sống chung với một người Mỹ mắt xanh, tóc vàng, tay chân đầy… lông lá.

Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Đầu tiên, tôi loại bỏ những thư không có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả, (thói quen nghề nghiệp cô giáo khi còn ở Việt Nam), rồi loại tiếp những lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai và loại luôn những người viết thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!).

Cuối cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một trường Trung Học ở Denver, Colorado, vậy là đồng nghiệp với tôi), và tấm hình một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ là Don Garner. 

Với tất cả vốn liếng English có được, tôi viết thư cho Don, giới thiệu bản thân, cám ơn Don đã vui lòng kết bạn, giúp tôi trau dồi thêm Anh Ngữ trong thời gian chờ đợi ở trại tỵ nạn và tôi cũng gởi một tấm hình tôi mặc chiếc áo màu đỏ thắm, chụp trước căn “nhà” của tôi trong trại tỵ nạn. Don hồi âm và nói thích tấm hình, thích... màu áo của tôi, khen tôi nụ cười tươi như hoa. Don phóng to tấm hình này với size bằng cuốn vở rồi gửi lại trại cho tôi làm kỷ niệm.

Cứ hai tuần một lần, Don gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước tôi đã viết sai và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạy.

Chắc tôi cũng có máu di truyền từ ông anh. Nếu ông anh đã từng yêu nước Mỹ từ khi còn học ở Hội Việt Mỹ, thì tôi trước đây đã yêu Wichita, Kansas, hay San Antonio, Texas qua những hình ảnh anh tôi gửi qua, thì giờ đây, qua ống kính của Don, tôi đã yêu thêm Denver của Colorado và những địa danh xung quanh: Rocky Mountain, thượng nguồn nước chảy xuôi theo dòng Mississippi vào Vịnh Mexico, những trang trại trồng lúa mì. Từ miền tây qua bên đông, đất của tiểu bang này là lưu vực giống sa mạc, trở thành cao nguyên, rồi núi Alpine, rồi đồng cỏ của đồng bằng Lớn. Núi Elbert là đỉnh cao nhất của dãy núi Rocky. Đỉnh Pike nổi tiếng một tí về phía tây của Colorado Springs. Có thể nhìn thấy đỉnh hiu quạnh của nó từ gần biên giới Kansas vào những ngày nắng và mùa đông tuyết phủ trắng một vùng núi bao la, kỳ vỹ…

Đã có lúc, tôi viết thư cho ông anh, đồng ý rằng, người Mỹ hay người ngoại quốc da trắng, có những người rất dễ thương, đáng tin cậy. Vì ngoài Don mà tôi dần thân thiện qua những lá thư, trong bưu điện trại tỵ nạn lúc ấy có thêm mấy chàng thiện nguyện người Tân Tây Lan, trong đó có chàng Peter thật hiền lành, nhút nhát và cực kỳ tốt bụng. Peter có râu quai nón, cánh tay  rậm rạp lông, vậy mà nở nụ cười là thấy… hiền khô. Ngoài giờ làm cho bưu điện, cuối tuần nhóm thiện nguyện vào trại có Hội Thánh Tin Lành để rao giảng Thánh Kinh.  Lần đó bưu điện làm tiệc sinh nhật cho tôi (bất cứ ai đến ngày sinh nhật đều được có một tiệc rất ấm cúng), Peter bị ép lên tặng hoa và ôm tôi, mà mặt anh chàng đỏ rực như ánh mặt trời, thấy thương làm sao.

 

Trở lại câu chuyện với Don, mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một máy cassette nhỏ xài bằng batteries để tôi học English, có cả đồ charge, vài country music tapes, đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes (Don tinh tế biết tôi ở chung với ba cô bạn gái), loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông Giáng Sinh. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy candy canes, nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt, lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, bốn đứa xúm lại ăn liền một mạch hết sạch và khen ngon rối rít.

Tôi dần dần cảm mến Don, dù chỉ qua những lá thư, những hình ảnh và những món quà bé nhỏ xinh xinh. Tôi cảm nhận được một chàng trai đứng đắn, mô phạm, có trái tim ấm áp với tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn.

Don luôn muốn cho tôi hiểu biết nhiều hơn về nước Mỹ, giải thích chi tiết từng sự việc, những tấm hình phong cảnh anh chụp đều ghi chú rõ ràng, địa điểm, thời gian và cả những điều thú vị liên quan đến nơi ấy.

Để giải thích sự chậm trễ thư từ mùa cuối năm, Don chụp những tấm hình khi đến post office gửi quà cho tôi, nào là những chiếc xe của post office chất đầy ứ những bao tải chứa thư, những nhân viên đang chuyển những gói parcels ra xe dù ngoài trời đã sập tối lất phất tuyết rơi. Don bảo, mùa này người ta gửi thư gửi quà cho nhau nhiều lắm, dù nhân viên làm việc tăng thêm giờ cũng sẽ vẫn có những thư từ, bưu phẩm chậm hơn những thời gian khác trong năm và nhắn nhủ tôi nếu thư Don đến chậm thì hãy thông cảm cho Don và đừng giận Don, đừng giận ... nước Mỹ nhé (thấy thương ghê chưa!)

Như một cái gì đó rất quen thuộc, mỗi lần đợi chờ thư của Don thật háo hức, một niềm vui dịu dàng êm ái vì thư của Don lúc nào cũng có vài tấm hình và ít nhất là 4 đến 6 trang thư, đem đến cho tôi một nước Mỹ tuy xa xôi nhưng quá đỗi gần gũi, đầy quyến rũ mộng mơ.

Qua mùa Giáng Sinh năm ấy, thư của Don bắt đầu thưa thớt và sau đó là lá thư thật dài, Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn, có nhiều hy vọng nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc, điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô Denver.

 

Đó cũng là lá thư cuối cùng của Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình về địa chỉ của Don và nơi trang trại của cha mẹ Don đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự không tìm được câu giải đáp của sự im lặng này.

Cuối cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôi. Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại tỵ nạn với hoàn cảnh quá bấp bênh nên nhân dịp này Don ngưng liên lạc để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm tay?

Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời và xin chân thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, Don ơi!

Khi tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt đại dương giữa tôi và Don.

Người thì diễn tả như trong phim ngôn tình, chàng khi chữa bệnh thì mặc cảm, tuyệt vọng nên không thư từ cho nàng, cho đến khi bệnh tình khá hơn, chàng vội viết thư cho “người em gái tỵ nạn” thì hỡi ôi, nàng đã lên đường định cư!

Người khác, cho đoạn kết mang dấu ấn phim Hàn Quốc, chàng sau một thời gian hóa trị và xạ trị, đã mắc bệnh ... mất trí nhớ, nên những lá thư nàng gửi tới chỉ làm chàng hờ hững như đám giấy lộn vô tri vô giác.

Vui hơn là một chị cho câu chuyện theo kiểu Quỳnh Giao, là cha mẹ chàng đã phát hiện ra chàng đang có “tình xa” với một cô gái Châu Á, trong khi họ muốn chàng lấy vợ da trắng, môn đăng hộ đối, nên đã cấm đoán và nhân dịp chàng về nhà chữa bệnh, họ đã dấu hết các lá thư của nàng, gây cho chàng hiểu lầm là nàng đã đổi thay khi chàng ngã bệnh nên từ đó... ly tan.

Dĩ nhiên đó chỉ là những “đoạn kết” tưởng tượng vui vẻ, nhưng cuối cùng các chị ấy cũng nghiêm túc, đề nghị giúp tôi tìm Don trên Googles, vì với đầy đủ tên họ và số tuổi thì việc tìm tung tích không đến nỗi khó khăn nếu Don vẫn còn ở Denver.

Tôi bèn nghe lời khuyên, search trên Googles, sau khi narrow down, tôi cũng tìm được vài người mang tên Don Garner, ở lứa tuổi đó, nhưng tiếc là không có hình ảnh (cũng có thể tôi đã không tìm đúng cách). Tôi cũng chẳng muốn làm phiền người khác tìm giúp Don, vì để làm gì chứ?

Tôi và Don, định mệnh cho gặp nhau qua những lá thư, trong một hoàn cảnh đặc biệt ở trại tỵ nạn. Dù tình cảm vừa nhẹ nhàng chớm nở, mến nhau nhiều hơn qua những tâm sự, những câu chuyện của nhau và qua những tấm hình, Don nói yêu mến đất nước và con người Việt Nam, cũng như tôi đã yêu thương Denver, Colorado và nước Mỹ của Don.

Nhưng chúng tôi chưa hề nói lời yêu nhau, chưa một lần nói nhớ thương, chưa dự định những hứa hẹn dài lâu vì đâu biết chuyện thanh lọc ở trại tỵ nạn của tôi sẽ ra sao. Anh vẫn đang là một người bạn, một người thân, một người đều đặn mang cho tôi niềm chia sẻ, ủi an trong mỗi lá thư, giúp những ngày trại tỵ nạn của tôi thêm niềm vui dù tương lai còn mong manh  xa vời.

Để rồi Don bỗng mang bệnh hiểm nghèo, định mệnh mang Don đến với tôi rồi lại mang Don ra khỏi đời tôi không một lời giải thích để lòng tôi vẫn xốn xang khắc khoải đi tìm một lý do.
 

Dù sao đi nữa, tôi vẫn nhớ ơn Don về những tháng ngày ấy, nhớ nhiều những điều mới lạ Don giới thiệu với tôi về nước Mỹ, về những cây candy canes mùa Noel, về mùa Valentine nào đó Don gửi một gói bưu phẩm với hộp chocolate và kể cho tôi nghe về ngày lễ dễ thương này, không hẳn dành cho những đôi yêu nhau, mà còn cho cả bạn bè thân, gia đình, ngay cả đám học trò cũng tặng thiệp Valentine cho Thầy giáo Don.

Để giờ đây mỗi lần có dịp qua Mỹ, khi máy bay dừng chuyển tiếp ở Denver, tôi lại thấy lòng bâng khuâng, bồi hồi như sắp gặp lại người bạn cũ. Dù anh còn đó hay không, dù anh thế nào, đối với tôi, Denver vẫn là một địa danh đẹp luôn có bóng hình anh.

Valentine năm nay tôi viết lại câu chuyện này, cho Don, một người chưa hề gặp mặt, như một món quà ghi dấu kỷ niệm của chúng tôi, của một thời đã qua khi cả hai còn rất trẻ.

 

Và đây là bài thơ tôi viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nghĩ về Don: 

 

LẠC NHAU Ở DENVER

Máy bay vừa hạ cánh

Denver lạ mà quen

Phi trường tôi vừa đến

Chờ mong được gặp Don

 

Người người lướt qua nhau

Terminal kiếm tìm

Hành lý cũng vui theo

Tôi và những niềm riêng

 

Tôi đứng đây, ngơ ngẩn

Giữa đám đông đợi chờ

Hỡi anh, Don thân mến

Đừng để tôi bơ vơ

Chuyến bay này nối tiếp

Hẹn gặp tại Denver

Quán café Starbucks

Mình nhắc lại chuyện xưa

 

Anh mặc áo màu gì?

Xung quanh tôi xa lạ

Những bước chân vội vã

Vẫn thiếu vắng một người

 

Lẽ nào anh không nhớ!

Hay anh trễ chuyến bay?

Phi đạo trong nắng gió

Người thì như bóng mây

 

 

Tôi phải boarding rồi

Qua gate mà ngập ngừng

Thế là anh và tôi

Chẳng được phút tương phùng

 

Máy bay tung đôi cánh

Chìm vào trong mây trời

Anh vẫn là hình ảnh

Trong ký ức mà thôi!

KIM LOAN

          TẤM THIỆP GIÁNG SINH

Những tấm thiệp, bạn gửi đã lâu rồi
Nhưng tôi vẫn giữ để làm kỷ niệm
Nét chữ nghiêng nghiêng thân quen, rất đẹp
Lời chúc Giáng Sinh ấm áp tình thương

Tôi nhớ những mùa đông của thuở trước
Buổi sáng bình yên bên ly cà phê
Bên ngoài kia, gió mùa mang rét mướt
Tôi đợi chờ bóng dáng người đưa thư

Hạnh phúc đơn sơ, niềm vui bé nhỏ
Hộp thư bên ngoài dưới tuyết trắng tinh
Những chiếc phong bì màu xanh, trắng, đỏ
Đã đến đây rồi, như một cánh chim

Khoác áo ấm, tôi bước nhẹ ra cửa
Kìa lá thư từ nửa quả địa cầu
Tấm thiệp Giáng Sinh rực rỡ sắc màu
Dù nơi ấy chưa bao giờ tuyết đổ

Bạn nhắc về những mùa Noel cũ
Cùng bạn bè, Sài Gòn phố đông vui
Những con đường thênh thang chiều gió lộng
Vương Cung Thánh Đường tan lễ sương rơi

Tôi như thấy lại một trời náo nức
Khi mùa đông về được nhận thư xa
Tấm thiệp mỗi năm có khi mỗi khác
Nhưng cùng rộn ràng niềm vui thiết tha

Nhưng cũng lâu rồi, bạn không gửi nữa
Mùa Noel về, những cánh thiệp xinh
Tôi nhớ lắm, nét chữ sao mềm mại
Nỗi nhớ dịu dàng, nỗi nhớ bạn thân

Lời chúc của bạn trên những emails
Hay trên facebook tôi vẫn nhận được
Dòng đời bận rộn, nên tôi rất hiểu
Tấm chân tình từ muôn dặm đường xa

Tôi cũng hiểu những tấm thiệp bán sẵn
Có người mua về chỉ kịp ký tên
Và buồn lắm, nhớ lắm một thói quen
Nắn nót nâng niu những dòng chữ đẹp


Tôi chỉ trách tôi, sao còn đứng đợi
Trong thùng thư, những cánh thiệp Giáng Sinh
Những ngày mùa đông chiều buông rất vội
Đâu người đưa thư trong tuyết mông mênh?


KIM LOAN

    XÓM ĐẠO NGOẠI Ô

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chúng ta khi sống trên xứ người, đều mang theo một chút quê hương theo mình. Có thể là một con đường, một góc phố, hay một xóm nhỏ yêu thương đã gắn bó một quãng đời dài. Tôi cũng có một quê hương trong trái tim mà mỗi khi nhớ đến vẫn làm tôi thổn thức, rạo rực khôn nguôi.

Đó là một xóm nhỏ vùng ngoại ô, cách trung tâm Sài Gòn khoảng gần mười cây số. Nhớ hồi ra Sài Gòn học, khi các bạn bè hỏi đến nhà chơi, tôi trả lời ở Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp, nhiều người còn ngơ ngác không biết nó ở đâu. Tôi phải vẽ trên giấy chỉ đường cẩn thận, nếu bạn đi từ hướng Ngã Tư Phú Nhuận xuống, đường Hai Bà Trưng kéo dài là đường Võ Di Nguy, sau đổi thành Nguyễn Kiệm, đến khu vực Ngã Năm Chuồng Chó, cứ tiếp tục đến Ngã Ba An Nhơn thì rẽ trái khoảng 500m, hỏi Giáo Xứ Đức Tin, nhà của tôi nằm phía sau nhà thờ đấy. Nhà tôi không ở trung tâm phố thị phồn hoa, xóm tôi không cao sang lộng lẫy, nhưng tôi yêu thương xóm đạo của tôi quá đỗi, vì đó là nơi tôi được sinh ra, lớn lên và cho tôi một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc.

Có thể nói, ngôi nhà thờ nhỏ, đơn sơ, bên cạnh cái chợ bé xíu là trung tâm điểm của xóm tôi, được bao bọc chung quanh bởi những dãy nhà cách nhau bằng những con hẻm, kéo dài và ăn thông với nhau dẫn ra đường cái đến thẳng chợ Thông Tây Hội (cũ) và xa hơn nữa là Xóm Mới. Thuở lên chín lên mười, niềm vui của tôi là cùng lũ bạn nhỏ tụ tập chơi quanh xóm và sân nhà thờ. Tuy nhà thờ không lớn nhưng cũng có một khoảng sân tráng xi măng và hàng rào sắt bao bọc, đủ cho thế giới tuổi thơ chúng tôi. Góc bên trái của sân nhà thờ có trồng một cây hoa sứ, bên cạnh cái tháp chuông. Những buổi trưa nắng, cây hoa sứ và cái tháp chuông làm thành một bóng mát, lũ trẻ con nhặt hoa sứ chơi bán hàng, đám con gái chúng tôi chơi banh đũa, nhảy dây, trong khi mấy đứa con trai chơi trò tạt lon ồn ào, náo nhiệt.

Vui nhất là ba tháng hè, khi cây hoa phượng ở đầu xóm nở hoa đỏ rực, chúng tôi được nghỉ học, và những cuộc chơi trẻ thơ dường như dài bất tận. Buổi trưa hè nóng nực và im vắng, tôi thường trốn giấc ngủ trưa để nhập bọn cùng lũ bạn đã đợi sẵn ở sân nhà thờ. Những trò chơi làm chúng tôi say mê quên cả thời gian. Hết trò này đến trò kia nhưng không bao giờ mệt mỏi. Đến khi chán chường với những trò chơi ấy, chúng tôi lại rủ nhau đến chơi nhà xứ. Nhà của Cha nằm trong dãy nhà ngoài đường cái và là ngôi nhà đẹp nhất xóm. Nhà lầu đúc hai tầng, có ban công lót gạch đá hoa mát rượi nhìn ra khoảng sân rộng rãi, phía trước có hàng rào sắt bao quanh cao hơn đầu người lớn. Trong khuôn viên ấy, có một căn nhà nhỏ,  là nhà bếp và nơi ở của ông cụ Hanh, người chăm lo việc giặt giũ cơm nước cho Cha. Con đường từ cổng vào nhà được tráng xi măng, và tất cả phần còn lại là mảnh vườn có đầy đủ các loại hoa kiểng. Ngay góc sân là cây mận cổ thụ cao to, cành lá xum xuê, vươn ra đến ban công trên tầng lầu. Sát bên hàng rào sắt là những bụi hoa mai, mỗi mùa Tết đến trổ bông vàng rực khiến ai đi qua cũng phải dừng lại trầm trồ.

Cổng sắt của nhà xứ luôn luôn để ngỏ, chúng tôi lại bày trò chơi trên nền xi măng, vì dọc lối đi có những hòn đá tảng rất to có thể làm chỗ ngồi nghỉ ngơi. Gió hiu hiu thổi, đưa những bông hoa mận rụng trắng xóa một góc vườn. Chúng tôi gom những bông hoa trắng tơi như bông để chơi bán hàng, hoặc rải lên mái tóc để làm điệu như người lớn, rồi đi khắp vườn tìm những trái mận rơi rụng, khi ăn vào ngọt lịm đến tận ruột gan. Cũng có khi Cha xứ sai ông cụ Hanh ravườn với cái cây dài để hái mận cho lũ chúng tôi. Cả đám reo hò ầm ĩ khi thấy rổ mận đầy ắp, ông cụ Hanh dẫn chúng tôi vào nhà bếp rửa mận, và còn hào phóng làm thêm một chén muối ớt đỏ tươi ngon lành, chưa ăn đã kịp chảy nước miếng.

Rất nhiều lần, Cha xứ cho chúng tôi vào căn nhà lót gạch đá hoa mát rượi của Cha. Chúng tôi ùa vào và len lỏi khắp nơi để khám phá thỏa chí tò mò trẻ thơ. Căn phòng khách rộng rãi có bộ bàn ghế sa lông và chiếc đàn piano lớn đặt ngay cửa sổ nhìn ra khu vườn. Cha đã dạy tôi những nốt nhạc đầu tiên trong đời trên chiếc piano này. Khi đánh được một câu nhạc, tôi đu người trên song sắt cửa sổ và hét to lên vì sung sướng. Ở trên lầu, còn có một phòng lớn để các nhạc cụ như một bộ trống, đàn guitar, và một cây đàn piano khác nữa. Đặc biệt có một thư viện nhỏ hẹp, bên trong là hai kệ sách sát tường cao ngất ngưỡng, tôi phải kiễng chân ngửa đầu nhìn cho đến khi mỏi cổ mới thôi.

Cha xứ yêu thương chúng tôi đến như vậy, nhưng Ngài vẫn không thoát khỏi những trò chơi nghịch ngợm của lũ chúng tôi. Đó là những buổi trưa chúng tôi đến sân nhà xứ hơi sớm, khi nhìn thấy cửa nhà Cha vẫn đóng, đó là dấu hiệu Ngài đang ngủ trưa hay đang đọc kinh. Chẳng có chuyện gì làm, chúng tôi bèn nghĩ ra cái trò…bấm chuông. Một đứa leo lên vai đứa kia để với tới cái chuông và …bấm! Nghe tiếng dép lịch xịch ra mở cửa là cả đám co giò chạy hết tốc lực ra ngoài cổng. Trò chơi này cho cảm giác mạnh, tim đập nhanh và hồi hộp vô tả. Không phải Cha xứ không biết tác giả là lũ chúng tôi, nhưng Ngài chưa hề la rầy nửa lời. Có người phàn nàn với Cha, Ngài cười tươi rói: “Cứ cho chúng nó phá nhà xứ, còn hơn là để chúng đi phá làng phá xóm!” Ôi, câu nói ấy vẫn ám ảnh theo tôi cho đến bây giờ. Cha ơi, nếu ngày ấy Cha cấm đoán hay trừng phạt chúng con, thì con đã mất đi một thiên đường tuổi thơ đẹp tuyệt vời!

Những buổi tối mùa hè cũng là những cuộc chơi không dứt. Trời oi bức hiếm hoi những ngọn gió mát, cả xóm kéo nhau ra chơi ngoài cửa. Chúng tôi lại rủ đến nhà xứ hay sân nhà thờ. Những khi có trăng, những ngõ hẻm trong xóm trở nên đẹp lung linh, thơ mộng, nhất là những ngày bị cúp điện. Nhà xứ là nơi có những buổi hội họp của các hội đoàn giáo xứ, và ca đoàn cũng tập hát nơi đây, nên chúng tôi thích ghé chơi vì không khí rất vui. (Ai đã từng yêu mến tiếng hát Ngọc Lan, cô ca sỹ có giọng hát nhẹ như khói sương, dáng người mỏng manh và cuộc đời vắn số, cô ấy chính là một giọng ca chính của Ca Đoàn xứ Đức Tin thuở ấy, mà chúng tôi thường hay chen lấn ở cửa sổ nhà xứ chỉ để ngắm nhìn sắc đẹp của chị Lan. Chị có một mối tình rất đẹp với anh ca trưởng tên Quang, là sinh viên Y khoa, với cặp kính cận và cây đàn guitar. Hai người sau đó đi vượt biên, khi ra hải ngoại thì chia tay và Ngọc Lan trở thành ca sỹ nổi tiếng của Trung Tâm Asia. Tôi sẽ trở lại đề tài này vào một dịp khác, kẻo sẽ bị lạc đề, không chừng còn mang tiếng “nhiều chiệng” thì oan cho tôi lắm!). Sau khi họp hành, Cha xứ thường mở rộng cửa cho chúng tôi vào xem ti vi, nhưng cũng chẳng níu kéo chúng tôi lâu hơn, cả đám lại kéo nhau đi tìm thú vui khác tại sân nhà thờ. Thế là một khung cảnh náo động lại bắt đầu. Chơi bịt mắt bắt dê, chơi trò trốn tìm, mệt thì ngồi xuống dưới bóng tối tháp chuông kể chuyện… ma, và khi có thêm trẻ nhập bọn thì chúng tôi chơi trò chơi tập thể. Hai đứa lớn làm quản trò, giơ hai tay thành cái cổng, đám còn lại xếp hàng nối đuôi nhau đi qua cổng và hát to:

    “Thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn
Trên trời có Chúa có Cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi gần chết được lên thiên đàng …”

Đến lúc đó hai người làm cổng mới hỏi từng đứa: “Ăn cam hay ăn quít?”, cứ thế tiếp tục đi qua cổng và hát, đám ăn cam ngồi một bên, đám ăn quýt ngồi một bên (trước đó hai người quản trò đã bàn với nhau ăn cái nào là thiên đàng, ăn cái nào là hỏa ngục), cuối cùng tuyên bố ra, những đứa bên hỏa ngục phải còng lưng ra cõng mấy đứa bên thiên đàng xung quanh sân. Có thế thôi mà vui thật là vui, đến khi ba má đến réo gọi mới chịu chạy về nhà đi ngủ.

Thế rồi thời gian trôi đi, chúng tôi lớn lên thành những chàng trai thiếu nữ. Chúng tôi không còn tụ tập chơi ở sân nhà thờ hay nhà xứ nữa, chỉ thỉnh thoảng khi trường làm bích báo, tôi lại chạy đến phòng thư viện nhỏ của Cha để mượn những cuốn sách Tuổi Hoa được xuất bản trước năm 1975 mà Cha còn giữ lại, hoặc khi lớp của tôi mở tiệc Giáng Sinh tại nhà tôi thì tôi và mấy đứa bạn kéo nhau đến nhà xứ để mượn thêm bàn ghế. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ thói quen mừng tuổi Cha vào dịp Tết. Cứ vào sáng mồng một Tết, sau bữa ăn trưa, tôi và hai nhỏ bạn thân trong xóm cùng đi chúc Tết Cha. (Lạ kỳ thật đấy, gần hai mươi đứa trẻ của ngày xưa mà bây giờ chỉ còn ba đứa đến thăm Cha xứ thôi ư? Mà thôi, ngay chính Chúa Giesu xưa kia chữa bệnh phong hủi cho mười người, cũng chỉ có một người quay lại cám ơn Ngài đó sao? Mà đó lại là một người dân ngoại, huống hồ là lũ trẻ vô tâm vô tánh như chúng tôi, chắc Cha Sở cũng không lấy gì làm phiền hà). Ngài cũng đã già hơn, yếu hơn xưa, và ánh mắt nhìn chúng tôi mừng vui xen lẫn với một chút buồn ngậm ngùi, vì chúng tôi đã đủ lông đủ cánh bay vào cuộc đời mênh mông.

Quả là như thế, tôi đã bận rộn triền miên với sách vở, học hành và những mùa thi nối tiếp nhau. Có chút rảnh rang thì cùng bạn bè vào những quán đèn màu thưởng thức cocktail, nhâm nhi ly café đá, tập tành nghe nhạc xập xình những bài hát thời thượng của Boney M, Abba, the Capenters, hoặc thả hồn vào những bài hát tiền chiến ủy mị, nào Hương Xưa, nào Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, nào Thu Quyến Rũ, hoặc đạp xe ra Sài Gòn dưới những con đường có lá me bay. Rồi có bạn trai, bận làm Thơ tình, yêu thương và hờn giận, xen kẽ với những căng thẳng lo âu của những mùa thi trên giảng đường, xôn xao những ngày phượng nở và chia tay, nên những trò chơi đơn sơ và rẻ tiền của thời thơ ấu đã thực sự chìm vào lãng quên, trở thành một kỷ niệm xa xăm.

Tháng 12 năm 1989, tôi và bốn mươi người khác được gửi đến trú ngụ ở một căn nhà giữa cánh đồng ở miền quê tỉnh Kompomsom, Cambodia chờ ngày lên tàu vượt biển. Buổi sáng tôi thường dậy rất sớm, bước ra ngoài tập thể dục và hít khí trời trong lành. Bàn chân tôi dẫm lên những đám cỏ còn ướt đẫm hơi sương, và phía xa tận chân trời còn mờ tối là mặt trời đang mọc sớm hay ánh trăng tàn đang lặn muộn? Xa xa, làng mạc vẫn còn chìm trong giấc ngủ say dưới màn sương mờ đục, đẹp như một bức tranh. Những cây thốt nốt vươn mình trong bầu trời sớm, dáng cong rũ mềm mại như những cây dừa quê hương, tôi bỗng thấy nhớ nhà đến xót xa.

Giờ này chắc cái chợ nhỏ đã bắt đầu dọn hàng, nào bún riêu, bánh cuốn, xôi vò, bánh cam, chuẩn bị cho những hàng quà buổi sáng. Hai quán café ở đầu xóm cũng đã mở cửa đón khách đi làm sớm. Tôi như nghe thấy tiếng chuông nhà thờ buổi sớm vừa vang lên rộn ràng, thúc giục. Tôi ước sao có đôi cánh để bay về với xóm nhỏ của tôi, dù chỉ là vài phút thôi, để kịp nhìn thấy trong những ngõ hẻm còn mờ tối là bóng dáng các cụ ông cụ bà rảo bước đến nhà thờ, có bà vừa đi vừa cài vội mấy nút áo dài, trước sân nhà thờ ông trùm Cương vừa mở cổng vừa tươi cười hỏi thăm những người đi lễ sớm.

Và phía sau ngôi nhà thờ, là căn nhà thân yêu của tôi, với giàn hoa bông giấy đỏ tươi trước cổng. Tôi nhớ từng người thân ruột thịt của mình, tôi nhớ cả những đồ vật vô tri vô giác nhưng đã từng gắn bó với tôi như hơi thở. Nhớ căn phòng ngủ của tôi, có một ô cửa sổ bé xíu nhìn ra khu vườn sau của nhà hàng xóm, thấy cả những cây chuối đong đưa những trưa hè dưới làn gió thoảng. Nhớ cái tủ đứng nơi góc phòng, bên trong là cả “gia tài” vô giá của tôi: những bộ quần áo tôi sắm được bằng chính đồng lương của mình, những cuốn albums, những cuốn lưu bút và nhật ký, đồ trang điểm. Nhớ chiếc bàn viết bên cạnh giường ngủ, nơi tôi vẫn ngồi hàng đêm soạn giáo án và chấm bài học trò, hoặc lãng đãng trên những trang nhật ký khi những hạt mưa đầu mùa rơi lộp độp trên mái tôn vào những đêm khuya lắc khuya lơ …

Rồi tôi khóc nghẹn ngào. Ở cái giây phút sắp sửa bỏ lại quê hương, tôi bỗng thấy yêu mảnh đất xứ sở của mình quá đỗi. Sao tôi lại muốn mình trở lại như trẻ thơ, hồn nhiên vô tư, không chút buồn lo nơi cuộc đời đầy biến động này:

Cho tôi lại ngày nào
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
Trong đêm mùa khô ráo
Tôi nghe tiếng còi tầu.
(Phạm Duy)

Ngày hôm sau, con tàu định mệnh đã đưa tôi ra khơi, xa mãi quê hương thân yêu, đến trại tỵ nạn Thailand ở bốn năm ròng rã trước khi định cư tại Canada. Gia đình, người thân tôi cũng lần lượt ra đi sinh sống rải rác ở Mỹ, nên mãi hai mươi năm sau kể từ buổi sáng năm nào khóc trên xứ Chùa Tháp, tôi mới có dịp trở về thăm xóm nhỏ của tôi.

Thời kinh tế thị trường đã thay da đổi thịt đến tận xóm ngoại ô. Tôi đã lặng lẽ khóc khi đứng trước căn nhà xưa của mình mà nay không còn gì quen thuộc ngoài bảng số nhà 112/4, vì bây giờ đó là nhà hàng cơm bình dân. Nơi giàn bông giấy ngày xưa cho tôi những chiều mưa ủy mị xót thương  những cánh hoa mỏng manh run rẩy, nay là quầy để thịt kho, cá chiên, rau xào, đậu hũ. Mảnh sân trước tráng xi măng thuở nào êm ấm những sáng mùa xuân chị em tôi phơi dưa kiệu, làm bánh mứt, nay là chỗ cho thực khách ngồi ăn vội vàng bữa cơm trước khi trở về hãng xưởng làm việc. Những căn nhà lầu mọc lên thay cho những căn nhà đơn sơ thuở nào làm cho những con hẻm bị nhỏ lại. Tôi hỏi bạn: “Vậy ánh trăng có còn tràn xuống hẻm lấp lánh, kỳ ảo vào những ngày rằm?” Câu trả lời là: “Trời ạ! Thời buổi này chẳng ai còn thời giờ để lãng mạn, mộng mơ nữa đâu”.

Nhà xứ được xây đẹp hơn, nhưng cây mận với những chùm hoa trắng như bông tuyết của tôi đâu rồi?! (Tôi nghe lòng mình thổn thức). Nhà thờ cũng được phá đi xây lại toàn bộ, cũng trên diện tích ấy người ta xây hai tầng lầu, phía dưới là chỗ để xe, phòng áo, phòng hội họp, còn trên lầu là Cung Thánh cao sang, gác đàn rộng rãi. Phía trước nhà thờ thật bề thế với những bậc cầu thang trải dài xuống tận phía dưới. Cái tháp chuông mới hơn và cao hơn, và không hiểu tại sao cây hoa sứ đã không còn nữa. Tôi hốt hoảng: “Vậy làm sao lũ trẻ nhặt hoa ngửi mùi hương và chơi bán hàng?” Bạn tôi cười buồn: “Mày lo bò trắng răng. Con nít ngày nay chơi game, trò chơi điện tử, chứ đâu thèm chơi những trò chơi quê mùa rẻ tiền như chúng mình ngày xưa” Tôi vớt vát: “Thế còn những bài đồng dao: Thiên đàng địa ngục hai bên? …Rồng rắn lên mây có cây lúc lắc? …” Bạn tôi lại cười buồn: “Xưa rồi …Diễm!”. Buồn nữa là Cha xứ, linh mục Heromino Phạm Ngọc Giá và ông cụ Hanh cũng đã lần lượt qua đời cách đây khá lâu. Bạn bè xưa mỗi đứa tan tác một phương trời. Tất cả đều đã đổi thay như cuộc đời dâu bể.

Từ trong đáy lòng, tôi thực sự vui mừng cho người dân xóm tôi vì cuộc sống đã được nâng cao. Tôi mừng vui cho những giáo dân của xóm đạo ngoại ô đã có một ngôi nhà thờ khang trang rộng rãi.

Nhưng mãi mãi trong tâm trí tôi vẫn là hình ảnh một xóm nhỏ đơn sơ, có những căn nhà cao thấp xen kẽ nhau, có những ngõ hẻm rộn ràng sáng rực ánh trăng, và một ngôi giáo đường bé nhỏ xinh xinh. Và bao giờ cũng vậy, qua làn nước mắt, tôi thấy lung linh hình bóng của Cha Heromino Phạm Ngọc Giá, với đôi mắt nhân từ sau cặp mắt kiếng và nụ cười nở trên môi, đang mở rộng cánh cửa nhà xứ cho lũ chúng tôi ùa vào trong mùi thơm ngào ngạt của những bông hoa mận rụng trắng ngoài sân.

Ngày ấy đâu rồi?!

Edmonton, trời lập đông, tháng 12/2023


KIM LOAN
 

TL_Church.jpg
TL_HappyThanksgiving2023_2.gif

Niềm Vui Mùa Thanksgiving

 

 

Trong mối quan hệ bạn bè, hình như tôi có duyên với số 4. Hồi ở trại tị nạn Thailand tôi sống chung trong nhóm 4 cô gái, còn trước đó ở bên Việt Nam, từ trường Sư Phạm cho đến khi ra trường cũng là nhóm 4 nàng.

 

Ra trường đi dạy 4 trường khác nhau, nhưng chúng tôi vẫn gặp nhau thường xuyên vui vầy, rồi theo dòng đời cũng rã đám. Một nàng bị bệnh hoang tưởng bên Việt Nam (tôi đã viết về nàng trong bài Tháng Mười Hai Nhớ Bạn), một nàng có cuộc sống êm ấm với ông chồng già bên Việt Nam (tôi cũng đã viết về nàng này trong bài Người Thứ Ba), còn tôi và chị Mộng Nguyên, kẻ đi Canada người qua Mỹ, thư đi thư lại vài lần, rồi mất liên lạc đúng một phần tư thế kỷ, là 25 năm.

 

Tôi vẫn cố gắng tìm kiếm, dò la tin tức của Nguyên, rồi mới đây bà chị bên Texas giới thiệu, quảng cáo mục Tìm Thân Nhân của youtube “Hồng Loan-Bảo Lộc”. Bà chị lạc quan bảo đảm rằng, có nhiều trường hợp đã tìm ra người quen, và nói đâu xa, chính chị cũng đã nhờ chương trình này tìm ra vợ chồng người bạn, ngày xưa người chồng đi “cải tạo” chung với chồng chị nên hai bà vợ đi thăm nuôi gặp nhau, kết thân. Chị bảo, chị vừa đăng tin là ngày hôm sau có người gọi tới báo tin tìm được người chị đang tìm.

Tôi nghe lời chị, sốt sắng gửi tin nhắn “Tìm Bạn Thân” cho kênh Hồng Loan-Bảo Lộc. Một tuần trôi qua kể từ tin nhắn của tôi xuất hiện trên kênh “Hồng Loan-Bảo Lộc”, bà chị nôn nóng:
- Có ai gọi chửa?
Tôi rầu rầu:
- Chả có người nào gọi. Sao chị bảo Hồng Loan-Bảo Lộc mau lẹ lắm mà!?
- Thì ráng chờ thêm xem sao, đâu phải ai cũng như ai, lâu mau là do hên xui may rủi.
Cỡ một tháng sau, tôi gọi bà chị:
- Có tin vui, có tin vui, Mộng Nguyên đã nhắn tin muốn liên lạc KimLoan rồi kìa.
- Chị đã bảo thì chớ có sai, kênh “Hồng Loan- Bảo Lộc” rất mát tay, nổi tiếng toàn vùng California và các tiểu bang nước Mỹ, đã giúp cho biết bao nhiêu người tìm được người thân thất lạc, bạn cũ, và cả ... người xưa!
- Ối giào, đừng có tưởng bở, chị chưa nghe hết câu đã sung sướng kết luận ... tầm phào. Báo cho chị biết nè, Mộng Nguyên tìm được Loan vì nàng ấy tình cờ đọc báo Trẻ ở Atlanta, thấy bài viết và hình ảnh KimLoan, nên nàng ấy mừng như bắt được vàng, liền email cho Ban Biên Tập Trẻ nhờ liên lạc với em.
Bà chị ... quê xệ, cụt hứng:
- À ra thế, thôi thì dù tìm được ở đâu cũng là vui rồi.
- Hóa ra, niềm vui viết bài đăng báo đôi khi cũng có ích lợi bất ngờ.
- Vậy hai đứa đã nói chuyện với nhau nhiều chưa?
- Chỉ mới hôm qua tụi em đã nhắn tin qua lại trên phone, và hẹn cuối tuần này gọi facetime để “xem dung nhan ấy bây chừ ra sao”.
- Ừa, khi nào xong xuôi nhớ kể lại cho chị nghe, cho chị gửi lời thăm Nguyên, chị vẫn nhớ nụ cười của Nguyên đấy

Ngày hẹn facetime, suốt buổi chiều, tôi nôn nóng, xúc động, nhớ lại khoảng thời gian trước khi tôi lên đường đi vượt biên, ngày nào tôi cũng đến nhà Mộng Nguyên, căn nhà xinh đẹp trong con hẻm lớn đường Trương Quốc Dung, Phú Nhuận. Hai chị em tỉ tê tâm sự mọi nỗi buồn vui (Nguyên lớn hơn tôi 3 tuổi). Chúng tôi, ai cũng có những nỗi niềm riêng tư, chuyện gia đình, chuyện tình cảm, nói hoài nói mãi vẫn chẳng hết, cho đến bữa cơm chiều, gia đình Nguyên mời tôi ở lại dùng cơm cho vui. Tôi hơi ngần ngại vì gia đình Nguyên 8 anh chị em cộng thêm ba má là chẵn một chục, nhưng bác gái vui vẻ:

- Ngại gì chớ, chỉ thêm chiếc ghế, thêm đũa thêm bát thôi mà.

 

Nghe vậy, tôi mạnh dạn ở lại ăn cơm với gia đình Nguyên. Thấy tôi còn giữ kẽ, ăn chậm chạp, bác trai khuyến khích, “tự nhiên đi con, ăn nhiều vào”, tôi lại tiếp tục... mạnh dạn thoải mái “ăn nhiều vào” cho bác vui lòng, ôi một thời kỷ niệm thân thương biết bao.

 

Cuốn phim ký ức lại quay về những tháng ngày vui nhộn dưới mái trường Sư Phạm. Trong bốn nàng, tôi và một nàng (đang bệnh hoang tưởng bên Việt Nam) thuộc loại nói tía lia không lành da non, còn Mộng Nguyên và nàng còn lại ít nói hơn, nhưng chính Nguyên là người đã khơi dậy chút “máu điên” tiềm ẩn trong con người tôi bằng những câu đùa phá, hoặc những trò nghịch ngợm quậy phá bạn bè, thầy cô vẫn còn in hằn trong trí nhớ của tôi .

 

Đến giờ hẹn facetime, tim tôi rộn ràng hồi hộp theo từng tiếng chuông reo, và rồi kìa, hai nàng nhìn nhau qua màn hình, không nói nên lời, đúng hơn là không biết nói gì, bắt đầu từ đâu, chỉ nhìn nhau cười, ước gì được ôm nhau. Cuối cùng, vẫn là tôi chủ động y như hồi còn học chung:

- Nguyên ơi, 25 năm, biết bao nhiêu điều để hỏi, để nói. Thôi bây giờ em sẽ là người nói trước, đặt câu hỏi, Nguyên chỉ việc trả lời thôi nhé, rồi sau khi em nói xong, sẽ đến lượt Nguyên nha.

- Ok, Loan hỏi trước đi.

Tôi đặt câu hỏi tới tấp, biết được toàn bộ những gì của thời gian qua. Gia đình Nguyên, tất cả 8 anh chị em đều may mắn qua Mỹ định cư, không còn ai kẹt lại Việt Nam, vợ chồng Nguyên và con trai vẫn ổn định trong cuộc sống, sức khỏe cũng như việc làm. Tôi vui sướng:

- Nguyên giỏi quá, đưa được cả nhà sang Mỹ luôn á.

- Chị nhớ thuở đó khi nhà Loan có hai ông anh vượt biên tới đảo, nhà chị cũng cố vài lần cho mấy đứa em trai đi, nhưng không thành công, đành an phận ở lại Việt Nam. May mắn sao, sau này chị và Ngân (em gái kế) được đi theo gia đình chồng qua đây, tuy muộn màng so với nhiều người, nhưng tụi chị cương quyết, kiên trì, cho nên 6 anh chị em còn lại (cùng vợ chồng con cái) cũng đã lần lượt qua Mỹ, cũng chỉ mới 5-6 năm nay thôi, mọi người đang bắt đầu gầy dựng cuộc sống mới, dần dà đã quen và yêu mến xứ sở này, chỉ tiếc ...

- Tiếc gì hả chị?

- Ba chị lúc ấy bệnh nhiều nên nhất định không chịu đi, má chị thì khao khát qua Mỹ nhưng phải ở lại với ba. Rồi hồi mùa dịch Covid ba không qua khỏi, ngay sau đó má cũng lên đường qua Mỹ với các con cháu, và lại tiếc nữa em ơi ...

- Tiếc gì nữa chị?

- Tiếc là má chị chỉ được hưởng không khi tự do dân chủ Mỹ Quốc được vài năm, sức khỏe yếu dần do bệnh từ trước, và cũng ra đi theo Ba đầu năm nay.

- Em xin chia buồn cùng chị và gia đình.

- Nhưng dù sao cũng an ủi là má đã được đến Mỹ và ra đi an lành trong vòng tay các con, các cháu.

 

Rồi tôi hỏi qua bạn bè, mấy đứa em họ của Nguyên mà hồi đó tôi cũng thường gặp gỡ khi đến nhà, Nguyên hớn hở:

- Cậu Hai vẫn nhắc Loan hoài, nhớ cậu không, ở sát nhà Nguyên đó. Mà các anh chị và ba của Loan lúc này sao rồi, tất cả đang ở Texas hay tiểu bang nào khác nữa, mọi người vẫn khỏe chứ?

 

Rồi chợt nhớ ra “giao ước” Nguyên khựng lại, hỏi:

- Xí!Xí!... Loan ơi, chị được phép nói chưa? Tới lượt chị hỏi chưa?

Tôi bật cười:

- Ừa thì em hỏi cũng gần xong, chị cứ hỏi đi, làm gì mà “xin” với chả “phép” như trong lớp học vậy, nhớ nghề hả ?

Nguyên cũng cười vang:

- Tại chị biết tính Loan từ ngày xưa, hễ ra “nguyên tắc” nào, mà ai sai phạm thì Loan nổi sùng, giận liền á!

- Chị làm em nhớ lúc mới qua Canada liên lạc được thằng bạn thân lớp 12 còn ở Việt Nam (cũng là cây si của em hồi đó). Lúc đó chưa có facetime, iphone, nên em email cho hắn thiệt dài, kể chuyện, sợ hắn ngán nên em chia ra các mục 1,2,3 ...rồi gạch đầu dòng, và luôn cả phụ đề a,b,c ... Hắn email lại, trời ơi cô giáo ơi, email cho bạn mà cứ như làm hồ sơ báo cáo tổng kết. Em bảo, ừa, tui dzậy đó, chịu thì chịu hổng chịu thì ... ráng chịu.

- Thiệt tình, tao thấy hắn góp ý cũng đúng, email cho “người xưa” gì mà khô như ngói, chẳng hiểu hắn “si” mày chỗ nào?

- Úi, không phải hắn si năm lớp 12 đâu nhé, mà si từ hồi học lớp Chín. Nghĩ cũng lạ, hắn là bác sĩ bận rộn là thế mà email cho em rất mượt mà êm ái, còn em là cô giáo thì email toàn là chữ số và gạch đầu dòng, trái ngược nhau quá chừng, tụi em mà lấy nhau thì bổ sung cho nhau “trên cả tuyệt vời” luôn chị nhỉ?

- Mà chị thấy Loan viết văn trên báo cũng... ngọt ngào lắm cơ mà?

- Chuyện nào ra chuyện đó chị ơi, mà em còn chả hiểu nổi em nữa là ... hihihi! Ủa, mà tụi mình đang nói tới đâu rồi Nguyên?

- Thì đó, ai chơi với Loan cũng phải ... “ráng chịu” mà, nên bây giờ chị mới hỏi, chị được phép nói chưa nà?

- Chèn đéc ui, đó là “em của ngày hôm qua” thôi nha, còn bây giờ em đã khác nhiều rồi, em hiền khô à, dạ mời chị nói.

 

Thế là Nguyên bắt đầu hỏi, tôi trả lời mọi sự, và chúng tôi cứ như thế đến nửa đêm, rồi trước khi chia tay, tôi xin được phỏng vấn Nguyên một câu ( thói quen “nghề nghiệp”, làm MC cộng đồng nhiều năm nên tôi gặp ai cũng đòi... phỏng vấn):

- Nhân dịp Thanksgiving sắp tới, Nguyên nghĩ sao về nước Mỹ nè, có hài lòng với cuộc sống hiện tại không? Em hỏi vậy vì em biết nhiều người qua đến đây thì chê ỏng chê eo, chê Mỹ chê Canada thẳng thừng, nghe mà... đau lòng.

- Không có chị à nghen! Cuộc sống hiện tại còn hơn cả mong đợi em ơi, bao nhiêu người phải trải qua hiểm nguy vượt biên trên biển cả, sau này thì người ta tốn tiền tốn của để được qua Mỹ, còn gia đình chị, nhờ ơn Trên, qua đây bằng máy bay, đầy đủ không tốn một xu nào, chả phải là một điều để Tạ Ơn sao? Ba chị vì bệnh hoạn đành qua đời bên Việt Nam nhưng má chị cũng kịp đoàn tụ con cháu, hoàn thành giấc mơ Mỹ Quốc mà má chị ấp ủ từ sau ngày Sài Gòn bị đổi tên. Còn Loan thì sao, năm nay ăn Thanksgiving thế nào, bên đó có ăn Gà Tây như bên Mỹ không?

- Có đầy đủ y chang chị ơi, có Turkey, mashed potato, stuffing, cranberry sauce, pumpkin pie, có điều Thanksgiving Canada đã xong từ Tháng 10, và cũng giống như chị và nhiều người Việt hải ngoại khác, mỗi mùa Tạ Ơn vẫn là niềm tri ân đất nước tự do đã giang tay đón chào và cho chúng ta cơ hội mới, tốt đẹp hơn so với khi còn ở lại với chế độ Cộng Sản Việt Nam.

 

Cúp phone xong, tôi vào phòng ngủ, còn lâng lâng cảm xúc buổi “gặp gỡ” bạn xưa, và chợt nhớ ra, năm nay tôi cũng có điều để tạ ơn nước Mỹ đấy. Số là mới hai tuần trước, có thằng bạn cùng trường khác lớp hồi học cấp ba, nhà ở xóm bên cạnh xóm tôi bên Việt Nam, bỗng nhắn tôi qua facebook messenger. Lúc đầu tôi chưa nhận ra hắn, bèn e dè ca bài ca “xin hỏi anh là ai?”, hắn phải kể lể mãi tôi mới nhớ ra. Hiện hắn ở Florida, rồi hắn bảo:

- Tui với mấy thằng bạn lớp tui thường xuyên liên lạc với nhau, tụi tui hay đọc báo Trẻ, Việt Báo, nhìn hình bà thì tụi tui ngờ ngợ vì cũng đã gần 40 năm rồi còn gì, nhưng đọc các bài bà viết, đôi khi viết kiểu “tào lao tưng tửng” thì tụi tui dám chắc đó là “phong cách” của bà vì hồi đó bà trong ban báo chí. Cả đám tụi tui hì hục tìm bà trên facebook, nhưng cái tên KimLoan nhiều quá, kiếm hoài không ra KimLoan Gò Vấp, học trường Nguyễn Trung Trực. Tụi tui bèn chạy qua Google vì tưởng bà "nổi tiếng" lắm chớ, ai dè ... hổng phải vậy, hahaha!!

- Quỷ sứ! Nói cho ông nghe nè, tên tui rất là ... đại trà bao la, hồi đó đi thi Đại Học, cả phòng mấy chục đứa con gái đều tên Thị Kim Loan chỉ khác last name thôi đó, mấy ông cứ rà rà kiểu đó tới kiếp sau chưa chắc tìm ra.

- Bởi vậy mấy thằng kia giao cho tui nhiệm vụ quan trọng phải tìm ra bà đó. Tôi phải truy lùng mấy người xóm cũ, dây mơ rễ má, rốt cuộc cũng tóm được bà. Đúng là trái đất tròn, bạn xưa bạn cũ dần dà tìm được nhau.

- Ừa, tìm được nhau thì đừng để mất nhau nữa, cho tui gửi lời thăm mấy “thằng bạn” của ông mà bảo đảm tôi chẳng nhớ rõ mặt mũi họ tròn méo ra sao, nhưng dù sao cũng là tình đồng hương đồng trường khác lớp mà giờ đây thân thương quá chừng . Và đặc biệt cám ơn ông và nhóm bạn đã theo dõi tui trên báo Trẻ, Việt Báo và... rình rập tui trên facebook.

 

Tôi tin rằng tất cả chúng ta phải cám ơn thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, trái đất này bỗng nhiên nhỏ bé, người ta gần nhau hơn, dù ở bất cứ nơi nào vẫn có thể “gặp” nhau, nói chuyện với nhau, điều mà cách đây hơn 30 năm khi xuống tàu đi vượt biên, tôi không dám mơ ước.

Thế là Mùa Thanksgiving năm nay tôi tìm được hai người bạn bên Mỹ, vui quá đi chớ!

 

Edmonton, Tháng 11/2023

Kim Loan

TL_halloween.webp

 

                              KỂ CHUYỆN MÙA HALLOWEEN

Chiều mùa Thu thật mau tối, ảm đạm dưới màn trời xám xịt. Tôi dừng xe đổ xăng, rồi bâng quơ nhìn qua bên

 

kia đường là cửa hàng Marshalls. Tôi chợt nhớ ra trong xe có đôi bao tay tôi đã mua nhưng không vừa ý, cần trả lại tiệm. Ở xứ tự do nói chung và xứ Bắc Mỹ này nói riêng, sướng thật. Khi mua đồ về nhà, trong vòng 30 ngày có thể đem trả lại dù với bất cứ lý do gì miễn là còn tag, còn receipt rõ ràng. Nếu ở Việt Nam thì ... mơ đi nhé, mà nếu họ có đồng ý cho đổi trả thì cũng mặt mày sưng sỉa, nặng nhẹ mắng chó chửi mèo mới hả dạ, làm cho khách hàng cảm thấy mình là “ tội đồ” chớ không phải là “thượng đế” .

Nhìn đồng hồ chỉ 5 giờ 30 chiều, tôi thầm nghĩ, hôm nay chủ nhật, cũng còn 30 phút nữa tiệm đóng cửa, nên quyết định chạy qua Marshalls, vào trả lại đồ thì mau chóng thôi.

Bước ra khỏi xe, cơn gió lạnh làm tôi rùng mình, bãi đậu xe vắng ngắt, chỉ còn lác đác vài chiếc, trời lạnh lẽo chẳng ai muốn ra đường giờ này. Tôi chạy nhanh vào tiệm để tìm hơi ấm. Tiệm sắp đến giờ đóng cửa nên chỉ còn vài người khách, họ cũng đang vội vàng mang đồ ra quầy tính tiền. Cả tiệm rộng lớn đã được dọn dẹp thật ngăn nắp gọn gàng theo từng khu vực. Nhân viên bán hàng cũng chỉ còn hai người, đó là một cô nơi quầy cashier đang ngồi ngáp uể oải đợi những người khách cuối cùng trả tiền và bóng dáng một người thấp thoáng lởn vởn gần khu quần áo.

Tôi lại quầy trả lại món hàng xong, tiếc rẻ công lao đã vào tiệm nên tôi nhanh chân đi thẳng đến khu áo quần định xem qua cho đã con mắt, nhưng bản tính mua sắm của phụ nữ lại nổi lên, tôi dừng lại ngắm nghía những chiếc áo len mùa đông, rồi quơ tay lựa được sơ sơ ... bốn cái. Tôi nghĩ, chạy vào phòng thử đồ khoảng mười phút chớ nhiêu.

Thế nên tôi mạnh dạn đem bốn chiếc áo đến khu thử đồ, trông coi khu vực này là một bà da trắng già lứa tuổi đã về hưu, dáng bà cao nghều nghệu, mái tóc tuy vàng nhưng đã cũ theo tuổi đời và cả với bụi đời khô cằn lòa xòa trước khuôn mặt chả khác gì mụ phù thủy gian ác trong các phim cổ tích cho trẻ con, khiến tôi ...hổng có cảm tình chút nào. Cái nhan sắc này, chắc rằng ngay cả khi ở lứa tuổi thanh xuân cũng không hề đẹp nếu không muốn nói là xấu. Bà ta nhìn mớ áo tôi ôm trên tay mà chẳng nói gì, có lẽ hơi khó chịu vì bà ta đang thong thả đợi hết giờ làm, thế mà vẫn còn người khách đến vào phút cuối làm cho bà bận rộn. Nhưng chẳng thể làm gì được tôi, bà đếm số áo, rồi đưa tôi tấm thẻ bằng nhựa có ghi số 4 (để chút nữa trở ra tôi đưa lại thẻ và 4 cái áo, làm bằng chứng không mất mát, dối gian). Tôi nhận thẻ rồi ngang nhiên hớn hở đi vào khu thử đồ, không biết sau lưng tôi bà già có liếc xéo hay rủa thầm gì không, thây kệ, khách hàng là Thượng Đế.

Tôi bỗng khựng lại vì không gian trong đây im lặng hoang vắng một cách đáng sợ. Bình thường thì cả chục cái phòng thử rất rộn ràng kẻ vào người ra, tiếng ồn ào người ta thử áo quần và nói chuyện với bạn bè đi theo, kèm theo tiếng hỏi han của nhân viên của tiệm, nhưng giờ đây các phòng thử đóng cửa san sát nhau, im lìm đến rợn người. Các phòng được dựng liền nhau bởi những vách ngăn hở dưới chân khoảng gần đầu gối, các cánh cửa cũng như thế, tôi cúi mình, liếc nhìn dưới sàn, các phòng đều khép kín cửa,lặng tiếng im hơi, không một bóng người và không có một tiếng động nào, tự dưng cho tôi một nỗi sợ mơ hồ, nỗi sợ ...ma quái, muốn quay lui trở ra nhưng hình như có một động lực nào đó bắt tôi đứng chôn chân tại chỗ một vài giây, rồi quyết định đẩy cửa bước vào một phòng thử đồ.

Tôi hít một hơi thật sâu. Đã tới đây rồi, thì vào chớ sao, có gì mà sợ. Vào trong phòng, tôi cẩn thận khóa chốt cửa, móc cái thẻ số 4 lên vách, treo giỏ của tôi vào một góc, rồi chuẩn bị cởi áo jacket để thử đồ. 

Thử đồ là phải ngắm nghía trước sau, phải làm dáng kiểu cọ y như đang có thợ chụp hình trước mặt sẵn sàng bấm hình cho minh.

Tôi say sưa thử cái áo thứ nhất đến cái áo thứ tư, không biết tôi đã ưỡn ẹo bao lâu, ngắm nghía bao lâu rồi mới chịu thay ra mặc lại đồ của mình. Bỗng tôi nghe tiếng ai vừa nói gì đó bên tai. Ai vậy cà? Rõ ràng hồi nãy tôi đã check các cửa đều đóng kín, không có ai trong đây cơ mà? Hay là tiếng suỵt soạt của zipper áo jacket làm cho tôi liên tưởng đến tiếng ai nói?

Tôi tiếp tục kéo zipper, thật nhẹ, để tránh gây tiếng động, thì một lần nữa, tiếng nói ấy trở lại, lần này cũng như cơn gió thoảng, như quanh quẩn nơi tôi đang đứng.

Ôi chu choa, đang mùa Halloween đây mà, đừng có hù dọa tôi chớ, vả lại tôi từng nghe nói các ma nữ thường xuất hiện ở các khu shopping lúc đêm hôm vắng vẻ, chắc là để nhớ lại thời thanh xuân huy hoàng. Tôi toát mồ hôi hột, không cần suy nghĩ, không cần phân tích gì nữa, vội vã kéo zipper của jacket trở lại, với tay lấy cái giỏ, ôm mớ áo mở cửa thì đúng lúc gương mặt nhăn nheo của bà “phù thủy” thò vào làm tôi hết hồn. Thấy tôi có vẻ hoảng sợ bà ta ríu rít:

-    Cô thử đồ xong rồi hả? Tôi xin lỗi đã làm cô giật mình.

Tôi vẫn còn run rẩy, tim đập mạnh và chắc chắn mặt mũi tôi xanh lè, cũng may tôi chưa kịp la lên: “Bà là người hay là ... ma!?”

Thấy tôi chưa bình tĩnh lại, bà ta nhẹ nhàng nói:

- Cô có biết là đã tới giờ cửa hàng đóng cửa không, tôi và cô ngoài kia chỉ đợi có một minh cô.

Tôi hiểu ra vấn đề, vội... xuống nước:

- Ủa...ủa...mấy giờ rồi? Tôi cứ tưởng còn sớm mà...

- 6 giờ 15 phút rồi. Tôi đã đứng ngoài phòng thử đồ nhắc nhở cô 2 lần, tưởng cô nghe rồi chứ.

Trời, thì ra trong lúc tôi đang mê man thử đồ nghe tiếng nói bên tai là lúc bà “phù thủy” nhắc nhở vậy mà tôi hoang tưởng tiếng ma quỷ réo gọi, nào có chú ý đến giờ giấc. Ôi, mùa Halloween với những hình ảnh ma quỷ chưng bày ngoài đường phố và tại tiệm này đã ám vào người tôi kể từ lúc tôi bước vào cửa tiệm rộng lớn nhưng vắng người vì sắp tới giờ đóng cửa.

Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ bà “phù thủy” già (có xấu xí gì đâu nà) và bỗng thấy giọng nói bà dịu dàng nhã nhặn quá chừng. Tôi líu ríu:

- Xin lỗi bà tôi không để ý.

Bà lại nở nụ cười:

- Không sao, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn phải chờ đợi những khách hàng cuối cùng như cô hôm nay.

Thì ra người khác đẹp hay xấu, dễ ghét hay dễ thương là do cái nhìn của mình, cái tâm trạng buồn vui của mình. Tôi vừa vô duyên vừa xớn xác chỉ nhận định người khác qua vẻ bề ngoài. Đằng sau cái nét mặt đăm đăm tưởng như khó tính, cái dung nhan không đẹp của bà nhân viên già tôi đã nhận thấy một con người mềm mỏng, kiên nhẫn, và lịch sự. Bởi không phải lúc nào cũng “nhìn mặt mà bắt hình dong” được đâu nhé.

Tôi trao mớ quần áo cho bà:

-     Tôi thích 2 cái áo nhưng trễ giờ rồi để ngày mai tôi sẽ đến mua.

           -     Khoan khoan! Tôi phải đếm đủ số áo nữa chứ, cái thẻ số 4 hồi nãy đâu rồi?

Tôi định về nhanh trả lại thời gian cho họ nhưng vẫn phải đứng lại:

-    Tôi để quên cái thẻ trong phòng thử đồ rồi sao? 

Tôi và bà ấy giũ từng cái áo vẫn không tìm thấy cái thẻ, tôi nói:

-      Cái thẻ thì quan trọng gì chứ? Bà đã đếm đủ 4 cái áo rồi còn gì!

-      Đúng vậy, không phải là tôi không tin cô, nhưng tôi cần cái thẻ cất vào tủ, ngày mai người làm ca sáng sẽ không bị thiếu, khỏi càm ràm tôi, cô làm ơn vào trong lấy cái thẻ giùm nhe.

 

Tôi đi vào phòng thử đồ, bà ấy cũng đi theo, và lạ kỳ thay không còn cái thẻ nữa. Nó biến đi đâu vậy cà, chẳng lẽ lại đổ thừa cho... ma Halloween?

Bà phù thủy, í lộn, bà nhân viên hỏi tôi:

-          Cô có chắc là phòng này không?

-          Tôi bảo đảm 100% vì tôi có một thói quen bất di bất dịch mỗi khi đi thử đồ ngoài shopping hoặc khi dùng nhà vệ sinh công cộng, là tôi luôn luôn bỏ qua phòng số một, vào phòng số 2, nếu phòng số 2 có người thì vào phòng số 3, cứ thế ...

Bà cười hài hước:

-          Cô có mối thù với ... số 1 hở?

-          Dĩ nhiên là không, tính của tôi là vậy đó, tôi cũng chả biết giải thích thế nào, nhưng mà chuyện cái thẻ giờ tính sao, cũng quá giờ lắm rồi.

-          Thôi chúng ta phải ra về thôi, chuyện cái thẻ tôi sẽ viết notes cho ca sáng, rồi họ sẽ tìm ra đâu đó hoặc thay cái mới. Chúc cô một buổi tối an lành.

Tôi mỉm cười, thật lòng hối hận, cám ơn bà “phù thủy”. Ra tới ngoài gặp cô cashier tôi lại ráng nở một nụ cười hối hận thứ hai, cô ấy đang đứng bên quầy với cái giỏ xách tay để bên cạnh, chỉ đợi tiễn tôi ra khỏi cửa là cô ra về.

- Tôi xin lỗi nhé. Vì tôi mà chiều nay cô về muộn một chút.

-  Không có chi.

Về đến nhà, tôi vào bếp uống ly nước ấm, rồi lên lầu vào phòng, quăng cái giỏ lên giường, thay quần áo, và bất ngờ, chiếc thẻ số 4 rớt ra từ cái giỏ, nằm chình ình trên giường . Vậy là trong lúc vội vã gom đồ chạy ra ngoài phòng thử đồ, tôi đã bỏ cái thẻ vào giỏ mà không biết. Tôi lẳng lặng đi đánh răng rửa mặt, không dám kể cho ông xã nghe chuyện vừa xảy tại tiệm Marshalls kẻo bị chồng mắng với 3 tội danh, thứ nhất là lúc nào cũng mê shopping, thứ hai là đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài, chồng sẽ nói em mà là quan tòa thì bảo đảm khối người sẽ bị xử oan và thứ ba là hay hoang tưởng, mê tín dị đoan, nhìn đâu cũng thấy... ma.

Trước đây có một lần trên đường đi làm về buổi tối, khi lái xe qua khu bệnh viện bỏ hoang mà người xung quanh gọi là bệnh viện “ma”, trong xe của tôi bỗng nhấp nháy dấu hiệu nhắc nhở cài seat belt mặc dù trên xe chỉ có một mình tôi và tôi đã cài seat belt ngay từ khi rời chỗ làm, vậy dấu hiệu nhắc nhở seat belt là dành cho ghế trống bên cạnh ghế người lái là tôi, mà tôi có chở ai đâu, tại sao vừa tới khu bệnh viện hoang “nó” mới nhắc nhở, nghĩa là có “ai đó” đã chui vào xe ngồi cạnh tôi chăng? Tôi hoảng hồn, lo sợ, đọc kinh tá lả, cầu Chúa cầu Phật cầu Thánh Ala, cầu xin “ai đó” đang đi nhờ xe tôi làm ơn xuống xe cho tôi về nhà, sau đó dấu hiệu seat belt liền biến mất. Về nhà không những không được ông xã an ủi mà còn bị mắng vì tội “mê tín dị đoan”, rằng “chiếc xe nào mà chẳng có đôi khi bị lỗi kỹ thuật, dấu hiệu này kia bất ngờ xuất hiện là chuyện bình thường, lại đúng lúc em đi qua bệnh viện hoang mà thôi, chẳng có ma cỏ gì sất!”

Ai tin hay không tin chuyện ma quỷ nhưng hàng năm mùa Halloween cả vùng Bắc Mỹ cùng chào đón chuyện quỷ ma, người lớn làm tiệc tùng khiêu vũ và trẻ em thì hớn hở sắm sửa quần áo hóa trang, bày biện trang hoàng những hình ảnh máu me, kinh hoàng rùng rợn cho đêm Halloween.

Nhớ hồi mùa dịch Covid phải ngưng chuyện đón Halloween một năm, chồng tôi đề nghị:

-          Ngày xưa con mình còn bé, nhân tiện đưa chúng đi Trick or Treat thì nhà mình cũng phát bánh kẹo cho vui, nay chúng đã lớn hết rồi, chúng ta cũng nên dẹp bỏ vụ Halloween, cứ nghĩ đến mấy ngày leo trèo lên nóc nhà, các cành cây, bày biện trang hoàng mỗi mùa Halloween anh thấy ớn và mệt quá.

Tôi trả lời ngay tức thì:

-          Nói vậy mà nói được à, con chúng mình lớn, nhưng vẫn còn những đứa trẻ trong xóm hàng năm chỉ mong chờ đêm Halloween để được vui vầy với chúng bạn, đi từng nhà trong khu phố, gõ cửa xin kẹo, dù có khi mưa gió lạnh lẽo hoặc lất phất tuyết rơi mà chúng vẫn hăng say vui vẻ lên đường. Nội nhiêu đó thôi cũng đủ để thương, đủ để chúng ta “hy sinh” chút thời gian tiền bạc và công sức, góp vào niềm vui chung của đêm lễ hội truyền thống Halloween. Vợ chồng Rob và Connie đối diện nhà mình từng bị lũ trẻ đạp đổ một số cây cảnh trong sân khi Trick Or Treat, cô vợ xót của không muốn tiếp tục phát kẹo năm sau, anh chồng kịch liệt phản đối, bảo rằng tụi nhỏ ham vui phá phách chút đỉnh, mình sẽ rút kinh nghiệm bày biện sân cỏ gọn gàng, chứ dứt khoát không thể bỏ phong tục này, vì không muốn tụi nó thất vọng. Đó, anh thấy chưa, có ai nỡ lòng nào tước đi niềm vui của trẻ thơ!?

Thực ra vì ông xã tôi quá bận rộn, nhiều khi việc làm ở tiệm còn phải đem về nhà, nên hầu như không có đêm Halloween nào cùng tôi ngồi phát kẹo cho lũ trẻ, còn mấy mẹ con tôi vẫn say mê dù nay chúng đã lớn. Hồi con gái còn học Đại Học, tối Halloween phải lên lầu học bài mà thỉnh thoảng vẫn text phone tôi ở dưới lầu: “Mẹ ơi, được bao nhiêu đứa đến xin kẹo rồi, nhà mình còn đủ chocolate không?”.  Có năm trời mưa gió lạnh, chỉ lác đác vài nhóm đến gõ cửa, tôi vẫn kiên nhẫn sáng đèn tới khuya, con gái xuống cùng tôi, hai mẹ con vừa ăn chips, uống hot chocolate, mong đón những vị khách cuối cùng để chúng tôi sẽ thưởng cho chúng không phải một vài cái kẹo mà là cả một hai vốc thiệt bự, bõ công chúng lặn lội trong gió lạnh ướt át và cũng để thanh toán hết mấy thùng kẹo còn ế ẩm.

Tôi miên man nghĩ suy trong khi chờ đợi giấc ngủ thảnh thơi không mộng mị. Ngày mai, tôi sẽ trở lại tiệm Marshalls để trả lại cái thẻ, và mua 2 cái áo tôi đã thích, coi như lời xin lỗi âm thầm với bà nhân viên già mà trong lúc bực bội tôi đã phong tặng danh hiệu “mụ phù thủy”.

Rồi tôi sẽ đi shopping mua kẹo bánh và vài đồ trang trí trước sân nhà cho mùa Halloween thay thế cho một số vật dụng đã cũ từ những năm trước. Tôi rất thích tập tục đáng yêu này và không năm nào quên, vì tôi biết chắc lũ trẻ trong xóm sẽ rất buồn, rất ngỡ ngàng nếu nhà tôi tắt đèn tối thui, sân nhà im ắng không trang hoàng nhộn nhịp, và chúng sẽ nhớ khoảnh khắc nhìn thấy cô chủ nhà ... không còn trẻ lắm (là tôi) mở cánh cửa, phát kẹo cho chúng trong bộ đồ costume của một “bà tiên” vui tính nhất trần đời!


Edmonton, Tháng 10/2023

KIM LOAN 
 
 
"Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                               -Luke 23:34-

tl_thu.jpg

MÙA THU BỎ LẠI

 

Tôi đi bỏ lại một trời thương

Ngày tháng vui tươi dưới mái trường

Thu sang êm ái ngoài cửa lớp

Cô bé học trò biết vấn vương

 

Dòng sông ký ức tươi đẹp quá

Tôi ngụp lặn mình trong thoả thuê

Cánh diều mộng ước chiều no gió

Mây trắng bồng bềnh cơn mộng mê

 

Tôi đi bỏ lại một phố xưa

Ngỏ hẻm lung linh ánh đèn khuya

Lá rơi hay bước chân người đến

Giấc ngủ chập chờn tôi ngẩn ngơ

 

Chiều buông bên giàn bông giấy đỏ

Heo may về cánh mỏng mong manh

Có tôi thổn thức theo cơn gió

Có người cùng tôi chờ trăng lên

 

Ra đi chiều thu vàng giăng mắc

Chẳng kịp trao ai lời giã từ

Người vẫn theo tôi bằng đôi mắt

Lặng lẽ, trách tình tôi hững hờ

 

Tôi đi bỏ lại thuở yêu đương

Căn nhà xưa, và những con đường

Tuổi trẻ, mối tình đầu trong sáng

In dấu trong tim chút mộng thường

 

Tôi đi bỏ lại một quê hương !!

 

Edmonton, Tàn Thu 2023

KIM LOAN

 

 

ĐI DỰ TIỆC CƯỚI

Hồi đầu tháng, ông xã tôi nhắc:

-         Cuối tháng này tụi mình đi đám cưới nhé em.

-         Em biết rồi, đám cưới cậu pharmacist trong tiệm anh chớ gì, mà em quên hỏi, cậu ấy người Việt hay Tây?

-         Cậu ấy là dân gốc Afghanistan, lấy vợ là người da trắng, cũng là nhân viên trong tiệm, nói chung đây là đám cưới mà cả cô dâu chú rể đều là “lính” của anh, cho nên vợ chồng mình cố gắng đi chung vui với họ. Mà em hỏi chi vậy?

-         À, nếu là đám cưới người Việt thì mình sẽ...thong thả chút xíu.

-         Đây là đám cưới Tây, hơn nữa anh là boss của họ, mình không những đến đúng giờ mà  nên đi sớm để bày tỏ sự quan tâm, trân trọngngày vui của hai đứa.

-         Em biết rồi, anh khỏi phải nhắc.

Thật ra, anh ấy nhắc không thừa và không oan tí nào, mà cũng đâu phải lỗi tại tôi, chỉ tại các tiệc cưới Người Việt Nam luôn luôn trễ giờ hơn cả tiếng so với giờ mời trên thiệp, đã từng làm bụng tôi đói cồn cào, choáng váng mặt mũi xanh lè như tàu lá chuối. Từ đó, hễ đi ăn cưới dân Việt là tôi ăn trước chút snack, và đến trễ khoảng mười lăm phút hoặc nửa tiếng. Chồng bảo tôi qua xứ này rồi mà chưa học hỏi thói quen đúng giờ của người ta, nhưngkhổ quá, dù tôi đã vài lần đến đúng giờ thì tình trạng là “vũ như cẩn”, ngồi ngáp dài ngáp ngắn mỏi cả lưng, nên tôi chọn kiểu “lưng chừng”, đi trễ chút xíu nhưng vẫn trong nhóm đến sớm, đợi chờ những người đến sau.

Thiệp mời cocktail 6 giờ và tiệc chính thức 7 giờ, vì chồng tôi còn bận làm việc nên chúng tôi chọn giờ vào tiệc, có mặt lúc 6 giờ45 phút, khi mọi người đã xong phần cocktail đang ngồi yên vị nhỏ to chuyện trò trong tiếng nhạc dịu êm chờ giờ khai mạc. Chúng tôi chào hỏi vài người xung quanh, quan sát không gian nơi tổ chức tiệc, được một lúc thì người MC bước lên podium thông báo, giờ khắc quan trọng đã đến, đôi tân lang sẽ xuất hiện trong giây lát. Mọi người cùng im lặng, hướng ra ngoài cửa, tôi nhìn đồng hồ, đúng 7 giờ, hay nói chính xác hơn là còn 3 phút nữa mới đúng 7 giờ!

Tôi nhớ có lần đi dự một đám cưới người Việt trong  cộng đồng, vợ chồng tôi như thường lệ rời nhà đúng giờ ... mời trên thiệp (nghĩa là sẽ đến nơi trễ mười lăm, hai mươi phút). Ra đường chồng tôi mới nhớ xe gần hết xăng, tôi bảo:

-         Còn sớm mà anh, cứ từ từ đi đổ xăng cho đầy.

Đổ xong xuôi, xe chạy bon bon hướng ra highway về dưới phố, tôi nhẩn nha nghe nhạc và soi gương trên xe, bỗng phát hiện ra tôi đã quên tô son môi, vì trước đó bận rộn thử đi thử lại mấy cái áo đầm để chọn một cái ưng ý, rồi chồng tôi thúc giục sợ trễ nên tôi sơ sót trong lúc trang điểm chăng? Bình thường trong bóp tôi luôn có cây son, và chai nước hoa nhỏ, vậy mà bữa đó trời xui đất khiến tôi đổi chiếc bóp khác, rồi lại quên bỏ son vào, báo hại tôi phải năn nỉ chồng:

-         Anh ơi, làm ơn quay về nhà, em quên cây son rồi.

Chồng tôi cằn nhằn:

-         Mình đã trễ 15 phút rồi đấy.

-         Ôi, chạy về nhà thì mình trễ nửa tiếng, cũng vẫn là ... sớm, anh tin em đi.

-         Anh biết, nhưng thà mình đến đó ngồi chờ, còn hơn là vác cái mặt đến quá trễ, anh không làm được.

-         Thì dù sao cũng chỉ trễ... nửa tiếng thôi mà, đôi môi em tái nhợt thế này thà em chết còn sướng hơn đó. 

Chồng đành phải đưa tôi về, tôi chạy lên phòng tô son, cẩn thận bỏ cây son vào bóp, rồi vội vàng ra xe, trực chỉ đến tiệc cưới. Nhưngthật không ngờ, “họa vô đơn chí” là có thật, nghe nói ngay trên giữa highway vừa có một tai nạn, hai xe tông ngược chiều vào nhau, đầu xe bể tan tành, xe cứu hỏa, ambulance và xe cảnh sát nhốn nháo chặn đường chỉ còn 1 lane cho mỗi bên. Chúngtôi khổ sở nhích từng đoạn đường, cuối cùng đến nơi parking trễ 1 tiếng 15 phút. Hai vợ chồng hối hả đi vào nhà hàng tiệc cưới, chẳng dám nhìn ai vì xấu hổ, nhưng ô kìa, tiệc vẫn chưa bắt đầu, người ta vẫn đứng ngồi lai rai cụng bia, tán dóc. Chị Bảy, được nhiều người Việt ở thành phố tặng cho danh hiệu “chuyên gia đi trễ” của cộng đồng, luôn luôn có mặt sau cùng ở các buổi tiệc, thấy tôi liền chạy đến chào rồi mỉm cười:

-         Chị tưởng chị là “nữ hoàng đến muộn” mà hôm nay vẫn ... sớm hơn em.

Tôi lí nhí:

-         Bị kẹt xe, tai nạn trên highway chị ơi.

-         Vậy à, nhưng em yên tâm , em vẫn còn sớm hơn ... nhơn vật chính là cô dâu.

-         Có chuyện gì hở chị?

Chị Bảy lắc đầu, thở dài:

-         Thiệt là xui xẻo tận mạng, hồi trưa đi chụp hình cưới ngoài park , cô dâu vướng víu đuôi áo soa rê và giày cao gót, bị té dập mặt xuống bãi đá nhọn, máu me lênh láng, đưa đi cấp cứu, mới được xuất viện cách đây một giờ, đang đi tiệm make up và làm tóc lại toàn bộ.

Dù chúng tôi thoát nạn vượt qua “danh hiệu nữ hoàng”đi trễ của chị Bảy, ông xã nhất quyết từ nay phải luôn đến đúng giờ, dù là tiệc của người Việt, người da trắng da đỏ hay da màu.

Tiếng nhạc xập xình đưa tôi về với tiệc cưới hiện tại. Ôi, đám cưới Tây có khác, ngoài việc giờ giấc y boong, là những thủ tục giới thiệu cha mẹ hai bên rất gọn gàng (không dài dòng, diễn văn lê thê), và tuyệt nhiên không có tiếng cụng ly ồn ào “dzô dzô chăm phần chăm”, nhất là khi cô dâu chú rể cùng đại diện hai họ lên phát biểu, cả gian phòng chăm chú lắng nghe, cùng những tràng vỗ tay không dứt mừng cho đôi uyên ương.

Đến lúc xếp hàng đi lấy thức ăn kiểu buffet, ông xã tôi dừng lại nói chuyện với ba má chú rể, họ mặc trang phục Afghanistan trang trọng, vui vẻ đưa dĩa cho từng vị khách, nhưng lại đượm buồn khi nói về sự thiếu vắng một số thân nhân còn ở lại Afghanistan kể từ ngày quân Taliban tiến về “giải phóng Kabul” cách đây hơn hai năm.

Làm sao tôi quên được ngày đó, vì cũng là ngày funeral của Ba tôi. Ngày 16 tháng 8 năm 2021 khi đại gia đình chúng tôi trở về nhà ăn tối sau khi an táng Ba yên nghỉ tại nghĩa trang Arlington, Texas, vừa xem tin tức nóng hổi những hình ảnh quân Taliban tràn ngập thủ đô Kabul trong khi nhiều người dân hoảng hốt “chạy giặc”, cố bám theo chiếc máy bay sắp cất cánh đưa những người Afghan tỵ nạn rời khỏi quê hương.

Có khác gì sư hỗn loạn ngày 30 tháng 4 năm xưa khi Sài Gòn bị “giải phóng”? Những khuôn mặt căng thẳng, lo sợ, bằng cả mạng sống muốn chạy khỏi quân khát máu đang thâu tóm quê hương. Rồi hình ảnh đám quân Taliban ùa vào dinh Tổng Thống Ashraf Ghani (lúc ấy đã bay ra khỏi nước, hiện đang tỵ nạn ở Ả Rập), chúng sờ mó chiêm ngắm các vật dụng sang trọng trong dinh cũng như những máy móc hiện đại tối tân với những cặp mắt ngưỡng mộ đầy kinh ngạc (tội nghiệp chúng bao năm ở rừng rú hang động, nào được tiếp xúc với văn minh loài người). Cũng y chang như những câu chuyện chúng ta thường nghe dân Sài Gòn truyền tai nhau về sự ngây ngô (mà khoái nổ) của các anh cán ngố Cộng Sản ViệtNam.

Lúc ấy, tôi đang học tiểu học trường Đồng Tháp, trước đây là khu quân đội của chính quyền VNCH, xung quanh trường học là những khu cư xá sỹ quan, các ngôi nhà lầu đúc một tầng, có lan can xinh xắn trước nhà, và mảnh sân nhỏ trồng cây tỏa bóng mát rất đẹp. Sau 1975, các gia đình cán ngố dọn vào ở. Chèn đéc ơi, sân trước chúng rào lại, chặt bỏ những cây điệp, cây trứng cá, thay vào đó là trồng rau muống, nuôi lợn “cải thiện đời sống”.  Chưa hết đâu nhé, balcony thơ mộng với những chậu hoa leo cũng bị chúng vứt bỏ, rồi giăng dây kẽm phơi quần áo màu xanh ...“bộ đội”, đôi khi còn treo cả nón cối và dép râu ở ngoài hiên nữa cơ, cứ như sợ ngườita không nhận ra “bố mày là ai” hay sao á!

(Ủa, hình như tôi đang đi ... lạc đề!? Thôi dừng lại ở đây, kẻo viết nữa thì bài này sẽ bị/được xếp qua bài chủ đề tháng 4 Đen năm tới)

Nhạc lại đươc trỗi dậy, đèn trong khán phòng tắt hết, mọi người ra sàn nhảy theo điệu nhảy truyền thống của Afghanistan rộn ràng. Các chàng trai và thiếu nữ múa xung quanh dàn trống, dâng các rổ quà cho đôi uyên ương theo đúng phong tục. Vợ chồng tôi cũng bước ra tham gia, gia đình bạn bè da trắng phía bên cô dâu cũng hòa vào đám đông nhảy nhót, khung cảnh “đa văn hóa đa màu da” thật đẹp. Chúng tôi ngắm các em gái nhỏ mặc đầm kiểu Afghan sặc sỡ, các em thiếu niên hớn hở rạng ngời, các bà các cô và các người lớn tuổi nhìn đám con cháu cũng vui lây, và trong khóe mắt của họ thỉnh thoảng chợt rươm rướm nỗi sầu vì thương nhớ những thân nhân, đồng bào máu mủ còn kẹt lại quê nhà với chế độ độc tài Taliban.

Trời ơi, chưa có đám cưới (không phải người Việt) nào làm cho tôi có nhiều cảm xúc vui buồn như cái đám cưới này!

Edmonton, Tháng 10/2023

KIM LOAN

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

LẠI CHUYỆN THẦY TRÒ

Hồi ở trại tỵ nạn Thailand, tôi có lúc đã quay cuồng “chạy sô” đi học 4 thứ tiếng.

Thứ nhất, là tiếng Thailand. Vì nghe bà con rỉ tai bảo nhau, nếu chẳng may bị rớt thanh lọc không được đi định cư nước thứ ba, thì dứt khoát không quay về Việt Nam mà trốn ra ngoài Thái sinh sống, làm ăn rồi lấy chồng Thái để... trả thù dân tộc và để…gỡ lại vốn 3 cây vàng tiền vượt biên. Và trước mắt là phải biết mấy câu tiếng Thái để khi đi phỏng vấn thanh lọc mà chào hỏi mấy anh chị luật sư người Thái.

Thầy dạy tiếng Thái là người Việt tỵ nạn, nhưng có thời gian dài sinh sống ở vùng biên giới Cambodia-Thailand nên rành luôn hai tiếng đó. Lớp học hơn chục người, vui như Tết, vì có gì thắc mắc cứ hỏi bằng tiếng Việt, thầy tận tình chỉ dẫn . Mỗi buổi học xong, tôi và nhỏ bạn hớn hở đi thẳng ra khu chợ trong trại để thực tập tiếng Thái với mấy chế bán hàng, dễ nhất là “Sawa đi kha” (Chào anh/ chị) và “khap khun” (cám ơn) rồi cười đau cả bụng khi nói sai nói lộn các câu khác, hiểu ra ý tùm lum tà la.

Thứ hai, là tiếng Tàu. Dĩ nhiên, chúng tôi chẳng muốn qua China định cư, nhưng dân Tàu “đông hơn quân Nguyên”, có mặt khắp các ngõ ngách trên trái đất này, nên cứ học chút tiếng Tàu để đấy, phòng xa, thừa còn hơn thiếu. Ông Thầy này là người Việt gốc Tàu Chợ Lớn nhưng chả hiểu sao không nói rành tiếng Việt, báo hại chúng tôi phải nói chuyện với Thầy bằng tiếng Anh hoặc Tiếng Tàu mới lõm bõm cấp “abc”, mỏi cả miệng. Phải nói không ngoa rằng tiếng Tàu là tiếng khó học và phức tạp nhất hành tinh này, nội bảng chữ với các hình phải nhớ là nhức cả đầu nên chỉ mới hơn hai tuần, chúng tôi đành bỏ cuộc.

Thứ ba, là tiếng Pháp. Nước Pháp thì có liên quan gì đâu nà!? Có lẽ do ảnh hưởng một thời nghe ca sỹ Thanh Lan và Elvis Phương hát các bài nhạc Pháp lời Việt mà mê mẩn, và đọc sách báo mơ mộng về kinh đô ánh sáng, có tháp Eiffel, có dòng sông Seine, có vườn Luxembourg lãng mạn trữ tình. Nhưng lý do quan trọng nhứt, là …thầy giáo dạy tiếng Pháp là chàng người Cambodia lai Tàu, cao to, trắng trẻo, đeo cặp kiếng trắng thư sinh, đẹp trai như tài tử Hàn Quốc Hyun Bin.

Thầy này, nói đúng hơn, là đồng nghiệp nhân viên Cao Ủy giống như tôi, nhưng tôi làm ở Văn Phòng dành cho người tỵ nạn Việt Nam, còn hắn thì ở văn phòng cho người Lào Hmong và Cambodia. Những buổi trưa im vắng rảnh rỗi, ít dân tỵ nạn lên hỏi han chuyện giấy tờ, tôi ngồi từ văn phòng của mình nhìn qua cửa sổ về phía bên kia, hắn cũng tươi cười vui vẻ, rồi ra hiệu cho tôi, đại khái là hắn đi qua ngồi nói chuyện cho vui, nhé?! Tôi gật đầu, và hai đứa chúng tôi ríu rít chuyện trò, với mục đích ban đầu và duy nhất là “ practice English” lẫn nhau, riết rồi ngày nào cũng “tám”, lôi cả chuyện gia đình, chuyện quá khứ ra kể lể vì hắn và tôi cùng tuổi.

 

Hắn bảo, hắn đang học trong trường huấn luyện pilot dân sự với ước mộng đưa khách du lịch bay lượn trên bầu trời, nhưng rồi ba má hắn ra lệnh cả gia đình phải vượt biên qua biên giới Thailand vào trại tỵ nạn, hy vọng sẽ được định cư bên Mỹ, đổi đời .

Khi ở Cambodia hắn được học trong trường nói tiếng Pháp nên hắn khá sành sõi và dụ dỗ tôi học thêm ngôn ngữ này, hắn tình nguyện mời tôi vào lớp học miễn phí, khỏi phải đóng tiền như các học viên khác. Thế là từ đó, các buổi nói chuyện của chúng tôi tại văn phòng Cao ủy thêm rộn ràng vì có phần “practice French” mà chủ yếu là “thầy” khảo bài tôi, và tôi thì luôn luôn “hổng thuộc bài” để hắn lại phải kiên nhẫn giảng giải thêm. Bà boss văn phòng Cao Ủy vui tính hiểu chuyện, thỉnh thoảng mang bịch bánh qua bàn cho tôi bồi dưỡng vì “học hành căng thẳng”, nhưng khi còn lại một mình tôi, bà nháy mắt hỏi:

-          Hai đứa bay có ... yêu nhau không vậy? Xứng đôi vừa lứa lắm đó.

 Tôi cũng nháy mắt, đáp lời bà:

- Tôi hổng có cảm giác đó, còn hắn thì ... ai biết đâu nà!

Tuy vậy, lớp học tiếng Pháp cũng chỉ được vài tháng vì trại có biến cố biểu tình, toàn bộ dân Việt tỵ nạn bị chuyển qua trại Sikiew, còn dân Cambodia và Hmong vẫn ở lại trại cũ, chúng tôi “thầy đi đường thầy, tôi đi đường tôi”, chẳng còn dịp nào gặp lại nhau.

Thứ tư, là như mọi người khác trong trại, tôi phải học tiếng Anh.

Nghe thiên hạ đồn có “bác” nào đó ra đi tìm đường cứu nước, rồi phiêu bạt sang trời Tây làm phụ bếp trên tàu, nói được 29 thứ tiếng, tôi bán tín bán nghi, vì lúc tôi học cùng một lúc 4 thứ tiếng đã mệt bở hơi tai, tẩu hoả nhập ma, đêm ngủ nói nhảm liên hồi,  mệt mỏi bơ phờ may mà chưa…phát điên.

Dù sao thì sau khi rơi rớt ở các lớp học tiếng Thái, tiếng Tàu, tiếng Pháp, thì tôi vẫn miệt mài ở các lớp Tiếng Anh. Suốt bốn năm ở trại, tôi học với vài Thầy khác nhau theo từng trình độ, để rồi năm cuối cùng tôi đủ mạnh dạn vào trường ESL làm cô giáo dạy lớp Tiếng Anh vỡ lòng cho đồng bào tỵ nạn. Kỷ niệm với các Thầy thì nhiều lắm, nhưng có một kỷ niệm tôi nhớ hoài.

Hôm ấy đang đi lang thang trong trại tỵ nạn Panatnikhom, tôi gặp lại người bạn đồng hương Gò Vấp. Hắn hỏi tôi có đi học Anh Văn ở đâu chưa, tôi trả lời, thì cũng có, nhưng trình độ lớp hơi thấp, tôi muốn học lớp cao hơn chút. Nghe vậy, hắn giới thiệu tôi vào một lớp Anh Văn ngay khu nhà hắn. Tôi hỏi giá cả, hắn bảo, tỵ nạn mà, có nhiêu trả nhiêu, Thầy giáo rất linh động vì Thầy cũng là thân phận tỵ nạn.

Rồi tôi theo lời chỉ dẫn của hắn đến lớp học, chào Thầy, rồi hỏi han mấy người chung lớp, họ cũng nói giống bạn tôi, rằng giá chung chung là như thế, nhưng có tiền thì đóng, không có thì tháng sau, có lúc nào trả lúc đó, hoặc trả theo khả năng, tỵ nạn mà. (Nghe thấy thương làm sao ba chữ “tỵ nạn mà!”). Vì thế tôi an tâm đến lớp mỗi ngày, chờ đến đầu tháng có thư có tiền bên Mỹ gửi qua, tôi sẽ thanh toán cho Thầy.

Đến ngày có tiền, tôi nhớ mấy lần thấy mấy chị trong lớp cứ xòe mấy tờ tiền đưa thẳng cho Thầy, đôi khi làm Thầy hơi mắc cỡ khi nhận tiền. Vốn bản tính lâu lâu thích làm chuyện “khác người”,  nghĩ ra “fancy things” cho đời tỵ nạn bớt nhàm chán, tôi chạy qua nhà kế bên xin cái phong bì vì tôi hết phong bì chưa kịp mua. Nhưng chị hàng xóm không có phong bì trắng, chị lục lọi một hồi chỉ còn loại màu hồng, có hoa lá cành viền xung quanh, nhìn cũng đẹp. Thôi thì có còn hơn không, vả lại cũng tới giờ đến lớp, không còn thời giờ chạy ra chợ mua phong bì khác như ý muốn.

Tôi bỏ tiền vào chiếc phong bì màu hồng sạch sẽ, lịch sự, thơm tho rồi đến lớp. Tan học, chờ mọi người về hết, tôi nán lại, trao cho Thầy phong bì. Lúc ấy tôi chợt thấy màu hồng cũng hơi... sến súa (sến nhứt là chùm hoa lá cành in bên ngoài nữa chớ), nhưng đã lỡ rồi, nên tôi bỗng dưng bẽn lẽn, nói lí nhí :

-         Em gửi Thầy cái này!

Thầy hơi bất ngờ, nhìn tôi ngại ngùng, mặt đỏ bừng, không nói nên lời, tay run run đón lấy chiếc phong bì. Tôi cũng không nghĩ tình huống lại như thế, chẳng biết phải giải thích tại sao dùng phong bì, và chẳng biết nói sao về cái phong bì màu hồng rất ư là ...cải lương, tôi bèn quay đi, thì Thầy vội vàng giữ tôi lại, nhìn tôi, đôi mắt thiết tha, rồi ấp úng:

-          Em viết gì trong đó cho tôi vậy, thơ hả? Nghe nói em biết làm thơ, và tôi cũng rất thích Thơ. 

Giờ thì đến lượt tôi bất ngờ, mới thấy cái bản tính “fancy” của tôi không phải lúc nào cũng hay ho. Biết thế cứ đưa tiền ra như mọi người khác cho xong, khỏi bày vẽ “phong” với chả “bì”. Nhìn vẻ mặt bối rối, lúng túng của Thầy, tôi thấy có lỗi, dở khóc dở cười, đành lấy hết can đảm trước khi bước đi, nói rất nhanh, một sự thật  phũ phàng trần trụi:

 

-         Dạ không, là tiền học phí tháng này đó Thầy!

 

Edmonton, tháng8/ 2023

KIM LOAN

_________________

KimLoan_Hai dien.JPG

Hiện đại là… hại điện!

 

Thời buổi công nghệ tiến triển như hiện nay, lợi ích cũng có mà lợi hại cũng kèm theo y như combo không thể thiếu. Ai dùng facebook, yahoo đều biết lúc này chuyện kẻ gian (mà chúng ta gọi là hackers) xâm nhập tài khoản của chúng ta, rồi giả mạo là chủ nhân, liên lạc chỗ này chỗ kia trong friend list để xin xỏ, lừa lọc tiền bạc, rồi dính chùm nhau mắc lừa, hackers lại tung hoành đi phá hoại tiếp những người khác.


Cách đây vài tháng, bỗng dưng cô em quen biết bên Texas nhắn trên facebook messenger hai chữ gọn lỏn: “Hi chị”. Với nhiều kinh nghiệm được bạn bè chia sẻ trên facebook tôi thắc mắc ngay vì tôi với cô em này chưa bao giờ chuyện trò với nhau cả trên facebook lẫn ngoài đời. Cô em này, nói cho rõ ngọn ngành, là con dâu của một gia đình hàng xóm cũ của tôi từ bên Việt Nam, hiện nay họ định cư bên Texas. Có nhiều lần tôi qua đó thăm cả gia đình này, có cả dâu, rể và các cháu, nhìn nhau chào nhau mỉm cười, rồi sau đó “gặp” trên facebook thì kết “bạn” dây mơ rễ má, lâu lâu bấm like những tấm hình cho vui, vậy thôi. Do vậy, chẳng có lý do gì cô em này muốn nói chuyện riêng với tôi, nhưng dù sao tôi cũng muốn thử hacker, tôi đáp lại:
– Chào cưng! Có chuyện gì không cưng?
Nó đáp lại liền:
– Chị ơi, facebook của em bị trục trặc, không vào được, họ hỏi em có vài người thân quen vào link dưới đây xác nhận giùm em nha.
Thôi rồi, đích thị là kẻ gian, nhưng tôi chưa trả lời, bèn nhắn messenger chồng của cô em này:
– Em ơi, vợ của em mới nhắn chị mở link gì đó, phải không em?
– Không chị ơi! Facebook của vợ em bị hacked rồi, chị cẩn thận nhe.
Không còn gì để nghi ngờ nữa, tôi sẽ tìm cách ... xử kẻ gian này. Thông thường, theo như một số người quen trên facebook kể lại, khi xác định là hacker, họ bắt đầu nói thẳng vào “mặt” nó, đại khái là: “Xưa rồi Diễm ơi, dẹp cái trò này nhé!” hoặc nặng nề hơn: “Ê, quởn quá không có việc làm, rồi đi lừa đảo kiếm cơm hả”, nhưng tôi không thể làm như vậy, tôi không nỡ mắng mỏ, lột chân tướng kẻ khác theo kiểu đó. Dù biết rằng đó là kẻ gian, mà sao tôi vẫn thấy... thương hại hơn là rủa xả nặng lời. Thế là tôi nhẹ nhàng lịch sự:
– Cưng ơi, lúc này hackers lộng hành quá, nên trước khi bấm vào link giúp cưng, chị muốn biết chắc đó là cưng, vậy ba má chồng của cưng tên gì?
Nó suy nghĩ một vài phút rồi nhắn tiếp:
– Chị không tin em thì chị gọi phone cho em đi!
Úi dào, nó dám kêu tôi phone cho nó nữa kìa, là sao? Tôi bắt đầu thấy sợ, nên chẳng thèm nhắn lại, coi như kết thúc, nhưng bỗng nhiên tiếng phone réo lên ầm ĩ, tôi giật mình, thì ra nó gọi. Tim tôi đập thình thịch, tay tôi run rẩy không dám đụng vào phone vì sợ lỡ tay mở ra nghe thì chắc tôi chết giấc, mồ hôi của tôi bắt đầu rơi lịch bịch, tôi chạy vào phòng, để mặc cái iphone ngoài bếp cho đến khi không còn tiếng reng.
Có ai như tôi không, kẻ gian phải sợ mình, còn tôi thì sợ kẻ gian? Buổi chiều tôi kể lại cho ông xã, anh ấy khuyên tôi:
– Ngay từ đầu em không nên trả lời là tốt nhất, lần sau chừa nhé.
Con gái tôi đoán già đoán non:
– Nếu mẹ nghe phone, có thể nó sẽ lấy hết info của mẹ từ cuộc nói phone? Nhưng ít nhất nó cũng có được giọng nói của mẹ, sau đó đi lừa tiếp những người khác trong friend list của mẹ, vì bây giờ AI (artificial intelligence) giả giọng người y chang luôn đó!
Thôi cũng là rút kinh nghiệm, tôi tự nhủ lòng từ nay sẽ cẩn thận hơn, thì chiều hôm qua chị Nga hàng xóm cũ đang ở Việt Nam nhắn messenger cho tôi:
– Em ơi, em cho chị 200 đô qua số tài khoản xxxx nhe, chị cần gấp lắm!
Chị Nga là hộ nghèo quanh năm từ khi tôi còn ở Việt Nam, chồng chị cờ bạc say sưa rượu chè, nay chồng chị đã qua đời, chị vẫn tiếp tục khổ vì con vì cháu. Thỉnh thoảng vào dịp cuối năm, mấy anh chị em tôi gom tiền gửi về giúp vài hàng xóm khó khăn trong đó có chị Nga, và đây là lần đầu tiên chị nhắn cho riêng tôi.

Tôi nhanh nhẩu:
– Có chuyện gì vậy chị?
– Con gái chị vào bệnh viện cấp cứu! Em ơi, cứu con gái chị với!
– Ok chị, vì em đang ở chỗ làm, chút về em sẽ nhắn bạn em chuyển cho chị liền.
Trả lời xong, tôi bừng tỉnh, nhớ ra bài học “ai kêu bấm link hoặc chuyển tiền thì phải cẩn thận”, nên vội vã nhắn lại chị hàng xóm:
– À chị Nga ơi, em nói điều này chị thông cảm, vì lúc này có nhiều trường hợp lừa đảo qua Facebook nên em xin chị vui lòng trả lời câu hỏi để em biết chắc là chị, em mới dám gửi tiền: chị cho em biết tên của 7 người em trong gia đình chị nha?
Hiểu được ý tôi, chị ấy nhắn lại thiệt dài, không những kể đầy đủ tên 7 người em chị ấy, mà còn... bonus thêm, liệt kê tên 8 anh chị em của gia đình tôi, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ, và tên ba má tôi, vượt yêu cầu quá xá!
Tôi nhìn đồng hồ, giờ này bên Việt Nam 4 giờ sáng, con gái chị Nga trong phòng cấp cứu, nếu không có tiền sớm chắc sẽ khốn khổ với hệ thống “hành là chính” của các bệnh viện, tôi bèn nôn nóng lấy phone ra nhắn messenger cho Đào, bạn tôi. Vợ chồng nó có đứa con du học bên Toronto, Canada, khi tôi cần chuyển tiền giúp ai đó, thì nhờ nó chuyển bên đó, còn bên đây tôi etransfer cho con nó, tiện lợi và mau lẹ. Nhà nó là lò làm bánh phở, từ khuya công nhân đã đến để nhập gạo vào kho, rồi các máy bánh phở bắt đầu hoạt động để kịp sáng sớm giao hàng nên Đào thức dậy rất sớm. Vì còn trong chỗ làm nên tôi nhắn vội cho nó:
– Đào ơi, chuyển ngay 200 đô vào số tài khoản xxxx nhe, chút nữa mình sẽ nói rõ hơn.
Gửi tin nhắn xong, tôi mỉm cười, trở lại làm việc, lòng vui vui vì đã giúp được chị hàng xóm cũ trong lúc ngặt nghèo. Mười phút sau, tôi check messenger, chưa thấy Đào trả lời, dù có dấu hiệu nó đã thấy tin nhắn. Sao kỳ vậy cà, bình thường nó rất mau lẹ vì tôi với nó là bạn thân cùng lớp từ cấp hai lên cấp ba, hễ tôi nhắn tin thì nó bắt đầu lạch cạch “typing” hầu như ngay lập tức, mà lần này, nó đã đọc xong mà vẫn im lặng.
Tôi chợt có ý nghĩ, hay là nó cũng đang nghi ngờ tôi là hacker “xin tiền”? Tôi đọc lại tin nhắn của tôi và hiểu ngay lý do của sự im lặng: tôi và nó luôn gọi nhau là “nhỏ” và xưng “tớ”, luôn mở đầu bằng câu “nhỏ ơi”, tự dưng bữa nay trong lúc gấp gáp, tôi lại rất nghiêm chỉnh, gọi tên nó rồi xưng là “mình”, hỏi sao nó không nghi?
Đúng lúc ấy, hiện lên tin nhắn của Đào, cũng... nghiêm chỉnh không kém:
– Bạn ơi, lúc này hackers nhiều lắm, mình bị mấy vố rồi, nên xin được hỏi bạn một câu để làm tin nhé, bạn trả lời xem,thầy chủ nhiệm lớp 12 chúng ta tên gì và vợ Thầy tên gì?
Haha! Tôi bật cười thành tiếng, trời ơi, tôi mới test chị Nga hàng xóm cũ, thì giờ đến lượt tôi bị nhỏ bạn thân test lại. Tôi xin phép supervisor đi nghỉ break, ra ngoài hành lang, thong thả nhắn Đào:
– Nhỏ ơi, hồi nãy tớ nhắn vội vì muốn chị hàng xóm nhận được tiền sớm, con chị ấy đang cấp cứu. Nghe nè nhỏ: thầy Phiệt chủ nhiệm 12A1, vợ thầy tên Lang (có g), “khuyến mãi” thêm nhe: hai đứa mình ngồi cùng bàn với Huệ, trên bàn mình là Thu với Bính, Trinh, và sau bàn mình là chàng Sơn chàng Lãm, vậy rõ chưa nhỏ?
Lần này thì nó mau chóng:
– Ok ok, hihihi... tớ sẽ chuyển khoản ngay bây giờ.
Vậy đó, tự bao giờ mà chúng ta, những bạn bè quen biết từ lâu, bỗng dưng nghi ngờ cảnh giác lẫn nhau? “Hiện đại là hại điện” đấy thôi, mọi sự phát triển luôn kèm theo những bất cập, những sơ hở hiểm nguy, mà ngày nay ChatGPT và AI đang bắt đầu mang đến cho nhân loại những lợi ích kèm theo... lợi hại nếu chúng ta không đề phòng.

– Kim Loan

(Edmonton, tháng 8/2023)

KimLoan_self_new.png
KimLoan_MuaHacuoicung.jpg

Yêu người, yêu phượng, yêu mùa hè

Buổi học cuối cùng, sầu tiếng ve

Sân trường nắng đổ buồn lưu luyến

Nặng trĩu bước chân em đi về

 

Ngẩn ngơ Thầy nán lại bục giảng

Bàn ghế im lìm nhớ dáng ai

Từ nay sẽ không còn thấy nữa

Má đỏ môi hồng, đôi mắt nai …

 

Cổng trường vừa khép, em bâng khuâng

Ngàn lời muốn nói bỗng ngại ngần

Rộn rã những giờ Thầy lên lớp

Đâu ngờ ngày vui trôi qua nhanh

 

Bóng em xa khuất cuối con đường

Hành lang lớp học, Thầy vấn vương

Vì cô bé có chiếc răng khểnh

Áo trắng ngây thơ buổi tan trường

 

Ép đôi cánh phượng vào lưu bút

Nâng niu kỷ niệm một mùa hè

(Em viết tên Thầy vào trang cuối

Với những câu  thơ …dẫu vụng về)

 

Bên bài giáo án, Thầy thao thức

Ngọn đèn khuya, điếu thuốc trên môi

Dòng nhật ký em ghi dang dở

Nhìn ánh sao đêm nhớ một người

 

Thế là ngày mai ta xa nhau

Mùa Hạ cuối cùng, hai trái tim đau!

KIM LOAN

 

 

SAO LẠI KHÔNG ƯỚC MƠ??

Thỉnh thoảng, tôi vẫn hồi tưởng lại thời gian hai năm dịch Covid hoành hành, chuyện khẩu trang, cách ly, hand sanitizers, vaccine Pfizer, Astrazeneca ... đặng mai mốt còn kể lại cho đám cháu chắt nghe. Chúng sẽ không thể tưởng tượng nổi những cảm xúc mà chúng ta đã trải qua, lo lắng, buồn phiền, âu sầu với những hệ lụy còn kéo dài sau đó. Nhưng hôm nay tôi xin nhớ lại chuyện vui, dẫu sao cũng là chút “điểm sáng vui vẻ” trong những tháng ngày u ám đó.

Hôm ấy, sáng thứ sáu, như thường ngày tôi xuống dưới nhà pha café, nướng miếng bánh mì rồi vào check mails và xem tin tức qua mạng. Lát sau ông xã tôi cũng xuống pha cafe, mặc áo chemise, thắt caravat chỉnh tề nhưng vẫn là cái quần pyjamas, tôi hỏi:

- Ủa, anh chuẩn bị đi làm hả, mà …quần đâu?

Ổng chỉ xuống cái quần:

- Đây chớ đâu!

- Không, ý em là mặc quần tây chớ, anh quên chưa thay quần à, chưa tới 60 mà lẫn rồi!

- Em không nhớ thiệt sao, lẽ ra giờ này anh đang ở San Diego bên Mỹ dự Annual Conference, nhưng năm nay vì dịch nên chỉ có virtual conference thôi, chút anh lên lầu “dự” qua Zoom.

- Ừ hen, mà liên quan gì đến chuyện …không thay quần?

- Thì qua Zoom chỉ thấy khúc trên thôi mà, nên chỉ cần tập trung ủi cái áo thẳng thớm, chiếc cà vạt rực rỡ đẹp đẽ, còn khúc dưới không cần, có ai thấy đâu mà lo. 

Vậy đó, vì lũ cúm Tàu mà thế giới đình trệ, ở đâu không biết, riêng Mỹ và Canada thì mọi thứ xìu xìu ển ển như bánh bao chiều. Học sinh sinh viên khắp nơi về nhà học online, người đi làm văn phòng thì work from home, ngoại trừ các front-line workers thì các buổi họp hành, thông báo, conference đều là videoconference (skype, Zoom, Meet, Teams, Viber, Facetime). Ông xã tôi cũng thế, hàng năm đều được vi vu qua các thành phố lớn của Mỹ, Canada, có khi qua cả Mexico, Puerto Rico vừa dự conference vừa kết hợp du lịch do Head Office đãi đằng. Còn bữa nay chỉ cần ngồi nhà, vào zoom, gặp gỡ các nhơn vật chủ chốt, nghe lecture, hội thảo, update công việc cũng như information của Pharmacy.

Các hội đoàn, các nhóm bè bạn người Việt Nam ở hải ngoại cũng mau chóng hoà nhập phong trào “everything is online” , nào là họp ban quản trị online, thi ca hát online, hát cho nhau nghe online, nào là bầu bán, buôn bán online, nói chung là không thiếu món gì.

Khoảng hai tiếng sau là đến giờ giải lao (virtual conference mà cũng y chang như thiệt, có giải lao, có tặng quà như bình thường, có điều thùng quà đã được gửi đến nhà bằng đường bưu điện mấy ngày trước), ông xã lại xuống lầu tìm café và snacks, tôi nói:

- Ý kiến của anh hay á!

- Cái gì hay?

- Thì cuối tuần này em cũng có hai buổi zoom meeting, một cái với nhóm bạn High School, một cái với mấy chị trong nhóm thân hữu Văn Thơ, em cũng sẽ chỉ chăm chút phần trên, mặt mũi tóc tai và cái áo, và khỏi lo “khúc dưới”.

- Vậy là có thêm mục “tám online” cho phụ nữ đỡ nhớ “nghề” rồi đây.

Các anh chị em trong gia đình tôi, kẻ ở California, người Oklahoma, mấy người ở Texas và tôi ở Edmonton Canada cũng rủ nhau họp gia đình kiểu virtual. Thực ra, chẳng cần đợi dịch đến, gia đình chúng tôi vẫn bay qua bay lại gặp nhau mỗi năm, rồi sau đó là gọi phone, email kể chuyện gia đình rất thường xuyên. Nhưng thôi, cứ theo trend cho đúng …kiểu mùa dịch, để nhìn thấy “dung nhan mùa dịch” của nhau, cũng vui vui. Vì là gia đình thân thuộc, nên tôi chẳng quan trong “khúc trên khúc dưới”, mà còn thoải mái để phone ngay bếp, cho mọi người nhìn thấy tôi đang nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa và tôi còn mang phone “lia” khắp nhà, theo yêu cầu, để cho các thành viên khác trong gia đình tham gia vào “meeting” dù chỉ là câu “hello”.

Bà chị Cả ở Texas trong cảm khái, xuýt xoa:

- Thời đại điện tử có khác, ở xa cũng thành gần, nhìn thấy nhau dễ dàng, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

Ông anh Oklahoma lên tiếng đáp lời bà chị:

- Chị ơi, em còn nhớ khoảng năm 1974 khi em còn học English ở Hội Việt Mỹ, Sài Gòn, chính xác là trong cuốn English For Today 4, có bài đọc nói về điện thoại. Ông Bell là người đầu tiên phát minh ra điện thoại, làm cho mọi người được nghe tiếng nói của nhau, và đó trở thành một phát minh có tính lịch sử của nhân loại. Cũng trong bài đọc đó, người ta còn kết luận bằng một dự đoán, rằng trong tương lai, loài người chúng ta không chỉ gọi nhau nghe tiếng nói mà còn thấy cả hình nhau, sống động như đang xem phim. Lúc ấy, em cứ mỉm cười vì nghĩ đó là câu chuyện … khoa học giả tưởng, mà nếu có xảy ra thì chắc gì em còn sống để mà chứng kiến. Thế mà giờ đây đã thành sự thật rồi đấy, chỉ khoảng hơn 40 năm thôi mà, có ai ngờ…

Nghe vậy, tôi liền có ngay một ước mơ, sao lại không nhỉ, sẽ có ngày có một loại máy có thể đọc được những ý tưởng thơ văn trong đầu người ta rồi tự động “viết” xuống computer giùm tác giả thì tuyệt vời biết bao. Bởi vì, có nhiều lúc lái xe đi chợ, đi làm, hoặc ngay cả trong khi làm việc nhà như rửa chén, tập thể dục, tưới cây… tôi chợt bắt gặp một ý hay, dự định sẽ đem vào một bài viết nào đó của mình, có khi là một vần thơ ưng ý, nhưng lu bu bận rộn chuyện này chuyện kia, thời gian gấp gáp, rồi quên, cũng tại làm biếng ngồi xuống gõ máy, thế là ý tưởng tiêu tan, không còn nhớ đến nữa.

Cứ tưởng rằng đó là ước mơ viễn vông trong một phút mộng mơ, hoặc ít ra nếu thành sự thật thì  chắc cũng cỡ… 40 năm như “nói chuyện phone thấy mặt nhau” kể từ khi Bell cho người ta nghe tiếng nói của nhau , thế nhưng, chưa đầy hai năm sau, tính đến thời điểm khi tôi đang viết những dòng này năm 2023, thì có vẻ như ước mơ của tôi sắp trở thành hiện thực với sự xuất hiện đầy thú vị không ngờ của Chat GPT (Generative Pre Trained Transformer) khi “nó” được sử dụng trong dịch thuật,  phân loại các văn bản, sáng tạo câu chuyện, trả lời câu hỏi, tìm kiếm thông tin rất mau chóng, tiện lợi.

 

Thú thật, tôi thuộc loại “low- tech”, lâu lâu vẫn nhờ con gái, ông xã, hoặc mấy người bạn trong ca đoàn nhà thờ trợ giúp khi gặp trục trặc trong việc sử dụng computer, laptop, iphone nên chẳng dám liều mạng bén mảng tìm hiểu để xài Chat GPT cho thêm rắc rối nhức đầu, nhưng cũng có chút hứng thú tò mò khi đọc những tin tức về “nó”!

Với khả năng học hỏi và suy nghĩ giống như con người, Chat GPT dùng trí thông minh nhân tạo để tạo ra các ứng dụng thực tế trong y tế, giáo dục, tài chính, buôn bán, quảng cáo và rất nhiều lĩnh vực khác. Nghe nói, “nó” trò chuyện thân thiện gần gũi, ngắn gọn cụ thể, khiến nhiều người thích thú hơn so với Google.

Nghe đâu, “nó” còn rành rọt chiếm lĩnh luôn việc giúp con người rất nhiều trong hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh... nữa kìa.

Không những thế, “nó” còn có thể sáng tác thơ, văn, viết kịch bản, văn bản đủ các kiểu. Người ta còn đang tính tới chuyện cung cấp cho “nó” một số đặc điểm nhân vật với cá tính, tuổi tác, bối cảnh , rồi “nó” sẽ viết ra một chuyện ngắn hoặc cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, và như thế ước mơ của tôi sắp thành hiện thực cũng chẳng ngoa.

Ủa, dưng mà tôi tự hỏi, liệu “nó” có viết ra như ý tôi mong muốn, với những câu văn “dzui dzẻ”, “tưng tửng” đúng như “phong cách” của tôi không nà!? Nếu “nó” không kham nổi, hoặc cho ra đời bài văn “hổng giống tui” thì thôi vậy, tôi lại vẫn cố làm siêng, ngồi vào bàn, bên ô cửa sổ sau vườn, vừa ngắm tuyết mùa đông, hoa cỏ mùa hè, lá vàng heo may mùa thu mà gõ máy say sưa đến dòng cuối bài, hài lòng ký tên mình, xác nhận một bài viết, bài thơ “chính chủ” một trăm phần trăm, vẫn hơn là nhờ vả “nó” chứ!?

 

Edmonton 18/5/2023

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

________________________

TL_happyFatherDay.png

NHỚ BA

Ngày Fathers Day năm nay, là năm thứ hai anh chị em chúng tôi thiếu vắng Ba . Tháng sáu Canada thời tiết đẹp, tôi ngồi bên vườn sau nhà, tưởng tượng bên nghĩa trang Moore ở thành phố Arlington, Texas, phong cảnh đẹp đẽ với những con đường trải sỏi dưới hàng cây Magnolia to cao xòe bóng mát, chắc đang nở những hoa trắng thơm hương tinh khiết và bên những ngôi mộ, là thảm cỏ xanh có ngọn nước phun lên mặt hồ tung bọt trắng xóa, Ba đang nghỉ ngơi trong không gian và thế giới êm đềm đó. 

Tôi đã từng kể về xuất xứ cái tên KimLoan của tôi, lẽ ra là tôi tên Thoa như Má tôi muốn, nhưng Ba đã ...nhẹ dạ vô tư nghe theo lời ông nhân viên hộ tịch, muốn tôi được mang tên của nàng ca sĩ “Căn Nhà Ngoại Ô” đang nổi như cồn lúc bấy giờ . Sau này có lần tôi nói đùa với Ba :

-          Tại Ba đó, con có hai tên, mà cái tên KimLoan chả có gì đặc biệt!

Ba bảo:

-          Tên ca sĩ nổi tiếng mà còn khiếu nại gì chớ ??

Chắc rằng nàng ca sĩ ấy có giọng ca ngây thơ nũng nịu, khuôn mặt đẹp xinh lắm nên chẳng riêng gì Ba tôi, mà còn nhiều ông bố bà mẹ khác đã lấy tên nàng đặt tên cho con gái của mình, bằng chứng là khi tôi đi thi Đại Học bên Việt Nam, cả cái phòng thi của tôi, hơn 50 thí sinh đều có tên “Thị Kim Loan” chỉ là khác nhau họ Nguyễn, Lê, Trần, Phạm ...mà thôi! Ui chao, nổi tiếng đâu chả thấy, chỉ thấy tên mình ...đại trà bao la vô số kể, như ...cá cơm được mùa !

Má tôi mất sớm, đôi khi Ba lo việc cơm nước phụ với bà chị Cả, mà hễ Ba nấu món gì là chúng tôi mê mẩn tới đó, dù chỉ là món đơn giản như canh bí, rau muống xào tỏi . Những ngày vừa hết Tết còn ngán với thịt mỡ bánh chưng, sau đó Ba tôi gom hết các hũ dưa chua, hành muối, củ kiệu, cùng nồi  thịt kho tàu còn dư, nấu thành một món canh dưa thập cẩm ngon thần sầu, có đổi cao lương mỹ vị tôi cũng không chịu đâu nhé.

Hồi Ba mất, tháng 8 năm 2021, thằng bạn học cũ nhắn tin:

 “Xin chia buồn cùng bạn, về sự ra đi của người Bố vô địch cờ tướng quận Gò Vấp”!

Ái chà, hắn hơi nói thách, chớ Ba tôi cũng là vô địch Cờ Tướng, mà chỉ cỡ cấp phường khóm thôi . Đó là niềm đam mê vô bờ bến của Ba . Ba có thể ngồi đấu cờ tại quán cafe của gia đình tôi cả ngày, quên cả ăn cơm . Có lần Ba chạy xe đạp đi chợ, sau khi mua xong các thứ, Ba dắt xe ra ngoài cổng chợ thì thấy đám đông vây quanh một bàn cờ tướng, người ta đặt một thế cờ khó mời các “cao thủ” vào giải, Ba liền hào hứng “nổi máu anh hùng” nhảy vào bàn cờ, rộn ràng những tiếng góp ý của các “quân sư” ồn ào cả một góc đường , một hồi sau, tàn cuộc cờ thì chiếc xe đạp và mớ thức ăn đã không cánh mà bay!! Hôm sau tôi đi học, thằng bạn cùng lớp khoe:

-          Hôm qua tui chứng kiến Ba của bà oai phong lẫm liệt tại bàn cờ, ai cũng trầm trồ nể phục, vì đã giải một nước cờ hóc búa, mọi người vỗ tay khen ngợi rần rần!

-          Ừa, rồi sau đó ông có chứng kiến... hồi kết, lúc Ba tui mất chiếc xe đạp có còn “oai phong lẫm liệt” nữa không? Còn mấy chị em tui phải chạy ra xóm mua mấy trái trứng về chiên cơm ăn cho xong bữa.

Một lần khác, Ba chạy xe gắn máy đến miệt Long Khánh thăm người làng xưa, đến chiều chạy xe về, đỗ ngay cổng nhà, kêu chúng tôi ra lấy trái mít đem vào, nhưng khi chúng tôi mừng rỡ chạy ra thì chẳng thấy mít ở đâu, thì ra trái mít đã rớt ở dọc đường mà Ba không hề hay biết, vẫn cứ phăng phăng lái xe trên xa lộ . Mấy bà hàng xóm bu lại bảo:

-          Ba của chúng mày là người đàn ông vô tư vô lo nhất trần đời!

Có lẽ vì ngày xưa Má tôi đảm đang quá, Ba đi làm Cảnh Sát Quốc Gia, còn Má trông coi cả tiệm giải khát, nuôi một bầy con tám đứa, Ba chỉ phụ hợ má lúc sáng sớm khi chuẩn bị mở quán .

 Mà nào Ba vô tư, trên đường đi làm ngang qua đường Mạc Đỉnh Chi thấy người ta mang con cái vào học Hội Việt Mỹ, Ba cũng nhanh chân vào tìm hiểu rồi ghi danh cho các anh của tôi lần lượt vào học, nếu không có biến động tháng 4 năm 1975 thì chắc chắn cũng đã đến lượt tôi rồi .

Mà nào Ba vô tư, bữa đó ba đang ngồi đánh cờ tướng trong nhà vơi ông bác ruột của tôi. Hai ông già chưa phân thắng bại gần một ngày trời, tôi đứng sớ rớ gần đó với khuôn mặt sưng phồng đỏ vì bôi thuốc lang-ben quá liều lượng. Ai dè Ba nhìn thấy, bỏ bàn cờ kêu tôi lại gần hỏi nguồn cơn. Tôi vừa khóc nức nở vừa trình bày rằng, vì muốn da mặt mau hết lang ben nên tôi lỡ ...mạnh tay tra thuốc ào ào, những tưởng sẽ mau hết lang ben, nhưng ngược lại nó làm da tôi rát bỏng, đau đớn. Nghe xong Ba nổi nóng, mắng tôi một trận, rồi săm soi khuôn mặt tôi, bắt tôi ngày mai theo Ba đi bác sĩ để tìm cách...cứu làn da của tôi, kẻo tôi mang sẹo. Vậy đó, mê cờ mà Ba sẵn sàng bỏ ngang chỉ vì sợ còn gái cưng bị ...xấu!

Ba qua Mỹ lúc tuổi hơn 60. Ba vẫn xin đi làm hãng cho đến ngày nghỉ hưu. Đến tuổi 80 ba vẫn chạy xe đạp loanh quanh gần nhà . Mỗi khi gia đình chúng tôi từ Canada qua thăm, ba hăng hái đạp xe ra Phước Lộc Thọ mua trái cây, bánh mì, mua thêm vài tờ báo Việt Ngữ cho tôi đọc . Thuở đó, các tài xế vùng Bolsa có phải dừng xe ngay ngã tư nhường đường cho một ông già mảnh mai, tóc bạc trắng, áo quần mũ nón chỉnh tề, đạp xe bon bon với túi trái cây và mấy tờ báo, thì đó chính là Ba tôi đấy .

Qua tuổi 90, Ba không còn chạy xe đạp, một phần vì mắt kém, và cũng vì phản xạ chân tay đã chậm, dù sức khỏe vẫn còn tốt, chưa phải uống một viên thuốc bệnh nào, không bị “ba cao một thấp” như các cụ lớn tuổi khác . Ba thường bảo, sống tới tuổi này là quá đủ rồi, nên mỗi ngày còn lại của Ba là mỗi ngày sống rất...vui vẻ, ăn uống nghỉ ngơi để ...chờ ngày về gặp Ông Bà tổ tiên.

Những ngày tháng cuối đời, Ba về ở Arlington, Texas vì có đông con cháu hơn bên California.

Tôi nhớ, lúc ông nội tôi mất khi tôi mười tuổi. Trước lúc nhập quan, bà nội tôi dặn dò đám con cháu: chút nữa các cháu nhớ khóc thật to vào, càng to càng tốt, gào lên kể lể nữa nhá…

Trong đám tang của Ba, chúng tôi bảo nhau, mừng cho Ba đã sống 95 năm đầy đủ một kiếp người, chưa bao giờ sống trong viện dưỡng lão, không dầm dề bệnh tật trong hospital, không đớn đau triền miên, nên chúng tôi đã làm theo lời dặn của Ba khi sinh thời, là hãy đón nhận chuyện ba ra đi, và celebrate 95 năm cuộc đời của Ba, để Ba ra đi thanh thản, không vướng bận ngậm ngùi ...

Thế nên, tại nhà quàn, sau nghi thức phát tang, hai đứa cháu trong gia đình ngồi vào cây đàn piano (của nhà quàn có sẵn) và hát liên tục những bài tình ca êm ái, nhẹ nhàng tỏa bay như làn khói hương nơi bàn thờ, làm nhạc nền background mỗi khi có khách đến viếng, và ngày hôm sau tại nghĩa trang, bên cạnh những giọt nước mắt xúc động của phút tử biệt khi hạ huyệt, chúng tôi đã cùng cất tiếng hát ...

Hát cho người ra đi và hát cho những người ở lại:

 “ ...Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày ...” (nhạc TCS)

Edmonton, Fathers Day 2023

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

____________________

TL_MotherDay.JPG

MẸ ƠI

 

Gửi đến Mẹ tình yêu của con

Mong Mẹ nơi xa ấm linh hồn

Đời con kể từ khi vắng Mẹ

Chẳng còn nỗi buồn nào buồn hơn

 

Trong tám anh chị em tôi, Mẹ cưng chiều tôi nhiều hơn, có lẽ vì tôi thuộc nhóm út ít và …dữ như bà chằng (ai biểu Mẹ sinh ra tôi với cái mũi tẹt và cái trán dồ làm chi!).

Đi đâu Mẹ cũng đưa tôi theo, hoặc do tôi đòi theo, thì dù có bận rộn thế nào mẹ cũng cho đi, còn hơn là để con bé đùng đùng giãy khóc.

Buổi sáng hai mẹ con thường ra chợ nhỏ trong xóm, mấy bà bán hàng nhìn thấy hai mẹ con, gọi đùa tôi là  “bé Tẹt cục vàng” của Mẹ, khiến tôi hãnh diện vênh vênh cái mặt tròn như bánh cam với mái tóc muỗm dừa. Trong lúc Mẹ lo chuyện chợ búa thì tôi tha hồ ăn hàng, các bà bán hàng quen Mẹ nên bán quà cho tôi hậu hỉ hơn người khác.

Thỉnh thoảng Mẹ dẫn tôi bắt taxi ra Sài Gòn đến ngân hàng Việt Nam Thương Tín gửi tiền rồi ghé qua Chợ Bến Thành mua sắm. Đi chợ xa, như cá gặp nước, tôi đòi Mẹ mua các thứ “thời trang” điệu đà. Mới 7-8 tuổi đầu, mà tôi có đầy đủ: guốc gỗ bước đi nghe lộc cộc, áo dài màu vàng, cây dù đỏ chói loá, bóp đầm màu hồng tía, và cả đôi mắt kiếng “thời thượng”, đó là chưa kể bông tai, dây chuyền vàng (giả) đeo khắp người.

Mỗi lần mua sắm lung tung như thế, về đến nhà, hai mẹ con phải canh chừng nếu có anh Hai của tôi ở nhà thì sẽ...né. Anh đang học Đại Học Khoa Học, anh rất siêng năng chăm chỉ vì quyết chí vào Y Khoa. Anh thường ngồi ngay chiếc bàn giữa nhà, anh nhét bông gòn vào hai lỗ tai để khỏi phải nghe những tiếng động xung quanh. Anh cúi đầu vào sách vở, dùng hai bàn tay che hai bên mắt để tập trung toàn bộ chuyện học hành. Tôi đứng thập thò ngoài cửa với những túi đồ mới sắm, Mẹ rón rén vào trước, nếu thấy anh không nghe biết gì, Mẹ vẫy tay ra dấu, lúc ấy tôi mới từ từ, nhẹ nhàng lách vào nhà, tới cầu thang leo lên gác coi như …thoát nạn thành công.

Anh Hai hay phàn nàn Mẹ chiều con Tẹt quá, mua sắm cho nó đủ thứ mai mốt nó sẽ quen thói đua đòi và với tôi thì anh nghiêm trang răn dạy, kể cả đe dọa bắt quỳ gối đánh đòn nếu tôi vẫn vòi vĩnh Mẹ.

Mỗi lần bị anh Hai mắng, tôi tìm Mẹ để khóc bắt đền. Mẹ lại dỗ dành và hứa hẹn lần sau Mẹ sẽ mua cho tôi… nhiều hơn.

Có lần, Mẹ tiễn tôi ra cửa đi học. Trường cách nhà một con đường nên tôi đi bộ đến trường. Mẹ cho tôi 2 đồng như thường lệ để ăn quà, hôm đó tôi lại xin 5 đồng để mua thêm món đồ chơi, lần này Mẹ không chiều tôi vì tôi đã có một mớ đồ chơi còn cất dấu trên gác. Tôi vùng vằng trả lại Mẹ 2 đồng và bước đi. Được vài bước, tôi nghe Mẹ gọi với theo: “ Tẹt ơi, quay lại lấy 5 đồng đi con!”

Mẹ đã chịu thua tôi, thế mà tôi vẫn giận Mẹ, lầm lì bỏ đi một mạch, không thèm 2 đồng hay 5 đồng, mặc kệ Mẹ đứng đó nhìn theo.

 

Mẹ đổ bệnh vào thời điểm tháng tư 1975, ngay như bà chị Cả mới hơn hai mươi tuổi đầu còn chưa hiểu thấu, huống gì những anh chị em còn lại, ở tuổi xấp xỉ nhau, “ăn chưa no lo chưa tới”. Rồi Sài Gòn bị “giải phóng”, căn bệnh của Mẹ không phải là bệnh hiểm nghèo, nhưng trong lúc xã hội nhiễu nhương, bệnh viện thiếu thốn từ bác sĩ đến thuốc men nên Mẹ đã ra đi khi tôi vừa chín tuổi. Ở cái tuổi còn quá ngây thơ, tôi đã khóc khi biết mình mất Mẹ, nhưng nỗi buồn cũng thoáng qua mau.

Đêm cuối cùng trước khi Mẹ được đem ra nghĩa trang, tôi nằm ngủ trên gác, trong chiếc mùng rộng với một số anh chị em họ hàng khác. Chúng tôi nằm chồng chéo, ngổn ngang vì mệt nhoài của những ngày đám tang. Nửa đêm trong cơn mộng mị, tôi thấy Mẹ vén mùng, vào đắp mền cho tôi như mọi khi, nhưng lần này Mẹ mặc áo dài, tà áo dài của Mẹ, màu dưa cải bằng vải “tê tơ rông” mềm mại, lướt trên người tôi êm ái, phảng phất một mùi hương quen thuộc, mùi của Mẹ. Mẹ cúi xuống ngắm khuôn mặt tôi rất gần, hình như Mẹ muốn ôm tôi. Nhưng tôi bỗng choàng tỉnh dậy vì những tiếng động dưới nhà chuẩn bị cho buổi lễ di quan, đưa tôi trở về thực tại, và tôi nhận ra chiếc áo dài hồi nãy trong mơ chính là chiếc áo dài Mẹ đang mặc trong quan tài. Thế là tôi bật khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc. Bà thím và bà chị họ nằm mùng bên cạnh liền qua hỏi han, dỗ dành, tôi càng khóc lớn hơn và mếu máo nói, rõ ràng tôi vừa thấy Mẹ về, làm bà thím và bà chị họ cũng sụt sùi khóc theo.

Mẹ đi rồi, nhà vắng buồn tênh, lại là khoảng thời gian đối đầu với chế độ mới, bận rộn mưu sinh, thiếu Mẹ là thiếu người lo toan cho chúng tôi từ việc nhỏ đến việc lớn: món ăn ngon Mẹ tẩm bổ cho anh tôi thức đêm học thi, nhắc nhở tấm áo dơ tôi chưa kịp thay cho Mẹ giặt ...Những thời gian đầu vắng Mẹ ấy, chúng tôi thường nhìn ảnh Mẹ trên bàn thờ mà khóc. Đầu óc thơ trẻ của tôi ước ao có phép lạ cho Mẹ sống lại, để tôi vẫn được theo Mẹ ra chợ, đi chơi và về nhà với các món hàng tôi đòi Mẹ mua sắm.

Mẹ có “về” thăm một người hàng xóm thân thiết của gia đình. Bà ấy kể, Mẹ nói nhớ chúng tôi lắm, nhưng biết chúng tôi yếu bóng vía, sợ ma, nên Mẹ không dám “về” với chúng tôi.

 

Rồi tôi cũng lớn dần theo thời gian, hình bóng Mẹ còn đầy ắp trong căn nhà và trong lòng chúng tôi. Trên gác, tủ quần áo của Mẹ vẫn còn một vài món đồ chơi của tôi mà hai mẹ con đã cất dấu trong đó, tôi không dám mở tủ vì biết mình sẽ khóc òa với bao kỷ niệm.

Vào tuổi thiếu niên, những buổi chiều tối chơi với lũ bạn trong xóm, chúng được mẹ ra tận nơi gọi về ăn cơm hay đi ngủ, còn tôi thì …tự đi về, tôi lại cảm thấy nhớ Mẹ vô cùng.

Hồi tôi học cấp hai, trường có tổ chức buổi picnic mùa hè cho các học sinh. Tôi đến nhà nhỏ bạn thân từ mờ sáng chờ nó cùng đi ra chỗ picnic. Nó vẫn chưa chuẩn bị xong vì mẹ nó còn lúi húi gói cho nó miếng xôi mới nấu, dặn dò nó đủ thứ linh tinh và đưa cả túi quần áo thiệt bự có cả dầu gió, thuốc thang tùm lum. Tôi chạnh lòng, bỏ ra ngoài sân và tự nhủ: “Mình không còn Mẹ, nhưng mình còn Ba và bảy anh chị em khác nữa. Cả nhà mình yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, mình được ăn học đầy đủ, tử tế. Còn nhỏ bạn này, nó không có anh chị em, nên mẹ nó không lo cho nó thì lo cho ai?!”. Trấn an mình xong, tôi thấy mình rất can đảm và mạnh mẽ.

Nói thì nói thế, càng lớn khôn thêm, tôi càng đa sầu đa cảm, dễ xúc động, mong manh. Mỗi khi nghe bài hát Kỷ Niệm của Phạm Duy: “Cho tôi lại ngày nào/Trăng lên bằng ngọn cau/Me tôi ngồi khâu áo /bên câу đèn dầu hao /Ϲha tôi ngồi xem báo/ Phố xá vắng hiu hiu/ Trong đêm mùa khô ráo /tôi nghe tiếng còi tàu…” là lòng tôi lại thổn thức!

Dẫu sao, sau mỗi lần yếu đuối, khóc thương, tôi lại thấy mình thêm trưởng thành. Có lẽ Mẹ biết vậy, nên đã “về” thăm tôi một lần trong giấc mơ.

Tôi thấy một buổi tối, cả xóm cúp điện lặng im như tờ, tôi đi lang thang vô định ra đầu ngõ. Đúng lúc ấy, một chiếc xe bus dừng lại để tôi bước lên. Cả chiếc xe vắng tênh mờ ảo, chỉ thấy bóng người tài xế và một hành khách ngồi bất động nơi cuối xe. Tôi tiến về phía đó thì nhận ra Mẹ, tôi mừng rỡ kêu lên “Mẹ Ơi!” rồi ngồi thụp xuống dưới chân Mẹ, vùi đầu vào lòng Mẹ. Mẹ không nói gì, chỉ cúi xuống xoa mái tóc tôi. Tôi lặng im tận hưởng những phút giây ấm áp sung sướng đó. Rồi xe bus dừng lại, tôi phải đứng dậy xuống xe, mà Mẹ vẫn ngồi im. Tôi hỏi: “Mẹ về nhà với con không?” Mẹ vẫn không nói mà chỉ lắc đầu. Nước mắt tôi ràn rụa bước ra khỏi xe như cơn mộng du. Rồi tiếng reo hò của lũ trẻ con trong xóm vang lên: “Có điện! Có điện!” khiến tôi bừng tỉnh giấc chiêm bao. Chiếc áo gối đã ướt đẫm nước mắt và mồ hôi của tôi tự lúc nào.

Đó là giấc mơ tôi gặp Mẹ “ về”, cùng với giấc mơ đêm nào trước khi tiễn Mẹ ra nghĩa trang, sẽ mãi mãi theo tôi suốt cuộc đời!

Con bé Tẹt mê "shopping" của Mẹ ngày xưa, bây giờ vẫn thích "shopping" mua sắm điệu đàng, nhưng không đua đòi như anh Hai đã từng lo xa và nhất là không còn bướng bỉnh như đã từng "hành hạ" Mẹ nữa.

Mẹ ơi, nếu giờ đây vẫn còn Mẹ, dù con có luôn gần kề Mẹ, chăm sóc chiều chuộng Mẹ thật nhiều lúc tuổi già, thì cũng không thể nào đền đáp đầy đủ tình yêu Mẹ đã dành cho con một thuở bé thơ.

 

KIM LOAN

Tháng5/2023

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

IF YOU ARE NOT HAPPY …

 

Hễ mỗi lần nghe nói ai mới qua định cư xứ tự do, mà họ bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích với quê hương thứ hai, tôi cũng thấy mát lòng mát dạ sao á!

 

Như trường hợp vợ chồng chị bạn thân, là người chung nhóm với tôi ở trại tỵ nạn Thailand. Anh chị gặp nhau và yêu nhau ở trại, được làm phép hôn phối tại Nhà Thờ trại Panatnikhom. Nhưng họ không được may mắn, cả hai cùng lần lượt rớt thanh lọc, khi chị mới sanh đứa con đầu lòng.

Sau một thời gian nghĩ suy bàn bạc, chị ôm đứa con trai và cái bụng…mới có bầu nữa về nước, anh ở lại trại tỵ nạn, khu biệt giam, quyết chí tuyệt thực, mổ bụng chống đối hồi hương, vào ra bệnh viện cấp cứu mấy lần, cuối cùng vẫn bị cưỡng bách về Việt Nam khi trại tỵ nạn khắp Đông Nam Á chính thức bị xoá sổ.

Về nhà, anh chị buồn quá, đẻ …thêm đứa nữa, lao vào buôn bán làm ăn kiếm sống, khá chật vật cho một gia đình với năm miệng ăn. Bên cạnh đó, anh liên lục lên văn phòng Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn kiện cáo, đấu tranh, nộp đơn khiếu nại. Lý do vì gia đình anh thuộc diện “dân hư”, vượt biên và hồi hương, bản thân anh có trong danh sách “hồ sơ đen” vì từng chống đối chương trình cưỡng bách hồi hương và đặc biệt, anh là thành viên sinh hoạt rất tích cực của tổ chức “Việt Nam Quốc Dân Đảng” trong trại tỵ nạn, nên cả gia đình anh đã bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam gây khó dễ khi trở về hoà nhập cuộc sống. Nhờ cố gắng, bền bỉ không nản lòng suốt mười mấy năm trời, “lên bờ xuống ruộng” với Văn Phòng Toà Đại Sứ Mỹ, kết quả là cả gia đình đã được phỏng vấn, được chấp thuận qua Mỹ định cư diện “chính trị đặc biệt” giữa năm 2012.

Nhận được tin, tôi vui sướng mấy ngày liền. Vừa qua đến Nam California, anh phone ngay cho tôi:

- Tạ ơn Chúa! Gia đình anh chị đã được cứu vớt lên thiên đàng. À mà không, phải nói rõ hơn là được đưa từ địa ngục lên thiên đàng. Không còn từ ngữ nào diễn tả được niềm hạnh phúc này. Được hít thở không khí dân chủ, được tự do ngôn luận, được quyền làm người.

Chị cũng hào hứng không kém gì chồng:

- Ba đứa con của anh chị đã được đi học ngay lập tức, chẳng tốn một xu học phí nào, đứa nhỏ còn có xe bus đón đưa mỗi ngày. Có tưởng tượng chị cũng không dám nghĩ đến ngày này em ơi!

Anh vẫn còn say sưa niềm vui lớn lao:

- Anh hài lòng và mãn nguyện với những gì anh đã hy sinh, kiên nhẫn đợi chờ, bù đắp lại là tương lai tươi sáng của các con, đó là điều vô giá, không có bạc tiền nào so sánh được. Bao nhiêu người ở Việt Nam có tiền tỷ nhưng đâu dễ được qua đây cả nhà năm người làm công dân xứ Hoa Kỳ? Gia đình anh còn hơn trúng số độc đắc em ơi. Tạ ơn nước Mỹ, cám ơn cuộc đời!

Anh chị thay phiên nhau nói liên tục, có cho tôi mở miệng được câu nào đâu nà! Mà thôi, tôi có thể hiểu được nỗi niềm lâng lâng ngất ngây ấy, nhất là anh, cứ lập đi lập lại hai câu “trúng số độc đắc” và “anh chị là …triệu phú tiền đô và tỷ phú tiền Việt Cộng, chứ còn gì nữa, phải không em?”

Giờ đây, chị có công việc ổn định, đi làm Nails cho tiệm của một người bà con, làm cả ngày vẫn không biết mệt mỏi. Anh vì sức khoẻ yếu hơn sau mấy lần mổ bụng ở trại, nên chỉ đi làm parttime. Thằng con trai lớn, ngày xưa được sinh ra ở trại tỵ nạn, vừa ra trường về ngành Cảnh Sát, đứa con trai kế cũng sắp tốt nghiệp College và cô con út đang học Đại Học. Cuối tuần, anh chị dành thời gian lái xe ra vùng ngoại ô, ngắm cảnh, câu cá, nghỉ ngơi hoặc chăm lo vườn tược rau trái sân nhà.

 

Còn một trường hợp bên xứ lạnh tình nồng là hai người em hàng xóm cũ của tôi. May mắn thay, cách đây khoảng hơn chục năm, thời kỳ Canada mở cửa cho người vào định cư theo diện có tay nghề (không cần bằng cấp cao hay tiền bạc), mà họ được qua Winnipeg với sự bảo trợ của người cô ruột.

Lần gặp nhau ở thành phố Edmonton của tôi, nghe tụi nó rộn ràng tâm sự:

- Tụi em vẫn còn nghĩ mình nằm mơ chị à. Qua đây, con gái em đi học, nó thích lắm. Được thoải mái học hỏi những điều mới lạ, không phải lo sợ “sao đỏ học đường” theo dõi, không gò mình theo thành tích, chỉ tiêu. Hôm nọ chồng em bị đau ruột thừa, vào bệnh viện cấp cứu, được mổ và nằm viện mấy ngày, bác sỹ y tá chăm lo với trách nhiệm lương tâm và tình người. Trong bệnh viện có tủ lạnh có sữa, nước trái cây, yogurt, bánh mì, người nhà bệnh nhân nếu đói cứ việc lấy thoải mái, vậy mà khi xuất viện, tụi em chỉ việc …xách giỏ ra về, không phải trả một đồng nào. Nói thiệt với chị, hai vợ chồng đi bộ ra bãi đậu xe mà không dám đi nhanh, vì nghĩ nếu họ quên thu tiền, nên có ý chờ họ kêu lại để trả viện phí.

Nhìn mặt chúng nó rạng rỡ như hoa mới nở, thấy thương ghê nơi! Tôi nói:

- Thì Canada nổi tiếng với chương trình Y Tế toàn dân mà. Còn công ăn việc làm thì sao, hai đứa có khó khăn gì không?

Hai vợ chồng phá lên cười, giành nhau nói:

- Xời ơi, chỉ sợ không đủ sức làm 2-3 jobs thôi chị! Ở xóm mình, em đã không ngại đi làm quán ăn, chồng em đi làm thợ hàn nóng nực cực khổ, thì qua đây chẳng có việc gì làm khó được tụi em hết á, chịu khó thì cái gì rồi cũng có.

- Vợ em ban ngày đi làm hãng thịt gà, chiều tối và weekends thì làm bánh trái thức ăn bán cho bà con đồng hương xung quanh kiếm thêm tiền, vì tụi em còn gia đình hai bên ở Việt Nam. Tụi em say sưa đi làm trong niềm vui được lo cho người thân khi họ cần giúp đỡ, cảm giác đó hạnh phúc biết bao. Chúng em nhớ ơn Canada vô vàn, Canada thật tuyệt vời!

 

Cả hai trường hợp trên, họ đã mua nhà, ổn định cuộc sống, và việc trả nợ nhà cũng chỉ là vấn đề thời gian.

Ai cũng biết, quê hương mình, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, vẫn là đẹp nhất. Nhưng khi quê hương bị tàn phá bởi độc đảng, bất tài, tham nhũng, hèn ác…thì người dân đành dứt áo ra đi, dẫu biết cuộc đánh đổi nào cũng có mất mát, hy sinh.

Vậy mà có một số người, sau khi mỏi mòn chờ đợi, trầy trật để qua được xứ tự do, thì cứ than vắn thở dài, như là bị “trời đày”, thậm chí còn chê bai này nọ. Nếu họ là người già cả, như cây cổ thụ bị bưng gốc qua xứ khác không thể thích nghi, thì có thể thông cảm. Còn nhiều người, tiếc thay, lại than vãn những chuyện vớ vẩn, thậm chí chỉ vì tiếc món bún riêu cua đồng, bún mắm, ốc bươu luộc chấm mắm gừng, trà sữa, bánh tráng trộn…Trời ạ, có cho không biếu không tôi mấy món “Ma- dzê in Việt Nam” đó, tôi cũng xin phép…“no, thanks!”.

Riêng tôi, hễ nằm ngủ mơ thấy ngôi nhà cũ cùng cha mẹ anh chị em ruột rà, hàng xóm thân thương, hoặc kỷ niệm dưới mái trường với bạn bè, người xưa …thì không sao. Chớ đêm nào mơ thấy “màu vàng xanh” của mấy tên công an khu vực, “màu xám đặc cán mai” của các cán bộ mặt mỡ bụng phệ chèn ép người dân, “màu tương lai tối thui” của đồng bào Thủ Thiêm, Lộc Hưng, hoặc “màu đỏ máu” của màn “tự té lầu” trong nội bộ “đồng chấy đồng rận”… là mồ hôi hột của tôi vã ra như tắm. Bừng tỉnh dậy sau cơn ác mộng, nhìn qua cửa sổ thấy tuyết đang rơi, nhéo người cùng giường một cái cho …chắc ăn, tôi mới hoàn hồn sung sướng, biết mình đang ở Canada.

Tôi bỗng nhớ câu nói nổi tiếng của Tổng Thống Trump: “ Nếu bạn không hài lòng với đất nước mới này, bạn có thể rời khỏi nơi đây!”

Còn câu nói sau đây là của…tôi:

“ Tôi thề, sẽ không năn nỉ níu kéo, và sẽ tiễn bạn ra đến tận cổng phi trường!”

Xin thề!!!

 

KIM LOAN

 

 

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

KL_Traitimkieuhanh.jpg

Anh không cần phải nói lời xin lỗi

Vì đã từng làm trái tim tôi đau

Tuổi trẻ dại khờ, chẳng trách gì nhau

Ai chẳng qua những tháng ngày sôi nổi?

 

Tôi đã mến anh, dù không dám nói

Vì trái tim kiêu hãnh (đợi chờ thôi)

Anh vô tình, tôi thao thức lẻ loi

Những vần thơ ngọt ngào trong đêm vắng

 

Nhưng tôi cũng vui theo đời mưa nắng

Cuộc sống muôn màu vẫy gọi ngoài kia

Bốn mùa rộn ràng êm ái cỏ hoa

Tôi quên anh như chưa một lần nhớ

 

Đời vẫn đẹp, yêu đương vẫn rực rỡ

(Thế gian này đâu chỉ có… mình anh)

Những chiều cuối tuần tôi vẫn tươi xinh

Bước chân sáo, cùng bạn bè dạo phố

 

Nếu có một ngày trời xanh nhắc nhở

Tâm hồn tôi ngơ ngẩn áng mây chiều

Bóng hình anh từ ký ức rong rêu

Tôi mỉm cười vu vơ trong khoé mắt

 

Anh đã là kỷ niệm xưa xa lắc

Đến rồi đi như cơn gió chiều nay

Đã qua rồi những chợt buồn ngất ngây

(Tôi rung động thêm vài lần khác nữa)

 

Để bây giờ gió Xuân về lại nhớ

(Làm sao quên thuở mơ mộng trong đời?)

Xin cám ơn những rung cảm tuyệt vời

Trái tim kiêu hãnh, không cần lời xin lỗi!

KIM LOAN

XƯA RỒI... HÙNG ƠI!

Buổi sáng cuối tuần, tôi vừa mở facebook thấy liền mấy cái friend requests trong đó có một tên khiến tôi phải dừng lại: BS Hoàng Hùng. Cái tên rất đặc biệt khó quên cho dù bao nhiêu năm đã trôi qua. Tôi liền vào xem profile, và đúng như trí nhớ của tôi, đó chính là người đã từng “thoáng qua đời tôi”.

Hè năm ấy, vừa thi xong Đại Học, nhỏ Thủy rủ rê:

-          Chủ nhật này tụi mình đi Lái Thiêu chơi.

-          Nhân dịp gì vậy, có ai nữa không?

-          Anh Tuấn của tao mở tiệc sinh nhật với vài người bạn thân, ảnh cho tao đi theo để bồi dưỡng sau mấy tháng học thi vất vả, ảnh cũng cho tao rủ thêm mày vì ảnh biết tao với mày là “trời sinh một cặp”.

-          Haha! Vậy thì ngu gì hổng đi chơi, mà chạy xe đạp coi bộ xa đó.

-          Mày khỏi lo, nhà một người bạn của anh Tuấn là chủ tiệm bánh Hồng Khanh ở chợ Xóm Mới có xe chở hàng cỡ như chiếc xe lam, anh ấy kêu tài xế chở cả đám sáng đi chiều về.

Sáng ngày hẹn, tôi có mặt tại nhà Thủy, đã có đủ các bạn của anh Tuấn, cả nam lẫn nữ cộng với hai đứa tôi là gần chục người. Chúng tôi phụ khiêng lên xe mấy thùng bia, nước ngọt, thùng đá lạnh, bánh mì, chả lụa, vài hộp bánh, cây đàn guitar và đồ linh tinh khác. Xe khởi hành, mọi người vừa ăn xôi đậu muối mè vừa nói chuyện cười đùa rôm rả, chẳng mấy chốc đã đến khu du lịch Cầu Ngang khi trời còn sớm, chưa có nhiều khách, nên chúng tôi dễ dàng mướn được một khu vườn ưng ý. Vì ai cũng còn no bụng nên anh Tuấn kêu chủ vườn đem ra mấy trái sầu riêng chín cây thơm ngát, uống với bia lạnh giải khát, rồi thông báo mọi người có thể đi chơi tự do khoảng một tiếng, sau đó trở về vườn bắt đầu tiệc sinh nhật.

Tôi và Thủy hớn hở đi dạo khắp các vườn xung quanh, hứng thú nhảy nhót qua các mương đào trong vườn, sau đó đi bộ ngược ra Cầu Ngang ngắm cảnh, dừng chân tại các cần xế chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, bòn bon người ta bán dọc lối đi, bỗng nghe có tiếng từ phía sau:

-          Hai đứa muốn mua trái cây thì chờ lúc chiều ra về hẵng mua, chớ mua bây giờ đem vào trong chủ vườn không chịu đâu nhé.

Chúng tôi quay đầu lại, nhỏ Thủy nhanh nhẩu:

-          Tụi em chỉ ngắm thôi anh Hùng ơi!

Tôi nhìn anh, anh nhìn lại tôi trìu mến, trái tim mới lớn vui rộn ràng vì gặp đúng... người trong mơ. Hồi sáng trên xe, khi cả nhóm giới thiệu tên nhau, tôi đã “ấn tượng” bởi cái tên của anh, Ngô Văn Hoàng Hùng, thêm dáng người cao ráo, chiếc răng khểnh và cặp kiếng trắng trên khuôn mặt điển trai, nhưng chưa hết đâu nhé, anh đang là sinh viên Y Khoa, đó là chưa kể tài lẻ là giọng ca hay với ngón đàn guitare vì anh là Ca Trưởng của Ca Đoàn. Nói chung là bao nhiêu điều tốt đẹp anh ấy đều sở hữu hết trơn, ông trời thiệt bất công.

Tôi đứng im ngại ngùng trước “người mơ” thì nhỏ Thủy la lên:

-          Ôi, em phải về chỗ phụ mấy chị làm bánh mì chả lụa chuẩn bị bữa tiệc, anh Hùng dẫn bạn em đi một vòng cho biết nha.

Lẽ ra tôi phải đi theo Thủy, nhưng chân tôi cứ như chôn chặt dưới đất, anh ấy đến bên tôi, bắt chuyện, tôi mới dần dà lấy tại tự nhiên đi dạo cùng anh. Để giải thích cho cái tên “dài cả cây số” anh cười tươi:

-          Ba anh tên Ngô Văn Hoàng, nên các anh em trai nhà anh mang tên: Ngô Văn Hoàng Hùng, Ngô Văn Hoàng Dũng và Ngô Văn Hoàng Công.

Tôi nói thiệt lòng:

-          Tên anh là đẹp nhất, nghe rất “kêu”, rất oai phong lẫm liệt.

-          Ừ, mấy đứa bạn anh cũng bảo thế.

Hình như anh đọc được trong mắt tôi niềm yêu mến ngưỡng mộ ngành Y nên anh nói rất nhiều về việc học của anh, nào là anh phải ra khỏi nhà từ lúc sáng sớm, rồi về nhà khi tối mịt, mấy năm nay hổng biết khu phố anh ở tròn méo ra sao, nào là những lần vào nhà xác thực tập, lần đầu vừa sợ vừa run, có người lập tức ói mửa, những lần trực khuya, bài vở căng thẳng. Tôi cứ nghĩ mình là người... khoái nói, nhưng so với anh thì còn thua xa, nhưng mà thôi, tôi sẵn sàng nghe “thần tượng” nói, đâu dễ gì có cơ hội quý giá này.

Sau chuyến đi Lái Thiêu vài ngày, Thủy qua nhà tôi:

-          Ê, bữa đó ông Hùng có... tán mày không?

Tôi mắc cỡ sung sướng, trả lời lấp lửng:

-          Tao cũng hổng biết nữa, nhưng anh ấy hỏi địa chỉ nhà để bữa nào mời tao đi ăn chè.

-          Thôi thôi nghen! Báo cho nhà ngươi biết, anh đã có người yêu rồi. Người yêu của ảnh là cô bạn chung xóm, chung ca đoàn nhà thờ, là giọng ca solo hay thần sầu của giáo xứ và là hoa khôi rực rỡ của cả khu giáo họ Gò Vấp.

Tôi nổi quạu:

-          Tao đâu cần mày liệt kê mấy cái vụ “giọng ca thần sầu và hoa khôi rực rỡ”, những thứ mà tao hổng có.

-          Thì tao có sao nói vậy thôi, nhưng ổng đào hoa ga lăng bay bướm lắm, dính vào chỉ mang khổ thôi.

-          Giờ tao hỏi tội mày, vậy tại sao bữa đó mày cố tình bỏ đi để tao và anh Hùng ở lại nói chuyện riêng?

-          Nói thiệt, tao thấy ổng nhìn mày tha thiết quá nên không muốn làm ổng mất hứng, và tao cũng muốn cho mày...vài phút giây phù du để có hứng làm thơ.

Tôi thú nhận yếu ớt:

-          Mày đúng là bạn tao, đêm đó về tao có làm xong một bài thơ.

Tôi đứa nó xem, đọc tới đâu nó xuýt xoa tới đó:

-          Trời ơi, lãng mạn quá ngọt ngào quá, cho tao mượn chép lại.

Tôi giải thích:

-          Nghe tao nói nè, khi làm thơ, nhất là thơ tình, đôi lúc vì tìm vần cho phù hợp câu cú, nên phải xài những từ ướt át bay bổng chớ thực tế hổng phải vậy, hiểu chưa? Tao tặng mày bài thơ, tao chẳng cần nữa.

Chuyện tới đó là xong, tôi xếp anh vào ngăn dĩ vãng cho bụi bám thì hai năm sau, nhỏ Thủy thông báo:

-          Ê mày, chàng Hoàng Hùng mới cưới vợ.

Tôi hờ hững:

-          Vậy sao? Lấy cái cô “hát hay xinh đẹp” đó hả?

Thủy chề môi:

-          Thế thì còn gì để nói! Anh ấy đã bỏ người yêu thời thanh mai trúc mã để lấy con gái của ông bác sĩ trưởng khoa nơi bệnh viện anh đang làm. Gia đình nhà họ giàu có, lại đang chờ giấy tờ xuất cảnh qua Mỹ.

-          Nhưng kệ người ta mày ơi, người ta giỏi người ta đẹp trai thì người ta có quyền.

-          Mà tao ghét thì tao nói đó! Anh Tuấn tao nói bạn bè cũng bớt chơi với anh Hùng vì bản tính kiêu căng tự phụ. Hồi đó đi học ổng ký tên hai chữ Hoàng Hùng thôi, mà từ khi ra trường làm bác sĩ chứ ký của ổng có thêm hai chữ “BS”, sợ hổng ai biết nghề của mình hay sao á, nhìn ngứa con mắt!

Rồi một hôm, tôi có dịp đạp xe qua bệnh viện Gia Định đúng lúc anh Hùng từ cổng bệnh viện chạy chiếc Honda ra ngoài, anh reo lên:

-          Ôi, lâu quá không gặp Loan, em đến bệnh viện có việc gì không?

-          Dạ đâu có, em đến nhà người bạn ở hẻm Vạn Kiếp mới về, đi ngang đây thôi, anh làm ở đây hả?

Vừa dứt lời trời bỗng đổ mưa lớn, anh ấy kéo tôi vào quán nước ven lề đường. Sau khi thăm hỏi vài câu về cuộc sống hiện tại, anh nhìn tôi... âu yếm:

-          Loan nè, anh cám ơn em đã âm thầm mến thương và rung động vì anh, và cám ơn bài thơ, đời anh chưa có người con gái nào làm thơ cho anh, anh thuộc luôn bài thơ và thích nhất bốn câu này:

“Ước gì anh nắm lấy tay em

Một lần thôi, em sẽ không quên

Chắc hẳn là bàn tay anh ấm

Em sẽ run những ngón tay mềm...”

Tôi quê xệ lắm nhưng vẫn bình thản:

-     Ủa, nhỏ Thủy xí xọn đưa bài thơ cho anh hả?

-          Em đừng nghĩ oan cho bạn. Có lần anh ghé nhà Tuấn, anh và Tuấn vô tình nhìn thấy bài thơ trong cuốn vở của Thủy. Sau đó anh có ghé nhà em hai lần nhưng em vắng nhà. Hôm nào em làm Thơ tặng anh nữa nha, anh thích thơ em.

Tôi mỉm cười nghĩ thầm, mặt tui dễ dụ lắm sao? Tự dưng tôi nhớ tuồng cải lương Lan Và Điệp có câu Lan giận hờn: “có vợ rồi bỗng tử tế với người ta”, mặc dù hổng liên quan chút xíu nào. Nhưng tôi vẫn ngồi nghe anh ấy tuôn ra những lời dẻo hơn đường mật, vỗ về đưa tôi vào... mê cung. Chẳng lẽ tôi lại giải thích làm thơ là thế đó, là tha hồ tưởng tượng theo cảm xúc, là theo vần theo câu nên đôi khi phải dùng từ mùi mẫn, và chẳng lẽ tôi nói thẳng thừng rằng anh không còn cho tôi cảm hứng làm thơ nữa, vì anh đã ra khỏi tâm trí tôi ngay khi tôi biết anh có người yêu.

Bạn bè thân quen đều biết tánh tôi, hễ tôi thích người nào mà người ta không quan tâm để ý thì tôi mau chóng... chuyển hướng qua đối tượng khác, còn nếu biết “hoa đã có chủ” thì tôi càng bái bai mau lẹ, không thèm vấn vương. Cuộc đời còn nhiều người cho ta lựa chọn kiếm tìm, cớ sao phải sầu đau, yêu đơn phương, lụy tình, thậm chí tự tử vì tình, chi cho khổ! Cái đó hổng có tôi nghen, tôi đâu có ngu dữ vậy.

Mặc cho anh ấy độc thoại, tôi thong thả ban cho anh những phút “phù du”, dù sao trời cũng còn mưa xối xả, muốn ra về cũng không được, và tôi tranh thủ nhân dịp này “trả thù” chuyện xưa bằng cách uống hết ly sinh tố bơ bự tổ chảng rồi gọi thêm mấy cái bánh bao chiên cho bõ ghét.

Một lần nữa tôi đã xếp anh vào ngăn quá khứ cho bụi bám, giờ đây sau mấy chục năm, anh lại trồi lên facebook muốn kết bạn với tôi, lẽ nào tôi và anh ấy còn nợ nần gì nhau?

Đang xem profile thì tôi chợt thấy một tin nhắn của anh qua messenger: “Hello Kim Loan ơi, còn nhớ anh không, Bác Sĩ Hoàng Hùng, bạn của anh Tuấn đây. Cuộc sống và gia đình em ra sao, anh định cư ở Seattle gần Canada của em đấy. Rất vui được tìm lại em!”

Tôi trở lại profile anh ấy, mục tình trạng gia đình là “độc thân”, vậy là vợ anh ấy qua đời, hay là ly dị? bỏ vợ hay vợ bỏ? Anh qua Mỹ khi nào, có lấy lại bằng để tiếp tục hành nghề không? Vậy thì phải ký tên Hoàng Hùng M.D cho đúng kiểu Mỹ chớ!

Người có thể giải đáp cho tôi là nhỏ Thủy thì đã nằm sâu dưới lòng đại dương từ chuyến vượt biên năm nào. Tôi vào xem phần photos, chỉ có vài tấm hình, trong đó có một tấm thuở anh còn là sinh viên Y Khoa bên Việt Nam, rồi tấm hình mới đây, anh đứng bên Golden Gate ở San Francisco. So với nhiều đàn ông cùng tuổi, anh vẫn còn phong độ, không bụng bự, không “tóc gió thôi bay”, anh mặc chiếc quần kaki với chiếc áo thun gọn gàng, cặp mắt kiếng vẫn y chang, khuôn mặt có thay đổi theo thời gian nhưng tôi vẫn nhận ra.

Tôi phân vân suy nghĩ giữa hai nút “confirm” hay “delete”. Anh ấy liên lạc với tôi để làm gì nhỉ! Nhìn anh vẫn còn... “ngon cơm” lắm, máu đào hoa bay bướm chắc cũng vẫn còn? Sai địa chỉ rồi anh ơi! Tôi đã qua rồi thuở mới lớn mộng mơ, trái tim tôi đã khác rồi, hơn nữa, tôi chưa hề và sẽ không bao giờ tin vào những câu ngôn tình, những lời thề hứa “yêu em dài lâu”, “chỉ có mình em”, “ngàn năm vẫn đợi”, lại càng không tin “yêu em đến... kiếp sau” (điên à?), và sợ nhứt là câu: “trải qua... hàng chục cuộc tình, anh nhận ra em mới chính là tình yêu của anh” (hổng dám đâu!).  Anh nghĩ tôi đang hồi Xuân, muốn thả lời ong bướm, cho tôi vài câu đùa cợt phù du như ngày đó ư, thôi đi chớ, xưa rồi Diễm, ý lộn, xưa rồi Hùng ơi!

Nhưng tôi cũng do dự, biết đâu anh ấy cũng đã khác, chỉ là tìm lại những người bạn đồng hương Gò Vấp cũ trong đó có tôi để chia sẻ buồn vui nơi xứ người, ôn lại kỷ niệm thanh xuân thì sao, tôi có nghi oan cho người ta không? Suy nghĩ như thế mà chẳng hiểu “ma xui quỷ khiến” thế nào, tay tôi vẫn mau mắn ấn nút “delete” cái rụp.

Thây kệ đi, vậy là... ý trời, thà “delete lầm còn hơn bỏ sót” để tránh ... hậu họa về sau, ông bà ta vẫn nói “phòng bệnh hơn chữa bệnh” đấy thôi.

Xin lỗi anh nhé, BS Hoàng Hùng!

Edmonton, Tháng 3/2023

KIM LOAN

 

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

HELLO …

(Cảm tác theo bài hát Hello do Adele hát, lay động hàng triệu trái tim khán thính giả)

 

Hello!? Anh ơi hãy nhấc phone

Sao anh lặng im, để em buồn

Đã bao nhiêu năm rồi anh hỡi

Tháng ngày theo mạch sống trào tuôn

 

Em tự hỏi, nếu mình gặp lại

Trải lòng về những chuyện đã qua

Với em, thời gian không thể xoá

Như người ta nói, vết thương xưa

 

Hello, anh ơi, anh có hay

Em đang trở lại nơi chốn này

Thuở đó chúng mình yêu say đắm

Mối tình đầu kỷ niệm còn đây

 

Nhưng rồi, em và anh xa lắm

Bao dặm đường, lòng cũng cách ngăn

Em muốn nói ngàn lời xin lỗi

Vì đã làm tim anh vỡ tan

 

Anh vắng nhà, phone reo quạnh hiu

Dù em vẫn gọi, gọi rất nhiều

Với anh, giờ chỉ là vô nghĩa

Hờ hững, ơ thờ chuyện tình yêu?

 

Em biết, em biết, và em biết…

Anh chẳng còn bận tâm nữa đâu

Dù mình đã từng yêu tha thiết

Dù mình đã từng là của nhau

 

Em nhớ, em nhớ, và em nhớ…

Dù anh sẽ chẳng trả lời phone

Phố cũ nơi đôi ta hò hẹn

Nắng cũng thay màu cả hoàng hôn

 

Em đã ra khỏi cuộc đời anh?

Một lần nữa thôi, nghe đi anh

“Hello?”, em mong anh vẫn khoẻ

Dẫu biết lời theo gió mong manh!

 

KIM LOAN

CHUYỆN TÌNH YÊU MUÔN THUỞ

Tôi vừa đạp xe về tới cổng nhà, thấy chị Hạnh ngồi trước cửa nhà chị ấy khóc nức nở, đôi mắt sưng húp. Tôi bỏ xe vào sân rồi chạy qua bên chị:

- Lại bị ổng goánh nữa hả chị? Thôi vô nhà đi, còn trái cây gì chưa bán hết, em lấy nhe! 

Tôi đưa chị vào nhà, bàn ghế chỏng chơ, lạnh lẽo, góc nhà là tủ kiếng bán trái cây của chị, còn sót vài miếng thơm (dứa) và tô muối ớt. Tôi lấy thơm, ngồi chấm muối ớt, ăn giùm chị, trong lúc chị dọn dẹp các thứ ngổn ngang trong nhà.

Chuyện vợ chồng Hạnh-Bằng cãi nhau, rồi goánh nhau (thực ra là chị bị goánh), rồi lại huề nhau vui vẻ “như chưa hề có cuộc …goánh nhau” xảy ra như cơm bữa, riết rồi trong con hẻm này, chẳng ai còn để ý nữa. Thỉnh thoảng, thấy chị la khóc, cũng có người chạy qua giải cứu, khuyên can, nhưng “được” cái, anh Bằng sau vài cú chưởng nhắm vào chị cho hả cơn say, thường lăn ra giường đánh môt giấc cho tới chiều tối, tỉnh dậy, rượu đã giải xong, chị lo cơm nước cho anh, anh lại … mắc cở nói vài lời xin lỗi, thế là… huề! Có khi, anh chẳng ngủ, mà bỏ nhà đi loanh quanh đâu đó trong xóm, ngủ nhờ nhà ba má anh gần đó, hoặc nhà bạn bè, chập tối mò về nhà, đâu lại vào đấy. Anh bảo, đó là con “ma rượu”, chớ lúc bình thường, anh còn đùa giỡn, lâu lâu ôm đờn, ca mấy câu bolero ngọt hơn đường phèn tặng “vợ yêu”.

Sau mỗi lần bị chồng đánh tơi bời đó chị Hạnh thường... e thẹn tâm sự với hàng xóm, may là chị đã đi thắt buồng trứng, chớ nếu không, mỗi lần huề là mỗi lần... sản xuất ra một đứa, nuôi sao cho xuể !

Chuyện tình yêu của anh chị khá đặc biệt, hổng được bình thường, vì chị lớn hơn anh cả chục tuổi, và họ đến với nhau sau khi cả hai đều đã trải qua một lần đò.

Anh là người xóm tôi. Khi vào tuổi thanh niên, đến tuổi cập kê, anh là chàng trai đẹp trai, với cái miệng móm duyên, làn da nâu, mái tóc mềm, và đôi mắt đa tình biết nói. Anh làm công nhân trong một xí nghiệp gần nhà, và lấy vợ, cũng là một chị xinh đẹp trong xóm. Mà người ta bảo, tuổi trẻ chưa có nhiều trải nghiệm, cái “tôi” quá lớn, nên hai vợ chồng đường ai nấy đi sau khi sinh được đứa con gái còn ẵm ngửa.

Sau đó, vợ anh mang con đi nơi khác, thỉnh thoảng mới về xóm. Anh chán nản một thời gian, tìm quên nơi các cuộc nhậu nhẹt, rồi đổi sang nghề lái xe đường dài, từ Sài Gòn về các tỉnh miền Đông, chở hàng cho các bạn hàng buôn bán.

Tại các chuyến đi này, anh gặp chị Hạnh, qua nhiều lần chở hàng, rồi anh đưa chị về xóm sống chung, lần lượt sinh được hai đứa con, cỡ 4-5 tuổi.

Lúc về xóm, anh chị ăn nhờ ở đậu bên nhà ba má của anh, rồi dọn qua mảnh đất trống sát bên nhà tôi (vốn là một nhà của một gia đình đi kinh tế mới, rồi bị đập phá tan hoang). Anh khéo tay, dựng một mái nhà lá, nhỏ bé nhưng ấm cúng, đúng kiểu “một mái nhà tranh hai trái tim vàng”. Anh không chạy xe hàng nữa mà làm nghề tự do với bạn bè, còn chị bán tủ trái cây trước cửa nhà, được bà con lối xóm mua ủng hộ trong đó tôi là khách hàng quen thuộc nhứt, nên ngày nào chị bán cũng hết sạch.

 

Tôi vừa nhâm nhi thơm chấm muối ớt, hỏi chị:

- Ổng đi rồi hả chị, còn hai đứa nhỏ đâu?

- Tụi nó chạy qua bên nội chơi, còn ổng đi đâu thì kệ xác, chả quan tâm!

Câu này tôi nghe… quen quen, chắc cỡ… cả trăm lần rồi chớ chẳng phải ít, nhưng lần này nói xong, chị ngồi bên đầu giường, bật khóc. 

Tôi hốt hoảng:

- Chị có bị đau ở chỗ nào không, để em chạy về lấy chai dầu xanh?

- Thôi, thôi, chị không sao đâu! Chỉ thấy buồn và ân hận …

- Có hai mặt con rồi, ân hận gì chứ! Con Thuý Thằng Tí xinh xắn quá chừng. Hơn nữa, chị thừa biết ổng yêu vợ yêu con, chỉ có cái tật rượu chè rồi ngứa tay ngứa chưn thôi mà.

Chị quẹt nước mắt:

- Chị ân hận, với người chồng trước của chị kìa! Chị chưa kể cho bất cứ ai trong xóm này, nhưng hôm nay chị tâm sự cho riêng em thôi, em phải hứa giữ bí mật cho chị, đừng có rỉ tai cho ai, nghe chưa?!

Tôi còn nhai miếng thơm trong miệng, chưa kịp thú nhận là không dám hứa cái vụ “đừng nói cho ai nghe”, tốt nhứt là chị đừng kể, nhưng chị đã tuôn bầu tâm sự:

- Chị là người đàn bà bỏ chồng em ơi!! Chồng chị làm thợ may trong xóm, chị phụ chồng vắt sổ, đơm nút áo, cuộc sống không giàu có nhưng chẳng thiếu thốn gì, mà chỉ thiếu tiếng cười trẻ thơ. Anh thương chị và an ủi chị nhiều lắm. Chị đôi khi cũng thấy buồn vì không sanh được con cái, nên chị đi buôn trái cây cho khuây khoả và kiếm thêm thu nhập. Những chuyến đi, có khi cả tuần mới về, cuộc sống vẫn êm ấm hạnh phúc nơi xóm nhỏ vùng Hố Nai. Rồi chị gặp anh Bằng, ảnh vui tính, hay kể chuyện hài, làm các chuyến đi thêm vui nhộn. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén dù chị hơn ảnh nhiều tuổi. Trong một lần xe bị hư chờ sửa qua đêm, chị và anh Bằng đã vượt quá giới hạn, nhưng bất ngờ là chị được mang thai, điều chị mơ ước từ bấy lâu nay. Chị sung sướng, rối bời tâm tư, dự tính về khai thật với chồng, vì chị tin rằng chồng chị nhân hậu sẽ chấp nhận rồi cùng nuôi con, nhưng khi anh Bằng nghe tin chị có thai thì ảnh mừng rỡ tỏ tình với chị, rủ chị về đây, và chị đã ngã lòng ưng thuận. Chị không đủ can đảm nói lời chia tay với chồng, nên chị đã lặng lẽ bỏ nhà ra đi …

- Trời! Thật vậy sao ?Cũng tội chồng chị quá!

- Để chị kể hết tội của chị em ơi! Sau khi âm thầm soạn sẵn hành lý cho cuộc bỏ trốn, chồng chị không hề hay biết, vì chị dấu các túi đồ dưới các cần xế đựng hàng mỗi chuyến một ít. Hôm ấy, như thường lệ, trước một chuyến hàng, nhưng lần này chị làm một bữa cơm thịnh soạn ê hề cơm gà cá gỏi, mua thêm bia rượu, như là bữa ăn cuối cùng của tình nghĩa mười mấy năm chồng vợ đậm đà. Chồng chị vẫn vô tư ăn uống, rồi vào phòng nằm nghỉ, chị xách mấy cần xế bước ra khỏi nhà, gọi xe ba gác đưa ra ngã tư có xe anh Bằng đang chờ. Giây phút nhìn lại căn nhà lần cuối, nghĩ đến chuyện chồng chị sẽ mòn mỏi đợi chờ, để rồi không bao giờ thấy chị trở về mà chị nghẹn ngào, nhưng không hiểu sao, chị vẫn cất bước ra đi... 

 

Kể tới đây, chị lại oà khóc to hơn, đôi vai rung lên từng hồi. Tôi ôm chị:

- Thôi chị! Mọi sự đã muộn rồi, chị chưa về thăm anh ấy lần nào ư?

- Chưa bao giờ!! Chị đâu dám về, nhưng chị đã nhắn tin về cuộc sống hiện tại của chị, cầu xin anh tha thứ và chị thật sự mong anh có gia đình mới, tốt đẹp hơn.

- Nhưng chị hạnh phúc với anh Bằng, phải không ??

- Em thấy rồi đó, lúc tỉnh rượu, anh ấy là người rất dễ thương, chăm lo nhà cửa không chê vào đâu được!

Ừa, cũng may mắn cho chị, vì thực lòng mà nói, sau cơn say anh Bằng là một con người khác, thân ái hoà đồng, khéo tay khéo chân giúp chòm xóm những việc lặt vặt, chưa kể tài “ca lẻ”, chiều chiều tối tối, khi gió mùa hây hây lạnh, ảnh ôm cây đờn guitare, ca mấy bản nhạc bolero, nhứt là nhạc Lính trước năm 1975 cả hẻm đều im lặng nằm trong nhà thưởng thức.

Ừa, cũng may mắn cho chị, là khi anh lên cơn nóng, anh chỉ “nựng” chị vài chiêu, rồi bỏ đi, chớ nếu không, dám có án mạng đình đám như bên Mỹ mới đây, Brian Laundrie siết cổ bạn gái Gabrielle Petito, rồi một tháng sau đó bỏ đi tự tử bằng súng với thư tuyệt mệnh để lại, xác nhận mình đã giết người yêu trong cơn nóng giận khi hai người cãi nhau trong chuyến đi chơi Road Trip.

Đến nay, theo tin mới nhứt tôi vừa nhận được, anh Bằng đã qua đời vì bệnh, chị Hạnh không còn vất vả buôn bán như xưa nữa, tuy chẳng giàu có gì nhưng an bình bên con, cháu. Tôi vẫn nhớ giữ lời hứa, không rỉ tai cho ai nghe chuyện tình của chị, mà chỉ đưa lên… báo cho mọi người đọc thôi!

 

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

MÙA XUÂN ĐÓ, RẤT ĐẸP …

Bữa đó tôi bỗng nổi hứng… xí xọn đi làm móng tay móng chân để ăn Tết. Nhưng vì hoàn cảnh trại tỵ nạn, dụng cụ làm móng cũ kỹ, không đảm bảo vệ sinh, nên vài hôm sau, ngón tay trỏ bên bàn tay phải của tôi bị sưng mủ và hơi bị nhức. Lúc đầu cứ nghĩ từ từ sẽ hết, nhưng vết mủ ngày càng lớn, đổi màu và đau hơn dù tôi đã uống thuốc giảm đau. Thế là đành phải lên bệnh viện tìm bác sỹ quen, mới tá hoả, vì mủ đã làm hư hại vào thịt của ngón tay. Bác sỹ bèn ra lệnh khẩn cấp, làm tiểu phẫu ngay lập tức, cắt phần thịt bị hư, khâu vài mũi, rồi băng bó mới cho về nhà. Bác sỹ cũng dặn, tránh đụng vào nước trong vòng ít nhứt hai tuần. Nghe vậy, tôi rầu thúi ruột, Tết nhứt đến nơi rồi mà mang “thương tích” máu me, coi bộ xui xẻo, không may mắn chớ chẳng chơi.

Việc nấu ăn cho mấy ngày Tết thì không đáng lo, vì nhờ ngón tay bị băng bó, tôi có lý do chánh đáng đi mua sắm bánh trái mà không sợ bị mang tiếng là “cô Tám Đoảng”.

Việc tắm rửa, tuy có chút bất tiện, cũng giải quyết được, nhưng khó khăn lớn nhất là giặt quần áo thì tôi chịu thua, vì tôi chỉ thuận tay phải, không thể giặt đồ với một bàn tay trái. Tôi đang nghĩ sẽ tìm một một bác lớn tuổi trong khu, nhờ làm giúp rồi trả tiền, thì thằng Tí , ở nhà sát vách, (có biệt danh là Tí Mỏ Nhọn, do chính… má nó đặt, vì cái miệng tà lanh, hóng chuyện, nói không lành da non của nó) báo với tôi:

- Chị ơi, em biết có một chỗ chuyện giặt ủi, để em dẫn chị qua. 

Tôi theo nó đi lòng vòng qua mấy con hẻm quanh co của khu A, giữa buổi trưa mặt trời đứng bóng, cuối cùng cũng đến được dãy nhà sát hàng rào, gần bên khu tỵ nạn người Lào. Thằng Tí dừng lại, chỉ cho tôi tấm bảng bằng giấy các- tông treo lủng lẳng trên đầu nhà với hàng chữ đen viết hoa thiệt bự: “Nhận Giặt Ủi”.

Tôi tự hỏi, ai ở trại cần giặt ủi nhỉ? Như tôi đây, cứ thay phiên mặc mấy bộ đồ thun Cao Uỷ. Đi làm thiện nguyện thì tròng vào cái quần Jeans, còn bộ đồ để gặp phái đoàn là cái quần tây thun và cái áo thun sang hơn một chút, hiệu Cá Sấu, nên tôi chưa bao giờ xài bàn ủi. Tôi thật sự bất ngờ, dù rằng mấy năm ở trại, có rất nhiều nghề đã được bà con sáng tạo ra, để kiếm tiền sinh sống, và phục vụ nhu cầu của người tỵ nạn. Nào là làm bếp dầu, đèn dầu, đóng bàn ghế gỗ, làm bánh sinh nhựt, may quần áo, sửa giày dép, gánh nước mướn, nấu cơm tháng, cắt tóc gội đầu, làm móng tay, mát-xa, coi bói, Tết đến thì có bánh chưng bánh tét mứt dừa, mùa Trung Thu có bánh nướng, bánh dẻo mới ra lò ngay trong trại nữa cơ. Nhưng “giặt ủi” thì có nằm mơ tôi cũng không nghĩ đến, vì đó là nhu cầu quá xa xỉ ở nơi đây.

Thằng Tí thấy tôi ngẩn ngơ, bèn lên tiếng:

- Chị thấy em nói có sai đâu nà?!

Tôi hỏi nhỏ nó:

- Ủa, trong trại này mà cũng có người cần đi giặt ủi sao?

Nó vênh mặt, trợn mắt:

- Có chớ sao không? Ví dụ như…chị nè!

Rồi nó cười duyên:

- Em nghe nói mấy anh mấy chú độc thân, đi làm thiện nguyện bận rộn hoặc mấy thanh niên làm biếng, thảy qua đây giặt cho xong đó chị. Giá cả bình dân lắm, họ giặt bằng tay rồi ủi bằng bàn ủi than. Nhưng chắc chị là khách hàng phụ nữ đầu tiên đó! 

Nói xong, nó gọi lớn vào trong nhà:

- Hello…? Có ai ở trỏng không, có khách giặt ủi đây! 

Hình như có bóng người vụt chạy ra sau hè, thằng Tí nhanh như chớp rượt theo, (thiệt không hổ danh là thằng… nhiều chuyện). Tôi đứng chờ ngay giữa lô nhà, dưới một bóng cây khẳng khiu bên mấy lu nước. Lát sau thằng Tí đi ra, bộ mặt nghiêm nghị, lắc đầu:

- Ảnh nói ảnh không giặt ủi cho chị!

Tôi quá đỗi ngạc nhiên:

- Anh nào? Và tại sao?

Thằng Tí ngớ người ra, đưa tay gãi đầu, lại chạy biến ra phía sau nhà, rồi trở ra, cười cười:

- Vì ảnh là… học trò của chị.

- Học trò nào, lớp nào?

Thằng Tí lại chạy đi như con thoi, lại quay ra vừa thở vừa nói:

- Ảnh tên Hiền, đang học lớp vỡ lòng English của chị ở trường ESL đó.

Thì ra là thế. Thời gian đầu mới đến trại thì tôi làm trong bưu điện và dạy tiếng Việt cho các em nhỏ. Khi đậu thanh lọc chờ định cư, tôi chuyển qua làm cho văn phòng Cao Uỷ và buổi sáng dạy Tiếng Anh cho trường ESL. Vì là lớp Vỡ Lòng cho người lớn nên “học trò” của tôi có người già hơn cô giáo. Một số người là dân miền tây nam bộ, thật thà chất phác, giọng nói còn phảng phất mùi phèn ruộng, nói Tiếng Việt còn sai lỗi, giờ phải bập bẹ học English để chuẩn bị cho tương lai sau này trên đất nước thứ ba.

Hiền lớn hơn tôi vài tuổi, tính tình nhút nhát và hay mắc cở, hiền như cục đất, đúng với cái tên. Nghe nói nhà ở miệt Cà Mau, làm nghề đánh cá bữa đói bữa no, rồi “canh me” theo tàu vượt biên qua đây. Ở trại, Hiền là “con bà Phước” nghĩa là không có thân nhân nước ngoài tiếp tế, nên Hiền làm các việc lặt vặt kiếm thêm, như xách nước, đi lao động thuê, ai ngờ có cả “tiệm” giặt ủi này.

Hiền rất hiếm hoi nói chuyện với tôi, cũng chưa lần nào nhìn thẳng vào tôi trong giờ học. Nếu trong lúc giảng bài, tôi có kêu Hiền đứng lên trả lời câu hỏi, thì Hiền lí nhí, mắt nhìn đi chỗ khác (sợ cô giáo… ăn thịt hay sao á!).

Thế đấy, Hiền chưa bao giờ đối diện, nhìn vào mắt tôi suốt mấy tháng học, thì đời nào Hiền lại chạy ra gặp tôi trong một tình huống “phức tạp” và “nhạy cảm” như thế này? Tôi ra dấu cho thằng Tí đi về, nó chợt nhớ ra, hớn hở nói:

- À, ảnh có hỏi em tại sao chị cần giặt ủi, em liền kể đầy đủ sự tình cái vụ chị đi làm móng, rồi bị mủ, rồi lên bệnh viện gặp bác sỹ, rồi mổ ngón tay…

Tôi chặn lời nó:

- Tóm lại là sao, ảnh nói gì?

Thằng Tí cụt hứng, nhìn tôi ngại ngùng, nhe răng cười:

- Dạ, nghe xong, ảnh… hổng nói năng chi, nhưng coi bộ suy nghĩ mông lung lắm!

Giờ thì đến lượt tôi cụt hứng, rồi vỗ vai thằng nhiều chuyện:

- Thôi để chị tự lo được rồi. Cám ơn Tí Nhỏ Mọn, í lộn, Tí Mỏ Nhọn nhe! Mà nè, làm phiền em chịu khó chạy vô trỏng… lần chót, nói với anh Hiền là chị cám ơn, dù sao mình cũng đã đến đây làm phiền người ta.

Sáng hôm sau, tôi đến lớp ESL, là ngày liên hoan mừng Tết. Bình thường thì Hiền đã chẳng bao giờ nhìn thẳng vào tôi, sau cái vụ “giặt ủi” hụt ngày hôm qua, Hiền còn lạnh lùng phớt lờ tôi hơn nữa.

Cả lớp ăn uống, bánh kẹo, trái cây, nước ngọt, ca hát chụp hình tưng bừng, Hiền cũng cười vui theo nhưng vẫn né đối diện với tôi. Cứ lúc nào tôi nhìn Hiền là y như rằng Hiền đang “bận” nhìn… ngoài cửa sổ (tìm gì ngoài đó hổng biết!). Tôi không mắc cở thì thôi, chứ Hiền hà cớ gì chớ! Tiệc tan, có vài học trò nán lại, tặng quà Tết cho cô giáo, Hiền đi thẳng ra cửa, không thèm chào tôi một câu.

Tối giao thừa, đi lễ nhà thờ về, tôi thấy một hộp nho khô để ngay dưới cửa, và một tấm thiệp chúc Xuân của Hiền, với nét chữ vụng về (chắc đôi tay xưa nay chỉ quen quăng lưới đi biển đánh cá), viết những lời chúc đơn giản, không màu mè “hoa lá cành”, nhất là câu tái bút chân tình: “Cô Loan ơi, nếu chưa tìm được ai giặt đồ, thì đừng ngại mang qua nhà Hiền nhé, Hiền đã nhờ một bà bác làm giúp rồi, không sao đâu!”

Trời ơi, anh chàng học trò nhút nhát của tôi, đi học thì không dám nhìn cô giáo, tặng quà Tết cho cô giáo cũng phải lén lút (nhờ vào bóng tối… đêm ba mươi), giờ quay ra khuyến khích ủi an tôi “đừng ngại và không sao”.

Đồng hồ điểm 12 giờ đêm, cả trại vang lên tiếng đập nồi niêu xoong chảo thay cho tiếng pháo, mọi người chúc tụng nhau rộn ràng, ăn uống vui vẻ xôn xao. Trong lúc chờ đợi mấy người bạn chung phòng Cao Ủy đến cùng ăn bữa bánh ngọt trà nóng mừng phút sang mùa, tôi nhìn ngón tay còn băng bó của mình, không còn thấy “xui xẻo” nữa, mà ngược lại, tôi thấy cả một trời Xuân êm ái Tình Người mến thương nhau trên mảnh đất tạm dung này.

 

KIM LOAN

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

CHIẾC ÁO ĐÊM NOEL

Bữa đó tôi đạp xe đi chợ Xóm Mới, gặp nhỏ Hương Văn ngay đầu chợ, nhỏ hỏi tôi:

- Ê, năm nay nhà ngươi có mục Reveillon với nhóm nào không??

Tôi thở dài:

- Trường mới lớp mới thì bạn bè chưa quen lắm, chắc ở nhà thôi!

- Vậy thì qua nhà bác tao chơi đêm Noel nhe?

- Nhà bác mày có gì mà chơi!?

- À quên, tao chưa nói hết ý, bà chị họ con bác Ba tao đó, chị ấy tổ chức tiệc Noel cho vài bạn bè thân, chị ấy cho tao rủ thêm bạn, nói chung là toàn người trẻ tuổi.

- Nhưng mày có chàng người yêu tháp tùng, tao đến đó lẻ loi dư thừa à?

Nó chu mỏ:

- Mày đừng lo! Tao có rủ nhỏ Thuỷ lớp mình nữa, hai đứa bay đi chung về chung là an toàn, ai nỡ để mày cô đơn đâu nà!!

Chúng tôi là bạn bè thân thiết suốt ba năm học High School, năm nào lớp trưởng cũng tổ chức tiệc Noel cho cả lớp tại nhà của một người nào đó luân phiên nhau. Năm ấy là năm chúng tôi vừa tốt nghiệp ra trường mỗi đứa một nơi, kẻ vào Đại Học, người vào Cao Đẳng, đứa thì đi làm, đứa ở nhà chờ sang năm thi tiếp. Lẽ ra chúng tôi cũng có tiệc Noel họp mặt, nhưng hồi giữa tháng 12 bố của một bạn trong lớp bất ngờ qua đời vì tai nạn giao thông, nên mọi người đồng ý huỷ tiệc Noel, thành ra tôi mới bị “ế độ” và nhỏ Hương Văn nhảy ra rủ rê. Tôi nhận lời vì có nó quen biết, hơn nữa, đêm Noel mà nằm ở nhà thì buồn quá, đi đến chỗ lạ cũng có thú vị là không ai biết mình là ai, tha hồ vô tư ăn uống rồi tiệc tàn đi về, là xong.

Vì chủ nhà và khách mời đa số đều có đạo Công Giáo, nên tiệc bắt đầu lúc 9 giờ tối, để mọi người xong xuôi chuyện đi lễ đêm Vọng Giáng Sinh, rồi đến tiệc mừng Chúa.

Tôi và nhỏ Thuỷ đến nơi, đó là căn nhà lầu đúc ba tầng nằm gần chợ Xóm Mới, ngay mặt đường giữa xứ Hà Nội và xứ Lạng Sơn. Nhỏ Hương Văn ra đón chúng tôi, dẫn xe vào cổng, bước vào nhà, sao thấy im re, có thấy bàn tiệc gì đâu. Tôi hỏi:

- Ủa, chả lẽ tụi tao đếm sớm nhứt sao, mà cũng chưa thấy bày biện gì cả?

Nhỏ cười lớn, chọc quê tôi:

- Hai đứa bay đến trễ nhứt thì có! Khách đã có mặt đầy đủ trên sân thượng rồi kìa.

Nhỏ Thủy reo lên:

- Hả ?? Làm trên sân thượng?? Độc đáo à nghen!!!

Chúng tôi theo chân Hương Văn dẫn lên sân thượng. Ngạc nhiên và thích thú vì lần đầu dự tiệc với nhiều người lạ, và tiệc ngoài trời đêm đầy sao rất lãng mạn.

Không gian bữa Reveillon được trang hoàng lấp lánh mờ ảo, với những chiếc ghế xinh xắn xung quanh các chậu cây cảnh khắp sân thượng. Ở góc ngay cửa lên xuống là chiếc bàn dài để thức ăn theo kiểu buffet, và nổi bật là dàn máy cat-xet tối tân, đang mở hết công suất bài hát gợi nhớ gợi thương vời vợi qua tiếng hát nức nở của nữ hoàng sầu muộn Giao Linh:

“Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời,

người hẹn cùng tôi ngày về khi đất nước yên vui…”.

Chúng tôi chào hỏi với chị họ của Hương Văn, chủ nhân buổi tiệc, còn những người khác, chỉ gật đầu nếu chạm mặt dưới ánh sáng nhấp nháy của những dây đèn bên cây thông Giáng Sinh thật to.

Tiệc bắt đầu, mọi người rộn ràng ăn uống, nói chuyện, nghe nhạc, đứng ngồi hoặc đi loanh quanh hỏi thăm nhau. Cảnh tượng ấm cúng, trang trọng, vui tươi mừng đêm cực linh Thiên Chúa giáng trần.

Trời càng về khuya gió trên sân thượng càng nhiều, ngoài trời có hơi sương nên người tôi bắt đầu run lên, vì tôi ăn mặc khá phong phanh. Nhỏ Hương Văn có bạn trai đi chung nên lo áo cho nó, nhỏ Thuỷ thì vốn tính cẩn thận nên mặc chiếc áo thun dầy, tay dài, cổ lọ nên nó chẳng bị hề hấn gì. Còn tôi, với chút máu điệu, vả lại cứ nghĩ tiệc làm ở trong nhà, nên tôi diện chiếc quần Jeans bó và chiếc áo lửng cổ thuyền mong manh, vì trời Sài Gòn có bao giờ lạnh lắm đâu. Nhìn mọi người ai cũng ấm áp, (chắc họ biết tiệc làm ngoài trời sân thượng) tôi thấy thèm, nhưng tôi có quen biết ai để mà nhờ vả hỏi han, mà biết hỏi làm sao. Lòng tự trọng và lòng kiêu hãnh của tuổi trẻ nhắc nhở tôi ráng chịu đựng, cố ngồi im lặng thu mình co ro, tới đâu tính tới đó. Mà hai nhỏ bạn vàng của tôi cũng vô tình lắm cơ, chúng cứ mải mê ăn uống, cười nói, chẳng để ý tôi đang lạnh lẽo, tái tê khắp người.

Chịu đựng thêm một lúc, răng tôi bắt đầu đánh vào nhau lập cập, và nước mắt nước mũi bắt đầu lã chã…tuôn rơi. Tôi lúng túng chưa biết làm sao, thì một anh chàng ngồi đối diện liền đứng lên, vòng qua chỗ tôi ngồi, đưa cho tôi mẩu khăn giấy, rồi cởi chiếc áo khoác của anh ta đưa cho tôi:

- Cô lau nước mũi đi và mặc chiếc áo này vào. Cô đang run rẩy rồi kìa!

Trời ơi, tôi muốn độn thổ ngay lập tức, nhưng vẫn vội vàng chụp lấy cái khăn giấy và chiếc áo, lí nhí cám ơn “vị cứu tinh” của tôi vì anh ta chỉ cần đến chậm vài phút là tôi gục ngã vì chết cóng!

Người ấy xua tay ý là không có chi, rồi đi ra phía cửa sân thượng, xuống dưới nhà.

Người tôi đã bớt lạnh, tôi tính nhờ ai đó tìm một ly trà ấm, nhưng nhỏ Hương Văn biến đi đâu chả thấy, còn nhỏ Thuỷ ngồi kế bên tôi mà có thèm để mắt đến tôi bởi nàng vẫn líu lo nói chuyện với chàng trai bên cạnh. Đúng lúc đó, “người ấy” xuất hiện trở lại nơi đầu cửa sân thượng, mang đến cho tôi ly sữa nóng:

- Cô uống ly sữa, tôi có thêm chút café cho cô vừa ấm bụng vừa tỉnh táo nhé!

Anh ta đặt ly sữa xuống trước mặt tôi, chẳng cần chờ tôi cám ơn, rồi lại nhanh nhẹn ra phía dàn máy đổi đĩa nhạc, có vẻ như anh ta rất thân quen với chủ nhà và một số người ở đây.

Chiếc áo và ly sữa của anh ta làm tôi tươi tỉnh lại, rung động theo tiếng hát của Sĩ Phú qua băng nhạc Sơn Ca mà anh ta vừa mở volume thật to, chắc để cho …tôi nghe (còn ai khác nữa chớ, anh ta mới tặng tôi một ly sữa rất ngọt ngào đấy thôi):

 

“ Mùa Noel đó chúng ta quen nơi giáo đường

Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu …”

Đến nửa đêm tiệc bắt đầu tàn, người lai rai ra về, chúng tôi ở lại cuối cùng, phụ nhau dọn dẹp vài thứ linh tinh.

Hương Văn đưa tôi và Thuỷ ra ngoài cổng, có “người ấy” và vài người khác cùng ra tiễn. Tôi dừng lại, đưa chiếc áo cho anh ta nhưng anh ta lại khoác nó trở lại vai tôi:

- Em cứ mặc về nhà, hôm nào tôi sẽ ghé qua lấy!

Tôi lùng bùng cái lỗ tai, mới hồi nãy còn gọi tôi là “cô”, giờ chuyển tông qua “em” từ khi nào vậy trời! Còn “hôm nào ghé qua lấy” là sao? Có biết nhà tôi đâu chớ, tính làm quen hả, tôi đâu phải loại con gái dễ dàng như thế! Tôi liền giảy nãy:

- Dạ thôi, không cần đâu ạ!

Rồi cởi chiếc áo quăng vào người anh ta lần nữa, nhưng anh ta lại nhẹ nhàng khoác nó trở lại vai tôi, cười mỉm chi:

- Nếu em không muốn tôi tới nhà thì cứ nhờ người đưa lại, không sao cả. Đường về còn dài, không đủ ấm sẽ bị cảm lạnh đấy, cô bé!

Rồi mọi người cũng xúm vào đồng tình, tôi không còn chọn lựa nào khác, không thể tiếp tục dùng dằng đẩy đưa chiếc áo qua lại, tôi đành nói lời cám ơn và cùng nhỏ Thuỷ đạp xe về nhà.

Hôm sau là ngày nghỉ, buổi chiều cơm nước xong, tôi mang chiếc áo đến nhà Hương Văn, nhờ nó mang đến nhà Bác nó như lời dặn của người ấy.

Trả áo rồi, tôi bắt đầu … chờ đợi. Tôi tin chắc rằng, thế nào người ấy cũng sẽ kiếm cách đến nhà tôi, (từ Xóm Mới xuống Thông Tây có bao xa). Chả lẽ tự dưng mà anh ấy “hy sinh” chịu lạnh để cho tôi mượn áo, tự dưng pha cho tôi ly sữa, rồi tự dưng biểu tôi mặc áo về nhà để anh ấy ghé lấy?  Cái kiểu làm quen “xưa như trái đất” ấy sao mà dễ thương chi lạ!

Khi anh ấy tìm đến, tôi sẽ rất kiêu kỳ, sẽ rất điệu đà, sẽ rất duyên dáng xinh đẹp, và trêu chọc anh ấy rằng, em đã trả áo anh rồi, còn nợ nần gì nữa đâu!

Nhưng sau đó vài ngày, vài tuần, rồi vài tháng, chẳng có ai đến tìm như tôi tưởng tượng. Tuổi trẻ với những bận rộn học hành cũng làm tôi quên đi chuyện ấy, dù có đôi lần tôi thấy giận hờn vu vơ (chẳng biết giận … ai!), và thấy tiếc nuối ân hận vì đã mau mắn trả lại cái áo… sớm quá!!

Mấy chục năm đã trôi qua, cứ mỗi khi Tháng Mười Hai trở về, trời Canada tuyết phủ trắng xoá không gian, thỉnh thoảng tôi lại nhớ về đêm Reveillon tuổi mười chín, trên sân thượng căn nhà lầu đúc xứ Lạng Sơn và “sự cố mượn áo” năm xưa. Đêm Chúa giáng trần cứu rỗi nhân loại, còn người ấy “cứu vớt” tôi qua cơn lạnh giá đêm Noel. Vì chỉ gặp nhau một lần đó, nên đến giờ tôi không còn nhớ chính xác hình dáng người cho mượn áo, cao thấp mập ốm ra sao, mặt ngang mũi dọc đẹp xấu thế nào (chắc là không xấu, nên tôi mới chịu… nhận áo).

Nhưng có điều, tôi vẫn nhớ rõ chiếc áo ấy, màu đen, bằng da thật, mềm như nhung. Chiếc áo cho tôi hơi ấm đêm Reveillon, giữ ấm tôi suốt con đường về giữa trời khuya, và khi về nhà đi vào giấc ngủ vẫn còn sưởi ấm cõi lòng bâng khuâng của tôi.

Và tôi cũng nhớ cả tên người ấy, vì nó cũng bắt đầu bằng vần L, như tên của tôi:

Anh Lâm, giờ anh đang ở nơi nao trên quả đất này?!!

Tái Bút: Nhỏ Hương Văn hiện đang định cư bên Mỹ (tiểu bang North Carolina) góp ý, tôi nên post bài này lên facebook mỗi năm khi mùa Giáng Sinh về, để “khiến người tên Lâm/ đau khổ ăn năn/ khiến người tên Lâm/ đau khổ muôn năm!”.

Tôi đã làm theo lời đề nghị của nó, ít ra cũng để anh ta hắt hơi sổ mũi…cho bõ ghét!!!

 

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

KL_husb_Ottawa1994.jpg

NƠI ẤY MÙA ĐÔNG

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Có nghe gió lạnh chuyển sang mùa

Ở đây hoa tuyết bay cứ ngỡ

Áo trắng ai về ấm chiều mưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Giọt nắng ngoài sân đẹp tình cờ

Ở đây mặt trời chiều vắng sớm

Mây xám buồn theo vào giấc mơ

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Xuống phố nhẹ sương rớt hững hờ

Ở đây mùa đông như vô tận

Bếp lửa hồng giăng sầu đong đưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Nỗi nhớ làm sao đếm cho vừa

Một chốn quê nhà xa vời vợi

Sưởi ấm hồn tôi những Đông xưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa?…

 

KIMLOAN

Edmonton, Đầu đông 2022

TL_Turkey.JPG

 

MÙA TẠ ƠN

Mỹ và Canada có nhiều ngày Lễ giống nhau, nào là Christmas, New Year, Halloween, Mothers Day, Fathers Day…nhưng cũng có hai ngày Lễ không trùng ngày. Đó là ngày Quốc Khánh , Canada Day hay còn gọi là Quốc Khánh vào ngày July 1st hàng năm, trong khi Independent Day của Mỹ là July 4th, cũng không cách xa là bao, chẳng lẽ Mỹ và Canada là ... anh em từ kiếp trước ?

Mùa Thanksgiving của Canada vào ngày thứ Hai tuần thứ hai của Tháng Mười hàng năm, trong không khí mùa Thu hiu hiu lạnh, cả đất trời là một màu vàng của lá Thu và màu cam của những trái pumpkins chuẩn bị thu hoạch cho Halloween.

Còn mùa Thanksgiving bên xứ Mỹ láng giềng vào ngày Thứ Năm của tuần thứ tư của Tháng Mười Một hàng năm, rộn ràng theo sau đó là ngày Black Friday, nối tiếp cho những ngày lễ lạc cho mùa Giáng Sinh và Năm Mới .

Tuy nhiên, ý nghĩa và nguồn gốc Thanksgiving của hai đất nước Bắc Mỹ này khá giống nhau, cũng như cách thức ăn mừng truyền thống với con Gà Tây, tạ ơn mùa màng tươi tốt. Hàng năm, tới mùa Thanksgiving, chúng ta, những người Việt tha phương, cũng đều có những tâm tình tạ ơn giống nhau. Cám ơn xứ sở mới đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta. Cám ơn những người xung quanh, cám ơn gia đình, bè bạn khắp nơi.

Với tôi năm nay, xin được có vài lời tri ân đặc biệt đến thành tựu rực rỡ của nền khoa học công nghệ hiện đại, đã cống hiến cho cuộc sống nhân loại biết bao điều mới mẻ, thuận lợi, vô cùng hữu ích.

Với Facebook, mạng xã hội toàn cầu đã nối kết mọi người rất mau chóng, diệu kỳ. Bạn bè cũ, hàng xóm xưa, ân nhân thất lạc, “người dưng khác họ mà thương” thuở ấy, “người thoáng qua đời nhau”… được tìm thấy nhau, cứ ngỡ như giấc mơ, vì đã từng nghĩ rằng một đi không trở lại, khó mà có ngày tái ngộ, dù là bằng phone, emails hay facebook.

 Người ta trao đổi thông tin, chia sẻ tin tức nóng hổi “chỉ trong vòng một nốt nhạc”. Nhiều sự thật được phơi bày mà những chính quyền độc tài (trong đó có Việt Nam) rất đau đầu, khổ sở tìm cách đối phó.

Mạng Googles thì khói nói rồi he! Đó là cuốn từ điển bách khoa bao la cho nhiều người. Dù là mấy bà nội trợ, ngồi ở nhà cũng có thể tìm đọc về mọi thứ trên cõi đời này. Từ những kiến thức lớn lao thuộc lĩnh vực văn hoá, chính trị, lịch sử, địa lý, xã hội, sức khoẻ, cho đến những mẹo vặt linh tinh trong nhà ngoài phố, kể sao cho hết!

 Tôi vốn là “tiểu thư con nhà nghèo”. Gia đình tôi thuộc loại thường thường bậc trung, nhưng được cái… đông con, tôi lại thuộc nhóm út ít, nên mọi việc trong nhà đều có các anh chị lớn đảm đương. Từ bé cho đến lúc học xong cấp ba, rồi ra trường đi dạy học, hầu như tôi chỉ biết học và chơi, không phải động tay động chân vào các việc nhà. Vì vậy, chuyện bếp núc may vá đối với tôi là chuyện... xa vời, chỉ là con số không. Thực ra, cũng có đôi lần tôi được giao việc canh bếp củi nấu nồi cơm, nhưng hình như “chẳng nên cơm cháo gì”. Một thời gian sau, nhà có nồi cơm điện thì thỉnh thoảng tôi mới được giao lại nhiệm vụ… cắm nồi cơm.

Đến khi vượt biên qua trại tỵ nạn Thailand, tôi lại may mắn (hay xui xẻo không biết nữa!) ở chung một nhóm 4 cô gái, trong đó có 2 cô thích nấu ăn, giành luôn phần cơm nước để cho tôi thoải mái đi làm thiện nguyện. Suốt bốn năm ở trại, tôi chưa hề biết khúc củi nồi cơm ra sao, chưa hề cắt thịt, mổ cá như thế nào, cùng lắm tôi chỉ được phụ hợ việc lặt rau, rửa chén, vì mấy lần phụ bếp tôi không làm rơi rớt món này thì cũng làm đổ bể thứ kia, nên tôi bị ... cấm vào bếp!

Bởi vậy khi qua Canada định cư rồi chuẩn bị lấy chồng, bà chị Cả bên Mỹ viết ngay cho tôi một thực đơn 7 ngày trong tuần, hướng dẫn tôi nấu những món ăn đơn giản, như kho thịt, chiên trứng, luộc rau, nấu canh. Ngày cưới tôi, nhóm bạn thân bên Việt Nam cũng vội vàng gửi tặng món quà “đầy ý nghĩa”, là hai cuốn sách dạy nấu ăn của tác giả Triệu Thị Chơi (chúng bạn rành tôi quá mà!). Tôi mừng húm mở sách ra bắt đầu áp dụng, nhưng chẳng có các món cơm canh thông thường mà toàn là những món nem công chả phượng, bánh trái dành cho tiệc tùng. Còn những món cuối tuần như cà ri, bò kho thì cách trình bày công thức sơ sài, khó hiểu, chưa kể nguyên vật liệu không phù hợp hoặc khó kiếm tìm nơi hải ngoại, nên tôi đành xếp hai cuốn sách đó vào tủ để ngắm chơi.

Thế nên tôi bắt đầu học hỏi từ thực tế, từ những lần đến nhà bạn bè, người quen xung quanh, thấy món nào ngon là hỏi ngay bí kíp rồi ghi chép vào cuốn sổ tay, dần dần cũng đầy những món cần thiết. Tôi đã có những ngày cuối tuần cặm cụi làm bánh bao cho chồng con mang đi làm, đi học. Những ngày tuyết đổ tôi nổi hứng “làm siêng” nướng bánh đậu xanh để uống trà, làm món lẩu Thái ăn cho ấm bụng và những bữa cơm gia đình cũng khá đầy đủ các món căn bản của ba miền, canh rau, đồ mặn, đồ xào…

Nhưng chỉ đến khi có kênh Youtube thì khả năng nấu nướng của tôi đã bắt đầu có tiến bộ vượt trội. Chỉ cần “nhấp con chuột” là có biết bao công thức các món, được tận mắt trông thấy phần hướng dẫn thực hành, rồi áp dụng làm theo là có ngay thành phẩm. Lần đầu chưa vừa ý, thì vài lần sau sẽ gần “như ý”.

Chồng con tôi cũng quen dần với những lần “bị” bất ngờ khi bữa cơm chiều xuất hiện các món “mới và lạ” trên bàn ăn: Cơm Gà Hải Nam, Bún Hến, Bánh Bột Lọc, Mì Xào Lobsters, Bánh Tôm Tây Hồ, Bún Chả Obama (không phải chả làm từ… thịt ông Obama, mà là bún chả cựu Tổng Thống Mỹ đã ăn khi thăm Việt Nam). Đến mùa Thanksgiving hay Giáng Sinh, tôi cũng ngang nhiên rộn ràng làm món Roasted Turkey đúng kiểu truyền thống với đầy đủ stuffing, mashed potato, salad, cranberry sauce như mọi người bản xứ. Và chẳng nhớ đã từ bao lâu, hai cuốn sách của bà Triệu Chơi đã bị lãng quên trên tủ sách trong phòng, giờ chỉ còn là kỷ niệm của mấy đứa bạn vàng ngày xưa biết rõ khả năng... nữ công gia chánh của tôi.

Dĩ nhiên, với một người vụng về, không có khiếu nấu ăn, thì dù có cây đũa thần hay đôi hia bảy dặm như trong truyện thần thoại cổ tích, tôi cũng không thể biến hoá trở thành một đầu bếp nhà nghề, đảm đang. (Những người có năng khiếu bẩm sinh thì chỉ cần phẩy tay là có ngay dĩa gỏi đẹp mắt, nồi soup thơm lừng đúng khẩu vị, hay chén nước mắm pha không chê vào đâu được). Nhưng ít ra, tôi cũng có thể tự hào, (với sự trợ giúp của Youtube), là tôi không “ngán” nấu bất cứ món gì khi chồng con yêu cầu. Có thể là chưa được xuất sắc, chưa được gọi là “tuyệt vời” nhưng bảo đảm rất “chất lượng” và so với thời “ tôi, chính tôi ngày xưa đó” khi còn trẻ và chưa có Youtube thì đã khá hơn rất nhiều. Thậm chí mới đây chồng tôi còn tuyên bố, kể từ khi tôi biết nấu Phở và Bún Bò Huế, thì anh ấy không cần ra nhà hàng ăn hai món này nữa.

Như thế cũng đủ để Tạ Ơn chưa quý vị?!

 

KIM LOAN

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

BachNu_ThuWinnipeg.jpg

MÙA THU TƯƠNG TƯ

 

Có một mùa thu tuổi dại khờ

Yêu người, rạo rực những vần thơ

Ngờ đâu tình chỉ là sương khói

Như lá bên hiên rớt hững hờ

 

Người đến, người đi không hẹn trước

Xóm nhỏ bâng khuâng một nỗi buồn

Nếu có bao giờ người quay bước

Có một mùa thu đang dỗi hờn

 

Hoa cúc nhạt nhoà phai màu nắng

Lối về lặng lẽ, bước ngẩn ngơ

Phố đông mà bỗng nghe hoang vắng

Gió chẳng lấp đầy nỗi bơ vơ

 

Nhưng rồi người đã không trở lại

Tặng vết thương lòng, một lần thôi

Mỗi khi thu về làm tê tái

Lá úa rơi đầy cả hồn tôi

 

Có một mùa thu rất xa xôi

Vắng người, mây trời cũng ngừng trôi

Tìm đâu gió heo may ngày cũ

Một thuở tương tư, mùa thu ơi?!

 

Edmonton, Mùa Lá Rơi 2022

KIM LOAN

ĐI… XEM BÓI

 

Nàng là nhỏ bạn thân cùng xóm cùng lớp với tôi, rất thích đi coi bói, hễ nghe “danh” của ông bà thầy bói nào là nàng tìm đến, nhất là từ khi nàng biết yêu. Tôi là người luôn được (bị) nàng rủ đi theo dù tôi đã cố từ chối, nhưng nàng năn nỉ quá, vả lại, mỗi khi xong việc, nàng dẫn tôi đi ăn gỏi đu đủ khô bò và uống nước mía, nên tôi đành… nhận lời.

Lần ấy, nàng thất tình, ủ rũ như gà mắc mưa, tôi cản cỡ nào nàng cũng nhất quyết đi gặp thầy bói, để hỏi “tại sao tình tan vỡ”, và “khi nào tái hợp?!”. Vòng vo quanh co trong hẻm Vạn Kiếp gần chợ Bà Chiểu, cuối cùng cũng tìm được nhà “thầy” (Có ai giải thích cho tôi, tại sao các ông bà thầy bói hay ở nhà trong hẻm, vì tôi đi với nàng nhiều lần, chưa bao giờ được đến nhà mặt tiền!!).

Nàng bấm chuông, thầy từ từ hiện ra, lừ đừ mở cổng cho hai đứa vào, rồi hỏi:

- Hai cô coi hả?

Tôi nhanh nhẩu:

- Dạ không, chỉ có cô này thôi!

- Sao cô không coi?

- Vì tôi không …mê!

Nàng nhéo tôi một cái, nhìn thầy như xin lỗi! Thầy lạnh lùng chỉ vào phòng khách:

- Vậy cô ngồi đây chờ, còn cô này đi vào trong theo tui!

Trong lúc chờ đợi, thầy này …chơi đẹp, mở nhạc nho nhỏ, du dương, và bất ngờ khi đó là giọng hát Duy Quang. Tôi thích nghe Duy Quang qua một số bài bố Phạm Duy viết “đo ni đóng giày” cho con trai vì giọng anh ngọt ngào, hiền lành, thư sinh. Nhưng lần này, tôi được nghe Duy Quang hát loại nhạc khác, nhạc lính Việt Nam Cộng Hoà, hay không thể tả, mà lại cả một tape liên tục. Tôi nghe say sưa mà quên thời gian hơn nửa tiếng đã trôi qua, thầy đưa nàng ra, rồi tiễn hai đứa ra cổng.

Tôi bước đi mà tâm trí vẫn còn lâng lâng vì tiếng hát Duy Quang, chẳng để ý đôi mắt nàng đỏ hoe, tôi quyết định quay lại cổng. Thầy vẫn đứng đó, cười đon đả:

- Cô muốn coi hả, tui coi luôn cho, hôm nay tui vắng khách.

- Dạ không! Tôi chỉ muốn hỏi tape nhạc Duy Quang tên gì vậy thầy, hay quá trời luôn á!

Thầy tắt ngay “nụ cười chào hàng”, nhìn tôi như muốn quạu, cũng may nhờ có nàng đứng sụt sùi kế bên làm thầy động lòng, và quăng cho tôi câu trả lời khô như ngói:

- Tape Tình Anh Lính Chiến!

Hôm sau, tôi ra chợ trời Tạ Thu Thâu tìm thâu tape nhạc, đem về nhà, các ông anh bà chị tôi cũng nghe say mê, còn thâu đi thâu lại cho bạn bè cùng nghe.

Lần đầu tiên, tôi mới thấy lợi ích của việc …xem bói!

Còn chuyện tình của nàng ấy, sau chuyến đi đó, nàng còn đi thêm vài chỗ nữa, dĩ nhiên là cũng có mặt tôi tháp tùng chớ ai, không phải vì mấy dĩa gỏi đu đủ và ly nước mía, mà vì ai nỡ bỏ bạn bỏ bè khi nó đang đau khổ vì yêu đương? Cũng nhờ vậy mà nàng sáng mắt được chút xíu, vì ông bà thầy bói nào cũng phán như đinh đóng cột, rằng “gương vỡ sẽ lại lành”, cứ chờ đợi rồi “người ta” sẽ quay lại như Kim Trọng tái hợp Thuý Kiều, cùng nhau ca bài ca “về đây nghe em, ta nối lại tình xưa ”. Nhưng tháng ngày trôi qua, nàng vẫn âm thầm “đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành”, đường tình vẫn tối như đêm ba mươi, tôi bèn mạnh miệng khuyên bảo nàng:

- Mày bỏ tật đi coi bói được chưa nà!? Còn chuyện tình duyên, thì thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương lòng!

Người bên ngoài lúc nào cũng sáng suốt hơn kẻ trong cuộc đang u mê. Mày ngã tao nâng, tao ngã mày nâng vậy đó! Nàng cũng dần nguôi ngoai, tuy vẫn giận hờn mấy thầy bói đã từng cho nàng biết bao hy vọng, nhưng dù sao họ cũng là chỗ dựa, an ủi nàng trong nỗi bơ vơ tình ái của tuổi mới lớn.

 

Một buổi chiều kia, nàng vội vã chạy qua nhà tôi, thầm thì:

- Ê, xóm mình có một chỗ xem bói mà xưa này tụi mình không biết nha!

Tôi trố mắt ngạc nhiên:

- Thật vậy sao? Là ai? Mà sao mày biết?!

- Thì hồi nãy có hai cô gái ghé nhà tao đổ xăng (nhà nàng làm nghề bán xăng lẻ), rồi hỏi thăm nhà chị Tý bán bánh chưng, tao hỏi có chuyện chi không, họ bảo họ từ Chợ Cầu, nghe “danh tiếng” thầy bói là chị Tý nên tìm đến.

- Chị Tý mập con bà Sáng bán bánh chưng ư? Bà đó mà coi bói nổi tiếng ư?

Nhà bà Sáng, mẹ của chị Tý làm nghề bán bánh chưng mini, cỡ nửa bàn tay. Cả ngày chị Tý đầu tắt mặt tối phụ mẹ gói bánh, luộc bánh, giao bánh cho các chợ xung quanh. Đôi khi học bài khuya, tôi cũng đến mua một cái, ăn vừa đủ no. Vì quanh năm bận bịu làm bánh nên căn nhà chị Tý rất bộn bề, và theo năm tháng cũng trở nên cũ kỹ. Chị Tý, khá đứng tuổi, dáng người thấp, đẫy đà vì suốt ngày ngồi làm và …ăn bánh, nhan sắc vốn đã tàm tạm ngày càng xuống dốc vì chưa có ai rước (đời hoa chóng già vì thiếu …mặn mà), nên mọi niềm vui nỗi buồn của chị tập trung cả vào …nồi bánh!

Tôi lẩm bẩm:

- Tao vẫn chưa tưởng tượng chị Tý là “thầy bói lừng danh”.

- Người ta từ Chợ Cầu xa xôi tìm đến thì không phải là không có lý do nhé!

- Thì mày cũng đã từng lôi tao đi khắp các hẻm Phú Nhuận, hẻm Chùa Nghệ Sỹ, hẻm Cô Giang Cô Bắc đấy thôi, mà có kết quả gì đâu! À mà thôi, mày đã hứa với tao là bỏ chuyện bói toán rồi thì quan tâm làm gì đến bà Tý mập?

- Tụi mình đến đó thử xem sao, coi như …ủng hộ hàng xóm láng giềng. Tao hứa lần cuối với mày, sau lần này nếu không đúng, tao thề sẽ vĩnh biệt bói toán, chịu hông?

Tôi hơi bực mình:

- Chuyện dĩ vãng đã qua, Kim Trọng cũng đã biến mất tăm, vậy bây giờ Thuý Kiều, í lộn, nhà ngươi đến gặp chị Tý để xem chuyện chi??

- Đã nói là thử thôi mà. Mày làm ơn giúp tao lần này nữa thôi, nhe?

Chập tối ngày hôm sau, xóm nhỏ ẩm ướt sau cơn mưa chiều lất phất, tôi và nàng đi vào ngõ chợ, vòng qua bên hông Nhà Thờ, tìm đến nhà chị Tý. Trong bóng mờ, chị Tý ngồi bên bếp lửa trước sân, canh chừng mẻ bánh cuối ngày để giao cho nhóm công nhân xí nghiệp làm ca ba. Thấy hai đứa tôi bước vào, chị Tý ngước lên mỉm cười:

- Mua bánh hả cưng?

Chúng tôi ngồi xuống bên bếp, nàng nhìn chị Tý ra vẻ “bí mật”:

- Dạ, em đến đây nhờ chị xem giùm một quẻ.

Chị Tý giật mình, làm rớt khúc củi định bỏ vào lò:

- Tầm bậy nà! Chị mà bói toán gì!!

- Thôi chị đừng…mắc cở nữa, em biết rõ lắm luôn. Hôm qua em chỉ nhà chị cho hai cô gái Chợ Cầu chớ ai!

Đến nước này, chị Tý đành phải im lặng, rồi chị đứng dậy, kéo hai đứa tôi ra cổng:

- Chỗ hàng xóm thân tình, chị nói thiêt, chị không biết bói gì hết á! Người ta tìm đến thì chị nương theo mà nói …tào lao cho người ta khuây khoả nỗi lòng, vậy thôi. Nói hên thì trúng mà nếu có trật cũng đâu ai dám bắt đền. Tóm lại, hai đứa coi như chưa nghe thấy gì nhe, còn bây giờ thì mau đi về cho chị còn luộc bánh!

 

Nói xong, chị dúi vào tay tôi hai cái bánh nóng, rồi nhanh nhẹn quay trở vào nhà, nàng bạn yêu quý của tôi không kịp tra hỏi thêm câu nào nữa.

Bước ra ngoài đường cái, tôi mừng rỡ trong bụng, hớn hở bóc bánh ăn, còn nàng đi bên cạnh tôi, im re thẫn thờ. Chẳng biết vì mải suy nghĩ câu nói của chị Tý hay đang tiếc nuối lời hứa “cuối cùng” đã hứa với tôi?!

 

Edmonton, Tháng 5/2021

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

_______________________________

EDMONTON CÓ …MA

 

Sắp hết giờ làm, chị bạn làm chung nhìn tôi than thở:

- Cái xe của chị bị hư mang đi sửa, mấy bữa nữa mới xong!

- Ủa, vậy hồi chiều chị đi làm bằng gì?

- Thì chị đi xe bus…

Nghe vậy, tôi nhanh nhẩu:

- Để em đưa chị về, chứ mùa này tối thui, mà ban đêm nửa tiếng mới có chuyến xe bus chạy tới trạm, chờ được xe thì người đã lạnh cóng!

Nói xong, tôi cũng nhớ ra, nhà chị kế bên cái khu đất, nơi có một bệnh viện nhỏ đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ cây xung quanh úa màu, hoang lạnh, ít người dám bước qua. Chị đã từng kể về những chuyện rợn tóc gáy mà chòm xóm xung quanh kể cho nhau nghe. Có khi nửa đêm người ta thấy một căn phòng trên lầu bệnh viện sáng đèn và một bóng người bên cửa sổ lặng lẽ nhìn xuống đường phố, hoặc có người đi làm về khuya ngang qua đây đã nghe tiếng phụ nữ khóc nức nở, và có lần người ta thấy một người ngồi cả đêm trên chiếc ghế đá bên trạm xe bus trước cửa bệnh viện nhưng khi đến gần thì bóng người ấy biến mất.

Nhớ lại những chuyện đó, tôi cũng hơi rùng mình, nhưng đã lỡ làm… “quân tử nhất ngôn”, nói rồi không thể nuốt lời chỉ vì ... sợ ma (là người ai làm thế!). Vả lại, trên xe sẽ có tôi và chị, thì có gì phải lo!

Mười một giờ đêm, hết giờ làm, chúng tôi pha ly White Hot Chocolate mang lên xe uống cho ấm áp. Trời tháng mười năm nay nhiều gió lạnh, từ 4 giờ chiều đã âm u xám xịt. Đường khuya vắng vẻ, khác với mùa hè, chả ai ra đường giờ này nếu không có việc. Để không khí bớt căng thẳng và ám ảnh bởi mấy chuyện “ma quái”, tôi nói chuyện về mùa Giáng Sinh sắp tới. Đến đầu đường, có một ngôi nhà thờ cổ sừng sững mấy cây cổ thụ to đen dưới bóng tháp chuông làm tôi hết hồn, cứ tưởng có ai đứng đấy… đợi chúng tôi vào giờ này. Đây là đoạn đường một chiều khá dài. Dân cư san sát nhau nhưng cửa đóng then cài im lìm, ánh đèn trước ban công mờ ảo vàng vọt, làm trời đêm thêm ảm đạm theo từng cơn gió rít.

Rồi cũng đến khu bệnh viện, dù tôi cố ý không nhìn, vẫn lắng nghe chị bạn nói chuyện, nhưng mắt tôi vẫn thấy bãi đất hoang ấy, ngay bên trái, sát tầm mắt. Building bệnh viện xa xa, cũ kỹ đổ nát, và những lùm cỏ dại cao ngang lưng người lay động trong bóng đêm, tạo thành những hình thù chập chờn, quái dị. Dù sao, cảnh vật hoang tàn nơi nào cũng như nhau, nhất là vào ban đêm. Chúng tôi nói chuyện, cười đùa, và chẳng có gì xảy ra khi xe chạy ngang qua bệnh viện. Vậy là “thoát” rồi, tôi thầm nghĩ khi dừng xe, thả chị bạn xuống trước cửa nhà, rồi ấn nút lock các cửa xe, chuẩn bị “an toàn trên xa lộ”.

 

Nhưng khi xe vừa lăn bánh thì tôi thấy trên màn hình xe, dấu hiệu nhắc nhở “seatbelt” đỏ đèn liên tục! Kỳ vậy cà? Thường thì cả hai người ngồi hàng trên (tài xế và ghế bên cạnh) phải cài seatbelt, nếu cả hai, hoặc một trong hai người quên cài, thì dấu hiệu ấy sẽ nhấp nháy để nhắc nhở. Giờ trên xe chỉ còn mình tôi, vẫn seatbelt từ lúc rời chỗ làm, chị bạn đã xuống xe, hay là chị ấy để quên đồ đạc trên ghế nên dấu hiệu vẫn nhắc vì tưởng còn người ngồi? Tôi quờ tay qua chiếc ghế bên cạnh, không có đồ vật nào còn sót lại, kiểm tra dây seatbelt bên đó có vướng víu, cũng không có gì, mà dấu hiệu màu đỏ ấy vẫn cứ đập vào mắt tôi, là sao?! Tôi bắt đầu đổ mồ hôi, tim đập hối hả! Có lẽ nào, khi chị bạn mở cửa xe bước xuống, đã có “ai đó” bước vào xe ngồi cạnh tôi, nên dấu hiệu seatbelt mới nhắc nhở?! Xe vẫn chạy và dấu hiệu ấy vẫn lì lợm ngoan cố, khiến tôi hoảng sợ, không dám nhìn qua chiếc ghế trống, người run lên muốn khóc. Tôi không biết phải làm gì, vì không thể dừng xe bước ra ngoài giữa đêm vắng còn nguy hiểm hơn. Tôi có nên gọi số khẩn cấp 911 cho cảnh sát hay là gọi chồng tôi đến… giải cứu?!

Tôi bắt đầu rối trí, lắp bắp gọi tên Chúa, Phật, Thánh Alla, và các thần linh trên cõi đời, rồi lấy hết can đảm, run rẩy quay qua thầm thì với… chiếc ghế bên cạnh:

- “Người ấy” ơi! Nếu “người ấy” quá giang một đoạn đường trên xe tôi để tìm chút hơi ấm trong đêm Thu giá lạnh, thì bây giờ xin người hãy xuống xe, để tôi còn về!

Vừa dứt lời thì đến ngã tư, có tiệm Mc Donalds đèn sáng thì kỳ diệu thay, dấu hiệu seatbelt cũng vụt tắt, không còn nhấp nháy nữa.

Về đến nhà, còn chưa hoàn hồn, tôi lật đật lên mạng tìm Googles thì biết thêm thông tin về cái bệnh viện ấy. Charles Camsell Hospital, được xây dựng từ 1945 là nơi chữa bệnh lao phổi giai đoạn cuối cho những người dân da đỏ, sau đó liên tiếp là những câu chuyện tang thương lẫn huyền bí xảy ra, như có tiếng la hét vào đêm khuya, hoặc ai đó hát khe khẽ trong gió…và hiện nay bệnh viện đã bị bỏ hoang hơn 20 năm. Tôi lập tức kể cho chồng tôi nghe toàn bộ câu chuyện, anh ấy cười khẩy:

- Em bị thần hồn nát thần tính đó thôi, vì cái sensor của seatbelt đôi khi cũng bị hư.

Tôi quả quyết:

- Xe mình từ ngày mua đến nay cũng mấy năm, chưa bao giờ có vấn đề như hôm nay.

- Chưa có không có nghĩa là không có, và đêm nay xảy ra thì có gì lạ!

- Sao nó không hư lúc khác mà đúng lúc em đi qua bệnh viện bỏ hoang đó, và sau khi em năn nỉ “người ấy” là hết ngay tức khắc?

- Em mệt rồi nên đi ngủ, đừng nghĩ suy vớ vấn nữa, chả có ma cỏ gì đâu!

 

Sáng hôm sau là cuối tuần, tôi đang ở trong bếp hầm nồi bún măng vịt cho bữa trưa thì chồng tôi mở cửa bước vào, hớn hở báo tin:

- Đã có câu trả lời cho em rồi nhe! Anh mới mang xe đi thay nhớt, họ bảo cái sensor của seatbelt bị lỗi, nên có khi nó “sáng nắng chiều mưa”, em nghe rõ chưa?

Tôi nghi ngờ:

- Thế à? Anh có chắc không?

Anh ấy chợt nhìn tôi, dè dặt hỏi:

- Vậy em đã kịp kể chuyện “bí hiểm” này cho ai nghe chưa? Anh hy vọng là chưa!

Tôi thú nhận:

- Em vừa nói chuyện phone với chị Nở, trưởng nhóm “Loan Báo Tin Mừng” của nhà thờ, hay nói đúng hơn là chị ấy phone dặn dò em chiều nay đi đọc kinh, nên nhân tiện… vui miệng em lỡ kể cho chị ấy nghe rồi!

- Trời! Chị Nở là trưởng ban “Loan Báo Tin Mừng” mà anh cứ ngỡ chị là trưởng ban “Loan Báo Tin Đồn” cơ đấy, coi như cả xứ đạo biết rồi còn gì! Vậy còn bên Hội Người Việt em đang làm thiện nguyện, em đã kịp… vui miệng cho ai nghe chưa?

- Thì sáng nay lúc đi bộ ra hồ tập thể dục, em có gặp… bác Tám là mẹ của anh Nam, Hội trưởng Hội Người Việt, mà bác Tám cũng là phật tử siêng năng của Chùa Trúc Lâm…

Chưa nghe dứt câu, chồng tôi đưa hai tay lên trời:

- Thôi rồi! Thế thì cả thành phố Edmonton đã biết hết! Rồi họ sẽ đi loan truyền câu chuyện “Edmonton có ma” của cô Loan MC, và có người sẽ bảo em mê tín, hoang tưởng!

Tôi đâm ra hoang mang:

- Vậy những tin em đọc được trên Googles về Bệnh Viện Hoang này thì sao??

- Bệnh viện hoang và người chết là có thật, còn những chuyện “ma” trở về đó cũng là chỉ là tin đồn, vả lại, chuyện của em là sự ngẫu nhiên tình cờ, em không nên vội vàng kết luận rồi loan tin không chính xác …

Tôi bỗng thấy ân hận vì cái tật nhanh nhẩu đoảng của mình, dù đã “biết bao lần tôi đã hứa, hứa cho nhiều rồi lại… quên!”. Nhìn nồi bún măng tôi chẳng còn hứng thú nêm nếm vẽ vời gì nữa, thì chồng tôi, một lần nữa, sáng mắt reo lên như thuở xưa Archimedes la lên Eureka:

- A! Anh biết rồi! Tháng mười là tháng Halloween, coi như câu chuyện của em chỉ là chuyện… hài hước nhân mùa Lễ ma quỷ, không sợ ai hiểu lầm gì nữa.

Vậy mà tôi không nghĩ ra. Tôi mừng rỡ, nhìn chồng âu yếm, thầm cám ơn anh đã cứu tôi khỏi “một bàn thua trông thấy”. Tôi cũng reo lên:

- Để em phone cho chị Nở và bác Tám ngay bây giờ !

 

KIM LOAN

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

KimLoan_brokenheart.JPG

TÌNH ĐAU

(Cảm hứng theo bài hát Tình Hờ của Phạm Duy: Tôi đang lừa dối em/Mà sao em không biết/Những lời nói tình duyên/Với tôi, không cần thiết …)

 

Anh đến với một tình hờ

Và tôi cũng thế, chỉ vờ yêu thôi

Chúng mình cút bắt trò chơi

Lả lơi ánh mắt, nụ cười dối gian

Tình vui chóng vánh vội vàng

Đầu môi chót lưỡi …nhẹ nhàng gió bay

Một mình tìm đến cơn say

Anh nghe phảng phất ngất ngây giọt buồn

Còn tôi, cũng chẳng vui hơn

Đêm khuya thao thức giận hờn bâng quơ

Hình như tôi vẫn mong chờ?

Hình như anh vẫn bơ vơ bên trời?

Phải chăng tôi đã yêu người?

Phải chăng anh đã bồi hồi nhớ tôi?

Hiểu ra thì quá muộn rồi

Trái tim kiêu hãnh chưa nguôi nỗi sầu

Nếu còn có một kiếp sau

Xin đừng đùa giỡn-Tình đau một đời!

 

KIM LOAN

NƠI CÓ MỘT TÌNH YÊU

                  Bâng khuâng chân bước ngày trở lại
                        Trường xưa lớp cũ vẫn đợi chờ
                        Con chim nào hót bên cửa sổ

                Thức dậy trong tôi thuở mộng mơ

Thương đứng chờ ngoài hành lang phòng giáo vụ, thầy chủ nhiệm khoa bước ra tươi cười trao cho Thương tập hồ sơ ra trường, rồi thắc mắc:

- Em nằm trong số ít người thi tốt nghiệp ra trường điểm cao, được quyền chọn nhiệm sở, sao em lại chọn về dạy ở quê nhà Gò Vấp?

Thương cúi đầu, nhìn bâng quơ ra sân trường tìm câu trả lời. Thầy lại nhìn Thương như đồng cảm:

- Thầy hiểu nỗi lòng của em khi muốn gần gia đình, nhưng các trường ngay trung tâm Sài Gòn cũng có xa xôi gì. Ở đây có nhiều trường điểm, cơ sở vật chất đầy đủ, các phụ huynh học sinh khá giả luôn tạo điều kiện tốt cho thầy cô giảng dạy, và em sẽ có cơ hội tiến thân trong nghề nghiệp, chuyên môn …

 

Thương vẫn đưa mắt dưới sân trường, nói như cho chính mình:

-Thưa thầy, thầy cũng là một nhà giáo, nên cũng hiểu rằng ở thời buổi vật chất lên ngôi như hiện nay, thì những người chọn Sư Phạm là xuất phát từ trái tim chứ không phải cài đầu lý trí. Em không nghĩ đến chuyện tiến thân, mà chỉ mong được dạy dỗ học sinh trong quận của mình, như một sự đền đáp lại công ơn thầy cô đã cưu mang em.

Thầy gật gù, hiểu được quyết định của Thương, vỗ vai cô học trò trước khi chia tay:

-Thầy chúc em nhiều may mắn. Em sẽ trở lại thăm trường không? Chúng ta vẫn có dịp gặp lại nhau chứ?

Thương chào thầy rồi quay đi:

-Dĩ nhiên rồi thầy ạ. Trái đất tròn, huống gì đất Sài Gòn chật hẹp của chúng ta.

 

Thương đến Phòng Giáo Dục giữa buổi trưa cuối hè nóng như chảo rang. Trời vắng lặng khô khan, mấy cây trứng cá ngoài sân đứng im lìm đón chờ ngọn gió mát hiếm hoi. Thềm bậc tam cấp dẫn lên văn phòng lác đác những lá trứng cá khô làm bước chân Thương nghe như vui mừng nôn nao, rạo rực như tiếng lá khô vỡ vụn dưới chân. Trong phòng chỉ có một người đang ngồi cắm cúi ghi chép gì đó trên chồng giấy trắng, nghe tiếng Thương liền ngẩng đầu lên:

-Thương hả em? Vào đây ngồi nghỉ cho mát. Thầy cứ nghĩ ngày mai em sẽ đến.

Thương đứng sững lại, khi nghe giọng nói quen thuộc của thầy Tiến, thầy dạy môn văn khi Thương còn ở dưới mái trường cấp ba. Khi ra trường, Thương cũng có nghe nói thầy đã chuyển qua làm việc trên Phòng Giáo Dục, nhưng không ngờ lại được gặp thầy hôm nay. Thầy đưa ly nước trà cho Thương, rồi chậm rãi:

-Vậy là mấy năm rồi em nhỉ? Ngày ấy, thầy vẫn mong em vào Đại Học Sư Phạm để về trường cũ nối tiếp thầy cô, vì thầy biết em có năng lực, có tâm huyết với nghề .

Thầy dừng lại, nhấp một ngụm trà:

- Nhưng em đã chọn Cao Đẳng Sư Phạm. Em có thể chia sẻ với thầy lý do không?

Thương vén lại mái tóc, rồi nhìn thầy rất tự tin:

-Thưa thầy, suốt mười hai năm đi học, em nhận ra giai đoạn cấp hai, từ lớp sáu đến lớp chín là đoạn đời trong sáng nhất, ngây thơ nhất của đời học trò. Lứa tuổi đó không còn bé, nhưng cũng chưa lớn, đã đọng lại trong em những kỷ niệm sâu sắc, nên em thực sự muốn sống lại quá khứ của mình qua thế hệ đàn em.

Thầy nở nụ cười đầm ấm:

-Vậy ư? Em làm thầy cũng nhớ lại thuở nghịch ngợm dại khờ cấp hai. Bữa đó trên đường đi học, thầy và đứa bạn mê xem đá banh ngoài sân vận động quên cả giờ học, bị cô giáo phạt mang giấy kiểm điểm về nhà cho ba mẹ ký tên, thế là hai đứa đi lang thang đến tối mới dám về nhà chịu đòn. Còn em chắc là có vô số kỷ niệm nhỉ?

Thương hơi mắc cỡ, nhưng bạo dạn nói tiếp:

- Dạ, thật khó mà nói hết cảm giác về những tháng ngày đó. Chỉ biết rằng em đã sống hết mình, từng phút từng giây cho trường lớp, bè bạn, thầy cô. Em chỉ biết học, rồi chơi, không vương vấn, âu lo một chút gì. Và em cũng nhớ có lần đã tặng cho anh bạn lớp bên cạnh một cái … bạt tai vì dám viết thơ tỏ tình với em, bởi vì lúc đó em mê học hơn mê chơi.

Thầy bật cười lớn:

-Trời, tội nghiệp anh chàng tuổi trẻ. Nếu có dịp em phải xin lỗi người ta đó, nhớ chưa?

Thầy đứng lên, đi ra phía sau tủ lấy ra một số giấy tờ, rồi trở lại ghế ngồi, châm thêm trà, báo cho Thương một tin bất ngờ:

- Nghe em kể chuyện, thầy quyết định đưa em về dạy tại ngôi trường cũ, thầy hiệu trưởng vẫn là thầy Triệu đấy.

Thương muốn hét to lên vì sung sướng. Còn nỗi hạnh phúc nào hơn được đứng trên bục giảng ngôi trường ngày xưa mình đã làm học trò? Không nói ra, Thương nhìn thầy Tiến bằng đôi mắt biết ơn. Nhưng Thương biết, là một nhà giáo lâu năm trong nghề, thầy hiểu rõ tâm trạng và nỗi khát khao của những người trẻ mới ra trường, nếu môi trường càng thoải mái, thuận lợi thì càng làm cho họ hứng khởi, tràn trề tâm huyết trên còn đường còn dài trước mặt.

Sau khi làm xong một số thủ tục giấy tờ, thầy tiễn Thương ra con đường cái, hai thầy trò đi dạo cho đến ngã tư, Thương mới leo lên xe đạp chạy về nhà. Thương vui sướng nhủ thầm, mình từ chối nhiệm sở ngoài Sài Gòn, mất cơ hội dạy trường nổi tiếng, nhưng về đây Thương được biết bao nhiêu điều tuyệt vời, gặp thầy Tiến cho về ngôi trường cũ, thầy hiệu trưởng vẫn còn đó, và chắc chắn một số thầy cô cũ cũng vẫn còn như xưa.

 

Trước ngày khai giảng, Thương đến trường trình diện với bộ quần áo đẹp nhất, với nỗi lòng háo hức bâng khuâng như thiếu nữ lần đầu hẹn hò. Thương bật cười với ý nghĩ đó, vì Thương chưa yêu nên không biết mình ví von có đúng hay không?

Cô hiệu phó đón Thương ngay cửa phòng giáo viên, nơi đang có cuộc họp chuẩn bị cho năm học mới, và đưa Thương vào phòng giới thiệu với mọi người:

- Xin các thầy cô chào đón Thương, cô giáo dạy toán mới ra trường. Thương cũng là học trò cũ của trường mình ngày xưa.

Rồi cô quay sang Thương giải thích:

- Hôm nay thầy Triệu hiệu trưởng đi họp trên quận, nhưng có dặn tôi đón tiếp cô học trò cưng của thầy cho chu đáo.

Ở dưới phòng họp, Thương nhận ra vài khuôn mặt thầy cô giáo cũ. Thương chạy đến chào hỏi, mọi người cũ mới vây quanh cô nói lời chúc mừng, đón chào cô trở về với ngôi trường này.

Chờ cho các cuộc chuyện trò lắng xuống, cô hiệu phó thông báo giờ nghỉ giải lao, rồi dẫn Thương đến gặp một thầy giáo trẻ vừa bước vào từ phía hành lang:

-Xin giới thiệu đây là cô Thương, cô giáo mới, trong khối Toán của thầy đó. Còn đây là thầy Huy, trưởng khối Toán của trường. Hai người làm quen nhau nhé .

Nói xong cô bước đi, thầy Huy bắt tay Thương:

- Hy vọng là em không quên tôi?

Thương hóm hỉnh:

- Ai mà quên được thầy giáo trẻ, hiền lành, đẹp trai mới ra trường thuở nào, bị các cô học sinh lớp chín quậy phá tưng bừng!? Em còn nhớ lớp em có nhỏ Thủy tóc quăn, mấy ngày liền đạp xe lẽo đẽo theo thầy về tận nhà, em đã mắng cho cô nàng một trận, còn nhỏ hỷ mũi chưa sạch, không lo học hành mà bày đặt đi …mê thầy!

Thầy Huy bật cười:

- Ồ, vậy tôi phải cám ơn em vì chuyện này. Quả thật, ngày đó có lúc cô bé Thủy đã làm tôi khó xử.

- Cô nàng đó vậy mà biết yêu sớm. Vào giữa năm lớp mười một, chúng em đang bù đầu bù cổ học thi, hoặc tranh thủ giờ rảnh đi nghe nhạc xem phim, thì nó đã “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Bây giờ nàng đã một nách hai con và làm bà chủ sạp gạo bên cổng xe lửa, bữa nào rảnh thầy nhớ ghé mua gạo ủng hộ Thủy nhe.

Thầy Huy hơi bối rối, đưa hai tay vào túi quần, ngước đôi kiếng cận màu trắng nhìn theo con chim đang nhảy nhót trên cành bàng ngay giữa sân. Thương đổi đề tài:

- Còn thầy, chắc gì thầy đã nhớ em học lớp nào nhỉ?

Chỉ chờ có vậy, thầy Huy nói ngay:

- Nguyễn Thị Hoài Thương học lớp 9A3, căn phòng cuối cùng trên lầu ba, đúng chưa?

Thương mở đôi mắt thật to, nhìn thầy Huy ngạc nhiên, chưa biết nói gì, thầy lại tiếp tục cho Thương bất ngờ:

- Hồi đó em ngồi ở đầu bàn cuối, dãy bên cạnh cửa sổ. Em hay mặc quần tây đen, áo sơ mi trắng hoặc áo sơ mi màu xanh đậm.

Thương reo lên:

- Ôi, thầy nhớ màu áo em mặc nữa sao?

- Bởi vì tôi nhớ có lần trong giờ toán của tôi, có anh bạn nghịch phá nào đó làm đổ cả bình mực vào chiếc áo trắng của em. Em đã khóc và nổi giận, nhưng tôi là thầy giáo trẻ chưa có kinh nghiệm, nên không có cách giải quyết thỏa đáng, em đã kéo anh bạn kia lên phòng hiệu trưởng để kiện cáo. Nghe đâu cô giáo chủ nhiệm phải họp lớp mấy lần mới xong chuyện cái áo trắng vấy mực đó, đúng không?

Thương úp mặt mình vào đôi bàn tay, che dấu niềm vui và xấu hổ:

- Sao hồi đó em dữ dằn quá thầy ơi! Anh bạn đó tên Nguyễn Tài Tư mà chúng em hay gọi là Tài Tử vì anh chàng có máu nghệ sỹ và giọng ca cải lương thiệt mùi. Sau năm học ấy vì nhà nghèo nên Tư nghỉ học, đi làm ở tiệm sửa đồng hồ ngay trước chợ Gò Vấp. Hễ lần nào em đi chợ gặp Tài Tư, là anh ta lên câu vọng cổ chọc ghẹo em: “ Ngày lại ngày qua bao mùa thương nhớ…ớ ….Chiếc áo năm xưa, anh giữ mãi …ớ…trong…ờ ….lòng!”

Thầy Huy chăm chú ngắm nhìn Thương làm điệu bộ hát vọng cổ, làm Thương đỏ mặt dừng lại, rồi hai người cùng cười vang khiến con chim trên cây bàng giật mình vỗ cánh vụt bay đi. Thầy Huy hỏi:

- Thương muốn đi lên căn phòng lớp cũ chút xíu không? Cũng sáu năm rồi còn gì! 

Thương bước theo thầy Huy lên cầu thang, đi bộ qua dãy hành làng dài im vắng, kỷ niệm ngày xưa ùa về làm bước chân Thương thêm ngập ngừng, xuyến xao. Đến lớp học cũ, Thương chạy vào ngay chiếc ghế ngồi thân quen nơi cuối dãy ngoài cùng. Thầy Huy cũng ngồi bên bàn đối diện, im lặng cho Thương sống lại những ngày cũ đầy nhớ thương. Một lát sau, thầy Huy lên tiếng:

- Em có nhớ ngày cuối cùng năm học, em và mấy cô bạn sau tiệc liên hoan đã đi một vòng khắp các lớp học trong trường, xuống phòng Ban Giám Hiệu, Phòng Giáo Viên, căng- tin, rồi em òa khóc nức nở dưới cây phượng già ngay góc sân?

Thương chống tay lên cằm, mơ màng nhớ xa xôi:

- Đúng vậy, hình như bữa đó trời mưa, mấy cánh hoa phượng nằm tả tơi dưới sân trường, làm em thêm nức nở, khóc như chưa bao giờ được khóc! Mà sao thầy nhớ nhiều về em thế, thầy đâu phải thầy chủ nhiệm của em? Hay là thầy nhớ em hoài vì chưa trừng phạt được những quậy phá của cô học trò ngỗ nghịch như con trai?

Thầy Huy lắc đầu, xoay người, nhẹ nhàng nhìn theo bàn tay Thương đang vân vê những dấu gạch khắc nguệch ngoạc trên mặt bàn gỗ:

- Em quên rồi sao? Hồi đó em là học sinh nổi bật trong trường, vừa giỏi toán lại biết làm thơ viết văn. Khi em có bài thơ đăng trên báo, thầy hiệu trưởng đã đọc ngay trước toàn trường trong giờ chào cờ đầu tuần, vì bài thơ rất đặc biệt, nói về ngôi trường của mình, với đầy đủ tên trường và tên các thầy cô trong đó.

- Vâng, nhưng lâu rồi, em không còn nhớ bài thơ nữa thầy ạ!

- Còn tôi thì vẫn nhớ một đoạn vì có… tên tôi:

             “ Cô Yến dạy Văn, thầy Huy dạy Toán

            Thầy Vinh môn Anh, môn Sử thầy Huề

             Môn Hóa cô Oanh, Sinh Vật thầy Thê

            Thầy Hiển: Địa, Chính Trị: cô Mộng Điệp …”

Trong số đó, bây giờ chỉ còn tôi và cô Yến, thầy Vinh, thầy Thê. Còn những người khác, kẻ theo chồng bỏ nghề, kẻ thì chuyển trường khác, và có người đã đi xuất cảnh bên trời Tây. Cuộc đời mới đó mà đã có bao đổi thay.

Thầy chợt nhìn sâu vào mắt Thương, hỏi nhỏ:

- Còn em, cảm giác ngày trở về hôm nay như thế nào?

Thương sửa lại tư thế ngồi, mắt vẫn không rời chiếc mặt bàn nâu bóng vì thời gian, làn môi Thương run run với nỗi xúc động chợt dâng trào:

-Ngày xưa Từ Thức trở về chốn cũ với hoài niệm xót xa vì cảnh vật đã đổi thay, còn em  về nơi đây, cảnh cũ cảnh mới, người cũ người mới, tất cả như đan xen với nhau cho em tìm lại được những kỷ niệm ngày nào. Cây phượng già còn đó, mấy cây bàng dưới mái hiên vẫn xanh tươi màu xanh hy vọng, trường cũ thầy xưa còn đây, có chăng là những khuôn mặt học trò mới lạ, em càng thấy náo nức đợi chờ. Chưa bao giờ em thấy mình thực sự hạnh phúc như hôm nay.

 

Tiếng chuông báo giờ giải lao đã hết, Thương cùng thầy Huy vội trở xuống phòng họp, bỏ lại căn phòng vắng những dư âm của câu chuyện còn đang dở dang.

Khi buổi họp kết thúc, Thương đi bộ ra bãi đậu xe thì thầy Huy bước nhanh đến, ngập ngừng:

-Thương à, tôi chưa làm xong nhiệm vụ đưa Thương tìm lại chốn xưa, đúng không?

Thương nhíu mày, nghiêng đầu hỏi:

- Vậy còn nơi nào nữa em chưa ghé thăm?

Thầy Huy đưa tay chỉ ra ngoài cổng trường:

- Quán chè đá đậu ngày xưa em và nhóm bạn hay ăn sau buổi tan trường. Chủ quán vẫn còn đó, nay bán thêm vài món khác như nước mía, cà phê. Tôi mời em một ly chè, được không?

 

Vẫn còn lâng lâng như trong giấc mơ, Thương bước qua cánh cổng sắt mầu nâu rỉ sét, nơi mà những lần đi học muộn, Thương phải đứng nhìn qua cổng này năn nỉ chú bảo vệ cho Thương vào trường. Quán chè đá đậu chẳng hề đổi thay, Thương thấy mình là một cô bé tuổi mười lăm đang ngồi trên chiếc ghế nhỏ xíu trong quán năm xưa, bụng cồn cào chờ ly chè đá ba màu ngọt lịm nơi đầu lưỡi. Thầy Huy nhấm nháp ly café , ngắmThương thành thục đón lấy ly chè, quậy lớp đá bào ở trên với lớp đậu và nước dừa phía dưới đáy ly, rồi lấy muỗng chè đưa vào miệng với cả sự thưởng thức say mê, tưởng như không còn gì ngon hơn trên cõi đời này. Thầy Huy biết, Thương không chỉ đang ăn chè, mà còn đang gặm nhấm những cảm giác hạnh phúc ngọt ngào của ngày hội ngộ quá khứ.

Thương ngước mặt lên, bắt gặp ánh mắt thầy Huy nhìn Thương rất gần:

- Thương này!

- Dạ?

- Kể từ hôm nay, em đừng gọi tôi là thầy nữa nhe, vì Thương đâu còn là học trò của tôi nữa. Vả lại, tôi cũng chỉ lớn hơn Thương sáu tuổi, và bây giờ chúng mình lại là đồng nghiệp, phải không? 

Thương không trả lời, nhìn qua bên kia đường phía ngôi trường. Cánh cổng đã đóng yên, nhưng vài ngày nữa sẽ tưng bừng rộn ràng đón học sinh đến trường cho năm học mới. Một vạt nắng yếu ớt buổi chiều chiếu lung linh trên những tán phượng trên bầu trời xanh trong, bồng bềnh êm ái như đôi mắt thầy Huy đang nhìn Thương đợi chờ.

Thương thấy mình trong ngày khai giảng, dịu dàng, thướt tha với bộ áo dài trắng mới may, gặp gỡ những khuôn mặt học sinh đầy sức sống, Thương sẽ được sống lại tuổi thơ của mình. Quá khứ và hiện tại vẫn là một, Thương sẽ tiếp tục yêu thương chốn này, yêu mến lũ học trò, yêu mến cả những vật vô tri vô giác đã từng cho Thương những rung động bồi hồi khi nhớ về: chiếc bục giảng, bàn ghế, lớp học, sân trường, hàng cây …

Và có thể, có một tình yêu mới đang bắt đầu.

Edmonton Tháng7/2022

KIM LOAN

CHIỀU, Ở MỘT NGÃ TƯ

 

Có những lần tôi lái xe vội vã

Trên con đường đông xe cộ ngược xuôi

Có thể tôi vô tình (phút giây thôi)

Làm chen lấn, kẹt đường (tôi xin lỗi)

 

Không thấy mặt nhau, không cần lời nói

Người nhường tôi đi trước, để đi sau

Lời thứ tha nhẹ nhàng (có gì đâu!)

Xin cám ơn chiều nay, một người lạ

 

Cuộc sống như những con đường, muôn ngả

Có khi đường đông, có lúc vắng tênh

Ngã tư buồn rồi đến ngã tư vui

Lại quẩn quanh những điều rất quen thuộc

 

Hãy nối lại gần hơn những cách biệt

Nếu có gì sơ suất, mất lòng nhau

Nụ cười là món quà đẹp nhớ lâu

Ánh mắt vui tươi xoá tan băng giá

 

Tôi nhủ lòng là dòng sông (không sỏi đá)

Đừng cạn khô dù nắng cháy trưa hè

Mang yên vui ra biển cả đợi chờ

Đừng dâng lũ khi mưa nguồn, gió núi

 

Tôi nhủ lòng, bình minh hay đêm tối

Mang những giọt sương tươi mát cỏ cây

Là mặt hồ soi bóng ánh trăng đầy

Thanh thản khép mình bên suối réo rắt

 

Nếu hạt bụi tình cờ bay vào mắt

Tôi cũng dặn lòng mình, có sá chi

Gửi hờn ghen theo cơn gió mang đi

Trả giận dữ vào thênh thang phố xá

 

Những con đường thân quen, (yên bình quá)

Tôi bâng khuâng, lòng không nắng không mưa

Trên đỉnh trời, làn mây trắng đong đưa

Xao xuyến dậy chút mộng mơ thi sỹ

 

Ngã tư dẫn về đâu hồn tri kỷ?

Những khuôn mặt người qua lại lao xao

Tôi lạc tôi rồi (chẳng biết nơi nao!)

Trong ráng chiều, kìa đèn xanh lấp lánh!

Edmonton,  sau những ngày mưa rơi July/2022

KIMLOAN

KHI PHỤ NỮ LÁI XE

Bữa nay Edmonton trời nắng vàng rực, tôi thay bộ đồ đẹp chạy xe đến Tòa (Law Courts) của thành phố để ...đóng tiền phạt giao thông.  Vừa bước ra khỏi chỗ parking lot của Tòa, nhỏ em trong ca đoàn tự dưng xuất hiện:

-   Chị Loan đi đâu vậy?

-   Thì đi đóng phạt chớ đi đâu, còn em?

-   Dạ ...em cũng như chị!

-   Em bị ...tội gì!?

-   Em đậu xe chỗ dành cho handicapped chị ơi!

-   Trời! Chỗ đó là tối kỵ, phạt nặng à nhe.

-   Dạ $250 đó chị. Chỗ parking gần nhà thờ em đậu mỗi chiều thứ bảy đi lễ vì cái bảng handicapped có ghi “Sundays only” , ai dè có lần đi lễ Chúa Nhật em vẫn đậu theo thói quen, thành ra bị phạt. Còn chị, tội gì ?

-   Chị bị phạt $388 vì ...vượt đèn đỏ trên high way.

-   Wow!! Chị nổi tiếng yếu tay lái, mà dám vượt đèn đỏ xa lộ, ngầu quá.

-   Thì đó, cái highway nhỏ xíu, lúc ấy chị đang vẩn vơ tìm ...vần thơ nên không để ý, đến nơi thấy đèn vàng thì không kịp thắng lại nên rồ máy vượt qua. Tuần sau giấy phạt gửi về ghi rõ: đèn đỏ 3 giây mà “khổ chủ” vẫn ...ngoan cố, phạt cho nhớ đời!

-   Thôi chị ơi, coi như chị em mình đóng thuế cho city, để họ phục vụ chúng ta đường sá tốt đẹp, công viên tươi tốt và nhiều thứ khác nữa.

-   Chị có nói gì đâu nà. Xứ này mình đi đóng phạt mà hổng ...đau lòng nhiều, vì an tâm tiền của mình đi vào công quỹ, chớ không như xứ cộng sản, đóng tiền cho công an là biết chắc nó sẽ bị bốc hơi vào túi quan tham chia chác nhau.

 

Hai chị em bước vào cổng Tòa, xếp hàng qua các thủ tục security check y như ngoài phi trường . Mấy chàng security và cảnh sát nơi đây sao mà ...đẹp thế, ai nấy đều cao to hùng dũng trong bộ uniform đầy quyền uy . Chúng tôi mỉm cười, nói thầm với nhau, đến đây gặp các chàng này thì đóng bao nhiêu tiền cũng đáng. Nói vui vậy thôi, chớ lý do chúng tôi có mặt tại Tòa là để năn nỉ được giảm tiền phạt .

 

Ở Canada, khi bị giấy phạt giao thông thì bạn có hai chọn lựa, thứ nhất là ngoan ngoãn chịu phạt, ghi cheque gửi tiền cho city, thứ hai, nếu thấy oan uổng thì xin mời đến Tòa . Tại đây, lại có hai chọn lựa nữa: nếu muốn kêu oan, Tòa sẽ cho ngày hẹn trở lại, ra Tòa, cãi qua cãi lại, nếu thắng thì thôi, thua thì phải nộp đầy đủ. Còn nếu như chỉ muốn giảm tiền phạt, như chúng tôi đây, thì vào gặp đại diện Tòa, sau khi ca “bài ca con cá”, kể khổ với khuôn mặt vô số tội, thì hầu như ai cũng được giảm, tùy theo mức độ, có khi 25% hoặc thậm chí giảm một nửa, nộp tiền ngay tại chỗ rồi ra về . Đa số “khổ chủ” đều chọn giải pháp “năn nỉ ỉ ôi” giảm tiền cho lẹ, vì nếu chọn hẹn ngày ra Tòa, mất thêm thời gian mà hên xui khó biết được, ngoại trừ biết chắc mình sẽ thắng. Như một chị bạn trong Hội Người Việt (lại là ...phụ nữ), lái xe sau khi camping trở về, đường chiều mưa nhẹ, chị lái chậm hơn mức quy định tối thiểu, liền bị một chàng cảnh sát cho giấy phạt vì tội ...chạy như rùa bò, làm ảnh hưởng đến traffic flow.  Chị cương quyết ra Tòa để cãi, rằng chị lớn tuổi, chiều xa lộ mưa ướt nên chị phải cẩn thận, chạy trong lane bên phải dành cho người chạy chậm, cớ sao lại phạt chị ?? Kết quả là chị đã thắng vì bữa đó Tòa là một ...phụ nữ.

 

Thú thật, tôi cũng là ...khách khá thường xuyên nơi Tòa! Với đủ “tội danh”, đậu xe quá giờ, quẹo đường cấm, cầm phone texting trên xe, nhưng có lần nhớ mãi, là trong vòng hai tuần tôi có ...ba giấy phạt cùng một địa điểm, chỉ là ngày giờ khác nhau. Mang ba giấy phạt vào gặp Tòa, ổng nhìn tôi cười:

-   Ba cái giấy trong hai tuần, cô chạy xe kiểu gì thế?

Tôi gân cổ, cãi:

-   Thưa Ngài, tôi biết chạy qua trường học chỉ được 30km/giờ, nhưng đây chỉ là một góc sân sau của trường, giáp với con lộ lớn có mấy lanes, khó ai biết được, cho nên tôi không biết chớ không cố tình phạm luật. Bữa nào rảnh, ông thử đi qua đoạn đường này là biết liền hà...

 

Ổng thấy tôi cũng có lý, bèn giảm 50%, ra khỏi tòa tôi sung sướng đi thẳng đến shopping mua sắm với số tiền 50% mới ...saved được tại Tòa .

 

Ở xứ này, xe là đôi chân, là phương tiện thiết yếu nên tôi đành phải lái xe . Tôi không hề quan tâm  xe đẹp xe sang, mặc dù chồng tôi lần lượt  “lên đời” các loại xe “brand name” của Đức, tôi vẫn trung thành với Toyota, Nissan của Nhật.  Sau mấy lần thi rớt lên rớt xuống, tôi cũng có bằng lái, nhưng mấy năm đầu tôi không dám đổ xăng vì ...sợ, hễ xe gần hết xăng là tôi réo chồng đi đổ. Đến nay tôi đã biết đổ xăng nhưng mấy chuyện bơm bánh xe, rửa xe thì vẫn “gọi người yêu dấu” làm giùm.

 

Chồng tôi nâng niu gìn giữ xe của anh ấy bao nhiêu thì xe của tôi ...thoải mái bấy nhiêu . Trong xe của tôi là tiệm ...tạp hóa mini. Nào lotion bôi tay, lotion bôi mặt chống nắng, chai dầu xanh, nay có thêm chai sanitizer, vài cái maskes, trong hộp xe là hai cái sun glasses, gloves, chewing gums, vài hũ macadamia nuts phòng xa khi kẹt xe có cái lót dạ. Dưới sàn là đôi giày bệt, phía sau ghế ngồi là cây dù nếu trời đổ mưa phải ra khỏi xe, rồi cái jacket mỏng vì thời tiết Canada nóng lạnh bất thường (giống tôi), và mùa đông thì ghế sau có một cái blanket, lỡ tôi mặc đồ không đủ ấm, hoặc đi lễ nổi máu điệu, diện áo đầm thì cái blanket vô cùng hữu ích.

 

“Khả năng” chạy xe của tôi, bạn bè người quen ai cũng biết. Mỗi lần tôi chở cha xứ là Ngài bảo không dám thở, chỉ ngồi yên lần chuỗi đọc kinh, bởi tôi là... “chuyên gia U- turn” vì mải lo nói chuyện nên đi lố đường. Đôi khi đang chạy với tốc độ 60km/giờ theo quy định, tôi bỗng giảm xuống 40 vì lan man về một bài viết bài thơ dở dang, đến khi bị các xe phía sau bóp còi, tôi mới ...bừng tỉnh trở lại tốc độ 60. Mới đây trên đường đi làm, tôi bật signal xin vào lane trái, nhưng highway lúc đó nhiều xe chạy rào rào nên tôi...hoảng, cứ để signal chưa dám sang lane. Tôi liếc qua kiếng bên trái, đúng lúc chủ nhân chiếc xe lane đó nhìn thấy tôi, ổng giơ hai tay lên trời, có ý than vãn: “trời ơi, tui nhường lane cho bà nãy giờ, sao bà còn mắc cở gì mà chưa chịu qua!?”, tôi quê xệ cúi đầu xin lỗi rồi sang lane, thầm cám ơn người tài xế dễ tính, kiên nhẫn, không bực bội bóp còi hoặc vượt qua tôi ...dằn mặt!

 

Để kết thúc bài viết, tôi xin kể câu chuyện mới xảy ra : Tôi chạy xe ra khỏi cây xăng, vi vu thênh thang trong chiều gió lộng . Nhìn lên kiếng chiếu hậu, tôi thấy một xe đang chạy theo . Ai vậy cà, tôi có quen không?! Là người đàn ông da trắng, cỡ tuổi 40, mặc áo sơ mi và chiếc cà vạt màu nhạt, khuôn mặt thanh tú, đeo cặp kiếng trắng . Anh ta ngước nhìn tôi, dù tôi chạy nhanh hơn hay chậm lại, anh ta vẫn bám theo. Chả lẽ anh ta là cảnh sát chìm, mà tôi có tội gì chứ! Hay là anh ta muốn ...làm quen ? Ui chu choa, tôi là “gái” U60, còn chàng cỡ U50, đừng hòng mà mơ tưởng “phi công trẻ lái máy bay già” với tôi!

 

Rồi cũng tới ngã tư đèn đỏ, tôi dừng xe và anh ta vượt qua lane, đậu kế bên tôi . Tôi bối rối, anh ta kéo kiếng xe, ra dấu muốn nói chuyện, tôi nhanh chóng soi gương trước mặt, rồi ỏn ẻn kéo kiếng xe, nhìn anh ta cười duyên, chưa kịp mở miệng thì anh ta la lớn:

 “Bà chị quên đóng nắp bình xăng, thôi bye nha!”

 

Edmonton, tháng 7/2022

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

TÌNH ĐAU

(Cảm hứng theo bài hát Tình Hờ của Phạm Duy: Tôi đang lừa dối em/Mà sao em không biết/Những lời nói tình duyên/Với tôi, không cần thiết …)

 

Anh đến với một tình hờ

Và tôi cũng thế, chỉ vờ yêu thôi

Chúng mình cút bắt trò chơi

Lả lơi ánh mắt, nụ cười dối gian

Tình vui chóng vánh vội vàng

Đầu môi chót lưỡi …nhẹ nhàng gió bay

Một mình tìm đến cơn say

Anh nghe phảng phất ngất ngây giọt buồn

Còn tôi, cũng chẳng vui hơn

Đêm khuya thao thức giận hờn bâng quơ

Hình như tôi vẫn mong chờ?

Hình như anh vẫn bơ vơ bên trời?

Phải chăng tôi đã yêu người?

Phải chăng anh đã bồi hồi nhớ tôi?

Hiểu ra thì quá muộn rồi

Trái tim kiêu hãnh chưa nguôi nỗi sầu

Nếu còn có một kiếp sau

Xin đừng đùa giỡn-Tình đau một đời!

 

Edmonton 19.7.2020

KIM LOAN

 

KỶ NIỆM NGỌT NGÀO

 

Xóm cũ bé nhỏ của tôi ơi

Nhớ quá đi thôi, nhớ cả đời

Căn nhà có giàn hoa giấy đỏ

Kỷ niệm hôm nào chẳng phai phôi

Trước đây, tôi đã từng giải thích tại sao tôi có hai tên: Tên Thoa ở nhà và tên Kim Loan trên khai sanh (chỉ vì cái nàng ca sỹ hát Căn Nhà Ngoại Ô). Tên Thoa là do má tôi đặt, còn tên ăn theo cô ca sĩ nổi tiếng là do ba tôi ...nhẹ dạ nghe lời ông nhân viên hộ tịch mộng mơ đang say mê câu hát: “em ơi trái đất vẫn tròn ..”.

Tôi được sinh ra và lớn lên ở một xóm nhỏ ven đô, gần Ngã Năm Chuồng Chó. Sở dĩ có cái tên này là do trước 1975, thời chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, ngay Ngã Năm bên cạnh kho đạn là Trường Quân Khuyển, huấn luyện các chú chó chuyên nghiệp để phục vụ trong chiến tranh hoặc gìn giữ trật tự anh ninh xã hội. Khi tôi ra Sài Gòn học, có một anh bạn cùng trường muốn đến nhà chơi. Anh ở trung tâm phố thị, trên đường Trương Định phía sau vườn Tao Đàn, chưa bao giờ bước chân đến Gò Vấp, nên khi tôi chỉ đường đến Ngã Năm Chuồng Chó, anh nhìn tôi, cười:

- Sao em dễ thương vậy, mà lại sống ở nơi có cái tên nghe rất…dữ dội và chẳng thơ mộng chút nào!

Tôi cười cười :

-          Và anh chắc chắn sẽ bị lạc đường đấy nhé!

 Anh tuyên bố :

- Hẻm Bàn Cờ rối hơn canh hẹ, anh còn tìm ra, huống gì hẻm Gò Vấp xóm em!

 

Thuở đó, chưa có phone nên đố ai đi tìm nhà trong hẻm mà không hỏi những người xung quanh. Anh ấy quả là có kinh nghiệm “tìm hẻm” nên đã đến đúng con hẻm xóm tôi, nhưng xui cho anh ta, gặp ngay thằng Tửng, thằng bé khôn lanh nhứt xóm. Thằng Tửng trả lời rành rọt:

- Em bảo đảm với anh một trăm phần trăm, xóm này không có ai tên Loan hết, anh lộn hẻm rồi!

Anh ấy tiu nghỉu đi trở ra, một lát sau quay lại, vẫn gặp thằng Tửng:

- Em ơi, người ta chỉ cho anh đúng là hẻm này. Để anh diễn tả chị ấy cho em nhe: chị để tóc ngang vai, mắt một mí lót, dáng cao cao...

- Xóm em có mấy chị như thế, ai biết anh muốn chị nào?

- À, chị ấy đi chiếc xe đạp màu vàng, có cái giỏ xe phía trước thắt cái nơ đỏ, hơi ...màu mè cải lương đó cưng …

- Xời ơi, vậy là chị Thoa! Anh còn kể thiếu cái kẹp tóc màu xanh trên đầu chị ấy, và còn cái răng khểnh nữa…

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Thằng Tửng lên mặt, cự nự:

- Vậy sao anh không nói từ đầu cho khỏi mất thời gian của em!

Bà bán khoai mì ngay đầu hẻm nghe câu chuyện bèn góp vào:

- Nếu là cái xe đó thì chỉ là con bé Tẹt!

Anh bạn tôi và thằng Tửng ngạc nhiên, thì bác ấy cười tươi rói:

- Hồi mới sanh ra, mũi nó tẹt lét à, nên má nó gọi là con Tẹt, chỉ có mấy người lớn tuổi mới biết cái tên đặc biệt này thôi đấy.

Chị bán đu đủ đá bào kế bên liền nhào vô, cười mỉm chi:

- Tui không biết Tẹt, nhưng trong sổ ghi nợ của tôi là tên Thoa Ruồi!

Anh bạn tôi sửng sốt:

- Thoa Ruồi? Ghi sổ nợ?

Bấy giờ, chị bán đu đủ mới cười thành tiếng lớn, giải thích:

- Tại vì cô ấy có cái mụn ruồi ngày trên khoé miệng bên phải nên mở hàng rất đắt hàng. Lần nào dọn hàng, đúng lúc cô ấy đi ngang là tôi nài ép, năn nỉ cổ mở hàng. Cô ấy bận rộn đi học suốt, nhưng vẫn nể lời tôi mà ủng hộ, cổ nói: “Em không có thời giờ ngồi ăn, chị cứ quẳng bịch đu đủ đá bào lên giỏ xe em, đến trường em sẽ ăn, rồi tiền bạc thì 2-3 tuần em mới thanh toán một lần nghen!”. Vậy đó, cậu đừng có hiểu lầm, cổ không phải nợ như chúa chổm đâu!!!

Thế đó, trước khi "lọt" vào được nhà tôi, anh ấy phải qua vòng "sơ tuyển" đầu hẻm, và cũng hên là không bị rớt... "từ vòng gửi xe"!!!

Vậy mà sau cuộc viếng thăm bị “lên bờ xuống ruộng” đó, anh nói :

- Giờ thì anh thấy Ngã Năm Chuồng Chó thiệt…đáng yêu! Đến một lần là muốn đến nữa!

 Ngã Năm Chuồng Chó chỉ là tên địa danh xóm tôi, bây giờ đến chuyện con chó Kiki của nhà tôi. 

Thú thật, tôi chẳng phải loại người “yêu động vật thiết tha”, nên khi anh Tư của tôi mang nó về, tôi chẳng hề welcome nó, dù chỉ là một cái nhìn bình thường. Có những khuya ngồi học bài, hoặc sau này đi dạy, soạn giáo án, Kiki hay chui dưới gầm bàn cọ quậy dưới chân tôi, nhằm lúc căng thẳng hay bực mình, tôi co cẳng đá nó một cái rõ đau, nó chỉ kịp kêu ẳng một tiếng và cụp đuôi…tháo chạy! (Xin các chú bác, các anh chị em trong Hội Bảo Vệ thú vật…tha lỗi cho tôi). Nhưng Kiki lại không hề giận tôi, mỗi sáng vẫn chờ tôi thức dậy, đưa tôi ra cổng và chiều lại rối rít đón tôi về. Đặc biệt, nó luôn là người báo tin cho tôi biết khi có khách đến chơi. Mà nó biết đọc cả ánh mắt tôi nữa cơ! Khi tôi vui vẻ niềm nở mở cổng cho khách, nó cũng …hớn hở tung tăng đi theo sau. Còn khi tôi miễn cưỡng đón khách “không chờ mà đến”, nó lầm lũi lặng yên, đợi cho chủ và khách an toạ, nó ngang nhiên ngồi ngay dưới chân tôi với bộ mặt “hình sự”, lâu lâu nhìn khách rồi sủa khan một tiếng, công khai làm “kỳ đà cản mũi” và body guard…bảo vệ cô chủ!

Nhưng kỷ niệm đẹp nhất giữa tôi và Kiki là có lần tôi đi vượt biên thất bại, trở về nhà giữa khuya, khi mọi người đang ngủ say. Tôi còn chần chừ nơi cổng, đã nghe Kiki sủa vang vội vã từ bên trong để người nhà tôi ra mở cổng. Vừa bước vào, Kiki nhảy xổng vào người tôi, hít hà, bày tỏ sự “nhớ nhung” sau mấy ngày xa cách. Rồi tôi và bà chị Cả ngồi bên thềm đá hoa sau bếp nghe tôi kể chuyện vượt biên, nó cũng…hóng chuyện, ngồi chồm hổm, ngoác mõm ra lắng nghe say sưa, chẳng biết có hiểu gì không, mà nước dãi ròng ròng cũng không buồn khép miệng lại. Tôi mỉm cười, ôm đầu nó xoa xoa thay cho lời cám ơn.

Thời gian qua đi, Kiki càng già cỗi, trở bệnh nặng và kiệt sức. Mấy ngày đó, nó nằm im nơi góc bếp, chẳng đoái hoài gì đến dĩa thức ăn trước mặt. Đi làm về, tôi cúi xuống hỏi thăm, thì hai hàng lệ chảy dài từ khoé mắt mệt mỏi của Kiki, ám ảnh tôi suốt đời.

Và chuyện gì đến phải đến, Kiki “ra đi” trong một buổi chiều mưa u ám. Mọi người trong nhà chẳng ai nói với nhau lời nào, dấu nỗi đau vào bên trong.

Căn nhà trở nên trống vắng, buồn tênh. Không còn Kiki mừng rỡ đón đưa tôi mỗi ngày nơi cổng. Không còn những buổi trưa hè êm đềm, Kiki nằm thảnh thơi, lim dim mắt dưới bóng mát giàn hoa giấy trước sân. Không còn những đêm khuya, tôi ngồi soạn bài, có Kiki quấn quít dưới chân ấm áp…

Lần đầu tiên, tôi bỗng bật khóc và chợt nhận ra rằng, tôi đã yêu Kiki biết bao!

KIM LOAN

 

 

CHỊ QUYÊN

                                                         (Tháng4 nhớ trại tỵ nạn)

 

CHUYỆN ĐÊM MƯA BÃO

 

Nhóm bốn đứa chúng tôi, quen nhau trên đường vượt biên và thân thiết như chị em trong nhà ở trại tỵ nạn. Trong nhóm, chị Hảo chị Quyên bằng tuổi nhau, tức là cùng hơn tôi 2 tuổi, và đứa cuối cùng là nhỏ Hà thua tôi 2 tuổi.

Buổi chiều ngày ra khơi, được vài tiếng thì tàu chúng tôi bị mưa bão, máy thoát nước lại bị hư, nước bắt đầu tràn vào tàu, từ từ ngập qua mắt cá chân, chuyển lên gần đầu gối. Chị Quyên là người đầu tiên và duy nhất, đề nghị họp gấp với một chú lớn tuổi trong tàu, rồi chị đứng lên hô hào các thanh niên đàn ông phải thay phiên nhau lên boong tát nước, nếu không tàu sẽ bị chìm trong gió bão. Giữa âm thanh hỗn độn của mưa gió, máy tàu, và tiếng kêu la, tiếng đọc kinh, mà giọng của chị Quyên đứng ngay cửa hầm tàu nối lên boong tàu vẫn sang sảng mạnh mẽ, nhắc nhở các thanh niên trên boong tát nước, trong khi tất cả phụ nữ còn lại, trong đó có tôi, lả người, ói mửa, tàn tạ te tua như cọng bún thiu, không còn sức để làm bất cứ việc gì. Quá nửa đêm, mưa càng to hơn, máy bơm nước vẫn chưa sửa được, mỗi lần tàu nghiêng ngả theo sóng, nước biển nước mưa tràn xuống hầm, cả đám phụ nữ con nít lại rú lên vì lạnh và hoảng sợ. Lúc này mọi hành lý đều được quăng xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Chị Quyên vẫn đứng kêu gào, chỉ huy mọi việc trên boong. Thỉnh thoảng nghỉ giải lao cho bớt khan tiếng, chị lại đi xuống hầm ngồi với chúng tôi. Chị thì thầm vào tai tôi:

- Loan! Cái phao của mày đem theo đâu rồi? Mày có quăng xuống biển không đó?

Tôi run run thều thào, nói không ra hơi:

- Dạ ….còn… đây, em dấu… dưới áo, khi nào tàu chìm… thì thổi lên thôi!

Rồi chị lại tiếp tục đi lên boong, trông coi việc tát nước. Một lần sau, chị trở lại, kéo bốn đứa chụm đầu lại, đưa cho tôi một khúc gỗ, dặn dò rất nghiêm nghị và bí mật:

- Tao tranh thủ gỡ được thanh gỗ này trên boong, nếu tàu chìm, thì mày với Hà ôm lấy khúc gỗ này, nghe chưa?

Tôi xúc động, rơm rớm nước mắt, rồi ngơ ngác hỏi:

- Thế còn chị và chị Hảo thì sao?

Bả trả lời tỉnh bơ:

- Thì tụi tao xài cái phao của mày chớ sao nữa! Bộ mày nghĩ mày còn sức thổi được cái phao à!!!

May mắn sao, tàu chúng tôi đã tai qua nạn khỏi, đúng nghĩa “sau cơn mưa trời lại sáng”, đến trưa hôm sau gió tạnh mây quang, đúng lúc máy bơm nước được sửa xong, và cuối cùng đưa chúng tôi qua bờ Thailand an toàn. Trong bốn năm trời ăn chung ngủ chung trong trại tỵ nạn, thỉnh thoảng chúng tôi ôn lại cái đêm mưa bão và nhắc lại chuyện chị Quyên “cho tôi khúc gỗ để lấy cái phao” là chị ấy cười giả lả, mắc cỡ:

- Quỷ sứ! Tụi bay nhớ dai như đỉa à!!

 

BỆNH “TÂM THẦN”

Vừa nhập trại Panatnikhom chưa được một tuần thì chị Quyên đã nhanh chóng tìm được văn phòng “Mental Health” (người tỵ nạn đọc là Man Tai Heo, ám chỉ những ai bị…dở người). Tôi hỏi chị:

- Nơi đó dành cho các nạn nhân trên đường vượt biển bị cướp bóc, hãm hiếp, hoảng loạn tinh thần, hoặc những ám ảnh khủng khiếp với chế độ cộng sản nơi quê nhà, chị đến đó khám làm gì?

- Thì chị cũng có những ám ảnh trên biển mà!

- Ủa, tàu mình chỉ bị mưa bão, có chút hãi hùng, nhưng không hề bị những vụ khác…

- Cái đêm thức trắng tát nước trên tàu vẫn làm chị nhớ đến và mất ngủ đó cưng!

- Em tưởng chị mạnh mẽ lắm chớ! Đứng cả đêm gào thét giữa biển, kêu gọi thanh niên tát nước, ai cũng ói mửa mật xanh mật vàng, mà chị có bị gì đâu nà!

- Thì lúc đó không còn lựa chọn nào khác, chị phải gồng mình, chẳng nghĩ suy gì hết á. Giờ nghĩ lại còn thấy ớn, té xuống biển là tiêu đời. Chị xin thề, không bao giờ đi vượt biên nữa!

Văn phòng này riêng biệt với Hospital của trại, do một bác sỹ thần kinh người Pháp, Dr. Hiegel phụ trách cùng với vài nhân viên Việt Nam. Cửa văn phòng luôn khép kín, hai cửa sổ luôn kéo rèm che, để bảo đảm sự riêng tư bệnh lý của bệnh nhân. Bệnh nhân phải uống thuốc ngay tại chỗ, nếu bệnh nhân không đến được thì sẽ có nhân viên mang thuốc đến tận nhà. Nàng Quyên hơi “nhõng nhẽo”, than nhức đầu, rồi nằm ở nhà. Người mang thuốc đến hàng ngày là anh Trinh, là người lanh lợi, vui vẻ, khéo ăn khéo nói. Khi anh đến, anh yêu cầu cả nhóm vẫn ở trong nhà, phụ anh ấy “tâm tình” với nàng Quyên, rồi chứng kiến anh ấy cho nàng uống thuốc.

Mấy “bà tám” chung lô nhà thuở ấy mỗi khi thấy anh Trinh đeo túi thuốc đến nhà, được chúng tôi niềm nở chào đón, rồi kéo nhau chui vào nhà, đóng cửa kín mít, một con kiến cũng không lọt qua được, bí bí mật mật như chuyện “mờ ám”. Mấy bà tám tò mò lắm, nhưng chỉ biết nhìn nhau bàn tán:

- Cô nào trong bốn cô đó bị “tâm thần” vậy cà?!

Nhưng đâu dễ cậy miệng được chúng tôi. Thời gian sau đó, chứng kiến những chiều mưa chúng tôi nằm nghêu ngao hát đủ các loại nhạc, hoặc một buổi đẹp trời nổi hứng đi chụp hình, hoặc nửa đêm khuya vắng kéo nhau đi lang thang trong trại không ngủ được vì nhớ nhà, nhớ quê hương, các bà tự động kết luận, như đinh đóng cột rằng:

- Cả bốn cô ấy đều …không bình thường, thì phải?!

Điều không ai ngờ là chị Quyên và anh Trinh yêu nhau. Chúng tôi tự hỏi, lần nào mang thuốc đến cũng có đủ mặt cả nhóm, vậy họ yêu nhau khi nào, lúc nào, chả lẽ trong thuốc có …bùa mê?!

 

YÊU HAY KHÔNG YÊU

Khi họ chính thức công khai yêu nhau thì chị Quyên cũng kết thúc chương trình chữa bệnh với văn phòng Mental Health (hoá ra thuốc …tình yêu hiệu nghiệm hơn!)

Ngày nào anh cũng “đóng đô” nhà chúng tôi, có khi còn được mời ăn cơm chung, rồi ngồi tâm tình với chị ấy cho đến giới nghiêm mới ra về. Nhưng có điều, cứ vài ba bữa lại thấy chị khóc, vì anh nóng tính, hay la mắng chị, và nhất là rất gia trưởng. Đỉnh điểm là một ngày kia, anh nhờ chúng tôi nấu ăn làm giỗ cho ba anh. Bốn đứa cặm cụi nấu nướng, đến trưa anh ghé qua kiểm tra, có một món không vừa ý, anh ấy giận quá, bèn quay qua mắng chị Quyên, chị cúi đầu nước mắt rưng rưng. Tôi bực lắm, nếu đó không phải là buổi giỗ, không phải đến giờ khách đến đọc kinh, tôi dám …nổi cơn điên lắm á!

Đêm đó, bốn đứa nằm ngủ, chúng tôi xúm vào góp ý, tôi mạnh miệng nhất:

- Chẳng hiểu sao chị chưa bỏ anh ấy?! Em hả, em không đời nào lấy một người nóng nảy, gia trưởng như thế!

Góp ý vậy thôi, chớ chúng tôi đâu có quyền gì. Anh chị vẫn quen nhau, anh vẫn đến chơi nhà chúng tôi, vẫn được mời cơm, vẫn ra về khi còi giới nghiêm nổi lên, và dĩ nhiên, vẫn …la mắng chị ấy, (có khi còn la …nhiều hơn!)

Khoảng hơn một năm sau đó, trong một bữa cơm bốn đứa, chị cho biết, anh chị đã lo đầy đủ giấy tờ từ Việt Nam gửi qua, đã đem trình cho Cha xứ trại tỵ nạn, và sẽ có đám cưới tại trại do Cha Hậu và Cha Pierre đồng tế Thánh Lễ Hôn Phối.

Chúng tôi lại xúm vào chúc mừng chị, và tôi vẫn …mạnh miệng nhất đám:

- Chị nè, mặc dù anh ấy tính tình nóng nảy, nhưng bù lại chị biết nhường nhịn, anh ấy tuy có gia trưởng, nhưng cơ bản là người tốt. Anh ấy còn biết xông xáo, năng động làm việc cho cộng đồng trại tỵ nạn, cũng đáng cho chị …nâng khăn sửa túi và gửi gắm cả cuộc đời.

Nghe tới đó, chị bỗng phì cười, giăng cả cơm ra ngoài, rồi nhìn tôi cười sặc sụa:

- Mày tưởng tao quên những gì mày đã từng nói về anh ấy hay sao, con nỡm??

Tôi cũng đang nhai miếng canh bí đỏ, suýt nữa cũng văng ra ngoài mâm. Tôi chu mỏ, liếc chị, và xài lại câu nói chị đã từng nói với tôi trong vụ “đưa miếng gỗ lấy cái phao”:

- Quỷ sứ! Nhớ dai như đỉa à!!

 

Edmonton Tháng4 Đen 2022

KIM LOAN

 

"Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

TL_flippingboat.jpg

.............................để nhớ 1 ngày buồn

 

THÁNG TƯ CỦA NGƯỜI VƯỢT BIỂN

(Để nhớ những chuyến tàu ra khơi vì tự do)

 

Ai đã từng qua một lần vượt biển

Sau Tháng Tư, Một Chín Bảy Mươi Lăm

Tìm tự do nơi miền đất xa xăm

Trên những con thuyền với bao ước mộng?

 

Biển ban ngày dịu màu xanh hy vọng

Lòng kẻ xa nhà gợn sóng hoang mang

Bỏ lại quê hương, bỏ lại người thân

Và mẹ già đang từng ngày trông ngóng

 

Biển ban đêm, là màu đen hoang vắng

Bóng tối chập chờn nỗi sợ mênh mông

Thuyền bơ vơ trôi đi giữa biển đông

Mong trời sáng thấy bình minh ló dạng

 

Có khi biển chợt nổi cơn điên loạn

Sóng bạo tàn, gào thét khắp trùng khơi

Thuyền lênh đênh như chiếc lá chơi vơi

Biển bao la nào thấy đâu bờ bến

 

Cũng có khi biển lạnh lùng tàn nhẫn

Đồng loã cùng bọn hải tặc hung hăng

Gieo kinh hoàng và những tiếng khóc than

Trong giây phút, thuyền chao nghiêng rạn vỡ

 

Nhưng biển cũng mở lòng ra che chở

Những xác thân vừa nằm xuống đại dương

Mộng tự do mang theo cõi vô thường

Xin yên nghỉ nơi đây nghe sóng vỗ

 

Biển cũng đưa những con thuyền bé nhỏ

Vào đất liền trong bao nỗi mừng vui

Đói khát, sợ lo, hiểm nguy qua rồi

Nơi đất lạ, thắp lên niềm tin mới

 

Cám ơn Bidong, Galang, White Head

Panat, Sikiew, Palawan, Songkla…

Bỗng thân thương để ta gọi là “nhà”

Chốn tạm dung vẫn thấy lòng ấm áp

 

Cám ơn Cao Uỷ, cám ơn Red Cross

Cùng những đoàn thiện nguyện khắp năm châu

Vẫn còn đây trong cuộc sống nhiệm màu

Người với người trao nhau tình đồng loại

 

Ta nếm trải buồn vui đời tỵ nạn

Vẫn đau lòng nhớ chuyến hải hành qua

Biển hiện về, cay đắng lẫn thiết tha

Trong khuya vắng giữa những cơn mộng mị

 

Bốn mươi bảy năm! Biển mãi là kỷ niệm

Của những thuyền nhân vượt biển khi xưa

Thời gian qua, cũng chẳng thể xoá nhoà

Ký ức biển… Một thời ta đã có

 

KIMLOAN

 

THƯ GỬI CHỒNG CẢI TẠO

Anh ạ, từ khi anh vắng nhà
Hộ khẩu bốn người, nay còn ba
Gạo châu củi quế, đời vất vả
Thương lắm con thơ, tội mẹ già

Sổ lương thực, mỗi người 9 ký
Vừa gạo, vừa khoai, vừa bo bo
Qua ngày đoạn tháng đời dâu bể
Em chạy chợ trời, cũng tạm no

Mua miếng thịt, mớ rau, khúc củi
Xếp hàng cả ngày, vã mồ hôi
Cô mậu dịch bán hàng phách lối
Mặt xỉa mày sưng. Khổ thêm thôi

Chắt chiu, dành dụm chờ thăm nuôi
Tóp mỡ, tôm khô, nếp nấu xôi…
Lệnh đổi tiền bất ngờ giáng xuống
Mất hết gia tài rồi anh ơi

Bạn bè, người thân ít gặp nhau
Vì ai cũng đang mang nặng sầu
Thỉnh thoảng nghe tin người “đi thoát”
Mừng giùm họ, em lại ước ao

Đánh tư sản, rồi kinh tế mới
Xô đẩy bao thân phận lao đao
Chết tức tưởi trên rừng dưới suối
Em ngậm ngùi lo sợ mai sau

Công an khu vực, mắt cú vọ
Tạm trú tạm vắng, rình ngày đêm
Mỗi tháng hội họp tổ dân phố
Khủng bố tinh thần đám dân đen

Chân yếu tay mềm, nào yên thân
Phải đi thuỷ lợi, phải đào kênh
Con khóc, con đau cũng đành chịu
Bởi vì “lao động là quang vinh”

Mẹ già héo hon, rồi đổ bệnh
“Xuyên tâm liên” uống mãi chẳng lành
Mẹ xuôi tay một chiều mưa lạnh
Hơi thở sắp tàn, kêu tên anh

Và còn bao nhiêu điều khác nữa
Em không thể kể hết ra đây
Địa ngục trần gian đang vây bủa
Đồng bào Miền Nam trong đắng cay

Anh đọc thư này cẩn thận nha
Công em dấu kỹ trong gói quà
Quản giáo bắt được thì mệt đấy:
Vợ phản động! Chồng đi mút mùa!

Mai mốt em lại gửi thư “chui”
Nói hết những cảnh khổ khắp nơi
Anh cứ làm bộ “học tập tốt”
Chờ đọc thư em kể chuyện đời!

Edmonton Tháng 4 Đen 2020
KIM LOAN


Ý HỢP TÂM ĐẦU LÀ ĐÔI TA

Nhận thư anh, em đọc một mạch
Chưa kịp cảm ơn người đưa tin
Dân mình mến thương tù “cải tạo”
Nhiệt tình chuyển giúp dù không quen

Ý hợp tâm đầu, là đôi ta
“Giải phóng” vào, tan cửa nát nhà
Anh trong tù nhỏ, đành câm nín
Tù lớn ngoài đời, em xông pha

Tai hoạ ập xuống khắp Miền Nam
Nào đâu một mình em gian nan
Lá ngọc cành vàng, em đã trải
Giờ phải đổi thay, em sẵn sàng

Nên em đảm đang lắm anh ơi
Sáng cơm nước xong, chạy chợ trời
Bám trụ Nguyễn Thông, Huỳnh Thúc Kháng
Vài hộp thuốc tây bán kiếm lời

Họp tổ dân phố, em có mặt
Gật gù “đường lối” với “chủ trương”
Giơ tay “nhất trí” và “đồng ý”
Tranh cãi làm gì. Thời nhiễu nhương

Thuỷ lợi đắp đê, em không ngại
Đạt “chỉ tiêu” vỡ đất, đào kinh
Người ta làm sao, em làm vậy
Để khỏi bị “kiểm điểm, phê bình”

Đêm đêm giấc ngủ chưa tìm đến
Em mở băng cũ nghe nhạc vàng
Những tình khúc lãng mạn thời chiến
Một thuở Sài Gòn em với anh

Ngày mai trở dậy, lại lo toan
Chầu chực mua gạo, mua khoai lang
Anh đừng lo sợ em vất vả
Em đã biết “Cả Ngày Xếp Hàng”

Em vui vì biết anh nơi ấy
Không cúi đầu, không làm “ăng-ten”
Không bán anh em, không nịnh bợ
Giữa cuộc đổi đời, trắng thay đen

Phút nghỉ ngơi trong giờ lao động
Nhìn mây trời thương nhớ vợ, con
Anh đã nuốt vào lòng tiếng khóc
Buồn riêng và buồn chung nước non

Khinh thường bọn quản giáo, cán ngố
Dốt đặc cán mai, giỏi trả thù
Ngạo mạn cười lũ khỉ lên phố
Anh ung dung giữa chốn lao tù

Đợi em nhé, lần thăm nuôi tới
Mình lại gặp nhau, lén trao thơ
Anh cứ giả vờ “học tập tốt”
Thế giới bên ngoài để em lo

Chồng ở một nơi, vợ một nơi
Vẫn gần dù khoảng cách xa xôi
Vẫn nhắn nhủ nhau cùng “phản động”
Hai đứa mình thật là xứng đôi!

Edmonton, Tháng Tư Đen 
KIM LOAN

MIỀN NAM MẾN YÊU

Dù chỉ được sống trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà vỏn vẹn 9 năm, nhưng ký ức về khung trời tuổi thơ yên vui tươi đẹp, của Miền Nam mến yêu vẫn sống mãi trong tâm tưởng của tôi. Thuở ấy, đầu thập niên 1970s, tôi là cô bé tí tẹo, với mái tóc fashion… “muỗm dừa hồi đó”, cái trán dồ và nick name Bé Tẹt (vì cái mũi tẹt).


Căn nhà mặt tiền của gia đình chúng tôi dùng làm quán nước giải khát do Má và chị Cả quán xuyến, vì Ba tôi là Cảnh Sát Quốc Gia đi làm cả ngày. Phía trước nhà là Trại Đoàn Dư Khương, tức là Trại Quân Cụ (Lục Quân Công Xưởng) của chính quyền VNCH. Đối diện Quân Cụ là một Club Mỹ giữa khu dân cư và hai trại gia binh. Chỉ trong đoạn đường hơn một cây số, đi từ trại Quân Cụ, còn có Trại Truyền Tin, Quân Nhu, Quân Trang là gặp ngã ba. Nếu rẽ trái là đến Thành Cổ Loa, Khu Thiết Giáp, và rẽ phải gặp ngã năm là Kho Đạn, Trại Quân Khuyển mà bà con gọi là Ngã Năm Chuồng Chó.


Hướng ngược lại từ nhà của chúng tôi, đi vài trăm mét là ngã ba Thông Tây. Rẽ phải đi lên Xóm Mới, còn rẽ trái đi thêm sẽ gặp Nhà Thờ Hạnh Thông Tây, đi nữa sẽ thấy Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp (không phải Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà), cạnh Làng Trẻ Mồ Côi SOS. Nếu quý vị chưa mỏi chân, thì cứ đi tiếp lên Chợ Cầu, Trung Chánh và đến Quân Trường Quang Trung của những ngày cuối tuần rộn ràng “ hôm nay ngày chúa nhật, vườn tao ngộ em đến thăm anh”.


Đến tuổi đi học, tôi học tiểu học trường Nguyễn Công Trứ, nằm trong khuôn viên Khu Quân Trang, hiệu trưởng là một Sĩ Quan (Thiếu Tá) VNCH. Vì là trường học thuộc quân đội, nên lũ “học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau” chúng tôi cũng được hưởng chế độ viện trợ của Mỹ. Cứ ba lần trong tuần, có xe chở sữa đẩy đến cửa từng lớp học, đến lớp nào thì cô giáo lùa học sinh ra xếp hàng, mỗi em được một ly sữa tươi và một lát bánh mì mà chúng tôi gọi là “bánh mì Mỹ”. Tôi còn nhớ đó là sữa hiệu Foremost để vào ly nhựa màu xanh lá cây, có in chữ f màu trắng thật to. Ông anh Năm của tôi, lớn hơn tôi vài tuổi, buổi sáng hay dúi vào tay tôi cái bao đựng cơm sấy của quân đội (đã dùng xong), dặn dò: “ Nếu em uống sữa không hết, nhớ bỏ vào bao đem về cho anh, nghe chưa! Sữa Mỹ thơm lắm, bỏ uổng!”.
Lần đó, năm học lớp Ba, chúng tôi được Giáo Sư Nhạc Sỹ Lê Văn Khoa đến trường dạy một vài tiết mục múa hát để quay trên Tivi. Tôi nhõng nhẽo đòi Má sắm cho tôi đôi giầy Bata mới toanh, mua thêm cái váy xanh áo trắng để tôi …lên sóng. Đến ngày lên Đài Truyền Hình, thầy Hiệu Trưởng cho một chiếc xe cam nhông chở cả đoàn diễn viên nhí tới Đài, cho ăn uống bồi dưỡng trên xe, thật vui. Buổi chiều thâu hình xong, xe chở về lại trường, mấy anh lính ra bế từng đứa xuống xe, có phụ huynh chờ sẵn. Riêng tôi chưa thấy người nhà thì thầy Hiệu Trưởng nắm tay tôi:
“Bé Tẹt em cô Thanh bán cà phê đây mà, để chút Thầy đưa về!”.
Tôi bé tí, nhưng cũng biết bắt chước mấy người lớn trong xóm, trả lời:
“Dạ, cám ơn chú…Thiếu Tá!”

Miền Nam bị “giải phóng” khi tôi chưa đầy 9 tuổi, nhưng những kỷ niệm ngọt ngào của những ngày tháng thanh bình (trong thời loạn) chưa hề phai nhoà. Bên cạnh những ký ức êm đềm khi đi học như vừa kể ở trên, còn là những ngày nghỉ hè, tôi đòi Má cho dậy sớm lúc 4 giờ sáng, để xem Má đổ sữa đặc vào từng ly, khoảng vài chục cái như vậy, rồi bỏ cà phê vào vợt, chuẩn bị đón những vị khách đầu tiên. Họ là những công nhân hoặc lính tráng của những trại lính xung quanh.


Là những ngày Tết nắng rực vàng, tôi mặc quần áo mới, đứng khép nép nơi bàn Ba tôi uống trà ăn mứt với khách, đợi tiền lì xì, rồi chạy xuống bếp tìm món thịt đông và chè kho, chạy qua phòng khách còn nghe tivi đang mở bài ca Xuân bất hủ: “ Chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành, mừng người vì nước quên thân mình ..”


Là những buổi chiều, lũ trẻ con chúng tôi được người khách quen của quán, trong bộ quân phục oai hùng của quân lực VNCH, đưa cả đám lên xe chiếc Jeep còn vương bụi bặm hành quân hoặc bùn lầy thao trường, chạy một vòng quanh khu phố.


Là những người lính đủ cấp bậc, đủ màu da (vì còn có lính Mỹ, Đại Hàn, Philippines …) vào quán nhà tôi uống bia Con Cọp, điếu thuốc Capstan trên tay, với ánh mắt buồn vui bất chợt mà đứa trẻ đa sầu đa cảm như tôi cũng mơ hồ hiểu được.


Và chẳng hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, buổi trưa hôm ấy, tôi theo Má trên chuyến xe lam đi Chợ Cầu dự đám tang gia đình một người quen vừa có người con tử trận tại trận địa Phước Long. Chiếc xe lam dừng tại Trung Chánh đón khách, trong tiếng ồn ào hỗn độn mời chào mua bán, một giọng hát ma mị từ chiếc radio của quán nước gần đó, rót vào hồn tôi và ở lại cho đến tận bây giờ, đầy cảm xúc chơi vơi:
“Mùa hè năm nay, anh sẽ đưa em rời phố thị đôi ngày …”.


Có lẽ đó là chút gam màu xám buồn trên bức tranh rực rỡ “Miền Nam Mến Yêu” của tuổi thơ, tôi nguyện sẽ ôm ấp suốt cuộc đời này!

Tháng Tư Đen 2021

KIM LOAN

KL_VNvillage.jpg

EM VỀ XÓM CŨ

Hôm nay em về thăm xóm cũ

Cho chị gửi theo chút kỷ niệm thôi

Dù biết hành lý em đã nặng rồi

(Thâm tình, ân nghĩa với người thân, bè bạn)

Chùa Vĩnh Quang nằm ở đầu ngõ hẹp

Sư cô Huyền giờ cũng đã già hơn?

Cây hoa Ngọc Lan còn toả mùi thơm

Như những chiều xưa chị dừng chân bước?

Còn đêm giao thừa vườn Chùa náo nức?

Nhộn nhịp khói nhang, người hái lộc đầu năm?

Tuổi đôi mươi, chị đứng đó bâng khuâng

Nghe xao xuyến cả trời xuân rực rỡ

Giáo xứ Đức Tin, ngôi giáo đường bé nhỏ

Xóm đạo hiền hoà ghi dấu tuổi mộng mơ

Thánh lễ cuối tuần, tiếng chuông nhà thờ

Bài thánh ca rót vào hồn êm ái

Giờ tan lễ, áo dài khoe sắc mới

Xóm mình có bao nhiêu chị đẹp xinh!

Là bấy nhiêu gã trai trẻ …vô tình

“Phố vắng em rồi” mới ngẩn ngơ, tiếc nuối

Căn nhà của chị, đã thay mấy chủ mới?

Hàng rào trước sân, giàn hoa giấy còn không?

Thuở nao bốn mùa xuân hạ thu đông

Là mái ấm gia đình, là một thời tuổi trẻ!

Nắng có vàng trên con đường Đất Đỏ

Dẫn đến Mộng Thành, Xóm Thuốc, Xóm Mô?

Nơi ấy chị có một lũ học trò

Giờ chúng đã là những chàng trai, thiếu nữ!

Chợ Đồng Tâm còn rộn ràng khắp ngõ

Bánh cuốn, bún riêu, (và nhiều món chị đã quen)

Nếu mưa có rơi, (bong bóng bập bềnh)

Em hãy ra hẻm, chờ tiếng rao bánh mì quen thuộc

Chị nhớ lắm, xóm lên đèn, chiều vào tối

Là một ngày bận rộn vừa đi qua

Chị ngồi bên cửa sổ trước hiên nhà

Tìm những vần thơ viễn vông, lãng mạn

Cho chàng sinh viên miền Trung siêng học

Vào Sài Gòn tìm tươi sáng ngày sau

Trang giáo án chị dở dang (vì câu thơ đến mau!)

Đêm yên bình, vấn vương nụ cười răng khểnh

Còn nhiều em ơi, nhưng chị không nhắc nữa

Dòng đời bể dâu, cảnh vật cũng đổi thay

“Người muôn năm cũ” phiêu bạt đó đây

Kỷ niệm xưa chỉ còn là quá khứ

Chị em mình trôi theo dòng viễn xứ

Một chốn quê nhà vẫn giữ trong tim

Dẫu không về, chị cũng vẫn đi tìm

Trong giấc mộng, Xóm Cũ một đời yêu dấu!

 

Edmonton Mar/2022

KIM LOAN

CANADA …CHUYỆN LẠ

 

Lạ ở đây là …lạ thiệt, chớ không phải như ở xứ bên kia bờ đại dương, hễ lải nhải “tàu lạ”, “người lạ”, “nước lạ” là nhân dân ai cũng biết là… “rất gần và rất quen”.

Hôm nay, tôi xin kể về hai chuyện lạ, vừa mới xảy ra tại quê hương tôi, xứ lạnh tình nồng.

Chuyện lạ thứ nhất, là chuyện …lạ buồn. Mà tại sao gọi là “lạ”, bởi cái xứ này xưa nay nổi tiếng là hiền hoà, dễ thương, vui vẻ, khác hẳn với các nước tự do khác, hễ động tí là biểu tình, chuyện nhỏ cũng biểu tình, chuyện lớn thì vừa biểu tình vừa …quậy phá.

Vậy mà chuyện đó đã xảy ra tại Canada đấy quý vị ạ, hỏi sao hổng lạ!

Số là, cũng tại cái lũ dịch vật. Suốt hai năm nay, chính phủ Canada luôn khuyến khích người dân mau chóng chích vaccine, kêu mỏi cả miệng cũng chưa đông người chịu chích, chính phủ bèn răn đe, ngoài chuyện cấm chợ ngăn sông, còn ra luật, khi vào nhà hàng, đến chỗ đông người, và đặc biệt là đi du lịch trong nước hoặc qua nước khác, khi bay về không những cần giấy chích ngừa mà còn phải làm PCR test mới được vào lại Canada. Tuy nhiên, các điều kiện đó không áp dụng cho các tài xế xe trucks đường dài, khi họ chạy qua chạy lại vùng biên giới chỉ cần làm Covid test mà thôi.

Nhưng hồi giữa tháng Môt, thủ tướng đẹp trai Trudeau ra quyết định buộc các tài xế xe trucks phải chích ngừa. Ôi, thế là mấy anh truckers phản đối, rủ nhau chạy trên các xa lộ, bóp còi inh ỏi, giương cờ biểu tình, chống lại chuyện bắt chích ngừa. Lúc đầu chỉ có mấy truckers, rồi một nhóm người chẳng phải truckers cũng gia nhập vì họ cũng hổng ưa chích vaccine, và kéo theo đám đông đang mệt mỏi chán nản vì những tháng ngày ngăn sông cấm chợ (đám đông này có chích vaccine đầy đủ), hoá ra cuộc biểu tình trở thành thập cẩm lý do. Truckers thừa thắng xông lên, làm một cuộc diễu hành quy mô lớn, “truck convoy”, rầm rộ kéo đến thủ đô Ottawa ...ăn vạ chính phủ. Họ làm kẹt xe, kẹt đường, ăn nằm dầm dề một vùng thủ đô. Có kẻ còn ngứa tay chân xúc phạm bức tượng Terry Fox, đi tiểu trên Đài tưởng niệm Chiến tranh và nhảy múa trên Lăng mộ của Chiến sĩ vô danh, thậm chí còn có cờ Trump bay phất phới trong đám biểu tình, khiến gia đình thủ tướng Trudeau được bí mật chuyển đến chỗ khác để tránh chuyện không hay xảy ra. Từ mục đích tạm gọi là chấp nhận được lúc ban đầu, nay truck convoy đã thành một cuộc hỗn loạn, mà theo khảo sát thì 2/3 dân số Canada đều không đồng tình. Ngoài thủ đô Ottawa, truckers còn làm tê liệt một số đường biên giới giữa Mỹ và Canada, như highway Emerson của Manitoba, Coutts của Alberta, nghiêm trọng nhất là cây cầu biên giới Ambassador nối liền Detroit (Michigan) và Windsor (Ontario) ảnh hưởng đến những nhà máy sản xuất xe hơi vì thiếu nguyên liệu. Chính quyền Biden cũng đã ...ra lệnh, í lộn, nhắc nhở Canada hãy mau “dẹp loạn”.

Nhưng Trudeau và nội các vẫn kiên quyết không chịu thua những yêu cầu của truckers, và ngày 11 tháng 2, thẩm phán Canada ra quyết định giải tán cuộc biểu tình, theo đó, cảnh sát có thể dùng các biện pháp nghiệp vụ nếu cần thiết. Các truckers còn cứng đầu hơn cả Trudeau, tuyên bố không nhượng bộ, thậm chí có những truckers tháo các bánh xe trucks để cảnh sát khó động vào, kéo đi. Ai bảo dân Cà Na Điên “hiền” nữa không nà ! Nhưng đến hôm nay thì mọi sự đã yên ắng, có lẽ vì chuyện Ukraina đang là tâm điểm của cả thế giới, ai còn quan tâm đến ...truckers rảnh rỗi nữa đâu!

Bên cạnh đó, cũng có tin vui nho nhỏ, là tỉnh bang Alberta của tôi, chính quyền vừa tuyên bố xoá bỏ giãn cách từ đầu tháng 3, không buộc đeo khẩu trang, cho tụ tập đông người, và nhất là Canada bãi bỏ “vaccine ID”. Cô nàng da đỏ trong chỗ làm của tôi, là người phản đối vaccine từ những ngày đầu, mới đây vì phải bay qua Toronto ăn cưới gia đình nên đành phải chích vaccine, nay nghe lệnh “mở toang” liền chửi đổng:

- Không fair không fair! Vậy mấy người không chích thì sao, what the heck!

Nếu là con cháu trong nhà, tôi sẽ nổi đoá, nhưng đành dịu giọng với …con nhỏ này:

- Nè cưng, ai không chích kệ họ, chúng ta chích thì khả năng lây bệnh sẽ thấp cũng như khả năng khỏi bệnh sẽ rất cao. Mà nhờ số đông những người đã chích nên tình hình mới được sáng sủa hơn, nên mới có lệnh “mở toang” đó cưng!

Chuyện lạ này xin được tạm dừng ở đây. Giờ tới chuyện …lạ dzui, đó là chuyện đội tuyển bóng đá (soccer) của Canada. Xứ này “quanh năm mùa đông” có 4 tháng lạnh, các môn thể thao được đông đảo dân chúng yêu thích là hockey, skating, skiing luôn được điểm cao trong các Olympic Mùa Đông, và soccer chưa bao giờ được quan tâm, hay gọi là bị…ghẻ lạnh cũng chẳng sai.

Vậy mà hiện nay, trong vòng tranh chiếc vé Worldcup Qatar 2022, trong bảng Concacaf gồm 8 đội: Mỹ, Mexico, Canada, Hondurus, Costa Rica, Panama, Jamaica, El Savado …thì Canada đang đứng đầu bảng với 25 điểm với thanh tích …chưa thua trận nào, đặc biệt đã thắng cả Mexico và Mỹ, ghê chưa, lạ chưa?

Dù còn phải đấu 3 trận nữa cho đủ 16 trận vòng bảng, nhưng chắc chắn Canada sẽ nằm trong 3 đội đầu bảng Cancacaf vào Worldcup năm nay, nhưng đại diện đội bóng Canada còn tuyên bố rất…chảnh, rằng Canada sẽ cố giữ ngôi đầu bảng. Tôi là một Fan của bóng đá, nhưng là fan “chảnh” vì chỉ xem các giải lớn như Worldcup và Euro, còn các giải nhỏ tôi hổng “care” (Canada có nhiều người …chảnh thiệt). Bao nhiêu năm nay, tôi xem Worldcup nhưng chưa bao giờ được cổ vũ cho đội nhà, vì lần mới nhất Canada vào giải là năm… 1986, còn sau đó đều “rớt từ vòng gửi xe”, hỏi sao năm nay hổng lạ, hổng dzui? Tại sao Canada lại có sự đầu tư và tiến bộ về soccer như thế, có lẽ ai cũng trả lời được, bởi vì Worldcup năm 2026 sẽ do ba nước Bắc Mỹ là Mỹ, Canada, Mexico đồng tổ chức, chẳng lẽ để đội bóng yếu kém, thua tả tơi như trước đây, coi sao đặng, mất mặt chủ nhà!

Ông xã tôi còn vui hơn, hớn hở:

-Worldcup 2026 nhất định tụi mình phải bay qua Mỹ mua vé vào xem trận chung kết!

- Ủa, anh nghĩ đội Canada sẽ vào chung cuộc sao?

- Em nằm mơ à, Canada đâu có cây đũa thần thông, mà ngày một ngày hai từ con vịt xấu xí bỗng trở thành thiên nga đẹp xinh?

-Vậy đi xem làm gì cho tốn tiền, giá vé cỡ đó không rẻ đâu nhe, thà ngồi ở nhà xem tivi chiếu cận cảnh các cú ghi bàn, nhất là phạt đền, vừa run vừa la vừa nhảy tưng tưng …mới đã.

- Cảm giác xem tại sân mới tuyệt vời em ơi! Vả lại, bốn năm mới có một lần, mà tại Bắc Mỹ nữa, giá nào cũng phải xem!

-Vậy anh lo tiết kiệm đi là vừa, nhịn bớt các khoản hobbies của anh, bớt các golf trips xa gần, các buổi ski…để dành tiền mua vé.

Nói vậy chớ tôi biết khó mà bắt chồng nhịn các niềm vui ấy, chả lẽ tôi phải nhịn sao, mà các hobbies của tôi lại rất ...rẻ tiền, thậm chí là không tốn tiền. Này nhé, tôi không thích hột xoàn kim cương, không đam mê hàng hiệu đắt đỏ, tôi chỉ mê viết văn làm thơ (chỉ tốn chút xíu tiền café khi ngồi trên computer gõ máy sáng tác), còn về thể thao thì tôi chỉ mê …đi bộ (chả tốn đồng nào, chỉ thỉnh thoảng thay đôi giày), dù có nhịn cả chục năm vẫn chẳng đủ mua nửa tấm vé chung kết Worldcup!

Mà thôi, chồng tôi nói đúng, bốn năm mới có một Worldcup, và sẽ lâu lắm mới quay trở về Bắc Mỹ đăng cai, nên thích thì cứ đi!

Tiền nhiều để làm gì ??

 

Edmonton, Feb 15/2022

KIM LOAN

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

KimLoan_Edmonton.jpg

Dù gần cuối tháng Ba mới chính thức bước vào Spring, nhưng đối với tôi, khi hết tháng Hai cũng là hết mùa đông giá lạnh. Nhiều người nói Canada mùa đông dài sáu tháng là... nói thách quá, thực ra chỉ là bốn tháng, từ tháng Mười Một đến tháng Hai mà thôi. Dẫu rằng qua tháng Ba hay tháng Tư, trời buồn trời vẫn đổ cơn …tuyết, nhưng nhiệt độ đã ấm, tuyết sẽ mau tan, kể cả những đám tuyết "lì lợm" từ mùa đông còn nằm trên vỉa hè cũng bắt đầu tan chảy, và tôi gọi tháng Ba là Mùa Tuyết Tan.

Mấy đứa bạn của tôi bảo, nghe có vẻ lãng mạn thơ mộng lắm, nhưng thực tế thì hỡi ôi, tuyết tan thành từng vũng nước, rồi hòa với bụi bặm đường phố, tạo thành những ...vũng sình, chạy xe trên đường dễ bị văng tung tóe, phải mang xe đi rửa chớ đẹp đẽ gì cái Mùa Tuyết Tan!

Thây kệ, tôi vẫn thấy Mùa Tuyết Tan đáng yêu. Buổi sáng thức dậy mở cửa, hít thở không khí trong veo của nắng rực vàng, gió lay nhẹ những cành cây khô đang bắt đầu chớm nụ, tuyết tan chảy thành dòng nước trôi xuống ống thoát nước bên hông nhà nghe như âm thanh của suối róc rách, rộn ràng vui tai.

Dù sao, những người chê bai mùa tuyết tan là mùa sình lầy cũng phải công nhận đó là mùa vui, vì sau mấy tháng đông dài lạnh lẽo, lại được tung tăng ra ngoài. Nhưng mùa tuyết tan năm nay còn đặc biệt hơn, vui hơn vạn lần, vì hai năm qua bị chôn chân trong nhà do Covid, nay lại có thêm tin vui nới lỏng giãn cách khắp nơi, cuộc sống đang hồi sinh, hỏi sao không hoan hỉ?

Nên tôi cũng hào hứng trổ tài bếp núc, nấu nồi bánh canh. Nhà có sẵn giò heo, xương heo, củ cải carrot, chỉ còn thiếu broccoli cho đủ …ba màu. Trước khi đi lễ nhà thờ, tôi nhắn chồng đang vẫn còn ở chỗ làm:

- Chút anh về nhà chớ ăn bánh canh liền nhe, chờ em mang broccoli về cho đầy đủ.

Tôi chạy xe trên đường khô ráo, ở các con đường nhỏ thì còn chút sình lầy ẩm ướt, chớ các con đường lớn đã sạch trơn. Tự dưng tôi muốn cám ơn mùa đông, vì nhờ nó mà chúng ta mới thấy các mùa khác …tuyệt vời, giống như Vũ nhạc sĩ có ghi: “Có dầm dề mưa tuyết, mới vui ngày nắng về, có một đời khóc than, mới hiểu đời đá vàng”, và mới đây trong trận tuyết lịch sử của Texas cũng đã có nhiều người thề hứa từ nay sẽ không bao giờ than vãn cái nóng chảy mỡ của Texas nữa đó sao!

Vào nhà thờ, mùa này dù không còn giới hạn số người tham dự, nhưng thành phố vẫn yêu cầu đeo khẩu trang và lễ cũng nhanh gọn. Đang là Mùa Chay chuẩn bị đón Lễ Phục Sinh, bài Thánh Vịnh kể lại câu chuyện Cựu Ước, khi dân Do Thái bị Thiên Chúa trừng phạt, phải lưu đày qua Babylon, và họ đã thức tỉnh, khóc than nhớ thương quê nhà Sion:

“Trên bờ sông Babylon/ Tôi ngồi khóc nức nở/ Bên nhành cây dương liễu/ Tôi tạm gác cây đàn”.

Câu Thánh Vịnh này Mùa Chay nào tôi chẳng nghe, mà sao lần này lòng tôi thổn thức lạ kỳ. Chẳng lẽ mùa dịch u ám đã làm trái tim tôi nhạy cảm hơn, tâm hồn tôi “mong manh dễ vỡ” hơn, mà cũng có thể  Mùa Tuyết Tan khiến tôi cởi mở cõi lòng “dễ khóc dễ tin theo” như thời ấu thơ? Tôi nôn nao, mong giờ lễ qua mau, sẽ chạy đi mua broccoli để còn về nhà viết vài vần thơ về “Babylon River” khi cảm xúc còn ngập tràn.

Lễ xong, tôi bước nhanh ra cửa nhà thờ thì gặp anh ca trưởng của ca đoàn. Lâu quá không nói chuyện vì lâu nay đi lễ phải đeo mask, ngồi cách xa nhau, chẳng ai nhìn ai rồi tan hàng thiệt lẹ, nên hôm nay trời tuyết tan nắng đẹp, ai cũng hớn hở tươi cười, hai anh em dừng lại tán dóc chuyện linh tinh, hẹn nhóm đánh golf sớm tụ tập ra sân (anh ấy và Cha xứ là bạn chơi golf của chồng tôi). Xong tôi lên xe chạy ra chợ, định tiến thẳng vào khu rau quả thì ngay cửa ra vào là quầy mít trái, có hai chị quen trong nhà thờ đang đứng đó, thấy tôi họ vẫy rối rít:

- Loan ơi, mít hôm nay on sale, $1.28 môt pound.

- Dạ thôi chị! Nhà em chỉ có em và thằng con trai ăn mít, còn ông xã và con gái em ăn vào là bị ngứa cổ họng.

- Thì mua về gỡ múi ra để trong tủ lạnh ăn dần, mấy trái này thơm ngon, lâu lâu mới sale đó cưng!

Chị kia cũng phụ hoạ theo:

- Bữa nay trời đẹp mà về sớm làm gì, ở nhà cả hai năm nay chưa ngán sao!

Làm sao tôi nỡ từ chối lời mời ngọt ngào như… mít của các chị, hơn nữa, hồi tôi còn làm trong ban Đặc San Giáng Sinh của giáo xứ, hai chị này đã nhiều lần “cứu bồ”, giúp tôi tìm bài vở cũng như là mạnh thường quân ủng hộ tài chánh, cho nên đây là dịp để tôi …đền ơn họ:

- Vậy mấy chị lựa giùm em một trái nhỏ thôi nghen.

Hai chị nhanh nhẩu vừa lựa vừa giảng giải cho tôi biết loại nào ngon, vừa luôn tay nắn bóp hết trái này đến trái khác, thế là ba chị em bàn chuyện...mít cho đến khi mỗi người có một trái trên giỏ xe đẩy. Tôi tính bước đi thì hai chị chuyển qua đề tài ...sầu riêng, một chị bảo ăn mít nhiều cỡ nào cũng thoải mái, mà ăn sầu riêng thì không quen vì cái mùi khó chịu, chị kia liền quảng cáo chợ bên kia đường có sầu riêng đông lạnh ngon thần sầu, ăn thử đi mới thấy mùi sầu riêng thơm hơn mùi mít. Tôi không dám hé môi góp một lời nào, sợ các chị lại chuyển qua đề tài …măng cụt, mẵng cầu, chôm chôm thì chắc đến khuya tôi mới ra khỏi chợ. May quá, xong chuyện sầu riêng, hai chị vui vẻ chia tay mỗi người một ngã trong chợ. Tôi chạy bay qua vơ vội broccoli rồi vội vã ra quầy tính tiền, hy vọng về kịp làm bữa bánh canh cho cả nhà. Đang đứng xếp hàng thì nghe tiếng phía sau quầy nước tương:

- Chào cô Loan!

Đó là anh bạn ngày xưa dạy Việt Ngữ chung tại Hội Người Việt. Tôi quay qua mỉm cười, anh ấy tiếp:

- Tôi đang cần mua nước tương, cô xài loại nào ngon, giúp tôi với!

- Lộn người rồi anh ơi, em chẳng hề biết gì về nước tương hay xì dầu. Ngay cả thịt thà cá mắm, em cần thì cứ vào mua, chớ hỏi em loại nào on sale, giá cả ra sao, em biết chết liền, vì chợ búa cơm nước không phải là ...sở trường của em.

Thấy anh ấy hơi buồn và ….cô đơn (anh mới goá vợ vài năm nay) tội quá, tôi bước tới, hai anh em lại bàn chuyện ...nước tương. Anh ấy săm soi từng chai, nếu Made in China hoặc Made in VietNam thì khỏi mua, rồi xem thành phần của từng loại nước tương khác của Philippines, Taiwan, Pháp, Thuỵ Sĩ. Tôi đề nghị anh mua một chai mà tôi hay xài, và tôi cũng mua một chai để ...làm tin dù ở nhà vẫn còn nước tương.

Cuối cùng, tôi cũng được bước ra khỏi chợ, lái xe về nhà. Lúc lên xe mới chợt nhớ có đặt mua bánh ú của một chị trong ca đoàn làm, hẹn nhau tan lễ lấy bánh ngoài bãi đậu xe nhà thờ mà nãy giờ mải lo với những … “bận rộn” bất ngờ nên quên mất. Lục giỏ tìm cái phone mới thấy cả chục cuộc missed calls, vì tôi tắt phone trong giờ lễ mà quên chưa mở lại. Tôi liền phone xin lỗi chị ấy, chị bảo đã về nhà, nhưng trời đẹp quá nên hai vợ chồng chị đi dạo ngoài hồ nước gần nhà, chị kêu tôi chạy ra cây xăng gần đó ngồi đợi chồng chị mang bánh ra giao. Thôi thì đành phải …chuộc lỗi, đã ủng hộ mua bánh thì phải ủng hộ cho trót, đâu thể ủng hộ nửa vời, ráng chạy thêm một vòng xe để lấy mớ bánh ú.

Về đến nhà, trời sập tối, chồng con tôi đang ăn trái cây tráng miệng trên lầu và xem tivi. Cũng may, chồng tôi thuộc loại dễ chịu trong chuyện ăn uống, còn hai đứa nhỏ sanh trưởng bên đây nên chúng ăn các món Việt kiểu nào cũng được, chúng không “ke”. Tôi mệt nhoài, khiêng trái mít vào góc bếp, bóc cái bánh ú ăn cho lẹ làng.

Vậy là chẳng có tô bánh canh giò heo rau củ ba màu, và cảm hứng cho bài thơ “Babylon” cũng tan biến.

Chỉ vì …Edmonton Mùa Tuyết Tan!

 

KIM LOAN

 

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

CHUYỆN TÌNH YÊU

 

Tôi vừa đạp xe về tới cổng nhà, thấy chị Hạnh ngồi trước cửa nhà chị ấy khóc nức nở, đôi mắt sưng húp. Tôi bỏ xe vào sân rồi chạy qua bên chị:

- Lại bị ổng goánh nữa hả chị? Thôi vô nhà đi, còn trái cây gì chưa bán hết, em lấy nhe!

Tôi đưa chị vào nhà, bàn ghế chỏng chơ, lạnh lẽo, góc nhà là tủ kiếng bán trái cây của chị, còn sót vài miếng thơm (dứa) và tô muối ớt. Tôi lấy thơm, ngồi chấm muối ớt, ăn giùm chị, trong lúc chị dọn dẹp các thứ ngổn ngang trong nhà.

Chuyện vợ chồng Hạnh-Bằng cãi nhau, rồi goánh nhau (thực ra là chị bị goánh), rồi lại huề nhau vui vẻ “như chưa hề có cuộc …goánh nhau” xảy ra như cơm bữa, riết rồi trong con hẻm này, chẳng ai còn để ý nữa. Thỉnh thoảng, thấy chị la khóc, cũng có người chạy qua giải cứu, khuyên can, nhưng “được” cái, anh Bằng sau vài cú chưởng nhắm vào chị cho hả cơn say, thường lăn ra giường đánh môt giấc cho tới chiều tối, tỉnh dậy, rượu đã giải xong, chị lo cơm nước cho anh, anh lại …mắc cở nói vài lời xin lỗi, thế là …huề! Có khi, anh chẳng ngủ, mà bỏ nhà đi loanh quanh đâu đó trong xóm, ngủ nhờ nhà ba má anh gần đó, hoặc nhà bạn bè, chập tối mò về nhà, đâu lại vào đấy. Anh bảo, đó là con “ma rượu”, chớ lúc bình thường, anh còn đùa giỡn, lâu lâu ôm đờn, ca mấy câu bolero ngọt hơn đường phèn tặng “vợ yêu”.

Sau mỗi lần bị chồng đánh tơi bời đó chị Hạnh thường...e thẹn tâm sự với hàng xóm, may là chị đã đi thắt buồng trứng, chớ nếu không, mỗi lần huề là mỗi lần...sản xuất ra một đứa, nuôi sao cho xuể !

Chuyện tình yêu của anh chị khá đặc biệt, hổng được bình thường, vì chị lớn hơn anh cả chục tuổi, và họ đến với nhau sau khi cả hai đều đã trải qua một lần đò.

Anh là người xóm tôi. Khi vào tuổi thanh niên, đến tuổi cập kê, anh là chàng trai đẹp trai, với cái miệng móm duyên, làn da nâu, mái tóc mềm, và đôi mắt đa tình biết nói. Anh làm công nhân trong một xí nghiệp gần nhà, và lấy vợ, cũng là một chị xinh đẹp trong xóm. Mà người ta bảo, tuổi trẻ chưa có nhiều trải nghiệm, cái “tôi” quá lớn, nên hai vợ chồng đường ai nấy đi sau khi sinh được đứa con gái còn ẵm ngửa.

Sau đó, vợ anh mang con đi nơi khác, thỉnh thoảng mới về xóm. Anh chán nản một thời gian, tìm quên nơi các cuộc nhậu nhẹt, rồi đổi sang nghề lái xe đường dài, từ Sài Gòn về các tỉnh miền Đông, chở hàng cho các bạn hàng buôn bán.

Tại các chuyến đi này, anh gặp chị Hạnh, qua nhiều lần chở hàng, rồi anh đưa chị về xóm sống chung, lần lượt sinh được hai đứa con, cỡ 4-5 tuổi.

Lúc về xóm, anh chị ăn nhờ ở đậu bên nhà ba má của anh, rồi dọn qua mảnh đất trống sát bên nhà tôi (vốn là một nhà của một gia đình đi kinh tế mới, rồi bị đập phá tan hoang). Anh khéo tay, dựng một mái nhà lá, nhỏ bé nhưng ấm cúng, đúng kiểu “một mái nhà tranh hai trái tim vàng”. Anh không chạy xe hàng nữa mà làm nghề tự do với bạn bè, còn chị bán tủ trái cây trước cửa nhà, được bà con lối xóm mua ủng hộ trong đó tôi là khách hàng quen thuộc nhứt, nên ngày nào chị bán cũng hết sạch.

Tôi vừa nhâm nhi thơm chấm muối ớt, hỏi chị:

- Ổng đi rồi hả chị, còn hai đứa nhỏ đâu?

- Tụi nó chạy qua bên nội chơi, còn ổng đi đâu thì kệ xác, chả quan tâm!

Câu này tôi nghe …quen quen, chắc cỡ …cả trăm lần rồi chớ chẳng phải ít, nhưng lần này nói xong, chị ngồi bên đầu giường, bật khóc. Tôi hốt hoảng:

- Chị có bị đau ở chỗ nào không, để em chạy về lấy chai dầu xanh?

- Thôi, thôi, chị không sao đâu! Chỉ thấy buồn và ân hận …

- Có hai mặt con rồi, ân hận gì chứ! Con Thuý Thằng Tí xinh xắn quá chừng. Hơn nữa, chị thừa biết ổng yêu vợ yêu con, chỉ có cái tật rượu chè rồi ngứa tay ngứa chưn thôi mà.

Chị quẹt nước mắt:

- Chị ân hận, với người chồng trước của chị kìa! Chị chưa kể cho bất cứ ai trong xóm này, nhưng hôm nay chị tâm sự cho riêng em thôi, em phải hứa giữ bí mật cho chị, đừng có rỉ tai cho ai, nghe chưa?!

Tôi còn nhai miếng thơm trong miệng, chưa kịp thú nhận là không dám hứa cái vụ “đừng nói cho ai nghe” thì chị đã tuôn bầu tâm sự:

- Chị là người đàn bà bỏ chồng em ơi!! Chồng chị làm thợ may trong xóm, chị phụ chồng vắt sổ, đơm nút áo, cuộc sống không giàu có nhưng chẳng thiếu thốn gì, mà chỉ thiếu tiếng cười trẻ thơ. Anh thương chị và an ủi chị nhiều lắm. Chị đôi khi cũng thấy buồn vì không sanh được con cái, nên chị đi buôn trái cây cho khuây khoả và kiếm thêm thu nhập. Những chuyến đi, có khi cả tuần mới về, cuộc sống vẫn êm ấm hạnh phúc nơi xóm nhỏ vùng Hố Nai. Rồi chị gặp anh Bằng, ảnh vui tính, hay kể chuyện hài, làm các chuyến đi thêm vui nhộn. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén dù chị hơn ảnh nhiều tuổi. Trong một lần xe bị hư chờ sửa qua đêm, chị và anh Bằng đã vượt quá giới hạn, nhưng bất ngờ là chị được mang thai, điều chị mơ ước từ bấy lâu nay. Chị sung sướng, rối bời tâm tư, dự tính về khai thật với chồng, vì chị tin rằng chồng chị nhân hậu sẽ chấp nhận rồi cùng nuôi con, nhưng khi anh Bằng nghe tin chị có thai thì ảnh mừng rỡ tỏ tình với chị, rủ chị về đây, và chị đã ngã lòng ưng thuận. Chị không đủ can đảm nói lời chia tay với chồng, nên chị đã lặng lẽ bỏ nhà ra đi …

- Trời! Cũng tội chồng chị quá!

- Để chị kể hết tội của chị em ơi! Sau khi âm thầm soạn sẵn hành lý cho cuộc bỏ trốn, chồng chị không hề hay biết, vì chị dấu các túi đồ dưới các cần xế đựng hàng mỗi chuyến một ít. Hôm ấy, như thường lệ, trước một chuyến hàng, nhưng lần này chị làm một bữa cơm thịnh soạn ê hề cơm gà cá gỏi, mua thêm bia rượu, như là bữa ăn cuối cùng của tình nghĩa mười mấy năm chồng vợ đậm đà. Chồng chị vẫn vô tư ăn uống, rồi vào phòng nằm nghỉ, chị xách mấy cần xế bước ra khỏi nhà, gọi xe ba gác đưa ra ngã tư có xe anh Bằng đang chờ. Giây phút nhìn lại căn nhà lần cuối, nghĩ đến chuyện chồng chị sẽ mòn mỏi đợi chờ, để rồi không bao giờ thấy chị trở về mà chị nghẹn ngào, nhưng không hiểu sao, chị vẫn cất bước ra đi...

Kể tới đây, chị lại oà khóc to hơn, đôi vai rung lên từng hồi. Tôi ôm chị:

- Thôi chị! Mọi sự đã muộn rồi, chị chưa về thăm anh ấy lần nào ư?

- Chưa bao giờ!! Nhưng chị đã nhắn tin về cuộc sống hiện tại của chị, mong anh tha thứ và chị thật sự mong anh có gia đình mới, tốt đẹp hơn.

- Nhưng chị hạnh phúc với anh Bằng, phải không ??

- Em thấy rồi đó, lúc tỉnh rượu, anh ấy là người rất dễ thương, chăm lo nhà cửa không chê vào đâu được!

 

Ừa, cũng may mắn cho chị, vì thực lòng mà nói, sau cơn say anh Bằng là một con người khác, thân ái hoà đồng, khéo tay khéo chân giúp chòm xóm những việc lặt vặt, chưa kể tài “ca lẻ”, chiều chiều tối tối, khi gió mùa hây hây lạnh, ảnh ôm cây đờn guitare, ca mấy bản nhạc bolero, nhứt là nhạc Lính trước năm 1975 cả hẻm đều im lặng nằm trong nhà thưởng thức.

Ừa, cũng may mắn cho chị, là khi anh lên cơn nóng, anh chỉ “nựng” chị vài chiêu, rồi bỏ đi, chớ nếu không, dám có án mạng đình đám như bên Mỹ mới đây, Brian Laundrie siết cổ bạn gái Gabrielle Petito, rồi một tháng sau đó bỏ đi tự tử bằng súng với thư tuyệt mệnh để lại, xác nhận mình đã giết người yêu trong cơn nóng giận khi hai người cãi nhau trong chuyến đi chơi Road Trip.

Đến nay, anh Bằng chị Hạnh vẫn sống với nhau nơi xóm cũ, hai đứa con đã trưởng thành. Tôi vẫn giữ lời hứa, không rỉ tai cho ai nghe chuyện tình của chị, mà chỉ đưa lên …báo cho mọi người đọc thôi!

 

Edmonton, Tháng 2/ 2022

KIM LOAN

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

 

                                                -Luke 23:34-

KL_Neu.png

Nếu được trở lại ngày xưa ấy

Chắc chắn em sẽ tìm gặp anh

Lòng em rộn ràng vui biết mấy

Nhìn đi anh, mắt em long lanh

 

Nếu được trở lại thuở mười tám

Em sẽ nói yêu, anh biết không?

Những lần gặp nhau trên đường vắng

Nghe đi anh,…em kể chuyện lòng

 

Nếu được trở lại đêm mưa đó

Em sẽ ngây thơ, khóc dỗi hờn

Trời khuya em lạnh vì cơn gió

Có anh đưa về, ấm nhiều hơn

 

Nếu dòng thời gian trôi trở lại

Xin anh đừng hờ hững quay đi

Đừng để trái tim em thổn thức

Cho nước mắt em hoen bờ mi

 

Nhưng đời vẫn chỉ là cơn mộng

Kỷ niệm xưa em sẽ tôn thờ

Vì tình em bao la biển rộng

Như sóng kia luôn mãi yêu bờ

 

Và nếu có ngày mình gặp lại

Tuổi trẻ qua rồi, em vẫn vui

Giây phút tương phùng, sẽ rất đẹp

Khi anh nắm tay em, anh ơi…

 

Thôi thì kiếp này chẳng có nhau

Kiếp này chẳng nợ nần gì nhau

Nỗi buồn ngọt ngào anh trao tặng

Xin gửi lại anh một kiếp sau

 

Edmonton, Valentines 2022

KIM LOAN

MẤY SÔNG CŨNG LỘI

(Tháng Hai kể chuyện Tình Yêu)

 

Tình yêu thì ở nơi đâu cũng có, mùa nào cũng có (nào phải riêng Tháng Hai có Valentines), nhất là trong trại tỵ nạn khi mà nỗi buồn niềm vui mong manh luôn luôn hiện hữu. Nhưng đừng nghĩ rằng ở trại tạm dung, lộn xộn, thì được tự do hẹn hò yêu đương, mà còn có những trường hợp bị cấm đoán, ngăn cản. Không cách núi ngăn sông mà lòng phải nhớ nhung, gặp nhau lén lút, bí mật (vội vàng thay những lúc yêu người):

 

1.

Chàng và nàng là cư dân cùng lô nhà với tôi. Nàng qua trại cùng với bố mẹ, bà ngoại và hai đứa em trai. Là con gái mới lớn, con gái cưng của gia đình nên khi biết nàng quen với chàng thì cả nhà phản đối, lý do rất rõ ràng: chàng đã có một đời vợ bên Việt Nam. Dù chàng có giải thích đã ly dị vợ cũ, đường ai nấy đi, nhưng mấy ai tin ở cái hoàn cảnh trại tỵ nạn xô bồ xô bộn này! Cho nên kể từ đó, nàng bị gia đình “kìm kẹp” sát nút, nhất cử nhất động đều có người đi theo, giám sát, cận kề. Mà cái trại thì nhỏ xíu như cái lỗ mũi, đâu thể giữ nàng mãi trong “căn nhà” chật chội tù túng, mà hổng lẽ cả nhà cứ phải mất thời gian đi theo nàng cả ngày lẫn đêm? Nhưng làm gì làm, nhiệm vụ “canh gác” con gái rượu vẫn được ưu tiên một. Vậy mà đùng một cái, tin đồn nàng …có bầu râm ran cả khu nhà. Bà ngoại nàng qua nhà tôi kể lể than van: “ Trời ơi là trời, nhà tui canh chừng nó không hở phút giây nào, chỉ có điều thỉnh thoảng phải cho nó đi bộ ra ngoài đi…vệ sinh, đi tắm rửa, hoặc buổi chiều cho nó đi dạo vài vòng co giãn chân cẳng, trước giờ giới nghiêm luôn có mặt ở nhà, chẳng bao giờ đi đâu qua đêm, giờ chẳng hiểu sao nó lại mang bầu?!”

Ái chà, ngoại hỏi tui, tui biết hỏi ai, nhất là cái vụ “không qua đêm mà vẫn mang bầu”- Ai biết đâu nà!

 

2.

Còn bác lớn tuổi kia, qua trại với cô con gái xấp xỉ tuổi băm (ba mươi). Chị ấy khá xinh nên được một anh chàng trong Ban An Ninh trại theo đuổi, nhưng chị không thích. Tuy nhiên, bác ấy thấy chàng ăn nói ngọt ngào, lại có “chức sắc”, mỗi lần đến chơi đều mang theo những tin tức nóng bỏng về tình hình tỵ nạn, về cuộc thanh lọc khó khăn, nên bác nghĩ rằng biết đâu sẽ giúp ích được hai mẹ con trong cuộc thanh lọc và được đi định cư nước thứ ba. Bởi vậy bác cứ ép uổng chị. Mỗi lần chàng đến chơi, chị trốn qua nhà tôi, còn bác đem trà bánh ra tiếp khách rất ân cần nồng hậu. Chờ tối mịt, khách ra về rồi, chị mới về nhà, lần nào cũng bị bác càm ràm cả đêm, nghe nhức cái đầu. Ông bà ta nói “nước chảy đá mòn”, “đẹp trai không bằng chai mặt” quả chẳng sai. Một thời gian sau, chị lại cảm mến chàng. (Ủa, mà lần nào chàng đến chơi, chị cũng tránh mặt, vậy cảm mến lúc nào cà? Tôi thắc mắc lắm mà chưa có dịp hỏi!). Nhưng đời ai biết được chữ ngờ, oái ăm thay, lúc đó mẹ chị cũng vừa nghe được tin đồn về quá khứ “lợn cợn” của chàng, nên đã trở mặt như trở bánh tráng nướng. Hễ chàng đến nhà là bác lạnh lùng, cầm cây chổi chà đuổi thẳng tay, mà còn kèm thêm mấy câu chửi mới ghê. Thế là hai anh chị phải hẹn hò lén lút. Vì tôi cũng có chút “chức sắc” đi làm thiện nguyện trong trại, nên được chị nhờ vả, đến rủ đi chơi là bác vui vẻ đồng ý. Tội cho bác ấy, nào có biết đã “nuôi ong tay áo” là tôi. (bác nấu ăn rất ngon và rất quý mến tôi, hay để dành cho tôi những món mà tôi yêu thích). Giờ tôi ở “ngã ba đường”, biết phải làm sao đây? Thôi thì “một liều ba bảy cũng liều”, thấy chàng và nàng nhớ nhau như Ngưu Lang Chúc Nữ, ray rứt quá, tôi cầm lòng hổng đặng. Tôi đành phải…phản bội niềm tin tưởng của bác, đến xin cho nàng đi chơi, dẫn nàng ra điểm hẹn chàng đã đợi sẵn, rồi tôi đi về, để cho chàng và nàng tự do tâm tình “buồn vui đời tỵ nạn”.

 

3.

Tôi quen khá thân với anh bạn làm bên văn phòng Cao Uỷ. Anh qua trại với đứa con gái mười tuổi. Rồi “tình yêu không hẹn trước” cũng đã đến với anh giữa những chênh vênh hàng ngày của đời tạm dung. Nhưng đứa con gái cương quyết bảo vệ ba nó, vì nó còn nhớ thương mẹ của nó, đã qua đời mấy năm trước vì bịnh tim khi còn ở Việt Nam. Trái tim ngây thơ bé bỏng sợ ba nó san sẻ tình thương cho người phụ nữ khác mà bỏ bê nó chăng?. Ngoài giờ anh đi làm thì thôi, chớ về đến nhà là nó không rời anh nửa bước, mặt sưng mày sỉa khi cô bạn gái của ba đến chơi. Cho nên thỉnh thoảng anh cầu cứu tôi, với chút “uy tín” là cô giáo lớp Việt Ngữ tỵ nạn của nó, anh đưa tiền nhờ tôi dẫn nó đi chơi, ăn hủ tíu, (dĩ nhiên là nó một tô, tôi cũng được một tô, chớ tôi đâu giúp miễn phí bao giờ). Ăn xong, hai cô trò lang thang trong trại cỡ …vài ba tiếng để ba nó được thoải mái đi gặp người trong mộng cho vơi bớt nỗi nhớ nhung đợi chờ. (Yêu chi cho khổ không biết!)

 

Trong ba câu chuyện trên, chỉ có câu chuyện đầu tiên là tôi không dính dáng liên quan và họ đã có happy ending. Chàng đậu thanh lọc, nàng ôm con hồi hương về Việt Nam, sau đó chàng bảo lãnh nàng và con qua Úc đoàn tụ, và câu chuyện chàng đã ly dị vợ trước khi đi vượt biên là có thật trăm phần trăm. Thêm nữa, một thời gian sau, khi làm ăn thành công, ổn định cuộc sống, chàng còn bảo lãnh cả bố mẹ vợ, em vợ, bà ngoại vợ qua bên xứ Kangaroo, đại gia đình sum vầy hạnh phúc.

Riêng hai câu chuyện sau, tôi có “nhúng tay vào”, làm “ông tơ bà nguyệt”, làm “cây cầu Ô Thước”, âm thầm hỗ trợ hết mình “tình yêu trong gian khó” của họ, thì kết quả là họ…tan vỡ, mỗi người một phương trời, nghìn trùng xa cách.

Từ đó tôi mới biết mình là một “bà mai” vô duyên!!

 

KIM LOAN

TL_mai.jpg

NỖI NHỚ TẾT DỊU DÀNG


1. ĐÊM BA MƯƠI HUYỀN DIỆU


Ông bà mình có câu “Thấy 30 chưa phải là Tết” với nghĩa bóng, rằng sự gì chưa nắm trong tay là chưa vội mừng, chưa chắc ăn. Nhưng với nghĩa đen, theo tôi, thì không hẳn thế, vì Ba Mươi mới chính là Tết, thậm chí còn…vui hơn Tết, nên mới có lời thơ “Còn đêm nào vui bằng đêm Ba Mươi” đấy thôi!
Ngày Ba Mươi, sau một tuần bận rộn dọn dẹp kể từ ngày 23 Ông Táo, là ngày cuối cùng gấp rút cho mọi công việc để đón năm mới. Cứ khoảng 6-7 giờ tối, sau khi nhà cửa yên ổn sạch sẽ, chỉ còn dưới bếp bà chị Hai vẫn âm ỉ vài món ăn cho đêm Giao Thừa và sáng Mồng Một, tôi và nhỏ bạn thân có thói quen rủ nhau chạy xe lên chợ Xóm Mới mua bánh gai nóng hổi mới ra lò, mang về bày biện thêm cho mâm thức ăn ngày Tết. Đường đi chỉ hơn cây số, lại chạy xe máy, nhưng phải dừng lại rất nhiều lần vì các trạm…đốt pháo của đám thanh niên nghịch phá giữa đường. Mà hình như họ chỉ chờ phụ nữ hay con gái đi ngang, là bắt đầu đặt ngay viên pháo, úp cái lon sữa bò lên, rồi hò hét nhau bịt lỗ tai…chạy xa. Chúng tôi, cũng nhờ có “thâm niên kinh nghiệm” nên thường tránh kịp, dừng xe lại, chờ pháo nổ…banh ta lông rồi tiếp tục đi tiếp. Có nơi, đám thanh niên lại chơi kiểu quăng pháo, cũng may là họ quăng trước hay sau xe, chứ không trúng vào người, nhưng cũng gây ra bao phen ú tim, la hét tưng bừng…
Cứ như thế, cả đường đi lẫn đường về, cộng với thời gian mua bánh gai (có khi còn đứng ăn tại chỗ một cái trước cho ấm bụng và lấy sức…tránh pháo), thì mất cỡ một hai tiếng, về đến nhà thì trời thật sự “tối đen như đêm 30”, vẫn còn hồi hộp, run lẩy bẩy vì những “trạm pháo phá làng phá xóm” ngoài kia!
Sợ thì sợ vậy, mà cũng thật mau quên, thành ra tối Ba Mươi năm nào cũng phải đi mua bánh gai, hay vì nhớ cái cảm giác phiêu lưu, tim đập mạnh, dáo dác nhìn hai bên đường để tránh pháo, mà lòng lại vui lâng lâng, niềm vui đêm giao thừa của tuổi trẻ?
(Đúng là…yếu mà khoái ra gió)

Và như thế, dù hồi đó cũng có một, hai mối tình vắt vai, nhưng tôi chưa bao giờ được một lần lãng mạn “Em đến thăm anh đêm Ba Mươi” như bài hát của Vũ Thành An, vì còn phải bận đi mua…bánh gai!


2. XÓM CŨ THÂN YÊU


Nhà tôi, thuở đó, thuộc Phường 10 Quận Gò Vấp, vùng ven đô, hay còn được gọi là vùng “nửa chợ nửa quê”, vì nó không xa phố thị Sài Gòn và cũng rất gần ruộng vườn.
Nếu đi từ Ngã Năm Chuồng Chó, chạy xe đạp, lên Phú Nhuận cỡ chừng 10 phút, rồi chạy thêm khoảng 15 phút nữa là đến trung tâm đường Hai Bà Trưng, rồi lên đường Đồng Khởi, Nhà Thờ Đức Bà, Chợ Bến Thành… Nếu đi hướng ngược lại, về An Nhơn, là đến An Phú Đông rợp bóng mát cây xanh, vườn tược, mà còn có cả con sông bé tí, với một bến đò ngang thơ mộng. Hoặc đi theo hướng Thông Tây, nếu rẽ phải là lên Xóm Mới, một thời oanh liệt với nhiều lò sản xuất pháo lừng danh, qua cầu Sắt là gặp Xa Lộ Thủ Đức gió lộng, còn rẽ trái là lên phường 12 Thông Tây, nơi từng nổi tiếng là vườn trồng hoa Tết, cung cấp rất nhiều cho thị trường Sài Gòn mỗi dịp Xuân về.
Từ giữa tháng Chạp là thời gian nhộn nhịp nhất, khu vườn hoa rực rỡ đủ sắc màu cả một vùng không gian. Dòng người đi tảo mộ ở những nghĩa trang gần đó đều ghé vào mua những bó hoa tươi thắp mộ cho người thân. Tôi và lũ bạn, khi tan học, ghé nhà đứa bạn có vườn vú sữa, cả đám ngồi dưới tàn cây, đàn ca và ăn vú sữa… rụng trong gió Xuân hây hẩy, rồi trên đường về, ngang qua những vườn hoa toả mùi thơm ngào ngạt. Dân xóm tôi hay rủ nhau đi mua hoa thật trễ (ỷ nhà gần vườn mà), lúc đó giá hoa rất rẻ, có khi gần như là cho không, nhất là hoa vạn thọ hay hoa cúc vàng, các chủ vườn hớn hở hào phóng, cám ơn những vị khách muộn màng giúp họ thanh toán những luống hoa cuối cùng để còn lo dọn dẹp đón Tết.
Những buổi chiều cuối năm, tôi thích ngồi trước quán nước nhà mình, ngắm những chiếc xe ba gác chở đầy hoa từ vườn Thông Tây hoặc chở đầy pháo từ Xóm Mới, trực chỉ trung tâm Sài Gòn cho người người mua sắm.
Thế đấy, cần gì phải chờ đến Tết, khi mà những buổi sáng trời trong veo, nhà nhà mang lư đồng, chén dĩa kiểu, bàn tủ ra sân chùi rửa rộn ràng. Đám con nít trong hẻm cũng biết lợi dụng thời cơ lúc ba má dọn dẹp cửa nhà để gầy các sòng bầu cua cá cọp cãi nhau ồn ào. Mấy chị em tôi mang dưa kiệu ra mảnh sân xi măng sau nhà phơi khô và khi chiều tối, nhóm thanh niên có máu văn nghệ ngồi đàn đúm bên bếp lửa canh nồi bánh chưng của nhà kế bên, với cây guitar thùng, bập bùng những điệu nhạc bolero thiết tha, nồng nàn: “Đón Xuân này tôi nhớ xuân xưa, hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa …” là đã thấy cả Mùa Xuân đang đến rồi.

Một phần tư thế kỷ trôi qua, xóm nhỏ của tôi theo bể dâu biến đổi, hàng xóm bè bạn cũng lưu lạc bốn phương trời. Tôi nhớ có lời đồn rằng, vì sinh ra và lớn lên ở vùng “nửa chợ nửa quê”, nên nhiều cư dân nơi này thường có tính khí…ba rọi, nửa tỉnh nửa mê. Ngẫm mà đúng thật, vì có tôi đây, nơi xứ tuyết trắng Canada, đang mê man thương nhớ về những ngày Tết nắng rực vàng, của một thời xa lắc xa lơ…

Edmonton, Xuân Nhâm Dần 2022

KIM LOAN

_______________________

TIỄN VONG 2021

 

Năm ngoái tôi viết bài Tiễn Vong 2020 với một tâm trạng đầy hy vọng cho năm nay, cuộc sống sẽ thật sự hồi sinh sau cơn đại dịch Cúm Tàu, nhưng như mọi người thấy rồi đấy, đời chưa như là… mơ,  nên tôi lại phải viết tiếp bài này.

Nhớ lại hồi đầu năm 2020 khi dịch mới xuất hiện bên Vũ Hán, rồi lây lan qua bên Bắc Mỹ, cô bạn làm thợ may của tôi nhắn tin sẽ may tặng tôi một số khẩu trang (masks), tôi mỉm cười, bảo chỉ cần vài cái thôi, vì tôi sẽ không xài kịp thì hết dịch. Ai ngờ, tôi chẳng những xài hết cả chục cái, mà còn mua thêm một mớ khác, đó là chưa kể cả thùng medical Masks để sẵn trong nhà.

Tôi nhớ, lúc mọi người đổ xô đi mua gạo, toilet papers, mắm muối về chất trong kho, tôi có bài viết đầu tiên gửi cho Báo Trẻ là bài “Lời Thề Mùa Dịch”, đại khái là tôi xin thề sẽ không đi vơ vét hàng hoá vì xứ Mỹ xứ Canada có bao giờ để cho người dân thiếu thốn đâu nà! Viết xong bài đó, tôi vẫn ngỡ rằng sẽ không còn bài viết nào về dịch nữa, bởi tôi vẫn rất lạc quan, tin tưởng các nhà khoa học, các chính quyền sẽ hợp sức mời Cúm Tàu đi chỗ khác chơi trong thời gian ngắn. Thế mà, chính tôi cũng không ngờ, tôi đã viết thêm hàng loạt bài liên quan đến “nó”, con Covid lì lợm: Chồng Em Mùa Dịch, Nấu Ăn Mùa Dịch, Bầu Cử Mùa Dịch, Chuyện Dài Vaccine, Chích Hay Không Chích, Chích Vaccine Không Đau, Chuyến Đi Bão Táp …

 

Cuối năm 2020 tình hình thế giới nóng lên vì cuộc bầu cử lịch sử của Tổng Thống Mỹ, cũng là lúc có những tín hiệu sáng sủa về vaccine cứu rỗi nhân loại. Thế là năm 2021 bắt đầu với những ngày nới lỏng giãn cách xã hội, cuộc sống có vẻ như bắt đầu hồi sinh khi những lô vaccine đầu tiên đến với người dân. Nhà hàng, quán xá, các nơi công cộng, nhà thờ nhà chùa cũng hé mở đón người ra vào dù số lượng người vẫn còn hạn chế, nhưng dù sao có còn hơn không.

Mọi người hớn hở an tâm đợi chờ đến lượt chích vaccine mũi đầu, rồi mũi thứ hai, dù vẫn còn một số người cương quyết không chích vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có cả lý do “chính trị chính em” của xứ Mỹ.

Dù sao, số người chích vaccine vẫn nhiều hơn người chưa và không chích, nên dấu hiệu lây lan Covid có phần dịu lại từ cuối tháng ba nên mùa hè 2021 có thể được gọi là mùa hè tươi đẹp sau những tháng ngày vật vã với dịch.

Tạ ơn Pfizer, Moderna, J&J, AstraZeneca, và các vaccine khác đã đem lại niềm tin yêu đời và nhờ vậy, một số events bị hoãn từ năm 2020 đã được tổ chức vào năm 2021.

 

Đầu tiên là mùa giải Euro, khi bên Châu Âu đã chích vaccine tương đối đông đủ, nhưng số lượng cổ động viên được vào sân xem đá banh vẫn vắng vẻ. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm sức nóng quyễn rũ của bộ môn thể thao Vua này. Vợ chồng tôi đã có những ngày mãn nhãn theo dõi giải Euro, được sống lại những cảm xúc vụi buồn, hồi hộp căng thẳng rồi vỡ tung lồng ngực khi đội bóng yêu thích ghi bàn. Đội Ý đã chiến thắng, trở thành Euro Champion 2021 và nâng hạng đội bóng quốc gia lên hạng thứ 4 thế giới theo bảng xếp hạng của FIFA.

Nối tiếp sau Euro là Tokyo Summer Olympic. Thời điểm đó (cuối tháng 7 và tháng 8) bên Châu Á đang vật lộn trở lại với Covid nên các đấu trường Olympic không có khán giả, các vận động viên chỉ thi đấu với nhau, vắng tiếng vỗ tay cổ vũ của người hâm mộ. Tôi cũng yêu thích Olympic và từng say mê theo dõi các bộ môn bơi lội, trượt băng nghệ thuật, chạy việt dã, nhưng những tin buồn mất mát liên tiếp vì Covid của những người thân từ quê nhà (và cả nỗi buồn riêng khi Ba tôi qua đời tại Texas) làm tôi không còn hứng thú để tâm đến Olympic.

Có thể nói, tình hình Covid tại Việt Nam thê thảm đến không ngờ. Thật ra, nếu đó là một chính quyền đúng nghĩa “vì dân, lo cho dân” thì hậu quả đã không đến nỗi tang thương như thế. Nhiều người trong chúng ta, ở hải noại, cũng có một người quen, một người hàng xóm …đã qua đời oan ức trong cơn đại dịch tại Việt Nam. Chẳng có nỗi đau buồn nào hơn khi người dân nghèo khó lại càng nghèo hơn trong khi quan tham nhởn nhơ đi ăn “bò dát vàng” bên trời Tây.

 

Đến Tháng 10, sau khi rục rịch những mũi booster thứ 3, Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã dự đoán dịch sẽ tiêu tan giữa tháng 3/2022. Cá nhân tôi, lúc ấy, tự suy xét, cũng tin rằng đến 2022 thì đại nạn Covid sẽ bị đẩy lùi vì những lý do sau đây:

- Trẻ em 5-11 tuổi cũng sẽ được chích ngừa.

- Số người chích mũi thứ 3 đang tăng dần lên.

- Số người đã được chích ngừa hay đã có đề kháng vì vướng bệnh sẽ chiếm số đông trong dân chúng nên Covid không có đất dụng võ, phải tự xách va ly ra đi (herd immunity, tức là miễn dịch cộng đồng).

- NẾU không xuất hiện thêm biến chủng bất trị mới.

 

Tôi vừa nói xong chữ Nếu còn chưa ráo mực thì nay biến chứng mới lù lù xuất hiện từ Nam Phi với cái tên nghe rất ư là hắc ám: Omicron. (hoá ra tôi còn …sáng suốt hơn WHO vì viết thòng thêm chữ Nếu). Bà chị Thanh Dương bảo tôi cái miệng ăn mắm ăn muối. Số là khi Ban Biên Tập Báo Trẻ nhắn tin các cộng tác viên viết bài cho Báo Xuân Nhâm Dần 2022 với chủ đề Hồi Sinh, tôi có nói với chị:

- Từ đầu mùa dịch đến giờ, em đã mỏi tay viết các bài về dịch, riết rồi quen sống chung với dịch, (cứ ngỡ “nó” là …một phần của đời sống), nên chưa thấy dấu hiệu Hồi Sinh, chắc em sẽ viết …Hồi Xuân coi bộ dễ có cảm hứng hơn.

Ở giáo xứ của tôi, cuối năm ngoái cũng bầu lại Hội Đồng Mục Vụ mới, anh tân Chủ Tịch là bạn thân thiết với tôi. Tôi cũng đùa với anh ấy:

- Anh yên chí nhé, nhiệm kỳ bốn năm của Joe Biden sẽ khổ sở với dịch và dĩ nhiên nhiệm kỳ 3 năm của anh cũng thế thôi, nhưng anh sướng hơn Biden, là anh lãnh đạo giáo xứ qua …emails, anh có số sướng, làm chủ tịch mà chẳng phải làm gì!

Nói đùa mà thành ra thật, mùa Giáng Sinh năm nay là Giáng Sinh thứ hai buồn tênh, không có Canh Thức đêm Vọng Giáng Sinh, ca đoàn chúng tôi không được ca hát rầm rộ, và thánh lễ chỉ được 1/3 số người theo diện tích của Nhà Thờ, phải tiếp tục ghi danh đi lễ,  ai chậm tay ghi danh thì xem lễ online, có buồn không chứ!?

Thôi từ nay tôi xin hứa, không mở miệng “ăn mắm ăn muối” nói đùa nói chơi với con Virus Vũ Hán này nữa.

Tình hình cuối năm nào có khá hơn năm ngoái! Bên xứ Mỹ lùm xùm vụ án Kyle Rittenhouse, rồi sau ngày Thanksgiving là Black Friday, các shopping centers dường như u ám hơn khi những vụ cướp đồ trong các cửa tiệm tại một số thành phố thuộc tiểu bang Dân Chủ. Ôi chu choa, tôi xem tin tức và các video clips trên truyền hình mà xót xa. “Giai cấp vô sản” hớn hở kéo nhau đi “lấy của người giàu chia cho người nghèo”, họ tuyên bố đó là “reparation”, là “sự đền bù cho những tháng năm quá khứ tổ tiên họ đã làm nộ lệ”, ngon dữ đa!

Tôi là dân Canada, thích hóng chuyện xứ hàng xóm, và “thấy sao nói dzậy người ơi!”. Cũng vào những ngày tháng này, theo khảo sát chung, thì mức độ tin tưởng của dân Mỹ dành cho TT Biden sau một năm nắm quyền đã xuống rất thấp, (còn mức độ tín nhiệm nàng Phó Harris còn thảm hại hơn). Dân chúng dành cho “Cặp Hoàn Hảo” này một từ ngắn gọn là “ incompetent”, nói theo tiếng “ba tàu” bình dân là “mụ dùng”, còn theo tiếng Việt là “vô tích sự”.  Chả lẽ con Covid nó kéo cả thế giới lao đao, và kéo luôn nước Mỹ “đầu tàu” mãi sao!?

 

Ngoài ra, năm 2021 còn có một tin nóng hổi, không thua gì độ “hot” của lũ Covid, làm cả thế giới bất ngờ, xuýt xoa, tiếc nuối, đó là vợ chồng nhà tỉ phú Bill Gates kéo nhau ra toà ly dị. Hầu như ngày hôm đó, khắp các trang báo, tin tức trên Tivi và đặc biệt là trên mạng Facebook dày đặc chỉ một thông tin “động trời” ấy. Mọi người tạm quên đi nỗi sầu Covid để bàn tán xôn xao, về ý nghĩa của hạnh phúc, về đời sống hôn nhân, về “nhà giàu cũng khóc”, về câu nói của ai đó đã từng nói “tiền nhiều để làm gỉ”!

Thế là Bill Gates bỗng nhiên trở lại tình trạng …độc thân vui tính (và… giàu có nữa chớ), khiến bao nhiêu trái tim của các bà các cô …hồi hộp, ngẩn ngơ. Nhưng trong số đó không có tôi đâu nhé, vì tôi đã mau mắn làm một bài thơ để …trấn an ông xã:

 

CHỒNG EM

 

Em yêu chồng em có đủ ...tiền

Chẳng cần cuộc sống sướng như tiên

Cơm ngày vài bữa không thiếu thốn

Cuối tuần: nhà hàng đi ăn thêm!!

 

Áo quần đầy tủ mặc chưa hết

(Vì em khoái mua hàng...on Sale)

Kim cương hột xoàn (giả) ...cả rổ

"Lấp lánh" đeo vào nào thua ai!

 

Xe hả, Mercedes cũng thích

BMW, Lexus cũng ham

Nhưng em chỉ mê ...Nissan Nhật

Vừa chạy vừa ...làm thơ thênh thang

 

Vacation mỗi năm một chuyến

(Chưa kể...road trips vui ngất ngây)

Ai có máy bay riêng, mặc họ

Boeing 787 ...em bay!!

 

Nhà em không bát ngát bao la

Vì em yếu bóng vía, sợ ...ma

Vài phòng thôi, miễn là ấm cúng

(Còn dư phòng đọc sách nữa nà!!!)

 

Em yêu chồng em, có đủ ...tình

Duyện nợ vợ chồng biết hy sinh

Nhường nhịn nhau, thương "hoa cẩm chướng"

(Đời có bao lâu... chớ bực mình!)

 

Mỗi căn nhà, đằng sau cánh cửa:

Có buồn vui, hạnh phúc khổ đau

Em không nhìn hàng xóm ...mộng ảo

Cỏ nhà em cũng xanh một màu!

 

Chồng em: tiền, tình đều ...vừa đủ

So sánh chồng người, được chi đâu!

Cho nên Bill Gates có quỳ gối

Cầu hôn, em xin hẹn ...kiếp sau

 

 

Chuyện năm 2021 chắc còn nhiều điều để bàn luận, tôi xin được tạm dừng nơi đây, vì càng nói càng nhức cái đầu.

Năm 2021 đang đi qua, chúng ta hãy vui vẻ welcome 2022. Riêng tôi cũng như nhiều fans của FIFA, ngoài mong ước thế giới trở lại bình thường, là ước mong được xem giải World Cup tại Qatar trong không khí tưng bừng chớ không phải lặng lẽ như Euro và Olympic vừa qua.

Nếu như nhạc sĩ Vũ Thành An có 9 bài Không Tên, đến bài số 10 mới là Bài Không Tên Cuối Cùng, thì tôi tin rằng, Bài Tiễn Vong năm ngoái của tôi là Bài Tiễn Vong Số 1, năm nay là Bài Tiễn Vong Số 2, thì qua năm sau, con Omicron sẽ bị đánh bại, tôi sẽ có Bài Tiễn Vong Số 3 cũng là Bài Tiễn Vong Cuối Cùng!

Và sau cơn mưa trời lại sáng, để tôi được viết những bài tiễn đưa năm cũ trong lưu luyến thương yêu!

 

Edmonton, cuối năm 2021

KIM LOAN

KimLoan_LamPhuong.jpg

TÌNH CHẾT THEO MÙA ĐÔNG (*)

(Nhớ Nhạc Sĩ Lam Phương)                        

 

Tháng Mười Hai năm ngoái, tôi nhận được cuốn sách “Lam Phương-Trăm Nhớ Ngàn Thương” từ bên quê nhà gửi qua. Nói thiệt, cầm cuốn sách mỏng dính trên tay, xem qua các mục lục, tôi bỗng thấy…giận hờn và chỉ biết thở dài.

Cũng là “cây cao bóng cả” trong giới sáng tác thời Việt Nam Cộng Hoà, mà nhạc sĩ Phạm Duy có Hồi Ký đến 4 cuốn (cuốn nào cũng khá dầy), hoặc nhạc sĩ Anh Bằng với cuốn sách in tại hải ngoại, giấy trắng tinh, dài 472 trang, font chữ nhỏ, đều đặn, đọc mãi vẫn sợ…hết. Còn sách Lam Phương, in tại Việt Nam, người chấp bút bên Việt Nam, chỉ có 256 trang, font chữ bự tổ chảng, trình bày sơ sài, và nội dung thì ôi thôi, chỉ là những phần lắp ghép, vội vàng, cẩu thả.

Tuy là 256 trang, nhưng bao gồm phần Phụ Lục Một in các bài hát nổi tiếng (có lời, có nốt nhạc) của Lam Phương. Chi dzậy? Người ta cần thì lên Googles có thể tìm ra tất cả các bài nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào! Phần Phụ Lục Hai là trích hai đoạn viết xưa hơn trái đất về Lam Phương trên báo Thanh Niên và Giai Phẩm Người Việt, rồi thêm một bài ngắn cỡ vài hàng (xin nhắc lại là: vài hàng) của Giáo Sư Trần Quang Hải, và vài câu tâm tình của người chấp bút, tổng cộng hơn 60 trang.

Cuối cùng, còn lại đúng 190 trang viết về Lam Phương, mà trong đó cũng đã nhồi vào một số hình ảnh xưa và nay của nhạc sĩ, hình các bài báo trước 1975 về Ông, vài trang tiểu sử loa qua, vài bài nói về hoàn cảnh sáng tác các bài hát tiêu biểu: Kiếp Nghèo, Tình Bơ Vơ, Thành Phố Buồn, Phút Cuối, Chuyến Đò Vỹ Tuyến…Chữ thì to như cho trẻ con đọc, trích đoạn nhiều câu hát thật dài, kéo xuống dòng cho đầy trang giấy. Có vẻ như tác giả và người chấp bút chẳng biết nói gì viết gì để tránh bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam kiểm duyệt chăng?

Tôi chả hiểu tại sao em gái của Ông là người quyết định chuyện này, lại để cho người chấp bút bên Việt Nam, xuất bản bên Việt Nam, vì tiền hay vì chút ủi an người nhạc sĩ đang nằm trên giường bệnh? Nhưng với bề dầy sáng tác, sức ảnh hưởng âm nhạc của Lam Phương cho đến tận hôm nay, thì cuốn sách mỏng tang, chắp vá, hời hợt này thà đừng ra đời còn hơn! Câu nói cửa miệng của người Việt mình theo một câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên “có còn hơn không”, trong trường hợp cuốn sách này, tôi rất tiếc phải thốt lên rằng “thà không còn hơn có”.

Dù sao, tôi cũng cám ơn người tặng sách, đã nhiệt tình đi tìm ngay khi nó được xuất bản rồi gửi qua cho tôi từ bên nửa quả địa cầu và xin đừng buồn khi đọc những cảm nghĩ thất vọng này. Bởi vì “vượt lòng đại dương, mình gặp lại đây, sau cơn khát dài, thương nhớ bao ngày, giờ nghe … chua cay” (Lời bài hát Mùa Thu Yêu Đương của Lam Phương tôi xin sửa lại hai chữ cuối, cho tôi và cuốn sách này).

Mà thực ra, đâu cần so sánh với Phạm Duy, Anh Bằng, mà nhìn lại những cuốn khác của Kim Cương, Ái Vân, Khánh Ly thì mới thấy… “trăm tiếc ngàn đau” cho Lam Phương.

Và đúng như tôi dự đoán khi bắt đầu đọc cuốn sách, người chấp bút không dám nhắc đến bài hát nổi tiếng Chiều Tây Đô của Lam Phương với câu ca mà dân Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống đều thấm thía: “Bao năm giải phóng như thế này phải không em?”

 

Giờ đây, người nhạc sĩ hiền lành dễ thương của chúng ta vừa từ trần sau một thời gian bệnh, yếu. Nhạc của Ông, nói mãi cũng vẫn thiếu, khán giả mến mộ con người và lời hát điệu đàn của Ông, kể mãi vẫn không bao giờ đủ.

Ông đã từng nói: “Tôi làm khoảng 300 bài nhạc tình, đâu có nghĩa là có ba trăm người yêu”. Trong cuốn “Lam Phương, Trăm Nhớ Ngàn Thương” cũng nói về một số bài hát từ hoàn cảnh thật của tác giả. Nhưng cũng có một số bài, chỉ là cảm xúc bất chợt trước khung cảnh hữu tình, không hề có bóng dáng của một cô gái nào, mà là trí tưởng tượng lồng vào một cuộc tình dở dang, rồi tác giả thả hồn bay bổng theo Đồi Cù, Thung Lũng Tình Yêu, Nhà Thờ Con Gà với mây gió trời trăng, để ý nhạc tuôn trào thành bài hát Thành Phố Buồn bất hủ.

Với tôi, đó là bài hát hay nhất viết về Đà Lạt, dù Ông chẳng mô tả gì nhiều, chỉ là “thành phố nào vừa đi đã mỏi” với “cơn gió chiều lạnh buốt tâm hồn”, để rồi “và con đường ngày xưa lá đổ”, nghe “tiếng chuông chiều chầm chậm thê lương”, trách móc người “quên núi đồi quên cả tình yêu” mà làm hàng triệu trái tim thổn thức.

Bài hát Một Mình buồn day dứt, nhưng lại được Ông viết trong một buổi sớm bình yên hạnh phúc bên người đẹp Cẩm Hường trên đất kinh thành Paris. Chàng ngồi bên cửa sổ uống café ngắm nàng quét lá rụng ngoài sân, và giai điệu cô đơn từ sâu thẳm bỗng trỗi dậy: “Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành/ Đời mong manh quá, kể chi chuyện mình/Nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh”.

 

Chỉ có trái tim nghệ sĩ, tâm hồn đa sầu đa cảm, giữa đám đông vẫn thấy lạc lõng, trong hạnh phúc đã mơ hồ chia ly, và “trong bơ vơ anh mơ thêm một lần dang dở ” (bài Xót Xa), mới để lại cho đời hàng trăm bản tình ca xuyến xao lòng người đến như thế!

 

Trong một bài phỏng vấn lúc còn sinh thời, khi được hỏi:

- Tại sao các bóng hồng đi qua đời ông: Ca sĩ Bạch Yến, kịch sĩ Tuý Hồng, và nàng Cẩm Hường …đều là những phụ nữ đẹp và …rất đẹp?

Ông đã cười hiền hậu và trả lời rằng:

- Tại vì tui …xấu nên tui khoái yêu người đẹp!

Xấu hồi nào đâu nà! “Xấu” mà có nhiều nữ khán giả ái mộ. “Xấu” mà có duyên ngầm làm cho các nàng mộng mơ nức nở  “Trăm Nhớ Ngàn Thương”, “Xấu” mà đào hoa đa tình như bác thì ai cũng muốn ... “xấu” á, bác Lam Phương ạ!

 

Chẳng cần danh hiệu “ưu tú” hay “nhân dân”, nhạc của Lam Phương đi vào lòng mọi thế hệ, vượt thời gian, không những của đồng bào Miền Nam ra tới hải ngoại, mà cả dân chúng miền Bắc của “bên thắng cuộc” bên kia vĩ tuyến. Chẳng còn lạ gì, tại một phiên chợ vùng cao, gió rét lạnh căm bên quán ăn, người ta vây quanh chảo thắng cố nóng hổi, hút thuốc lào, thả khói mơ màng nghe tiếng nhạc Chế Linh hát Tình Bơ Vơ:  “Về làm chi rồi em lặng lẽ ra đi, gom góp yêu thương quê nhà, dâng hết cho người tình xa”. Chắc là do đám dân buôn miền xuôi đem “nhạc vàng” lên “đầu độc” người dân tộc miền ngược, chớ lẽ nào mấy bà thím mặc váy thổ cẩm, mang gùi, làm nương rẫy, ăn mèn mén rồi…đi đẻ sồn sồn như đi chợ lại biết mê nhạc Lam Phương?

 

Nói nào xa, ông anh họ mấy đời bắn cà nông chưa tới của tôi đang ở quê ngoài Hải Dương đã cài nhạc hiệu trên phone, hễ có ai gọi tới là phone lại vang lên rên rỉ: “Em ơi suốt đêm thao thức vì em, vì lời giã từ lúc anh ra về…”

 

Lần này Ông giã từ “cuộc chơi” ngay mùa Giáng Sinh 2020 còn đang u ám bởi Virus Tàu. Tôi hơi chạnh lòng vì một cây cổ thụ âm nhạc Việt Nam “ra đi” mà không thấy cư dân mạng rầm rộ chuyển tin, tiếc nuối. Vì mùa lễ bận rộn, hay vì ông “ra đi” êm đềm không kịch tính, không bất ngờ như người nghệ sĩ khác vừa “ra đi” trước đó?

 

Mà thôi, vốn dĩ chân thật hoà nhã, Ông cũng không cần ầm ĩ phô trương, những thứ phù phiếm bề ngoài chóng phai!

 

Tôi là người hâm mộ tài năng Lam Phương, yêu thích con người tác giả, giữa trời tuyết lạnh của Canada, nghe tin Ông qua đời, mà man mác buồn. Dường như khối tình thương mến cũng đang tái tê chết theo mùa đông như một nén hương lòng gửi đến chàng nhạc sĩ Miền Nam hiền hậu, tài ba và …không hề xấu, chàng chỉ khiêm nhường nói đùa thế thôi!

 

Người đi hoa lá chết trong mùa nhớ!!! (*)

 

Edmonton, 28.12.2020

KIM LOAN

(*): Các lời nhạc của Lam Phương

NƠI ẤY MÙA ĐÔNG                       

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Có nghe gió lạnh chuyển sang mùa

Ở đây hoa tuyết bay cứ ngỡ

Áo trắng ai về ấm chiều mưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Giọt nắng ngoài sân đẹp tình cờ

Ở đây mặt trời chiều vắng sớm

Mây xám buồn theo vào giấc mơ

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Xuống phố nhẹ sương rớt hững hờ

Ở đây mùa đông như vô tận

Bếp lửa hồng giăng sầu đong đưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa

Nỗi nhớ làm sao đếm cho vừa

Một chốn quê nhà xa vời vợi

Sưởi ấm hồn tôi những Đông xưa

 

Nơi ấy trời đã vào đông chưa?…

 

Edmonton 10.11.2019

KIM LOAN

THÁNG MƯỜI HAI NHỚ BẠN

 

Bốn đứa chúng tôi chơi rất thân, từ khi còn là giáo sinh Sư Phạm cho đến lúc ra trường mỗi đứa dạy một nơi nhưng vẫn gặp gỡ nhau thường xuyên vì hợp tính tình hay quậy phá, và có chút…máu điên.

Trong nhóm, tôi với Trang là hai đứa có sở thích đọc sách và “gu” nghe nhạc giống nhau. Gia đình Trang thuộc loại khá giả, ngoài căn nhà nó ở với ba má cùng hai đứa em ở khu Hàng Xanh, nó còn có nhà ông bà ngoại ngay mặt đường Hiền Vương sầm uất, (sau này là đường Võ Thị Sáu), đó là căn nhà lầu đúc 3 tầng kế bên tiệm giò chả Phú Hương thuở xưa, và một căn nhà trong hẻm lớn gần đó, đi bộ hai phút là ra phở Hoà Pasteur và viện Pasteur ngay đầu ngõ. Cả ba căn nhà này, tôi đã nhiều lần đến chơi, ăn dầm nằm dề những ngày cuối tuần, hoặc mùa hè rảnh rỗi …

Trang có nét đẹp đậm đà, đôi mắt to, lông mì dài, chiếc mũi cao xinh xắn, nhất là cặp lông mày dày và đen, dù trang điểm hay không, nó vẫn nổi bật nhất trong nhóm bốn đứa.

Nó cũng biết yêu sớm, với mối tình “high school sweetheart” kéo dài từ ba năm trung học cho tới lúc nó ra trường làm cô giáo. Long, người yêu của nó, là chàng công tử con nhà giàu nhất nhì khu cư xá Thanh Đa. Long học Đại Học Tổng Hợp môn Tiếng Anh vì chủ đích cùng gia đình chờ ngày qua Mỹ diện ODP. Long cao ráo, trắng trẻo và đẹp trai, ăn nói lanh lợi và rất có duyên.

Tôi hỏi Trang:

- Long sẽ đi định cư qua Mỹ, tụi bay tính sao? Tình đang rất đẹp và thơ mộng biết bao!!!

Nó buồn buồn:

- Thì Long hẹn tao ba năm sau, nếu tao không đi vượt biên thì Long sẽ quay về Việt Nam cưới tao.

- Úi, nghe sao xa vời và mong manh quá …

- Biết làm sao hơn khi hoàn cảnh như thế, mà thôi, đây cũng là thử thách cho cả hai đứa.

 

Ngày tiễn Long ra phi trường, theo lời Trang tả, là mưa ào ạt nhưng vẫn chưa nhiều bằng nước mắt của Trang. Chàng và nàng cứ đứng nắm tay không rời, Long bị loa phóng thanh phi trường gọi tên mấy lần mới dứt được nhau. Rồi nàng chạy xe thẳng về nhà tôi, nằm khóc vùi suốt buổi chiều.

Thư qua tin lại cho vơi nỗi nhớ nhung được khoảng một năm, thì cô bạn cũ thời trung học của cả chàng và nàng đi vượt biên qua trại tỵ nạn Bidong, Malaysia, sau đó qua định cư bên Mỹ chung thành phố với chàng. Ban đầu, cô bạn giữ lời hứa “chăm sóc” chàng giùm nàng, rồi sau đó tiện thể (dù không được nhờ vả), đã chăm sóc luôn cả trái tim và cuộc đời của chàng. Người ta bảo xa mặt cách lòng quả không sai, và lửa gần rơm lâu ngày cũng đã bén!

Thế là “thiệp hồng viết tên Anh và…con kia” đã gửi về Việt Nam cho nàng đúng vào những ngày rét mướt của Sài Gòn giữa tháng mười hai. Nhận tin sét đánh ngang tai, nàng khóc lóc vật vã hận đời (còn tin ai trên cõi đời này nữa chớ, khi mà người yêu và bạn thân rủ nhau phản bội bất ngờ!). Chúng tôi chẳng biết nói gì để khuyên lơn ủi an nó, ngoài việc đến thăm, đưa nó đi chơi cho khuây khoả. Tưởng vết thương lòng rồi sẽ nguôi ngoai, đùng một cái, chúng tôi nghe tin nó...“mất dạy”, bỏ trường lớp bỏ học trò, bỏ Sài Gòn trốn về Đà Lạt vì không chịu nổi sự cô đơn, lạnh lẽo của Mùa Noel đang đến. (Ở Đà Lạt không lạnh sao, con dở hơi!?).

Chúng tôi tá hoả, chưa biết tính toán sao, một đứa trong nhóm còn đổ thêm dầu vào lửa, bảo rằng:

- Đà Lạt là thành phố Tình Yêu của đôi lứa, nhất là mùa Noel, nó đến đó, cái “ Thành Phố Buồn, lắm tơ vương, cơn gió chiều lạnh buốt tâm hồn …” của ông Lam Phương khi đang thất tình, nó dám nhảy xuống hồ Than Thở lắm á!

Đứa kia cũng đồng tình:

- Đúng rồi! Người ta có Đồi Thông Hai Mộ còn nó sẽ là Đồi Thông Một Mộ…lẻ loi, tội quá!

Tôi cuống cuồng:

- Vậy thì ba đứa tụi mình phải lên ngay Đà Lạt giải cứu nó, mang nó về Sài Gòn …. 

 

Chúng tôi bàn qua tính lại vài ngày rồi quyết định đi lên thành phố sương mù, chấp nhận để lại Sài Gòn sau lưng, để lại “người thương” để đi tìm bạn. Đến ngày lên đường, thì đứa em nó chạy đến tìm tôi, báo tin:

- Chị Trang đã về nhà rồi mấy chị ơi!

Tôi vui mừng, thở phào nhẹ nhõm rồi đùa với em nó:

- Vậy là quá tốt! Té ra nó cũng nhát, chưa dám nhảy xuống hồ Than Thở, chắc sợ …lạnh, mà nó cũng chẳng biết bơi! Để chiều này tụi chị sẽ ghé thăm liền.

- Dạ không được rồi chị ơi!!

- Là sao??? Có chuyện gì nữa ?

- Chị ấy về chiều qua, người mệt mỏi rã rời, chẳng nói với ai lời nào, rồi đi nghỉ trong phòng. Đến tối chị ấy bảo đi ra đường cho khuây khoả, mà đến giờ vẫn chưa thấy về, gia đình em lo sợ quá chị ơi!!!

Mấy cái “chị ơi!!!” của thằng em nó làm chúng tôi thêm rối bời, hoang mang, âu sầu não nề giữa trời Sài Gòn hiu hiu gió lạnh.

 

Suốt cả tuần lễ sau đó, vào mỗi buổi chiều tối sau giờ đi dạy, ba đứa tôi đạp xe đi khắp nơi tìm nó. Đến nhà các người thân, bạn bè quen biết, đến các quán café mà nó và Long thường hẹn hò, thậm chí đến cả phi trường Tân Sơn Nhất …cũng chẳng có tăm hơi của nó. Thành phố lung linh muôn sắc màu của mùa Giáng Sinh đang tới, mà chúng tôi buồn so, rầu rĩ, mấy giai điệu nhạc Noel bỗng trở nên nhạt nhẽo không còn gợi chút cảm hứng lâng lâng như ngày nào. Có ai định nghĩa hết được Tình Bạn không? Bạn, một chữ ngắn gọn nhưng hàm chứa biết bao ân tình tuyệt vời, khó quên…

 

Cho đến hôm nay, khi tôi viết những dòng chữ này, thì nó vẫn độc thân, chưa bao giờ lập gia đình, sống một mình ở Sài Gòn, nhưng tâm trí vẫn đi…lang thang…

Năm 2009, tôi có về Sài Gòn, bạn bè mấy đứa gặp nhau đi ăn uống tâm tình, nó vẫn bình thường khi nói về những tháng ngày đi học vui vẻ, nhưng chỉ một lát sau, nó lại chuyển qua nói huyên thuyên những chuyện tầm phào, không đầu không đuôi, đầy hoang tưởng. 

Chúng tôi cố khuyên nhủ, đưa nó về thực tại, nhưng hễ nó bắt đầu hoang tưởng thì chẳng còn để ý đến xung quanh, cứ độc thoại một mình, khi nào xong mới thôi, không ai có thể cản nổi .

Ông bà ngoại và ba má nó đều đã mất, căn nhà ở Hàng Xanh cũng đã bán, hai đứa em trai nó có vợ con chia nhau ở căn nhà mặt tiền đường Võ Thị Sáu, còn nó được riêng cả căn nhà trong hẻm phở Hoà, gặm nhấm nỗi cô đơn với căn bệnh hoang tưởng ngày càng trở nặng !

Tháng Mười Hai lại về, ước gì nó đừng nghe tiếng vọng của quá khứ, đừng nhớ lại cái tháng Mười Hai oan nghiệt thuở nào, cái tháng làm nó trở nên điên dại, đớn đau, đi hoang để chúng tôi phải khổ sở đi tìm khắp các ngõ ngách Sài Gòn giữa những âm điệu bơ bơ tái tê của những bài nhạc Giáng Sinh thật buồn ....

 

Trang ơi! Tụi mình bốn đứa có chút “máu điên” cho đời thêm vui, sao mày lại điên thật??

 

Edmonton, 12/2021

Kim Loan

KIM LOAN

 

ROAD TRIPS: MỸ VÀ CANADA

 

Vợ chồng tôi, có một điểm “hoà hợp” khi đến với nhau, đó là cùng từng vỡ tan …mối tình đầu với xứ Hoa Kỳ.

Hồi tôi ở trại tỵ nạn, trầy trật bốn năm trời mới vượt qua cuộc thanh lọc đáng ghét, và khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn thì bị từ chối, mặc dù tôi có đầy đủ gia đình ở bển.

Còn chồng tôi, cả giòng họ rủ nhau đi vượt biên rất sớm, năm 1977 khi cả miền Nam đang vào cơn tàn tạ dưới bàn tay của “bên thắng cuộc”. Trong khi ở trại Mã Lai chờ phái đoàn Mỹ , thì phái đoàn Canada lơn tơn xuất hiện, gia đình chồng tôi nôn nóng thoát khỏi cuộc sống tù túng ở trại nên nhắm mắt đưa chân qua Canada định cư luôn một lèo. Sau đó, chồng tôi đi học, vào cấp ba rồi Đại Học, quyết chí thực hiện giấc mơ Mỹ Quốc năm xưa, bèn nộp vào trường Medicine tại New York. Khi nộp đơn thì hào hứng, đến khi được nhận thì bị bà má chồng “bàn ra”, vì sợ tốn kém với số student loan quá lớn, chồng tôi cũng bị nản chí, không qua đó học nữa.

Dù sao, Canada và Mỹ cũng là hàng xóm. Chúng tôi quen dần với xứ lạnh tình nồng, hàng năm lại hào hứng với những chuyến du lịch đó đây. Ai đi đông đi Tây, ai đi xa đi gần, chứ gia đình tôi, ngoài vài lần đi Mexico, chồng tôi đi Conference bên Cuba, Puerto Rico, còn lại những chuyến vacation đều trong Canada và Mỹ.

Đi Cruise thì tôi kiên quyết là không bao giờ (dù vẫn biết never say never), thứ nhất là tôi hay bị say sóng, thứ hai, quan trọng hơn, là chuyến vượt biên của tôi 30 năm trước, tàu bị mưa bão, máy thoát nước bị hư, trong đêm tối bão bùng, tôi đã thấy biển là con quái vật hung dữ bạo tàn, nên tôi không muốn sống lại cảm giác đó một lần nào nữa!

 

Mỗi lần gia đình tôi bay đến một nơi nào đó trên xứ Mỹ hay Canada, thường sẽ mướn xe làm tiếp một chuyến mini road trip đến các thành phố lân cận.

Bay đến Vancouver (Canada) thì sẽ đi qua Seattle, hay Oregon (Mỹ), đến Toronto (Canada) thì đi Buffalo, New York, Philadelphia, Atlantic City (Mỹ), hoặc ngược miền Đông Canada về Ottawa, Montreal, Quebec. Khi bay đến Nam California thì lái xe qua Las Vegas, Arizona, và nếu bay đến Arlington Texas thì road trips thẳng tiến Dallas, Houston, San Antonia, Oklahoma, New Orleans. Thời gian cho mini road-trips thường từ 5 cho đến 10 tiếng lái xe.

Nhưng đã có hai lần, gia đình tôi có hai chuyến Road Trips thật sự, được tính bằng ngày và đêm. Chuyến đầu tiên là lái từ Edmonton xuyên qua ¾ chiều ngang nước Canada, vượt qua các tỉnh bang Saskatchewan, Manitoba, để đến Toronto, Ontario.

Chuyến thứ hai, chúng tôi bay từ Edmonton qua Toronto, rồi từ Toronto lái xe xuống Texas (Mỹ) băng qua các tiểu bang New York, Pennsylvania, Ohio, Kentucky, Tennessee, Arkansas …

Rất tiếc thuở đó chưa có iphone để chụp nhiều hình và “livestream” nhưng tôi có video camera ghi lại những cung đường quan trọng, để lại nhiều cảm xúc. Chúng tôi đi từ sớm cho đến tối mịt, dừng tại motel để tắm rửa và ngủ, hôm sau lại dậy đi tiếp. Khi qua một thành phố lớn, chúng tôi vào thẳng trung tâm thành phố, ăn uống, đổ xăng và “cưỡi ngựa xem hoa” những công trình tiêu biểu nơi đó.

Kỷ niệm vẫn còn đầy ắp, nào cơn mưa giông dữ dội trên highway Ohio, nào buổi breakfast tại một quán thôn quê bên rẻo đường nông trại vùng Regina, nào nửa đêm dừng xe vì con nai chết dọc đường vùng Sault Ste Marie để vào tiệm café Tim Hortons nhờ gọi cảnh sát mang con nai đi, nào nắng lấp lánh vùng ngoại ô thành phố Little Rock, Arkansas có những căn nhà bé nhỏ, cổng rào gỗ nhiều màu sắc với những bụi hoa nở tươi tắn dưới bóng lá cờ Mỹ bay phất phới trong gió, xinh đẹp như một khung cảnh trong các phim Hollywood.

Đôi khi, chỉ là một vách đá cheo leo giữa hoang vu, cũng gợi cho tôi những nỗi niềm bâng quơ như nhạc sĩ Diệu Hương… “Em hỏi tôi phiến đá có tình yêu không/ Em hỏi tôi, phiến đá có linh hồn không?/ Linh hồn tôi nay là đá sỏi /Nhưng đá nằm, khổ đau với tình yêu em…” , những cảm xúc đó, nếu bay trên mấy tầng mây, sẽ không bao giờ có được!

 

Trong các chuyến road trips, tôi thấy sự khác biệt rất rõ giữa Mỹ và Canada, đó là dân Mỹ rất chịu khó treo cờ trước nhà, các nơi business, công sở, suốt đoạn đường xuyên quốc gia, tôi đếm không xuể những lá cờ Mỹ mà người dân hẳn rất say mê và yêu quý lắm. Còn bên Canada cờ thưa thớt hơn, dọc đường xa lộ, thỉnh thoảng qua các nông trại, xí nghiệp, hay khu nhà dân, lác đác mới thấy cờ Lá Phong. Hầu như chỉ có một ngày dân Canada được thấy cờ bay rợp trời đó là ngày Quốc Khánh (Canada Day), còn bên Mỹ thì họ treo cờ bất cứ nơi đâu mà chẳng cần lý do.

Tôi chẳng hiểu vì sao, bèn hỏi bác Gù Gồ thì thật thú vị khi có ngay một tiêu đề  “Why American are so crazy about the flag”! Thì ra chuyện dân Mỹ “điên cuồng” về lá cờ của họ là có thật. Theo thống kê, hàng năm có 150 triệu lá cờ Mỹ với đủ sizes lớn nhỏ được bán ra. Họ tự hào với “lá cờ đẹp nhất thế giới” có13 sọc và 50 ngôi sao của 50 tiểu bang, là biểu tượng của sự hoà hợp, gắn kết, tạo nên sức mạnh tuyệt vời của United State, nên họ “điên cuồng” treo cờ từ thành thị tới thôn quê, trên mái nhà, bên ngọn cây, bên cửa xe, dưới garage, sau vườn nhà, ngay cả trên nón mũ, áo quần và giầy dép… nói chung, đi bất cứ nơi đâu trên đất Mỹ đều dễ dàng nhìn thấy Old Glory.

Rồi tôi cũng tò mò, hỏi bác Gú Gồ tại sao dân Cà Na Điên hổng khoái treo cờ, kết quả cũng khá bất ngờ và …khá buồn! Không phải riêng tôi, mà đã từng có nhiều người cũng đã nêu thắc mắc đó, họ còn dẫn chứng bên xứ Mỹ láng giềng người ta mê cờ của nước người ta lắm kìa. Thế là một số người nhảy ra phản pháo: Chúng ta yêu nước yêu lá cờ từ trong đáy tim, chớ không cần phải “show off” như …ai kia! Có kẻ còn la lên: tại sao phải …giống Mỹ !!! Thậm chí, đôi lần nơi quốc hội, một số nhà chính khách cũng vận động phong trào treo cờ, nhưng dân chúng vẫn hững hờ, họ bảo họ vẫn “proud to be Canadian”, tự hào với Cờ Lá Phong trong các đại hội Olympic, Stanley Cup, Canada Day, và nhất định khi đi du lịch qua Châu Âu họ luôn mang theo lá cờ nhỏ nơi hành lý để hải quan bên đó đừng tưởng họ là …dân Mỹ, ghê chưa! Ai bảo dân Cà Na Điên hiền nữa không nà?

Chuyện một số ít người Mỹ và Canada không ưa nhau, là có thật, và là chuyện dài nhiều tập. Khi nào có …chiến tranh Mỹ-Canada thì lúc ấy tôi sẽ khai thác đề tài này, còn hiện nay, đa số dân hai bên đều vui vẻ thân thiện, cùng nhau gìn giữ hoà bình khu vực, thì dại gì mà đụng vào “ổ kiến lửa”, dễ …xa nhau lắm á!!

Cũng nhân chuyện Mỹ-Canada, vừa qua tôi có tham dự cuộc thi “Viết Về Nước Mỹ” do toà soạn Việt Báo bên California tổ chức hàng năm. Tiêu chí chấm giải của Ban Giám Khảo, là ngoài đề tài nước Mỹ, họ chấm luôn cả sức viết của các tác giả tham gia cuộc thi. Với chủ đích “giựt giải”, tôi đã gửi cỡ …chục bài dự thi để …khủng bố Ban Giám Khảo, có lẽ nhờ vậy mà tôi được một giải thưởng, (trước đó ông xã tôi cũng đã trao cho tôi giải …Can Đảm và giải Điếc Không Sợ Súng!). Cậu em chung trại tỵ nạn ngày xưa, nay ở bên Mỹ, theo dõi các bài dự thi của tôi, khi biết tôi được giải, bèn cảm khái la lên: “Nói thiệt với chị nghen, cái ông phái đoàn Mỹ hồi đó đã từ chối chị, không cho chị qua Mỹ, quả là một sai lầm lớn lao. Lẽ ra chị là công dân Mỹ mới phải!”. Tôi đáp liền: “ Tình chỉ đẹp khi còn dang dở mà cưng! Nếu chị ở Mỹ thì biết đâu lại viết về Canada hiền hoà, mùa đông tuyết phủ rợp trời, White Xmas đẹp như những tấm postcards!?”

Mà thôi, định mệnh cũng đã an bài, nhờ vậy mà gia đình tôi yêu luôn cả hai xứ sở, để tôi lại mong chờ những chuyến road trips tiếp theo trên đất Mỹ và Canada!

 

Edmonton, Tháng 11/2021

KIM LOAN

TL_teacherDay.png

THẦY ƠI!

(Kính dâng hương hồn Thầy Trần Văn Triệu, Hiệu Trưởng trường Cấp II Quang Trung, Gò Vấp, nhân ngày Nhà Giáo 20/11)

 

Thầy của tôi, bây giờ nếu còn sống

Tóc bạc đầu và mắt có còn trông

Lũ học trò ngày xưa mấy ai nhớ

Đến thăm Thầy ngày Nhà Giáo Việt Nam?

 

Tôi biết Thầy chẳng đợi mong điều ấy

Bởi cả đời Thầy miệt mài niềm vui

Đứng trên bục giảng: mỗi ngày hạnh phúc

Dạy các em điều tốt để nên người

 

Thầy không đợi hoa thơm hay quà bánh

Thầy không cần lời chúc tụng, tôn vinh

Thầy chỉ muốn nhìn các em, ngày cũ

Trưởng thành nên người như Thầy ước mong

 

Em và Thầy giờ cách xa vạn nẻo

Em vẫn nhớ Thầy, Thầy ơi có hay?

Thầy đang ở nơi đất sâu, lạnh lẽo

Nén nhang nào ấm lại ngày hôm nay?

 

Dù không đến được, lòng em vẫn thắp

Lời tri ân vô bờ bến gửi Thầy

Ngôi trường Quang Trung một thời ủ ấp

Trái tim em những ước mộng đong đầy

 

Nơi ấy có Thầy, vâng, là Thầy đó

Nâng cánh cho em bay đến tương lai

Lời Thầy bảo ban, em còn nhớ rõ

Như con đường đến trường buổi sớm mai

 

Rồi em và Thầy trở thành đồng nghiệp

Có những lần cùng đi uống cà phê

Bài thơ của Thầy vừa đăng trên báo

Giọng nói Thầy trầm ấm, kể em nghe

 

Em thương Thầy, cuộc đời nhiều hoài bão

Khi cô đơn, Thầy đọc sách, làm thơ

Mắt Thầy buồn, da bắt đầu nhăn, rám

Vẫn lẻ bóng đi, về… dù sớm, khuya

 

Thầy đã hiến dâng đời cho lớp trẻ

Quên tuổi xuân, quên hạnh phúc riêng tư

Bao lần mưa rơi, hè sang phượng nở

Gió đêm về, Thầy có lạnh bơ vơ?

 

Một lần thôi, cho em xin tạ tội

Thầy mất rồi, em chẳng được tiễn đưa

Nơi tha hương em nhớ về nguồn cội

Nghĩa nặng ơn dầy, Thầy cũ trường xưa

 

Hôm nay nhớ Thầy, làm sao em đến?

Nén hương lòng gửi theo gió mây trôi

Mộ Thầy hôm nay chắc nhiều hoa, nến…

Ngủ yên nhé Thầy ơi, trong hương khói tuyệt vời!

 

KIM LOAN

TL_Fall.jpg

NHAN SẮC …MÙA THU        

Kim Loan

Cũng giống như nhiều thành phố khác của Canada và của các nước xứ lạnh trên thế giới, Edmonton của tôi đón mùa thu vàng xao xuyến lòng người mỗi độ “gió heo may lại về…”

Lái xe qua khắp các nẻo đường của thành phố, dù muốn hay không muốn, người ta vẫn bị bâng khuâng bởi những cây lá đổi màu, đẹp như “thiên đường trần gian” mà tạo hoá đã ban tặng cho loài người. Khi đi bộ, đi hiking trong những rẻo mini trails, với người đam mê chụp ảnh thì thời gian dừng lại chụp hình hoặc selfie còn… dài hơn cả thời gian đi bộ. Cuối tuần, người ta lại rủ nhau đi picnic ở các công viên, tận hưởng giờ phút ăn uống nghỉ ngơi bên hồ nước soi bóng những lá vàng rụng rơi theo từng cơn gió, vì chẳng bao lâu nữa là bước vào mùa đông giá rét.

Xóm tôi ở gần một trong những “danh lam thắng cảnh” khi Thu về của miền bắc thành phố Edmonton, con đường số 97 street. Từ khi lá mới chớm màu, cho đến khi Thu chín rực trên các hàng cây với màu vàng, cam, nâu, xanh lẫn lộn, tạo nên một bức tranh lộng lẫy cả một đoạn đường hơn một cây số. Người ta từ khắp nơi, bắt đầu đổ bộ lai rai xuống những tàn cây để chụp hình kỷ niệm.

Hàng ngày đi làm, đi chợ, hay đi công việc, tôi đều đi qua đoạn đường Lá Vàng này, nhất là khi chiều buông, thấy cả hàng xe nối đuôi nhau, thả từng nhóm người xuống, có khi còn mang theo “phụ kiện” cho những tấm hình thêm sống động: nào cây đàn guitar, nào tấm trải, giỏ picnic, nào cả va li aó quần để thay đổi, thậm chí có cả …chó và mèo cưng nữa. Đôi khi, có những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, đem theo lỉnh kỉnh đồ nghề tác nghiệp, khuân ra vác vào, làm vui nhộn và rộn ràng cả khúc đường. Thỉnh thoảng còn có cả những cặp tân hôn, còn nguyên váy áo cô dâu chú rể, cả đoàn xe cưới kéo đến đây chụp hình, náo động tưng bừng, trao lời thề nguyền yêu nhau cho đến …mùa thu cuộc đời! Chẳng biết sở Cảnh Sát có cho biết thống kê tai nạn xe cộ ở con đường này chưa, vì hầu như lần nào tôi đi qua đây đều phải ghé mắt nhìn, nhiều lần bị những xe phía sau bóp còi inh ỏi.

Tuy nhiên, tôi để ý, hầu hết các nhóm người đổ bộ xuống con đường Lá Vàng đều là những sắc dân di dân, như Việt Nam, Philippines, Tàu, Ấn Độ, Trung Đông …mà  rất ít những người dân bản xứ da trắng. Chẳng lẽ họ không có tâm hồn lãng mạn, yêu thiên nhiên như người di dân chúng ta, không rung động trước những lùm cây màu vàng ngây ngất, bên thảm lá khô xào xạc (dù không có …con nai vàng ngơ ngác…)??

Ông xã tôi thì cho rằng, dân da trắng sinh ra và lớn lên nơi này, nên họ đã quá quen với sự thay đổi thời tiết bốn mùa, vì vậy họ không ngạc nhiên, trầm trồ như chúng ta.

Còn tôi thì nghĩ, có lẽ người bản xứ da trắng không chơi… facebook, chớ dân Việt mình mùa này thì trên facebook đầy những hình Thu Vàng, xem mà loá con mắt. Rõ ràng là “tụi Tây” không bằng chúng ta cái vụ này!

Những năm đầu mới định cư ở Canada, đến khi các con còn bé, gia đình chúng tôi cũng từng hăng hái bon chen đi chụp những tấm hình đủ kiểu đứng ngồi quỳ nằm trong rừng thu, hình còn đầy trong các cuốn albums trong nhà. Đến bây giờ thì thật sự ngán ngẩm, thay vào đó là chiều chiều, tôi ngồi nhìn qua cửa sổ, ngắm “mùa thu lá bay anh đã đi rồi” mà than vãn, hờn giận vu vơ và…chế thơ Xuân Diệu:

 

Thu của đất trời nay mới đến

Trong tôi Thu đến đã …lâu rồi

Từ lúc tóc xanh pha tóc bạc

Đêm về thương tiếc tuổi đôi mươi!

 

Mà Thu xứ này ngắn ngủi quá! Nào có xa xôi gì đâu! Chỉ mới một hai tuần trước thôi, con đường Lá Vàng còn rực rỡ một khung trời của Mùa Thu chín, những hàng cây điệu đà với muôn sắc màu của lá, chiều nào cũng dập dìu người và xe dừng lại, thưởng thức ngắm nghía, chụp hình tới tấp, dạo chơi vui vẻ trong tiếng rơi lả lơi của những chiếc lá nhẹ bay …

Nhưng khi quý vị độc giả đọc được bài này thì những hàng cây đang rụng lá, khẳng khiu, trơ trọi giữa những cơn gió cuốn cuối mùa, lạnh lẽo theo những vầng mây xám vây quanh. Và người ta vẫn chạy xe qua con đường ấy, nhưng chẳng còn ai dừng lại, (dù là nửa con mắt) để nhìn vùng lá khô ấy, dù chỉ là một phút thôi. Con người ta vô tình quá đỗi, hờ hững như chưa hề đắm đuối say mê, chưa từng suýt xoa chiêm ngắm, chưa từng ôm ấp mộng mị làm thơ nhớ nhung, khi nơi đây còn là một tuyệt tác mỹ miều, rạo rực lòng người, tôi cũng buồn lây mà cảm hứng xót xa giùm …Mùa Thu:

 

Thu lộng lẫy nồng nàn

Bao kẻ đón người đưa

Thu cuối mùa tàn úa

Giận ai kia hững hờ …

Đời bạc thế!! Bởi vậy, các ca sỹ, nghệ sỹ, các bà cô …khi vào tuổi “lá úa khóc người đi” cũng nên chấp nhận sự thật phũ phàng này. Ai cũng chỉ có một thời thanh xuân rất đẹp (cái thời mà không cần trang điểm, không kẻ mắt tô son, mà vẫn đẹp xinh, đầy sức sống). Đừng nên cố gắng níu kéo một cách thái quá. Nhiều người không chịu …già, vẫn diện những bộ áo quần rất “trẻ trung” hơn mức cần thiết, tóc cắt kiểu “maika” để thêm phần …nhí nhảnh, rồi đi thẩm mỹ viện cắt mắt để vẫn …mơ màng ngây thơ, đi bơm môi để vẫn có làn “môi cherry” đỏ mọng xinh xinh nũng nịu. Nhưng đó chỉ là những cứu vãn bên ngoài, nhìn xa xa thì cũng hấp dẫn, chớ lại gần thì …hổng phải vậy, chồng con trong nhà biết rõ lắm á, nhất là mỗi sáng ngủ dậy…giật mình cứ tưởng còn Halloween. Bởi thế tôi đã từng làm thơ nịnh chồng:

Không có đờn ông, chắc đời …buồn lắm

Ai sẽ cùng ta thức dậy mỗi ngày?

Ta chưa điểm trang, tô vẽ lông mày

Người vẫn nhìn ta dù ta đang …xấu !!

 

Tôi không phản đối thẩm mỹ khi cần thiết, miễn sao đừng quá lố mà phản tác dụng. Tôi phải nói vậy, vì biết đâu sau này, nổi hứng …hồi xuân bất chợt, tôi lại đi trùng tu nhan sắc đang về chiều của mình, dù rằng tôi không bao giờ có ý định đó, nhưng never say never, phải không quý vị!?

Nói chung, ở tuổi mùa thu hay mùa đông của cuộc đời, tâm hồn lạc quan tươi trẻ, tinh thần vui vẻ, bao dung...mới là điều quan trọng .

Hình như tôi đang đi …lạc đề thì phải? Đang nói đến Mùa Thu đẹp thế cơ mà! Dù Thu Vàng hay Thu Sầu lá héo khô, cũng cho chúng ta những phút giây thổn thức và những bài thơ bài nhạc tuyệt vời ngẩn ngơ, thấm thía tim gan. Vì Mùa Thu mà có thi nhân hay vì có thi nhân mà Thượng Đế phải tạo ra Mùa Thu?

Cái nào cũng được, xin cám ơn cuộc đời, cám ơn Mùa Thu!

Edmonton, Mùa Thu 2021

KIM LOAN

 

" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"

                                                -Luke 23:34-

TL_CanadaTG.jpg

Nhân Ngày Lễ Tạ Ơn Canada Monday, Oct 11, 2021, mời đọc Chuyện kể về 24 giờ đầu tiên mới đến Canada "hai lúa và ngáo ộp" như thế nào, cũng là lời Tạ Ơn quê hương thứ hai của tác giả.

 

THANK YOU CANADA

Tôi đến thủ đô Ottawa của Canada vào một tối mùa đông lạnh lẽo sau gần hai mươi tiếng dài ngồi trên máy bay từ Bangkok (Thailand), có dừng nghỉ tại Frankfurt (Đức Quốc).
Nhóm chúng tôi 6 người được nhân viên chính phủ đón tại sân bay rồi đưa về Reception House trên đường King Edward gần Byward Market. Đây là một chung cư nhỏ, gồm một tầng trệt và một tầng lầu, tổng cộng khoảng hơn chục phòng, mỗi phòng chứa được 3-4 người. Tôi là phụ nữ duy nhất trong nhóm nên được đưa vào chung phòng có hai cô người Miến Điện cũng mới đến trước đó vài ngày. Mệt mỏi rã rời, tâm trí còn vương vấn trại tỵ nạn Panatnikhom, giờ này chắc mọi người đang đi dạo chơi trong trại, có ai… nhớ tôi không?.


Sau khi nhận phòng trời cũng tối thui, họ dẫn chúng tôi xuống nhà bếp ăn tối với một món macaroni & cheese! Lần đầu tiên trong đời nhìn thấy món nui với pho-mai tan chảy, tôi chỉ thấy một mùi khó chịu vì đã quen ăn món này từ Việt Nam phải là nui xào thịt ăn với nước tương dằm ớt mới …đúng điệu!
Tôi lắc đầu, chả thiết ăn uống, chỉ muốn đi tắm rồi ngủ, giấc ngủ đầu tiên trên xứ Canada khi bên ngoài tuyết đang rơi để xem cảm giác ra sao. Cô gái người Miến dẫn tôi vào phòng tắm, chỉ dẫn cho tôi hai vòi nước nóng, nước lạnh trong bathtub, rồi đi ra ngoài. Tôi lớ ngớ, không hề biết rằng có thể vặn cả hai vòi cùng lúc rồi điều chỉnh cho vừa độ ấm rồi ấn nút shower. Tôi mở nước nóng thì nóng quá, mở nước lạnh thì lạnh như nước đá, chả biết phải làm sao! (Lỡ ...cởi đồ rồi, sao dám chạy ra hỏi!). May quá, có cái thau nhỏ trong bồn tắm, tôi mở nước nóng nửa thau, rồi mở nước lạnh nửa thau hoà chung cho đủ ấm, và ngồi xối nước tắm như khi ở trại.
Trên bathtub có để chai shampoo hiệu “head & shoulders”, tôi biết đó nghĩa là “đầu và vai”. Tôi nhìn quanh tìm thêm soap nhưng không có, rồi tự hỏi : “Chai shampoo ghi head&shoulders, là dành cho đầu và …vai, vậy còn các …bộ phận khác thì sao?”! Hỏi thì hỏi chớ đâu có câu trả lời, thế là tôi dùng nó để gội đầu (vì là shampoo), xong tôi còn lấy thêm chút shampoo để chà trên hai vai của tôi (vì chữ …head&shoulders rành rành đó!), và chỉ dùng đúng cho đầu và …vai thôi nhé, dứt khoát không xài cho …khúc dưới!!

Sáng hôm sau ngủ dậy tại Reception House, bụng đói meo vì tối qua bỏ bữa, tôi xuống phòng ăn thì lại càng không ăn được món oatmeal chan sữa tươi. Cái xứ gì mà ăn uống kỳ cục! Tôi bỗng thèm dĩa bánh cuốn, ổ bánh mì thịt, hoặc chí ít cũng là gói xôi bắp để trong lá chuối thơm mùi hành phi và đậu xanh hấp. Cũng may là còn có bình cà phê ngay góc phòng, tôi làm liền một ly, cho thật nhiều đường và cream để…cứu đói!
Lát sau có một người từ Nhà Thờ Công Giáo Việt Nam tại Ottawa đến thăm chúng tôi. Anh tên Thành, đại diện giáo xứ đến tặng phong bì, tem thư, giấy viết, và hỏi chúng tôi dù có đạo hay không, nếu muốn đi lễ thì thứ bảy anh sẽ đến đón.
Nghe xong, chú lớn tuổi nhất trong nhóm lên tiếng, chả liên quan gì đến việc …đi lễ:
- Nói cậu đừng cười, giờ chúng tôi …đói lắm vì chưa quen ăn đồ Tây, nếu nhà thờ cho chúng tôi ít mì gói thì tốt quá!
Anh Thành mỉm cười sốt sắng:
- Dạ, cháu cũng đang tính hỏi chuyện đó, cháu sẽ phone cho người bạn mang đến.
Thấy anh Thành dễ dãi, chú ấy …làm tới, được voi đòi...Hai Bà Trưng: 

- Mà cậu ráng hỏi họ tìm đúng mì Mama của Thailand nha, vì mấy năm qua chúng tôi chỉ quen ăn loại đó ở trại thôi à…
(Tôi cản chú ấy không kịp, trời ơi, chú tưởng mình là ai chớ!!)
Nhưng anh Thành lại tiếp tục mỉm cười thân thiện, và quả thật, nửa tiếng sau có người mang đến, không phải vài gói, mà là một thùng mì gói Mama.
Cả ngày hôm đó tôi túc trực dưới Văn Phòng của Reception House vì đợi phone của bố, các anh chị em, họ hàng chú bác bên Mỹ gọi qua để chúc mừng và nói chuyện cho tôi đỡ tủi thân. Vừa ngắm tuyết rơi bên ngoài, vừa xem các cuốn tạp chí, vừa uống café, tôi nói chuyện với người trực ban (để thực tập English), vì ông ta bắt chuyện với tôi khi thấy tôi nói phone với người thân mà lúc khóc nức nở lúc lại cười vui vẻ:
- Ủa, sao gia đình cô bên Mỹ mà cô lại lạc loài qua đây, mà nãy giờ tôi thấy cả chục cú phone rồi đó, chắc gia đình cô ở bển đông lắm hả!?
Ông này chắc cũng cỡ …ông Tám quá! Tôi đáp:
- Thôi, ông đừng nhắc đến vết thương lòng của tôi nghen, mà chuyện dài lắm, ông chả hiểu được đâu!
Nghe vậy, ông chuyển qua đề tài khác, chuyện thời tiết, chuyện thủ đô Ottawa có gì lạ, chuyện dân nhập cư, tỵ nạn, rồi cuối cùng là chuyện …ăn uống. Như được rà trúng đài, tôi than thở:
- Thú thật với ông, từ tối qua đến giờ tôi chưa có gì trong bụng ngoài ly café và chút mì gói.
- Thế à? Cô chưa quen với thức ăn bên đây sao?
- Dĩ nhiên là chưa, chúng tôi mới đến đây chưa đầy 24 giờ đồng hồ, ông quên rồi sao?
- Ừ nhỉ…
Tôi chống cằm, mơ màng nhìn ra cửa sổ ngắm tuyết cho… đỡ đói, rồi nói bâng quơ với ông ấy:
- Ước gì bữa ăn tối nay có một nồi cơm! (Lúc ấy tôi nghĩ đến món cơm trộn với canh mì gói, là món “ngon” ở trại tỵ nạn)
Ông ấy nhìn tôi, thương cảm:
- Ở dưới bếp có gạo, mà cô ăn cơm với gì, để tôi cố gắng nhắn với nhà bếp xem sao, dù rằng tôi không dám hứa.
Thấy tôi xịu mặt mất hứng, ông vội vàng xua tay:
- Ý tôi là không dám hứa vụ thức ăn kìa, còn nồi cơm thì bảo đảm là có, cô cứ yên tâm. Giờ nói cho tôi nghe cô muốn ăn cơm với gì nào?
Được khuyến khích, cộng thêm cái bao tử đang réo gọi, tôi thoải mái ước mơ:
- Người Việt chúng tôi ăn cơm với rau, và với thịt heo, bò, cá, gà, vịt …nói chung là luộc, nướng, kho, xào, hấp, quay, khìa …đủ kiểu hết á!
Chẳng biết ông ấy có hiểu tôi nói gì không, nhưng vẫn chăm chú, gật gù theo trí tưởng tượng của tôi với các món ăn nóng sốt đang làm tôi …nuốt nước miếng.

Đến giờ dinner, bà bếp trưởng da đen gọi nhóm Việt Nam đến. Trong khi các nhóm Somalia, Miến Điện rộn ràng bên bàn ăn với những dĩa spaghetti phủ đầy tomato sauce đang bốc khói thì nhóm chúng tôi, còn hơn cả mong đợi, có một nồi cơm trắng và chảo bắp cải xào thịt bò hộp. Tôi hỏi thịt gì mà ngon thế, bà đưa cái lon đồ hộp cho chúng tôi xem, ghi là corned-beef, không phải có “bắp”, không phải thịt xay, vì các xớ thịt nhỏ xíu vẫn còn, nêm nếm thật đậm đà, thịt bò mềm rục quyện với chất ngọt của bắp cải. Chúng tôi hồ hởi ăn hết sạch cả cơm lẫn thức ăn trong ánh mắt vui sướng của bà đầu bếp người Jamaica.
Có lẽ Canada (và các nước Mỹ, Úc, Châu Âu …) mắc nợ người Việt tỵ nạn từ …kiếp trước, nên kiếp này họ phải rước chúng ta qua, đón tiếp nồng hậu đám người chân ướt chân ráo mới đến còn ngơ ngơ ngáo ngáo chính hiệu “con nai vàng”, chưa đóng góp được gì cho đất nước người ta, mà chỉ biết đòi hỏi toàn …đồ ăn!
Thương cái xứ “tư bản giãy hoài chưa chết” này quá thôi!!!


Edmonton, Thanksgiving 2020
KIM LOAN

_______________________

KimLoan_CanLaborDay.jpg

TÔI CHỜ …ĐỂ BÂNG KHUÂNG …

Bên Canada năm học mới được khai giảng ngay sau ngày Lễ Labour Day. Theo một cuộc thăm dò, thì đa số dân chúng, đặc biệt là giới học sinh Canada đều không mấy mặn mà cái long weekend của Labour Day này, bởi vì các long weekends khác trong năm đều thực sự được enjoy nghỉ ngơi thoải mái, quên chuyện bài vở, còn Labour Day thì lại bận rộn chuẩn bị cho ngày hôm sau nhập học, có gì dzui!

Mấy hôm nay các quảng cáo “Back To School” đầy rẫy khắp nơi, đi ngang qua khu shopping lòng tôi nôn nao buồn vui lẫn lộn. Nhìn các thứ backpacks, giấy bút, lunch boxes... một thời tôi cũng đã lang thang cùng các con mua sắm, giờ chúng không còn xài nữa, tôi cứ ngỡ chẳng còn ai bán những thứ này. Chồng tôi bảo:

- Bộ em nghĩ chỉ có con em đi học thôi sao?

Tôi e lệ:

- Lòng mẹ nào cũng luôn ghi nhớ kỷ niệm của con mình. Em nhớ khi chúng qua tuổi mang diapers, baby food, em cũng đi qua khu bán đồ baby và tự hỏi, vẫn còn người mua các món này ư, và các hãng sản xuất các phim Cinderella, Pokemon, Toy Story, Barney, Wiggles chắc cũng đã …dẹp tiệm vì con mình hết xem?!

Thực ra đó chỉ là cách tôi bày tỏ cảm xúc lưu luyến khi thời gian trôi qua nhanh, các con trưởng thành, và mỗi mùa khai giảng cũng là lúc đón mùa thu sang, lá bắt đầu úa vàng để nhắn nhủ người ta, rằng sắp qua một năm, thêm một tuổi đời…

Nhìn những chiếc school bus đưa đón học sinh, một quãng thời gian chợt sống lại, như mới vừa hôm qua. Từ sáng sớm tôi bận rộn thức dậy, bỏ các luch boxes vào backpacks của con, kêu chúng ra khỏi giường, dọn bàn ăn sáng rồi đẩy chúng ra cửa kẻo trễ xe bus…

Giờ đây chúng đã lớn thật rồi, à mà không, chúng đã “lớn” khi bước vào tuổi 18, cái tuổi được đi bỏ phiếu bầu cử, được quyền ra ở riêng, được vào casino và được vào bar để “le lói” với mấy đứa chưa đủ tuổi.

Khi con gái tôi vừa tròn 18, theo “truyền thống” (hay phong trào) của đám trẻ bên đây, vào cuối tuần đó chúng nó hớn hở kéo nhau đi “bar” để đánh dấu giai đoạn quan trọng của cuộc đời: bắt đầu là “người lớn” và ngang nhiên vào “bar” mà không sợ bị đuổi về.

Nó hẹn đi với nhỏ bạn thân học chung từ tiểu học, người Iran. Hai đứa lí lắc và có máu đùa giỡn nghịch ngợm như nhau. Hồi năm lớp Bảy, sau khi xem tivi cuộc thi Miss Universe, hai đứa cũng bày trò ngay tại phòng khách nhà tôi, thay đủ kiểu áo tắm, đầm dạ hội, chúng mời tôi làm giám khảo đặt câu hỏi cho chúng trả lời phần ứng xử, mỗi đứa đại diện cho quốc gia của mình, từ đó tôi gọi chúng là Miss Iran và Miss Sài Gòn.

Theo dự tính, tôi chở hai đứa đến bar dưới downtown, sau khi chơi ở bar xong, Miss Iran về nhà tôi ngủ, sáng hôm sau má nó xong ca trực ở bệnh viện sẽ đón nó về. Tụi nó chơi thân đã lâu nên sleep over nhà nhau là chuyện thường tình, thậm chí chúng cùng gọi tôi là Mom.

Tôi bàn với hai đứa, dĩ nhiên là bằng English vì Miss Iran đâu hiểu tiếng Việt. Tôi nói:

- Mẹ sẽ chở đi và đón về nhà.

Miss Sài Gòn phản đối:

- Mẹ chỉ cần đưa tụi con tới đó, rồi khi nào xong tụi con đón taxi về.

Tôi cũng kịch liệt phản đối:

- No! No! No… Đêm hôm khuya vắng rất nguy hiểm. Để mẹ đưa đến nơi đón về đến chốn, các con còn bé chưa hiểu …sự đời bằng mẹ đâu, không được cãi!

Miss Iran liền nhào vô:

- Mấy đứa chung lớp đều đón taxi, tụi con cũng muốn giống tụi nó, tụi con biết cảnh giác mà, please please …

Rồi hai đứa chắp tay năn nỉ, thiếu điều muốn quỳ xuống, làm tôi cũng xiêu lòng:

- Ok, mẹ đồng ý, nhưng với một điều kiện, là khi ra đón taxi, một đứa phải nhanh nhẹn chụp ngay bảng số xe taxi rồi gửi ngay cho Mẹ yên tâm.

Hai đứa nhìn tôi ngạc nhiên:

- Why??

Tôi nghiêm nghị:

- Tụi con đứa nào cũng xinh đẹp, mẹ không muốn kẻ xấu bắt cóc Miss Iran và Miss Sài Gòn của mẹ đâu á!

Tụi nó bật cười nhưng thấy tôi serious quá, nên gật gù chấp nhận, kẻo tôi lại tiếp tục đòi đi đón thì vỡ lỡ chương trình “mười tám tuổi” mà chúng đã đợi chờ từ lâu. Tôi vẫn chưa yên lòng, nói thêm:

- Mà nè, khi chui vào taxi, nếu có thể chụp mặt của người tài xế gửi cho mẹ luôn nhe, lỡ hắn có ý đồ xấu thì có mà chạy đàng trời, hiểu chưa?!

Tụi nó gật đầu lia lịa rồi đi thay quần áo, trang điểm, ríu rít các cuộc phone với mấy đứa bạn khác, rộn ràng náo nức làm tôi cũng vui lây.

 

Tôi lái xe chở chúng đến bar lúc 6 giờ chiều, rồi về lo cơm nước, tụi nó dặn đừng nhắn tin hay gọi phone “hỏi thăm” vì trong bar rất ồn ào và đèn đóm thì mờ ảo. Tôi giết thời gian bằng cách dọn dẹp nhà cửa và xem phim. Chồng tôi thảnh thơi đi ngủ, và khuyên tôi:

- Em nên đi ngủ sớm, chúng nó lanh lợi hiểu biết, đã từng làm MC văn nghệ văn gừng trong trường học, chúng không ăn hiếp ai thì thôi, ai dám ăn hiếp chúng!

- Anh nói hay nhỉ! Dù gì chúng cũng còn ngây thơ, mới lần đầu đi bar khuya khoắt…

- Nhưng chúng đi cả nhóm đông bạn bè, và khi ra về thì hai đứa đi với nhau, em nên bớt lo âu thái quá và đa nghi thiên hạ, đâu phải ngoài đường ai cũng là kẻ xấu!

 

Mặc kệ, tôi vẫn cứ thức và chờ con tôi, đằng nào tôi cũng hay thức khuya, nay có lý do chính đáng được xem phim muộn màng, một công đôi việc cũng tiện lợi. Coi được mấy tập phim, mỏi mắt lim dim trên sofa thì có tiếng phone reng, tôi bật dậy mở phone, nghe tiếng láo nháo, tiếng cười rũ rượi xen lẫn tiếng nói khi được khi mất. Tôi hốt hoảng:

- Có chuyện gì vậy, sao lại phone cho mẹ?

- Mẹ ơi! Mở facetime con cho mẹ nhìn mặt ông tài xế taxi nà!!

- Chúng mày đang say hay chúng mày điên hở, mẹ nói chụp hình lén kia mà!?

- Thì tụi con làm theo lời mẹ, nhưng bị ông taxi bắt gặp, con đành nói thật với ổng, là mẹ tôi dặn phải làm như thế, để nếu có bị ông bắt cóc thì mẹ tôi sẽ báo cho cảnh sát đầy đủ hình ảnh và số xe …

Tôi chưa kịp phản ứng thì ông taxi xuất hiện trên màn hình iphone với nụ cuời tươi rói dù đã qua 1 giờ khuya:

- Good evening Madam! Do not worry, I will bring your pretty ladies home safely!

Tôi nhìn thấy một ông có vẻ là người Ấn Độ, đứng tuổi, vui vẻ và hiền hậu, liền nói lời cám ơn rồi quay qua nói tiếng Việt với con gái:

- Nhưng vẫn phải gửi ngay số xe cho mẹ, nghe chưa!? Bao giờ tụi con về đến nhà nguyên vẹn bằng xương bằng thịt thì mới chắc ăn, ba mươi chưa phải là Tết, nhớ đấy!

 

Thấm thoát tuổi 18 của con cũng đã xa vời! Nếu như nhà văn Thanh Tịnh bồi hồi “ Cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu trường”. Hoặc như ai đó đã viết, “ Hằng năm, tôi đợi mùa Thu tới, để …buồn”, thì tôi cũng vậy, khi trời Canada bắt đầu những cơn gió mát đầu mùa, tôi ngắm nhìn lũ trẻ trong xóm đi bộ ra đầu ngõ đón school bus, để…bâng khuâng!

 

Edmonton, Labour Day /2021

KIM LOAN

_______________________________________

TL_redwhiteroses.jpg

 TẢN MẠN XÓM CHÙA

TU LÀ CÕI PHÚC

Nhà tôi có một quán nước ở mặt đường khu Xóm Đạo, và căn nhà trong hẻm, nằm giữa Xóm Chùa.

Tôi đã viết về Xóm Đạo qua bài NGỌC LAN, nay xin hầu quý vị về Xóm Chùa!

Năm ấy, ở xóm trên có một gia đình, vợ vừa mất, chồng đi bước nữa, có đứa con gái chừng 9-10 tuổi, được nhà người bác ruột đem về nuôi, rồi sau đó nghĩ sao, đem nó vào gửi trong Chùa, hy vọng nó sẽ có đường tu, tránh xa khổ ải trần đời. Rồi nó được cạo đầu, chừa 3 chỏm tóc, mặc áo nâu, có tên pháp danh là Diệu Vinh, xóm chúng tôi cứ gọi nó là Tiểu Vinh.

Cô (Tiểu) Vinh này thiệt là lí lắc và sôi động. Không biết thời khoá biểu trong chùa của Tiểu ra sao, mà hầu như cả ngày tôi thấy Tiểu ở ngoài đường, lúc thì nhí nhố đi học với lũ trẻ trong xóm, lúc thì chơi nhảy dây, chơi tạt lon….Cái tà áo nâu của nhà Chùa chưa bao giờ làm Tiểu vướng bận, khi chơi bịt mắt bắt dê, Tiểu cột hai tà áo lại trước bụng cho chặt để tha hồ chạy nhảy. Chơi tạt lon, Tiểu xắn quần lên tận đùi, và khi chơi nhảy dây, mái tóc “ba vá” của Tiểu cứ lắc lư theo cái đầu và đôi mắt lanh lợi, láo liên của Tiểu thật dễ thương. Cho nên màu da của TiểuVinh ngày càng ngăm ngăm, rám nắng, với hàm răng trắng tươi có chiếc răng khểnh lồ lộ, chưa kể cái miệng nói “không lành da non” của Tiểu làm ríu rít, ồn ào bất cứ nơi đâu Tiểu có mặt. Không biết nó tu tập tới đâu, mà nghe trẻ con trong xóm kể rằng, hầu như ngày nào Tiểu cũng bị Sư Bà phạt quỳ nhang (tức là quỳ trước chánh điện, cho đến khi cây nhang tàn thì thôi). Quỳ đau gối, Tiểu khóc nức nở, nhưng ngày mai…đâu lại vào đấy, vẫn mải chơi say mê, quên cả lời Sư Bà dặn dò.

Một sáng chúa nhật, tôi thấy Tiểu tung tăng hớn hở đi từ phía chợ về xóm, trên tay lủng lẳng con khô lóc, tôi chạy lại hỏi: “Tiểu Vinh ơi, đi tu Chùa đâu được ăn thịt cá”, Tiểu trả lời ngon ơ: “Dạ Tiểu biết, mà lâu quá hổng ăn nên thèm quá, bữa nay ghé nhà bác cho tiền, Tiểu muốn ăn miếng cá khô chiên”. Chẳng biết hôm đó Tiểu có được ăn cá hay bị quỳ nhang gì không, chỉ biết một thời gian sau, gia đình người bác đến xin Chùa được mang Tiểu về nhà, hoàn tục, trở về cuộc sống đời thường.

Thế là từ đó, Tiểu Diệu Vinh, hay đúng hơn là cô bé Trần Thị Hoa Hồng, mặc chiếc áo đầm xanh, cột tóc đuôi gà, đeo cặp táp, tươi tắn bước chân sáo với đám bạn trên đường đi học, nhăn mặt ăn cóc ngâm hay xuýt xoa nhai khô bò, toác miệng cười, mới chính là hình ảnh của một cô bé, đang sống đúng với tuổi thơ của mình.

Dẫu biết rằng “Tu là cõi phúc”!

 

TÌNH LÀ GIÂY OAN

Thực ra, trước khi Tiểu Vinh có mặt, thì ngôi Chùa không phải lúc nào cũng êm ả như dòng sông, mà có lúc, bỗng nổi sóng ba đào.

Chùa chỉ có hai người, là Sư Bà Đàm Nhung và Sư Cô Diệu Huyền. Cô Huyền cũng được gia đình, là dân ở xóm bên, đưa đến Chùa tu lúc bé xíu. Khi tôi lớn lên thì Sư Cô Huyền là một Sư Cô xinh đẹp, nhan sắc nổi bật dù khoác áo chàm, đâu đội khăn tu. Khuôn mặt trái soan, nước da trắng, đôi mắt đen hình hạt dẻ, lông mày đậm trên sóng mũi cao thanh tú, cùng nụ cười duyên và giọng nói ngọt ngào thánh thót, làm bất cứ người đối diện nào cũng đem lòng cảm mến.

Người ta nói, thanh niên xóm chợ và xóm chùa, thường không phải…dạng vừa. Xóm tôi, vừa là Xóm Chợ vừa là Xóm Chùa nữa cơ, nên có đám thanh niên rảnh rỗi, làm ít chơi nhiều, thường hay tụ tập ngay gò mả cạnh Chùa, đờn ca hát xướng, ăn nhậu và chọc ghẹo những thiếu nữ nào đi ngang qua khu này. Nhiều buổi tối đi học thêm về, chạy xe vào đầu ngõ Chùa, tôi cũng bị mấy anh thả lời đùa giỡn là chuyện bình thường, nhưng với Sư cô Huyền, mấy ảnh cũng…không tha. Hễ thấy bóng cô, là các anh trổ tài hát nhạc bolero (có sửa chút lời) đoại loại như: “ Em tôi xinh đẹp hơn người tưởng, không áo xanh áo đỏ thơm hương, nhưng khi vườn Chùa lá thu rơi, ôi dịu dàng đôi mắt em tôi …”, có khi còn cao hứng lên sáu câu vọng cổ tha thiết chuyện tình Lan và Điệp, “Sao em nỡ cắt dây chuông, để anh mang một nỗi buồn thiên thu?”…Lần nào sư cô cũng nhẹ nhàng mỉm cười, bởi dù sao cũng toàn là người cùng xóm, chớ có xa lạ gì đâu nà. Thành ra mỗi khi Chùa có dịp lễ lớn như Tết nhứt, Vu Lan, Phật Đản là bà con thấy mấy anh có chút máu giang hồ, “phá làng phá xóm” đó hì hục dọn dẹp sân Chùa, cắt cỏ, quét lá, tưới cây dưới sự chỉ đạo của Sư cô Huyền. Trời nắng chang chang, mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt, và đôi má ửng hồng của Sư Cô thiệt là duyên dáng. Còn mấy anh, thì khỏi nói, lao động hăng say, chạy qua chạy lại như con thoi, có nụ cười của Sư cô thì…hổng biết mệt là gì hết á! (Bởi ta nói, dù ở bất cứ nơi đâu, ngoài xã hội, công sở, xưởng thợ, hay ngay chốn cửa Phật này, có chút nhan sắc là khác liền hà!)

Một buổi tối, khi cả xóm đang chuẩn bị đi ngủ, thì nghe bên Chùa có tiếng la mắng rất lớn của Sư Bà, kèm theo tiếng khóc thút thít của Sư Cô sau mỗi làn roi đánh của Sư Bà. Tôi cũng nhanh chân hoà nhập vào nhóm người có mặt ngay cánh cổng sắt của Chùa, dòm qua khe hở, thấy xa xa, Sư Cô quỳ chắp tay van xin, trả lời lí nhí những câu chất vấn của Sư Bà:

-    Tại sao xài kem Hoa Lan?

-    Dạ …dạ …

-    Tu hành không cần làm đẹp, nghe chưa? Mà muốn dưỡng da, sao không xin tiền nhà Chùa đi mua mà lấy của người ta! Ai cho?!…

Bên ngoài, nghe câu được câu không, chỉ nghe rõ tiếng khóc của Sư Cô và giọng hét như lệnh vỡ của Sư Bà. Không cần chờ đợi lâu, một "bà Tám" lớn tuổi đã giải toả thắc mắc của đám đông tò mò:

-    Biết ai tặng mấy hộp kem Hoa Lan cho cô Huyền không? Hùng Đại Ca đó!

Thì ra là Hùng Đại Ca, nhà ngay sát bên hông Chùa. Sau năm 1975, gia đình Hùng đi vùng kinh tế mới, còn anh gia nhập Thanh Niên Xung Phong theo lời kêu gọi đi tìm “lý tưởng” của ông Võ Văn Kiệt. Chẳng bao lâu, gia đình anh bồng bế nhau trở lại vì chẳng thấy “có sức người sỏi đá cũng thành cơm” gì ráo, mà ba anh còn để lại xác thân nơi đồng khô cỏ cháy. Anh cũng bỏ Thanh Niên Xung Phong về nhà, làm nghề “mánh mung chợ trời”, hay theo như lý lịch ngoài phường ghi là “nghề nghiệp không ổn định”. Chiều tối thì tụ tập đám thanh niên trong xóm ngồi đàn ca giải sầu. Công bằng mà nói, Hùng Đại Ca không phải là người xấu. Ở đâu không biết, chớ ở cái xóm Chùa này, anh sống có tình, hành động nghĩa hiệp, giúp đỡ hàng xóm khi có ai cần nhờ vả những chuyện tay chân đàn ông. Có lần tôi đi học về khuya, khi ngang qua “ban nhạc bolero” của anh, bị mấy thanh niên trêu ghẹo, tôi vừa bối rối vừa run, làm rớt chiếc kẹp tóc. Sáng hôm sau, anh sai người mang đến tận quán nước nhà tôi trả lại. Hùng, chàng Đại Ca vì thời cuộc, Lục Vân Tiên không gặp thời, và trận đòn của Sư cô Huyền tối nay, cho chúng tôi biết thêm, anh còn là chàng lãng tử, lãng mạn…không đúng chỗ!

Sau đêm đó, cư dân Xóm Chùa đợi chờ ngày Cô Huyền khăn gói ra khỏi Chùa, về đời thường trần tục, nhưng chỉ thấy Sư Cô vẫn đều đặn đạp xe đi tu học hàng ngày trên Chùa Vĩnh Nghiêm, rồi về Chùa sinh hoạt kinh kệ, gõ mõ, thỉnh chuông đều đặn. Chỉ có điều, Hùng Đại Ca bỏ đi biệt xứ, nghe đâu lên tận Bảo Lộc trồng cà phê phụ giúp người quen.

 

Giờ đây, ở tuổi xấp xỉ 60, Sư Cô Huyền đang là trụ trì của Chùa, sau khi Sư Bà qua đời. Vậy là Cô Huyền có căn tu, dù trên con đường ấy, có lần Cô thoáng chút vấn vương nhẹ nhàng với luyến ái. Và như cơn gió chợt đến rồi đi, Sư Cô đã vượt qua được cái quyến rũ phù du của “Tình Là Giây Oan”

 

KIM LOAN

Người Thứ Ba


Khi ra trường, bốn đứa chúng tôi nhận nhiệm sở bốn trường khác nhau, nhưng cứ vài ba tuần lại tụ họp gặp gỡ, đi chơi. Bữa đó, cô nàng ít nói nhất trong đám thông báo mới có người yêu. Chúng tôi hớn hở:
- Tin vui! Tin vui! Chàng nào có thể phá tan trái tim băng giá của nhà ngươi vậy?
Nó e dè thú nhận:
- Là thầy Hiệu Trưởng trường tao đang dạy đó!
Chúng tôi đồng thanh… hốt hoảng:
- Trời! Cái ông Thầy hơn mày mười bốn tuổi, đang có vợ và hai con đó sao?
- Thế giới này thanh niên trẻ trung nhan nhản, sao lại nhào vô con đường “em mới yêu lần đầu, còn anh đã yêu… nhiều lần sau”?
- Xinh đẹp như mày, gật đầu là bao nhiêu cây si run rẩy, hà cớ gì đi chọn hàng đã có chủ?
Nó nhìn chúng tôi một lượt rồi phân trần:
- Mấy bà cũng đã và đang yêu phải không, chắc cũng biết con tim có lý lẽ riêng…
Tôi cướp lời nó:
- Đồng ý, đồng ý! Nhưng trong trường hợp này, phải cố quên đi, nhất định phải quên đi!
Nó đáp không cần suy nghĩ:
- Trái tim chớ có phải cái máy đâu, mà kêu đóng là đóng, kêu mở thì mở! Mong mấy bà thông cảm và tôn trọng chuyện của tui.
Nó yêu cầu sao thì tụi tôi nghe vậy, mà trong lòng ai cũng tiếc nuối, hoang mang. Nó là đứa hiền nhất, và cũng xinh đẹp nhất nhóm. Trong khi chúng tôi quậy phá thì nó luôn đóng vai trò tháp tùng, không tham gia nhưng luôn mủm mỉm cười ủng hộ những trò đùa của nhóm. Tôi hay ngắm đôi mắt đẹp trên khuôn mặt ngây thơ thánh thiện của nó, rất giống khuôn mặt nàng Meggie trong bộ phim “Những Con Chim Ẩn Mình Chờ Chết” (bản tiếng Anh là The Thorn Birds). Ai dè, cô bé Meggie trong phim có mối tình ngang trái với Cha Ralph, thì nhỏ bạn “Meggie Việt Nam” của chúng tôi lại rơi vào mối tình đầu cũng trái ngang không kém. Nhưng Cha Ralph còn có “nhan sắc” vạn người mê, xứng đôi vừa lứa với Meggie, còn nhỏ bạn tôi, nghĩ sao đi yêu ông Thầy Hiệu Trưởng chả có gì nổi bật, thấp người, hơi đen, khuôn mặt dưới trung bình và tội nặng nhất là đang có vợ con đùm đề. Chẳng lẽ nó nói đúng, con tim có tiếng nói riêng, hoặc là “bùa mê thuốc lú” là có thật? Khỏi nói cũng biết gia đình nó bị shocked cỡ nào!

Nó và tôi thân nhau lắm, vì hai đứa cùng tuổi Ngọ, cùng nhỏ hơn hai nàng còn lại một hai tuổi, và cùng mồ côi mẹ. Trong lớp, nó ngồi cạnh tôi, được tôi nhiều lần cho copy bài kiểm tra, bù lại, mỗi khi lãnh gạo và thịt tiêu chuẩn cho giáo sinh Sư Phạm thì sau giờ học nó ở lại lãnh giùm tôi. Nó là con nhà giàu, ở ngay trung tâm phố thị, căn nhà lầu đúc bốn tầng, số 400 đường Hai Bà Trưng, Quận Một (khác với địa chỉ nhà tôi có tới mấy cái "sẹc" và vài con hẻm, lần đầu ai đi tìm nhà tôi cũng phải lạc vào… mê cung). Tôi thường xuyên ghé qua nhà nó ăn ngủ lúc còn đi học. Những ngày gần Tết, hai đứa ngồi trên sân thượng lộng gió nhìn xuống đường, xe cộ ngược xuôi về hướng chợ Tân Định sắm Tết, lòng cũng rộn ràng theo không khí nao nức mùa xuân. Trước khi tôi ra về, nó thường dẫn tôi qua quán ăn vặt kế bên nhà, của một bác người Bắc chuyên bán các món ăn chơi thanh lịch, món nào cũng trong cái chén nhôm nhỏ xíu, để trong tủ lạnh: bánh Flan, bánh bông lan, sương sa, chè bồ cốt, xôi vò, rượu nếp… rất ngon. Nó đến hẻm nhà tôi cũng mê mẩn khoai mì trộn dừa, cóc ổi ngâm, chuối chiên, khoai chiên, vậy là công bằng, chẳng ai nợ nần gì ai, dù tính ra thành tiền, tôi… có lời chút đỉnh!
Nó thương và tin tưởng tôi nhất trong nhóm. Từ ngày yêu ông Thầy, nó hay tâm sự cho tôi nghe những lần đi chơi lén lút với Thầy. Tôi là người duy nhất nó lôi cả ruột gan phèo phổi ra chia sẻ, rủ tôi đến nhà ông Thầy (lúc ổng vắng nhà) để quan sát gia cảnh, vợ con của ổng. Nghe nó kể lể (có khi còn khóc lóc) thấy thương lắm, nhưng sau đó tôi lại áy náy, có cảm giác đang lừa dối gia đình nó, vì có lần nó đi Vũng Tàu với ông Thầy mà nói là đi... với tôi! Mẹ nó mất sớm, ba nó lúc ấy đang nằm bệnh triền miên, mấy anh chị nó thương tôi như em gái trong nhà, họ rất tin tưởng và nhờ tôi khuyên bảo nó rời xa mối tình này. Tôi bị kẹt cứng giữa hai bên, biết chọn ai bỏ ai?
Tôi bàn với hai cô bạn còn lại, và trong một lần lý trí mạnh mẽ, chúng tôi quyết định theo phe “chính nghĩa”, bí mật báo cáo cho gia đình nó nhất cử nhất động của nó cũng như những buổi hẹn hò với ông Thầy.

Một thời gian sau, phát hiện ra tôi là “điệp viên hai mang”, nó nổi giận đùng đùng và từ mặt cả ba đứa chúng tôi. Nếu chúng tôi tìm đến nhà thì nó chui vào phòng khóa cửa, để chúng tôi dưới phòng khách nói chuyện với anh chị của nó, có khi nó ló đầu trên cầu thang, đuổi chúng tôi về. Nếu chúng tôi tìm đến trường thì nó quăng cục lơ nhìn đi chỗ khác, thậm chí có lần nó còn chỉ thẳng vào mặt tôi:
- Bà đó! Tôi tin tưởng bà thế nào, mà bà lại nhẫn tâm bán đứng tôi? Từ nay bà đừng nhìn mặt tôi nữa, đừng bao giờ, nhớ chưa!!!
Tôi cúi đầu, líu ríu chấp nhận thương đau, chớ nào dám thanh minh thanh nga thanh kim huệ với con tim đang yêu say đắm của nàng, vì nó nói cũng… không sai. Tôi đã không giữ lời hứa, đã phản bội lòng tin của nó, đã “đâm sau lưng chiến sĩ”, còn biết mở miệng than vãn “oan Thị Màu” với ai?

Hai năm sau, chúng tôi nghe tin ông Thầy ly dị vợ và sắp làm đám cưới với nó (gia đình nó đã chịu thua). Được nó hẹn đến nhà để lấy thiệp cưới, chúng tôi sung sướng vội vã kéo đến. Sung sướng vì nó còn thương chúng tôi, tình bạn vẫn còn. Lúc ba đứa tôi gặp mặt nó sau một thời gian dài, ai cũng ngượng ngùng, không nói nên lời, vì biết bao nhiêu công sức đổ ra, tìm “mưu kế” cùng với gia đình nó để… đánh phá, chia rẽ, hãm hại mối tình này, nhưng kết quả thì ngược lại, “đôi trẻ” vẫn yêu nhau trong sóng gió phong ba, đạp lên dư luận thị phi để đến với nhau công khai, danh chính ngôn thuận. Chúng tôi nhận thiệp, chưa kịp nói gì, nó đã phán một câu xanh rờn:
- Người đời chỉ biết lên án, kết tội người thứ ba, chớ đâu ai hiểu trong chăn mới biết chăn có rận. Nếu một gia đình thật sự hạnh phúc thì chẳng có ai chen chân vô được hết á!
Tôi tính lên tiếng tranh luận theo thói quen, nhưng nhìn mặt nó nghiêm nghị quá, tôi không dám hé môi, sợ nó lại nổi giận... đòi lại thiệp cưới.
Lúc tiễn chúng tôi ra về, tôi nán lại đứng riêng với nó, cười thẹn thùng:
- Giờ bà còn giận tui nữa không nà?
Nó liếc tôi:
- Giận thì đứng đây với bà làm chi? Nhưng tui đã hứa với lòng, nếu kiếp sau còn vướng vào tình yêu gập ghềnh nữa thì sẽ không bao giờ kể cho bà nghe.

Vậy là tôi đã mất hết “uy tín” với nó rồi sao? Mà thôi, kiếp sau còn xa lắm, tôi còn dư thời gian để sửa đổi cái tánh... thèo lẻo.
Đám cưới diễn ra ấm cúng trên lầu hai của căn nhà. Chúng tôi âm thầm rủ nhau mặc đồ gọn gàng đến chung vui với nó nhưng vẫn cảnh giác, lỡ bà vợ cũ của ông Thầy xuất hiện “phá đám” thì còn chạy cho lẹ, kẻo mang vạ vào thân.

Từ đó, vợ chồng nó sống hạnh phúc cho đến nay với hai đứa con. Thằng con trai giống mẹ nên đẹp trai, hiền lành, đã tốt nghiệp Đại Học Bách Khoa. Đứa con gái giống bố, cái mỏ dầy cong vếu không khép lại được, nhưng được cái đôi mắt ướt rượt, khéo ăn khéo nói, vừa đậu vào Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. Còn nó, chưa bao giờ gọi chồng là Anh, mà vẫn gọi Thầy xưng Em ngọt xớt suốt bao nhiêu năm qua, dễ thương không bà con?
Hồi cuối năm tôi phone thăm nó, nghe tiếng bếp núc lạch cạch, tôi hỏi:
- Thầy của bà đâu rồi?
- Kế bên đây chớ đâu! Hai vợ chồng về hưu suốt ngày xem phim nghe nhạc, cơm nước với nhau, vì hai đứa nhỏ đi làm đi học miết.
- Bà đang làm gì đó?
- Từ hồi có dịch tới giờ, tui vẫn làm ruốc chà bông dự trữ trong nhà, Thầy thích món này lắm.
Tiếng Thầy vọng vào phone:
- Nàng ấy thích mà cứ đổ thừa cho Thầy đó Loan ơi!
Tôi nghe nó nguýt Thầy một cái rồi cười khúc khích...

Thì ra câu "tình chỉ đẹp khi còn dang dở…" đúng với ai không biết, còn nó thì "đời vẫn vui khi đã vẹn câu thề"!


Kim Loan
(Edmonton, Canada)
___________________________

CHÍCH VACCINE KHÔNG ĐAU

 

Hồi tháng Ba năm nay, sau một thời gian chích Covid vaccine (Pfizer) cho Health workers và những người trên 65 tuổi, chính phủ tiểu bang Alberta thông báo cho người dân từ 50 tuổi trở lên được ghi danh chích thuốc AstraZeneca. Dù tôi nằm trong nhóm “trên 50”, dù lúc ấy AstraZeneca chưa có sự cố “blood clotting”, tôi vẫn không có ý định đi chích. Tôi nghĩ không cần phải vội vã, cứ thong thả cho bớt tình trạng đông đúc vì tâm lý nôn nóng của nhiều người mong mỏi được chích vaccine. Và lý do tiếp theo, cũng rất …quan trọng, là ở phía dưới phần thông báo, chính phủ cũng ghi chú rằng, những ai muốn được chích Pfizer hoặc Moderna thì có thể chờ đến tháng Năm. Từ tháng Ba đến tháng Năm có là bao xa, nên tôi càng vui vẻ đợi chờ. Mấy bà chị tuổi 60 trong ca đoàn rộn rịp ghi danh chích AstraZeneca, trong đó có một chị sức khoẻ hơi yếu sau một lần mổ tim nên muốn đi chích cho an tâm. Chị hỏi tôi:

- Sao em chưa chịu đi chích, đâu nhất thiết lúc nào cũng “mê Mỹ” hả em, chích càng sớm càng tốt.

Tôi trả lời:

- Em không muốn bon chen, em muốn nhường cho những ai cần chích trước, chớ không hẳn vì “mê Mỹ”. Mà suy cho cùng, xưa nay hàng Mỹ đồ Mỹ luôn có chất lượng tốt, chờ được cả năm thì chờ thêm vài tháng có gì mà ngại!

Chị ấy đâm ra lo lắng:

- Vậy theo em, chị có nên bỏ cái hẹn Astrazeneca để chờ Pfizer không? Thiệt tình, cả năm nay chị chẳng dám đi đâu, bước ra ngoài sợ lây bệnh, nay tới lượt được chích thì tại sao không đi? Em cho chị ý kiến nhé!

Trời! Ngu sao mà dám “tư vấn” mấy chuyện trọng đại liên quan đến sức khoẻ của người khác, trong khi tôi không hề có bằng M.D?!

- Chị à, chuyện này chị phải tự quyết định, mỗi người có một hoàn cảnh gia đình, sức khoẻ, sinh hoạt …khác nhau, em không thể ý kiến ý cò gì đâu!

Rồi chị ấy và chồng cùng đi chích, sau đó tin tức rộ lên một vài trường hợp bị “blood clotting” sau khi chích AstraZeneca, dù tỷ lệ rất ít nhưng cũng đủ làm cho một số nước quyết định ngưng xài AstraZeneca đối với phụ nữ và tuổi trên 65. Chị ấy hốt hoảng phone cho tôi:

- Em ơi, cái vụ AstraZeneca làm chị lo quá, giờ tính sao đây?

Tôi trấn an chị ngay:

- Chị không phải lo, vì vợ chồng chị đã chích cả tuần nay, không có triệu chứng gì, nghĩa là ổn rồi. Hơn nữa xác xuất bị “blood clotting” cũng rất ít, coi như anh chị nằm trong nhóm người may mắn, an toàn.

- Biết vậy chị theo em, chờ Pfizer cho rồi, tự dưng nhanh nhẩu đi chích rôi lại mang cái lo vào thân!

- Đời ai biết trước chuyện gì đâu chị. Ngay cả Pfizer, Moderna tuy là hiệu quả rất tốt cho đến giờ phút này, nhưng những hệ luỵ biến chứng về lâu về dài thì tất cả các vaccine hiện nay đều chẳng có gì là bảo đảm, vì đây là loại vaccine đặc biệt đươc chế tạo cấp tốc để đánh lại con virus nguy hiểm trời giáng đến từ China. Càng nghĩ càng hận lũ Cúm Tàu chị ạ, thôi em cúp phone nha, kẻo em lại nổi cơn điên vì nhắc đến lũ Tàu Cộng!

 

Đúng lời hứa của chính phủ, đầu tháng Năm tôi được gọi đi chích mũi Pfizer đầu tiên. Nói thiệt, tôi vẫn chưa sẵn sàng. Nỗi đau và những thiệt hại khủng khiếp mà Covid gây ra đã làm tôi …sợ chích. Hàng năm chích ngừa Flu tôi đâu có ngán, nhưng vì Covid như một bóng ma quá lớn, làm cả nhân loại lao đao, một số người lại tuyên bố không muốn chích “thuốc độc” vào người, nên tôi đâm ra hoang mang. Tôi đến điểm hẹn, ngay từ cửa đã hỏi nhân viên y tế: “Bữa nay tôi được chích Pfizer phải không?” Họ gật đầu xác nhận, tôi mới tiếp tục đi vào trong, ngồi xuống ghế, hỏi tiếp cô y tá câu tương tự. Cô ấy mỉm cười thân thiện: “Yes, Pfizer!”, được thể, tôi bắt đầu …chảnh: “ Tui phải hỏi cho rõ ràng, vì nếu không phải Pfizer như chính phủ hứa là tôi …ra về liền á!!” Chích xong xuôi, ngày hôm sau tôi chẳng thấy bắp tay bị đau nhức như nhiều người mô tả, tôi nói với ông xã:

- Anh ơi, sao hôm qua em chích bên tay trái, mà hôm nay không bị nhức, mà hình như lại hơi hơi nhức bên …tay phải??

- Chuyện tào lao, phản khoa học! Em bị thần hồn nát thần tính thôi. Tóm lại, em chẳng bị đau nhức gì cả, vậy là tốt rồi.

Đến hôm thứ sáu tuần rồi, tôi được gọi đi chích mũi thứ hai (vì chính phủ Canada ưu tiên chích mũi thứ nhất cho càng nhiều người càng tốt, nên mũi thứ hai phải chờ dài hơn 4 tuần). Lần chích thứ hai này, tôi càng lo hơn lần trước vì đã nghe nhiều người cảnh báo, nào là đau nhức mình mẩy, nào là sốt mê man như cọng bún thiu, thậm chí có người còn sốt kéo dài 2-3 ngày. Tôi thỏ thẻ với ông xã:

- Anh ơi, thứ bảy có hai trận đấu Euro hấp dẫn, nhất là trận Italy gặp Austria, nếu thứ sáu em đi chích rồi hôm sau bị thuốc hành nóng sốt thì em có đủ sức ...xem Euro được không?

- Đằng nào cũng phải chích, đó là chuyện quan trọng hơn Euro, em đừng có mà kiếm cớ hoãn binh!

Thế là tôi đi chích với tâm trạng… buồn nhiều hơn vui. Về nhà, trước khi đi ngủ, tôi để lọ Advil đầu giường sẵn sàng khi “có biến”, chuẩn bị tinh thần ngày mai bị sốt tôi sẽ order thức ăn ngoài nhà hàng và bất cứ giá nào tôi cũng xem Euro dù phải trùm mền rên hư hử...

Sáng hôm sau tỉnh giấc, tôi trở mình qua lại hai bên để xem có đau nhức gì không, nhưng chả thấy gì. Tôi ngồi dậy nhẹ nhàng, ngạc nhiên hết sức, chẳng nóng sốt nhức đầu chóng mặt, lạ quá, chả lẽ tôi đang ngủ mơ? Tôi chạy bay xuống lầu, ông xã đang uống cà phê giật cả mình vì tưởng …cháy nhà:

- Anh ơi... anh ơi.... sao em chích xong mà không bị sốt như người ta?

- Người ta cũng có người không bị đấy, em phải mừng chớ sao lại lo?

- Không! Em muốn bị …sốt cơ, như thế mới bình thường, như anh đã bị, như chị Thanh bên Texas, như mấy người quen trong nhà thờ, như vậy em mới …chịu! Mà có khi nào họ chích thuốc kém phẩm chất cho em không? Em phải đến nơi hỏi cho ra ngô ra khoai!!

- Trời ơi, tiệm thuốc của anh chích cho bao nhiêu người, có thấy ai đến mắng vốn vì không bị đau bị sốt đâu nà! Em phải nên ăn mừng, đi mua vịt quay heo quay về mà thưởng thức Euro.

Nhỏ bạn trong nhà thờ nghe tôi kể liền cười lớn:

- Sao chuyện nào dính tới bà cũng…hổng giống ai! Mũi thứ nhứt bà chích tay trái mà đau tay phải, nên mũi thứ hai nếu bà không sốt thì chắc chắn chồng bà sẽ bị …sốt thế cho bà.

- Nhưng ổng đang uống cà phê ngon lành, có bị gì đâu!

- Vậy bà qua nhà ông …hàng xóm xem ổng có bị không?

- Quỷ sứ à!!!

Rồi nó kết luận:

- Xứ này đâu phải xứ cộng sản mà sợ thuốc dzỏm, mỗi lần chích họ đều ghi rõ lô thuốc số mấy, hạn sử dụng và thuốc loại gì để tiện theo dõi, bà cứ thoải mái xem đá banh!

 

Ừ nhỉ, tôi tươi tỉnh hẳn lên, bên Việt Nam người ta đang ùn ùn kéo đến điểm chích ngừa Covid, chen chúc nhau y như sắp giành giựt đồ cúng cô hồn rằm tháng Bảy, mà không hề được thông báo loại thuốc tên gì. Còn tôi ở bên đây, được quyền chọn loại vaccine, biết đâu mai kia còn được...trúng thưởng, tôi chưa cám ơn chính phủ Canada mà còn đa nghi hơn Tào Tháo!

 

Edmonton, June 28/2021

KIM LOAN

ĐỪNG HỎI VÌ SAO …

 

Xin đừng hỏi vì sao tôi yêu lính

Việt Nam Cộng Hoà hùng dũng, oai phong

Quên thân mình để bảo vệ non sông

Cho Miền Nam an bình và hạnh phúc

 

Ai dãi nắng dầm sương cùng trời đất

Lội bùn dơ khắp các nẻo hành quân

Dừng chân bên bờ suối thoáng bâng khâng

Đọc lá thư của người em hậu tuyến

 

Ai mộng mơ ngắm những chùm hoa biển

Dệt vần thơ nhung nhớ tặng người thương

Bọt sóng mênh mông làm bạn đêm trường

Tình non nước nặng theo từng hải lý

 

Ai hào hoa chiều Sài Gòn đẹp ý

Áo nhà binh vương gió bụi ven rừng

Mũ đỏ hiên ngang bước dạo phố phường

Hai bốn giờ phép của trai thời loạn

 

Ai bồng bềnh theo mây trời gió lộng

Cánh đại bàng vi vút giữa tầng cao

Đồi Pleime, Khe Sanh hay Hạ Lào

Phút hiểm nguy đồng đội chờ tiếp ứng

 

Ai miệt mài giữa bao mùa mưa nắng

Trấn giữ tiền đồn, thành thị, xóm thôn

Cho em thơ ngày hai buổi đến trường

Mái nhà reo vui tiếng cười của mẹ

 

Ai đã để lại một phần thân thể

Nơi rừng sâu hay dưới giao thông hào

Người thương binh trong nắng chiều xôn xao

Có cô hàng xóm thẹn thùng đôi má

 

Ai nằm xuống, trận giao tranh nghiệt ngã

Phút cuối cùng trời đau đớn lặng thinh

Tấm thẻ bài trên ngực anh buồn tênh

Chiếc nón sắt lạc loài bên đồi máu

 

Cờ Vàng ôm anh trở về nương náu

Nghĩa Trang Biên Hoà tìm giấc bình yên

Giải khăn sô trên mái tóc vợ hiền

Những đêm dài nhớ anh trong nước mắt

 

Ai bại tướng, nhưng trung kiên bất khuất

Không đầu hàng lùi bước trước Cộng quân

Tuẫn tiết, lưu danh tiếng thơm muôn năm

Vì” Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm”

 

Ai gian nan nơi rừng thiêng nước độc

Trong trại tù cay đắng nỗi oan khiên

Mệnh nước đổi thay, lòng người đảo điên

“ Kẻ thắng cuộc” gây hờn căm, tủi nhục

 

Ai lưu vong không quên ngày Quốc Hận

Nhắc cháu con nhớ nguồn cội quê hương

Để mai sau về đất Mẹ yêu thương

Lấy lại tên Sài Gòn xưa yêu mến

 

Cám ơn Anh, những chàng trai thời chiến

Từ Lam Sơn, Đồng Đế hay Quang Trung

Trả nợ máu xương, xứng kiếp kiêu hùng

Nên đừng hỏi vì sao tôi yêu Lính!

 

KIM LOAN

 NHẬT TRƯỜNG-TRẦN THIỆN THANH: YÊU LÍNH, LÍNH YÊU …

 

Sau 1975 gia đình tôi còn giữ lại được một số tờ nhạc rời của Phạm Duy, Trần Thiện Thanh và vài cassette tapes tiếng hát Thái Thanh, Nhật Trường. Bà chị Cả của tôi, chồng đi học “cải tạo”, chị tập tành học đờn guitare, tối tối đem bài nhạc Từ Đó Em Buồn của Trần Thiện Thanh ra gảy, tôi nằm kế bên cũng nẫu ruột theo. Nhưng tôi bắt đầu mê nhạc do chính Nhật Trường ca. Chỉ mười mấy tuổi đầu, tim tôi đã biết rung động vì giọng hát điệu đà, ngọt ngào đầy quyến rũ này từ các bài hát: Chuyện Tình Mộng Thường, Chuyến Đi Về Sáng, Hành Trang Giã Từ ….Nếu có cuộc bình chọn, tôi sẽ vote Nhật Trường là ca nhạc sĩ “điệu chảy nước” nhất của Miền Nam VNCH. Nhỏ bạn hay nói với tôi:

- Tao thấy nhà ngươi chỉ điệu vừa vừa mà sao toàn mê giọng hát “điệu hết cỡ” như Thái Thanh, Nhật Trường vậy cà ?!

- Thì luật bù trừ đó thôi!

Nói tới Trần Thiện Thanh-Nhật Trường, nói Yêu Lính-Lính Yêu vẫn chưa đủ, vì đúng là Nhật Trường yêu lính, vì đã từng là lính, còn lính yêu Nhật Trường là chuyện đương nhiên, nhưng còn có cả hàng triệu khán thính giả khắp nơi yêu Nhật Trường vì những bài hát của Ông.

Tôi sẽ không viết những điều ai cũng biết về Trần Thiện Thanh, chỉ xin kể lại những “kỷ niệm” của riêng tôi với chàng ca nhạc sĩ lắm tài nhiều tình này.

Nói “kỷ niệm” cho …oai chút thôi, chớ nếu ai ở dưới suối vàng hỏi Nhật Trường có biết tôi không thì sẽ có câu trả lời rằng " Ủa, con nhỏ này là ai ", bởi vì đây chỉ là “kỷ niệm” của riêng một mình tôi (sao giống …tình đơn phương quá !!)

Khoảng đầu thập niên 80s, các đoàn kịch nói Kim Cương (của kịch sĩ Kim Cương), đoàn Bông Hồng (của Thẩm Thuý Hằng), thỉnh thoảng về diễn gần nhà là tôi đi xem, có khi một vở xem vài lần. Trước giờ diễn kịch là phần ca nhạc ngắn gọn, bữa đó, tôi sung sướng đến bất ngờ vì có bài song ca “Con Kinh Ta Đào” do Nhật Trường và Kim Dung trình bày. Trời ơi, xưa nay chỉ được nhìn hình trên tờ giấy nhạc và nghe giọng ca mượt mà mỗi đêm, bây giờ mới được gặp chàng bằng xương bằng thịt, chỉ tiếc là khoảng cách quá xa, người trên sân khấu rực rỡ ánh đèn với tấm màn nhung, còn tôi dưới hàng ghế khán giả (hạng …cá kèo), có khác gì… nghìn trùng xa cách như mấy câu thơ của Lưu Trọng Lư:

Em ngồi bên song cửa /Anh đứng tựa tường hoa /Nhìn nhau mà lệ ứa/ Có nói cũng không cùng ...

Hình như anh chàng soát vé, lúc ấy cũng ngồi ở cuối rạp, gần chỗ tôi và cô bạn, hiểu được “nỗi lòng thầm kín” của tôi, bèn mách bảo:

- Chút nữa hết giờ ca nhạc là phần giải lao chờ xem kịch, mấy cô chạy ra cửa bên hông rạp, sẽ thấy mấy ca sĩ ra về, tha hồ mà xin chữ ký. Tui mở cửa cho, đừng lo!

Nhưng xui xẻo thay, mặc dù có sự hậu thuẫn đắc lực của anh soát vé, chúng tôi chạy thật nhanh ra cửa hông, chỉ còn vài ca sĩ cuối cùng bước ra, còn Nhật Trường đã đi về từ lâu.

Chuyện đến đó là hết, đi vào dĩ vãng theo đời bận rộn.

Vài năm sau, tôi trở thành thiếu nữ, trong một lần đi xem ca nhạc ngoài trời ở Câu Lạc Bộ Lao Động ngoài Sài Gòn, tôi lại được tái ngộ Nhật Trường khi chàng trên sân khấu solo bài hát “Cho Anh Xin Số Nhà”. Bài này đúng sở trường “điệu hết cỡ thợ mộc, lẳng lơ, lả lướt” của chàng, vừa nhún nhảy vừa nháy mắt cười duyên với khán giả. Cô bạn thân, người luôn tháp tùng tôi mọi nơi để đền đáp công ơn tôi luôn sẵn sàng theo nó đi xem bói mỗi khi nó thất tình, nói với tôi rằng:

- Vậy là mày …có duyên với “người ấy” rồi đó! Còn ngại gì mà không lên bày tỏ niềm thương nỗi nhớ, nhất là sau lần …hụt mấy năm trước?

- Mày cứ làm như tao sắp …tỏ tình với người trong mộng! Thôi, "người ấy" ....đáng tuổi chú tao.

- Tuổi tác nghĩa lý gì, tình không biên giới.

- Tao chỉ mến mộ tài năng, chứ chả dám cảm …người, mấy ông nhạc sĩ thi sĩ đa tình lắm, nhứt là ông này, chớ rước sầu khổ vào thân!

(Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình cũng nói được một câu …sáng suốt. Ngay như nhạc sĩ Lam Phương, ai cũng bảo chàng Miền Nam hiền lành, dễ thương, nhưng số “sát gái” thì đếm không xuể.)

Cô bạn lại sốt sắng:

- Nhà ngươi chờ đây, tao chạy đi kiếm cách để gặp ổng!

Nó chạy đi chưa thấy quay lại thì trên kia Nhật Trường đã kết thúc phần trình diễn bằng câu hát dẻo quẹo, nhưng đủ sắc “dao vết ngọt đâm” vào trái tim các nữ hâm mộ: “ Cho anh xin số nhà và cho anh biết tên đường, và …và …và …(ngừng lại đảo mắt một vòng khán giả để cho những trái tim đàn bà con gái dưới sân khấu trong đó có tôi ngất ngây...tan chảy, chàng mới.....quăng nốt câu cuối thật đắm đuối) …làm ơn cho anh... biết tên... em luôn”. Vừa hát vừa phăng, ỷ mình viết nhạc giỏi, hát hay, đẹp trai nên với tâm hồn nghệ sĩ, điệu đàng lơi lả là nghề của chàng!

Một lần nữa, chuyện cũng đi vào dĩ vãng, cho đến nhiều năm sau, khi tôi qua định cư ở Canada, rồi lần đầu tiên du lịch California. Tôi dành một buổi để đi đến nhà sách và các hàng bán băng nhạc. Hữu duyên thiên lý, trời xui đất khiến, tôi đến ngay một strip mall có một bảng hiệu đập vào mắt tôi: “Trung Tâm Băng Nhạc Nhật Trường”. Tôi liền bước vào, lại …sững sờ, vì trong tiệm "vắng tanh bà Đanh" chẳng có ai, ngoài ông chủ tiệm Nhật Trường và …tôi. Giây phút “chỉ có đôi ta” làm tôi thật sự bối rối, bao nhiêu cảm nghĩ của những lần trước, giờ bỗng tan biến, dù khoảng cách không còn “xa vời vợi” như trên sân khấu, mà chỉ ngăn cách bởi tủ kính đựng CDs, tôi vẫn không thể mở miệng nói nên lời. Lúc ấy chưa có iphone để tôi đỡ thừa thãi tay chân, xin chụp vài tấm “selfie” với chàng. Thật ra, chúng tôi có mang theo máy chụp hình nhưng chồng tôi đang giữ nó, lại đang ở tiệm cắt tóc cách đó một block đường! (Tôi vẫn chưa hỏi tội chồng tôi tại sao đi từ Canada qua Cali để …hớt tóc!). Thấy tôi lúng túng, Nhật Trường mỉm cười thân thiện, rồi châm điếu thuốc nhìn mông lung …ra ngoài cửa, chắc là để tôi tự do thoải mái chọn băng nhạc. Chu choa, nhìn chàng thả khói thuốc y như bài thơ của Hồ Dzếnh tôi xin sửa lại cho hợp cảnh của chúng tôi: “ Em cứ ngại, thôi em đừng …nói nhé/ Để một mình anh hút thuốc vu vơ/ Ngó trên tay điếu thuốc cứ vơi dần/ Anh khẽ bảo, gớm …sao mà lựa nhạc lâu thế!?”

Thế mà vẫn chưa có thêm người khách nào vào tiêm, uớc gì tôi là ...đại gia để mua hết cả quầy CDs . Tôi vội vàng quơ hai dĩa Tiếng Hát Nhật Trường, chẳng thốt được câu ái mộ nào cho đẹp lòng chàng. 

Vậy đó, ba lần “gặp gỡ” của những ngày son trẻ thật đẹp. Giá mà tôi giống như các “fan cuồng” khác, gặp thần tượng là rú lên, gọi tên, sấn tới ôm vai bá cổ xin chụp hình, bất chấp xung quanh, thì giờ đây cũng có một vài tấm hình kỷ niệm.

 

Tôi xin kết thúc bài viết bằng lời cám ơn đến hương hồn Ca Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh Nhật Trường, nhân ngày Quân Lực VNCH, đã để lại cho đời và lớp con cháu, những hình ảnh sống mãi của chiến sĩ VNCH: kiêu hùng, lãng mạn nhưng không bi luỵ qua các bài nhạc bất hủ: Anh Không Chết Đâu Anh, Rừng Lá Thấp, Biển Mặn, Tạ Từ Trong Đêm, Mùa Xuân Lá Khô …

Vâng, nếu Miền Nam không bị “giải phóng” thì có thể tôi đã là Người Yêu Của Lính nhưng chắc chắn không phải là của ...người lính Trần Thiện Thanh- Nhật Trường. 

Người tài hoa này chỉ là "chàng thơ"  trong mộng của tôi mà thôi.

 

Edmonton, Tháng 6/2021

KIM LOAN

KL_muamua.jpg

“ Về đây với những bước chân trìu mến,

Những bước chân êm trên phố phường quen,

Nếu mưa rơi sẽ mát lòng em…”

(Nhạc PD)

 

Tôi có nhiều kỷ niệm mưa với Quang.

Nhà tôi và nhà Quang sát vách nhau. Hai gia đình quen biết từ thuở mới di cư vào Nam, về ở xóm này, cùng làm ăn lập nghiệp, nhà tôi mở quán nước giải khát, nhà Quang bán bún riêu, thân nhau như người trong nhà.

Thời đó với chúng tôi, lũ trẻ con vùng ven đô, những cơn mưa mùa hè đồng nghĩa với những niềm vui, đơn sơ mà hạnh phúc. Cứ hễ trời gầm gừ, cả lũ lại réo nhau, chuẩn bị nhào ra ngoài khi những hạt mưa đầu tiên vừa chạm mặt đất. Quang luôn là người đầu tiên đến kéo tôi đi tắm mưa, có hôm tôi ngủ quên trên gác, Quang phải chạy lên đánh thức tôi dậy kẻo tôi lỡ…cuộc vui!

Trước khi đi tắm mưa khắp xóm, hai đứa tôi có nhiệm vụ mang mấy cái thau ra hứng nước mưa trước hiên nhà, đổ đầy thùng phi nước cho gia đình xài. Sau đó chúng tôi nhập bọn với mấy đứa khác, thỏa thích chơi dưới trời mưa, có khi chỉ là giành nhau đứng dưới một cái máng xối để cảm nhận những trận nước mát lạnh bao phủ toàn thân, hay nằm vẫy vùng dưới sàn xi măng bóng loáng của một sân nhà ai mà tưởng như đang bơi trong hồ nước thiên nhiên. Cho đến khi thấm lạnh mệt nhoài, chúng tôi mới chịu trở về, tắm rửa và trùm mền ấm áp chờ bữa cơm chiều. Hôm nào mưa to có sấm chớp, chúng tôi không được phép tắm mưa, tôi và Quang ngồi dưới mái hiên, buồn xo, nhìn bâng quơ nước mưa tuôn qua mái tôn xuống những thau chậu trước nhà. Rồi chúng tôi nghĩ ra trò chơi xếp những con thuyền giấy, thả xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy, thích thú reo hò xem thuyền của ai vững vàng hơn khi vượt qua sóng gió quanh co, và lúc nào cũng kết thúc bằng những trái bắp luộc nóng hổi mà má tôi hay má Quang mua được ngoài vườn hàng xóm.

Có một kỷ niệm với mưa mà sau này chúng tôi lớn lên, gặp nhau thường đem ra nhắc lại. Vào đầu hè năm ấy, chúng tôi vừa học xong lớp năm, cả nhóm được phép đi Sở Thú chơi. Đến chiều khi đón xe bus trở về thì bị lộn xe, đưa chúng tôi đến một vùng lạ hoắc,  chúng tôi ngơ ngác hỏi bác tài xế:

- Ủa, phải ngã năm Gò Vấp không vậy bác?

- Gò Vấp gò té gì ở đây! Chỗ này là Lăng Ông.

Chúng tôi mếu máo vì không còn đồng xu dính túi, những đồng bạc cuối cùng đã được xài ở Sở Thú trước khi ra bến xe. Cả đám đứng giữa đường, chưa biết phải làm gì thì trời kéo mây đen thui và ngay sau đó là những hạt mưa nặng chịch đổ xuống ào ào, chúng tôi vội tấp vào quán sửa xe đạp vỉa hè, cùng trú mưa với những người khác. Dù muốn dù không, khi mưa nhẹ bớt, chúng tôi phải đi bộ về nhà, đi tới đâu hỏi đường tới đó chứ không còn cách nào khác. Trời sẫm tối thật mau, mưa nhẹ hạt dần, mấy đứa đội mưa rảo bước trên đường, run như cầy sấy, răng đánh vào nhau cầm cập. Tôi bật khóc nức nở vì nhớ nhà, mấy đứa bạn xúm vào hỏi han, tôi càng khóc to hơn vì tủi thân, đến khi Quang dỗ dành thì tôi mới chịu…hết khóc. Quang cũng thường bênh vực che chở tôi trong các cuộc chơi trong xóm. Chơi trò bịt mắt bắt dê, tạt lon, nhảy dây, hễ tôi bị “đừ” lâu là Quang đòi tha cho tôi, Quang lớn tuổi hơn trong nhóm nên đứa nào cũng nghe lời, chơi lại từ đầu. Những buổi đi sinh hoạt đoàn đội, cắm trại hè, Quang luôn ở bên bảo vệ tôi khi cần thiết (kể cả những khi không cần thiết). Đôi lần, tôi ngắm Quang và ngây thơ thầm nghĩ:“ Mai mốt lớn lên, nếu không ai chịu lấy mình, thì mình ...cưới Quang cũng được chứ nhỉ!”

Lên cuối cấp hai, nhóm chúng tôi bắt đầu xa nhau. Một vài đứa nghỉ học lo mưu sinh giúp cha mẹ, tôi và Quang vẫn đi học nhưng khác trường. Gia đình tôi dọn vào căn nhà trong hẻm xóm trên, còn căn nhà mặt tiền kế bên nhà Quang chỉ để buôn bán. Vì thế, tôi ít có dịp về xóm cũ, những trò chơi tuổi thơ chỉ còn là kỷ niệm. Chúng tôi không còn gọi nhau mày tao, mà xưng tên, nghe cũng dễ thương. Thỉnh thoảng tôi có ghé qua quán nhà tôi buổi sáng để uống sữa đậu nành ăn gói xôi trước khi đi học, có gặp Quang hay bạn bè cũ, cũng chỉ kịp nhìn nhau cười, rồi thôi.

Một chiều chúa nhật, tôi rảnh rang đi tìm bạn xóm cũ, chẳng gặp đứa nào, nhưng may mắn còn có Quang đang ngồi trước cửa lặt rau muống phụ gia đình bán bún riêu. Tôi sà vào cùng nhặt rau, hai đứa hỏi thăm qua lại, nhắc vài chuyện “khi xưa ta bé” rồi bâng khuâng tiếc thời gian qua mau. Quang bỗng nhìn tôi, ánh mắt…dễ thương lạ lùng:

- Em thua anh hai tuổi, phải gọi bằng “anh” chứ!

Tôi mắc cở, không trả lời, nhưng cả buổi tối về nhà, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng nhẹ nhàng.

Lên cấp ba, chúng tôi càng xa nhau hơn. Tôi bận rộn với sách vở, môi trường mới, bạn bè mới, kỷ niệm với lũ bạn xóm cũ càng lùi dần vào dĩ vãng.

 

Khi tôi ra trường đi dạy, Quang đã học xong trường Cao Đẳng Kỹ Thuật, đi làm ở xưởng Don Bosco gần chợ Gò Vấp.  Một ngày đầu năm học, mưa đang cuối mùa, trời bỗng nổi cơn mưa như thác đổ ngay giờ tan trường, tôi và một ít học sinh phải nán lại, co ro trong lớp chờ cơn mưa tạnh. Bỗng có đứa học trò chạy từ ngoài cửa vào, hớn hở la lớn:

- Cô ơi! Cô ơi! Có…Thầy tới đón cô nè!

Báo “tin vui” xong, nó nhe răng cười rồi biến mất ngoài hành lang. Tôi nhìn ra cửa lớp, thấp thoáng trong tranh sáng tranh tối của gió mưa và những loạt sấm chớp từng hồi, là dáng cao dong dỏng của Quang với chiếc áo mưa màu ghi dài, mái tóc ướt nước, nụ cười bừng sáng và đôi mắt trìu mến. Tôi vui đến ngỡ ngàng, nhưng vẫn không quên quay qua đám học trò nghịch ngợm đang xúm lại cười rúc rích, nghiêm giọng ra oai:

- Chú này là bạn hàng xóm thân thiết của cô, không phải …Thầy, nghe chưa!?

Tôi bước đến, hỏi Quang:

- Ngọn gió nào đưa anh đến đây vậy?

Quang cười, nụ cười vẫn hiền như thuở xưa:

- Anh đi làm về ngang trường, thấy mấy lớp học còn sáng đèn, nên ghé vào.

Tôi hỏi cắc cớ:

- Vậy có mang áo mưa cho người ta mượn không đó?

Quang bối rối, phủi mấy hạt mưa trên áo:

- Anh chỉ có chiếc áo này thôi! Em mặc về nhà trước, trời sắp tối rồi!

Tôi lắc đầu:

- Trời! Ai nỡ lòng nào lấy áo của anh chớ! Nếu anh rảnh thì ngồi đây chơi với em và tụi nhỏ…

Quang cởi áo mưa, nhìn ra ngoài trời, những chiếc lá bàng rụng tả tơi trong sân trường lấp lánh dưới ánh đèn mờ, rồi ngân nga: “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa …”

Tôi nhắc:

- Bây giờ là tháng chín nghen anh!

- Thì bài hát tác giả viết sao, anh hát vậy mà …

Mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng lại, trời thì càng âm u, các em học sinh cũng đã được phụ huynh đến đón về, chỉ còn tôi và Quang đứng nơi hành lang lớp học. Quang đưa tay ra ngoài trời hứng mưa, rồi bước lại gần tôi, ngập ngừng:

- Thật ra, anh có ý định đến đây mời em đi uống cà phê và ăn hủ tíu ngoài chợ, em thấy sao?

- Dĩ nhiên là em không từ chối, nhưng trời tối thui và ướt át thế này, em xin hẹn lần sau. Giờ em chỉ muốn về nhà, ăn lẹ miếng cơm rồi lên giường nằm nghe nhạc, nghỉ ngơi.

- Thôi cũng được! Nào, em mặc áo mưa vào rồi cùng về.

- Thế còn anh?

- Mưa nhẹ rồi mà, anh ướt một tí cũng chả sao!

- Vậy thì em cũng chẳng cần áo mưa!

- Em biết cứng đầu từ khi nào thế? Hồi bé em ngoan hiền, có cãi lời anh bao giờ đâu?

- Chuyện này thì khác! (vả lại, em không …hiền đâu ạ!), em dứt khoát không thể mặc áo mưa trong khi anh phải chịu ướt. Mà nè, hai đứa mình cùng đi dưới mưa như hồi bé, ôn lại cảm giác xưa, cũng thú vị đấy.

Thế là chúng tôi đạp xe chầm chậm về nhà dưới làn mưa lất phất. Đêm ấy, tôi ngồi soạn giáo án mà còn thả hồn theo mưa gió bên ngoài, tưởng tượng vài vần thơ dự định sẽ khoe với Quang, có đoạn cuối …rất tình:

 

Chiều dần tàn, cơn mưa chưa dứt

Hai người, chỉ một áo mưa che

Nhường qua nhường lại, thôi cùng ướt

(Đêm về tôi cảm, người biết chưa?)

 

Chia tay, hẹn gặp nhau lần tới

Xóm nhỏ đỏng đảnh thật dễ thương

(Cũng giống như tôi- người thường nói)

Chỉ một cơn mưa làm vấn vương!!

 

Có ai ngờ đó là mùa mưa cuối cùng của chúng tôi, và bài thơ tôi viết còn mãi dang dở. Tuần lễ sau, Quang lên đường vượt biển. Thì ra, hôm ấy Quang đến mời tôi đi uống cà phê để tạm biệt, nhưng chỉ vì cơn mưa mà chúng tôi mất cơ hội nói lời giã từ. Quang đi hai tháng vẫn chưa có tin tức gì, gia đình Quang mỏi mòn chờ đợi, và tôi cũng lên đường.

Dù là đầu tháng mười hai, nhưng hình như là một cơ duyên với mưa, tàu của tôi gặp một cơn mưa bão bất ngờ chỉ sau hơn vài giờ ra khơi. Mưa biển thật dữ dội, điên cuồng và khủng khiếp. Máy thoát nước dưới hầm tàu bị hư, chúng tôi hứng chịu những đợt nước mưa lạnh buốt, trong tiếng sóng gào thét của biển cả và tiếng lòng cầu ơn Đấng cứu tinh. Rồi thì sau cơn mưa trời lại sáng, biển tàn bạo nhưng biển cũng bao dung, đưa chúng tôi đến bến bờ bình an, nhưng nỗi ám ảnh về cơn mưa trên biển làm tôi …sợ mưa!

Nhưng tôi chỉ sợ mưa biển, còn mùa mưa của chúng tôi vẫn luôn là một miền ký ức tươi đẹp, ngọt ngào. Dù biết đời bể dâu biến đổi, cảnh cũ người xưa chỉ còn trong trí nhớ, tôi vẫn cứ mơ một ngày (có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!), tôi được về lại xóm cũ, một chiều mưa (dĩ nhiên!), tôi sẽ thả những chiếc thuyền giấy xuống “dòng sông nhỏ” trước hiên nhà, cùng với đám bạn thuở ấu thơ, kể cho nhau nghe nỗi vấn vương những sợi mưa dệt đầy một trời thương nhớ.

Quang ơi, bây giờ anh ở đâu? Tháng sáu về rồi đấy, anh có lạy trời mưa?!

 

Edmonton Tháng 6/2021

KIM LOAN

 

____________

 

TL_phuongroad.JPG

 HÈNỖI NHỚ

Tôi muốn làm cánh gió
Bay về phố phường xưa
Một thời tôi ở đó
Buồn vui theo nắng mưa

Ngày tôi rời mái trường
Ra đời làm cô giáo
Bao kỷ niệm thân thương
Tôi vẫn còn nhớ mãi

Cô giáo tuổi đôi mươi
Mắt sáng với môi hồng
Sau những giờ lên lớp
Còn mơ chuyện viễn vông

Trời mưa làm cô khóc
Nắng vàng cô xuyến xao
Lá rơi bên cửa lớp
Đưa cô vào chiêm bao

Tiếng trống trường rộn rã
Hàng cây bàng nhẹ lay
Xôn xao bầy trò nhỏ
Tan trường tà áo bay

Anh chờ cô bên cổng
Chiếc xe đạp ngập ngừng
Từng vòng quay lặng lẽ
Anh giận cô lắm không ?

Chắc rồi anh đã hiểu
Cô giáo trẻ ngây thơ
Say mê trên bục giảng
Quên tình anh bơ vơ

Xuân sang rồi hè đến
Phượng rực rỡ mong chờ
Bao học trò rời bến
Cô lặng nhìn, ngẩn ngơ

Cô chờ anh trở lại
Mang mắt nhìn thiết tha
Cổng trường in nắng quái
Cô buồn, anh biết chưa?

Quạnh hiu con phố nhỏ
Anh đi rồi mới hay
Bụi cay đôi mắt đỏ
Trưa hè mây ngừng bay

Ôi một thời tươi trẻ
Giờ đã quá xa xôi
Bao nhiêu mùa phượng nở
Bao cuộc tình phai phôi

Sân trường và lớp học:
Mối tình đầu của tôi
Dẫu đi hết cuộc đời
Vẫn nhớ hoài, tình ơi!!


Edmonton, June 2021

KIM LOAN

____________________________

TL_memorialDay.jpg

GỬI NGƯỜI LÍNH MỸ

(Cho ngày Memorial Day Tháng Năm)

 

Sao anh lại đến quê hương tôi

Từ nửa vòng trái đất xa xôi?

Biết đâu cuộc chiến tàn khốc quá

Lý tưởng hay là mộng mơ thôi

 

Những lá thư anh gửi về nhà

New York, Utah, Alabama…

Có cả niềm vui và nỗi sợ

Cô đơn đêm vắng giữa rừng già

 

Mẹ Cha thương nhớ biết bao lần

Trông ngóng từng ngày dạ băn khoăn

Bản đồ Việt Nam treo bên cửa

Dõi theo từng bước anh hành quân

 

Những địa danh xa, bỗng thật gần:

Quảng Trị, Hạ Lào hay Khe Sanh…

Sài Gòn, Đà Nẵng anh nghỉ phép

Bên kia dâng Chúa những lời kinh

 

Noel về, người lính xôn xao

Nhớ cô bạn cùng lớp năm nao

Bên hố bom côn trùng thao thức

Mơ tuyết rơi, kỷ niệm ngọt ngào

 

Ôi những chàng trai tuổi đôi mươi

Tâm hồn phơi phới mùa xuân tươi

Vâng lệnh Tổ Quốc đi chiến đấu

Gìn giữ tự do cho muôn nơi

 

Vì sao anh đến với Miền Nam?

Phải đâu cùng máu đỏ da vàng?

Để yêu thêm nơi này tha thiết

Đồng ruộng bạt ngàn, phố thênh thang

 

Rồi đến một ngày anh ngã xuống

Có thể trong giây phút giao tranh

Hoặc vì bẫy mìn của Việt Cộng

Lìa đời khi mộng ước còn xanh

 

Và anh đã trở về quê hương

Trong chiếc quan tài ngày mù sương

Quốc kỳ phủ kín đầy kiêu hãnh

Quân nhạc hào hùng điệu tiếc thương

 

Đất Mẹ dịu dàng ôm xác anh

Những giọt nước mắt của người thân

Nhiều đồng đội vẫn còn tay súng

Ngày về rất gần hay xa xăm?

……………

 

Giờ nơi nghĩa trang, anh yên nghỉ

Arlington*, mùa thu lá vàng

VietNam War đã là quá khứ

Cám ơn anh, dẫu biết muộn màng

 

KIM LOAN

(Edmonton, Canada)

 

* Nghĩa trang quân đội Arlington, ở Virginia, Washington

____________________________

CANADA LÀ …DZẬY ĐÓ

 

Hồi ở trại tỵ nạn Thailand, khi đậu thanh lọc từ Sikiew lên Panat, tôi chỉ mong muốn được đi Mỹ đoàn tụ đại gia đình của tôi. Chờ gần cả năm trời, lên phỏng vấn, bị phái đoàn Mỹ cho rớt cái bịch. Sau đó, theo lời khuyên của gia đình, tôi xin đi Canada, dù sao cũng là hàng xóm thân thiết của Mỹ . Phải công nhận phái đoàn Canada thiệt…dễ thương, nhìn qua hồ sơ của tôi có đầy đủ gia đình bên Mỹ mà vẫn nhận tôi vào Canada, không gây khó dễ gì! Tôi xúc động, cảm khái, hỏi thiết tha tận đáy lòng: “Sao mấy ông tốt với tui vậy?”. Ông ấy nhìn tôi với nụ cười ấm áp, hiền hoà và nháy mắt đầy tự hào: “It’s Canada” mà tôi xin được tạm dịch theo lối văn chương bình dân là : “Canada là…dzậy đó!”

 

Qua đến Ottawa đúng mùa đông…bão bùng, tháng 12, cao điểm tuyết trắng rơi ào ào không kịp vuốt mặt. Mỗi ngày đón xe bus đến trường với vài lớp áo quần, mang giầy boots, mang bao tay, quấn khăn đầu, khăn quàng cổ, khăn che miệng, (như gái…Hồi Giáo), leo lên được xe bus, lại tháo bao tay, tháo khăn che miệng, tháo khăn quàng cổ, tháo mũ len trên đầu…để tìm tiền lẻ mua vé xe, bác tài xế không đủ kiên nhẫn chờ đợi, nên có vài lần cho đi…free! Riết rồi…thân với bác tài, thỉnh thoảng bác cho đi “free”, tôi cám ơn rối rít, bác chỉ xua tay độ lượng: “ Canada là…dzậy đó!”

 

Vào trường học, bắt đầu quen biết bạn bè Việt Nam và bạn bè bốn phương. Giờ giải lao, trước cổng trường có xe bán hàng dạo, đắt hàng nhất là món French Fries (khoai tây chiên) nóng hổi. Giữa cái lạnh giá rét, ngồi trên ghế đá, ngước mặt nhìn…trời, hứng từng bông tuyết mát rượi mà nhâm nhi fries thì quả là…trên cả tuyệt vời. Lần đó, ông thầy giáo trẻ dạy môn biology mà tôi hay nói chuyện, rủ tôi ra xe ăn trưa để giới thiệu với tôi một món ăn mới, rất đặc trưng của xứ Canada, là món Poutine (tức là khoai tây chiên giòn, trên đó rải một lớp cheese curds, rồi rưới lên gravy nóng hổi). Tôi la oai oái, vậy thì khoai hết giòn, ăn sao được! Ổng bảo tôi chớ có đỏng đảnh, cứ thử đi, rồi sẽ…mê, và tôi đã mê thiệt (hổng biết mê …Thầy hay mê poutine), nhưng vẫn ngoan cố, gọi đó là “món ăn kỳ quặc nhất trần đời”. Sau đó, ông thầy có nhiều dịp hóm hỉnh cười mỉm chi (cọp) mỗi khi bắt quả tang tôi xếp hàng mua Poutine và tiến đến, ghé vào tai tôi …chọc quê: “Canada là …dzậy đó!”

 

Khi gia đình tôi dọn từ Ottawa đến Edmonton (từ bờ Đông sang bờ Tây Canada), mang theo chiếc xe còn bảng số Ontario chưa kịp đổi. Một lần đi downtown, xong việc bước ra xe, tôi thấy trên cửa kính một mảnh giấy :“Bạn đã đậu xe sai chỗ quy định, nhưng chúng tôi không phạt, vì biết bạn là cư dân mới”. Đang bâng khuâng sung sướng, thì anh chàng cảnh sát cao to, oai phong như James Bond tiến tới, với nụ cười…toả nắng: “Thôi lái xe về đi, lần sau cẩn thận nhé. Welcome to Edmonton”! Tôi run rẩy lắp bắp, không nói nên lời dù chỉ là hai tiếng cám ơn thì anh ta quay đi, phớt tỉnh Ăng-lê, sau khi để lại một câu rất đỗi…ngọt ngào: “Canada là …dzậy đó!”

 

Cách đây ba năm, khi tôi phát hành cuốn sách Buồn Vui Đời Tỵ Nạn (dày 325 trang, nặng 300 gram), mang đến bưu điện gửi đi các “khách hàng” khắp nơi. Giá gửi 1 cuốn qua Mỹ là $12, và giá gửi 1 cuốn trong Canada là…$14! Tôi bèn thắc mắc, hỏi nhân viên bưu điện là tại sao lại có chuyện ngược đời, khi mà gửi trong nước lại đắt hơn gửi qua Mỹ. Cô nàng nhìn tôi như người hành tinh khác mới rớt xuống, nhún vai lắc đầu, phán một câu xanh rờn: “Canada là…dzậy đó”.

 

Cái câu cuối này, tôi không hài lòng à nha! Đến giờ cũng chưa tìm được câu trả lời thoả đáng! Nhưng mà thôi, chỉ là chuyện nhỏ, bỏ qua đi Tám, “Canada là…dzậy đoá”!!!

 

KIM LOAN

(Edmonton, Canada)

_________________________

TL_MeCon.jpg

MẸ VỀ TRONG MƠ

Con biết rằng Mẹ vẫn trở về thăm
Đứa con gái yêu thương và bé bỏng
Phận mồ côi lúc tuổi đời hoa mộng
Tóc còn xanh nhưng đôi mắt chớm sầu

Để những khi tỉnh dậy giữa đêm thâu
Nỗi trống vắng chưa quen, len lén đến
Hình bóng Mẹ yêu vẫn còn quyến luyến
Cho con đi vào lại giấc nồng say

Vì Mẹ biết con yếu đuối, thơ ngây
Giông bão cuộc đời còn ở phía trước
Rồi mai đây ai đi theo từng bước
Khuyên nhủ bảo ban, dạy con lớn khôn?

Vì Mẹ biết con sẽ rất cô đơn
Ngày hè khô khan hay đêm đông lạnh
Nước mắt tủi thân trời chiều hiu quạnh
Thổn thức cõi lòng đón gió Thu sang

Nên Mẹ vẫn về âu yếm, dịu dàng
Âm thầm ru con giấc ngủ dịu êm
Sưởi hồn con, nếu mưa rơi mái hiên
Hôn lên tóc giữa những cơn mộng mị

Dẫu buồn dẫu vui, chẳng cần lo sợ
Con vẫn cười khi hạnh phúc trong tay
Hay khi khổ đau, thất vọng dâng đầy
Vì có Mẹ, nên con thoả thuê khóc

Đã nhiều năm rồi, âm dương xa cách
Là biết bao lần Mẹ đã về thăm
Nơi chốn hẹn hò xoá hết băn khoăn
Con nương tựa khi sóng đời xô ngã

Và từ đó, con trưởng thành mạnh mẽ
Ngày từng ngày, theo năm tháng đi qua
Khắc ghi lòng, tình mẫu tử bao la
Mẹ cho con, suốt đời và mãi mãi


KIM LOAN
(Edmonton, Canada)


 

CÂU CHUYỆN NƯỚC MỸ CỦA ANH TÔI

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gia đình tôi có tám anh chị em, anh Hai tôi là con trai lớn, sau bà chị Cả. Trước năm 1975, ba tôi làm Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, má tôi mở quán cà phê giải khát tại nhà, đối diện khu Lục Quân Công Xưởng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.

Anh Hai, là con trai trưởng, đã sớm ý thức việc học hành để làm gương cho lũ em nhỏ, hầu sau này tiến thân, không phải vất vả. Anh học rất giỏi, vì yêu thích Y Khoa, anh vào học Khoa Học Sài Gòn. Nhưng vì Mùa Hè Đỏ Lửa tổng động viên năm 1972 anh phải từ bỏ giấc mộng Bác Sỹ, vào trường Sư Phạm. Miền Nam bị cưỡng chiếm, đưa biết bao người vào bước ngoặt mới của cuộc đời, trong đó có gia đình tôi. Má tôi mất sau đó một tháng, ba đi tù “cải tạo” về chưa có việc làm, mọi việc trong nhà đều đặt nặng trên vai bà chị Cả và anh Hai vì lũ chúng tôi còn trong lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới.

Lúc đó anh đang dạy học ngoài Cần Thơ, nhưng là thủ lĩnh tinh thần của cả nhà. Một vài tuần anh bắt xe về thăm nhà, dặn dò mọi điều, rồi trở về Cần Thơ. Anh cũng là người cương quyết không cho gia đình nghe lời dụ dỗ và ép uổng của chính quyền đi kinh tế mới. Và cũng chính anh, là người nhen nhóm trong nhà tôi hai chữ “vượt biên”, vì như theo lời anh nói, “không thể sống chung với cộng sản”.

Lần đó anh về thăm nhà như thường lệ, rồi họp cả gia đình, báo tin buồn, anh bị “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” theo chỉ tiêu của nhà trường để đáp ứng nhu cầu gửi quân qua biên giới Campuchia. Bà chị Cả khóc lóc, ba tôi rầu rĩ, mấy anh em khác thì lặng im che dấu nỗi buồn, nhưng anh Hai tôi mỉm cười cho mọi người lên tinh thần. Sau đó anh nói:
- Đây chính là cơ hội để con tìm đường đi bộ qua biên giới, vào Thailand tỵ nạn, xin mọi người bình tâm mà cầu nguyện cho đầu xuôi đuôi lọt.

Nói rồi anh lấy trong túi xách ra tấm bản đồ biên giới Campuchia-Thailand mua ngoài chợ trời. Tấm bản đồ bằng Tiếng Anh, nhưng với vốn liếng mấy năm học ở Hội Việt Mỹ trước năm 1975, và giáo viên dạy Anh Văn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, thì tờ bản đồ anh xem không khó gì. Anh vẽ chi chít và ghi chú cẩn thận trên bản đồ, và chỉ cho mọi người xem dự tính của anh, sẽ đào ngũ, đi qua Siêm Riệp, rồi từ đó theo đường mòn biên giới vào Thái. Nghe anh nói ngon ơ, nhưng ai cũng biết là biết bao hiểm nguy chờ đợi. Bọn Khmer Đỏ còn rình rập giết chóc, đường rừng ngập các bãi mìn, chưa kể là lính đào ngũ còn bị quân đội Việt Nam tìm bắt ráo riết, chạy đâu cho thoát.

Cả nhà ngày đêm cầu nguyện, lắng lo thì bỗng ba tuần sau anh về nhà, báo tin vui, vì nhà trường cần những giáo viên giỏi như anh, nên đã xin đặc biệt cho vài giáo viên được tạm hoãn thi hành “nghĩa vụ quân sự”.
Sau lần đó, anh vẫn kiên quyết tìm đường vượt biển, nên mùa hè năm tới anh ra khơi, và xui xẻo thay, cả nhóm bị bắt khi đang chờ tàu lớn, rồi bị giam lại Long Đất chín tháng trời. Khi ra tù, anh mất việc, mất cả hộ khẩu nên tìm về Sài Gòn, ở nhà “ ăn không ngồi rồi” đợi chờ cơ hội tiếp theo. Trong thời gian này, anh lại đi tìm ngoài chợ trời mua sách của Hải Quân VNCH, và la bàn đi biển để học cách làm hoa tiêu. Anh vào thư viện tìm thêm tài liệu, lục lọi các tiệm sách cũ…và rồi cuối cùng, nhờ bạn bè giới thiệu với một chủ tàu, anh được mời đi vượt biên miễn phí với tư cách là hoa tiêu. Họ còn cho anh dẫn theo một người, mà trong gia đình tôi lúc đó, tôi là “ứng cử viên” sáng giá nhất cho chuyến đi vì tuổi mới lớn, vừa bước vào trung học, có cơ hội học tiếp khi qua Mỹ.

Anh đã trằn trọc mấy đêm liền, không biết có nên mang tôi theo hay không. Vì lúc đó thời tiết bị ảnh hưởng bão nên mưa gió, ngoài biển đâu phải lúc nào cũng êm ả. Mà chuyện đi vượt biên thì đầy may rủi, “con nuôi má” thì ít, mà “con nuôi cá” và “má nuôi con” cũng chẳng hiếm, chưa kể nạn cướp biển đang hoành hành. Xóm tôi cũng đã có mấy gia đình cho con cái đi mà chẳng bao giờ đến nơi, cũng không trở về nhà.
Đêm cuối cùng trước khi ra biển, anh thao thức đến khi trời gần sáng. Không ngủ được, anh ra ngoài phòng khách tìm nước uống. Lúc đi ngang qua chiếc giường thấy tôi đang ngủ say, bên cạnh là chiếc bàn học của tôi sách vở xếp gọn gàng với chiếc cặp táp chuẩn bị đến trường ngày mai. Thế là anh quyết định dứt khoát, anh sẽ ra đi một mình, để tôi được tiếp tục những ngày tươi đẹp hồn nhiên của tuổi học trò. Vì anh là “mạng cùi”, không còn gì để mất, còn tôi là “mạng vàng”, mới lớn ngây thơ, anh không dám mang ra biển cả gian nguy trăm bề.

Trời không phụ lòng người, chuyến đi may mắn thành công, cập bến Bidong, Malaysia dù anh mới lần đầu làm hoa tiêu. Thuyền vừa vào bờ đất Mã, mọi người sung sướng lạy trời lạy đất cảm tạ, còn anh thì thẫn thờ xót xa khi để tôi ở lại nhà. Suốt thời gian ở trại, mỗi lần ra cầu Jetty đón người mới đến, hay khi đứng trên lớp dạy Tiếng Anh cho đồng bào tỵ nạn, anh vẫn chưa nguôi nỗi day dứt đó. Vì vậy, anh quyết tâm bằng mọi giá, sẽ bảo lãnh toàn bộ gia đình qua Mỹ trong thời gian sớm nhất.

Từ trại tỵ nạn, anh đến định cư tại thành phố Wichita, Kansas là bắt đầu tìm hiểu chuyện học đại học. Giấc mơ Y Khoa năm nào chợt bừng sống lại, nhưng ở độ tuổi ngót nghét ba mươi, chương trình học Y vừa dài vừa tốn kém. Vì mục tiêu lớn hơn là cứu gia đình còn kẹt lại Việt Nam, một lần nữa, anh phải từ bỏ ước mơ của mình, vào học ngành Engineer. Anh vừa đi học vừa đi làm cuối tuần để một vài tháng “tiếp tế” cho gia đình một thùng quà giá trị. Hàng xóm chung quanh hay nói với tôi:
- Nhà người ta có con gái qua Mỹ gửi đồ về là hãnh diện lắm, vì con gái biết thu vén tối đa cho gia đình. Còn nhà cô, chỉ cần một ông anh thôi cũng bằng hai, ba cô con gái nhà người ta cộng lại.

Nhờ thông minh, siêng năng cần cù, dù vừa học vừa đi làm, anh tốt nghiệp Electrical Engineer với điểm xuất sắc (Cum Laude), được chọn ghi tên vào cuốn sách Who’s Who Among Students in American Universities. Vừa ra trường, anh đầu quân cho hãng Boeing, sau làm cho Kelly Air Force Base ở San Antonio, Texas. Khi Base này đóng cửa anh chuyển qua Tinker Air Force Base ở Oklahoma, rồi lại qua Defense Contract Management Agency (DCMA) under U.S. Department of Defense tai Dallas, Texas cho đến ngày nay.
Ngay khi vừa vào đại học, anh đã bắt tay vào việc bảo lãnh gia đình. Trong khi nhiều người bạn học khác chỉ lo học hoặc đi làm, chưa thấy được tầm quan trọng của việc bảo lãnh thân nhân, thì anh đã xúc tiến từng bước thủ tục. Anh tự tìm hiểu qua phone hoặc trên giấy tờ (thuở ấy chưa có internet để lên mạng dễ dàng như ngày nay). Không cần đến văn phòng luật sư, anh sử dụng khả năng English rất kiên nhẫn, tự tin, theo dõi cập nhật hồ sơ một cách khoa học, đúng trình tự.
Cuối năm 1989, vì nôn nóng không thể đợi giấy tờ bảo lãnh hiệu lực, gia đình đã cho tôi đi vượt biên, và tôi đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand. Nghe tin tôi đến trại, anh mừng rỡ vô cùng. Mỗi tháng anh gửi tiền chu cấp đều đặn. Khi những người xung quanh tôi, cũng có thân nhân nước ngoài, người thì nhận tiền nhỏ giọt, người thì tháng có tháng không, còn tôi thì cứ tuần đầu tháng là có thư, vì cứ mỗi ngày mồng một của tháng, anh hoặc vợ anh (lúc ấy anh mới lập gia đình) đi gửi tiền, suốt bốn năm như thế, chưa trễ một lần nào.


Đặc biệt, lúc đó, anh tôi còn “nổi tiếng” trong trại, ít nhất là khu tôi ở, vì sự chăm lo “có một không hai” dành cho cô em gái. Sợ tôi bị rớt thanh lọc, anh bảo tôi cứ bình tĩnh để anh tìm cách, chứ dứt khoát không để tôi phải quay về Việt Nam. Anh nghĩ ra cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ giùm tôi, với ước mong sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc. Nên mới có chuyện một buổi sáng kia, cả dòng người xếp hàng chờ thư bên bưu điện xôn xao vì tôi có hơn 20 lá thư trên list, mà toàn là từ Mỹ và tên người gửi cũng là tên Mỹ. Nhưng rồi giải pháp đó cũng chẳng có kết quả gì.


Còn nữa, sợ viết trong thư không thể nói hết về nước Mỹ để tôi mở mang kiến thức, anh còn ngồi thâu băng cassette, kể chuyện nước Mỹ cho tôi nghe. Kể về thành phố Wichita thời sinh viên của anh, về thành phố San Antonio nơi gia đình anh đang sinh sống, về các trường đại học, về cuộc sống người Việt và người Mỹ, về mọi thứ trên đất Mỹ. Đêm đêm tôi mở cuộn băng “Nước Mỹ” cho cả lô nhà cùng nghe (bằng cái máy cassette nho nhỏ chạy bằng “pin” ). Mọi người nằm nghe say mê, rồi đi vào giấc mộng mơ màng với nước Mỹ bên kia bờ đại dương. Một hôm, có người tìm đến căn nhà tỵ nạn tôi, hỏi lớn:
- Cô Loan ơi, cho tôi mượn cái băng cassette.
- Băng ca sỹ Ngọc Lan hả anh? (Vì chị dâu tôi cũng hay gửi băng nhạc cho tôi nghe, bà con xung quanh cũng hay qua mượn)
- Khồng…ồng …!! Tui muốn cái băng “Nước Mỹ” mà anh cô kể chuyện hấp dẫn đó.

Tôi đâu ngờ sự “nổi tiếng” của anh tôi đã vượt ra khỏi lô nhà tôi đang ở, mà lan truyền qua cả những lô khác. Cho người đó mượn băng “Nước Mỹ” hơn hai tuần chưa thấy trả lại, tôi đến tìm, họ xin lỗi rồi khai thiệt là đã chuyền tay cho người này, người nọ cùng nghe. Cuối cùng, tôi tìm được nhà chú kia, người thứ bao nhiêu sau khi chuyền tay cũng chẳng nhớ. Chú ấy phân trần:
- Chẳng dấu gì cô, tui cũng có thằng con bên Mỹ. Tiền viện trợ nó gửi còn thưa thớt, tháng nhớ tháng quên, chớ đừng nói gì đến chuyện kể về nước Mỹ cho tui nghe.
- Dạ, vậy bây giờ chú nghe băng “Nước Mỹ” xong chưa, cho con xin về cho người khác mượn.
- Cô để thủng thẳng tui nói hết đã chứ. Tuần sau cô quay lại lấy được không, vì tôi đem cuốn băng đó ra tiệm nhờ sang ra hai ba cuốn, mà họ làm chưa xong!
- Úi trời, chú sang ra hai ba cuốn làm gì?
- Thì để cho bà con chung trại cùng nghe, và một cuộn tôi sẽ gửi về Việt Nam cho vợ con tui biết về nước Mỹ, cô thông cảm nha!

Nhờ may mắn, có thêm sự “cố vấn” của anh, tôi đã vượt qua cửa ải thanh lọc, nhưng “phúc bất trùng lai”, tôi bị phái đoàn Mỹ từ chối tại cuộc phỏng vấn, và theo lời khuyên của anh, tôi xin định cư bên Canada. Vừa qua Canada chưa kịp nóng chỗ, anh đã lên ngay chương trình “giải cứu” tôi qua Mỹ, nhưng “người tính không bằng trời tính”, tôi có nợ có duyên với xứ lạnh tình nồng cho đến nay.


Trong thời gian bốn năm tôi bị kẹt bên trại, gia đình tôi bên Việt Nam lần lượt đi qua Mỹ theo diện ODP bảo lãnh của anh tôi. Vậy là anh đã thoả mãn ước mong, không còn một thân nhân ruột thịt nào còn lại với chế độ Cộng Sản. Mấy người bạn cũ thời đại học Wichita của anh, có người lận đận mãi mới đưa được người nhà qua đây, thậm chí có người vẫn còn cha mẹ bên quê nhà, chỉ vì hồi đó chủ quan và…làm biếng! Họ nói với anh:
- Tụi tôi phục ông sát đất! Không tốn một đồng xu nào cho luật sư mà đưa được cả gia đình, bố và anh chị em qua đây đầy đủ. Hồi đó tụi tôi không chịu nghe lời khuyên của ông, giờ hối hận thì đã muộn!!

Là người đi trước, anh hướng dẫn, chỉ bảo kinh nghiệm cho các anh chị em trong nhà những bước đầu hội nhập trên xứ Mỹ. Tới đám con, cháu, thế hệ thứ hai, anh luôn khuyến khích hướng tới các ngành đại học sáng giá, dễ kiếm việc, nhất là Y Khoa, mà anh đã phải từ bỏ.


Anh là cuốn “Từ Điển Bách Khoa” của đại gia đình tôi với trí nhớ dẻo dai, hiểu biết rộng và chính xác. Mỗi lần qua Mỹ, tôi say sưa ngồi nghe anh nói chuyện hàng giờ mà vẫn chưa đủ. Tên quốc tịch của anh là David, và tôi hay gọi một cách thân thương là “anh Dave thông thái của chúng ta”. Riêng kiến thức về nước Mỹ thì anh có thể nói không cạn đề tài. Ngoài lãnh vực chuyên môn nghề nghiệp, còn có chuyện chính trị, xã hội, y tế …vì anh là một công dân Mỹ gương mẫu, yêu nước Mỹ và tự hào về nước Mỹ. Các gia đình anh chị em chúng tôi (kể cả tôi bên Canada) đều treo tấm bản đồ nước Mỹ trong nhà, là món quà đầu tiên anh tặng cho mỗi gia đình.


Cứ ngỡ anh đã an phận vì “giấc mơ Mỹ Quốc” của gia đình đã trọn vẹn, nhưng anh vẫn quan tâm giúp đỡ những người quen khác còn ở Việt Nam. Hàng năm vào dịp Tết, anh đều đặn gửi tiền cho vài người hàng xóm vẫn còn lao đao nghèo khó. Chị Nga Sún bán khoai luộc đầu xóm mỗi lần nhận tiền đều cười vui vẻ, khoe:
- Ôi, hồi đó mỗi lần ảnh từ Cần Thơ về xóm là chiều chiều đi ngang qua nhà tui. Thằng con tui thấy ảnh về là mang bài tập qua hỏi thầy giáo liền á!
Bác Sương kế bên nhà tôi từng tâm sự:
- Nói thiệt, hồi đó tui chỉ mong cậu ấy ngắm nghía con gái tui là tui bắt về làm rể. Ai ngờ, cậu ấy ôm mộng vượt biên!
Riêng tôi còn nhớ chị Quỳnh Giao, xinh đẹp thuỳ mị nhất nhì trong xóm, có lần đến thăm anh khi anh mới về thăm nhà. Hai người ngồi ngay phòng khách nói chuyện tới khuya. Chiếc giường ngủ của tôi kế bên đó, tôi nghe được những câu dịu dàng chị đã trách móc anh tôi:
- Lần nào anh về cũng không có thời giờ qua nhà thăm em sao? Em chờ hoài chẳng thấy nên đành phải…xuống nước qua đây tìm anh đó, anh hiểu không?
Hình như anh có cười xin lỗi, và chắc sau này chị ấy đã hiểu, anh phải gạt bỏ chuyện tình yêu để ưu tiên cho chuyện vượt biên, tìm tương lai tươi sáng và lo cho gia đình.

Với những học trò trường Phan Thanh Giản xưa và những họ hàng xa ngoài miền Bắc, anh làm theo phương châm “giúp họ câu cá tốt hơn là cho họ cá”, vì quà cáp cho họ anh cũng vẫn làm, nhưng biết bao giờ mới đủ? Ai đang độ tuổi kết hôn, hoặc đã dang dở hôn nhân, nếu có ước muốn, anh đều giúp bước đầu bằng cách đăng mục Tìm Bạn Bốn Phương của Mỹ (kiểu này nhanh hơn Tìm Bạn Bốn Phương với Việt Kiều). Sau đó tuỳ theo duyên phận của từng người, mà kết quả đã có vài mối lương duyên Việt-Mỹ, đang có happy ending trên đất Cờ Hoa.

Mới đây trong lần Family Reunion bên Texas nhân dịp đám cưới đứa cháu, tôi hỏi đùa anh:
- Giờ anh có còn muốn đưa ai qua Mỹ nữa không nà?
Anh cười lớn:
- Nếu được, anh ước gì mang toàn dân Việt Nam qua đây, cho họ nếm mùi “tư bản rẫy chết” của Mỹ, nhưng coi bộ khó quá. Thôi thì chỉ cầu mong cho quê hương mau dẹp tan cái đảng Cộng Sản ăn hại, cho người dân được nhờ.

Edmonton, Tháng 3.2020

KIM LOAN

 

_______________________
 

KL_KLThang.JPG
KimLoan_doikhongnhulaten.JPG

Đời không như là… tên

Kim Loan _______________________________

 

Người Việt mình, khi đặt tên cho con cái, thường chọn tên có ý nghĩa hoặc gửi gắm theo tình yêu thương với niềm mơ ước, nhưng cũng lắm khi…. “đời không như là tên”.

Hồi đó, cách nhà tôi vài căn, có chị Nguyễn Thị Ngọc Ngà. Lẽ ra, là “ngọc ngà châu báu” phải được nâng niu, quý hoá, nhưng chị thì ngược lại, chồng say xỉn thường xuyên rồi lên cơn, đem “ngọc ngà” ra… tra tấn, thượng cẳng tay hạ cẳng chân và cả bằng đòn gánh. Hàng xóm trong đó có anh rể tôi phải xông vào giải cứu chị. Nghe nói hiện nay chồng chết, chị thoát được chồng, nhưng tiếp tục khổ vì con, vì cháu!

Cùng ngõ là nhà Bác Cả goá phụ với hai người con, là chị Vui và thằng Sướng. Chị Vui cả ngày tất bật lam lũ phụ bác Cả bán buôn lặt vặt với cuộc sống giật gấu vá vai, người lúc nào cũng đầu bù tóc rối. Còn thằng Sướng chẳng hiểu buồn khổ gì mà vào một ngày trời âm u, nó đã thắt cổ tự vẫn, tìm về thế giới bên kia, để lại cho Bác Cả và chị “Vui” nỗi đau giằng xé tâm can.

Ngược ra xóm chợ, nhà bà Tám Sương Sa, tôi học chung với hai đứa con bác ấy, thằng Sang con Giàu. Mà nào có sang có giàu gì đâu, thau sương sa của bà Tám chỉ đủ cơm cháo qua ngày, lắm khi đi học chúng không có củ khoai mì ăn sáng.

 

Lúc tôi vào lớp Sáu, mới “giải phóng” được vài năm, trường chúng tôi đón nhận một số học sinh miền Bắc theo cha mẹ vào Nam rất sớm. Mấy đứa con gái trong nhóm đó có tên cũng bình thường, nhưng mấy thằng con trai thì tên khá đặc biệt, nghe là biết ngay lý lịch xuất xứ, khỏi cần suy nghĩ. Trong khối lớp tôi, có hai anh em sanh đôi, Nguyễn Văn Thống Nhất và Nguyễn Văn Hữu Nghị. Thống Nhất là anh, có vẻ hiền lành, hắn muốn la cà kết thân với chúng tôi như cái tên của hắn. Nhưng khổ nỗi, lũ chúng tôi tuy còn bé nhưng đã biết ảnh hưởng từ gia đình chòm xóm, trước cảnh chia lìa tù “cải tạo”, kinh tế mới, cảm nhận tiếng thở dài của cha mẹ trong cuộc đổi đời, nên chúng tôi rất… phản động, dứt khoát tránh xa đám “bên kia”, không chơi với hắn, không cho hắn “thống nhất” chúng tôi. Còn thằng em tên Hữu Nghị thì ngược lại, không hề “hữu nghị” tí chút nào, hắn luôn luôn hùng hổ gây sự với chúng tôi mỗi khi có chuyện tranh cãi (có lẽ hắn hiểu được nguyên nhân sự e dè lạnh lùng của đám Miền Nam chăng?).

Tuy nhiên, chung lớp tôi có một đứa khá dễ thương. Hắn nói giọng nửa Nam nửa Bắc, vì cha mẹ hắn là dân tập kết. Hắn tên Lê Anh Nuôi, bản tính vui vẻ hoà đồng. Tôi hỏi:

– Thà ông mang tên như anh em thằng Thống Nhất Hữu Nghị, hoặc đại loại như Quyết Thắng, Bất Khuất, Kiên Cường… tôi còn dễ hiểu. Còn Anh Nuôi là cái gì thế?!

Hắn cười vang:

– Bà đúng là… nhà quê! Hồi ba tui ở trong bưng, ba tui nấu ăn cho đồng đội, gọi là “anh nuôi”, nên má tui đặt tên này cho tui làm kỷ niệm đó! Mà nè, bà nên gọi tui là…anh nhé, vì tui hơn bà một tuổi, và tên tôi là…Anh Nuôi.

Tôi chu mỏ:

– Còn khuya! Ông về rừng mà nghe người ta gọi là anh, còn tui nhà quê đâu dám!

Nhưng đặc biệt trong nhóm đó, có một cái tên mà tôi nhớ mãi cả tên lẫn… người! Hắn trắng trẻo, dáng thư sinh con nhà giàu (tôi đoán ba má hắn phải thuộc hàng tiểu thư công tử trí thức Hà Nội, vượt Trường Sơn vào Nam với chức vụ cao chót vót, nên được ở nhà ngay khu sĩ quan trong khu Quân Cụ mà trước đây chỉ dành cho những gia đình sĩ quan quân đội VNCH). Hắn có đôi mắt đẹp, cái miệng duyên với môi dưới hơi trề rất hấp dẫn, tổng thể là một khuôn mặt đẹp trai, và cái tên của hắn càng hấp dẫn hơn: Mai Kiêu Hùng!

Ðược cái, hắn thờ ơ chuyện xung quanh trường lớp, không quan tâm chúng tôi chia phe “Nam-Bắc” cãi nhau chí choé, không thân thiện mà cũng không xích mích với ai. Chẳng biết sau này lớn lên hắn có “kiêu hùng” với lý lịch nhà hắn, với vẻ đẹp trai của hắn hay không, chớ lúc đó hắn rất vô tư, một vài lần đụng mặt tôi ở trường, hắn mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt bối rối, có thấy “kiêu hùng” gì đâu, khiến tim tôi… tan chảy và mủi lòng thương (quên cả chuyện giai cấp). Cũng may là sau năm học đó gia đình hắn chuyển đi nơi khác, chớ nếu hắn còn học tiếp với tôi, biết đâu tôi lại…cảm cái nét đẹp khi bối rối của hắn, rồi sẽ ra sao khi lập trường “hai đứa hai khung trời khác biệt”, liệu gia đình tôi bị chính quyền mới xếp hạng là “nguỵ quân nguỵ quyền” có chấp nhận hắn không, căng lắm chớ chẳng chơi! (Ủa, mà biết hắn có… cảm tôi không mà lo xa chi cho mệt!!!).

o O o

Vui nhất là khi vào học trường Sư Phạm, có một anh chàng trong ban văn nghệ, thỉnh thoảng ôm cây đàn guitar ngồi dưới gốc phượng trong sân trường đàn hát, bạn bè vây quanh ngưỡng mộ, nhất là mấy nường nữ sinh. Tên của hắn cũng rất ư đặc biệt, khó có một người thứ hai trùng tên: Mai Cúc Trường Sơn.

Tôi bĩu môi, nói với nhỏ bạn:

– Gì chớ, nghe hai chữ Trường Sơn là tao…dị ứng từ bài hát “cùng mắc võng trên rừng…” á!!

Nhỏ bạn nguýt tôi:

– Úi dào, “ếch ngồi đáy giếng” tội chưa! Bà tưởng Trường Sơn là của riêng mấy ổng bên kia sao? Nói cho bà dỏng tai lên nghe rõ nè: hắn là con trai của sĩ quan VNCH đang ở trong trại “cải tạo” chưa về, còn má của hắn là người nổi tiếng, bà muốn biết là ai không?

Tôi hơi bị quê, liền đổi giọng tươi tỉnh làm huề:

– Là ai thì bà nói luôn đi, còn úp úp mở mở chi nữa?

– Là cô Hồng Vân, người ca sĩ có tài ngâm thơ, mới đây hát các bài hát được công chúng mê mẩn: “Người Ði Xây Hồ Kẻ Gỗ”, “Có Anh Ba Hưng”…

– Bà nói ca sĩ Hồng Vân ngâm thơ là tui biết rồi, khỏi cần dài dòng. Té ra, hắn là phe ta?!

Lần này thì nhỏ bạn vênh mặt lên:

– Ừa, hắn học chung với tui hồi cấp ba đó, giờ có muốn làm quen với chàng không nà, tui bắc cầu cho!

– Quỷ sứ! Mà tao chịu… cái tên lắm nha. Tao mà lấy hắn, sanh con tha hồ đặt tên, Mai Cúc Mùa Xuân, Mai Cúc Thắm Tươi …

o O o

Sau này ra đời đi làm, rồi qua trại tỵ nạn, tôi còn biết thêm nhiều cái tên “ấn tượng” rổn rảng: Phạm Thông Thái, Trần Triệu Phú, Phan Huy Hoàng, Cao Uy Tín, Huỳnh Thiên Tài, Ðỗ Thủ Khoa, Nguyễn Như Ý…mà có mấy ai được “đời giống như tên”?

Và… tôi nữa, má muốn đặt tên tôi là Kim Thoa cùng vần Th với anh chị em trong nhà, nhưng khi ba lên xã làm khai sanh, lúc ấy ca sĩ Kim Loan đang nổi với “Căn Nhà Ngoại Ô” nên ông nhân viên hộ tịch mơ mộng đã ghi lộn tên tôi thành Kim Loan. Mang tên của một ca sĩ nổi tiếng nhưng kết quả thế nào thì mọi người biết rồi đấy: “tôi ca không hay, tôi đàn nghe cũng dở”.

Qua đến Canada thì tên “Loan” của tôi có nghĩa là “Nợ”, nhiều người khi đi học, mua xe, mua nhà đều trải qua, rồi than vãn: “ Sầu vì… Loan” “Nghèo vì… Loan”.  Hãi hùng nhất là các quảng cáo của mấy chuyên gia cố vấn tài chánh, nào là:  “Nói Không Với Loan”, “Tránh Xa Loan Xấu”, “Làm Thế Nào Ðể Thanh Toán Loan Mau Lẹ”… thiệt là đau lòng!

Dù sao cũng có chút an ủi, tuy tên “Loan” nhưng tôi không nợ nần tiền bạc gì của ai (nợ… chuyện khác thì có, để kiếp sau trả!)

Ðời không như là tên, đôi khi còn ngược lại, nhưng có ai nỡ đặt tên con là Nguyễn Vô Phước để sẽ được Hữu Phước, hoặc Lê Văn Nghèo để sẽ thành người giàu có, phải không quý vị?!

KIM LOAN

______________________________________

NGÀY XƯA NGUYỄN THỊ …

Sài Gòn bị đổi chủ khi tôi mới chín tuổi, chưa kịp biết mộng mơ với những bản nhạc tình trước năm 1975. May mắn thay, vài năm sau đó, khi phong trào “đốt sách trả thù” của chính quyền Cộng Sản lắng xuống, mấy anh chị lớn trong nhà còn giữ lại được một số tờ nhạc, băng nhạc cũ, đem ra nghe lén mỗi đêm khuya vắng. Các tờ nhạc đa số là nhạc Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, nghe mấy ông anh ôm đàn và hát, tôi thích lắm. Băng nhạc cassette thì chỉ có một hai băng của ca sĩ Thái Thanh, nghe đi nghe lại, nào Ngàn Thu Áo Tím, Nghìn Trùng Xa Cách, Kỷ Vật Cho Em…nhưng chả hiểu sao đọng lại trong tôi nhiều nhất, là Ngày Xưa Hoàng Thị, có lẽ vì câu chuyện tình lãng mạn của tuổi học trò làm tôi xao xuyến. Thuở ấy, không có báo chí để tra hỏi, nên tôi nào rành rẽ về bài thơ hay bài nhạc, chỉ biết yêu vô cùng lời nhạc, lời thơ, thế thôi.

Thế là tôi yêu tiếng hát Thái Thanh dù sau đó gia đình tôi có thêm các tiếng ca khác mà anh chị tôi thu thập từ bạn bè hoặc từ các tiệm sang băng lậu ngoài chợ trời Tạ Thu Thâu: Thanh Thuý, Nhật Trường, Thanh Lan, Phương Dung, Duy Quang, Elvis Phương… với nhiều bài hát mới.
Riêng bài Ngày Xưa Hoàng Thị sống lâu nhất trong trái tim tôi, vì một buổi trưa đầu hè năm lớp 12, tôi bước vào lớp, thấy trong hộc bàn một tờ giấy màu xanh lơ, có ép một cánh bướm làm từ hoa phượng và mấy câu thơ: “Em tan trường về- cuối đường mây đó- Anh tìm theo Ngọ-Dáng lau lách buồn-Tay nụ hoa thuôn-Vương bờ tóc suối-Tìm lời mở nói- Lòng sao ngập ngừng …”, chẳng có tên người gửi, cũng chẳng ghi tên người nhận. Lập tức, đám “thám tử” con gái lớp tôi chạy đi “điều tra lý lịch” tác giả lá thư. Được biết, người ngồi cùng chỗ đó của tôi (lớp buổi sáng) là chàng tuổi trẻ tên là Hồng Ân, nhỏ hơn tôi một tuổi ( học lớp 11), trắng trẻo, đẹp trai, con nhà giàu ngay ngã tư chợ Xóm Mới. Nhưng các “thám tử” không thể tìm ra, là lá thư ấy chàng trẻ tuổi cố ý gửi cho tôi, hay tính gửi cho… con bé nào khác mà để quên trong hộc bàn? Tôi chả quan tâm chuyện đấy, thư để trong hộc bàn của tôi, rất ngay ngắn gọn gàng, nghĩa là gửi cho tôi. (Ai cấm em trai tương tư…bà chị học trên lớp hở mấy nàng “thám tử” rách việc kia?). Cánh bướm đẹp quá, tờ thư xinh quá, và nhất là mấy câu thơ lần đầu tiên tôi được đọc. Dù chỉ có mấy câu, tôi cũng đoán cả bài Thơ sẽ còn hay hơn nhiều. Tôi bỏ lá thư trong cặp, mang về nhà, đọc đi đọc lại nhiều lần, và mong “người ta” gửi tiếp cho trọn…bài thơ!

Tôi cũng chẳng ngờ bài hát đó lại có duyên, theo tôi đến tận con đường vượt biển, qua trại tỵ nạn Thailand. Hôm ấy, tôi đang say giấc nồng trưa hè thiu thiu thì bỗng nghe bên nhà hàng xóm mở cassette (xài bằng bình acquy) bài Ngày Xưa Hoàng Thị qua giọng ca Thái Thanh. Tôi bỗng tỉnh ngủ, như chợt gặp lại “người xưa”, cầm theo giấy bút chạy qua để thưởng thức điệu nhạc quen thuộc và chép lời. Chị chủ nhà, cũng là người chung chuyến tàu với tôi, rất vui vẻ quay đi quay lại bài hát gần chục lần (sắp nhão cả tape) để tôi kịp ghi lại đầy đủ bài hát. Từ đó tôi cứ lẩm nhẩm bài này với bạn bè cùng lô nhà và cả khi chúng tôi tụ tập nhóm “đờn ca tài tử”.
Nhóm chúng tôi, những thanh niên thiếu nữ, trong đó Dzũng Lé là tay guitar cừ khôi, trước khi đi vượt biên, từng chơi cho các nhóm nhạc “Ca Khúc Chính Trị” tại Sài Gòn. Còn có Trung, chàng thư sinh Nhạc Viện, đi vượt biên ôm theo cây đàn Violin, khi tàu bị bão tố trên biển đông, hành lý phải quăng ra biển cho nhẹ con tàu, Trung vẫn cương quyết ôm cây đàn, che chở bảo vệ nó, mang nó vào trại tỵ nạn. Những buổi tối gió lạnh nhớ nhà, chúng tôi đề nghị Trung kéo đàn những bài tango nổi tiếng, như La Comparsita (mà nhạc sỹ Phạm Duy đặt lời Việt là Vũ Nữ Thân Gầy), La Paloma (Phạm Duy viết thành Cánh Buồm Xa Xưa), hay điệu Valse với nhạc phẩm trứ danh Blue Danube (Phạm Duy viết thành Giòng Sông Xanh). Giữa đêm đông se lạnh tha phương, tiếng đàn violin réo rắt, tha thiết, bay bổng đến lặng người. Rồi tiếng đàn chuyển qua những nhạc phẩm trữ tình khác, nào Dấu Tình Sầu, nào Niệm Khúc Cuối, Đêm Nay Ai Đưa Em Về…khiến mọi người rưng rưng thổn thức.
Tôi không có giọng hát hay nhưng thuộc nhóm “hay hát”, nên sau phần độc tấu violin và phần solo của những giọng ca quyến rũ người nghe, cuối cùng cũng đến lượt tôi được… cầm giấy ca bài “tủ” của mình, rất hào hứng, say sưa: “Em tan trường về …”
Cứ ngỡ ca chơi trong nhóm cho vui, ai ngờ Dzũng Lé đã cho tôi một bất ngờ nhớ đời. Mùa Giáng Sinh 1992, trường Việt Ngữ và nhóm nhân viên ngoại quốc YWAM (Youth With A Mission) tổ chức buổi tiệc tiễn đưa cô hiệu trưởng Sue về Australia. Tôi là cựu giáo viên nên được mời và được yêu cầu mặc áo dài với các cô khác vì cô Sue cũng mặc áo dài. Tôi hớn hở đến dự, thảnh thơi ngồi ăn uống, xem văn nghệ có Dzũng Lé chơi đàn guitar trong ban nhạc. Đến giữa chương trình, Dũng Lé ghé tai người MC thì thầm gì đó, rồi anh MC ra giới thiệu:
- Kính thưa quý vị, sau đây là một giọng ca…bình thường, nhưng tâm hồn văn nghệ thì trên cả bình thường! Cô chưa bao giờ vắng mặt trong các nhóm văn nghệ bỏ túi trong các khu nhà trong trại. Xin mọi người cho một tràng pháo tay cho cô cựu nhân viên bưu điện và hiện nay là nhân viên Cao Uỷ Định Cư…
Tôi chưa kịp phản ứng gì, bà con vỗ tay rầm rộ và đẩy tôi lên sân khấu. Tôi nhăn mặt, liếc Dzũng Lé:
- Ca bài gì bây giờ?
- Thì cái bài Ngày Xưa Hoàng Thị bà hay ca đó.
- Nhưng tui không thuộc.
- Nhớ tới đâu ca tới đó, dễ mà.
- Nhưng chưa tập dợt với ban nhạc gì ráo.
- Bà khỏi lo, cứ tập trung vào chuyên môn…ca hát, tụi tui sẽ…đuổi theo bà!
Tôi đành bấm bụng làm ca sĩ. Ban nhạc đánh bài Ngày Xưa Hoàng Thị theo điệu valse hơi nhanh, nhưng tôi bị ảnh hưởng cách hát luyến láy, “điệu chảy nước” của cô Thái Thanh nên mở đầu câu hát thật dẻo, thật dịu dàng đong đưa, rồi lên cao vút, thành ra ban nhạc bị trật nhịp, nhạc chơi đường nhạc, tôi hát đường tôi, họ ra sức …rượt theo, vã mồ hôi hột. Đã vậy, lời bài hát cứ lập đi lập lại: “ Em tan trường về …Anh theo Ngọ về ….Em tan trường về …Mưa bay mờ mờ …”, tôi run quá, không nhớ lời kết, cứ đứng đó ca tới ca lui: “Em tan …Anh theo …Em tan …Anh theo …”, khán giả ở dưới cũng nhận ra điều ấy, càng vỗ tay lớn hơn theo nhịp để cổ vũ tôi đang mặt mũi xanh lè vì bối rối. Dù sao, Dzũng Lé cũng là tay guitar chuyên nghiệp, đã nhanh miệng làm “đạo diễn”, dẫn dắt ban nhạc xuống “tông”, và nhắc tôi từ từ bình tĩnh, có Dzũng hát kèm phía sau, dìu tôi vào câu “coda”, kết thúc rất ngoạn mục trong tiếng reo hò của cả hội trường.
Sáng hôm sau tôi ra bưu điện dò thư, mấy anh bưu điện nhìn tôi cười mỉm chi:
- Chào em…Ngọ, chiều qua hát bài hát không có… lối ra luôn hen!
Từ đó, họ gọi tôi là “ bé Ngọ”, và tôi cũng thích tên “ Nguyễn Thị… Ngọ” vì tôi “đường đường chính chính” sinh năm Bính Ngọ, chớ không có ý nhận vơ mình là “nàng thơ” trong bài hát, bởi tôi biết, khi thi sĩ Phạm Thiên Thư “chân anh nặng nề, lòng anh nức nở” thì tôi chưa được sinh ra hoặc còn đang bận rộn…tắm mưa ngoài đường!
Và cũng nhờ “tiếng tăm” của buổi làm “ca sĩ ” lan xa trong trại, mà chú nhà báo Hồ Ông (trước 1975 là cây viết châm biếm của tờ Con Ong, hiện đang định cư bên Úc) đem đến cho tôi tờ tạp chí Làng Văn viết về Phạm Thiên Thư có cả nguyên vẹn bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị”. Tôi mừng rỡ sung sướng chép lại trên cuốn sổ Thơ của mình, và còn giữ đến nay trong tủ sách gia đình.
Kỷ niệm về Ngày Xưa Hoàng Thị và Thái Thanh thì còn nhiều lắm. Đến giờ giới nghiêm, cả trại im lìm trong bóng đêm, tôi và chị bạn chui vào mùng mở máy cassette nho nhỏ chạy bằng “pin”, nghe Thái Thanh phải nghe đêm khuya mới thấm. Có lần chú Tám kế bên vách vọng sang thì thào:
- Cô Loan ơi, cô làm ơn mở volume lên chút xíu cho tôi nghe rõ giọng Thái Thanh, được không cô?
Tôi sung sướng:
- Ủa, chú cũng mê tiếng hát Thái Thanh sao? Hổm rày con đâu biết!
- Chả giấu gì cô, tui chỉ mê nhạc mùi của Tuấn Vũ, Chế Linh. Nhưng giọng cô Thái Thanh làm tôi …dễ ngủ, tôi vốn mắc chứng mất ngủ…
Dễ giựn không nà! Nhưng mà thôi, mục đích nào cũng tốt hết á. Chúng tôi bên này thả hồn theo từng điệu nhạc lời ca mượt mà điệu đà của Thái Thanh, còn bên kia chú Tám…ngủ ngon!

Thực ra, suốt một thời gian rất dài, tôi luôn ngại ngùng thú nhận mình là “fan” của Thái Thanh, vì nhiều lần bị bạn bè chọc ghẹo:
- Úi dào, Thái Thanh là tiếng ca dành cho …người già, thích loại nhạc …khó hiểu, cao vời! Sao không nghe bolero cho… dễ thở??
Mới đây tôi có nói với tụi bạn:
- Giờ tao đã là lứa tuổi trên 50, có thể công khai tuyên bố là “fan” của Thái Thanh là đủ tiêu chuẩn rồi nha, tụi bay chớ mà ý kiến ý cò!

Bất cứ lúc nào, hễ nghe ai nhắc Thái Thanh và Ngày Xưa Hoàng Thị thì trong tôi lại xốn xang những đoạn đời dấu yêu của “Ngày Xưa Nguyễn Thị…Tôi”, ùa về như thác đổ, lúc vui lúc buồn, có khi làm tôi thao thức mất ngủ cả đêm vì bồi hồi, nhớ nhung…
Ai mang bụi đỏ đi rồi?!


KIM LOAN


TIẾNG HÁT MUÔN ĐỜI

Thái Thanh đi rồi, “Nghìn Trùng Xa Cách”
“Ngày Xưa Hoàng Thị”, giờ biết tìm đâu?
Đêm nức nở nghe “Nửa Hồn Thương Đau”
Xót xa nhớ “Mùa Thu Không Trở Lại”

“Cơn Mê Chiều”, man mác sầu tê tái
Hương “Ngọc Lan” còn thoảng dấu ngất ngây
“Màu Kỷ Niệm” như quanh quẩn nơi đây
“Đường Chiều Lá Rụng”, “Cỏ Hồng” da diết

“Chiều Về Trên Sông” tình quê xao xuyến
“Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” chưa quen
Còn lời nào thay “Kỷ Vật Cho Em”?
“Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng” ký ức

“Tình Cầm” ơi, “Ngày Trở Về”, đừng khóc
“Trả Lại Em Yêu” những tháng ngày buồn
Xa cố hương, “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”
Vẫn vút cao lời ca “Thuyền Viễn Xứ”

“Tìm Nhau”-Tìm Nhau ấm hồn lữ thứ
“Tình Hoài Hương” xao xuyến mảnh tim côi
Nhớ nghẹn ngào “Người Đi Qua Đời Tôi
Và dĩ vãng “Còn Chút Gì Để Nhớ”

“Kiếp Nào Có Yêu Nhau” để “Tình Lỡ”
“Hẹn Hò” cố nhân “Nha Trang Ngày Về”
“Ngàn Thu Áo Tím” một thời say mê
“Ngày Em Hai Mươi Tuổi” đầy mộng ước

“54-75” nổi trôi theo mệnh nước
“Mẹ Việt Nam Ơi” quá đỗi ngọt ngào
“Tình Ca”, ôi tiếng nước tôi dạt dào
“Nước Mắt Rơi” thương “Quê Nghèo” xa cách

Xin chào tiếng ca muôn đời tha thiết
“Hội Trùng Dương” mang theo phút “Biệt Ly”
“Bài Hương Ca Vô Tận” tiễn người đi
“Đường Xưa Lối Cũ” –“Nghìn Thu”- yên nghỉ!


KIM LOAN
Tháng 3/2021

ĂN ĐỂ MÀ SỐNG

Khi mùa dịch Covid ập đến, với một số người Việt tại Canada (tôi đoán chừng) là không có hiện tượng chạy vào Costco hay các chợ khác mua nhiều gạo mắm hay thức ăn tích trữ, ngoại trừ những người nhẹ dạ, lo xa …
Bởi vì khí hậu Canada tuy có đầy đủ bốn mùa, nhưng trong đó có hai mùa …giá băng, mấy tháng lạnh lẽo kéo dài, nên gia đình tôi, cũng giống như nhiều gia đình Việt khác, đều có tủ đông lạnh (freezer) loại nhỏ để dưới basement, dành cho việc chứa thêm các loại thịt thà, cá mắm, phòng hờ cho mùa đông lỡ có bão tuyết hoặc đường trơn trợt không thể đi chợ thường xuyên…Do vậy, dịch đến hay dịch đi, tủ thức ăn dự trữ lúc nào cũng đầy ắp!


Và rồi chúng ta đã bắt đầu chung sống với dịch. Kể từ lúc dịch ở đỉnh cao cho đến nay, khi lệnh cách ly đã được nới lỏng, chuyện chợ búa của nhà tôi cũng vẫn duy trì phương châm “đơn sơ, nhanh, gọn”: mua vịt quay heo quay ăn với dưa leo bánh mì, xen kẽ mỗi tuần đi chợ Việt hoặc chợ Canada gần nhà. Vào đó, tôi quơ thiệt lẹ vài loại thịt bò gà heo, lấy vài mớ rau và các thứ trái cây (cam quít, chuối, táo …), thế là đủ sống!


Hôm nọ chồng tôi muốn ăn Phở Bò. “Chuyện nhỏ!” Tôi lục tủ đông lạnh có đủ xương bò, đuôi bò, nạm bò, bò viên. Tôi cũng kịp mua đủ bánh phở tươi, rau quế, ngò gai, giá, chanh, củ hành, gừng …nói chung là đầy đủ cho một nồi phở. Ui cha, nồi nước lèo thơm ngất ngây, lan toả khắp căn nhà từ trên lầu xuống dưới phòng khách, bay ra cả vườn sau nơi chồng tôi đang cắt cỏ. Xong việc vườn tược, chồng tôi đi tắm, tôi hoàn tất những giai đoạn cuối cùng của nồi phở và chuẩn bị dọn ra cho cả nhà thưởng thức. Mọi thứ đã bày biện sẵn sàng ngoài bàn, tôi mới tá hoả tam tinh khi lục mãi trong tủ lạnh chẳng thấy mấy chai tương đen tương đỏ ở đâu. Vậy là nhà đã hết tương ăn phở mà tôi không biết. Mà cái món phở chúng tôi đã ăn theo thói quen bao nhiêu năm nay là phải có tương, giờ biết làm sao?


Tôi bỗng nhớ lại lần ra Hà Nội chơi năm 1986 (trước khi đi vượt biên), buổi sáng ra chợ Đồng Xuân, ngay Cửa Nam, vào quán phở, gọi hai bát phở chung với cô bạn. Họ đem ra đúng …hai bát phở. Tôi nhìn bát phở “solo” mà quá đỗi ngạc nhiên, bèn …đổi giọng Bắc Kỳ hỏi chủ quán:
- Chị ơi, em bảo này, cho em tí rau giá, được không ạ?
Chị chủ quán khựng lại, nhận ra tôi là gái Sài Gòn giả giọng Hà Nội, bèn lên giọng chanh chua chát:
- Đây là Phở Bắc nhé, chẳng rau giá gì sất!!
Có chút ngơ ngác cộng với bất ngờ, nhưng tôi vẫn vớt vát:
- Thế quán nhà mình không có tương đen tương đỏ hở bác?
Chị chủ lại nhìn tôi, lần này thì trợn mắt, sẵng giọng the thé:
- Đây là Phở Bắc nhá! Đây là Phở “Hà Lội” nhá! Muốn tương thì về Lam (Nam) mà ăn! Rách việc!!!


Chả nhớ bát phở hôm ấy có ngon không, chỉ nhớ cảm giác thiếu thiếu sao đó! Nhưng nhớ nhất vẫn là nỗi lòng bực mình, khó chịu vì bị đối xử như gáo nước lạnh nơi thủ đô nghìn năm văn hiến.


Về Sài Gòn, và sau này qua Canada, hay những khi qua Mỹ chơi, tôi vẫn tiếp tục được ăn phở phải có tương. Riêng bà chị Cả của tôi ở Arlington, Texas thì xưa nay vẫn ăn theo kiểu Bắc (không tương). Chị ấy bảo, nồi phở đang thơm, bát phở đang nồng nàn, mày cho tương vào là hỏng hết! Nhưng biết nói sao với một thói quen đã bao nhiêu năm, nên tôi vẫn …ngoan cố ăn phở có tương, và gân cổ…cãi chầy cãi cối:
- Ối, phở không tương thì còn gì là …phở?


Thế đấy, mới biết khẩu vị ăn uống của mỗi người là “chín người mười một ý”. Kẻ thích tương người thì bảo làm hư phở, người thích giá sống giòn rụm kẻ lại ưng giá chụm, người thích chín nạm gầu kẻ lại mê tái sống bò viên, chưa hẳn đã giống nhau, và cũng không bao giờ có một “chân lý” bất di bất dịch cho bất cứ một món ăn nào!

Trở lại nồi phở mùa dịch của nhà tôi, dù biết thiếu tương là mất ngon nhưng dĩ nhiên, tôi không muốn chạy xe gần nửa tiếng ra chợ phố Việt, rồi có khi phải xếp hàng thêm nửa tiếng nữa (vì mùa dịch nên số người vào chợ bị giới hạn) để chỉ mua hai chai tương! Tôi nghĩ, bà chị Cả tôi và nhiều người khác vẫn ăn theo kiểu Bắc không tương thì đã sao. Tôi cũng nhớ lại lần ăn phở Bắc bất đắc dĩ năm xưa tại chợ Đồng Xuân, tôi vẫn ăn hết sạch… cả bát phở, có chết “thằng Tây” nào đâu nà!? Do vậy, tôi quyết định sẽ thử ăn phở kiểu Bắc lần này nữa xem sao, cái khó là thuyết phục chồng, con kìa!
Tôi liền mở đầu, dịu dàng:
- Hôm nay nhà mình hết tương, nên chúng ta chịu khó ăn phở không tương theo đúng kiểu …Bắc Kỳ nhé (chồng tôi người Nam, gốc Mỹ Tho).
Chồng tôi nhăn mặt, lập lại y chang câu nói tôi từng nói với bà chị:
- Trời đất, phở không tương thì còn gì là …phở?
Đứa con gái cũng hùa theo ba nó:
- Không có tương làm sao con chấm ăn bò viên?
Tôi phải dịu giọng, ngọt ngào:
- Mẹ xin lỗi vì quên mua tương. Nhưng bây giờ mà chạy ra chợ thì chắc đến… khuya mới được ăn phở! Thôi cả nhà mình chịu khó ăn bữa nay thôi, rồi ngày mai ăn tiếp sẽ có đầy đủ tương đen tương đỏ …
Thế là cả nhà ngồi ăn phở không tương. Quả thật, tôi đã nếm được một mùi vị rất tuyệt vời của nước lèo, thơm béo mùi thịt và xương bò, thanh thanh vị của chanh, dẻo dai miếng bánh phở. Thậm chí tôi còn thấy tô phở nhìn hấp dẫn hơn, đẹp hơn như một bức tranh đa màu sắc: màu vàng nâu trong veo lấp lánh mỡ của nước lèo, màu trắng ngần của bánh phở tươi, điểm xuyết xanh rờn của hành ngò xắc nhuyễn, xen lẫn với màu tiêu đen và những lát củ hành bào, cùng những lát ướt tươi đỏ rực, bên cạnh dĩa rau giá mát rượi. Chồng tôi cũng gật gù, thú nhận rằng, không có tương cũng …chả sao cả, không đến nỗi …tận thế, dù dịch Tàu đang hoành hành! Tuy vậy, ngày hôm sau ăn phở “tập hai” thì chồng, con tôi vẫn lại hớn hở nêm tương như thói quen cũ, còn tôi thì đã thực sự thích kiểu phở Bắc (gái Bắc có khác!) nhưng có chút …lai Nam Kỳ khi ăn kèm thêm rau giá, (có ai cấm đâu!)

Chẳng ai mong chờ đại dịch, nhưng cũng “nhờ” nó, mà chúng ta ngộ ra nhiều điều đơn giản và thấm thía trong cuộc sống mà xưa nay không chú ý. Mọi người đã nói đến chuyện đời phù du, hãy yêu thương và tha thứ cho nhau, hãy tận hưởng những niềm vui nho nhỏ thường ngày dù vẫn còn bóng tối Covid bủa vây, hãy trân trọng hạnh phúc hiện tại với những người thân yêu xung quanh …
Còn tôi, thì nói chuyện …ăn uống! Vâng, hãy bớt đòi hỏi khắt khe, trông chờ món ăn phải đúng chuẩn, gia vị này gia vị kia cho vừa khẩu vị hoặc thói quen lâu năm (cuộc đời này vốn dĩ đã không hoàn hảo, có phải?).
Cho nên, nhân dịp “sự cố Phở Bắc” này, tôi cũng đã cảnh báo chồng con chuẩn bị tinh thần “có sao ăn dzậy người ơi” và đón nhận những món ăn “không hoàn hảo” trong tương lai (dù còn dịch hay hết dịch) do tôi …đảm trách: Canh chua không ngò ôm, cà ry thiếu nước dừa, cơm tấm gạo dài không mỡ hành, bún bò Huế không mắm ruốc, bún riêu thiếu…gạch cua ….và còn nhiều nữa 
Hãy đợi đấy!!!


Edmonton, Canada
KIM LOAN

 

KimLoan_valentinePic_2.jpg

                                  (Cảm xúc từ mối tình Trò-Thầy tại trường PTTH Nguyễn Trung Trực)

Trở về rồi, Thầy có thấy gì không?

Đôi mắt em, trên hàng cây phượng đỏ
Khi đầu hè hoa trổ bông rực rỡ
Sợ ngày chia tay lá khép chờ mong

Cuối thu tàn, chớm lạnh trời vào đông
Hành lang lớp học dài như nỗi nhớ
Chiều tan trường, em bâng khuâng đứng đó
Thầy đâu rồi, bước về chỉ mình em

Trở về rồi, Thầy có thấy thân quen?
Nơi bục giảng, tay ai run rẩy vẽ
Đường tròn chẳng tròn như tim em rất trẻ
Rung động đầu đời nói chẳng thành câu

Giờ Toán học, em chỉ muốn thật lâu
Dẫu khô khan phương trình, và ẩn số
Công thức nào em rối bời chưa ngỏ
Định nghĩa Tình Yêu em vẫn đi tìm

Trở về rồi, Thầy có thấy chợt buồn?
Chỗ em ngồi năm xưa, giờ trống vắng
Còn đâu nữa nụ cười hiền toả nắng
Phút ngại ngùng đôi ánh mắt gặp nhau

Để đêm về em thao thức canh thâu
Nắn nót viết tên Thầy trên thước kẻ
Quà tặng của em đơn sơ, bé nhỏ
Rất nồng nàn, say đắm một tình Thơ

Trở về rồi, Thầy có thấy ngẩn ngơ?
Chiều hôm ấy hồn em lạnh rét mướt
Mắt em nhạt nhoà hay vì mưa ướt
Ngày Tân Hôn, Thầy vui bước qua cầu

Thầy vô tình, Thầy có biết gì đâu!
Cô bé lang thang một mình hờn dỗi
Trái tim mới lớn mong manh quá đỗi
Gặm nhấm nỗi buồn, thèm khát yêu đương

Trở về rồi, Thầy có thấy vấn vương?
Ghế đá, hàng cây, sân trường…im lặng
Mây lững lờ trôi như đang hờn trách
Tuổi học trò thần thánh ai mang đi

Thuyền xuôi dòng nhưng em mãi khắc ghi
Sẽ quay lại, dù đôi lần em khóc
Em vô duyên, chẳng nên phận tơ tóc
Nghĩa Thầy Trò, mình mãi mãi nhớ nhau!


KIMLOAN

(Edmonton, Canada)


 

KimLoan_boatpeople.JPG

CON CỦA HẢI TẶC

            truyện @ Kim Loan

Mới tắm xong, trên đường đi về nhà, thấy dáng te tái bước thấp bước cao của chị Ngao (chị vốn bị thọt chân) hớt ha hớt hải đi về phía tôi, nói không kịp thở:
- Nãy giờ em đi tắm, hèn chi chị tìm không ra. Nè, con Phương đau bụng đẻ dữ dội, mấy người mới đưa nó lên bệnh viện đó, em đi với chị ra đó ngay!


Trước khi kể tiếp, tôi xin mở ngoặc nói về cái tên “Ngao” của chị…Ngao. Nhóm chúng tôi gồm bốn đứa con gái còn trẻ, hay đùa phá, nên thấy trong trại hễ ai có đặc điểm gì vui vui…khác người là chúng tôi đặt ngay “biệt danh” . Chị Ngao, có cái tên khai sanh rất đẹp là Hương Giang, nhưng chồng của chị có khuôn mặt to bè, lại đeo cái kiếng đen suốt ngày, chưa kể cái miệng trễ méo xẹo y chang như nhân vật thầy bói Ngao trong tuồng cải lương “Ngao Sò Ốc Hến”, nên chúng tôi tặng ngay tên Ngao cho cặp vợ chồng này là “anh chị Ngao”. (Chị Ngao, dạ quên, chị Hương Giang, nếu chị đọc được bài này, xin chị thông cảm và bỏ qua cho chúng em vì đã goị chị với cái tên khác, nhưng với tất cả sự thân mật, gần gũi, thương mến nhau, và cái tên đó đáng yêu lắm cơ!)
Trở lại cái chuyện chị Ngao báo tin con Phương đau bụng đẻ. Sở dĩ chị chạy đến kêu tôi, một phần vì tôi là hàng xóm cùng lô nhà. Phần khác, quan trọng hơn, là tôi quen với chàng bác sỹ người Việt làm trong bệnh viện, cho nên cứ có chuyện đau bụng nhức đầu, cảm cúm giữa đêm khuya là chị cứ réo tôi, để tôi cho thuốc (có sẵn trong nhà, do chàng bác sỹ…cung cấp), hoặc nếu cần thiết thì cùng tôi kéo nhau ra bệnh viện, nơi anh chàng bác sỹ ngủ ở đó mỗi đêm. Nhìn bộ mặt quan trọng của chị Ngao, tôi càng luống cuống:
- Chị chờ em vô nhà chải đầu nhe, mới tắm xong, ướt nhẹp hà…
Chị Ngao xua tay:
- Thôi khỏi, trại tỵ nạn ai cũng như ai mà, làm đẹp cho ai ngắm? Mình phải lên bệnh viện ngay coi nó có làm sao không chớ!
Tôi đành nghe lời, quăng vội mớ đồ dơ vào nhà, để nguyên si cái đầu bù tóc rối, chạy theo chị như bị ma đuổi. Tới nơi thì mấy chị hồi nãy (tạm gọi là mấy chị Tám) đưa Phương lên đây đã đứng sẵn ngoài cổng, báo tin:
- Bể nước ối rồi, mới được xe chở ra bệnh viện lớn ngoài trại.
Tôi hỏi, theo thói quen:
- Bác sỹ Đức đâu?
- Ra ngoải luôn rồi!
Cả đám nhìn nhau, rồi đi về nhà chị Ngao tán dóc trong khi chờ tin tức từ ngoải đưa về.
Chị Ngao chủ toạ, thở dài:
- Hổng biết con trai hay con gái đây? Hy vọng con Phương cố gắng mà rặn, chớ đừng để mổ, không tốt chút nào, hại sức khoẻ lắm…
Tôi phụ hoạ:
- Chiều nào hai vợ chồng nó cũng đi bộ mấy vòng quanh khu nhà, chắc không cần phải mổ đâu, nó dư sức mà.
Các chị Tám khác thay phiên nhau vào chuyện:
- Cầu mong cho ra con gái, và phải đẹp giống mẹ à nha, nước da trắng bóc, mũi cao, mắt nâu nâu hiền dịu…
- Ừa, nếu không giống mẹ mà giống…hải tặc thì tội nghiệp cho thằng Minh quá, tủi thân lắm á!
- Bà nói gì đâu không à! Khi chuyến tàu gặp hải tặc hãm hiếp, lúc lên trại gặp Cao Uỷ có cho các bà các cô uống thuốc phá thai phòng hờ, nhưng vợ chồng thằng Minh con Phương khi biết nó có thai đã nhứt định giữ cái thai lại. Tụi nó nói làm như vậy ác nhơn ác đức lắm, cứu một mạng người còn hơn xây mười cái Chùa, đứa bé nào có tội tình gì!
- Đúng rồi, suốt thời gian mang thai, con Phương được thằng Minh cưng chiều chăm sóc như trứng mỏng, thiệt là có phước lắm mới có được thằng chồng hiền lành hiểu biết như vậy.
- Thì dù sao, thằng Minh cũng biết vợ nó đâu có lỗi gì. Lỗi là lỗi tày trời mấy thằng hải tặc Thái Lan kìa. Cái lũ khốn kiếp tàn ác, hổng có lương tâm…
Mỗi người vài câu, nắng chiều tắt hồi nào không hay, mà tin tức từ ngoải vẫn im re.
Chị Ngao lại tiếp tục đúc kết với vai trò chủ nhà và chủ toạ:
- Ta nói, mình sợ Cộng Sản mới đi vượt biên, ra biển thì lại sợ nạn hải tặc. Cái đám đó sao trời không chu đất không diệt chúng cho tan thây! Mà tàu nào chúng hiếp, rồi cho đi tiếp là còn may phước mấy đời đó nghen, chớ nhiều tàu bị chúng hiếp xong là bắn vỡ tàu, cho chìm hết xuống biển để phi tang, coi như tiêu đời mất mạng. Tao nghe tả mấy thằng hải tặc bặm trợn, cởi trần trùng trục, da đen bóng loáng, xâm xổ đầy mình… mà ớn da vịt da gà. Nói thiệt nha, tàu tao mà gặp chúng nó, thà tao nhảy xuống biển liều chết sướng hơn!
Thế là các chị Tám lại lao nhao, lên án hải tặc, càng lúc càng hăng, chỉ thiếu điều muốn đứng lên hô khẩu hiệu “Đả đảo hải tặc, đả đảo hải tặc!!!”

Hai ngày sau, tôi đang làm ở bưu điện, chị Ngao lấp ló ngoài cửa. Tôi biết chuyện gì nên xin phép bà boss người Úc cho về sớm, chạy ra gặp chị Ngao:
- Phương sao rồi chị? Trai hay gái?
Chị Ngao nở nụ cươi tươi rói:
- Con trai!! Tụi mình đến thăm nha.
- Để em ghé qua chợ mua cho nó hộp sữa đặc.
Chị kéo tay tôi đi một mạch:
- Quà cáp để nay mai đưa cũng được, giờ ghé qua coi mẹ tròn con vuông ra sao, coi cái thẳng lủng đó như thế nào, tao nôn quá chừng…


Đến nơi, các chị Tám bữa trước đã có mặt đông đủ. Phương đang ẵm đứa bé, âu yếm nhìn nó dịu dàng, còn chồng Phương ngồi cạnh vợ, sờ nắn tay chân con với tất cả sự vụng về chân thành.
Tôi ghé xuống nhìn thằng bé, trời đất, nó không giống mẹ tí chút nào! Ngược lại, nước da nó màu nâu đen sậm, nhưng đậm đà, khoẻ mạnh và đôi mắt đen láy to tròn với hàng mi dài. Chắc mới bú no nên mặt nó tươi cười rạng rỡ. Chị Ngao tiến tới mở lời:
- Cho tao ẵm nó miếng coi!
Rồi đón lấy thằng bé, hun chụt chụt vào đôi má bầu bĩnh của nó và nựng:
- Tổ cha mày chứ, thấy ghét quá à.
Mấy bà Tám kia cũng xúm lại, cưng nựng mỗi người mỗi kiểu:
- Ui chu choa, cái môi cong cong kìa, cha mày!
- Trời ơi, cái mắt ướt rượt kìa, thằng cha mày!!
- Mèn ơi…Miệng cười này mai mốt con gái xếp hàng dài dài à nha…


Tôi bước ra cửa, vì biết không giành nổi với mấy bà đang chết mê chết mệt thằng bé con và thầm mỉm cười.


Mới hôm kia, bà nào cũng hăng máu đả đảo hải tặc rất quyết liệt, tưởng như không có gì cản nổi, mà bữa nay ôm cưng thằng…con hải tặc quên trời đất, mà câu nào cũng có chữ “cha mày, cha mày” thiệt là âu yếm, đáng yêu làm sao!

KIM LOAN

TRỞ VỀ NHÀ NGÀY 30 TẾT

 

Tôi khởi hành từ thành phố mùa đông

Bầu trời thấp, quê người giăng tuyết trắng

Bay về Việt Nam ngày ba mươi Tết

Căn nhà xưa ấm áp đợi tôi về

 

Tôi biết mẹ cũng thấp thỏm đợi chờ

Đứa con xa đã lâu chưa gặp mặt

Tôi bận rộn giữa vòng đời quay quắt

Kỷ niệm có khi là một giấc mơ

 

Mẹ đã chuẩn bị nấu bánh chưng chưa

Đợi tôi về đêm Ba Mươi nhóm lửa?

Góc bếp năm nào ngày tôi còn bé

Mắt long lanh như bếp lửa bập bùng

Đêm ba mươi Tết huyền diệu vô cùng

Nồi bánh sôi như lòng tôi rạo rực

Chợt tiếng pháo giao thừa về là lúc

Tôi thấy mình vừa mới lớn khôn hơn

 

                             

Kim Loan                                        

                                                  TIỄN VONG 2020

 

Tôi đã đón chào năm 2020 với niềm vui và hy vọng, bởi đó là con số đều và đẹp. Ngày đầu năm 1/1 tôi đã có mặt tại Arlington, Texas “xuất hành” về Houston, rồi trực chỉ New Orleans với tâm trạng bồng bềnh vì những dự định cho một năm mới đang đến.

Xong chuyến vacation, gia đình chúng tôi trở về nhà đang mùa băng giá nhưng cõi lòng ấm áp, chuẩn bị ăn Tết Canh Tý. Lúc ấy bắt đầu nghe tin về loại virus gì đó từ Vũ Hán bên Trung Quốc, gây chết người và lây lan mau lẹ. Tôi cười mỉm chi, ung dung tự tại: “Ối! Chuyện bên kia bờ đại dương, cách nửa quả địa cầu, hơi đâu mà lo!”. Tôi còn nhắn tin nhắc nhở bạn bè bên Việt Nam, chúc họ “bình an và bảo trọng”.

Rồi chỉ vài tuần sau, loại virus ấy đã bay đến Mỹ, tiểu bang California, New York và Washington, còn bên Canada có thành phố Toronto, Vancouver cũng …tiên phong trong việc “nhập khẩu” virus đáng sợ ấy. Tôi bắt đầu lắng lo, và việc gì đến cũng đã đến, con virus hiểm nguy đó được đặt tên COVID-19 bắt đầu tung hoành khắp thế giới với mức độ gia tăng chóng mặt. Tôi vốn là người “yếu bóng vía” nên vào giữa tháng ba, thành phố vừa ra thông báo nhắc nhở mọi người “stay home”, “stay safe”, tránh ra đường khi không cần thiết, tôi đã chủ động xin nghỉ làm vài tháng không ăn lương.

Đó là những tháng ngày u buồn chưa từng có. Cả thành phố bỗng hoang vu, vắng vẻ, khi luật “lockdown” có hiệu lực. Các hàng quán, shopping đóng cửa im lìm. Giá xăng rẻ đến mức không thể rẻ hơn nữa, khoảng 50 cents một lít, nhưng có “ma” nào dám đi đâu vào mùa này! Chiều chiều, tôi thay quần áo đi …đổ xăng ngoài đầu xóm, rồi tiện thể dạo “car ride” một vòng thành phố cho đỡ cuồng chân, vừa lái xe vừa thấm thía tâm trạng “đường thênh thang, gió lộng một mình ta!”.

Đến giữa tháng năm, mọi hy vọng Mùa Phục Sinh đẩy lùi Cúm Tàu thật sự vụt tắt, người chủ quan cỡ nào cũng bắt đầu lung lay niềm tin. Dân bản xứ da trắng chưa quen với việc đeo khẩu trang, nay cũng phải chấp hành, không còn tụ tập đông người, “ai ở đâu yên đó” mới chính là giúp xã hội, giúp cộng đồng.

Thật là khó chấp nhận, nhưng “nó” đã xảy ra, các sự kiện “đẹp” của năm “đẹp” đều đã bị huỷ bỏ hoặc dời lại vô thời hạn.

Đầu tiên phải nói đến Olympic Mùa Hè tại Japan. Chắc chắn số tiền thiệt hại không phải ít, vì chính phủ Nhật Bản hẳn cũng đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho Olympic từ cả năm trước. May áo quần giầy dép cho các vận động viên có số đẹp 2020, in ấn các pano quảng cáo, các bảng hiệu, các địa danh nơi chốn, nói chung là mọi thứ liên quan đến Olympic và con số 2020, để rồi cơn dịch đã phá hỏng mọi kế hoạch. Khác với Olympic Mùa Đông chỉ có một số bộ môn và một số khán giả nhất định, chủ yếu là dân xứ lạnh, thì Olympic Mùa Hè được xem là sự kiện lớn trên toàn thế giới. Bốn năm mới có một lần, với hàng tỷ khán giả (thống kê tại Olympic 2016 ở Rio de Janeiro, Brazil là 3.6 tỷ người xem), nhiều bộ môn thi đấu, hấp dẫn người hâm mộ trên khắp hành tinh, trong đó có tôi. Nhớ làm sao những trưa hè, ăn ly kem mát lạnh trong phòng khách, thưởng thức các màn thi đấu bơi lội, thể dục dụng cụ, chạy đua tiếp sức, chạy việt dã … nay đã là dĩ vãng!

 

Tiếp theo là Giải Bóng Đá Châu Âu Euro 2020. Cũng giống như Olympic Japan, thì giải này cũng là sự kiện được các Soccer fans trông đợi, trong đó cũng …có tôi! Thú thật, tôi chỉ xem hai giải bóng đá lớn, đó là World Cup và Euro, dù tôi chẳng hiểu gì về bóng đá. Đừng hỏi tôi thế nào là việt vị, làm sao được phạt góc, vì sao có phạt đền (biết chết liền!), còn vụ thẻ vàng thẻ đỏ, tôi lại càng…không biết!

Dù sao, tôi cũng phải thú nhận một điều, là giống như nhiều phụ nữ xem World Cup và Euro, tôi cũng xem bóng đá với cảm tính nhiều hơn. Thấy cầu thủ nào trẻ, đẹp trai, có duyên là …thích ngay và luôn, đội nào nhiều “trai hùng” với thành tích lẫy lừng là cứ theo ủng hộ là …chắc ăn như bắp (tình yêu không có tội!). Nhưng ít ra, tôi vẫn biết khi trái bóng vào khung thành đối phương là ghi bàn, và dĩ nhiên tôi cũng biết la hét, run rẩy hồi hộp khi xem đá phạt đền luân lưu để quyết định thắng bại cho hai bên, như vậy đã đủ điều kiện để làm fan bóng đá chưa nhỉ? Thế mà hè năm nay, chỉ vì con Cúm Tàu mà tôi mất đi niềm hứng khởi tưng bừng với Ronaldo, Mendy, Muller… hỏi sao không buồn, không tức?!

 

Với dân ghiền phim huyền thoại James Bond (một lần nữa, lại …có tui), thì lẽ ra từ tháng tư năm nay đã được chiêm ngưỡng người hùng “license to kill”, lãng tử lạnh lùng với sở thích thức uống độc đáo: Vesper Martini “shaken not stirred”. Lần đi vacation tại Cancun vài năm trước, tôi đã yêu cầu được uống món này tại quầy bar của hồ bơi, mấy anh bồi người Mễ nhìn tôi đầy chứa chan trìu mến, có lẽ mấy ảnh nhận ra tâm hồn “đồng điệu” cùng ái mộ điệp viên 007 làm tôi nổi hứng “xuất khẩu thành thơ”:

Martini, người có mời tôi uống?

Trời Cancun thấp thoáng bóng chiều rơi

Đôi mắt Mễ Tây Cơ như mỉm cười

Hồn du khách lênh đênh theo biển sóng…

Giờ đây, chắc rằng họ cũng như tôi, phải dài cổ đếm từng ngày để gặp lại Mr.Bond!

 

Nền kinh tế toàn cầu bị trì trệ, nạn thất nghiệp tràn lan là điều không tránh khỏi. Học sinh sinh viên nghỉ ở nhà, thương nhất là các em ra trường năm nay với con số 2020 tưởng như đầy may mắn. Con gái tôi cũng là nạn nhân, sau sáu năm dài trên giảng đường Đại Học, có ai ngờ mùa ra trường lại “buồn như chấu cắn”. Tội hơn nữa là các em tốt nghiệp High School vì đây là cột mốc đẹp nhất của đời học sinh. Bao công sức chuẩn bị cho lễ tốt nghiệp, nữ sinh thì áo đầm xinh xắn, nam sinh thì vest bảnh bao, hồi hộp mong chờ đến “proms” là điệu khiêu vũ đầu tiên của đêm dạ hội tuyệt vời. Đứa em họ bên chồng tôi ở Atlanta kể, con gái nó cứ nhìn bộ áo đầm treo trong tủ mà khóc nức nở. Thương con, đến ngày “ra trường”, bố mẹ ông bà và anh em trong nhà cùng nhau diện áo quần trang trọng, kéo nhau ra …vườn sau nhà, có trang trí đầy đủ bong bóng, hoa tươi, “nhân vật chính” mặc đầm thướt tha, đầu đội “graduation hood”, rồi chụp hình, chúc mừng ăn uống để nó đỡ tủi thân.

 

Cộng đồng Việt Nam hải ngoại cũng bị ảnh hưởng não nề, khi ngày Quốc Hận 45 năm trôi qua trong âm thầm lặng lẽ. Năm nay, nếu không có con Virus Tàu phá đám thì cộng đồng chúng ta đã có những hoạt động tưởng niệm ghi dấu 45 năm Quốc Hận, cùng ôn lại trang sử bi hùng của tháng 4/1975 cũng như truyền lại cho thế hệ mai sau ghi nhớ. Bởi vậy mà cô bạn của tôi, là thợ may, biết tôi không có khẩu trang để đeo mùa dịch, đã may tặng tôi chiếc khẩu trang Cờ Vàng làm kỷ niệm Mùa Quốc Hận 2020 u hoài.

 

Riêng cá nhân tôi, cũng có những dự định không thành. Chiếc áo dài của nhỏ em thân thiết bên Việt Nam gửi qua để tôi “diện” mừng Chúa Phục Sinh cũng còn nằm nguyên trong tủ. Cái áo đầm cô em kết nghĩa từ thời trại tỵ nạn, chăm chút kỹ lưỡng từng mũi chỉ đường kim để tôi được… “toả sáng” tại đám cưới của đứa cháu tại Seattle vào tháng sáu cũng đành để đấy, (dự trù là sau mùa dịch, cả chiếc áo dài và áo đầm chỉ để …ngắm chơi, vì tôi sẽ không mặc vừa nữa). Lời hẹn bay qua San Francisco ăn Phở Gà chạy bộ gia truyền với cô bạn học cũng phải huỷ bỏ.

Còn biết bao nhiêu thiệt hại khắp nơi, sẽ chẳng bao giờ có con số thống kê chính xác, nhất là thiệt hại về tinh thần, làm sao bù đắp cho đầy đủ?!

Nhưng chẳng lẽ chúng ta cứ chịu cảnh tê liệt này mãi, cuộc sống vẫn phải tiếp diễn, niềm hy vọng sẽ vẫn thắp lên.

Thế là từng bước một, nới lỏng các quy định, các hàng quán, các cơ sở dịch vụ, các tụ điểm công cộng, nhà thờ, được mở cửa (dù là mở …he hé). Tôi cũng hào hứng đi làm lại, nghiêm chỉnh tuân thủ những “khẩu hiệu” ai cũng thuộc nhuyễn như cháo sườn: “keep your distance”, “wear your mask”, “wash your hands”, “sanitize”.

Trở lại chẳng được bao lâu, chỗ làm của tôi có người bị dính Covid. Tôi lại phải ở nhà hai tuần “quarantine” và thử Covid Test. Trong lúc chờ đợi kết quả, tôi cũng bị chính gia đình mình cho “cách ly” trong phòng riêng, đeo mask trong nhà vì vẫn phải làm việc nhà nhất là chuyện cơm nước, tôi nấu riêng cho tôi, còn món nào của chồng con, tôi quăng mắm muối vào nồi theo kiểu ước chừng, mặn lạt …hên xui ráng chịu!

Khi nhận kết quả “negative to Covid”, tôi vẫn chưa thật sự yên tâm, (con gái tôi bảo, bộ mẹ muốn positive mới chịu hả!), tôi vẫn sống như người …có bệnh, tiếp tục uống nước xả, gừng vắt thêm chanh và mật ong, thà… dư còn hơn thiếu!

Khắp nơi, xìu xìu ển ển, có lúc giống như sắp “the end of the world”, xính vính tinh thần dữ dội. Tôi nói “tinh thần” vì tôi đoán chừng người Việt mình tại hải ngoại ít bị ảnh hưởng về tiền bạc, vật chất. Tiền thất nghiệp, tiền trợ cấp mùa dịch đã có chính phủ chi trả đầy đủ, tuy không nhiều như khi đi làm, nhưng chắc chắn là đủ sống. Dân Tây dân Mỹ ăn xài hoang phí thì chưa quen, chớ dân mình, trải qua thời chiến tranh bom đạn, chạy loạn, bị cướp tài sản và đoạ đày kinh tế mới bởi “bên thắng cuộc”, ăn bo bo khoai sắn kể cả trong tù nhỏ (trại “cải tạo”) và tù lớn ngoài xã hội, rồi kéo nhau đi vượt biên, nếm mật nằm gai, qua trại tỵ nạn, nên chúng ta quá quen với chuyện “thắt lưng buộc bụng”. Đến xứ tự do này, ai cũng chí thú làm ăn, có “của ăn của để” dành dụm trong bank, (ngoại trừ một số người làm ít xài nhiều, có máu “bác thằng bần”, hút chích ăn chơi, hoặc mấy ông thích đèo bồng chán cơm thèm phở), thì đây là lúc xài chớ để làm chi, (mà có gì để xài trong thời buổi cấm chợ ngăn sông này!?)

Đến đầu tháng Mười Một, cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ rầm rộ hơn cả Cúm Tàu. Đương kim TT Trump lao đao vì Covid, là “vũ khí” duy nhất mà đảng đối thủ tận dụng để tranh phiếu vào Nhà Trắng. Cả thế giới hồi hộp “xem kịch” với hai nhân vật chính có nicknames do các “anh hùng bàn phím” trao tặng là “Đại ca Chum” và “ Bác Ba Đần”. Có người còn tin rằng, chính quyền Tàu Cộng đã tung virus đánh phá nước Mỹ, để trả thù “đại ca Trump”, có kết quả TT chính thức là hết dịch liền hà, thực hư thế nào, có Trời mới biết!

 

Cuộc bầu cử này “có một không hai” trong lịch sử Mỹ Quốc vì đã làm… dân Việt mình chia rẽ chửi nhau trên “phây” loạn cào cào. Tôi sợ mấy chuyện “trâu bò guýnh nhau ruồi muỗi chết” nên giữ thái độ “im lặng là vàng”, nhỏ em trong xóm thắc mắc:

- Bộ chị …hổng bị gì sao? Bà con hớn hở có, buồn bã có, tức giận có, rần rần kìa!

- Gỗ đá sao mà không bị?? Mà thôi, “lòng trần còn mơ vương khanh tướng, thì đời còn mưa bay gió cuốn”, mọi việc đã xong rồi, đừng khơi ra làm chi nữa.

Trong lúc mọi người chú ý vào chuyện bầu cử, thì lũ virus lì lợm bắt đầu trỗi dậy như bóng quế hồn ma, khiến số ca nhiễm và tử vong lại tăng lên, (lần đầu tiên có một thứ “made in China” sống dai hơn đỉa đói!). Nhiều thành phố lại cảnh báo bà con, hạn chế các dịp ăn uống họp mặt trong nhà, kể cả lễ Giáng Sinh và tiệc New Year.

 

Dù muốn dù không, tôi cũng phải đi shopping để mua một số thứ cần thiết cho gia đình. Chùa Bà Đanh vắng như thế nào tôi không biết, nhưng tôi bảo đảm shopping mall này vắng hơn … Chùa Bà Đanh, nhiều tiệm đóng cửa kín mít, không hẹn ngày mở cửa. Tôi bước vào tiệm quần áo yêu thích của tôi. Đây là tiệm khá đắt tiền vì hàng hoá chất lượng tốt. Bình thường tiệm này ít khi bán sale, mà có sale thì cũng chỉ 20-25% off, vậy mà giờ đây treo bảng bự tổ chảng: “Everything 75% off” làm tôi cứ ngỡ mình nhìn lầm. Tôi lựa được hơn chục món, cô bạn đi chung cũng tìm được gần hai chục món (cô ấy bảo chờ hết dịch đem về Việt Nam cho anh chị em còn ở bển). Ra quầy tính tiền, cả khách lẫn người bán hàng đều mang bộ mặt buồn thiu. Theo lời cô nhân viên, tiệm đang thanh lý hàng hoá để chuẩn bị khai “bankruptcy”, dẹp tiệm, tôi nghe mà lòng đau khôn xiết, rồi mai này tôi sẽ mua quần áo ở đâu?!

Khệ nệ ôm bịch đồ về nhà, tôi kể nỗi lòng của mình cho ông xã, ổng nói:

- Nãy giờ anh thấy em đứng trước gương thử hết bộ này đến bộ kia, mỉm cười mãn nguyện vì mấy chiếc áo ưng ý giá …rẻ, có thấy buồn bã gì đâu?!

- Mình không mua thì người khác cũng mua. Anh nhớ hồi còn bên quê nhà, mỗi khi cắt cổ gà làm thịt, có khi con gà chưa chết hẳn mà giãy giụa trên sàn đất, người ta phải cứa thêm một nhát dao “nhân đạo” cho nó mau thoát kiếp, thì bữa nay em cũng vậy, mạnh tay mua nhiều nhiều để giúp cho tiệm mau …phá sản!

 

Giờ thì năm 2020 đang đi qua với những “kỷ niệm” …ám ảnh. Tuy nhiên, những tin tức tốt đẹp về vaccine vừa hé mở, chắc chắn năm 2021 sẽ là một năm tươi sáng.

Nói có Chúa làm chứng, tôi mơ từng ngày từng giờ, các hàng quán sẽ mở lại rộn ràng, tôi sẽ đi ăn và order takeout thường xuyên (suốt thời gian qua tôi phải gồng mình đảm đang nội trợ, oải lắm rồi!), các rạp chiếu phim hãy sáng đèn, cho tôi được tái ngộ người hùng James Bond, các shopping centers không cần “sale” phần trăm nào hết á, tôi sẽ đi mua sắm, các hãng máy bay, các resorts hãy lên chương trình đón khách, giá cả không quan trọng, gia đình tôi sẽ đi du lịch.

Tôi chẳng phải “đại gia”, triệu phú, nhưng ai đó đã nói “tiền nhiều để làm gì?”, nghĩa là có nhiều xài nhiều, có ít xài ít (tóm lại là có nhiêu xài nhiêu), chúng ta sẽ hợp sức làm hồi sinh cuộc sống này.

Tôi tin rằng, rất nhiều người cũng giống như tôi, đang tiễn “vong” 2020 trong niềm hân hoan, không hề hối tiếc.

 

Edmonton, những ngày cuối năm 2020

KIM LOAN

Mẹ đã mua chưa những chậu hoa thơm?

Cành mai vàng trong căn phòng khách nhỏ

Tôi vẫn thấy mình đứng bên cửa sổ

Nhìn ra ngoài mơ mộng một trời Xuân

 

Chuyến bay miệt mài đi giữa màn đêm

Vượt đại dương mang theo hồn lữ thứ

Tạm biệt tuyết rơi, gió lạnh viễn xứ

Đứa con thân yêu đang trở về nhà

 

Nỗi vui mừng, vội vàng phố tôi qua

Hàng cây cũ nhìn tôi như chào đón

Những khuôn mặt quen bạn bè, lối xóm

Tất cả là ba mươi Tết trong tôi

 

Đêm nay tôi sẽ thức, sẽ rong chơi

Về quá khứ tìm mùa Xuân đã mất

Xin chào quê hương ngày Ba Mươi Tết

Đêm nay giao thừa tôi trẻ lại như xưa

 

Kim Loan

bottom of page