



ĐI XEM BÓI
Nàng là nhỏ bạn thân cùng xóm cùng lớp với tôi, rất thích đi coi bói, hễ nghe “danh” của ông bà thầy bói nào là nàng tìm đến, nhất là từ khi nàng biết yêu. Tôi là người luôn được (bị) nàng rủ đi theo dù tôi đã cố từ chối, nhưng nàng năn nỉ quá, vả lại, mỗi khi xong việc, nàng dẫn tôi đi ăn gỏi đu đủ khô bò và uống nước mía, nên tôi đành… nhận lời.
Lần ấy, nàng thất tình, ủ rũ như gà mắc mưa, tôi cản cỡ nào nàng cũng nhất quyết đi gặp thầy bói, để hỏi “tại sao tình tan vỡ”, và “khi nào tái hợp?!”
Vòng vo quanh co trong hẻm Vạn Kiếp gần chợ Bà Chiểu, cuối cùng cũng tìm được nhà “thầy” (Có ai giải thích cho tôi, tại sao các ông bà thầy bói hay ở nhà trong hẻm, vì tôi đi với nàng nhiều lần, chưa bao giờ được đến nhà mặt tiền?)
Nàng bấm chuông, thầy từ từ hiện ra, lừ đừ mở cổng cho hai đứa vào, rồi hỏi:
– Hai cô coi hả?
Tôi nhanh nhẩu:
– Dạ không, chỉ có cô này thôi!
– Sao cô không coi?
– Vì tôi hổng… mê!
Nàng nhéo tôi một cái, nhìn thầy như xin lỗi!
Thầy lạnh lùng chỉ vào phòng khách:
– Vậy cô ngồi đây chờ, còn cô này đi vào trong theo tui!
Trong lúc chờ đợi, thầy này… chơi đẹp, mở nhạc nho nhỏ, du dương, và bất ngờ khi đó là giọng hát Duy Quang. Tôi thích nghe Duy Quang qua một số bài bố Phạm Duy viết “đo ni đóng giày” cho con trai vì giọng anh ngọt ngào, hiền lành, thư sinh. Nhưng lần này, tôi được nghe Duy Quang hát loại nhạc khác, nhạc lính Việt Nam Cộng Hoà, hay không thể tả, mà lại cả một tape liên tục. Tôi nghe say sưa mà quên thời gian hơn nửa tiếng đã trôi qua, thầy đưa nàng ra, rồi tiễn hai đứa ra cổng.
Tôi bước đi mà tâm trí vẫn còn lâng lâng vì tiếng hát Duy Quang, chẳng để ý đôi mắt nàng đỏ hoe, tôi quyết định quay lại cổng.
Thầy vẫn đứng đó, cười đon đả:
– Cô muốn coi hả, tui coi luôn cho, hôm nay tui vắng khách.
– Dạ không! Tôi chỉ muốn hỏi tape nhạc Duy Quang tên gì vậy thầy, hay quá trời luôn á!
Thầy tắt ngay “nụ cười chào hàng”, nhìn tôi như muốn quạu, cũng may nhờ có nàng đứng sụt sùi kế bên làm thầy động lòng, và quăng cho tôi câu trả lời khô như ngói:
– Tape Tình Anh Lính Chiến!
Hôm sau, tôi ra chợ trời Tạ Thu Thâu tìm thâu tape nhạc, đem về nhà, các ông anh bà chị tôi cũng nghe say mê, còn thâu đi thâu lại cho bạn bè cùng nghe.
Lần đầu tiên, tôi mới thấy lợi ích của việc… xem bói!
Còn chuyện tình của nàng ấy, sau chuyến đi đó, nàng còn đi thêm vài chỗ nữa, dĩ nhiên là cũng có mặt tôi tháp tùng chớ ai, không phải vì mấy dĩa gỏi đu đủ và ly nước mía, mà vì ai nỡ bỏ bạn bỏ bè khi nó đang đau khổ vì yêu đương?
Cũng nhờ vậy mà nàng sáng mắt được chút xíu, vì ông bà thầy bói nào cũng phán như đinh đóng cột, rằng “gương vỡ sẽ lại lành”, cứ chờ đợi rồi “người ta” sẽ quay lại như Kim Trọng tái hợp Thuý Kiều, cùng nhau ca bài ca “về đây nghe em, ta nối lại tình xưa ”.
Nhưng tháng ngày trôi qua, nàng vẫn âm thầm “đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành”, đường tình vẫn tối như đêm ba mươi, tôi bèn mạnh miệng khuyên bảo nàng:
– Mày bỏ tật đi coi bói được chưa nà!? Còn chuyện tình duyên, thì thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương lòng!
Người bên ngoài lúc nào cũng sáng suốt hơn kẻ trong cuộc đang u mê. Mày ngã tao nâng, tao ngã mày nâng vậy đó! Nàng cũng dần nguôi ngoai, tuy vẫn giận hờn mấy thầy bói đã từng cho nàng biết bao hy vọng, nhưng dù sao họ cũng là chỗ dựa, an ủi nàng trong nỗi bơ vơ tình ái của tuổi mới lớn.
Một buổi chiều kia, nàng vội vã chạy qua nhà tôi, thầm thì:
– Ê, xóm mình có một chỗ xem bói mà xưa này tụi mình không biết nha!
Tôi trố mắt ngạc nhiên:
– Thật vậy sao? Là ai vậy cà? Mà sao mày biết?!
– Thì hồi nãy có hai cô gái ghé nhà tao đổ xăng (nhà nàng làm nghề bán xăng lẻ), rồi hỏi thăm nhà chị Tý bán bánh chưng, tao hỏi có chuyện chi không, họ bảo họ từ Chợ Cầu, nghe “danh tiếng” thầy bói là chị Tý nên tìm đến.
– Chị Tý mập con bà Sáng bán bánh chưng ư? Bà đó mà coi bói nổi tiếng ư?
Nhà bà Sáng, mẹ của chị Tý làm nghề bán bánh chưng mini, cỡ nửa bàn tay. Cả ngày chị Tý đầu tắt mặt tối phụ mẹ gói bánh, luộc bánh, giao bánh cho các chợ xung quanh. Đôi khi học bài khuya, tôi cũng đến mua một cái, ăn vừa đủ no. Vì quanh năm bận bịu làm bánh nên căn nhà chị Tý rất bộn bề, và theo năm tháng cũng trở nên cũ kỹ. Chị Tý, khá đứng tuổi, dáng người thấp, đẫy đà vì suốt ngày ngồi làm và… ăn bánh, nhan sắc vốn đã tàm tạm ngày càng xuống dốc vì chưa có ai rước (đời hoa chóng già vì thiếu …mặn mà), nên mọi niềm vui nỗi buồn của chị tập trung cả vào… nồi bánh!
Tôi lẩm bẩm:
– Tao vẫn chưa tưởng tượng chị Tý là “thầy bói lừng danh”.
– Người ta từ Chợ Cầu xa xôi tìm đến thì không phải là không có lý do nhé!
– Thì mày cũng đã từng lôi tao đi khắp các hẻm Phú Nhuận, hẻm Chùa Nghệ Sỹ, hẻm Cô Giang Cô Bắc đấy thôi, mà có kết quả gì đâu! À mà thôi, mày đã hứa với tao là bỏ chuyện bói toán rồi thì quan tâm làm gì đến bà Tý mập?
– Tụi mình đến đó thử xem sao, coi như … ủng hộ hàng xóm láng giềng. Tao hứa lần cuối với mày, sau lần này nếu không đúng, tao thề sẽ vĩnh biệt bói toán, chịu hông?
Tôi hơi bực mình:
– Chuyện dĩ vãng đã qua, Kim Trọng cũng đã biến mất tăm, vậy bây giờ Thuý Kiều, í lộn, nhà ngươi đến gặp chị Tý để xem chuyện chi??
– Đã nói là thử thôi mà. Mày làm ơn giúp tao lần này nữa thôi, nhe?
Chập tối ngày hôm sau, xóm nhỏ ẩm ướt sau cơn mưa chiều lất phất, tôi và nàng đi vào ngõ chợ, vòng qua bên hông Nhà Thờ, tìm đến nhà chị Tý. Trong bóng mờ, chị Tý ngồi bên bếp lửa trước sân, canh chừng mẻ bánh cuối ngày để giao cho nhóm công nhân xí nghiệp làm ca ba.
Thấy hai đứa tôi bước vào, chị Tý ngước lên mỉm cười:
– Mua bánh hả cưng?
Chúng tôi ngồi xuống bên bếp, nàng nhìn chị Tý ra vẻ “bí mật”:
– Dạ, em đến đây nhờ chị xem giùm một quẻ.
Chị Tý giật mình, làm rớt khúc củi định bỏ vào lò:
– Tầm bậy nà! Chị mà bói toán gì!!
– Thôi chị đừng... mắc cở nữa, em biết rõ lắm luôn. Hôm qua em chỉ nhà chị cho hai cô gái Chợ Cầu chớ ai!
Đến nước này, chị Tý đành phải im lặng, rồi chị đứng dậy, kéo hai đứa tôi ra cổng:
– Chỗ hàng xóm thân tình, chị nói thiêt, chị không biết bói gì hết á! Người ta tìm đến thì chị nương theo mà nói… tào lao cho người ta khuây khoả nỗi lòng, vậy thôi. Nói hên thì trúng mà nếu có trật cũng đâu ai dám bắt đền. Tóm lại, hai đứa coi như chưa nghe thấy gì nhe, còn bây giờ thì mau đi về cho chị còn luộc bánh!
Nói xong, chị dúi vào tay tôi hai cái bánh nóng, rồi nhanh nhẹn quay trở vào nhà, nàng bạn yêu quý của tôi không kịp tra hỏi thêm câu nào nữa.
Bước ra ngoài đường cái, tôi mừng rỡ trong bụng, hớn hở bóc bánh ăn, còn nàng đi bên cạnh tôi, im re thẫn thờ. Chẳng biết vì mải suy nghĩ câu nói của chị Tý hay đang tiếc nuối lời hứa “cuối cùng” đã hứa với tôi?!
20/10/2022
Kim Loan
_________________

HALLOWEEN KỂ CHUYỆN
Ở chỗ tôi làm, chị bạn người Cambodia có chồng bất ngờ qua đời vì heart attack. Cả nhóm chúng tôi hẹn nhau đến nhà quàn thăm viếng tang gia, nhưng chiều hôm ấy tôi có việc đột xuất, rồi bị lạc đường, nên đến nơi thì trời đã chạng vạng, bãi đậu xe vắng tênh. Tôi nghĩ bụng, đã đến rồi thì phải vào xem sao, may quá, chị bạn đứng ngay giữa sảnh đang nói chuyện với một nhân viên nhà quàn. Thấy tôi, chị nắm tay tôi nức nở:
- Cám ơn Laura đã đến, nhưng đã hết giờ thăm viếng nên quan tài đã được đẩy trở vào phòng lạnh trên lầu. Nhờ anh nhân viên dẫn Laura lên đó nghen, còn mình phải đứng đây chờ con trai mang giấy tờ bổ sung các thủ tục ma chay.
Giờ thì tôi mới nhìn kỹ chàng nhân viên này. Anh ta dáng rất cao to như một vệ sỹ (chắc là “tiêu chuẩn” của nhà quàn chăng?), đẹp trai phong trần nhưng tuổi tác khó đoán, đặc biệt là khuôn mặt rất hay… cười. Mà tôi cũng chả biết nói sao về nụ cười này, vì miệng anh ta rộng, hàm răng quá trắng và quá đều trên mức cần thiết, nên khi nở miệng cười như có chút đùa cợt, và chút tinh quái lạ lùng. Tôi gọi anh ta là chàng Răng Trắng .
Tôi làm chung với chị này chưa đầy năm, chưa gặp mặt cũng chả biết tên chồng chị ấy, hôm nay đến để an ủi chia buồn với chị. Tôi chần chừ, muốn từ chối cái vụ “lên lầu viếng xác” nhưng chị ấy nhìn tôi với đôi mắt ướt sũng đỏ hoe, và chàng Răng Trắng đang đứng dưới chân cầu thang với ánh mắt thôi miên, mỉm cười, như chọc quê tôi nhát gan, khiến tay chân tôi rụng rời, chỉ biết ngoan ngoãn líu ríu theo anh ta lên lầu.
Lầu rộng mênh mông, cuối giờ làm nên vắng lặng, chả thấy ma nào, (í lộn, chả thấy người nào). Ngoài trời mùa Thu mây xám cũng không u ám bằng không khí trên lầu nhà xác này. Chân tôi bắt đầu run, sàn nhà bóng lộn, tôi mà run thêm tí nữa là té chớ chẳng chơi. Rồi thì cũng đến căn phòng ngay cuối hành lang. Chàng Răng Trắng lịch sự mở cửa nhường tôi vào trước, (lịch sự cũng trên mức cần thiết luôn á). Tôi run rẩy bước vào, chàng Răng Trắng theo sau, bước tới vén tấm màn nhung màu đỏ cho tôi nhìn thấy chiếc quan tài, rồi nhẹ nhàng lui bước. Tôi vã mồ hôi hột, chưa biết phải làm gì thì nghe sau gáy mình có tiếng thở, tôi quay phắt lại thì thấy chàng Răng Trắng đang nhoẻn miệng cười:
- Xin lỗi, xin lỗi, tôi quên mở nắp quan tài cho cô nhìn bạn cô lần cuối.
Lỗi phải gì chớ, bạn bè gì chớ, tôi nào biết mặt ngang mũi dọc người quá cố ra sao! Tôi quay qua định giải thích và lắp bắp cầu cứu van xin anh ta ở lại với tôi, nhưng anh ta đã nhanh tay mở nắp quan tài, và cũng nhanh nhẹn biến mất ngoài cửa. Tôi vẫn đứng chôn chân tại chỗ, miệng môi tê cứng, chắp tay thì thầm : “Anh gì đó ơi ơi, anh yên nghỉ nhe…” rồi làm dấu thánh giá theo thói quen, và đi lùi bước ra cửa, ào ào như một cái máy, đến cầu thang nghe tiếng chị bạn nói chuyện, tôi mới biết mình đã qua cơn sợ hãi, coi như “tai qua nạn khỏi”.
Thôi thế cũng xong phần chia buồn, tôi mừng rỡ nghĩ thầm, bước đến bên chị để mở lời an ủi cuối cùng và chào tạm biệt, thì chị bạn, lại một lần nữa, nắm tay tôi, mếu máo van xin:
- Laura ơi, con trai chị bận việc phải đi rồi, Laura có thể ở lại cùng chị theo chàng nhân
viên này xuống dưới basement nhà quàn để chọn hũ đựng tro cốt cho chồng chị nhe.
Nước mắt chị giọt vắn giọt dài, thảm não, Răng Trắng bỗng xuất hiện hồi nào mà tôi hổng hay biết, chàng nhìn tôi nháy mắt… mỉm cười. Tôi nỡ lòng nào nói lời từ chối chị ấy trong cơn hoạn nạn này? Lỡ leo lưng cọp thì leo tới cùng chớ sao!
Xuống dưới basement, cũng rộng mênh mông như trên lầu, nhưng vì dưới tầng hầm nên chỉ có ánh đèn màu vàng heo hắt, mờ nhạt èo uột, càng làm không khí thêm não nề. Đi vòng qua mấy khúc cua, mỗi khúc có một bức tranh màu tối treo trên tường và một bình hoa giả to tướng ngay chiếc bàn nhỏ, (chả hiểu họ để tranh để hoa dưới đây cho... ai ngắm?), tiếp theo là đến phòng đầy ắp các hũ các loại cho người nhà chọn lựa cho người đã khuất. Phòng này đèn tương đối sáng, tôi giúp chị ấy chọn được một hũ, giá cả phải chăng, rồi đứng chờ gần cửa trong khi chị ấy tiếp tục phần giấy tờ với chàng Răng Trắng.
Lúc này tôi mới nhớ ra, hồi nãy trước khi rời nhà vội vã, tôi có uống một ly nước, nên giờ muốn tìm nhà vệ sinh. Tôi cũng ráng nhịn nhưng cái bụng không chịu yên, lại thấy phòng washroom ngay kế bên, tôi bèn hỏi chàng Răng Trắng có cần chìa khoá đi washroom không, chàng bảo là cứ mở cửa vào.
Tôi bước qua bên ấy, lấy tay mở cửa thì thấy kẹt cứng, nghĩa là có người ở bên trong. Tôi đành đứng đợi, đúng lúc đó chị bạn và chàng Răng Trắng cũng xong xuôi mọi việc, nên tôi theo họ đi trở lại trên sảnh. Chị bạn quay qua tôi “thank you” liên tục, rồi chuẩn bị ra ngoài có con trai chị đã đến đón. Chàng Răng Trắng cũng khoác áo vào rồi theo chúng tôi, khoá cửa ra về. Tôi hốt hoảng:
- Anh cũng về sao? Tôi nghĩ còn người dưới nhà vệ sinh, hồi nãy tôi không vào được vì cửa khoá.
Chàng Răng Trắng lại cười bí hiểm:
- Oh, không có ai đâu! Tôi là người làm việc cuối cùng ngày hôm nay.
Tôi vẫn cãi:
- Anh nên kiểm tra lại, vì hồi nãy nhà vệ sinh khoá bên trong, tức là có người, hay là khách hàng nào đó?
Răng Trắng xua tay:
- Chị này và cô là khách cuối cùng, tôi biết mà. Còn cái vụ washroom bị khoá cửa là chuyện bình thường. Nhiều khi tôi ở lại làm tối, còn nghe cả tiếng gạt nước bồn vệ sinh nữa cơ. Quen rồi!
Tôi lên giọng:
- Anh đang đùa có phải không? Tôi không thích đâu!
Răng Trắng lắc đầu, cười mỉm chi:
- Cô muốn nghĩ sao thì tùy cô đấy. Cô không biết rằng “mấy người” nằm trên kia cũng có nhu cầu đi vệ sinh hay sao, hahaha ... Mà thôi muộn rồi, chào cô nhé! Chúc một buổi tối an lành.
Tôi liếc chàng ta, nghiêm mặt lạnh lùng (giỡn hổng dzui gì ráo!), rồi bước xuống bậc tam cấp, chị bạn đã về từ lúc nào, cả cái bãi đậu xe mênh mông trong bóng tối mờ mờ với chiếc xe của tôi lẻ loi, vậy chàng Răng Trắng đậu xe ở đâu nhỉ? Trời sập tối, gió lạnh đến run người, nghe cả tiếng lá khô xào xạc dưới đất theo từng cơn gió. Tôi bỗng nghe tiếng bước chân phía sau mình. Mà là ai mới được chớ, vì bãi đậu xe chỉ có xe tôi? Hay là tôi tưởng tượng theo tiếng lá khô? Tôi bước nhanh hơn, thì bước chân phía sau cũng nhanh hơn, như cố đuổi theo tôi. Tôi bắt đầu chạy, thì cũng nghe tiếng chạy theo. Tôi tiếp tục chạy theo bản năng, đến bên chiếc xe thì một lần nữa, nghe tiếng thở dồn dập ngay sau gáy, tôi quay người lại thì thấy khuôn mặt chàng Răng Trắng đang nhe răng cười, đưa cho tôi một chiếc bao tay:
- Cô làm rớt nè! Mà sao cô chạy nhanh quá, tôi rượt theo hết cả hơi. Thôi cô về đi, kẻo lạnh.
Tôi chụp cái bao tay, chưa hoàn hồn nhưng vẫn nói lời cảm ơn, chui vào xe, rồ ga thật mạnh lao ra khỏi bãi đậu xe. Nhìn lên kính chiếu hậu, bóng chàng Răng Trắng vẫn đứng đó, lần này không nở nụ cười mà la lớn:
- Cô lái xe cẩn thận nhé , đường một chiều đó nghen!
KIM LOAN

NHAN SẮC MÙA THU
Cũng giống như nhiều thành phố khác của Canada và của các nước xứ lạnh trên thế giới, Edmonton của tôi đón mùa Thu vàng xao xuyến lòng người mỗi độ “gió heo may lại về…”
Lái xe qua khắp các nẻo đường của thành phố, dù muốn hay không muốn, người ta vẫn bị bâng khuâng bởi những cây lá đổi màu, đẹp như “thiên đường trần gian” mà tạo hoá đã ban tặng cho loài người. Khi đi bộ, đi hiking trong những rẻo mini trails, với người đam mê chụp ảnh thì thời gian dừng lại chụp hình hoặc selfie còn… dài hơn cả thời gian đi bộ. Cuối tuần, người ta lại rủ nhau đi picnic ở các công viên, tận hưởng giờ phút ăn uống nghỉ ngơi bên hồ nước soi bóng những lá vàng rụng rơi theo từng cơn gió, vì chẳng bao lâu nữa là bước vào mùa Ðông giá rét.
Xóm tôi ở gần một trong những “danh lam thắng cảnh” khi Thu về của miền bắc thành phố Edmonton, con đường số 97 street. Từ khi lá mới chớm màu, cho đến khi Thu chín rực trên các hàng cây với màu vàng, cam, nâu, xanh lẫn lộn, tạo nên một bức tranh lộng lẫy cả một đoạn đường hơn một cây số. Người ta từ khắp nơi, bắt đầu đổ bộ lai rai xuống những tàn cây để chụp hình kỷ niệm.
Hàng ngày đi làm, đi chợ, hay đi công việc, tôi đều đi qua đoạn đường Lá Vàng này, nhất là khi chiều buông, thấy cả hàng xe nối đuôi nhau, thả từng nhóm người xuống, có khi còn mang theo “phụ kiện” cho những tấm hình thêm sống động: nào cây đàn guitar, nào tấm trải, giỏ picnic, nào cả va li áo quần để thay đổi, thậm chí có cả …chó và mèo cưng nữa. Ðôi khi, có những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, đem theo lỉnh kỉnh đồ nghề tác nghiệp, khuân ra vác vào, làm vui nhộn và rộn ràng cả khúc đường. Thỉnh thoảng còn có cả những cặp tân hôn, còn nguyên váy áo cô dâu chú rể, cả đoàn xe cưới kéo đến đây chụp hình, náo động tưng bừng, trao lời thề nguyền yêu nhau cho đến … mùa thu cuộc đời! Chẳng biết sở Cảnh Sát có cho biết thống kê tai nạn xe cộ ở con đường này chưa, vì hầu như lần nào tôi đi qua đây đều phải ghé mắt nhìn, nhiều lần bị những xe phía sau bóp còi inh ỏi.
Ông xã tôi thì cho rằng, dân da trắng sinh ra và lớn lên nơi này, nên họ đã quá quen với sự thay đổi thời tiết bốn mùa, vì vậy họ không ngạc nhiên, trầm trồ như chúng ta.
Còn tôi thì nghĩ, có lẽ người bản xứ da trắng không chơi… facebook, chớ dân Việt mình mùa này thì trên facebook đầy những hình Thu Vàng, xem mà loá con mắt. Rõ ràng là “tụi Tây” không bằng chúng ta cái vụ này!
Những năm đầu mới định cư ở Canada, đến khi các con còn bé, gia đình chúng tôi cũng từng hăng hái bon chen đi chụp những tấm hình đủ kiểu đứng ngồi quỳ nằm trong rừng Thu, hình còn đầy trong các cuốn albums trong nhà. Ðến bây giờ thì thật sự ngán ngẩm, thay vào đó là chiều chiều, tôi ngồi nhìn qua cửa sổ, ngắm “mùa thu lá bay anh đã đi rồi” mà than vãn, hờn giận vu vơ và… chế thơ Xuân Diệu:
Trong tôi Thu đến đã …lâu rồi
Từ lúc tóc xanh pha tóc bạc
Ðêm về thương tiếc tuổi đôi mươi!
Mà Thu xứ này ngắn ngủi quá! Nào có xa xôi gì đâu! Chỉ mới một hai tuần trước thôi, con đường Lá Vàng còn rực rỡ một khung trời của Mùa Thu chín, những hàng cây điệu đà với muôn sắc màu của lá, chiều nào cũng dập dìu người và xe dừng lại, thưởng thức ngắm nghía, chụp hình tới tấp, dạo chơi vui vẻ trong tiếng rơi lả lơi của những chiếc lá nhẹ bay …
Nhưng khi quý vị độc giả đọc được bài này thì những hàng cây đang rụng lá, khẳng khiu, trơ trọi giữa những cơn gió cuốn cuối mùa, lạnh lẽo theo những vầng mây xám vây quanh. Và người ta vẫn chạy xe qua con đường ấy, nhưng chẳng còn ai dừng lại, (dù là nửa con mắt) để nhìn vùng lá khô ấy, dù chỉ là một phút thôi. Con người ta vô tình quá đỗi, hờ hững như chưa hề đắm đuối say mê, chưa từng xuýt xoa chiêm ngắm, chưa từng ôm ấp mộng mị làm thơ nhớ nhung, khi nơi đây còn là một tuyệt tác mỹ miều, rạo rực lòng người, tôi cũng buồn lây mà cảm hứng xót xa giùm … Mùa Thu:
Thu lộng lẫy nồng nàn
Bao kẻ đón người đưa
Thu cuối mùa tàn úa
Giận ai kia hững hờ …
Ðời bạc thế!! Bởi vậy, các ca sĩ, nghệ sĩ, các bà cô …khi vào tuổi “lá úa khóc người đi” cũng nên chấp nhận sự thật phũ phàng này. Ai cũng chỉ có một thời thanh xuân rất đẹp (cái thời mà không cần trang điểm, không kẻ mắt tô son, mà vẫn đẹp xinh, đầy sức sống). Ðừng nên cố gắng níu kéo một cách thái quá. Nhiều người không chịu …già, vẫn diện những bộ áo quần rất “trẻ trung” hơn mức cần thiết, tóc cắt kiểu “maika” để thêm phần … nhí nhảnh, rồi đi thẩm mỹ viện cắt mắt để vẫn … mơ màng ngây thơ, đi bơm môi để vẫn có làn “môi cherry” đỏ mọng xinh xinh nũng nịu. Nhưng đó chỉ là những cứu vãn bên ngoài, nhìn xa xa thì cũng hấp dẫn, chớ lại gần thì … hổng phải vậy, chồng con trong nhà biết rõ lắm á, nhất là mỗi sáng ngủ dậy…giật mình cứ tưởng còn Halloween. Bởi thế tôi đã từng làm thơ nịnh chồng:
Ai sẽ cùng ta thức dậy mỗi ngày?
Ta chưa điểm trang, tô vẽ lông mày
Người vẫn nhìn ta dù ta đang … xấu!
Tôi không phản đối thẩm mỹ khi cần thiết, miễn sao đừng quá lố mà phản tác dụng. Tôi phải nói vậy, vì biết đâu sau này, nổi hứng … hồi xuân bất chợt, tôi lại đi trùng tu nhan sắc đang về chiều của mình, dù rằng tôi không bao giờ có ý định đó, nhưng never say never.
Nói chung, ở tuổi mùa thu hay mùa đông của cuộc đời, tâm hồn lạc quan tươi trẻ là điều quan trọng, cho nên chẳng ai ngạc nhiên khi nhìn khắp toà soạn Trẻ đều là người … có tuổi mà họ vẫn ngang nhiên lấy tên Báo Trẻ đấy thôi!
Hình như tôi đang đi …lạc đề thì phải? Ðang nói đến Mùa Thu đẹp thế cơ mà! Dù Thu Vàng hay Thu Sầu lá héo khô, cũng cho chúng ta những phút giây thổn thức và những bài thơ bài nhạc tuyệt vời ngẩn ngơ, thấm thía tim gan. Vì Mùa Thu mà có thi nhân hay vì có thi nhân mà Thượng Ðế phải tạo ra Mùa Thu?
Cái nào cũng được, xin cám ơn cuộc đời, cám ơn Mùa Thu!
Edmonton, Mùa Thu 2021
KIM LOAN

TIẾC THU
Tôi thích ngắm những buổi chiều lá rụng
Nghe bâng quơ tiếng thở của thời gian
Những con đường thơ mộng một màu vàng
Đang run rẩy theo từng cơn gió bụi
Là tôi biết mùa thu đang tàn lụi
Mây lững lờ trôi níu kéo tơ vương
Để hồn tôi xao xuyến suốt đêm trường
Mang trăng xám chơi vơi vào giấc ngủ
Là lễ hội Halloween ma quỷ
Lũ trẻ con hớn hở một ngày vui
Áo quần, hoá trang những khuôn mặt người
Trick-Or-Treat rộn ràng từng góc phố
Tôi đã ước trở lại thời thơ bé
Đêm trung thu phá cỗ đón trăng rằm
Mơ bay cao thăm chú Cuội chị Hằng
Có thiên đường thênh thang trong ánh mắt
Dù vẫn biết thu nơi đây rất ngắn
Đến rồi đi, như giấc mộng, tình cờ
Tôi lang thang chưa viết hết bài thơ
Nức nở thương hàng cây trơ trụi lá
Là tôi biết mùa đông đang gần quá
Tuyết sẽ phủ đầy trắng xoá mọi nơi
Ngày vội đi qua, cho bóng chiều rơi
Trời đất hoang vu màu buồn man mác
Còn đâu nữa lá khô bay xào xạc
Để tôi ngẩn ngơ hỏi gió về đâu?
Nên chiều nay nhìn lá úa thay màu
Bỗng thấy tiếc mùa thu vàng ngây ngất
KIM LOAN
THANKSGIVING CANADA KỂ CHUYỆN
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween .
Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie . Tôi thì nhanh gọn hơn, đem táo nấu với nước, có ngay apple juice giải khát tuyệt vời.
Một buổi chiều như thế, trong bữa cơm, nhìn ra ngoài vườn sau đầy lá rụng, chúng tôi ôn lại những ngày đầu tiên trên xứ này, rồi ông xã nhắc:
- Kỳ này em có câu chuyện nào tạ ơn Canada? Bao lâu nay em đã kể hết chuyện chưa, nào là ở trại bị phái đoàn Mỹ “đá” là có ngay phái đoàn Canada “lượm”, nào là những ngày chân ướt chân ráo đến đây, nào là “Oh Canada”, nào là “Canada Là Dzậy Đó”, rồi chuyện gia đình mình bị mất bộ đồ đánh golf, chuyện em biết nấu ăn nhờ youtube ...
- Anh nghe nè, mỗi ngày thức giấc, được ngắm nhìn cuộc đời, được hít thở không khí tự do dân chủ, cũng đủ để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn quê hương thứ hai, mà nếu quan sát xung quanh thì cũng vẫn có chuyện để kể anh nhé .
Bữa nọ, lúc con gái chúng tôi chưa lấy chồng, cái smoke alarm nhà tôi bỗng réo liên hồi dù tôi chỉ nấu ăn bình thường, không có nướng, thui, hay đốt lò gì cả. Sau đó thì im ắng nhưng cứ 15 phút lại réo, cho đến lần thứ một chục, con gái tôi chịu không nổi, liền gọi cho đường dây nóng về “an toàn sức khoẻ” trình bày sự việc. Họ nghi ngờ có thể do đường dẫn gas bị rò rỉ nên khuyên chúng tôi ngay lập tức mở hết các cửa sổ, rồi di tản ra ngoài để họ gọi xe chữa cháy. Trong lúc mấy mẹ con lo mở cửa sổ đã nghe tiếng còi rú inh ỏi của fire trucks quanh xóm (nhà tôi chỉ cách trạm cứu hoả vài blocks đường). Con gái đẩy tôi và em nó ra ngoài cho lẹ, để nó “hy sanh” ở lại tiếp mấy người nhân viên cứu hoả. (Ba nó đi làm chưa về, chứ nếu có nhà, chắc cũng bị nó đẩy ra ngoài). Tôi và con trai chạy ra ngoài góc đường, mới thấy không những có 1 fire truck đậu trước cửa nhà tôi, mà còn có thêm một chiếc nữa và một xe cứu thương (ambulance) bên kia đường, chắc là chờ …tiếp ứng?!
Có khoảng 6 chàng nhân viên, lục đục khiêng vác các dụng cụ, thiết bị cần thiết, rồi thay áo quần bảo hộ đầy đủ, rồi tiến vào nhà tôi rầm rộ…
Sau gần nửa tiếng lục lọi các ngõ ngách trong nhà, từ dưới basement đến lầu trên, thám thính đường gas, nước, điện, cũng như chất vấn con gái tôi thêm vài chi tiết, ghi ghi chép chép, suy nghĩ đăm chiêu, cuối cùng họ rời khỏi nhà tôi với kết luận: cái smoke alarm bị…hư, cần thay cái mới!
Tiễn phái đoàn cứu hoả ra về, tôi la con gái tôi cái tội “mau mắn quá mức cần thiết”, hay nôm na là “tài lanh”, làm tốn kém công sức, thời gian, và tiền bạc của chính phủ. Nó cũng hơi biết lỗi, nhưng vẫn vớt vát:
- Gia đình mình đi làm đóng thuế đầy đủ, không gian lận, không lợi dụng các phúc lợi xã hội, thì chúng ta chớ nên áy náy khi các sự cố xảy ra như ngày hôm nay. Nhưng con cũng xin rút kinh nghiệm, lần sau không “nhanh nhẩu đoảng” nữa.
Tôi ký đầu nó (dù nó đã ...già đầu):
- Rút kinh nghiệm thì phải nhớ nhe, chớ đừng như cái “xứ thiên đường” kia, cứ rút mãi cái dây kinh nghiệm, không bao giờ hết xấu hổ!!!
Nhân chuyện con gái tài lanh, tôi lại nhớ khi con cỡ 7-8 tuổi, có nuôi một con thú cưng, là con hamster nhỏ xíu, để trong cái lồng, có đầy đủ đồ vật y như căn nhà: chỗ để thức ăn đồ uống, chỗ nằm nghỉ ngơi, chỗ chạy bộ thể dục thể thao, có ...lầu leo lên để ngủ. Nó đặt tên thú cưng là “Apple”. Ngày nào đi học về, con cũng ngắm nghía Apple, rồi đem Apple ra nâng niu trên tay, cưng nựng, và hàng tuần theo tôi đi mall mua thức ăn cho Apple.
Một hôm con nói với tôi:
- Mẹ ơi, con muốn trả lại hộp thức ăn của Apple, đây là loại mới nhưng Apple chê.
- Sao con biết Apple chê?
- Vì Apple ăn rất ít .
Tôi nhìn hộp thức ăn, đã vơi gần phân nửa, lắc đầu:
- Chúng ta sẽ mua loại khác, không dễ gì trả lại khi đã xài và nhất là không còn receipt.
Trưa thứ bảy, hai mẹ con ghé tiệm chuyên bán thức ăn cho vật nuôi, con đi vòng vòng chọn hộp thức ăn cho Apple, sau đó ra quầy, tôi chuẩn bị thanh toán tiền thì con bỗng lấy ra hộp thức ăn cũ để trả lại. Cô nhân viên bán hàng, hỏi bằng tiếng Anh, đại khái là:
- Lý do để trả lại?
Con trả lời tỉnh bơ:
- Apple doesn’t like it!
Tôi tính bật cười nhưng cô ấy gật gù, vui vẻ, đưa con tờ đơn điền vào, rồi thanh toán lại số tiền của hộp thức ăn ấy, bởi họ phục vụ “khách hàng là Thượng Đế”, mà “khách hàng Apple” đã không hài lòng với món ăn đó thì họ phải trả lại tiền, thế thôi!
Chuyển qua chuyện khác, chị bạn trong nhà thờ kể, má chồng của chị, được vợ chồng chị bảo lãnh qua đây. Được vài năm, bà đến tuổi lãnh tiền già, dù bà không hề đi làm một ngày giờ nào, không hề đóng góp một đồng thuế nào cho Canada . Vì sống chung với vợ chồng chị, nên bà chẳng tốn kém chi phí sinh hoạt hàng ngày, số tiền bà lãnh hàng tháng, chuyển về Việt Nam cho hai cô con gái ở Bà Rịa. Mười mấy năm qua, số tiền ấy, đã xây được hai căn nhà nhỏ, khang trang trên mảnh đất của gia đình, với đầy đủ tiện nghi. Nay bà thấy đã “ăn” đủ tiền của chính phủ, bà quyết định về Việt Nam dưỡng già trong hai căn nhà do chính số tiền bà lãnh được suốt thời gian qua . Chị bạn nửa đùa nửa thật nói với tôi:
- Mong rằng bà toại nguyện nhắm mắt xuôi tay an lành nơi quê Cha đất tổ, chớ đừng bị bệnh dai dẳng rồi quay lại Canada vào bệnh viện nằm lây lất, tốn thêm tiền của chính phủ, tội chính phủ Canada lắm.
Và bây giờ là câu chuyện tôi được chứng kiến. Có một cô gái trẻ từ Việt Nam qua Canada theo diện lao động. Cô làm ở một hãng xưởng vùng xa, hẻo lánh, cách Edmonton 7 tiếng lái xe. Một ngày kia, cô thấy đau bụng dữ dội, đến bệnh viện, được nằm vài ngày chờ chẩn bệnh, đến khi có kết quả bị Cancer giai đoạn cuối, cô lập tức được chuyển về bệnh viện thành phố Edmonton ngay trong đêm trên một chiếc trực thăng, có một bác sĩ và y tá đi kèm.
Tại bệnh viện, khi biết cô không có thân nhân bạn bè, họ đã liên lạc với ngôi Chùa người Việt (vì cô nói cô là Phật Tử), với hy vọng có những phật tử muốn đến thăm nâng đỡ tinh thần cô ấy. Cô bạn thân của tôi là một Phật tử sốt sắng trong nhóm người đến thăm cô gái kia. Vài tuần sau, cô gái được cho xuất viện, chỉ cần đến bệnh viện theo dõi hai tuần một lần. Dù có thể xin chính phủ trợ cấp cho cô gái thuê một apartment, nhưng cô bạn tôi, là 1 single mom, tình nguyện đem cô gái kia về nhà, để cô ấy có tình thân ấm áp dù chỉ là tình thân mới vay mượn được của người dưng nhưng có nghĩa tình. Thời gian này, thỉnh thoảng tôi có đến nhà bạn để thăm gặp, chuyện trò, giúp người bệnh được tinh thần vui vẻ, bình an. Hơn nửa năm sau, bệnh trở nặng, cô ấy lại trở về bệnh viện và qua đời. Một lần nữa, bệnh viện kết hợp với Nhà Quàn, giúp cô ấy một tang lễ gọn gàng chóng vánh, chỉ cần hai tiếng đồng hồ, đủ cho các sư và Phật tử tụng kinh cầu siêu, rồi hỏa thiêu ngay sau đó. Tất cả chi phí chữa bệnh, hỏa táng, đều do chính phủ chi trả. Ngoài ra, trong thời gian bệnh, cô được lãnh tiền welfare cho chi phí nhà ở, ăn uống, sinh hoạt cá nhân. Trước khi mất, cô gom hết số tiền này, ngỏ ý tặng cho bạn tôi, nhưng bạn tôi xin phép được chuyển cho gia đình cô ấy bên Việt Nam.
Chúng tôi cúng đủ 7 thất cho cô ấy tại Chùa . Người nhà cô ấy, trong khi chờ thủ tục giấy tờ bay qua Canada đem hũ cốt rải trên sông Tu Viện Tây Thiên của Thầy Pháp Hòa, mỗi lần gọi phone nói chuyện với cô bạn tôi, họ đều khóc và luôn miệng lập đi lập lại:
- Cám ơn Canada, tạ ơn đất nước và con người Canada.
Những câu chuyện trên đây, đối với các nước Mỹ, Úc, Canada, Châu Âu, cũng như các nước tự do dân chủ khác trên thế giới, chỉ là chuyện ...bình thường. Nhưng ở những nước Cộng Sản, độc đảng độc quyền, nơi mà quan tham nhởn nhơ ở biệt phủ, trong khi nhiều dân nghèo còn lây lất hàng ngày nơi các bệnh viện chờ cơm từ thiện, thì những câu chuyện tôi vừa kể vẫn là một ước mơ xa vời!
Edmonton, Thanksgiving 2025,
KIM LOAN

NGƯỜI ĐẬU THỦ KHOA
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư.
Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo.
Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến. Bài phát biểu không dài lắm, có những đoạn hài hước khiến mọi người cười nghiêng ngã, khi nói về những kỷ niệm với các bạn và thầy cô. Đoạn cuối thì cảm xúc lắng đọng, khi cậu nói về phút chia tay, về những dự định tương lai, cùng các bạn vươn tới những ước mơ, bước vào đời, giúp ích cho xã hội.
Kết thúc bài diễn văn, cả hội trường đứng lên vỗ tay thật dài, đâu đó vang lên những tiếng huýt sáo, gọi thật to từ đám học sinh: Matthew! Matthew! Matthew!
Ông anh tự hào quay qua nói với tôi:
- Đó là Matthew, chàng thủ khoa, là bạn thân của Kevin nhà mình đấy.
Khi tan buổi lễ các học sinh xúm xít gặp nhau chụp hình với mũ áo với những nụ cười tươi vui. Nhóm người lớn chúng tôi đứng ở một góc, chờ cho bọn trẻ chụp hình vui vầy đã đời với đám bạn. Một lâu sau, Kevin trở lại, dẫn theo Matthew và giới thiệu với tôi:
- Cô ơi, đây là Matthew, người đậu thủ khoa của trường vừa đọc bài phát biểu lúc nãy đó cô.
Matthew tiến tới bắt tay tôi, bà chị dâu nhanh nhẩu nói tiếp:
- Nhóm chúng nó chơi với nhau từ năm lớp 10, Matthew thân với Kevin lắm, vẫn thường đến nhà chị để học bài hoặc đi chơi, xem phim mỗi mùa hè rảnh rỗi. Vậy mà đã sắp chia tay mỗi đứa một trường học, một ngành học khác nhau.
Tôi mỉm cười thân thiện với Matthew:
- Chúc Matthew đi tiếp con đường học hành được như ý nhé. Bài phát biểu hồi nãy hay lắm.
Matthew bẽn lẽn nhìn tôi, nói thank you. Tôi nhìn thằng nhỏ trổ mã cao ráo đẹp trai với mái tóc hoe vàng và cặp mắt nâu màu hạt dẻ, lại học giỏi nên cảm thấy quý mến ngay. Tôi hỏi Matthew:
- Kevin nhà cô sẽ học ngành computer, còn Matthew sẽ học gì?
Matthew cười rạng rỡ:
- Con sẽ học bác sĩ thú y.
Tôi tiếc rẻ:
- Nếu thích học bác sĩ sao con không chọn y khoa chữa bệnh cho con người cũng là điều tốt, học bác sĩ chữa bệnh cho thú vật uổng tài của con.
Matthew có lý của nó:
- Vì con yêu thú vật.
Nhiều học sinh ở Mỹ chọn ngành học chỉ vì những sở thích dù những ngành học ấy không dễ xin việc làm, không thích hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, cuối cùng lãng phí cả thời gian và tiền bạc. Nhưng tôi không dám ý kiến gì thêm vì biết trẻ ở Mỹ thích làm theo con đường chúng chọn. Ngay như con cháu nhà mình chắc gì chúng nghe, nói chi đến con nhà người ta. Con cháu Việt sinh ra lớn lên ở xứ này, tụi nó thích học gì, bố mẹ cũng khó cản.
Ở Canada tôi có quen vợ chồng anh nha sĩ kia, cứ tưởng thằng con trai sẽ theo nghề của bố mẹ, nhưng nó lại chọn ngành chẳng thể ngờ tới: Art! Anh chị ấy lúc đầu cũng thất vọng, buồn bã, nhưng cuối cùng cũng phải chiều theo ý con. Cũng may, sau một năm học Art, nó chán và đổi qua học Kỹ Sư, ba má vui mừng an lòng vì sợ ngành Art khó kiếm việc chớ không có ý chê bai gì ngành này. Tôi tự nghĩ biết đâu Matthew chọn đúng, sau này Matthew sẽ thành công với clinic chữa bệnh cho súc vật, vì ở Mỹ người ta thích nuôi thú cưng và sẵn sàng chi tiền săn sóc chúng.
Chúng tôi đến nhà hàng ăn dinner, có Matthew theo cùng. Kevin và Matthew ngồi cùng xe với bà chị dâu tôi, còn vợ chồng tôi đi theo xe ông anh. Anh tôi kể:
- Tội nghiệp Matthew, hoàn cảnh khá buồn, mẹ mất sớm khi nó còn bé, ba lập gia đình khác, Matthew ở với bà ngoại. Bởi vậy tụi anh thương cảm và yêu mến nó như Kevin, mỗi lần nó đến chơi, anh chị thường mời nó ở lại ăn cơm cùng gia đình nên Matthew quen dần và thân thiết với gia đình anh lắm. Hôm nay thằng nhỏ ra trường mà lại thủ khoa, bà ngoại thì già, còn bố nó cũng chẳng có mặt, thiệt là vô tình.
Bây giờ tôi mới hiểu vì sao Matthew cứ luẩn quẩn bên gia đình Kevin và cùng theo chúng tôi đi nhà hàng chiều nay. Lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi cảm thương. Ngày vui của Matthew mà không có một người thân, trong khi Kevin nhà chúng tôi thì có quá đông người đi theo, chẳng biết Matthew có chạnh lòng?
Tôi hi vọng Matthew học giỏi, mai sau sẽ thành tài, là một bác sĩ thú y thành công, cuộc đời Matthew sẽ tốt đẹp hơn.
………………………..
Nhưng thực tế không như tôi suy nghĩ và ước mong, sau khi tôi trở về Canada, thỉnh thoảng nói chuyện phone với ông anh, thì được biết, trong khi các bạn chuẩn bị vào đại học thì Matthew thong thả dành 1 năm… nghỉ xả hơi, gọi là “take a break”.
Tôi nghe tin mà xót xa, lo lắng. Tôi nhớ đến chuyện Evelyn, một đứa cháu bên chồng của tôi ở Utah và đứa bạn thân của nó là Camila, cũng tốt nghiệp High School cách đây mấy năm. Evelyn vào học ngành Registered Nurse 4 năm trong khi Camila quyết định nghỉ hai năm theo cha mẹ đi truyền giáo. Camila sẽ được cung cấp chỗ ăn ở miễn phí trong suốt thời gian 2 năm cô đi truyền đạo, Camila rất thích thú với công việc này, trước là được nghỉ xả hơi việc học hành cho đầu óc thảnh thơi, sau là được làm điều tốt lành và có ích, đi truyền đạo sau này sẽ được lên thiên đàng.
Hai năm sau Camila trở về, cô bé thất vọng và hoang mang khi thấy Evelyn vẫn đang tiến triển việc học hành và tương lai trước mặt sẽ có công ăn việc làm, còn Camila cảm thấy khó khăn khi bắt đầu lại với sách vở, nó ghi danh học ngành y tá 1 năm cho ngắn gọn để mau ra trường có việc làm mà sinh sống nhưng cũng không học nổi, Camila phải buông bỏ việc học và đi xin việc receptionist trong một cơ sở y tế. Camila khóc và kể cho Evelyn rằng những lần đi truyền đạo không đẹp như cô nghĩ, khi cô gõ cửa nhà, người ta không thèm mở và nếu mở cửa thì cũng lạnh lùng từ chối và tỏ ý không muốn bị cô gõ cửa làm phiền lần nữa. Camila hối tiếc đã bỏ lỡ 2 năm không học hành, giờ thì cô không còn ý chí làm lại từ đầu nữa.
Một hôm, đang nói chuyện phone với bà chị dâu, chị cho biết Matthew vừa đến chơi, tôi mừng rỡ nhờ chị chuyển phone cho tôi nói chuyện trực tiếp với Matthew. Tôi dùng hết lời lẽ, từ ngữ English trong khả năng của mình, tha thiết khuyên Matthew đừng nghỉ ngắt quãng việc học hành, phí thời gian và một năm trời biết đâu sẽ có nhiều đổi thay làm hao mòn nhiệt huyết, nhưng Matthew nói đường đi còn dài, học lúc nào chả được. Trước khi cúp phone, biết khó thay đổi được ý nghĩ “take a break” của Matthew, tôi bắt nó hứa, tôi bắt nó thề, sau một năm phải đi học lại nhé, đừng lãng phí tuổi trẻ và tài năng của con. Matthew cười nhẹ, miệng cứ yes yes và cám ơn tôi đã quan tâm đến nó.
Tôi biết đó là quan niệm kiểu Âu Mỹ, của nhiều học sinh ở Mỹ, con gái cả của cựu tổng thống Obama cũng thế, cho rằng suốt thời gian trung học “vất vả” tốt nghiệp xong phải nghỉ ngơi rong chơi …lấy sức. Tôi tin tưởng và hy vọng Matthew học giỏi, nghỉ một năm cũng không ảnh hưởng lắm.
Một năm trôi qua, tôi nghĩ Matthew sẽ ghi danh vào đại học nào đó, hoặc thi vào ngành bác sĩ thú y như nó yêu thích, nhưng lại ngạc nhiên đến hụt hẫng khi nghe ông anh kể rằng Matthew sẽ …đi làm. Người anh họ của Matthew giới thiệu Matthew vào làm manager cho một hãng điện tử cùng với anh ta. Matthew nói cần tiền nên tạm đi làm công nhân rồi năm sau sẽ đi học.
Trời ơi! Tôi thất vọng, tôi lẩm bẩm, ông xã tôi phải lên tiếng:
- Em thích lo chuyện bao đồng quá nhỉ, con cháu trong nhà mình còn chưa nói được, em lại đi lo cho con người dưng.
- Anh nói vậy mà nghe được sao! Đúng, Matthew là người dưng, nhưng là bạn thân của Kevin cháu mình. Nhưng quan trọng hơn cả, là nó học rất giỏi, anh không nhớ Kevin từng nói, môn nào Matthew cũng đạt điểm xuất sắc đó sao, và anh ơi, em thương nó, vì nó mồ côi mẹ, không có ấm áp tình cha, nên em thực sự muốn nó phải thành công trên đường học vấn.
- Anh hiểu chứ, nhưng biết làm sao bây giờ, mong rằng nó sẽ chán việc làm và sẽ đi học như lời nó đã hứa với em.
- Thì em cũng mong như thế. Con nhỏ Hà trong nhà thờ mình kìa, con gái nó cũng xong High School, theo phong trào “one year break” xin vào bán hàng McDonalds, đến nay hơn hai năm chưa thấy nó trở lại học, vì đi làm kiếm được chút tiền, hết hứng chuyện sách vở, bởi vậy em đang lo, sợ Matthew cũng sẽ như thế, nhất là khi nó không có cha mẹ bảo ban, dạy dỗ .
Cuối năm đó, tôi lại có dịp bay qua Texas thăm ông chú bị bệnh, lần này không thể ngồi yên được nữa, con cái nhà người ta mà tôi ấm ức sốt cả ruột như con cháu mình, tôi không muốn Matthew lãng phí thêm thời gian. Tôi nhờ chị dâu làm bún chả giò, kêu Kevin mời Matthew tới nhà ăn món mà Matthew rất thích. Lâu lâu hai đứa bạn gặp lại nhau cùng ăn món ngon nên không khí thoải mái vui vẻ. Tôi hỏi Matthew về chuyện đi làm, nó thành thật nói:
- Con muốn kiếm chút tiền tự lo cho bản thân, không như Kevin được cha mẹ thương yêu và chăm lo cả tiền bạc lẫn tinh thần.
Đúng thế, Kevin vào đại học không phải mượn nợ như bao sinh viên khác, con nhà Việt Nam hầu như đứa nào cũng được cha mẹ khích lệ học hành, hi sinh tối đa cho con ăn học, còn Matthew thì ngược lại, bên cạnh nó không có cha mẹ quan tâm đến việc học của nó, như cây hoang tự mọc muốn ra sao thì ra. Sau một năm nghỉ học Matthew đã có chút thay đổi muốn đi làm một thời gian để kiếm tiền, rồi sau một năm đi làm điều gì sẽ xảy ra? Matthew sẽ quen dần với việc làm, quen dần với cuối hai tuần lãnh lương có tiền tiêu xài, sẽ xa rời thêm sách vở biết đâu sẽ không còn ý chí vào đại học?
Tôi kể cho Matthew nghe trường hợp Camila ở Utah và câu chuyện cô bé bên Canada đi làm McDonalds, rồi lại hết lời khích lệ, chỉ vẽ cho Matthew phải tiếp tục ngay việc học hành, hơn một năm qua rong chơi là quá đủ, là đã chậm hơn bạn bè cùng lớp rồi, đừng vì ham kiếm ít tiền mà bỏ phí thời gian. Hãy đi tìm tương lai tốt đẹp cho bản thân khi mà con học giỏi, có khả năng làm điều ấy.
Tôi nói để Matthew đừng mặc cảm:
- Không có tiền con cứ mượn “student loan” và chăm chỉ học hành. Học xong sẽ trả nợ mấy hồi. Bao nhiêu sinh viên đã mượn nợ như thế mà.
Rồi Kevin cùng kể cho Matthew về từng đứa bạn của nhóm High School, đứa học ngành này đứa học ngành nọ, trong khi Matthew là người tốt nghiệp thủ khoa, học giỏi nhất trong nhóm, nhất lớp, nhất trường thì sao?
Tôi thêm vào, khích nó:
- Bao nhiêu người di cư đến Mỹ với giấc mơ Mỹ, còn con là người Mỹ chính gốc, sinh ra và lớn lên ở Mỹ, có khả năng học giỏi, chẳng lẽ thua họ sao?
Matthew ngồi nghe lặng thinh một hồi lâu, nó cảm động:
- Chưa bao giờ có ai để ý đến chuyện học hành của con, cho con những lời nhắn nhủ yêu thương như cô. Con sẽ suy nghĩ lại chuyện này, trước mắt thì con vẫn phải đi làm, vì con đã dọn ra ở riêng, share phòng với người anh họ, con cần tiền để trang trải cuộc sống hiện nay.
.....……..
Sau chuyến đi Texas đó, tôi vẫn theo dõi Matthew thông qua Kevin, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì Kevin cũng mất liên lạc với Matthew, có vẻ như Matthew đã dọn qua thành phố khác theo người anh họ, còn Kevin bận rộn với chuyện học Đại Học và với bạn bè hiện tại. Những người bạn thân thời trung học chỉ thỉnh thoảng nhắn tin nhau. Ngày Kevin tốt nghiệp kỹ sư cũng không biết Matthew nơi đâu mà mời bạn tham dự.
Tôi mất dấu tích Matthew, tiếc nuối, trong khi ông xã tôi nửa đùa nửa thật: “Anh nghĩ, Matthew cắt đứt liên lạc với Kevin vì nó ngại “mụ cô” Canada nhiều chuyện, thích xen vào chuyện học hành của nó đấy. Em nhớ rút kinh nghiệm nha!”
Rồi câu chuyện cũng đi vào quên lãng, dẫu đôi khi chúng tôi xem lại hình ngày ra trường High School của Kevin và Matthew, lại bâng khuâng một chút buồn.
Đầu năm nay, chúng tôi lại bay qua Texas dự tiệc 40 năm Kỷ Niệm Ngày Cưới của vợ chồng ông anh. Tiệc được tổ chức tại một nhà hàng Seafood mới mở tại Arlington. Trong thời gian chờ tiệc bắt đầu, tôi đi ra ngoài trước cửa tiệm gọi phone cho cô bạn thân ở Dallas, nói chuyện xong, Kevin từ đâu bước tới, khuôn mặt rạng rỡ:
- Cô ơi, con sẽ cho cô một bất ngờ.
Tôi chưa kịp hỏi thì trời ơi, chính là Matthew đi theo sau, tiến đến bên tôi. Tôi mừng rỡ ôm lấy nó, trong khi Kevin tiếp tục hớn hở:
- Cô ơi, con báo cho cô một tin rất vui nữa nè, cô bình tĩnh chưa?
Tôi hồi hộp, nôn nao nhìn Kevin rồi nhìn Matthew, hai đứa nhìn nhau cười, rồi Kevin nói như hét lên:
- Cô ơi, Matthew đang học năm thứ hai Y Khoa.
- Ôi, như một giấc mơ, cô thật hạnh phúc và mừng cho con, Matthew ơi!
Kevin hào hứng:
- Những năm qua Matthew cắt liên lạc với con vì nó trở lại trường, lo học thi MCAT (Medical College Admission Test), cứ ngỡ quên sách vở nhưng không ngờ điểm cao chót vót luôn nha. Matthew đã nghe lời khuyên của cô, là học bác sĩ y khoa sẽ giúp chính mình và những người khác. Trong bài Essay khi nộp cho trường Y khoa, Matthew đã nhắc đến cô, người là động lực thúc đẩy Matthew chọn Y khoa đó.
- Thật thế ư!?
Matthew gật đầu xác nhận, rồi kể:
- Tại buổi phỏng vấn, con có nói với họ, con nhớ mãi lời của cô từng nói với con: “Bao nhiêu di dân qua đây với giấc mơ Mỹ, còn con là người Mỹ chính gốc, sinh đẻ và lớn lên ở Mỹ, có khả năng học giỏi, chả lẽ con lại thua họ sao?”
Tôi nắm tay nó, xúc động hãnh diện:
- Cô cám ơn con nhiều lắm, ý chí của con mới là quan trọng đấy. Con sẽ học chuyên khoa gì, hay chỉ là M.D (Medicine Doctor)?
- Dạ không, con sẽ theo ngành chuyên về children, con cũng thích trẻ con như yêu thú vật vậy!
Sau đó, trong bữa tiệc, Kevin còn cho tôi biết thêm, vì Matthew đạt điểm cao nên có được vài học bổng hỗ trợ việc học, không phải mượn “student loan” quá nhiều.
Trên chuyến bay từ Texas trở về Canada, hai vợ chồng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng lại quay về chuyện Matthew. Ông xã tôi cười, gật gù:
- Thật là một cái kết tốt đẹp, anh sẽ đề nghị chính phủ Mỹ trao cho bà Tám Canada, là em đó, một Huy Chương khen thưởng.
- Khen thưởng gì chớ!
- Vì nếu không có em, nước Mỹ đã mất đi một bác sĩ nhi khoa, pediatrician.
Tôi e thẹn, mắc cỡ:
- “Ba Mươi chưa phải là Tết” anh nhé! Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho Matthew bền bỉ trên con đường này, vài năm sau còn phải vào chuyên khoa, rồi sau đó là thời gian thực tập Hospital Residency, tổng cộng cũng gần chục năm. Lúc ấy, Matthew chính thức là một Bác Sĩ thì em mới dám ... nhận Huy Chương!
KIM LOAN
___________

THÁNG CHÍN THU SANG
Mùa Thu năm ấy, người quên chưa?
Heo may gió thổi khúc giao mùa
Hồn tôi thiếu nữ cũng xao xác
Thương chiếc lá rụng bên song thưa
Những giọt mưa thu rơi hiu hắt
Cô học trò chớm biết vu vơ
Đêm nằm nghe nhịp mưa tí tách
Dạt dào tôi chép những vần thơ
Người đã cho tôi tình êm ái
Lãng mạn sân trường lúc vào thu
Bồng bềnh mây giăng ngoài cửa lớp
Thấp thoáng hàng cây trong sương mù
Tôi và người không cùng chung lớp
Kẻ sáng người chiều, (sao quá xa!)
Người đến sớm, đợi chờ quanh quẩn
Để nhìn tôi, (ánh mắt thiết tha…)
Rồi gửi câu thơ dưới bàn học
“Anh theo Ngọ về”, tôi bâng khuâng
(Dù người nhỏ hơn tôi một tuổi)
“Nức nở lòng anh”, ngại bước chân ?
Tôi thích đôi mắt người, yếu đuối
Rất gần và cũng rất xa xôi
Người nhìn tôi ngập ngừng, bối rối
Tôi bước về, nắng chiều chơi vơi
Nhưng tình mới lớn là mây khói
Buổi học cuối cùng, hết tương tư
Bài thơ người gửi còn dang dở
Chẳng dám trao tay phút giã từ
Đã bao thu qua rồi người nhỉ
Lá úa bao lần rơi lối xưa
Nơi đây thu sang, tôi lại nhớ
Có một Mùa Thu trong giấc mơ
KIM LOAN
NHỮNG HỌC TRÒ “ĐẶC BIỆT”
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School” . Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy . Cũng có lúc tôi lại nhớ ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.
Sau hơn hai năm gian nan đợi chờ, tôi đã may mắn đậu thanh lọc và chuyển về trại Transit chờ định cư. Nơi đây, tôi gặp lại vài Thầy giáo đã từng dạy English cho tôi khi mới nhập trại, họ gọi tôi vào trường ESL, phụ trách lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi .
Đúng như tên gọi, các “học trò” của tôi đều ...lớn tuổi hơn tôi khá nhiều. Có người lớn hơn vài ba tuổi, chục tuổi hoặc hơn vài chục tuổi cũng có, nhờ vậy mà vui lắm! Họ, có khi là những người miền Tây sông nước, nói Tiếng Việt còn chưa rành, nay phải bập bẹ học Tiếng Anh, hoặc những người bận rộn cuộc sống bên Việt Nam, chưa bao giờ nói Tiếng Anh, nay tập hợp vào đây, là học trò của cô giáo trẻ măng . Kiến thức Tiếng Anh họ kém hơn cô giáo, nhưng kinh nghiệm đời, kinh nghiệm sống của họ thì bao la. Đôi lúc rảnh rang, cả lớp chuyển qua mục “Tâm Sự Đời Tôi”, những câu chuyện đời, chuyện thời cuộc đất nước sau 1975, chuyện vượt biển ...nghe hoài không bao giờ chán.
Trong lớp, có vài học sinh nổi bật, dù là thành tích học tập hay bất cứ lãnh vực nào, cũng làm tôi nhớ nhiều. Đầu tiên là anh Hoàng, một trong những nhiếp ảnh gia ở trại. Lúc ấy, đâu phải ai muốn hành nghề chụp hình cũng được, mà phải “xã giao”, quen biết với ban quản lý trại (người Thái), các nhân vật trong Bộ Nội Vụ Thái (nắm quyền hành cao nhất ở trại) . Người chụp hình, sau khi chụp hình cho các khách hàng là đồng bào tỵ nạn, rồi đem các cuốn phim ra ngoài trại, đi rửa, rồi đem về giao hàng cho khách, tất cả những công việc đó đều do Trại cấp giấy phép đi ra đi vào cổng trại dễ dàng, rồi hàng tháng nộp tiền lệ phí, bao nhiêu thì vẫn là “bí mật nội bộ”.
Anh Hoàng, là người được tất cả mọi người xung quanh quý mến. Khác với những người hay “giao lưu” với lính Thái, nhóm điều hành Thái, thường bị người ta nhìn với ánh mắt dè dặt, nhưng Hoàng là người sống chân tình, khiêm nhường, vui vẻ, bản tính rộng rãi và dĩ hòa vi quý .
Hoàng, còn là ...đại gia dễ thương. Hễ lớp có buổi liên hoan thì Hoàng luôn mang nhiều bánh trái đến, chụp hình cho cả lớp thoải mái, ai muốn chụp riêng cũng được Hoàng tận tình hướng dẫn kiểu dáng, địa điểm, góc máy để cho ra những tấm hình đẹp nhứt . Riêng đối với cô giáo Loan, mỗi khi cần chụp hình để gửi cho thân nhân, Hoàng đưa tôi đi khắp trại, đến những nơi có cảnh đẹp, chụp xong, Hoàng luôn đề nghị chụp thêm “chân dung cô giáo” không lấy thêm tiền, Hoàng tặng cô giáo.
Anh Hoàng lớn hơn tôi 6-7 tuổi, nên dù là cô giáo, tôi vẫn gọi anh xưng em, nhưng Hoàng rất trân trọng khi gọi cô Loan và xưng tên Hoàng ngọt xớt.
Hoàng có cô bé người yêu, tên Minh, rất xinh đẹp, đúng nghĩa “nhỏ bé” cả tuổi tác lẫn dáng người. Hoàng đậu thanh lọc, Minh rớt đang chờ “tái thanh lọc” vì hai người đã kịp có baby, nên chắc chắn Minh nếu không đậu “tái thanh lọc” ở trại, thì cũng sẽ về Việt Nam rồi đoàn tụ với Hoàng theo diện “fiancé có con”.
Lúc đó, thằng con trai của Hoàng-Minh mới 6-7 tháng tuổi, mang nét đẹp của bố mẹ, kháu khỉnh, bà con trong lô ai cũng muốn mượn thằng bé đem về nhà ẵm bồng nựng nịu hoặc tha đi khắp trại cho nhiều người nựng ké .Tôi cũng vậy, ngày cuối tuần rảnh rỗi không đi làm, tôi hay ghé qua nhà Hoàng-Minh để nựng thằng nhỏ.
Bữa đó chủ nhật, sau bữa cơm trưa, tôi đi lang thang ra quán sữa đậu nành giải khát cái nóng mùa hè, lúc đi ngang qua nhà Hoàng-Minh, thấy Minh đang ru con ngủ trên võng, cửa mở rộng, tôi liền theo thói quen, ghé đầu vào nhìn thằng nhỏ, Minh liền nhờ tôi:
- Ôi chị đến đúng lúc quá, em đang chưa biết tìm ai, chị rảnh không?
- Ừa, chị rảnh.
- Vậy chị vào đưa võng ru bé ngủ giùm em nha, em chạy đi tìm anh Hoàng, từ sáng đến giờ ảnh đi nhậu chưa thấy về!
Tôi hiểu nỗi lo của Minh. Bởi như đã nói ở trên, Hoàng phải thường xuyên đi ăn nhậu xã giao với lính Thái để công việc chụp hình được êm xuôi thuận lợi. Nhậu thì phải có rượu bia, thuốc lá, về lâu về dài không tốt cho sức khỏe. Nhưng nguy hiểm hơn, là thỉnh thoảng còn có mấy em gái “hậu phương” người Lào, người Cam và người Việt trong trại cũng được các lính Thái mời nhậu chung vui, hỏi sao Minh không lo, không ghen!?
Tôi biểu Minh cứ đi tìm chồng, còn tôi bước vào nhà, nằm xuống sàn, ru thằng bé, gió hiu hiu buổi trưa hè, và nhà bên cạnh mở băng nhạc bolero buồn mênh mang, làm tôi cũng thiu thiu một lúc rồi…ngủ luôn hồi nào không hay. Mãi đến khi nghe tiếng Hoàng- Minh gây lộn, tôi mới sực tỉnh nhưng không dám mở mắt động đậy vì “cuộc chiến” đang rất…gay cấn. Minh bù lu bù loa:
- Anh đã hứa với em biết bao lần, sẽ bỏ bớt rượu chè thuốc lá để giữ gìn sức khỏe ...
- Anh biết mà, nhưng công việc phải thế, anh sẽ cố gắng bớt lại, được chưa?
- Bớt gì mà bớt! Lần nào về cũng nồng nặc mùi rượu rồi ngủ vùi, đó là chưa kể mấy “em gái” đỏng đảnh tại bàn nhậu, ai tin tưởng được!
- Xời ơi, em phải hiểu chồng mình chớ! Có cho vàng anh cũng không bao giờ đụng đến mấy nàng đó.
Minh vẫn không tha, vẫn lải nhải càu nhàu, dù Hoàng luôn nhỏ nhẹ năn nỉ và luôn miệng xuýt xoa, nhắc nhở vợ:
- Xuỵt! Em nói nho nhỏ thôi, để cô Loan ngủ, cô Loan nghe được thì kỳ lắm!!
Tôi cười thầm trong bụng, Hoàng đâu biết tôi đã dỏng tai nghe từ lúc “cuộc chiến” vừa...bắt đầu! Tôi đành tiếp tục ...ngủ say thêm vài phút nữa, chợt thằng bé giật mình thức giấc, tôi có cớ bật dậy, rồi ẵm thằng nhỏ đi chơi để ba má nó có dịp làm lành với nhau.
Trong lớp, còn có anh Tú, thuộc nhóm người “già nhất lớp”, ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh ấy ít nói, và qua vài chương trình “Tâm Sự Đời Tôi” của lớp, ai cũng biết quê anh miền Trà Vinh, gia đình từng là chủ xưởng đóng ghe, rồi tổ chức nhiều chuyến vượt biên thành công, mấy năm trước là chuyến chót cả gia đình cùng đi nhưng anh bị lọt lại, bây giờ anh mới qua được Thailand. Vừa xong tiết dạy, chị Kiều đồng nghiệp trường ESL gặp tôi, nháy mắt mỉm cười:
- Loan nè, “trò” Tú lớp em ...
- Trò Tú sao hở chị?
- Trò ấy muốn tặng cô giáo Loan mấy cái bánh Trung Thu nhân mùa Rằm Tháng 8 này, nhưng trò ấy ngại ...Vì trò ấy có cảm tình đặc biệt với cô, nên nhờ chị nói trước giùm.
- Trời! Chị nói trò Tú mang bánh đến cho cả lớp cùng ăn cho vui.
Chị Kiều bây giờ mới nghiêm túc:
- Chị thấy anh Tú cũng được lắm đó, ảnh vừa ra lính chưa đầy năm là bị “giải phóng” 1975, ảnh có tinh thần Quốc Gia, đang sinh hoạt trong nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng ở trại ...
- Thì em có nói gì đâu chị, ai chả biết ảnh dễ thương, mà thôi, chuyện tình cảm cứ để đấy tính sau chị ơi!
Đến ngày lớp liên hoan mừng Trung Thu, anh Tú mang đến góp vui hai hộp bánh có đủ bánh nướng và bánh dẻo. Cuối buổi tiệc, tôi chủ động theo anh Tú ra ngoài sân:
- Cám ơn anh Tú đã tặng em một hộp bánh, và tặng lớp một hộp bánh, cả lớp hôm nay thiệt vui.
Anh Tú ngại ngùng:
- Có gì đâu cô! Thú thiệt, nhiều khi tui cũng muốn mời cô đi uống cafe, ăn sáng, nhưng sợ ... khoảng cách “Thầy-Trò” nên thôi.
Tôi đổi đề tài:
- Nghe nói anh mới có tên đi Mỹ tuần sau, chúc mừng anh.
- Ừa, danh sách mới có chiều qua, mà cô cũng đang chờ Mỹ phỏng vấn, phải không? Gia đình tôi cũng ở Texas, nếu có duyên thì chúng mình sẽ gặp lại nhau, nghen cô!
Chia tay anh Tú xong, tôi quay vào văn phòng, gặp ngay nụ cười “bí hiểm” của cô Kiều:
- Ai biểu dạy lớp ESL cho ...người lớn mần chi!? Như chị đây, cứ dạy trẻ em thanh thiếu niên là trái tim tha hồ ngủ yên.
Tôi cười lớn:
- Dạ chị, em xin hứa, nếu có kiếp sau qua trại tỵ nạn, em chỉ đi dạy tiếng Việt tiểu học!
Nói đến lớp Việt Ngữ, tôi có một gia đình cả vợ chồng và hai đứa con đều là học trò của tôi. Số là, biết tôi là cô giáo ở Việt Nam, một người bạn nhất quyết rủ tôi vào dạy Tiếng Việt. Tôi nể lời, thế là thời khóa biểu của tôi kín mít mỗi ngày: dạy lớp ESL từ 7 giờ sáng đến 8 giờ sáng, rồi chạy “show” qua trường Việt Ngữ từ 8 giờ cho đến 9 giờ 30 sáng, cuối cùng là chạy qua Văn Phòng Cao Ủy Định Cư làm cho đến 4 giờ chiều (có về nhà nghỉ trưa).
Tại trường Việt Ngữ có 4 khối lớp: Lớp A: Trẻ Mẫu Giáo-lớp 1-2/ Lớp B: Cho trẻ lớp 3-4-5/ Lớp C: Cho học sinh lớp 6- 7-8-9/ và Lớp D: Cho học sinh lớp 10-11-12.
Tôi phụ trách lớp B, tức là lớp 3-4-5, là vào lớp, tùy theo độ tuổi của mỗi em mà dạy Toán theo đúng trình độ, riêng môn Lịch Sử và Văn thì dạy chung.
Lớp của tôi, các em tuổi từ 9 đến 12 thiệt là dễ thương, tôi được làm đúng chuyên môn giảng dạy, đúng sở trường được đào tạo nên tha hồ tung hoành với các em nơi môi trường tỵ nạn. Trong lớp có hai anh em thằng Lụm và con Đẹp, lanh lợi y chang như ba má nó là anh chị Hải, là học trò lớp ESL của tôi.
Họ là dân miền quê Kiên Giang, qua trại là “con bà phước” tức là không có thân nhân nước ngoài viện trợ, nên họ buôn bán hàng rong, với mâm chuối chiên, chuối nướng bọc nếp chan nước dừa.
Chiều hôm đó tôi đang đi lang thang kiếm đồ ăn vặt, từ xa thấy chị Hải đang đứng chống nạnh đôi co với bạn hàng bên cạnh. Anh Hải đứng kế bên cố ngăn cản vợ, nhưng chị càng giận dữ:
- Tui nói cho nghe, đi qua trại là để định cư xứ phương tây, chứ không phải sống chết nơi này, nên đừng có mà tranh giành bon chen, đừng chơi xấu với tui.
Công bằng mà nói, chị Hải lanh lợi, là người biết trước biết sau, trong lớp học không gây hấn, mất lòng bất cứ ai. Chị và chồng rất siêng học, có khi buổi tối gần giờ giới nghiêm, tôi đi dạo trong trại, ngang qua nhà thấy anh chị thắp đèn làm bài tập, chị bảo cả ngày lo buôn bán nên chỉ có ban đêm mới rảnh học bài. Nay thấy chị đang vì miếng cơm manh áo mà gây lộn, tôi chẳng hiểu ất giáp gì, tính bỏ đi hướng khác thì thằng Lụm con Đẹp nhìn thấy tôi, chúng khoanh tay cúi đầu chào, rồi la lớn:
- Má ơi, má ơi, cô giáo tới kìa!!!
Ai ngờ, câu nói đó lại có tác dụng ngay lập tức, anh Hải khỏi phải ra sức ngăn cản, chị liền dừng cuộc cãi vã, quay qua tôi, dịu giọng: “Cô giáo ngồi chơi! Ăn chuối nướng hen?!” nhưng vẫn không quên quăng cho “đối thủ” câu cuối: “Nay có cô giáo nên tui bỏ qua, lần sau đừng trách tui!”.
Suốt buổi ngồi tiếp tôi ăn, chị Hải phân bày lý do sự xung đột, là vì chị bị ép uổng nhiều quá, không nhịn được nữa. Nhìn mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt chị, thỉnh thoảng cười mắc cỡ, y chang như nụ cười hồi Tết, vợ chồng chị gói bánh tét bán, tôi đặt mua hai cái cúng giao thừa. Đến khi tôi ghé lấy, chị tặng tôi thêm 1 cái, nói là “gia đình học trò tết riêng cô giáo”. Tôi dứt khoát không nhận, lấy thêm tiền ra đưa, chị cũng dứt khoát không chịu, giằng qua kéo lại, cuối cùng tôi bèn lấy tiền đó lì xì cho thằng Lụm con Đẹp chị mới cười bẽn lẽn chịu thua.
Vậy đó, những học trò “đặc biệt” một thời của tôi, mỗi khi nhớ lại là cảm xúc dâng tràn vì những ân tình chúng tôi dành cho nhau nơi mảnh đất tạm dung ấy.
Tôi vô cùng biết ơn truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, tổ tiên mình để lại, mà câu “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đã in sâu trong giao tiếp của bao thế hệ người Việt Nam, cụ thể là người VNCH. Thế nên ở trại, dù có học trò lớn tuổi, họ vẫn trân trọng gọi tôi là “cô” xưng “em” hoặc xưng “tui” ngọt ngào thân mến. Còn các em trong lớp Việt Ngữ thì khỏi nói, chúng sợ cô giáo một phép, dù chỉ là lớp học tỵ nạn, vì vẫn có mấy bà má ông bố hồn nhiên nói với tôi:
- Nó mà hư, cô cứ thoải mái goánh nó giùm tui nha!
Edmonton, Tháng 9/2025
KIM LOAN

VỀ NGANG QUA NHÀ CŨ
Hôm nọ tôi có dịp chạy về khu neighbourhood cũ, đi ngang qua căn nhà cũ mà bồi hồi xuyến xao bao nhiêu kỷ niệm.
Lúc ấy gia đình chúng tôi mới từ thủ đô Ottawa chuyển về thành phố này, các con còn bé nên việc tìm một căn nhà có đủ tiêu chuẩn gần trường học, gần nhà thờ, gần chợ Việt chợ Tây cũng hơi khó. Cuối cùng thì căn nhà tạm ưng ý được chúng tôi lựa chọn vì mới được xây, dù là ở dưới phố khá ồn ào chen chúc.
Ngôi nhà của hơn mười năm, từ khi các con còn học tiểu học ở trường St.Catherine. Nhớ những buổi sớm réo gọi cả nhà thức dậy, tôi tất bật lo bữa sáng cho mọi người, chuẩn bị backpacks cho tụi nhỏ, gói các lunh boxes, lôi ra áo quần giày dép trong khi chúng ngồi ăn, rồi lại tất bật đẩy con ra cửa chờ xe yellow bus đi học, và vợ chồng tôi cũng lần lượt rời nhà đi làm, mỗi người một hướng.
Nhớ những lần mấy mẹ con đi bộ trong xóm, băng qua cây cầu đá, đến Library để con gái lựa sách Fairy Tales như Cinderella mỗi tối ôm lên giường say sưa theo từng trang sách đẹp như giấc mơ tuổi thơ, ghé Fire Station vì thằng con trai mê mẩn bồ độ đồng phục oai dũng của các chàng Firemen. Thấy chúng tôi lấp ló ngoài cửa là các chàng firemen vui vẻ mời vào, đưa con trai tôi vào tận xe, ngồi tập “lái thử” y như thiệt.
Nhớ những lần đưa các con đi học bơi, học vẽ, học đàn piano theo “phong trào” của các gia đình Việt Nam hải ngoại là cho các con “học đủ thứ”, rồi có nên cơm cháo gì không cũng không quan trọng. Những buổi chiều tôi vừa nấu cơm vừa nghe con gái tập đờn piano bài “Dòng Sông Xanh” theo yêu cầu của tôi mà mơ mộng nó sắp thành … nghệ sĩ danh cầm nổi tiếng thế giới.
Nhớ những đêm khuya vắng từ phòng ngủ trên lầu, tôi nhìn qua khung cửa sổ khi những bông tuyết đầu mùa phơ phất đến rồi tìm vần thơ, nhớ những những kỷ niệm thanh xuân còn bỏ lại nơi quê nhà xa xôi.
Căn nhà này, cũng đã đón tiếp nhiều chuyến viếng thăm của người thân hai bên nội ngoại từ Mỹ và Canada, những buổi BBQ nơi sân sau với bạn bè, những buổi birthday parties của các thành viên trong gia đình, những ngày mưa Thu ngắm lá rụng dưới cội táo già, nhìn dòng xe nối tiếp nhau giờ tan tầm bên ngoài cửa sổ, cảm nhận niềm hạnh phúc bình yên nơi phòng khách ấm cúng với ly trà nóng thơm mùi peppermint.
Giờ đây mọi ký ức như bừng sống lại, thời gian như cơn gió vô tình, các con đã lớn, chúng tôi cũng không còn trẻ nữa, mà ngôi nhà cũ vẫn còn đây, chất chứa biết bao niềm thương nỗi nhớ dạt dào mỗi khi đi ngang về chốn xưa.
Thật ra, căn nhà này vẫn là của tôi. Gia đình tôi dọn nhà qua khu mới, phía Bắc thành phố, và cho người ta mướn căn nhà cũ, nên thỉnh thoảng tôi vẫn được ghé qua, đi vào nhà khi có việc cần theo yêu cầu của người mướn nhà.
Bước vào nhà, mọi thứ thay đổi, cách trang trí sắp đặt các vật dụng hoàn toàn khác, nhưng tôi vẫn đứng ngẩn ngơ ngay giữa căn bếp, hiện về trong tâm trí bao nhiêu lần tôi đã đứng nơi đây, làm những bữa cơm cho cả nhà.
Cũng giống như nhiều gia đình Việt Nam khác bên hải ngoại, tôi tin là như thế, máy rửa chén nhà tôi cũng chỉ dùng để… đựng chén dĩa muỗng nĩa cho khô ráo, và chỉ sử dụng máy thi thoảng khi nhà nấu thức ăn nhiều, có khách, hoặc khi mệt mỏi.
Và vì tôi rất say mê, yêu thích rửa chén, nên trong sự phân chia nhân sự và công việc nhà, phần “rửa chén” đã thuộc…về tôi.
Chỗ đứng rửa chén nhà tôi nhìn thẳng ra khung cửa sổ sau vườn nhà, không phải cái cửa sổ be bé mà là ba cái cửa sổ lớn nối liền nhau, và đó là một bức tranh thiên nhiên bốn mùa cho tôi thong thả nhìn ngắm mỗi khi rửa chén.
Mùa Xuân và mùa Hè, gió nhẹ đong đưa những cành cây dưới màu nắng tươi, nghe cả tiếng ong vo ve hút mật trên những chùm hoa táo màu trắng toả hương thơm vương vấn. Mùa Thu, hàng cây cao của vườn sau nhà kế hàng rào chuyển sang một màu vàng lãng mạn, mỗi cơn gió đến làm những chiếc lá vàng rơi lả lơi trên không gian và rải lác đác trên sân cỏ nhà tôi (một màu Thu rất đẹp và cũng rất buồn, đôi khi!). Mùa Đông, đó là một bức tranh màu xám của mây trời và tuyết trắng, nhưng được chấm phá bằng những nét màu nâu, đen sinh động của những nhành cây khẳng khiu, cuối chiều tà có con chim lẻ bạn lạc loài đang ngơ ngác tìm đường về tổ.
Khi rửa chén, vừa ngắm “bức tranh cửa sổ” tôi vừa mở nhạc du dương, cũng có khi có những âm thanh của tivi ngay phòng khách hoặc tiếng ồn ào khác trên lầu của các thành viên khác trong nhà. Cũng có khi rất im lặng chỉ mình tôi thả hồn, nghĩ suy về một bài viết hay một câu thơ…
Với tôi, rửa chén cũng là một phương pháp tập thể dục, thân thể thả lỏng, relaxing, trí óc bay bổng nhẹ nhàng và là phương pháp “thiền” rất thú vị. (Có mâu thuẫn không, khi tôi không biết nấu ăn, không đam mê bếp núc, nhưng lại yêu… rửa chén?)
Tạm biệt căn nhà cũ, lái xe trở về căn nhà hiện tại, tôi vẫn còn lâng lâng cảm xúc buồn vui, năm nay tuyết đã đến sớm từ đầu tháng 11, tháng tận năm cùng rồi còn gì, lại sắp bước qua một năm mới, hỏi sao không bâng khuâng?
Ông xã nghe tôi kể nguyên do nỗi buồn “có tên và không tên” bèn châm chọc cho tôi vui, cái câu muôn thuở tôi nghe cả trăm lần:
- Trời ơi, em cứ yếu đuối đa sầu đa cảm, tâm tình sáng nắng chiều mưa như thế thì không bao giờ làm chủ cả, làm boss được đâu nhé.
Tôi vẫn bâng quơ nhìn tuyết rơi ngoài sân, hờn mát:
- Em có bao giờ mơ ước làm boss làm chủ ai đâu chớ! Trong căn nhà chỉ có bốn người này, em còn đứng thư tư nữa mà!!!
Biết tôi còn đang cảm xúc chưa nguôi, chồng tôi bỏ lên lầu, kẻo tôi lại mất hứng nấu cơm chiều thì coi như đói rã họng, lại phải ăn cơm nguội với mì gói.
Đó là câu chuyện thật. Còn sau đây là… chuyện bịa:
HỎI ANH CÒN NHỚ
Về ngang qua nhà cũ
Lòng anh có nao nao?
Một thời là mái ấm
Một thời là của nhau
Mình đã là chồng vợ
Hạnh phúc với con thơ
Bao ngày vui rộn rã
Nghe trẻ cười bi bô
Con lớn theo ngày tháng
Đời buồn vui sớt chia
Tình có khi lạnh, ấm
Cùng cảm thông, thứ tha
Vì sao mình chia tay?
Làm sao mà em biết
Vì lỗi của cả hai
Hay nợ duyên đã hết!
Kìa khóm hồng vẫn nở
Nơi mảnh sân trước nhà
Mình đã cùng vun xới
Nâng niu từng cành hoa
Phòng ngủ còn hơi ấm
Những mặn nồng ngày qua
Gối chăn còn vương vấn
Những ân tình thiết tha
Bàn ăn thừa một chỗ
Chiếc ghế trống chơ vơ
Anh không còn ngồi đó
Chén dĩa khua hững hờ
Đèn vẫn vàng căn bếp
Bữa tối em và con
Món ăn anh yêu thích
Dường như chẳng còn ngon
Về ngang qua nhà cũ
Anh có thấy bồi hồi
Bóng em bên cửa sổ
Nhìn thời gian dần trôi
Về ngang qua nhà cũ
Anh có thấy lòng đau
Có nghe tiếng con hỏi
Ba bây giờ ở đâu ?
KIM LOAN
_________________
I'm a paragraph. Click here to add your own text and edit me. It's easy.

MÙA MƯA CỦA CHÚNG MÌNH…
“ Về đây với những bước chân trìu mến,
Những bước chân êm trên phố phường quen,
Nếu mưa rơi sẽ mát lòng em…”
(Nhạc PD)
Tôi có nhiều kỷ niệm mưa với Quang.
Nhà tôi và nhà Quang sát vách nhau. Hai gia đình quen biết từ thuở mới di cư vào Nam, về ở xóm này, cùng làm ăn lập nghiệp, nhà tôi mở quán nước giải khát, nhà Quang bán bún riêu, thân nhau như người trong nhà.
Thời đó với chúng tôi, lũ trẻ con vùng ven đô, những cơn mưa mùa Hè đồng nghĩa với những niềm vui, đơn sơ mà hạnh phúc. Cứ hễ trời gầm gừ, cả lũ lại réo nhau, chuẩn bị nhào ra ngoài khi những hạt mưa đầu tiên vừa chạm mặt đất. Quang luôn là người đầu tiên đến kéo tôi đi tắm mưa, có hôm tôi ngủ quên trên gác, Quang phải chạy lên đánh thức tôi dậy kẻo tôi lỡ…cuộc vui!
Trước khi đi tắm mưa khắp xóm, hai đứa tôi có nhiệm vụ mang mấy cái thau ra hứng nước mưa trước hiên nhà, đổ đầy thùng phi nước cho gia đình xài. Sau đó chúng tôi nhập bọn với mấy đứa khác, thỏa thích chơi dưới trời mưa, có khi chỉ là giành nhau đứng dưới một cái máng xối để cảm nhận những trận nước mát lạnh bao phủ toàn thân, hay nằm vẫy vùng dưới sàn xi măng bóng loáng của một sân nhà ai mà tưởng như đang bơi trong hồ nước thiên nhiên. Cho đến khi thấm lạnh mệt nhoài, chúng tôi mới chịu trở về, tắm rửa và trùm mền ấm áp chờ bữa cơm chiều. Hôm nào mưa to có sấm chớp, chúng tôi không được phép tắm mưa, tôi và Quang ngồi dưới mái hiên, buồn xo, nhìn bâng quơ nước mưa tuôn qua mái tôn xuống những thau chậu trước nhà. Rồi chúng tôi nghĩ ra trò chơi xếp những con thuyền giấy, thả xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy, thích thú reo hò xem thuyền của ai vững vàng hơn khi vượt qua sóng gió quanh co, và lúc nào cũng kết thúc bằng những trái bắp luộc nóng hổi mà má tôi hay má Quang mua được ngoài vườn hàng xóm.
Có một kỷ niệm với mưa mà sau này chúng tôi lớn lên, gặp nhau thường đem ra nhắc lại. Vào đầu Hè năm ấy, chúng tôi vừa học xong lớp năm, cả nhóm được phép đi Sở Thú chơi. Ðến chiều khi đón xe bus trở về thì bị lộn xe, đưa chúng tôi đến một vùng lạ hoắc, chúng tôi ngơ ngác hỏi bác tài xế:
– Ủa, phải ngã năm Gò Vấp không vậy bác?
– Gò Vấp gò té gì ở đây! Chỗ này là Lăng Ông.
Chúng tôi mếu máo vì không còn đồng xu dính túi, những đồng bạc cuối cùng đã được xài ở Sở Thú trước khi ra bến xe. Cả đám đứng giữa đường, chưa biết phải làm gì thì trời kéo mây đen thui và ngay sau đó là những hạt mưa nặng trịch đổ xuống ào ào, chúng tôi vội tấp vào quán sửa xe đạp vỉa hè, cùng trú mưa với những người khác. Dù muốn dù không, khi mưa nhẹ bớt, chúng tôi phải đi bộ về nhà, đi tới đâu hỏi đường tới đó chứ không còn cách nào khác. Trời sẩm tối thật mau, mưa nhẹ hạt dần, mấy đứa đội mưa rảo bước trên đường, run như cầy sấy, răng đánh vào nhau cầm cập. Tôi bật khóc nức nở vì nhớ nhà, mấy đứa bạn xúm vào hỏi han, tôi càng khóc to hơn vì tủi thân, đến khi Quang dỗ dành thì tôi mới chịu…hết khóc. Quang cũng thường bênh vực che chở tôi trong các cuộc chơi trong xóm. Chơi trò bịt mắt bắt dê, tạt lon, nhảy dây, hễ tôi bị “đừ” lâu là Quang đòi tha cho tôi, Quang lớn tuổi hơn trong nhóm nên đứa nào cũng nghe lời, chơi lại từ đầu. Những buổi đi sinh hoạt đoàn đội, cắm trại hè, Quang luôn ở bên bảo vệ tôi khi cần thiết (kể cả những khi không cần thiết). Ðôi lần, tôi ngắm Quang và ngây thơ thầm nghĩ:“ Mai mốt lớn lên, nếu không ai chịu lấy mình, thì mình… cưới Quang cũng được chứ nhỉ!”
Lên cuối cấp hai, nhóm chúng tôi bắt đầu xa nhau. Một vài đứa nghỉ học lo mưu sinh giúp cha mẹ, tôi và Quang vẫn đi học nhưng khác trường. Gia đình tôi dọn vào căn nhà trong hẻm xóm trên, còn căn nhà mặt tiền kế bên nhà Quang chỉ để buôn bán. Vì thế, tôi ít có dịp về xóm cũ, những trò chơi tuổi thơ chỉ còn là kỷ niệm. Chúng tôi không còn gọi nhau mày tao, mà xưng tên, nghe cũng dễ thương. Thỉnh thoảng tôi có ghé qua quán nhà tôi buổi sáng để uống sữa đậu nành ăn gói xôi trước khi đi học, có gặp Quang hay bạn bè cũ, cũng chỉ kịp nhìn nhau cười, rồi thôi.
Một chiều Chúa Nhật, tôi rảnh rang đi tìm bạn xóm cũ, chẳng gặp đứa nào, nhưng may mắn còn có Quang đang ngồi trước cửa lặt rau muống phụ gia đình bán bún riêu. Tôi sà vào cùng nhặt rau, hai đứa hỏi thăm qua lại, nhắc vài chuyện “khi xưa ta bé” rồi bâng khuâng tiếc thời gian qua mau. Quang bỗng nhìn tôi, ánh mắt…dễ thương lạ lùng:
– Em thua anh hai tuổi, phải gọi bằng “anh” chứ!
Tôi mắc cỡ, không trả lời, nhưng cả buổi tối về nhà, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng nhẹ nhàng.
Lên cấp ba, chúng tôi càng xa nhau hơn. Tôi bận rộn với sách vở, môi trường mới, bạn bè mới, kỷ niệm với lũ bạn xóm cũ càng lùi dần vào dĩ vãng.
Khi tôi ra trường đi dạy, Quang đã học xong trường Cao Ðẳng Kỹ Thuật, đi làm ở xưởng Don Bosco gần chợ Gò Vấp.
Một ngày đầu năm học, mưa đang cuối mùa, trời bỗng nổi cơn mưa như thác đổ ngay giờ tan trường, tôi và một ít học sinh phải nán lại, co ro trong lớp chờ cơn mưa tạnh. Bỗng có đứa học trò chạy từ ngoài cửa vào, hớn hở la lớn:
– Cô ơi! Cô ơi! Có… Thầy tới đón cô nè!
Báo “tin vui” xong, nó nhe răng cười rồi biến mất ngoài hành lang. Tôi nhìn ra cửa lớp, thấp thoáng trong tranh sáng tranh tối của gió mưa và những loạt sấm chớp từng hồi, là dáng cao dong dỏng của Quang với chiếc áo mưa màu ghi dài, mái tóc ướt nước, nụ cười bừng sáng và đôi mắt trìu mến. Tôi vui đến ngỡ ngàng, nhưng vẫn không quên quay qua đám học trò nghịch ngợm đang xúm lại cười rúc rích, nghiêm giọng ra oai:
– Chú này là bạn hàng xóm thân thiết của cô, không phải… Thầy, nghe chưa!?
Tôi bước đến, hỏi Quang:
– Ngọn gió nào đưa anh đến đây vậy?
Quang cười, nụ cười vẫn hiền như thuở xưa:
– Anh đi làm về ngang trường, thấy mấy lớp học còn sáng đèn, nên ghé vào.
Tôi hỏi cắc cớ:
– Vậy có mang áo mưa cho người ta mượn không đó?
Quang bối rối, phủi mấy hạt mưa trên áo:
– Anh chỉ có chiếc áo này thôi! Em mặc về nhà trước, trời sắp tối rồi!
Tôi lắc đầu:
– Trời! Ai nỡ lòng nào lấy áo của anh chớ! Nếu anh rảnh thì ngồi đây chơi với em và tụi nhỏ…
Quang cởi áo mưa, nhìn ra ngoài trời, những chiếc lá bàng rụng tả tơi trong sân trường lấp lánh dưới ánh đèn mờ, rồi ngân nga: “Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa…”
Tôi nhắc:
– Bây giờ là tháng Chín nghen anh!
– Thì bài hát tác giả viết sao, anh hát vậy mà…
Mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng lại, trời thì càng âm u, các em học sinh cũng đã được phụ huynh đến đón về, chỉ còn tôi và Quang đứng nơi hành lang lớp học. Quang đưa tay ra ngoài trời hứng mưa, rồi bước lại gần tôi, ngập ngừng:
– Thật ra, anh có ý định đến đây mời em đi uống cà phê và ăn hủ tiếu ngoài chợ, em thấy sao?
– Dĩ nhiên là em không từ chối, nhưng trời tối thui và ướt át thế này, em xin hẹn lần sau. Giờ em chỉ muốn về nhà, ăn lẹ miếng cơm rồi lên giường nằm nghe nhạc, nghỉ ngơi.
– Thôi cũng được! Nào, em mặc áo mưa vào rồi cùng về.
– Thế còn anh?
– Mưa nhẹ rồi mà, anh ướt một tí cũng chả sao!
– Vậy thì em cũng chẳng cần áo mưa!
– Em biết cứng đầu từ khi nào thế? Hồi bé em ngoan hiền, có cãi lời anh bao giờ đâu?
– Chuyện này thì khác! (vả lại, em không… hiền đâu ạ!), em dứt khoát không thể mặc áo mưa trong khi anh phải chịu ướt. Mà nè, hai đứa mình cùng đi dưới mưa như hồi bé, ôn lại cảm giác xưa, cũng thú vị đấy.
Thế là chúng tôi đạp xe chầm chậm về nhà dưới làn mưa lất phất. Ðêm ấy, tôi ngồi soạn giáo án mà còn thả hồn theo mưa gió bên ngoài, tưởng tượng vài vần thơ dự định sẽ khoe với Quang, có đoạn cuối…rất tình:
Chiều dần tàn, cơn mưa chưa dứt
Hai người, chỉ một áo mưa che
Nhường qua nhường lại, thôi cùng ướt
(Ðêm về tôi cảm, người biết chưa?)
Chia tay, hẹn gặp nhau lần tới
Xóm nhỏ đỏng đảnh thật dễ thương
(Cũng giống như tôi- người thường nói)
Chỉ một cơn mưa làm vấn vương!!
Có ai ngờ đó là mùa mưa cuối cùng của chúng tôi, và bài thơ tôi viết còn mãi dang dở. Tuần lễ sau, Quang lên đường vượt biển. Thì ra, hôm ấy Quang đến mời tôi đi uống cà phê để tạm biệt, nhưng chỉ vì cơn mưa mà chúng tôi mất cơ hội nói lời giã từ. Quang đi hai tháng vẫn chưa có tin tức gì, gia đình Quang mỏi mòn chờ đợi, và tôi cũng lên đường.
Dù là đầu tháng Mười Hai, nhưng hình như là một cơ duyên với mưa, tàu của tôi gặp một cơn mưa bão bất ngờ chỉ sau hơn vài giờ ra khơi. Mưa biển thật dữ dội, điên cuồng và khủng khiếp. Máy thoát nước dưới hầm tàu bị hư, chúng tôi hứng chịu những đợt nước mưa lạnh buốt, trong tiếng sóng gào thét của biển cả và tiếng lòng cầu ơn Ðấng cứu tinh. Rồi thì sau cơn mưa trời lại sáng, biển tàn bạo nhưng biển cũng bao dung, đưa chúng tôi đến bến bờ bình an, nhưng nỗi ám ảnh về cơn mưa trên biển làm tôi… sợ mưa!
Nhưng tôi chỉ sợ mưa biển, còn mùa mưa của chúng tôi vẫn luôn là một miền ký ức tươi đẹp, ngọt ngào. Dù biết đời bể dâu biến đổi, cảnh cũ người xưa chỉ còn trong trí nhớ, tôi vẫn cứ mơ một ngày (có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!), tôi được về lại xóm cũ, một chiều mưa (dĩ nhiên!), tôi sẽ thả những chiếc thuyền giấy xuống “dòng sông nhỏ” trước hiên nhà, cùng với đám bạn thuở ấu thơ, kể cho nhau nghe nỗi vấn vương những sợi mưa dệt đầy một trời thương nhớ.
Quang ơi, bây giờ anh ở đâu? Tháng Sáu về rồi đấy, anh có lạy trời mưa?!
Edmonton Tháng 6/2021
_____________

NGHE JAZZ
Hôm nay nghe nhạc Jazz
Bỗng thương nhớ dạt dào
Khi tôi còn rất trẻ
Chiều cuối tuần xôn xao
Mộng đời ở phía trước
Tình yêu chẳng vội vàng
Nhạc tình, say men ngọt
Chếnh choáng hồn đi hoang
Quán mở nhạc rộn ràng
Ly rượu vang nồng nàn
Anh mời tôi uống cạn
Để lòng mình mênh mang
Không lả lướt như Waltz
Không quý phái Tango
Jazz ma mị quyến rũ
Dẫn tôi vào cơn mê
Như đôi mắt đắm đuối
Như vòng tay gọi mời
Jazz thẳm sâu tha thiết
Như khi anh nhìn tôi
Jazz bao la mịt mù
Sương khói buổi chiều Thu
Dập dồn như sóng vỗ
Tôi cùng anh lãng du
Lâng lâng những cảm xúc
Tuổi đôi mươi đâu rồi ?
Jazz, Valse, Slow Rock
Muốn đầy vơi khóc cười
Thời gian trôi muôn nẻo
Tóc xanh nhạt phai dần
Sao tôi còn nhớ mãi
Dư âm ... một thời xuân ??
KIMLOAN
BOM NỔ CHẬM
Hai vợ chồng chị Nở tiễn con gái và bạn trai của nó ra tận cửa garage, phụ hợ mang đồ đạc lỉnh kỉnh vào xe cho chúng, là những thứ chúng vẫn đem theo mỗi lần về thăm nhà như áo quần, giày dép, laptops, vật dụng cá nhân. Cuối cùng là nồi thịt kho trứng, chị dặn anh khiêng ra cẩn thận, để vào trong cooler, kèm theo mấy trái dưa leo, chúng nó lái xe hai tiếng về đến nhà là có món ăn cơm tối nay. Mọi thứ xong xuôi, chúng ngồi vào xe, cài seatbelts, chị theo ra lề đường dặn con:
- Amy nè, về tới nhà đem thịt kho ra hâm, ăn với dưa leo, nhe!
Chị cũng không quên thằng bạn trai của con:
- Benny, lái xe cẩn thận.
Nhìn hai đứa ríu rít bên nhau, chị Nở ấm lòng nhưng vẫn thở dài tự hỏi, hai đứa yêu nhau 4 năm, rồi sống chung với nhau 3 năm, bao giờ mới chịu làm đám cưới?
..................
Hai đứa quen nhau từ khi Amy vào Đại Học năm nhất, dù Benny lớn hơn Amy 3 tuổi nhưng vì đổi ngành học, vào học trễ nên chúng học cùng năm nhưng khác ngành. Sau bốn năm Đại Học, tình cảm thêm gắn bó, có chung một nhóm bạn thân, thỉnh thoảng rủ nhau đi du lịch ngắn ngày hoặc đi cắm trại, pinic vùng ngoại ô.
Từ khi mới quen, Benny đã được anh chị chấp thuận và đối xử niềm nở, vì Benny là chàng trai người Việt hiếu học, không đua đòi ăn chơi, biết cư xử với xung quanh. Qua những lần nói chuyện với Benny, anh chị biết ba má Benny có tri thức, nghề nghiệp tốt và nền tảng gia đình vững chắc. Suốt bốn năm Đại Học, Benny ở ký túc xá của trường (vì nhà ba má nó ở xa, cách 6 tiếng lái xe), chị vẫn kêu Amy đưa Benny về nhà ăn cơm chung với gia đình chị vào cuối tuần, có khi còn bới thêm thức ăn cho nó đem về.
Hai đứa tốt nghiệp Đại Học được nửa năm, Amy thông báo với anh chị:
- Ba mẹ ơi, con sẽ chuyển qua thành phố bên cạnh vì con mới được nhận vào làm trong một ngân hàng lớn ở bển.
Tụi nó nộp đơn xin việc ở cả hai thành phố, anh chị có biết. Benny được nhận ngay lập tức ở thành phố này vì kỹ sư dầu hỏa đang khan hiếm, còn Amy vẫn chưa được nhận bởi ngành business có nhiều người cạnh tranh, bây giờ mới được job nhưng phải ở xa gia đình hai tiếng lái xe.
Chị Nở nhanh nhẩu dàn xếp cho con:
- Con kiếm apartment nào gần chỗ làm cho tiện đi lại nhe. Benny làm việc ở đây, cuối tuần hai đứa thăm nhau cũng được.
- Dạ không, ảnh cũng vừa xin được chuyển qua chi nhánh công ty Dầu Hỏa chỗ con luôn, nên tụi con sẽ cùng qua đó.
Chị Nở hồi hộp:
- Vậy Benny sẽ... ở đâu?
- Ở với con chứ ở đâu! Tụi con mướn một apartment ở chung.
- Trời đất! Chưa cưới hỏi mà ở chung là sao?
Amy vô tư:
- Chứ mẹ nghĩ mỗi đứa mướn 1 phòng sẽ tốn kém biết bao, còn chuyện cơm nước nữa, ăn chung vẫn tốt hơn mà.
- Mẹ biết! Nhưng sao không cưới nhau, hoặc ít nhất là đám hỏi, là engaged, để người đời khỏi cười chê?
- Mẹ ơi! Con còn trẻ, mới 22 tuổi, Benny 25, cả hai mới có việc làm, thì cưới hỏi gì! Ngày nay chẳng ai lấy vợ lấy chồng sớm đâu mẹ.
Con gái học xong xin được việc làm, chị Nở mừng bao nhiêu thì lo buồn bấy nhiêu khi nghe con nói sẽ ở chung với bạn trai. Chẳng riêng gì chị mà chồng cũng thế. Hai vợ chồng sợ mang tiếng với bạn bè với họ hàng gần xa.
Chồng đành an ủi chị:
- Cũng may chúng nó sống ở thành phố khác cách nhà mình hai tiếng lái xe, có lẽ không ai biết chuyện này đâu.
- Nhưng lỡ con Amy... có bầu rồi chúng vác cái bụng bầu về nhà, chỉ vài lần thôi là cả thành phố biết hết anh ơi!
Nỗi lòng của chị Nở cũng như nỗi lòng của nhiều bậc cha mẹ nơi xứ này, khi con cái sinh ra lớn lên ở đây, theo văn hóa Tây Phương, con cái bảo sao thì cha mẹ nghe vậy chớ biết làm sao. Thấy chị Nở siêng đi Chùa, anh tưởng chị giận con nên đi Chùa cho quên sầu đời, chị nói thật lòng:
- Em cầu nguyện cho chúng cưới nhau sớm ngày nào em ăn mừng ngày ấy.
Sau một năm chúng sống chung, chị Nở nôn nóng chuyện cưới xin, anh nhắc chị:
- Chúng mới đi làm, còn phải dành dụm, đừng ép quá, con mình sẽ buồn.
Năm thứ hai, anh lại bảo:
- Tụi nó còn mê đi du lịch, tận hưởng đời sống sau mấy năm miệt mài học hành sách vở, thôi cho tụi nó thời gian đi em.
Vậy đó, năm nào anh cũng đưa ra lý do để an ủi chị (và cũng an ủi ảnh luôn).
..........................................
Năm nay là năm thứ ba, tụi nó mới đặt cọc mua căn nhà nhỏ, Benny cũng nhiều lần lái xe đưa Amy về thăm nhà nó vào dịp long weekend, Lễ, Tết, mà chuyện cưới hỏi chẳng thấy chúng đoái hoài, bên “đàng trai” cũng im re .
Tiễn con xong hai vợ chồng quay vào nhà, chị than thở với anh:
- Nhìn hai đứa đẹp đôi quá, không nghĩ đến thì thôi, chớ nghĩ đến là em rầu thúi ruột. Bốn năm quen từ Đại Học, ba năm dọn ở chung, là bảy năm thanh xuân của con gái mình chớ ít ỏi gì, thiệt thòi cho nó quá.
- Xời, xứ này nam nữ bình đẳng, chúng nó chẳng nghĩ ai thiệt thòi hơn ai đâu em ơi.
- Bởi mới nói, ngày xưa phải đợi đến ngày cưới mới có chuyện ở chung, còn bây giờ nhớ đến cái thời “khoan khoan ngồi đó chớ ra/nàng là phận gái ta là phận trai” chỉ còn trong cổ tích thần thoại.
- Thời đó quá xa xăm, thời tụi mình thôi nè, anh nhớ hồi bên Việt Nam lúc mình mới quen nhau, được phép đi chơi, ba em dặn dò kỹ lắm, phải về nhà trước chín giờ tối, cứ làm như trước chín giờ là an toàn, hổng có chuyện “ăn cơm trước kẻng” hay sao á!!
- Cái chính là sợ hàng xóm dèm pha dị nghị. Anh thử tưởng tượng cả xóm tắt đèn đi ngủ sớm, mà sau chín giờ anh đưa em đi chơi về, thì sớm mơi cả xóm sẽ có chuyện bàn tán đấy, mặc dù lúc đó nhà nào cũng đóng cửa mà vẫn “nhìn” thấy ai đi sớm về khuya. Trở lại chuyện con gái mình nè, chúng tính để mòn mỏi đến bao giờ?
- Bên đây tụi nó vậy đó, nhưng dù con gái mình có muốn thì cũng phải chờ thằng Benny cầu hôn, gọi là propose trước đã. Con gái mình đâu có quyền yêu cầu, đề nghị.
- Ủa, anh mới nói ngày nay nam nữ bình đẳng, sao giờ lại nói cái vụ cầu hôn là do con trai chủ động?
- Vậy em muốn con gái mình quỳ xuống cầu xin, ý lộn, cầu hôn trước sao?
Chị Nở nghiêm giọng:
- Thôi thôi! Nhức cái đầu! Giờ em quyết định rồi, tháng sau tụi nó về nhà ăn birthday của Amy, tụi mình dàn xếp sao đó, để anh có dịp nói chuyện với tư cách hai người đàn ông, hỏi thẳng thằng Benny bao giờ sẽ cưới con gái chúng tôi!
- Nghe nói nó mời Cindy và Sally, là hai con bạn gái thân thiết thời đi học, có chỗ hở nào để anh nói chuyện riêng với Benny?
- Hai đứa bạn gái buổi chiều mới đến dự tiệc, còn cả buổi trưa, lúc Amy phụ em làm món gỏi, em sẽ làm bộ thiếu món gì đó rồi hai mẹ con sẽ lái xe đi mua, anh ở nhà có nhiệm vụ ... hỏi tội thằng Benny, hiểu chưa ?
- Những lỡ thằng Benny xung phong đòi đưa hai mẹ con đi mua đồ thì sao?
- Đó là “plan A”, còn đây là “plan B”: Amy chắc chắn sẽ tắm rửa, trang điểm trước bữa tiệc, cũng khoảng hơn nửa tiếng, lúc đó em sẽ kiếm cớ nhờ anh và Benny ra sau vườn xem lại cái hàng rào. Mà anh phải lựa lời khéo léo, không những để Benny trả lời đúng trọng tâm, mà để nó không kể lại cho Amy, kẻo con mình buồn.
Anh đăm chiêu suy nghĩ rồi cương quyết:
- Anh cũng hết kiên nhẫn với thằng Benny này rồi.
Chị được nước, lên giọng:
- Chớ còn gì nữa! Có con gái như bom nổ chậm. Hãy nhìn gương nhà chị Bảy thường đi Chùa với em kìa. Con gái chỉ cũng ở với thằng bạn trai mấy năm trời, đến lúc tụi nó mua nhà, chị Bảy mừng hết lớn vì nghĩ sẽ có đám cưới, ai dè đùng cái, con nhỏ mang bầu, sanh con, bây giờ đẻ thêm đứa nữa, chuyện cưới xin coi như chìm xuồng . Dù hai bên nội ngoại nhận cháu nhận con vui vẻ, tụi nhỏ đi đăng ký kết hôn, nhưng chị Bảy vẫn đau lòng vì con gái mình không có một cái đám cưới chính thức với bàn dân thiên hạ.
Anh muốn nổi nóng:
- Vậy thì không thể chậm trễ được nữa, anh sẽ có cách để nói chuyện với Benny.
- Dù sao, mình có con gái vẫn phải ...lép vế nghen anh, anh cứ vừa đấm vừa xoa, vừa cứng rắn vừa ngọt ngào, để nó phải có câu trả lời rõ ràng.
- Anh biết mà!
Chị xuống giọng bên tai anh như sợ ai nghe thấy mặc dù trong nhà chỉ có hai vợ chồng:
- Nếu cần, anh cứ nói với Benny chỉ cần làm một đám cưới đơn giản, gọn gàng trong gia đình hai bên và bạn bè thân thiết là đủ, cũng chẳng cần nhiều thủ tục rườm rà, một buổi tiệc cưới nho nhỏ tại nhà hàng cũng xong, miễn là có đám cưới! Và nếu cần ...
Anh sốt ruột cắt ngang:
- Mình xuống nước vậy đủ rồi, còn cần gì nữa?
Chị Nở huỵch toẹt:
- Nếu cần thì mình ... bao luôn, cho chúng tiền làm đám cưới cho đẹp mặt nghen anh!
Anh thở dài:
- Vậy là mình ... cho không biếu không con gái hả em? Đành phải thế thôi, còn hơn bỗng một ngày nó rinh cái bụng bầu như con gái chị Bảy thì lúc đó là bom nổ banh xác chớ bom nổ chậm cái nỗi gì!
Chị Nở lại ý kiến:
- Anh nè, về phần em sẽ gọi cho ba má Benny, trước là để hai bên biết nhau, hỏi thăm chuyện mưa nắng, sau là thăm dò tình hình bên đó xem họ có nhắc gì tới chuyện hai đứa trẻ và có sốt ruột như mình không?
- Trời đất, sao em có số phone của họ, sao em lại chịu ... hạ mình như thế, xưa nay em ...chảnh lắm mà!?
- Vì con gái, em sẵn sàng dẹp bỏ tự ái, anh ơi!
- Vậy quyết chí nhé! Việc của anh là “hỏi tội Benny”, và việc của em là lựa thời điểm thích hợp, phone cho ba má nó. Tụi mình cùng nhau phối hợp “hành động”, tất cả vì con gái cưng của chúng ta.
Rồi ngày mong chờ cũng đến, buổi sáng chị Nở thong thả cắm mấy bình hoa tươi và chuẩn bị cho nồi bò kho ăn với bánh mì. Tiệc chỉ có 6 người, nên cũng không bận rộn nhiều, khi Amy và Benny về tới sẽ phụ chị làm gỏi, nướng bánh tôm cũng như chiên một mớ chả giò là xong. Benny đã đặt ổ bánh kem, chút chiều người ta sẽ giao tận nhà, hai đứa bạn gái của Amy sẽ lo phần trái cây và thức uống.
Vừa chăm chút nồi bò kho trên bếp, chị Nở liếc nhìn chồng đang ngồi uống cafe và lướt laptop nơi phòng ăn, chị lo lắng:
- Em hồi hộp quá anh ơi, không biết chút nữa sẽ là “plan A” hay “plan B”, liệu tụi mình có “diễn” đạt không hay sẽ bị bại lộ?
- Anh cũng căng thẳng và hơi lo khi anh nói chuyện được với Benny kết quả sẽ ra sao.
- Thôi chúng mình cùng cố gắng bình tĩnh, để em đi vào thắp nhang bàn thờ Phật phù hộ cho mọi việc êm xuôi, trót lọt.
Vừa xong nồi bò kho thì có tiếng cười nói ngoài cửa, dù tụi nó có chìa khóa nhà, chị vẫn chạy ra, thấy cả bốn đứa Amy, Benny, Cindy, Sally, chị ngạc nhiên:
- Ủa ủa...?
Amy nhanh nhẹn:
- Tụi nó muốn tới sớm phụ mẹ nấu ăn và chơi với con nhiều hơn, cả năm nay tụi con chưa gặp nhau mà mẹ!
Chị cười như mếu, đón tụi nó vào, tính đi tìm chồng để chia sẻ nỗi thất vọng vì kế hoạch “hỏi tội Benny” coi như không thành, thì anh đang đứng sau lưng, đưa cặp mắt “âu sầu” nhìn chị, cái ánh mắt chỉ có hai vợ chồng thấu hiểu mà thôi.
Căn bếp và phòng ăn chộn rộn hơn, mỗi người phụ một tay, tụi nhỏ nói chuyện rộn ràng, anh chị như cái xác không hồn, cười cười nói nói theo tụi nó mà trong lòng héo hon.
Đến chiều các thứ đã hoàn tất, mọi người đứng quanh bàn ăn, sẵn sàng chờ anh ra lệnh nhập tiệc thì thằng Benny bỗng tằng hắng rồi mở giọng nghiêm trang:
- Con xin phép được có vài lời! Hôm nay là sinh nhật 25 tuổi của Amy, và trong không khí ấm cúng thân tình này, con xin được cầu hôn em Amy ...
Rồi nó quỳ xuống trước Amy:
- Amy, will you marry me?
Ôi, con nhỏ không nói được lời nào, lấy tay che miệng để ngăn tiếng khóc bật ra vì hạnh phúc. Chị Nở đứng kế bên con cũng đứng sững như trời trồng, anh Nở đứng bên Benny cũng há hốc miệng, ngơ ngác tưởng như trong giấc mơ, trong lúc Cindy, Sally la hét cổ vũ khi Benny đeo nhẫn cho Amy. Đúng lúc đó có tiếng bấm chuông ngoài cửa, Benny chạy ra nhận ổ bánh kem và hai bong bóng hình trái tim, mỗi bong bóng có tên Amy và Benny. Mọi người xúm lại trầm trồ khi nhìn trên ổ bánh có hàng chữ: “Happy Birthday Amy! Thank You For Saying Yes!!!”
Tiệc sinh nhật kiêm luôn tiệc cầu hôn diễn ra thật vui, chị nhiều lần nhìn Benny với ánh mắt dịu dàng, thầm cám ơn “thằng rể tương lai” đã dành cho vợ chồng chị niềm vui bất ngờ, vỡ òa sung sướng khi được chứng kiến con gái được cầu hôn. Đến cuối tiệc, tụi nó phụ dọn dẹp, xếp chén dĩa vào máy rửa, rồi kéo nhau xuống phố, đi uống chút rượu và nghe nhạc ở quán bar kỷ niệm thời sinh viên của Benny và Amy.
Anh chị Nở cũng mau chóng vào phòng nghỉ ngơi với tâm trạng hân hoan phơi phới. Trong lúc mở tivi xem phim, anh cười mãn nguyện:
- Đúng là người tính không bằng trời tính, em nhỉ?
Chị tiếp lời:
- Hồi trưa em rầu quá, vì biết PlanA và PlanB phải hủy bỏ, nhưng đâu ngờ Benny tặng cho chúng ta ... PlanC quá tuyệt vời, “không làm mà tự nhiên thành”, cảm tạ ơn trên vô vàn.
Rồi anh quay qua nhìn chị:
- Rồi khi nào em sẽ phone cho ba má Benny?
- Thôi khỏi!
- Ủa? Mới hôm nào em còn dự tính phone cho họ mà?
Chị Nở vênh mặt:
- Đó là lúc nó chưa cầu hôn con mình kìa! Anh không nghe tụi nó bàn năm sau sẽ đám cưới sao? Giờ chúng ta chỉ việc ung dung chờ bên kia phone đến trước, mình cũng phải có thể diện của... “nhà sui gái” chớ!!
Vì quá vui nên anh chị tự thưởng cho mình một đêm thức thật khuya xem phim, sáng hôm sau còn đang nằm “nướng” muộn màng trên giường thì có tiếng phone reo. Anh là người trả lời phone, đầu dây bên kia chính là ba của Benny, bày tỏ niềm vui, chúc mừng “hai gia đình chúng ta” và xin phép được đến thăm nhà một ngày không xa để hai bên biết mặt nhau, bàn chuyện cưới xin, trò chuyện tâm tình nhiều hơn. Chị Nở nằm bên cạnh, hóng nghe mọi sự với khuôn mặt hãnh diện, rồi chờ chồng xong cuộc phone, chị cười:
- Anh thấy em nói có sai đâu nà! Họ cũng nôn nóng và sung sướng như tụi mình.
Anh Nở khoe:
- Anh cảm nhận ba của Benny là người tử tế, chân thành và hiểu chuyện. Họ rất quý mến con Amy nhà mình.
Chị làm tới:
- Kỳ này bàn chuyện cưới xin phải đúng phong tục tập quán Việt Nam em mới chịu à nghen!
Anh hồ hởi:
- Phải có đám hỏi đám nói đàng hoàng, có heo quay nguyên con, có đủ các mâm trầu cau rượu trà bánh mứt...
- Còn nữa, cô dâu chú rể phải mặc áo dài khăn đống cho đúng truyền thống Việt Nam khi dâng rượu cho ba má hai bên, và phải có buổi sáng rước dâu pháo nổ rộn rã, xác pháo đỏ trước sân. Phần tiệc cưới, em sẽ bảo chúng nó chọn nhà hàng Á Âu nổi tiếng nhất thành phố này để ngon miệng vừa lòng cả khách Tây lẫn khách ta...
Anh gật gù:
- Còn mục nào nữa không em?
Chị Nở vùng ngồi dậy, bước xuống giường dõng dạc:
- Nói chung là không thiếu mục nào hết á! Bây giờ em sẽ lên “Gu Gồ” hỏi cho đầy đủ. Con gái chúng ta sẽ có một đám cưới huy hoàng đẹp mặt cha mẹ trước quan viên hai họ. Con gái mình xinh đẹp thông minh, là cục cưng cục vàng của chúng ta, thì đâu thể đám cưới qua loa được, phải không anh!?
Edmonton, Tháng8/2025
KIM LOAN
" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"
-Luke 23:34-
_______________
NHẠC PHẠM DUY, TÔI YÊU
Tôi đã viết kỷ niệm với nhạc Lam Phương và Trần Thiện Thanh khi hai nhạc sĩ này qua đời, rồi có hứa với bạn bè trên Facebook sẽ viết về nhạc Phạm Duy, mà chưa viết được, vì nhiều lý do.
Và đến hôm nay mới có thời gian để … “mời người lên xe, về miền quá khứ”.
Tôi may mắn được biết nhạc Pham Duy từ rất sớm. Khi tôi học lớp ba trong một trường Quân Đội thời Việt Nam Cộng Hoà, hiệu trưởng là một Thiếu Tá. Năm đó, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đến trường, tuyển chọn một số học sinh để dạy một bài múa quay trên đài Truyền Hình Sài Gòn. Bài múa của chúng tôi tên gì tôi chẳng nhớ rõ, nhưng lại nhớ bài múa của một nhóm học sinh trường khác khi đến Đài Truyền Hình thu hình trước và chúng tôi thích thú đứng xem, vì bài hát thường nghe trên radio tại nhà: “Em ước mơ mơ gì tuổi mười hai tuổi mười ba …” . Bình thường nghe qua radio thì thấy …bình thường, nhưng được nhìn bài múa với những động tác nhí nhảnh đã cho tôi ấn tượng nhiều với bài này, mới 8 tuổi đầu, chẳng cần biết tác giả là ai .
Tuổi thơ đó, tôi thường nghe những nhạc thiếu nhi nào, tôi cũng không nhớ, nhưng lại nhớ một buổi chiều mưa dai dẳng, quán cà phê nhà tôi vắng khách, ba má bận việc trong bếp, tôi và nhỏ bạn trong xóm đứng hứng nước mưa trước mái hiên của quán, rộn ràng vui vẻ, bỗng dừng lại vì nghe được bài hát quen thuộc trên radio. Thế là hai đứa nhảy tưng tưng, hát (và hét) to hơn tiếng mưa, xem đứa nào thuộc bài hát nhiều hơn, thi với cả giọng ca trong radio (sau này tôi đoán là của Thái Hiền, chớ còn ai trồng khoai đất này):
“Ông trăng trả vợ đàn ông trả chồng cô gái trả trái cây cà,…”
Rồi Tháng Tư Đen ập đến, cuộc sống sau đó bị thắt chặt mọi bề, các đợt bố ráp đốt sách báo “đồi truỵ Mỹ Nguỵ” liên tiếp, các anh chị lớn trong gia đình tôi vẫn “ngoan cố” giữ lại được một số tờ nhạc rời của Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, và cả một tập nhạc “Bình Ca” của Phạm Duy. Mỗi tối khi rảnh rỗi, mấy anh trai của tôi lại ngồi ôm đàn guitar, hát mà tôi nghe đến thuộc và cũng mê luôn hồi nào hổng hay: “Này em con chim lười/ Nhiều năm chịm đau phổi/ Buổi sáng vắng tiếng chim cười vui … Này em con trâu gầy/ Nhiều năm trâu vất vả/ Cùng với bác xã nơi đồng quê …Này em đã tới giờ/Mẹ đưa em đi chợ …”
Ngoài ra còn có một số sách văn học khác, và mấy băng cassette cũ, trong đó có băng nhạc Thái Thanh hát nhạc nhiều tác giả trong đó có Phạm Duy .
Cứ thế, tôi lớn dần theo âm nhạc các anh chị em trong nhà lén lút khi hát và khi nghe vào những đêm khuya khoắt.
Anh Ba của tôi, sinh viên Đại Học Nông Nghiệp, có máu văn nghệ, thường vào cuối tuần tụ tập nhóm bạn đến nhà chơi, ăn uống, đàn địch hát hò. Nhà tôi có hai cây guitar, các anh bạn khéo tay xúm lại tự chế một bộ trống, nghe cũng xập xình lắm, thế là có đủ cho một ban nhạc mini. Lúc này tôi đã lớn, học lớp 10, đã biết thưởng thức âm nhạc, nhất là “nhạc Vàng”. Trong ban nhạc của anh Tư, có đủ giọng ca nam, nữ, hát đủ nhạc “sến” và nhạc “không sến”, đặc biệt có anh Thành Ruộng ( vì nhà ảnh có vườn trồng hoa, trồng rau để bán ngoài chợ, và để phân biệt với anh Thành ở xóm Chùa) . Anh Thành Ruộng còn trẻ như anh tôi, nhưng tóc bạc sớm, đeo cặp mắt kiếng rất nghệ sĩ, chuyên hát nhạc Phạm Duy. Ôi, những đêm vắng lặng, mấy chị em gái chúng tôi nằm trong phòng, hóng nghe ngoài phòng khách, giọng anh Thành Ruộng như mê hoặc : “Ôi giấc mơ qua/Mộng đời phiêu lãng giang hồ...”
Thời gian này, chế độ mới đã bớt hung hăng cấm đoán “văn hoá đồi truỵ”, người Việt ở hải ngoại gửi về Việt Nam hàng hoá, và cả những cuốn băng nhạc theo đường tàu viễn dương do các thuỷ thủ Việt Nam mang về, nên chợ trời Tạ Thu Thâu đã có những tapes nhạc phục vụ “âm thầm” nhu cầu khao khát của những người yêu nhạc VNCH. Các anh chị tôi đem về vài băng nhạc của nhiều giọng ca và nhiều tác giả, nên tôi được thưởng thức Duy Quang với những bài hát đã nhanh chóng làm trái tim tôi rung cảm: Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Maseur, Chuyện Tình Buồn, Thà Như Giọt Mưa, Ngậm Ngùi…
Năm tôi đang học lớp 12, một buổi trưa đầu hè tôi bước vào lớp, thấy trong hộc bàn một tờ giấy màu xanh lơ, có ép một cánh bướm làm từ hoa phượng và mấy câu thơ: “Em tan trường về- cuối đường mây đó- Anh tìm theo Ngọ-Dáng lau lách buồn-Tay nụ hoa thuôn-Vương bờ tóc suối-Tìm lời mở nói- Lòng sao ngập ngừng …”, chẳng có tên người gửi, cũng chẳng ghi tên người nhận. Được biết, người ngồi cùng chỗ đó của tôi (lớp buổi sáng) là chàng tuổi trẻ, nhỏ hơn tôi một tuổi (học lớp 11). Nếu như gặp các chàng khác, tôi sẽ vứt ngay tờ thư vào sọt rác, nhưng chàng này … may mắn, vì tôi đã yêu bài hát Ngày Xưa Hoàng Thị do Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Phạm Thiên Thư, qua tiếng hát Thái Thanh, nên tôi thấy cánh bướm đẹp quá, tờ thư xinh quá, và nhất là mấy câu thơ lần đầu tôi được đọc, tôi cũng đoán cả bài Thơ sẽ còn hay hơn nhiều. Tôi bỏ lá thư trong cặp, mang về nhà, đọc đi đọc lại nhiều lần, và mong “người ta” gửi tiếp cho trọn…bài thơ!
Cũng thời Trung Học, ông Thầy dạy Văn kiêm bí thơ Đoàn Trường, dân Nghệ Tĩnh, là bộ đội vượt Trường Sơn, nhưng có tính tình văn nghệ phóng khoáng. Thầy từng tâm sự với đám nữ sinh chúng tôi, thời ở trong rừng Trường Sơn, thầy thỉnh thoảng có nghe đài VNCH nhất là những bài nhạc tình lãng mạn. Rồi thầy lim dim đôi mắt hí như đang phê thuốc lào:
- Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đã hay rồi, nhưng phải qua tay phổ nhạc của Phạm Duy và giọng ca Thái Thanh thì trở nên rất tuyệt vời, không có chỗ nào chê được!
Riêng bài Ngày Xưa Hoàng Thị gắn bó với tôi dài lâu, (một phần cũng vì mấy câu thơ “người ta” để trong hộc bàn), theo tôi đến tận con đường vượt biển, qua trại tỵ nạn Thailand. Hôm ấy, tôi đang say giấc nồng trưa hè thiu thiu thì bỗng nghe bên nhà hàng xóm mở cassette (xài bằng bình acquy) bài Ngày Xưa Hoàng Thị qua giọng ca Thái Thanh. Tôi bỗng tỉnh ngủ, như chợt gặp lại “người xưa”, cầm theo giấy bút chạy qua để thưởng thức điệu nhạc quen thuộc và chép lời. Chị chủ nhà, cũng là người chung chuyến tàu với tôi, rất vui vẻ quay đi quay lại bài hát gần chục lần (sắp nhão cả tape) để tôi kịp ghi lại đầy đủ bài hát. Từ đó tôi cứ lẩm nhẩm bài này với bạn bè cùng lô nhà và khi chúng tôi tụ tập nhóm “đờn ca tài tử”.
Trong nhóm “tài tử” này, có một chị, lớn hơn tôi hai tuổi, có giọng ca hay, chung nhóm bốn đứa con gái chúng tôi ăn ở chung trong trại, xem nhau như chị em ruột, và tôi trở thành “bầu sô”, “quản lý” của chị mỗi khi ở trại có chương trình văn nghệ . Hồi gặp nhau tại Cambodia trên con đường ra biển đến Thái, có lần chị ấy cất tiếng hát Thuyền Viễn Xứ giữa đêm khuya khó ngủ, nên khi nhập trại tỵ nạn, buổi văn nghệ đầu tiên tôi đã ghi danh cho chị hát Thuyền Viễn Xứ, cả trại nghe mà rưng rưng đúng nỗi lòng tha thiết khi chị vào câu kết “Chiều nay trên bến muôn phương, có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường ...”
Năm nào trại cũng có nhiều dịp văn nghệ, nào sinh nhật Đức Vua Thái, nào Tết, nào Giáng Sinh, chị luôn vui vẻ để tôi chọn bài, (vì lúc đó tôi làm thiện nguyện ở post office của trại, quen biết nhiều, chương trình văn nghệ nào tôi cũng được biết rất sớm, nên sẵn đó ghi danh luôn cho chị).
Lần đó, mùa lễ Phật Đản, bên Chùa có một chương trình ca nhạc đặc biệt, như thường lệ, tôi báo với ban tổ chức bài Em Lễ Chùa Này cho chị . Sau đó chị lên tiếng:
- Loan ơi, chọn bài khác đi, chị không quen bài này.
- Ôi, bài này dễ ca lắm, để em chép lời ra rồi... hát mẫu cho chị vài lần là chị quen liền hà.
- Không phải thế, chị biết bài này, nhưng chị không hợp giọng, sợ sẽ hát không hay, mà lúc nào em cũng Phạm Duy, Phạm Duy là sao!
- Còn bài nào hợp với ...Chùa bằng Em Lễ Chùa Này không hở chị?
- Nhưng ...
Tôi bỏ ra sau nhà, hờn mát:
- Thì tùy chị đó! Nói thiệt nghen, em mà có giọng ca hay, thì bài này không đến lượt chị đâu!
Vậy mà vài hôm sau, tôi nghe anh trong ban nhạc kể, chị đã đến tập dợt và sẽ hát Em Lễ Chùa Này, dễ thương hết sức!
Giờ nghĩ lại thấy chị ấy rất đúng, bài đó cô Thái Thanh hát rất hay và hợp những khúc ngân nga luyến láy, còn chị thì giọng nội lực khá mạnh, không phải lúc nào cũng hợp cho nhạc Phạm Duy, chỉ tại hồi đó tôi cứng đầu ngang như cua, và chị thì thương tôi nể tôi, đã cố hát Nha Trang Ngày Về, Vũ Nữ Thân Gầy, Bà Mẹ Quê, và dĩ nhiên là không thể không hát Ngày Xưa Hoàng Thị (kỷ niệm tuổi học trò của... nàng “bầu sô”).
Nhân đây tôi cũng xin kể môt kỷ niệm vui về giọng hát Thái Thanh hồi còn ở trại. Đến giờ giới nghiêm, cả trại im lìm trong bóng đêm, chúng tôi bốn đứa chui vào mùng mở máy cassette nho nhỏ chạy bằng “pin”, nghe Thái Thanh phải nghe đêm khuya mới thấm, nhứt là khúc chậm rãi nàng rên rỉ: “Chim ơi chết dưới cội hoa/ Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà ...”. Chú Tám kế bên vách vọng sang thì thào:
- Cô Loan ơi, cô làm ơn mở volume lên chút xíu cho tôi nghe rõ giọng Thái Thanh, được không cô?
Tôi sung sướng:
- Ủa, chú cũng mê tiếng hát Thái Thanh sao? Hổm rày con đâu biết!
- Chả giấu gì mấy cô, tui chỉ mê nhạc mùi của Tuấn Vũ, Chế Linh. Nhưng giọng cô Thái Thanh làm tôi …buồn ngủ, tôi vốn mắc chứng mất ngủ!
Dễ giận không nà! Nhưng mà thôi, mục đích nào cũng tốt hết á. Chúng tôi bên này thả hồn theo từng điệu nhạc lời ca cao vút điệu đà của Thái Thanh, còn bên kia chú Tám…ngủ ngon.
Rời trại tỵ nạn cuối năm 1993 đến Canada, thuở chưa có internet, youtube, facebook. Mỗi chiều cuối tuần tôi đón xe bus xuống Thư Viện thành phố, tìm vào Vietnamese Section, sung sướng thấy những kệ sách, truyện Tiếng Việt, và mừng rỡ chộp liền Hồi Ký Phạm Duy (4 cuốn) đem về nhà nghiền ngẫm không sót một dấu chấm dấu phẩy . Đọc hồi ký, biết nhiều điều về tác giả và gia đình, biết số lượng tác phẩm đồ sộ của ông hơn cả nghìn bài, thế mà tôi từng ngỡ mình biết nhiều nhạc Phạm Duy.
Mùa Tết đầu tiên ở Ottawa, Canada, có một đêm nhạc dạ vũ, thấy poster có Thái Hiền, tôi liền mua vé ngay lập tức, con gái Phạm Duy chắc chắn sẽ hát nhạc của bố. Quả như mong ước, phần trình diễn của Thái Hiền, ngoài vài bài hát của tác giả khác, là các bài: Cành Hoa Trắng, Nghìn Trùng Xa Cách, Phượng Yêu ...nghe tới đâu mê mẩn tới đó.
Thời gian sau, trung tâm Thúy Nga Paris ra cuốn chủ đề Phạm Duy, thỏa lòng tôi biết bao. Mãn nhãn vì được nhìn thấy Thái Thanh, Duy Quang, hai tiếng hát tôi chỉ được nghe qua tapes, Cds, nay được “vừa nghe vừa ngắm” hỏi sao hổng vui! Mãn lòng khi nghe nhiều bài nhạc của Phạm Duy, trong đó vài bài tôi mới nghe lần đầu.
Lúc con gái tôi 8-9 tuổi, đi học piano, đến cuối khóa, con hỏi tôi chọn một bài nào đó để cô giáo tập cho, chuẩn bị buổi “recital”. Tôi bất chợt nghĩ đến “Blue Danube” vì điệu nhạc hay, ai dè lại là nhạc Phạm Duy chuyển qua lời Việt “Dòng Sông Xanh”. Nhớ đến chuyện ép uổng chị bạn ở trại tỵ nạn, tôi hỏi con gái:
- Mẹ thấy bài này hay, nhưng tùy con có thể chọn bài khác mà con thích.
Nó trả lời ngay:
- Bài này quá tuyệt mà mẹ, con cũng thích!
May quá, thế là có những buổi chiều, tôi lo cơm nước ngoài bếp, văng vẳng ngoài phòng khách là tiếng đàn piano con gái tập dượt, chỉ là nhạc thôi, nhưng trong đầu tôi là tung tăng điệu lả lướt theo Thái Thanh: “ Một ...giòng ...xanh ...xanh ...”
Dù ở trại tỵ nạn, hay qua Canada, bạn bè xung quanh đều biết tôi là “fan” của Phạm Duy . Ngày nay mỗi khi tụ tập nhóm họp có karaoke, giọng ca của tôi chỉ “tàm tạm” nhưng Phạm Duy có một số bài tương đối dễ ca cho tôi “thể hiện đam mê”: Trả Lại Em Yêu, Bao Giờ Biết Tương Tư, Còn Chút Gì Để Nhớ, Mùa Thu Chết ...
Nói vậy chớ, có một thời gian dài, tôi đã phải che dấu, hoặc ngại ngùng thú nhận mình là “fan” của Phạm Duy- Thái Thanh, vì nhiều lần bị bạn bè chọc ghẹo:
- Úi chào, loại nhạc đó, giọng ca đó, chỉ dành cho người già, thích loại nhạc …khó nuốt khó nghe!
Nhưng giờ đây, tôi đã “đủ tuổi”, à mà không, tôi đã dư tuổi, có thể công khai tuyên bố là “fan” của Phạm Duy rồi nhỉ.
Dĩ nhiên, tôi vẫn thưởng thức nhạc của nhiều nhạc sĩ khác của VNCH , nhưng không hiểu sao, trong nhiều tình huống, dù bất ngờ hay có dự định, thì nhạc của Phạm Duy luôn được chọn nhiều hơn . Vì đi làm buổi chiều, nên khi sáng ở nhà lo cơm nước, tôi thường nghe youtube bài giảng của vài vị linh mục, hoặc của Thầy hàng xóm Edmonton là thầy Pháp Hòa, hoặc là nghe nhạc. Có khi tôi chọn cả 1 CD, nhưng cũng có lúc tôi nghe riêng từng bài tùy theo tâm trạng.
Khi lãng đãng “không nắng không mưa” thì sẽ là “chiều buông bên dòng sông Cửu Long, như một cơn ước mong ...ơi chiều”, rồi thì “một người ngồi im nghe bên kia sông nước chảy về đâu ...” .
Khi buồn buồn nhớ quê hương thì có “chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai/hiu hắt tiếng bà mẹ cười/ vui vì nồi cơm ngô đầy ...” dù tôi chưa bao giờ sống ở nông thôn nhưng sao lại yêu thương quá đỗi với hình ảnh này.
Tháng Tư Quốc Hận thì phải nghe: “Một ngày 54 Cha bỏ quê xa...”
Khi tự hào dân tộc thôi thúc, tôi muốn nghe “tôi yêu tiếng nước tôi ...” và “quê hương tôi có con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên đồng vuông vắn”.
Khi trái tim mềm yếu nhớ tuổi thanh xuân lãng mạn, sẽ là “ vai em gầy dưới mưa, ướt bao nhiêu cũng vừa ...” rồi thì “ dắt em lên đồi cỏ hoang ngập nắng ...” lại bâng khuâng : “ đường dài hạnh phúc cầu chúc cho người ...”
Khi Tết đến Xuân về sẽ ngân nga: “Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi/Muốn yêu anh vác cày trên đồi ...” để rồi mộng mơ: “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà ...”
Tuy chưa được gặp Phạm Duy ngoài đời thực, nhưng tôi cũng có hai lần “giao tiếp” cùng Ông qua email phamduy@aol.com . Lần đầu khi tôi còn làm trong ban báo chí Hội Người Việt Edmonton, tôi viết một truyện ngắn, có lấy câu ca dao “Tóc mai sợi vắn sợi dài/Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm” để dưới tựa đề truyện, thì một anh trong ban báo chí (là một “fan” của Phạm Duy) cương quyết cho rằng đó là thơ của Phạm Duy trong bài hát cùng tên, có câu: “Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc ...”. Tôi bèn email hỏi tác giả thì Phạm Duy sau đó đã hồi âm, bảo rằng tôi ...không sai!
Lần thứ hai, tôi hỏi Ông về câu hát: “Năm năm rồi không gặp/ Mười năm mất nhau không/ Trăm năm dù lỗi hẹn/ Ngàn năm vẫn không quên/ Vẫn nhớ y nguyên” và nhân tiện chúc mừng sinh nhật Ông. Lần này Ông cũng giải đáp thắc mắc, cám ơn lời chúc sinh nhật và nhắc vui tôi đừng dùng “years- old” mà phải dùng “years-young” vì Ông lúc nào cũng ...trẻ .
Qua hai lần email đó, một lần khi Ông còn ở Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City, California) và lần Ông đang ở Việt Nam, lần nào Ông cũng trả lời email trong vài giờ, không để tôi phải chờ đợi lâu . Điều này chứng tỏ Ông là một nhạc sĩ nghiêm túc, chuyên nghiệp, trân trọng khán thính giả, những người hâm mộ nhạc của Ông.
Kỷ niệm về nhạc Phạm Duy của tôi đến đây là hết, hy vọng không còn thiếu sót gì, chớ còn nói về nhạc Phạm Duy thì chẳng bao giờ cạn, vì mênh mông lắm , bao la lắm.
Trong một dịp tụ tập gia đình bên Arlington, Texas, mấy anh chị em có ôn lại thời gian khó khăn sau năm 1975 khi “nhạc Vàng VNCH” bị cấm đoán và nhắc đến những tờ nhạc rời Phạm Duy đã một thời vang lên “khe khẽ” trong căn nhà của chúng tôi . Anh Hai cho rằng, lẽ ra bài “Việt Nam Việt Nam” nên là Quốc Ca của VNCH, anh Ba anh Tư ca tụng Ông là “phù thủy” dịch nhạc ngoại sang lời Việt, bà chị Cả thì say mê gọi Ông là “phù thủy” của phổ thơ, còn riêng tôi thì luôn ...nghi ngờ Ông đã là thi sĩ trước khi là nhạc sĩ rồi cơ: “ Em có hay chăng anh về/Thoạt nhìn người yêu ngỡ trong mộng mê/ Ai dám mong chi Xuân về/ Nào ngờ vườn đêm có bong hoa kề” .
Tóm lại, trong lĩnh vực âm nhạc, dù với chủ đề nào, thể loại nào, Ông cũng là “phù thủy” hết á!
Trước Phạm Duy thì tôi không biết, nhưng kể từ khi có Nhạc sĩ Phạm Duy, thì với tôi, âm nhạc Việt Nam chắc còn lâu lắm, mới có được người thứ hai như thế!
Edmonton, Tháng7/2025
KIM LOAN
*** Ghi chú: Tất cả những chữ in nghiêng trong bài viết này, là những Tựa Đề hoặc những câu hát trong nhạc Phạm Duy.
MỘT NGÀY VUI
Xứ Canada này có bốn mùa rõ rệt, mùa nào ra mùa đó không lẫn vào đâu được . Mới hôm nào tuyết trắng xóa lạnh căm, rồi qua mùa tuyết tan là những cơn mưa xuân trong vắt, mát rượi cả đất trời, và nay đang là mùa hè nóng, nắng vàng tươi khắp các nẻo đường .
Tôi biết một bà cụ người da trắng nơi tôi làm ở Nhà Già, khi tôi mới đi California thăm gia đình về, bà bảo:
- Tôi có căn nhà bên San Francisco mấy chục năm nay, thỉnh thoảng chúng tôi bay qua bển chơi có chỗ nghỉ ngơi .
Tôi liền nhanh nhẩu:
- Vậy sao bà không dọn qua đó, ở đây chi cho lạnh lẽo...
Không chờ tôi nói hết câu, bà đáp ngay một tràng, đại khái là:
- Không! Trăm lần không, vạn lần không! Tôi là người Canadian chánh gốc, tôi yêu đất nước có bốn mùa đẹp đẽ này, nhất là Mùa Giáng Sinh huyền hoặc lung linh, rồi mùa Hè đủ nóng để mọi người chăm sóc vườn tược, cây trái, dã ngoại, ra ngoài ăn uống shopping, hòa mình với thiên nhiên .
Hôm nay cũng là một ngày hè như thế đó .
Nhà tôi, hàng năm có hai lần “clearance” tổng vệ sinh, một lần đầu hè và lần cuối mùa thu . Từ tuần trước, tôi đã để sẵn các bao, ra lệnh với chồng con trong nhà, dọn dẹp áo quần giày dép, cái nào hư cũ thì cho vào bao rác, cái nào còn dùng được thì cho vào bao cho Goodwill . Kể từ khi con gái đi lấy chồng ở riêng, thì người giựt giải “có nhiều đồ clearance” nhứt chính là tôi chớ còn ai trồng khoai đất này . Ông xã từng nói với tôi:
- Hai cái closets trong master bedroom, em đã xài một cái, rồi xài luôn cả closet của phòng con gái sau khi nó lấy chồng, chưa kể cái closet phụ nằm ở phòng đọc sách chỉ dành riêng cho những bộ áo dài và áo khoác của em, vậy mà em vẫn thấy chưa đủ, vẫn đi shopping vác đồ về, để rồi tới mùa dọn dẹp lại cho vào bao Goodwill.
Chàng nói đúng quá nên tôi chỉ biết giả lả cho qua, dù có “biết bao lần em đã hứa”, để rồi “hứa cho nhiều rồi lại thôi”, y như Vũ Thành An viết bài này dành riêng cho tôi và các chị em phụ nữ đi mua sắm không có lập trường vững chắc. Có khi, chỉ cần tìm một cái áo, nhưng đến tiệm lại không thấy áo mình muốn mua, mà lại có... quần đang sale, thế là ôm cái quần về rồi tính sau. Cứ thế, nhất là những lúc đi theo bạn bè cho vui, chẳng có ý định mua gì, nhưng lại gặp lúc “on sale”, thôi cứ mua để đấy, riết rồi closets chật cứng, có lúc cho vào bao Goodwill những món áo quần chưa mặc tới, tôi cũng áy náy tội lỗi lắm, vì lúc mua thấy cũng được, mà đem về nhà thử lại thì không ưng.
Ở thành phố này, các cửa tiệm Goodwill thường có các nhân viên bán hàng “đặc biệt”. Họ là những người ăn welfare, được chính phủ giới thiệu họ vào đây, vì muốn họ vẫn phải đi làm kiếm chút tiền, rồi welfare cho phần còn lại, đủ chi phí cho sinh hoạt tối thiểu. Hoặc đó là những người từ các trung tâm cải tạo những người nghiện thuốc, nghiện rượu, họ phải đi làm những giờ “lao động công ích” cho xã hội ... Bởi vậy, tôi lại tự tha thứ cho cái tội mua sắm tùm lum của mình, an ủi rằng, thích thì cứ mua, rẻ thì cứ khuân về, mặc vài lần rồi sau này đem cho Goodwill, cũng là làm ... charity, giúp cho người khác có việc làm, đôi bên cùng có lợi, chẳng hề lãng phí chút nào.
Nấu cơm xong xuôi mọi việc, tôi vác các bao đồ cũ ra xe, thẳng tiến đến tiệm Goodwill cách nhà gần chục blocks đường . Như thường lệ, khi tôi vừa lui xe vào cửa sau của tiệm, bước ra mở trunk xe, có một phụ nữ trung niên, là manager của tiệm chạy ra phụ tôi khiêng các bao đồ vào nhà kho. Sau lời cám ơn, cô ấy đưa tôi tấm vé:
- Gửi cô ticket cho Bake Sale Event cuối tuần này nhé.
- Ủa, Bake Sale nhân dịp gì vậy cô?
- Oh, mấy neighbourhood quanh đây kết hợp với Sở Cảnh Sát và Sở Cứu Hỏa trong vùng, tổ chức Bake Sale để gây quỹ giải bóng đá mùa hè cho đám trẻ con trong các xóm, cô nhớ ghé ủng hộ, tại sân trường St.Catherine trưa Chủ Nhật. Ticket này 50% off dành cho những người tặng đồ cho cửa tiệm Goodwill của chúng tôi.
- Ôi! Đã tham dự thì cần gì 50% off nữa chớ, nhưng tiếc quá cuối tuần này gia đình rôi đi thăm con gái ở Calgary, thôi cô để vé này cho người khác giùm tôi, hẹn dịp khác tôi sẽ có mặt.
Vừa goodbye cô manager tiệm Goodwill, tôi nhìn thấy khu shopping bên kia đường, có tấm bảng thật lớn của tiệm The Bay: “Clearance Closing Sale- 60-80% Off – Everything Must Go!”
Trời ơi, đã là sự thật rồi ư ? Hồi tháng trước, hai vợ chồng tôi xem tivi, tin tức cho biết, tình hình kinh tế khó khăn, nhất là sự cạnh tranh của shopping online, nên nhiều công ty bán lẻ có uy tín lâu đời tại Canada, trong đó có Hudson’s Bay đang trong nguy cơ dẹp tiệm nếu không được chính phủ giải cứu. Lúc ấy, tôi vẫn hy vọng có phép màu để The Bay tiếp tục, vì nơi đó, là kỷ niệm, là nơi shopping mà tôi yêu thích.
Nhớ khi vừa đặt chân đến Canada từ trại tỵ nạn Thailand, cái thuở đi học ăn trợ cấp chính phủ, còn nghèo, tôi và mấy người bạn, sau giờ học thường lang thang vào The Bay để ngắm nghía đồ đạc . Khu mỹ phẩm nước hoa thơm tho một mùi nhẹ nhàng cao sang, đến giờ tôi vẫn không quên mùi hương ban đầu ấy. Khu bán đồ nội thất, khu bán đồ gia dụng nhà bếp, rồi khu giày dép áo quần, nữ trang. Khu nào cũng đẹp, cũng cho chúng tôi niềm vui sáng ngời trên xứ tự do dù chỉ là “window shopping”.
Sau này khi lập gia đình, đi làm, bớt... nghèo, thì The Bay là nơi chúng tôi thường xuyên vào mua sắm, mấy chục năm trôi qua, nơi này là một phần không thể thiếu trong ký ức của các thành viên gia đình. Mới hôm nọ trong bữa cơm sum vầy, cả nhà ai cũng nhắc đến The Bay với nỗi lòng luyến lưu, vậy mà hôm nay, giờ đây, đang chuẩn bị đóng cửa vĩnh viễn, buồn làm sao .
Tôi bèn bước qua đường, vào khu shopping của The Bay. Người ra vào nhộn nhịp, khu nào cũng đông người lựa đồ, nhất là khu quần áo. Cả một rừng áo quần tràn ngập, các bảng giá thiệt bự, big sale lần cuối .
Tôi biết, sau vài lần gần đây mang nhiều đồ đến Goodwill, tôi đã tự hứa với lòng mình, kể từ nay, tôi chẳng còn thiếu thốn gì cả, vả lại, bắt đầu “có tuổi” người ta dần dà buông bỏ những thói quen, những đam mê lãng phí tiền bạc và thời gian, sống đơn giản nhẹ nhàng, nên tôi đã đề ra quy ước, chỉ đi shopping mua sắm khi thực sự cần thiết và khi giá cả món đồ cũng như chất liệu vải vóc, kiểu dáng, màu sắc... mọi thứ phải ưng ý từ 80% trở lên thì mới mua, còn nếu lơ lửng phân vân thì sẽ là “No!”
Nhớ quy ước đó, tôi mạnh dạn tiến đến khu áo quần, cơ man hàng trăm hàng nghìn món, hì hục chọn lựa qua vòng “sơ khảo”, tôi ôm khoảng hơn chục món vào khu thử đồ để tiếp tục vòng “chung khảo” .
Vào phòng thử, lúc này tôi mới chậm rãi mặc từng cái, quay qua quay lại trước gương kỹ lưỡng vài lần, cuối cùng còn 3 món vào “chung kết”, đó là một chiếc áo khoác, một quần jeans, và cái áo đầm satin, tổng cộng là $110, quá rẻ, quá hờ .
Tôi khựng lại, nhắc mình xem lại quy ước của chính mình một lần nữa trước khi quyết định. Trước tiên là có cần thiết không ? Dĩ nhiên là không, bởi vì hôm nay tôi chỉ tính đi cho đồ Goodwill rồi đi về nhà, không hề có nhu cầu mua sắm. Tiếp theo, các món này có đủ tiêu chuẩn hài lòng 80% không? Tôi ngắm nghía từng món, cái áo khoác kiểu này, tôi có hai cái đang nằm trong closet, quần jeans ư, tôi còn đủ để mặc vài năm nữa, lúc ấy mua thêm cũng chưa muộn, áo đầm satin hả, cũng đẹp nhưng màu hơi tối tăm, họa tiết khá rối mắt, tôi cho điểm chung ba món này đúng 80% không hơn không kém, nghĩa là tôi có quyền... mua (như trong quy ước).
Tôi lại bỗng ngập ngừng, bấy lâu nay tôi chỉ hứa chớ chưa làm, hôm nay tôi phải... can đảm thực hiện lời hứa để ông xã không còn dịp than thở bằng câu hát “biết bao lần em đã hứa ...”. Tôi hít một hơi thật sâu và dài, rồi như có một sức mạnh nào đó khiến tôi mang tất cả đống quần áo ra ngoài trả lại cho nhân viên phòng thử đồ. Cô ấy nhìn tôi tiếc nuối:
- Chả lẽ không có cái nào vừa ý cô sao? Cái áo đầm satin này giá bình thường là $149 đấy, mặc đi tiệc là đẹp lắm.
Cứ tưởng thoát nạn nhưng lại gặp “cám dỗ” nữa rồi! Tôi nể lời cô nhân viên, và cũng có phần tiếc rẻ, cầm chiếc áo đầm, nhìn kỹ lại lần nữa, và may sao, lý trí vẫn còn tỉnh thức, tôi mỉm cười, đưa lại chiếc áo cho cô ấy:
- Tôi đã có chiếc áo satin khác ở nhà, cũng còn tương đối mới, cảm ơn cô!
Tôi vội vàng bước nhanh ra khỏi cửa tiệm, khi ra hẳn ngoài đường, tôi thở phào nhẹ nhõm, và cảm thấy vui khi đã tiết kiệm được $110 cho ngân sách gia đình .
Lúc này tôi mới cảm thấy khát mà chai nước suối để quên trong xe. Kế bên bãi đậu xe gần tiệm Goodwill là tiệm bán nước giải khát và bánh ngọt, tôi quyết định tự thưởng cho mình một thức uống nào đó, coi như món quà dành cho tôi đã “chiến thắng chính mình” trước cơn cám dỗ của shopping .
Rồi tôi cũng bước vào xe với ly cafe sữa đá và cái bánh waffle trong tay, với giá $10, phơi phới lái xe trong nắng hè nồng nàn.
Tính ra, hôm nay tôi vẫn còn save được $100, tôi nôn nóng về nhà để khoe với chồng “thành tích” này.
Quả là một ngày vui!
Edmonton, tháng6/2025
KIM LOAN
_______________
Khi đàn ông phạm tội
Hồi tôi học lớp bảy, trường có phong trào làm báo tường mừng Xuân. Vì lớp không có ban Báo Chí nên tên lớp trưởng kiêm hết mọi chuyện, kêu gọi, gom bài. Hắn gặp tôi tại sân trường cuối giờ hôm đó:– Bà ráng viết một vài bài cho báo tường lớp mình nha! Tôi cũng hơi chảnh:– Để tui suy nghĩ rồi trả lời ông sau. – Suy nghĩ gì nữa! Mà nè, bà phải gọi tui là anh mới đúng, vì tui hơn bà một tuổi. Tôi trề môi dài cả thước: – Còn lâu! Học chung lớp, ai cũng như nhau. – Nhưng tên của tui là Nguyễn Anh Nuôi, bà nhớ chưa?
Sự thực mà nói, hắn ta hiền khô, hay cười trừ mỗi khi có chuyện bế tắc, nhưng tại vì cái lý lịch “dân tập kết”, nói giọng nửa nam nửa bắc, đôi khi làm tôi khó chịu, không muốn kết thân. Lúc ấy “giải phóng” đã bốn năm rồi, tôi đã qua cái thuở thơ ngây chưa biết gì về thời cuộc, nhất là vừa mới chứng kiến ông anh thứ tư của tôi đậu đại học vẫn phải đi “nghĩa vụ quân sự”, rồi đào ngũ trốn chui trốn nhủi, sau đó may mắn vượt biển qua được Songkla, Thailand. Trường tôi vì gần khu quân sự nên thời điểm đó đón nhận một mớ học sinh là con của các gia đình cán bộ tập kết, hoặc từ bên kia vỹ tuyến tràn vào, mà nghe cái tên thôi cũng đoán được lý lịch của từng đứa. Lớp kế bên có hai anh em sinh đôi Nguyễn Văn Thống Nhất, Nguyễn Văn Hữu Nghị (hãi chưa?) Rồi còn có Phạm Trường Sơn, Trần Nam Tiến, rồi Vũ Huân Chương (chắc ba nó là Vũ Bằng Khen quá!), thậm chí có cả Đoàn Tiệp Khắc, Võ Việt Xô nữa cơ (thật là hùng tráng tình quốc tế anh em). Tuy nhiên, trong cả đám học sinh miền ngoài đó, chỉ còn lại tên Anh Nuôi lớp trưởng khá hiền lành nên tôi còn “giao lưu”, nói chuyện.
Nói gì thì nói, viết văn là sở thích của tôi từ thuở bé. Tôi còn nhớ, lúc ấy báo chí chưa có nhiều, chỉ có vài tờ nhật báo, trong đó có tờ Sài Gòn Giải Phóng. Mỗi thứ ba hằng tuần, tờ báo có trang dành cho thiếu nhi, giới trẻ. Tôi và một đứa bạn cũng mày mò, viết bài, bỏ vào phong bì, ra đầu xóm mua con tem, ghi địa chỉ toà soạn, rồi mang ra bưu điện gửi, và sau đó thấp thỏm đợi chờ. Nên chuyện báo tường chỉ là chuyện nhỏ, tôi viết một mạch về mái trường, về lớp học, về bạn bè thầy cô, trong vài ngày là xong. Tôi hào hứng đưa tên lớp trưởng hai đoản văn tản mạn. Hắn nhận xong, hỏi tôi:
– Bà nè, tui mới về trường năm nay, nên chưa rành vụ báo tường, bà nói sơ sơ cho tui nghe coi.
– Thì tìm mua một tấm giấy cứng màu trắng, khổ rộng, rồi để tất cả các bài trên đó, trang trí cho đẹp vào.
– Vậy thì đâu có bao nhiêu bài?
– Ngáo ạ! Mỗi mục có thể có vài bài là các trang giấy chồng lên nhau, như những tờ lịch xé vậy đó, người xem chỉ việc lật lên lật xuống.
– Mà cần những mục gì?
– Thôi ông hỏi nhiều quá, lên văn phòng mà hỏi thầy Hiệu Phó. Tóm lại, các mục tiêu biểu là Thơ, Văn, Tạp Bút, Truyện Cười, Lượm Lặt Đó Đây, Dưới Mái Trường, tuỳ mình chế ra mục nào mình thích nữa.
Gần tới ngày treo báo cho toàn trường ngắm thì hắn tuyên bố lớp 7A1 của chúng tôi sẽ không có báo, vì không kịp thời gian.
Hắn khai thật với tôi:
– Thiệt tình là tui đã cố gắng, đã họp với mấy tên biết vẽ trong lớp mình, nhưng cuối cùng chẳng ra đâu vào đâu. Hơn nữa, đến giờ phút này chỉ mới nhận được… hai bài của bà thôi à, làm sao ra nổi tờ báo??
Hắn nói vậy thì tôi nghe vậy, hơi thất vọng chút xíu, chớ biết sao bây giờ, vì thời hạn đã cận kề, chỉ có trời mới giúp được. Đến ngày khai mạc báo tường, tôi hớn hở cùng bạn bè đi xem các tờ báo lớp khác. Bỗng tôi thấy hai bài của mình trên báo tường lớp sáu và tác giả ghi bên dưới là Nguyễn Anh Thư, chính là em gái thằng lớp trưởng. Tôi giận run người, nổi cơn điên, đến phòng hiệu trưởng mách thầy giáo phụ trách Báo Chí và chạy đi gặp hắn, để sỉ vả một trận. Sân trường giờ ra chơi biết tìm hắn nơi đâu? Chạy ra sân banh thì thấy hắn đang co giò chuẩn bị một cú sút phạt đền vào lưới đối phương. Nhìn thấy tôi tiến tới với bộ mặt trời gầm, đất lở, hắn làm liền cú sút bóng, nhưng trái bóng bay thẳng qua xà ngang, lọt ra ngoài hàng rào sân trường. Hắn đỏ mặt, chạy về phía tôi, là tôi trút ngay cơn giận vào hắn:
– Nè ông! Tại sao hai bài của tôi có mặt trên báo tường lớp 6A1 dưới tên của em gái ông?
Hắn nhễ nhại mồ hôi, vẫn bình tĩnh gãi đầu, và cười trừ:
– Tui không biết! Chắc là nó lấy trộm trên bàn học của tui.
– Nói vậy tưởng tui tin sao?
– Thiệt đó! Tui không biết, thôi bà đừng giận nữa.
Không để hắn nói hết câu, tôi gằn giọng:
– Kể từ ngày hôm nay, à mà không, kể từ giây phút này, ông nhớ tránh xa tui ít nhất là ba mét nhé, nếu không thì đừng trách tui hung dữ!
Nói xong cho hả cơn giận, tôi đùng đùng bỏ đi, mặc kệ hắn đứng như trời trồng giữa sân banh nắng gắt.
Đó là chuyện của xa lắc xa lơ, còn tiếp theo là chuyện mới đây, khi ở bên Canada xứ lạnh tình nồng. Những năm trước, khi còn là thành viên của Ban Quản Trị Hội Người Việt Edmonton, tôi phụ anh Hội Trưởng, kiêm trưởng ban Báo Xuân xem xét các bài vở trước khi layout. Bữa đó, có một bài thơ được gửi từ Saskatoon, nhưng đó lại chính là bài thơ của tôi đã từng đăng trên Báo Xuân Hội Người Việt những năm trước đó. Giờ bài thơ được sửa lại vài chữ ở vài câu, và đề tên tác giả mới. Sau khi tìm hiểu, được biết tác giả là một chú “có tuổi”, cũng có hoạt động cộng đồng ở vùng Saskatoon, tôi bàn bạc với anh Hội Trưởng, rồi bắt đầu gửi email: “ Cám ơn chú đã sửa lại bài thơ của cháu hay hơn, nhưng rất tiếc là chúng cháu không thể đăng bài thơ này nữa vì nó đã được đăng cách đây vài năm”.
Tưởng đọc email xong thì chú ấy im lặng cho xong, ai ngờ chú ấy email lại, phủ nhận:
“Ồ, vậy là chúng ta tư tưởng lớn gặp nhau. Riêng bài thơ này tôi đã làm từ chục năm trước rồi cơ!” (Ngầm ý là chú ấy mới chính là tác giả).
Không muốn đôi co với người lớn tuổi, tôi lại bàn bạc với anh Hội Trưởng, và gửi tiếp email: “Dạ, cháu biết tư tưởng giống nhau trong văn chương là chuyện bình thường. Tuy nhiên, Ban Biên Tập vẫn quyết định không đăng (lại) bài thơ này! Mong chú thông cảm”.
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ hồi đó trong xóm tôi, có chị kia đi đánh ghen chồng ngoại tình. Chị đến tận nhà tình địch, gõ cửa, và y như rằng, có chồng chị ở trỏng. Vậy mà chồng chị giải thích anh ta đến đó để… trả nợ tiền làm ăn cho cô kia. (Còn tại sao “trả nợ” phải vào phòng đóng cửa thì không thấy nói). Chị hàng xóm của tôi thuộc loại lạt lòng, nên bỏ qua, không làm lớn chuyện, vợ chồng vẫn vui vẻ như chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng chị có tuyên bố một câu: “Đờn ông hả? Khi họ sai lầm, phạm tội, bằng chứng rành rành, nhưng việc đầu tiên là họ vẫn luôn luôn chối”.
So sánh với hai “sự cố” của tôi, cũng thấy… quen quen! Bây giờ nhớ lại, tôi không còn nổi cơn sừng sộ như cô bé tuổi 13 hoặc bực bội của tuổi “chớm… sồn sồn” như xưa nữa. Ngược lại còn thấy vui, vì nhờ vậy tôi mới có bài viết này và có những kỷ niệm vui để mỗi khi đến Ngày Phụ Nữ mà kể tội... đàn ông.
Kim Loan
_______________

Yêu người, yêu phượng, yêu mùa hè
Buổi học cuối cùng, sầu tiếng ve
Sân trường nắng đỏ màu lưu luyến
Nặng trĩu bước chân em đi về
Ngẩn ngơ Thầy đứng trên bục giảng
Bàn ghế im lìm nhớ dáng ai
Từ nay sẽ không còn thấy nữa
Suối tóc dịu dàng, đôi mắt nai …
Cổng trường khép lại, em bâng khuâng
Ngàn lời muốn nói bỗng ngại ngần
Rộn rã những giờ Thầy lên lớp
Đâu ngờ ngày vui trôi qua nhanh
Bóng em xa khuất cuối con đường
Hành lang lớp học, Thầy vấn vương
Vì cô bé có chiếc răng khểnh
Áo trắng ngây thơ buổi tan trường
Ép đôi cánh phượng vào lưu bút
Nâng niu kỷ niệm một mùa hè
(Em viết tên Thầy vào trang cuối
Với một bài thơ …dẫu vụng về)
Bên bài giáo án, Thầy thao thức
Ngọn đèn khuya, điếu thuốc trên môi
Dòng nhật ký em ghi dang dở
Nhìn ánh sao đêm nhớ một người
Thế là ngày mai ta xa nhau
Mùa Hạ cuối cùng, hai trái tim đau!!!
KIM LOAN
Những Ánh Mắt Trẻ Thơ
- Vào bài :
Khi ba vừa bước chân vào nhà
Tưởng các con vui khi gặp ba
Nhưng trong ánh mắt con, ba hiểu
Ba chỉ là một bóng hình xa...
Cũng phải ba năm anh mới trở lại thành phố này, nơi anh đã từng ở và có rất nhiều kỷ niệm, hơn thế nữa, có hai đứa con anh đang sống. Cuộc sống mới bận rộn đã ràng buộc anh, với khoảng cách đường dài mười tiếng lái xe và anh nghĩ các con đã đầy đủ với số tiền cấp dưỡng hàng tháng nên chuyện thăm nom chúng không là điều bắt buộc. Dù đã dứt lòng khi ra đi nhưng khi lái xe về những con đường cũ, khu phố cũ, anh không khỏi cảm thấy man mác buồn.
Cho đến khi xe dừng trước cửa nhà thì anh lại thêm nỗi bối rối, không biết sẽ thế nào khi đối diện với người vợ cũ và hai đứa con. Người vợ mà trước kia anh đã dễ dàng buông ra những lời lạnh lùng nhất, tàn nhẫn nhất, để được chia tay, đi theo tiếng gọi của một tình yêu mới mà anh say đắm. Anh ngồi trong xe thật lâu để ngắm lại ngôi nhà, chẳng có gì thay đổi, có chăng là trong ngôi nhà này đã thay đổi, đã thiếu một người. Anh hồi hộp bấm chuông cửa, vài phút im lặng trôi qua, bây giờ là buổi chiều, anh tin là mọi người đang ở trong nhà, anh phải bấm chuông thêm hai lần thì cánh cửa mới từ từ hé mở ra, đó là thằng cu Tí, con trai lớn của anh.
Thấy ba, thằng bé vừa mừng vừa ngạc nhiên:
- Ba về hả, con nhìn qua lỗ cửa thấy ba nhưng con không tin.
Anh xoa đầu nó:
- Ba đây mà. Tại sao con lại không tin? Ba có khác đâu.
Đôi mắt thằng bé cụp xuống, vẻ vui mừng lúc nãy biến mất:
- Con nghĩ là ba không muốn về đây nữa. Ngày ba đi mẹ đã khóc nhiều lắm.
Anh hình dung ra người vợ tội nghiệp, lát nữa gặp anh, cô ta có khóc và mắng chửi anh bao nhiêu, anh cũng chấp nhận hết cho vơi bớt day dứt bấy lâu.
Anh giục con:
- Mở cửa cho ba vào nhà. Hôm nay ba về thăm hai con.
Cu Tí mở rộng cánh cửa, bước vào nhà anh khựng lại nhìn thằng cu Tí, trẻ con mau lớn quá, mới ba năm, giá mà năm năm, mười năm thì chắc anh sẽ không nhận ra con của mình nữa.
Anh quàng tay ôm vai con, âu yếm hỏi:
- Mẹ con đâu?
- Mẹ đi làm rồi.
Thì ra cô ấy đã đi làm dù hai con còn nhỏ không có ai bên cạnh trông nom đỡ đần. Ba năm nay người vợ cũ đã trừng phạt anh bằng cách không hề liên lạc với anh, cô đổi số điện thoại, không trả lời những thư từ anh gởi tới bằng đường bưu điện nên anh không biết gì về cuộc sống của họ, mặc dù hàng tháng tiền trả child support vẫn trừ trực tiếp vào lương của anh đều đặn.
Anh chợt nhớ ra:
- Thế em đâu rồi? Em Tina đâu rồi?
- Nó đang ngủ.
- Để ba vào phòng thăm nó nhé.
Thằng bé gạt đi:
- Thôi ba, nó mà thức dậy thấy người lạ nó khóc đấy.
“Người lạ”, thằng cu Tí bình thản nói như một điều đương nhiên. Anh lẩm bẩm lập lại hai chữ “người lạ”, chợt thấy chạnh lòng, mà cũng phải, khi anh ra đi bé Tina mới mấy tháng tuổi nó có biết gì về anh đâu.
Hai cha con ngồi đối diện nhau, cu Tí đã 12 tuổi rồi, trông chững chạc hẳn ra, không biết vì anh đã xa nó một khoảng thời gian, một khoảng cách cuộc đời hay vì nó đã lớn khôn theo hoàn cảnh? Những đứa trẻ trong gia đình ly dị bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn những đứa trẻ trong gia đình bình thường.
Anh hỏi han con về chuyện học hành trường lớp, cu Tí trả lời đầy đủ. Khi anh hỏi con có nhớ ba không thì nó trả lời ngây thơ:
- Lúc ba mới đi thì nhớ, con khóc nhiều lần lắm và ngày nào cũng chờ mong ba về, nhưng bây giờ hết rồi.
Và nó hỏi lại:
- Thế ba có nhớ con và em Tina không?
- Ba nhớ thương các con chứ.
- Sao ba không về thăm? Ba bỏ đi lâu thế?
Anh lúng túng:
- Tại ba…bận rộn quá.
- Mẹ nói ba ở nhà khác với vợ con khác của ba!
Anh nhìn con, trong đôi mắt thằng cu Tí vẫn vô tư, nói về ba nó mà như nói về một người nào xa lạ, Cu Tí không hề làm quan tòa kết tội anh, nhưng câu nói của nó đã gieo vào lòng anh như ngàn lời oán trách.
Bỗng có tiếng điện thoại reo, chắc đã là thông lệ nên cu Tí nói:
- Mẹ gọi đấy.
Nó ra dấu cho anh im lặng để nó nói chuyện phone. Anh lắng nghe cuộc đối thoại giữa hai mẹ con, mà chủ yếu là từ những câu trả lời của cu Tí, nó kể với mẹ là Tina đang ngủ, mẹ nó dặn khi nào em thức dậy thì cho em uống thuốc ho rồi mới cho ăn cơm, rồi sau đó tắm cho em. Câu cuối cùng là cu Tí luôn miệng vâng dạ, con nhớ lời mẹ dặn mà, con sẽ không bao giờ mở cửa cho người lạ đâu, mẹ cứ yên tâm.
Cúp phone xong cu Tí mỉm cười nheo mắt nhìn anh, coi như nó vừa làm một sự chiếu cố đặc biệt cho anh, đã phá lệ, để người lạ vào khi không có mẹ ở nhà. Nó đã không coi anh như một thành viên trong ngôi nhà này nữa.
Chỉ trong vài phút ngắn ngủi trò truyện giữa hai mẹ con, anh đã hình dung ra cuộc sống hiện nay của họ. Buổi sáng cô ở nhà lo cho con và buổi chiều đi học về cu Tí phải gánh vác nốt những việc còn lại, thiếu một người cha, thằng bé đã phải làm những công việc của người lớn.
Cu Tí kể:
- Ngày nào lúc break time ở hãng mẹ cũng gọi để xem nhà có chuyện gì không, và mẹ nhắc nhở con đủ thứ việc nhà.
Anh cảm động khen con:
- Cu Tí ngoan và giỏi quá.
Anh đi lại khắp nhà, vẫn những đồ đạc cũ khi anh còn ở đây, kể cả những đồ dùng lặt vặt, người vợ cũ vẫn tiết kiệm như trước hoặc cô không có khả năng mua sắm cái mới.
Căn nhà này vợ chồng anh khi mới cưới nhau đã mua trả góp, đã là căn nhà hạnh phúc, căn nhà ước mơ của hai vợ chồng. Sinh thằng cu Tí xong, vợ anh đi làm tiếp để mau trả nợ nhà, khi cu Tí gần 9 tuổi món nợ nhà vơi bớt, vợ mới mang bầu Tina đứa con thứ hai, cô đâu ngờ rằng thời gian này anh đang có người yêu và sắp sửa lìa bỏ gia đình.
Căn nhà anh đã sống 9 năm trời nên anh dễ dàng nhận thấy vài thay đổi hư hỏng, những vết tường loang, cái mành cửa sổ xộc xệch, vài cái nẹp cửa phòng ngủ vênh ra, vòi nước trong phòng tắm đang chảy nhỏ giọt hững hờ như đang oán trách người chủ cũ đã vắng mặt lâu ngày.
Anh ra nhà kho sau vườn lấy búa đinh vào đóng lại nẹp cửa và sửa vòi nước, điều đơn giản dễ làm ấy nhưng với mẹ con cô cũng là điều không thể làm được. Khi mang hộp đồ nghề trả lại nhà kho, anh dạo quanh khu vườn. Cây đào, cây lê ngày nào còn bé nhỏ, vợ chồng anh hí hửng mua về, đã mong cây mau lớn để có bóng mát cho các con chơi. Nay cây đã lớn, đã có bóng mát, nhưng hai đứa con anh đã bao giờ vui thích chơi đùa dưới bóng mát ấy chưa?
Anh không dám nghĩ tiếp, bước vào nhà, những hình ảnh quá khứ bỗng đổ ập vào tâm tư anh, đây là phòng ăn, nhà bếp, cô ấy đã từng đứng nấu nướng, dọn ra những bữa ăn cho chồng con, kia là phòng ngủ, đã từng có những lúc mặn nồng hạnh phúc vợ chồng. Nhưng anh đã không yêu cô nữa, có một tình yêu khác làm anh mê đắm, anh đã đi theo tiếng gọi của con tim, dù khi anh đề nghị ly dị, vợ anh đã phản đối, đã khóc hết nước mắt, xin anh nghĩ lại vì các con, đừng làm tổn thương những tâm hồn vô tội.
Bé Tina đã thức dậy, từ trong phòng ngủ đi ra, thấy anh, Tina vội túm lấy áo cu Tí tìm chỗ nương tựa chở che và nhìn anh bằng ánh mắt nghi ngờ, xa lạ. Tina đã hơn 3 tuổi, nếu gặp ngoài đường anh không nhận ra con, anh thấy mình tệ bạc quá khi bây giờ mới đến thăm con lần đầu kể từ khi ly dị.
Anh đến bên Tina giơ tay định bế nó, nhưng cu Tí nói ra vẻ hiểu biết đầy kinh nghiệm:
- Ba đụng vào người nó, nó sẽ khóc đấy.
Rồi cu Tí quay ra dỗ dành em:
- Đây là ba, ngày xưa ba cũng ở chung nhà với chúng ta mà. Cho ba bế Tina nhé?
Con bé vẫn chưa tin cậy, nó càng dựa vào người cu Tí và bám chặt lấy cu Tí hơn. Anh đành chịu thua, ngồi nhìn hai đứa con, ít nhiều ngày xưa anh đã từng bồng bế Tina, từng nâng niu nó, đó là máu thịt của anh, nhưng giờ đây chẳng khác gì người xa lạ. Khi ly dị vợ, xa con, anh không thể hình dung ra tình huống này.
Cu Tí để mặc anh ngồi thừ ra ở ghế, nó đi lo cho em, lấy chai thuốc ho như lời mẹ dặn. Anh không nỡ nhìn thằng bé loay hoay mở hộp thuốc, anh giúp nó bơm thuốc vào ống để cu Tí mang ra cho Tina uống, xong nó dắt em vào bếp lấy cơm để ra bàn cho con bé tự ăn một mình, cu Tí dịu dàng với em:
- Ăn cẩn thận, đừng làm đổ ra bàn, ăn xong anh cho ăn kẹo.
Tina ngoan ngoãn gật đầu và rón rén múc từng muỗng cơm ăn ngon lành. Tất cả diễn ra trước mắt anh như một vở bi kịch, vở bi kịch do chính anh gây ra và hai đứa con anh là nhân vật chính.
Từ lúc nào hai mắt anh cay xè mờ lệ. Cuộc sống hiện nay anh đang có bên vợ mới, con mới, chắc gì đã được như anh ước mơ, vậy mà anh đã đánh đổi bằng sự vất vả và thiếu thốn tình cảm của hai đứa bé này. Một ngày nào đó khi chúng lớn lên, chúng sẽ hiểu vì đâu.
Anh bỗng rùng mình và đau đớn, anh cứ ngồi nhìn hai con và không biết phải làm gì, nỗi đau như chôn chặt anh trong lòng ghế.
Một lúc lâu cu Tí dè dặt hỏi:
- Ba đợi mẹ về không?
Anh lắc đầu, hình như nếu anh thốt ra lời thì nước mắt cũng ra theo.
- Vậy ba về đi, chút nữa con còn tắm cho Tina và học bài nữa, con bận lắm.
Anh rút ra một xấp tiền đưa cho cu Tí, nó nắm chặt lấy món tiền, chắc nó nghĩ những đồng tiền cần thiết cho mẹ và sẽ làm mẹ vui. Nhìn cử chỉ và nét mặt vui mừng của thằng bé, anh có thể đoán ra mẹ con họ đã sống trong cảnh chắt chiu từng đồng. Căn nhà anh hào phóng để lại cho vợ con nhưng cô ấy vẫn phải tiếp tục trả góp thêm vài năm nữa.
Anh ôm chặt lấy cu Tí, trong đời anh, chưa bao giờ có một cảm xúc thương yêu con dạt dào như bây giờ. Bé Tina vẫn đứng xa, nhất định không cho anh đụng tới.
- Ba đi nhé, con hãy ngoan, chăm học. Ba sẽ về thăm các con thường xuyên.
Anh đến đây, dự định sẽ gặp lại vợ cũ, sẽ nói lời xin lỗi và vui chơi cùng hai con. Bây giờ anh hiểu rằng, có nói trăm ngàn lần lời xin lỗi và dù vợ anh có tha thứ, chấp nhận hiện tại đường ai nấy đi, nhưng những cái nhìn của hai con, ánh mắt buồn vui bất chợt và dửng dưng của cu Tí, ánh mắt xa lạ và dè dặt của bé Tina, sẽ theo ám ảnh anh không biết đến bao giờ.
Cánh cửa mà cu Tí vừa khép lại sau lưng anh, lại gieo vào lòng anh cả sự lạnh lùng và oán trách. Cánh cửa đã phân chia ranh giới, như hai kẻ xa lạ mỗi người một lối đi và cuộc sống khác nhau.
Anh lái xe rời khỏi thành phố như một kẻ chạy trốn.
Edmonton, Fathers Day 2024
Kim Loan

CÁC CON LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Con gái tôi, Amanda là một trường hợp có năng khiếu Tiếng Việt từ lúc còn bé xíu. Khi chưa đi học, ở nhà nói và nghe Tiếng Việt là chuyện đương nhiên, nhưng “nàng” biết cảm nhận ngôn ngữ nhạy bén. Hồi “nàng” 4-5 tuổi, vì còn biếng ăn nên vẫn bú sữa bình, hôm ấy “nàng” đang nằm vắt chân chữ ngũ trên sàn nhà, bú sữa, tôi có chuyện gì đó bực mình, nên lỡ miệng la mắng “nàng” và gọi là “mày” . Thế là “nàng” giận, quăng bình sữa vào góc nhà, rồi đứng giậm chân khóc lóc:
- Mẹ không được gọi con là “mày”, mẹ phải gọi con là “con”.
Tôi liền hờn mát, cao giọng:
- Ừ, thì “con”!
Nhưng “nàng” khóc to hơn:
- Không! Mẹ phải nói “con” nhẹ nhàng dịu dàng, không được lớn tiếng.
Lần này, tôi bật cười và ôm “nàng” xin lỗi.
Rồi “nàng” lớn lên, chín mười tuổi nghe nhạc Việt cùng ba cùng mẹ, biết hát ngon lành ngọt xớt nguyên cả bài hát“ hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi/ chim vẫn hót trong vườn nhà tôi.” (tác giả Thanh Tùng), rồi “mai tôi đi chắc trời giăng mưa lũ/ mưa thì mưa chắc tôi không bước vội ..” (tác giả Nguyên Sa/Song Ngọc), và vài bài hát khác dù “nàng” đã đi học, tiếp xúc với ngôn ngữ và âm nhạc Phương Tây .
Có lần tôi gọi “nàng”:
- Đà ơi, Đà ơi
“Nàng” liền phụng phịu:
- Tên con là Amanda đẹp vậy, mẹ cứ gọi “Đà Đà” nghe xấu hoắc, y như bác Hai gọi chị Elly là “Lì”, gọi chị Tiffany là “Nì”, kỳ cục quá!
- Ủa ủa, mẹ gọi con bao năm nay con có nói gì đâu, sao bây giờ phản đối? Mà nè, trước khi chọn tên Amanda cho con, mẹ tính chọn tên Jennifer đấy, giờ còn muốn “Đà” hay muốn “Phờ”?
- Thì bây giờ con lớn rồi, con không muốn “Đà”, càng không muốn “Phờ”! Hay mẹ gọi con là Đào, Hồng Đào, giống như cô Hồng Đào diễn hài trên chương trình Thúy Nga, con thích tên đó.
Ui chu choa ơi, có lẽ “nàng” là cô bé duy nhất, hoặc là cô bé đầu tiên, ở hải ngoại tự đặt tên Việt cho mình, và từ đó đến nay đi đâu gặp người Việt “nàng” cũng giới thiệu:
- Dạ, tên con là Amanda Hồng Đào.
Vào tuổi niên thiếu từ cấp hai đến cấp ba, tôi cho Amanda tham gia sinh hoạt nơi Hội Người Việt, vào nhóm múa, từng làm MC tiếng Việt cho Hội Tết Trung Thu, và hát Quốc Ca Canada-Việt Nam trong một lần Hội Chợ Tết Cộng Đồng .
Đến Nhà Thờ , Amanda vào nhóm tình nguyện dạy Giáo Lý cho các em bé bằng cả Tiếng Việt và Tiếng Anh, cũng như ghi danh vào nhóm đọc sách Thánh bằng Tiếng Việt (Lời Chúa Cựu Ước) trong những dịp Lễ lớn.
Đến nay, khi tôi viết những dòng chữ này thì nàng đã lớn, bước vào tuổi 28 (nên tôi bỏ ngoặc kép ra khỏi chữ nàng). Nàng đang là Head Nurse trong một Children Hospital. Nhờ biết hai thứ tiếng (Việt và English) nên hễ trong bệnh viện có những trường hợp cần thông dịch là nàng được gọi đến giúp đỡ. (Cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt nhờ khả năng bilingual của nàng, tôi đã viết trong các chuyện “Biết Rồi Khổ Lắm ...” và “Đầu Năm Nhiều Chuyện”).
Nàng mới vừa lấy chồng gần một năm nay, chồng nàng mang dòng máu Tàu và Tây, nhưng nàng vẫn cho chồng nghe một số bài nhạc Việt mà nàng yêu thích, rồi giải nghĩa từng câu hát cho chồng hiểu, có gì khó hơn thì nàng hỏi tôi:
- Mẹ ơi, “người từ trăm năm/ về khơi tình động/ người từ trăm năm/ về như dao nhọn/ dao vết ngọt đâm/ ta chết trầm ngâm” ...là sao hả mẹ?
Tôi cố vận dụng hết hiểu biết để giảng cả bài hát cho nàng, dù rằng khi Nguyễn Tất Nhiên làm bài thơ này rồi được Phạm Duy phổ nhạc “Thà Như Giọt Mưa” thì tôi còn là cô bé để tóc muỗm dừa, cởi trần tắm mưa ngoài đường.
Nhưng bài đó cũng chưa làm khó tôi như bài này:
- Mẹ ơi, “Lệ rưng rưng trên mắt người hôm qua,/Có bóng em lung linh quanh phím ngà/Em xa ta mà vóc dáng kiêu sa/Ta cúi đầu đi về mộ đời ta...” nói sao cho chồng con hiểu đây, ảnh thích điệu hòa âm nhạc này và giọng Quốc Khanh hay quá .
- Ừa, từ từ để mẹ nghĩ xem ...
Tiếc là nhạc sĩ Anh Bằng không còn chớ nếu còn, tôi cũng dám email tác giả hỏi nhờ giúp, như đã từng email nhạc sĩ Phạm Duy chỉ vì tôi và một anh trong ban Báo Chí Giáo Xứ từng tranh luận. Tôi nói rằng “tóc mai sợi vắn sợi dài/ lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm” là từ ca dao Việt Nam, còn anh ấy là “fan cứng” của Phạm Duy cứ nhất quyết đó là câu thơ của Phạm Duy trong bài hát “Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài”, và kết quả Phạm Duy trả lời là tôi đúng! (thuở đó Google chưa thịnh hành).
Nàng vẫn thích hỏi về Tiếng Việt, y như ngày xưa nàng có nhiều điệp khúc, mẹ ơi, tại sao là “chợ búa”, tại sao là “gà qué”, tại sao “buồn cười”, mẹ ơi, mẹ ơi và mẹ ơi ...
Còn tục ngữ, ca dao, dân ca... là cả một kho tàng, nhưng để giảng giải cho sự hay thắc mắc của nàng cũng là một vấn đề, cũng may lúc này đã có bá Google nên mọi chuyện dễ dàng hơn nhiều.
Vậy đó, hai mẹ con tôi "học hỏi lẫn nhau". Tôi dạy nàng hiểu sâu sắc hơn Tiếng Việt, nàng cũng giúp tôi chỉnh sửa trong chuyện nói, viết Tiếng Anh, và cả âm nhạc. Hồi nàng còn học Đại Học, mỗi sáng tôi lái xe đưa nàng ra bến xe điện ngầm để đến trường, lúc bài Hello của Adele đang nổi đình đám, nàng mở cho tôi nghe trên xe, hát theo, giải nghĩa những từ tôi chưa nghe kịp, riết tôi thuộc và yêu bài này hồi nào hổng hay. Hiện nay, mấy bài thịnh hành của Taylor Swift nàng cũng ngân nga, tiếc là nàng đã ở riêng với chồng, chớ không thì tôi cũng có thêm vài bài cho hợp phong trào với đám trẻ.
Mới đây trong bữa ăn sum họp cuối năm, tôi phải giải thích từng từ từng chữ cho nàng và thằng rể của tôi, một bài vui trên Facebook, đại khái rằng, tiếng Anh đơn giản nói về chữ “chết” là “die”, hoặc “pass away”, trong khi tiếng Việt mình thì ...bao la, đếm mệt nghỉ! Này nhé: chết- mất- ngỏm củ tỏi- đi bán muối-chầu Diêm Vương- gặp ông bà ông vải- chán sống- thích ngắm gà khỏa thân- muốn ăn chuối cả nải- về cõi Niết Bàn- tiêu diêu miền cực lạc- được Chúa gọi về- ở nơi Suối Vàng –nghỉ ngơi nơi chín suối... Nàng và thằng rể cười thả ga, khen tiếng Việt mình độc đáo, phong phú, tuyệt vời!
Thành quả Tiếng Việt của nhiều trẻ Việt thế hệ thứ 3 tại hải ngoại, là một quá trình thấm nhuần Tiếng Việt từ khi mới ra đời, trong chiếc nôi ông bà cha mẹ họ hàng cùng dạy dỗ con cháu không quên tiếng nói cội nguồn, là những buổi học tại các trường Việt Ngữ khắp nơi của các Hội Người Việt, Chùa, Nhà Thờ Công Giáo, Hội Thánh Tin Lành .v.v..
Tôi cũng từng là cô giáo Việt Ngữ tại Hội Người Việt Edmonton một thời gian. Năm đầu tiên, tôi dạy lớp Một, có một cô gái trẻ dẫn đứa con gái lai chừng 7-8 tuổi đến ghi danh. Xong xuôi, cô ấy giới thiệu người chồng da trắng đứng bên cạnh:
- Chị ơi, cho em ghi danh ông xã em, Joshua vào học lớp Một cùng với con gái em luôn nha!
Tôi cười cười, vì nghĩ cô ấy nói đùa, nhưng cô ấy rất nghiêm túc:
- Em nói thiệt đó chị, vì hàng năm tụi em đều dzìa quê Tiền Giang thăm gia đình em, nên ảnh muốn học Tiếng Việt để còn nghe bên vợ nói chuyện. Vả lại, ảnh là người đưa con đến đây học, rồi ảnh vào học luôn, học xong ảnh lái đưa con về, khỏi mất công đón đưa.
Thế là lớp tôi có một “học sinh đặc biệt”. Chàng Canada này dễ thương lắm, giờ ra chơi, chàng thực tập Tiếng Việt với mấy “bạn” cùng lớp, nhiều phen cười bể bụng .
Mùa chuẩn bị Tết đến, lớp nào cũng chỉ học tiết đầu, sau giờ ra chơi là tập Văn Nghệ để trình diễn tại Hội Chợ Tết, vui hết biết. Bên đây tôi mở nhạc Trống Cơm tập cho lớp mình, bên kia là bài múa Nắng Xuân, dưới lầu thì tập kịch, Áo Dài show, còn mấy em không trong nhóm múa thì gom lại ... hợp ca Xuân Đã Về, cả trường chộn rộn, chàng “học trò” Canada ngồi xem chúng tôi tập dượt đầy thích thú, rồi chạy qua tiệm Bakery đầu đường mua bánh bồi dưỡng cho mọi người.
Sau gần chục năm (dạy lớp Viêt Ngữ và trong Ban Chấp Hành của Hội), gia đình tôi dọn về phía Bắc, xa trung tâm nên tôi không còn tham gia sinh hoạt với Hội Người Việt. Thỉnh thoảng đi chợ, hoặc đi đâu đó, gặp lại các em học trò cũ. Thực tình mà nói, ngoài những đứa vẫn nói Tiếng Việt khá rành rẽ, cũng có đứa nói lõm bõm, có đứa quên hẳn Tiếng Việt, trả hết cho Thầy Cô, nhưng vẫn cúi đầu chào Cô rất lễ phép, rồi cười ngượng nghịu khi tôi yêu cầu em phải trả lời cô bằng Tiếng Việt.
Có khi tôi nhận lời làm MC Hội Chợ Tết, lại được nhìn các em học sinh trường Việt Ngữ trong các tiết mục ca múa, lòng tôi lại bồi hồi nhớ về những kỷ niệm của một thời đã qua, cùng với Ban Giám Hiệu và các Thầy Cô khác, với một tâm huyết giữ gìn Tiếng Việt cho các thế hệ sau này, để các em sẽ như bài hát của Phạm Duy: “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi tiếng ru muôn đời ...”
Viết về đề tài dạy Tiếng Việt là rà trúng “đài”... “bệnh nghề nghiệp” ngày xưa, tôi có thể viết nhiều hơn nữa, nhưng xin được tạm dừng nơi đây để viết bài Thơ, dành tặng cho tất cả các Thầy Cô và các học trò Việt Ngữ ở khắp nơi hải ngoại:
CÁC EM LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Cô dạy các em học tiếng Việt Nam
Để các em nhớ cội nguồn dân tộc
Một đất nước rất xa nơi em sống
Bên bờ Thái Bình có tự ngàn năm
Em sẽ hiểu được bao nỗi nhọc nhằn
Những xương máu hy sinh bao thế hệ
Dân tộc Việt Nam mấy lần dâu bể
Khao khát cuộc đời hạnh phúc tự do
Học tiếng Việt Nam để biết quê Cha
Để tha thiết muốn hiểu về đất Mẹ
Em sẽ nghe câu ca dao thuở nhỏ
Cha mẹ ông bà đã thấm lời ru
Dù em có hiểu ý nghĩa hay chưa
Sự học hỏi vẫn là điều đáng quý
Các em là bầy chim non xa xứ
Nước Việt Nam em chỉ biết bằng lời
Các em sẽ có nhiều giấc mộng đời
Ở một nước văn minh và giàu đẹp
Lớp Việt Ngữ là nơi cô đã gặp
Những tâm hồn như giấy trắng thơ ngây
Cô và trò cùng tập đọc, vui vầy
Tiếng mẹ đẻ mà sao nghe ngọng nghịu
Có em nói tiếng Việt không ai hiểu
Dẫu vụng về, cố gắng, thương làm sao
Cũng có em nói tiếng Việt ngọt ngào
Như tiếng sáo líu lo và rành rẽ
Tự hào thay, những học trò bé nhỏ
Tiếng Việt trên môi thắm đượm tình quê
Cô và trò, trong lớp học, mộng mơ
Lũy tre xanh, cánh diều, đồng lúa chín
Kìa dòng sông trôi, con thuyền ghé bến
Đêm trăng thanh nghe gió hát êm đềm
Và những câu chuyện cổ tích, thần tiên
Lịch sử, địa lý dải đất hình chữ S
Học đi em, tiếng Việt mình rất đẹp
Để mai này xây dựng lại non sông
“Tiếng Việt còn, nước Việt còn”, em biết không?
Dù chúng ta xa quê hương vạn dặm
Cô hạnh phúc vì các em vẫn nhớ
Các em mãi là giòng giống Việt Nam
Edmonton, Tháng 3/2025
KIM LOAN
_____________

MẸ XIN LỖI
Sau mấy ngày đi chơi thăm các thắng cảnh nổi tiếng ở thành phố, ăn fast food và các món ăn Ý, Pháp, Mexico…hôm nay ba mẹ con quyết định tìm nhà hàng Việt Nam vì thèm bữa cơm có canh chua, cá kho tộ, rau muống xào tỏi. Từ nơi khách sạn, Quỳnh cùng hai con đi bộ gần 3 blocks đường đến một nhà hàng Việt Nam rộng lớn và nổi tiếng với các món ăn đậm đà hương vị ẩm thực Việt.
Ba mẹ con vừa đói vừa mệt nên hào hứng ăn ngon lành, hết sạch, chuẩn bị món tráng miệng và sau đó chương trình là sẽ đi dạo bờ biển đón gió đêm.
Trong lúc hai con xúm lại xem lại các hình chụp trên iphone, Quỳnh cũng rảnh rang đưa mắt ngắm nghía xung quanh tiệm thì bất chợt như có linh tính mách bảo, nàng nhận ra có một bóng dáng rất quen thuộc đang đi ngang phía trước hồ cá trong tiệm, cùng với vài người nữa, đang tìm vào ngồi ở chiếc bàn phía bên hông cửa nhà hàng, đối diện xéo với bàn của nàng. Tim Quỳnh đập loạn xạ, hơi thở dồn dập nhưng nàng cũng lấy lại bình tĩnh, với tay lấy bình trà nóng, cố làm mọi sự bình thường để các con không nhận ra sự thay đổi bất chợt trên khuôn mặt và ánh mắt của nàng. Cũng may, nhờ cái hồ cá che khuất, mà phía bên kia không thể nào nhìn thấy Quỳnh, mà Quỳnh vẫn có thể đưa mắt quan sát rất rõ và đầy đủ những người của bàn bên kia.
Đâu có ai xa lạ, bởi đó chính là chồng cũ của Quỳnh. Cùng bàn còn có một phụ nữ trẻ, một bé trai khoảng 3 tuổi, và một bà cụ có dáng dấp quê mùa như nhiều người Việt lớn tuổi mới từ quê nhà sang Mỹ định cư, và khuôn mặt bà phúc hậu hiền hoà. Đó chính là vợ con mới của anh ấy, Quỳnh thầm nghĩ, và bà cụ kia chính là mẹ của anh ấy, mà trước đây trên danh nghĩa là mẹ chồng của Quỳnh, dù nàng chỉ được nhìn qua hình ảnh chứ chưa bao giờ gặp mặt hoặc chung sống một ngày nào. Bởi cũng chính vì bà mẹ chồng này, đã từng là nguyên nhân để cho Quỳnh, một người con gái đẹp, được chồng cưng chiều nâng niu, quá tự tin vào sắc đẹp của mình, rồi tự cao, làm gia đình tan vỡ.
Cách đây gần chục năm, Quỳnh đang có một mái ấm thật hoàn hảo và hạnh phúc. Chồng nàng là một kỹ sư giỏi giang, làm việc hợp đồng cho một hãng máy bay lớn. Cưới nhau xong, Quỳnh sinh liền hai con, ở nhà làm công việc nội trợ và chăm sóc con nhỏ. Cuộc sống không thiếu thốn thứ gì, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, anh càng yêu chiều nàng nhiều hơn lúc quen nhau, và Quỳnh cũng mãn nguyện với cuộc sống của gia đình bé nhỏ của mình.
Rồi một ngày, anh thông báo với nàng:
-Em ạ, giấy tờ bảo lãnh mẹ sang đây đang tiến triển tốt đẹp. Mẹ đã có ngày phỏng vấn, vậy hôm nào mình đi sắm sửa vài món chuẩn bị cho căn phòng của mẹ ở nhà mình nhé.
Quỳnh hơi bất ngờ, dù việc bảo lãnh nàng đã biết từ lâu, nhưng anh ấy còn một bà chị lớn ở cách đây 4 tiếng lái xe, thì mẹ anh nên ở với gia đình bà chị là hợp lý hơn chứ.
Quỳnh thắc mắc và anh đã giải đáp:
- Anh là con trai út và là con trai duy nhất của gia đình, nên anh muốn phụng dưỡng mẹ để đền bù những năm tháng mẹ đã vất vả từ khi ba anh mất sớm, mẹ đã ở vậy lo cho các con khôn lớn, hơn nữa, vợ chồng chị Hai còn bận rộn coi sóc tiệm Phở, nên không thể chăm sóc mẹ tốt như chúng mình.
Quỳnh vẫn không chấp nhận có một người khác xen vào mái ấm riêng của nàng, dù đó là mẹ của anh ấy. Cứ nghĩ đến việc một bà già quê vùng biển miền Trung Việt Nam, sẽ vào ở nhà nàng, xáo trộn mọi sinh hoạt riêng tư của hai vợ chồng, con cái, nhất là sự khác biệt của người mới chân ướt chân ráo qua đây, từ cách suy nghĩ, lối sống và quan điểm sống khác nhau, Quỳnh cảm thấy rất ngột ngạt, khó chịu.
Và còn một lý do khác, Quỳnh chỉ muốn chồng dành sự yêu thương cho nàng và hai đứa con nhỏ, nàng không muốn chia sẻ niếm ưu ái đó cho bất kỳ ai khác. Quỳnh bèn ra tối hậu thư, bà mẹ chồng phải ở với gia đình người chị, nếu không thì nàng sẽ mang hai con ra ngoài, sống nơi khác. Quỳnh tự tin vào nhan sắc của mình, (thuở đó, anh đã phải vất vả nhiều công sức và thời gian để chinh phục trái tim nàng), và nàng còn có một “vũ khí” quan trọng khác, đó là hai đứa con bé nhỏ mới ba bốn tuổi đầu, còn ngây thơ xinh xắn đáng yêu, sẽ là mối dây mạnh mẽ ràng buộc anh với gia đình, để anh phải chấp nhận yêu cầu của nàng.
Anh đã buồn rầu suốt mấy tuần lễ, vẫn cố gắng nài nỉ và thuyết phục nàng, hãy nghĩ đến tình mẫu tử của anh và mẹ, tình vợ chồng, cũng như tình cha con của anh với hai đứa con thơ, anh không muốn xa những người yêu thương của đời anh. Quỳnh vẫn cương quyết giữ lập trường của mình, bắt đầu chiến tranh lạnh, và cuối cùng anh vẫn nhẹ nhàng cầu xin:
- Chỉ còn hai tháng nữa là mẹ qua rồi, anh mong em hãy suy nghĩ lại và thay đổi ý định đó, vì anh vẫn muốn mẹ ở chung với chúng ta, anh cầu xin em đấy Quỳnh ơi.
Quỳnh gần như nổi giận, vì anh đã chọn mẹ, mà không chọn vợ con, và trong niềm kiêu hãnh, giận hờn, tự ái, Quỳnh đã mang hai đứa con ra khỏi nhà hai tuần trước ngày mẹ anh đến Mỹ. Suốt hai tuần đó, Quỳnh đợi chờ, nhưng anh không hề gọi phone thăm hỏi, xin được gặp con hoặc gặp Quỳnh như nàng đã tưởng tượng. Nàng biết anh không thể sống xa con vài ngày, đôi lúc phải đi công tác xa nhà, anh đã gọi phone hàng ngày để được nghe giọng nói các con, để được nghe nàng kể chuyện. Quỳnh biết anh rất giận, nhưng không lẽ tình yêu vợ con của anh không đủ lớn để anh liên lạc, xin lỗi và tìm cách đưa trở về nhà hay sao?
Rồi suốt một vài tháng sau đó, nghĩa là mẹ của anh đã qua đến Mỹ đoàn tụ, anh vẫn im lặng, trong khi Quỳnh vẫn tự tin nghĩ rằng mẹ anh, tức bà nội của các con, cũng phải có ý muốn gặp cháu mình, nhưng sự chờ đợi của Quỳnh càng vô vọng, khiến nàng càng tức tối, nhất là khi nghe một người quen nói lại, chính anh là người không cho mẹ anh gặp nàng và hai con.
Chuyện gì đến phải đến, Quỳnh vẫn là người háo thắng, (như đã từng nhiều lần trong những cuộc cãi vã giận hờn giữa hai vợ chồng, anh luôn là người xin lỗi), giờ đây, nàng cũng như thế, không muốn là người thua cuộc, nàng mang con đi tiểu bang khác, gửi đơn ly dị chồng, cắt đứt mọi liên lạc mặc dù toà xử cho anh có quyền thăm con, tiền cấp dưỡng vẫn trừ vào tiền lương hàng tháng của anh, chuyển thẳng vào tài khoản ngân hàng của nàng. Thời gian đầu, thỉnh thoảng anh có phone muốn nói chuyện với con, nhưng nàng cố tình không trả lời phone, hoặc kiếm cớ khi thì con bận học, khi thì chúng đang ngủ, nói chung là muôn vàn lý do khiến anh nản lòng. Nàng đã trừng phạt anh như thế, muốn thấy anh đau khổ dằn vặt khi xa con, và nàng thoả mãn với hành động của mình.
Thời gian trôi qua, xoa dịu mọi nỗi đau. Nàng cũng có việc làm, các con cũng lớn dần, nhưng vẫn có nỗi buồn u ám bao quanh ngôi nhà thiếu vắng đàn ông. Nàng chưa sẵn sàng mở lòng cho tình yêu khác vì còn phải lo cho cho con, chúng vẫn còn nhỏ, và còn nhiều lúc chúng nó vẫn chợt hỏi nàng, rằng chúng con rất nhớ bố, sao lâu quá bố không về thăm.
Niềm kiêu hãnh trong nàng đã bắt đầu tàn lụi, khi nàng cảm nhận mình có lỗi với các con, và nàng biết mình còn yêu anh, nhưng mọi việc đã đi quá xa. Có lẽ anh đã hận nàng nhiều lắm nên lâu dần anh không muốn gặp lại nàng và cả hai con như một sự trả đũa, tim nàng se thắt đớn đau, nhưng khi chợt tỉnh lại thì đã quá muộn màng.
Hồi tưởng lại những việc đã xảy ra trong quá khứ, những giọt nước mắt như muốn trào ra nhưng Quỳnh đã kịp ngăn lại, để hai con tiếp tục vô tư ăn uống, trong khi nàng vẫn nhìn qua bàn bên kia qua sát.
Anh ấy vẫn như xưa, đôi mắt chiều chuộng nồng ấm ngày nào giờ đang chăm chú nhìn người vợ mới đang mớm thức ăn cho đứa con trai bé bỏng. Đứa bé cố nhai những sợi bún và bị sặc, anh vội vàng với lấy tấm khăn giấy đỡ vào miệng con trong khi mẹ anh âu yếm dỗ dành thằng bé, bế nó lên ngồi vào lòng bà rồi đưa ra món đồ chơi cho nó cầm. Anh gắp thức ăn cho vợ, cô ấy nhìn anh dịu dàng, hai người nói cười thật hạnh phúc.
Sau khi hoàn tất thủ tục ly hôn được vài năm, Quỳnh có nghe tin anh cưới vợ từ dạo đó, nhưng nàng không ngờ hôm nay được tận mắt nhìn thấy gia đình của anh, chắc hẳn là anh đưa họ đến thành phố biển này để du lịch nghỉ ngơi. Con người đó từng là chồng của nàng, hai người đã có những năm tháng yêu đương mặn nồng, anh đã từng yêu thương chiều chuộng nàng biết bao. Anh ấy đã từng ngắm các con nàng ăn uống trong niềm hãnh diện sung sướng dạt dào của một người bố. Bà mẹ chồng kia lẽ ra là của nàng, là của các con nàng để chúng nũng nịu vòi vĩnh, quấy phá…Tất cả sẽ vẫn là của gia đình bé nhỏ của nàng, nhưng vì niềm tự cao ích kỷ, nỗi bốc đồng tự ái nhất thời mà nàng đã làm cho các con mất đi một mái gia đình.
Bàn bên kia vẫn ăn uống vui vẻ. Anh đứng lên ẵm ru thằng bé, chắc nó đang mệt nên gục đầu trên vai bố, ngủ ngon lành. Mẹ và vợ anh thảnh thơi tiếp tục ăn uống và nói chuyện thân mật.
Quỳnh không thể chứng kiến cảnh hạnh phúc đầm ấm ấy thêm một phút giây nào nữa, nàng gọi hai con đi ra ngoài xe ngồi chờ, nàng ra quầy tính tiền thật mau, rồi bước ra khỏi tiệm, nhưng không vào xe với các các con mà đi vòng ra phía góc bãi đậu xe, nơi có những tàn cây vắng vẻ . Nàng dừng lại, để nước mắt thật sự tự do trào ra khóe mắt, rồi không kìm được cảm xúc, nàng dựa vào một thân cây, ôm mặt khóc òa như đứa trẻ, rồi nấc lên từng cơn, nàng khẽ gọi tên các con:
- Các con ơi, mẹ xin lỗi, mẹ ngàn lần xin lỗi ....!!
Mother's Day 2025
KIM LOAN

GỬI NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ
Sao anh lại đến quê hương tôi
Từ nửa vòng trái đất xa xôi?
Biết đâu cuộc chiến tàn khốc quá
Lý tưởng hay là mộng mơ thôi!
Những lá thư anh gửi về nhà
New York, Utah, Alabama…
Có cả niềm vui và nỗi sợ
Cô đơn đêm vắng giữa rừng già
Mẹ Cha thương nhớ biết bao lần
Trông ngóng từng ngày mong tin anh
Bản đồ Việt Nam treo bên cửa
Dõi theo từng bước chân hành quân
Những địa danh xa, bỗng thật gần:
Quảng Trị, Hạ Lào hay Khe Sanh
Bên này anh vào sinh ra tử
Bên kia dâng Chúa những lời kinh
Noel về, người lính xôn xao
Nhớ người thân, phố xá hôm nào
Bên hố bom côn trùng thao thức
Mơ tuyết rơi, kỷ niệm ngọt ngào
Ôi những chàng trai tuổi đôi mươi
Tâm hồn phơi phới mùa xuân tươi
Vâng lệnh Tổ Quốc đi chiến đấu
Gìn giữ tự do cho muôn nơi
Để rồi anh đến với Miền Nam
Dẫu không cùng máu đỏ da vàng
Để mến thương nơi này tha thiết
Mưa nắng hai mùa, nhớ mênh mang
Và đến một ngày tàn chiến chinh
Về với gia đình anh bình yên
Cũng có khi niềm vui không trọn
Vì anh đã là người thương binh
Hoặc anh trở về lòng đất Mẹ
Cờ phủ quan tài trời tang thương
Quốc kỳ Mỹ vinh danh lính Mỹ
Cái giá tự do. Cuộc chiến buồn.
Nghĩa trang Quốc Gia anh yên nghỉ
Những ngôi mộ lặng im, thẳng hàng
VietNam War đã là quá khứ
Cám ơn anh, dẫu biết muộn màng.
Tháng Tư Đen, 2025
KIM LOAN
________________
CÂY TRỨNG CÁ TRONG TRẠI “CẢI TẠO”
Chuyến đi thăm chồng “cải tạo” đầu tiên, bà chị Cả cho tôi đi theo, dù tôi lúc ấy mới 9-10 tuổi.
Lý do chính, là vì trại ở Thành Ông Năm, chỉ cần một chuyến xe đò từ nhà tôi ở Hạnh Thông Tây, đến chợ Hóc Môn rồi lấy một chuyến xe lam đến thẳng nơi trại “cải tạo”. Hơn nữa, lúc ấy má tôi mới mất, ba vẫn còn bị giam giữ “cải tạo”, chị mới sanh đứa con thứ hai được vài tháng, nên chỉ mang theo thằng con lớn 5 tuổi đi thăm bố, thêm ông anh Tư đi theo để phụ hợ chị xách đồ đạc, còn tôi thì có nhiệm vụ đi… chơi chung thằng cháu 5 tuổi cho nó đỡ quấy má nó trên đường đi thăm nuôi.
Chiếc xe lam thả chúng tôi xuống ngay gần cổng Thành Ông Năm, nơi đây đã có nhiều người đến trước, và lai rai đến sau đó, cũng là thân nhân của “tù cải tạo”. Dù không quen biết, nhưng cùng hoàn cảnh, nên mọi người mau chóng trở nên thân thiện, hỏi han nhau đủ điều. Chị tôi nhận ra người đồng hương Gò Vấp, chỉ cách nhau con đường song song, nhà tôi trên đường Phan Văn Trị, còn nhà cô ấy bên đường Quang Trung, ngay cư xá sĩ quan Phan Chu Trinh (cũ). Cô ấy tên Thảo, dắt theo hai đứa con trai, đứa lớn tên Tuấn, bằng tuổi tôi, đứa nhỏ là Tú, cỡ 3-4 tuổi, được bà ngoại ẵm. Hai gia đình bỗng gần nhau hơn, cho nhau địa chỉ để sau này dễ dàng liên lạc, thăm nhau khi cần thiết.
Đến giữa trưa, một quản giáo bước ra, cầm tờ danh sách, điểm danh đầy đủ thân nhân có mặt, chúng tôi được đi vào cổng trại, rẽ phải ngay khu nhà chờ. Người lớn nôn nao hồi hộp, còn lũ trẻ chúng tôi bắt đầu quanh quẩn nơi khu vực chờ đợi, có cây trứng cá thiệt lớn, xum xuê lá và những chùm trái nhỏ xíu đỏ mọng. Một số người lớn tuổi tìm chỗ ngồi nơi vài chiếc ghế dài được kê rải rác xung quanh.
Giây phút trùng phùng cũng đến, một đoàn tù nhân “cải tạo” rảo bước từ xa, các bà các cô nhốn nháo ngóng tìm người thân, nhưng chẳng ai nhận ra ai vì tất cả họ đều mặc áo quần xập xệ, màu xám tối đen, những mái tóc húi cua, những khuôn mặt hốc hác đen đúa . Có một số phụ nữ bật khóc, nhưng nhìn thấy hai quản giáo đứng kế bên liền lau vội những giọt nước mắt vừa trào ra khoé mi. Tôi cũng trong đám người ngơ ngác, xúc động, dù chẳng nhìn ra anh rể mình là người nào trong đám đông đang bước về khu nhà chờ. Ngày anh lấy chị, tôi mới lên 3 tuổi, anh rể chiều em vợ, thường bồng bế tôi, chở tôi đi chơi trên chiếc xe Honda 67 của anh, anh để tôi ngồi phía trước nơi bình xăng và chở tôi đi đó đây trong xóm tới bao giờ tôi chán thì thôi.
Mọi người được lùa vào nhà chờ, các tù nhân “cải tạo” ngồi một bên bên chiếc bàn dài, thân nhân ngồi bên đối diện, trong phòng các quản giáo đứng cầm súng canh gác, nghe tất cả những câu chuyện của gia đình tù nhân.
Ngẫu nhiên, gia đình tôi và gia đình cô Thảo ngồi kế bên nhau, hoá ra anh rể tôi và chồng cô Thảo chung nhóm lao động trong trại. Tôi chỉ cười cười nhìn anh rể, anh nhoài người với qua bàn, nắm tay từng người, hôn thằng con, rồi chúng tôi kéo ra ngoài sân, chỉ còn lại bà chị Cả tiếp tục ngồi với chồng. Bên nhà cô Thảo cũng vậy, sau khi thằng Tú 3 tuổi đứng giữa bàn, ngây thơ hát tặng bố bài hát “Cháu lên ba, cháu vô mẫu giáo”, bà ngoại và thằng Tuấn- Tú cũng đi ra ngoài sân, để hai vợ chồng cô Thảo tiếp tục câu chuyện thăm nhau.
Tôi đang đứng dưới tàn cây trứng cá, thằng cháu và mấy đứa nhóc chạy nhảy tung tăng rộn ràng cả khu đất, Tuấn đến bên tôi, chìa ra cái bánh bao:
- Bạn ăn bánh bao nè, ngon lắm, bà ngoại tui làm đó.
Trong khi ông anh tôi và bà ngoại Tuấn đứng nói chuyện và coi chừng lũ trẻ chơi đùa, tôi và Tuấn ngồi xuống ăn bánh bao, kể nghe câu chuyện về trường lớp:
- Tui học trong trường Phan Chu Trinh, ngay trong khu quân đội.
- Còn tui, trường Đồng Tháp, cũng trong khu quân đội trại Đoàn Dư Khương.
- Ở khu tui, cũng có cây trứng cá, thích lắm, trưa nào tan trường, tụi tui cũng hái một mớ, ăn vào ngọt lịm.
- Mà bây giờ chính quyền mới đổi tên khu Phan Chu Trinh và Đoàn Dư Khương qua tên mới, nghe lạ hoắc!
Ăn xong bánh bao, hai đứa theo đám nhóc hái trứng cá, vừa hái vừa reo cười thích thú, mỗi đứa được cả bọc nhỏ, thì đến lúc hết giờ thăm nuôi. Đoàn người thân nhân lại lục tục kéo ra cổng. Trước khi lên xe lam, tôi ngoái lại, nhìn cây trứng cá, tự dưng thấy buồn, rơm rớm nước mắt. Tuấn cũng có vẻ buồn, nhưng cố tỏ ra “bản lĩnh”, nhìn tôi, chọc quê:
- Loan nhớ cây trứng cá hả? Lần sau tụi mình sẽ hái nhiều hơn.
Tuấn đưa tôi bọc trứng cá của Tuấn, bảo đem về chia cho mấy đứa bạn trong xóm ăn cho vui.Tôi biết Tuấn làm vậy để tôi (và cả Tuấn) bớt buồn vì phải xa nơi chốn này (mới đến mà sao thân thương quá chừng!).Tôi vốn là cô bé nhạy cảm, nghĩ rằng, chúng tôi được trở về nhà, với cuộc sống thường nhật, còn cây trứng cá sẽ cô đơn hiu hắt vắng lặng với những người tù lặng câm, đất trời cằn cỗi nắng bụi mịt mù.
Sau lần đó, chị tôi và cô Thảo thỉnh thoảng đến nhà nhau khi có thông tin nào đó về trại, về các tin đồn mong manh cho ngày trở về đoàn tụ, cho những chuyến thăm nuôi sắp đến. Có lần chị dẫn tôi đến căn nhà trong cư xá sĩ quan của nhà cô Thảo thật đẹp. Dù đang trong thời kỳ “Cả Nước Xuống Hố”, đồ đạc trong nhà thưa thớt, nhưng vẫn còn nét sang trọng của căn nhà nhỏ, có lầu đúc hai tầng, sân thượng trồng cây cảnh, lan can trước nhà có trồng làn giây hoa lan leo, và trong sân nhà là cây táo Thái sum suê trái. Tuấn đưa tôi ra sân hái táo, những trái táo màu xanh, cỡ như trái chanh, cắn vào giòn rụm ngọt ngào. Ăn táo no nê, chúng tôi vào phòng học của Tuấn, căn phòng gọn gàng, sách vở bàn học ngay ngắn, nét phong lưu của gia đình còn in rõ trên từng ngóc ngách của căn nhà.
Rồi là cái Tết đầu tiên sau ngày Sài Gòn bị “giải phóng”, dù muốn dù không thì Xuân vẫn về, dẫu lòng người đang buồn hay vui. Hôm chiều cúng ông Táo, chị tôi mừng rỡ nhận được giấy báo thăm nuôi vào đầu tháng sau. Chị đem một cái bánh Tét, chở tôi trên chiếc xe đạp đến nhà cô Thảo, trước là tặng quà Tết, sau là hỏi thăm bên nhà cô có giấy thăm nuôi cùng ngày hay không. Cô Thảo mừng rỡ đón chúng tôi, và cho biết sẽ cùng gặp nhau tại trại thăm nuôi kỳ tới.
Suốt buổi ngồi nghe chị tôi và cô Thảo nói chuyện, tôi không thấy Tuấn như lần trước, chỉ có bà ngoại đang chơi với thằng Tú ngoài bếp, tôi hỏi:
- Cô ơi, Tuấn có nhà không cô?
Cô Thảo nhìn tôi, cười:
- Tuấn đi chơi với Dì Ba rồi con.
Nghe vậy thì tôi biết vậy, chắc đang mùa Tết nên đi chơi với Dì, là em của cô Thảo, dù tôi chưa bao giờ gặp mặt Dì Ba.
Tháng sau, tôi háo hức dậy từ sớm, chuyến đi thăm nuôi lần này sẽ vui hơn lần đầu tiên, vì tôi đã biết nó sẽ diễn ra như thế nào, và tôi lại được gặp Tuấn, lại ngồi ăn bánh bao, hái trứng cá, kể nhau nghe chuyện học hành. Nhưng tôi đã thất vọng, vì nhà cô Thảo chỉ có cô, bà ngoại và thằng Tú, chẳng thấy bóng dáng Tuấn. Khi đứng ngoài sân dưới cây trứng cá, tôi hỏi bà ngoại:
- Bà ơi, sao Tuấn bữa nay không đi thăm bố?
Bà cười, hiền hậu:
- Chút nữa cô Thảo nói cho con nghe, nhe!
Tôi nôn nao, linh tính có chuyện gì đó, chẳng biết là buồn hay vui.Tôi chẳng còn bạn để cùng hái trứng cá, để nói chuyện trường lớp, tôi ngồi dưới gốc cây trứng cá suy nghĩ vẩn vơ, cây trứng cá không biết nói nhưng đang là “người bạn” cho tôi nương tựa lúc này, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Rồi tôi chợt lo lắng, hay là Tuấn bị bệnh? Mà phải là bệnh nặng lắm nên mới không đi thăm ba được.
Cuối giờ thăm nuôi, gia đình cô Thảo kéo đến nhóm gia đình tôi, vui vẻ:
- Bây giờ tụi mình đón xe lam ra chợ Hốc Môn, tôi mời cả nhà bữa hủ tíu.
Đến chợ, trong lúc chờ thức ăn, cô Thảo nói thì thầm cho đủ hai gia đình nghe, trong khi cô nhìn tôi:
- Con ơi, Tuấn nhà cô đi vượt biên với Dì Ba, đã đến trại tỵ nạn Songkla, Thailand, đã có thư về rồi.
Lúc ấy, trong xóm đã có vài gia đình đi vượt biên nên tôi cũng hiểu vấn đề, một cảm giác buồn bã xâm chiếm hồn tôi. Không hẳn vì tôi nhớ Tuấn, mà chính là chạnh lòng, là có chút ghen tỵ, vì Tuấn may mắn, đến một phương trời mới, tương lai mới, trong khi tôi vẫn ở lại mảnh đất đang bị chính quyền mới tàn phá tang thương, chuyện học hành và cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, bất mãn.
Vài tháng sau, tôi lại được theo chị đến nhà cô Thảo. Cô hớn hở kéo hai chị em vào nhà:
- Thằng Tuấn đã đến Mỹ, vào đây xem hình Tuấn nè.
Vào phòng khách, cô lấy ra một phong bì trắng dầy cộp, thơm phức (sau này tôi gọi đó là mùi … Mỹ, khi gia đình tôi có hai ông anh vượt biên thành công, qua Mỹ, gửi thư về). Cô rút ra hai tờ thư và một số tấm hình:
- Thư này Dì Ba gửi bà ngoại, còn tờ thư này Tuấn gửi cho cô, con đọc cho vui.
Tôi đón lấy tờ thư Tuấn viết:
“Má ơi, con vừa đến Mỹ là được đi học liền à! Buổi sáng có xe đến rước, buổi trưa ăn ở trường luôn, thức ăn ngon lắm. Trường có cả hồ bơi, tha hồ tắm, các bạn và thầy cô người Mỹ ai cũng dễ thương.Má cho con gửi lời thăm Loan, em của cô Thanh nha. Nói với Loan ở đây không có cây trứng cá!...”
Tôi xúc động, thấy được an ủi vì Tuấn còn nhớ tôi. Đêm hôm ấy, tôi thao thức với giấc mơ vượt biên. Những tấm hình Tuấn đứng bên xe yellow bus của trường học, đứng chung với bạn trong lớp nơi sân trường, chụp với Dì Ba trước cửa nhà rợp đầy bóng mát bình yên…là những hình ảnh cho tôi niềm khát khao được tìm đến, thoát cảnh tương lai mù mịt nơi quê nhà, khi mà phong trào vượt biên bắt đầu trở nên rầm rộ, mà ai đó đã từng nói “cây cột điện nếu có chân cũng muốn đi”.
Sau chuyến thăm nuôi ấy, tôi không được đi thăm anh rể nữa vì anh chuyển trại về Hàm Tân Thuận Hải, còn ba của Tuấn bị chuyển ra ngoài trại phía Bắc. Hai gia đình liên lạc thưa thớt dần, rồi cô Thảo chuyển nhà về đâu, hoặc cũng có thể đã âm thầm đi tìm tự do, không ai biết.
………………………………..
Anh rể tôi "học tập cải tạo" hơn 6 năm mới được về. Thoát khỏi nhà tù nhỏ anh rể về nhà tù lớn với vợ con, tiếp tục cuộc sống khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất, vì anh vẫn bị phường quản lý, đi đâu làm gì cũng phải viết đơn trình báo. Cho đến năm 1991 thì gia đình anh chị tôi sang Mỹ định cư diện HO.
Còn tôi, dù muộn màng hơn Tuấn, tôi cũng ra khơi cuối năm 1989, may mắn đến bến bờ tự do và định cư ở Canada năm 1994.
Tuấn đang ở đâu đó trên đất Mỹ, nếu đọc được bài này, hy vọng Tuấn sẽ nhớ ra kỷ niệm thăm nuôi ba “cải tạo” ở thành Ông Năm, có cây trứng cá với cô bạn “bé nhỏ” dễ cười dễ khóc thuở nào.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Tôi cũng thế, cũng có những kỷ niệm êm đềm thời bé thơ bên cha mẹ anh chị em, kỷ niệm hai chuyến đi thăm anh rể ở Thành Ông Năm, tôi đứng chơi dưới gốc cây trứng cá chỉ trong chốc lát mà không thể nào quên, để khi ra về tôi bỗng thương cây trứng cá ở lại, có lẽ vì tôi thương anh rể tôi cùng bao người tù “cải tạo” khác còn ở lại chốn tù tội đoạ đầy lao khổ ấy.
Bao nhiêu năm trôi qua, mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn thương.
Edmonton, Tháng4 Đen 2025
KIM LOAN
________________
CÓ NHỮNG THÁNG NGÀY NHƯ THẾ ...
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo.
Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh.
Hồi đó, mỗi người trong sổ hộ khẩu đều có một Sổ Sức Khỏe, bên ngoài bìa ghi vài thông tin tổng quát, gồm họ tên, tuổi bao nhiêu, và địa chỉ thường trú. Thằng cháu mới 9 tuổi, anh lấy cây viết cùng màu mực với số 9 rồi viết thêm số 2 đàng trước rất phù hợp với độ tuổi của anh (anh thực sự 28 tuổi), nhưng cái tên của thằng cháu khá “đặc biệt” làm anh hơi ngại ngần. Ba của nó tên Hoàng, là Đại Úy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc bà chị họ của tôi sanh thằng nhỏ thì ảnh đang “lắc lư con tàu đi” tác chiến ở vùng sông nước Hậu Giang và nhắn vợ đặt tên con là Lê Hoàng Biển Cả, coi như kỷ niệm tình yêu sự nghiệp đời Lính của anh.
Anh Hai mượn Sổ Sức Khỏe của cháu, vì anh không còn chọn lựa nào khác. Ba người anh còn lại của tôi, một anh đã vượt biên đang ở Mỹ, hai anh khác học xong Đại Học ra trường đi làm ngoài tỉnh nên hộ khẩu ở chỗ làm. Anh Hoàng, chồng bà chị họ mới “học tập cải tạo” về nhà, còn trong thời hạn bị địa phương quản chế nên có cho vàng anh Hai cũng không dám mượn sổ, không muốn gây thêm liên lụy cho anh rể. Ba tôi, cũng mới nằm bệnh viện cả tháng chữa bệnh bao tử nên cái Sổ Sức Khỏe đầy chữ viết bệnh án của bác sĩ, anh không thể mượn sổ của ba vì dễ bị phát hiện. Chỉ còn đứa cháu 9 tuổi, cái sổ còn trống trơn. Bà chị họ sốt sắng đưa anh cuốn sổ của thằng Biển Cả, bảo anh cứ liều... “mạng cùi” đến bệnh viện, cùng lắm thì anh bị trở vào tù, chớ ai lại bắt thằng bé 9 tuổi?
Thế rồi cũng êm xuôi trót lọt, anh được điều trị cắt cơn sốt rét tại bệnh viện, thời gian dự trù khoảng hai tuần. Tôi đang học lớp10, đường đi đến trường có ngang qua bệnh viện, nên có một buổi chiều sau khi tan học, tôi ghé thăm anh. Gặp tôi, anh vui vẻ tươi tỉnh, biểu tôi gửi xe rồi cùng anh đi dạo ra ngoài vì cả tuần qua anh còn mệt nên chỉ loanh quanh trong bệnh viện.
Hai anh em tản bộ về hướng chợ Xóm Mới, mải mê nói chuyện, đến cổng nhà thờ Hoàng Mai thì tôi nghe tiếng gọi:
- Anh Biển Cả! Anh Biển Cả!
Sau vài giây khựng lại, tôi liền nhớ ra, quay qua anh Hai:
- Anh Hai ơi, có người gọi anh... Biển Cả kìa!
Anh ngưng nói chuyện, cố tìm trong ráng chiều chạng vạng người nào đã gọi anh, thì một cô gái đi nhanh về hướng chúng tôi. Anh nhận ra, cười tươi và giới thiệu:
- Em ơi, đây là cô Hoài, người y tá chăm sóc anh ở bệnh viện. Còn đây là Loan, em gái của tôi học ở trường Nguyễn Trung Trực gần đây nên ghé thăm tôi.
Chị Hoài hỏi thăm tôi vài câu, rồi nói:
- Anh Biển Cả và Loan chờ đây nhe, em chạy vào trong nhà một chút.
Chị chạy vào trong hẻm nhà thờ, lát sau mang ra một túi đồ dúi vào tay tôi và nói với anh:
- Bữa nay nhà em có đám giỗ, em tính sáng mai mang đến bệnh viện chút trái cây để anh dưỡng sức, nhưng bây giờ gặp thì đưa luôn, có thêm miếng xôi vò, chả lụa và mấy cái bánh ngọt, hai anh em cùng ăn cho vui nha.
Tôi chần chừ, chị Hoài nói tiếp:
- Lộc đám giỗ thôi mà, vả lại, chị muốn cám ơn anh Biển Cả dạy kèm English cho chị.
Anh Hai gật đầu nên tôi cầm lấy bịch thức ăn. Trên đường trở về bệnh viện, anh kể, cái tên Biển Cả làm anh ... nổi tiếng trong bệnh viện. Hễ khi gọi tên bệnh nhân lấy thuốc, cứ đến lượt “Lê Hoàng Biển Cả” là các cô y tá bụm miệng cười, nhìn anh vừa tinh nghịch vừa thân ái. Chị Hoài là người chữa trị và theo dõi bệnh tình của anh, cũng có hỏi anh về cái tên lạ mà hay này, anh trả lời qua loa cho xong chuyện, dù có đôi lần lỡ miệng, xuýt bị lộ thân phận. Khi biết anh là giáo viên dạy Tiếng Anh, chị Hoài nhờ anh giúp mỗi ngày các bài vở chị học từ một Trung Tâm Ngoại Ngữ vì gia đình có chị ruột bên Mỹ đang làm giấy tờ bảo lãnh diện ODP.
Tôi trêu anh:
- Nhìn vào cặp mắt chị Hoài khi nói chuyện, em dám chắc là anh đã lọt vào “mắt xanh” của chị ấy rồi đấy, anh tính sao ?
- Anh biết chớ, nhưng anh chẳng còn tâm trí nào cho chuyện tình cảm yêu đương. Hiện giờ anh chỉ còn một con đường, là phải vượt biên bằng mọi giá, thế thôi.
Sau đó, anh được xuất viện, vừa trở về nhà vài ngày thì may mắn có chuyến vượt biên do bạn thân giới thiệu nên anh lên đường ra khơi. Một chiều tôi đi học về, bà chị họ chạy qua:
- Hồi nãy có cô Hoài y tá đến tìm anh... Biển Cả.
Tôi đã từng kể cho cả nhà nghe chuyện gặp chị Hoài lúc đi dạo với anh Hai, nên chị chép miệng:
- Tội cô ấy quá, nhưng nhà mình còn đang nóng ruột chờ tin nên chị đâu dám nói sự thật, đành nói dối “anh Biển Cả” đi Cần Thơ.
Ba tuần sau, cả nhà sung sướng khi nhận điện tín của anh Hai từ đảo Bidong, Malaysia. Trong nỗi vui mừng này, tôi nghĩ đến chị Hoài, đắn đo có nên báo cho chị biết tin anh Hai. Nhưng tôi lại thôi, nào có ích gì, chỉ làm cho chị buồn thêm.
Rồi trời xui đất khiến buổi sáng chúa nhật tôi đi chợ Xóm Mới, đang đi vào tiệm bánh gai đầu chợ thì gặp chị Hoài cũng đang mua bánh gai. Hai chị em mừng rỡ ríu rít, chị kéo tôi vào quán nước để nói chuyện nhiều hơn. Tôi báo tin vui mà không dám... hớn hở:
- Chị ơi, anh Hai của em đã đến đảo Bidong rồi đó.
Chị thoáng thất vọng, buồn buồn, nhưng kịp mỉm cười:
- Ôi, chị mừng cho anh Hai, chung vui cùng gia đình em.
Nói chuyện qua lại một lúc, trước khi chia tay, chị Hoài ngập ngừng:
- Em nè, chị hỏi điều này nếu em không thấy phiền, em cho chị địa chỉ anh Hai bên đảo được không? Thú thiệt với em, gia đình chị chờ đi ODP lâu quá, nên chị và đứa em trai đang tìm mối vượt biên. Chủ tàu nói chuyến đi dự tính đã đầy người, nhưng nếu phút chót có ai rút lui thì sẽ kêu chị. Nếu chị may mắn tới đảo Bidong sẽ tìm anh Hai của em, còn nếu chị tới đảo khác nước khác, chị cũng sẽ viết thư liên lạc với ảnh, được không em?
- Trời ơi, có gì mà phiền chớ. Ngày mai đi học em sẽ ghé qua bệnh viện đưa chị địa chỉ. Mà chị ơi, vậy thì em phải khai thiệt với chị một chuyện ...
- Chuyện gì, em cứ nói.
- Dạ, anh Hai của em hổng phải tên Biển Cả.
- Chị biết mà! Nãy giờ em có thấy chị gọi ảnh là “Biển Cả” không?
- Ủa, ủa, là sao??
- Hôm nọ chị đến nhà tìm ảnh, dù đã có địa chỉ lấy từ sổ sức khỏe, nhưng khi đến đầu hẻm thấy một bác ngồi bán khoai mì đang ... rảnh rang, chị bèn hỏi nhà anh Biển Cả, bác ấy cười lớn, anh gì mà anh, căn nhà cổng màu xanh đó, thằng Biển Cả đang chơi bắn bi với mấy thằng nhóc trong xóm kìa, cô là cô giáo của nó hả!
- Ha...ha...Vậy là chị biết từ ngày đó?
- Thực ra, chị biết từ những ngày ảnh còn ở bệnh viện.
- Ủa, ủa, là sao nữa?
- Chị là người tiếp nhận ảnh lúc đến khám bệnh, thấy cái tên hay, các cô y tá xúm vào hỏi han, ảnh ngượng ngùng bối rối, đúng kiểu chưa quen nói dối. Sau đó chị nhìn kỹ sổ sức khỏe, thì thấy chỗ ghi tuổi, cái số 29 không đều nhau, nét mực cũng hơi khác. Rồi khi chị hỏi ảnh thẻ “chứng minh nhân dân” để làm thủ tục nhập viện, ảnh nói bị mất. Cũng may chị là Y tá trưởng nên bỏ qua thủ tục này.
- Ôi, chị vừa thông minh lại vừa tốt bụng. Sao chị dám giúp ảnh, lỡ ảnh là... tội phạm nguy hiểm thì sao?
- Nghe chị nói nè, trước tiên, chị hành động theo lương tâm “lương y như từ mẫu”, làm sao chị có thể đuổi bệnh nhân ra về khi họ đang run vì cơn sốt? Lý do tiếp theo, dáng vẻ bên ngoài của anh ấy với cặp mắt kiếng, phong thái mô phạm, giọng nói từ tốn điềm đạm, cũng đủ gây tin tưởng cho người đối diện. Hơn nữa, khi tiếp xúc, thì càng thấy anh ấy là người đứng đắn, đạo đức, nhất là sự hiểu biết của ảnh, không chỉ trong môn English mà trong các vấn đề khác. Chị đã cảm mến ảnh từ những ngày đó.
- Chị nói thì em mới dám... khoe luôn, ảnh là cuốn tự điển bách khoa của gia đình và cả xóm em luôn á! Em xin thay mặt anh Hai, cám ơn chị đã bao che và chữa bệnh cho anh ấy.
- Chị cũng cám ơn ảnh, thời gian hai tuần lễ chị đã mở mang thêm một số kiến thức là nhờ ảnh.
Tôi về nhà, viết liền lá thư cho anh Hai, kể lại toàn bộ cuộc nói chuyện với chị Hoài, và dặn ảnh chuẩn bị tinh thần, biết đâu con tàu của chị ấy sẽ cập bến Malaysia. Anh viết lại, biểu tôi yên tâm, vì ảnh đang làm thiện nguyện, dạy English ở đảo, nên quen thân với Ban Điều Hành trại, hễ có chuyến đưa người mới vào đảo là anh được xem danh sách từ chiều hôm trước, rồi đến ngày, anh vẫn hòa vào đám đông kéo nhau ra cầu Jetty đón đoàn người tỵ nạn mới, để tìm người quen, bạn bè, hàng xóm.
Vậy mà bốn tháng sau, khi anh có tên đi định cư Mỹ, buổi tối trước khi rời đảo Bidong để qua trại Sungai Besi, anh viết thư về nhà, có viết riêng cho tôi một đoạn:
- Em ơi, sao chị Hoài vẫn chưa đến Bidong, mà cũng chưa viết thư cho anh từ trại khác, liệu có chuyện gì xảy ra với chị ấy chăng? Em hãy đến bệnh viện tìm xem chị ấy còn ở đó không nhé.
Tôi chạy liền đến bệnh viện, vào thẳng phòng trực y tá, với tư cách người nhà bệnh nhân, xin gặp chị Hoài để nói lời cảm tạ. Một chị y tá cho biết:
- Chị Hoài nghỉ làm rồi em ơi.
- Từ khi nào hở chị?
- Cỡ bốn, năm tháng.
Trời ơi, đúng là lúc chị nói với tôi dự tính vượt biên. Tôi hồi hộp:
- Vậy chị cho em địa chỉ nhà chị Hoài để em ghé thăm.
- Khỏi ghé em ơi, chị Hoài vượt biên đến Thailand rồi.
Tôi run run:
- Thiệt không chị? Chị ấy đến Thái hay Bidong, Mã Lai?
- Đến Thái! Chị ấy có gửi thư và hình cho tụi chị, nếu em muốn xem thì ngày mai quay lại chị cho xem.
Tôi thở phào, trở về nhà, nhưng cả đêm thao thức với những nghĩ suy, tại sao chị ấy không viết thư cho anh Hai như đã nói với tôi? Tôi bèn đưa ra hai giả thuyết, thứ nhất, có thể trên đường vượt biển chị đã đánh mất hành lý và địa chỉ của anh Hai (giả thuyết này có nhiều khả năng xảy ra, vì hai người anh của tôi đi vượt biên đều gặp tình trạng này, kẻ thì làm rơi trên biển, người thì đánh mất lúc di chuyển từ ghe nhỏ qua tàu lớn). Giả thuyết thứ hai, có thể nào chị đã gặp gỡ một tình yêu chung chuyến tàu hoặc chung trại tỵ nạn, nên không còn ý muốn liên lạc với anh Hai?
Rồi tôi cũng đi vào giấc ngủ với niềm vui, là chị Hoài đã thoát được nơi chốn này, đến được bến bờ tự do như mong ước. Còn chuyện sau đó, dù là giả thuyết một, giả thuyết hai, hay giả thuyết ba, bốn, năm, sáu ...gì chăng nữa, với tôi, cũng đều là một kết thúc vừa ý.
Anh Hai, sẽ nhớ những ngày được cô y tá dễ thương cứu giúp trong hoàn cảnh “hoạn nạn khốn khó”. Chị Hoài, sẽ không quên cảm xúc xao động nhẹ nhàng khi chữa trị cho một bệnh nhân có cái tên giả “đặc biệt”.
Anh Hai, chị Hoài, và tôi, người chứng kiến và kể lại câu chuyện này, cùng có một kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ về quãng thời gian sống dưới chế độ “Xã Hội Chủ Nghĩa- Xuống Hố Cả Nút”, khi mà “cây cột đèn có chân cũng muốn ra đi”!
Edmonton, Tháng 3/2025
KIM LOAN
________________

CHIỀU TRONG TRẠI TỴ NẠN
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy em
Đôi mắt của một người không quen
Thăm thẳm như hoàng hôn vừa xuống
Ký ức nào em đang muốn quên?
Đêm hãi hùng thuyền gặp sóng lớn
Hải tặc vây quanh chẳng xót thương
Em bé nhỏ, em cố vùng vẫy
Tiếng kêu lạc loài vào đại dương?
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy chị
Lặng lẽ bên rào nhìn xa xăm
Chắc hẳn đêm qua trong mộng mị
Có bóng quê nhà chị ghé thăm?
Người ấy có vẫn đợi chị không
Tình yêu đâu cách trở mấy sông
Nhưng đất nước u mê tăm tối
Tương lai còn mù mịt, mênh mông
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy anh
Điếu thuốc trên tay, khói toả bay
Ngày mai lên đường đi thanh lọc
Kỷ niệm vô vàn gửi lại đây
Chiến hữu gặp nhau nơi xứ lạ
Khắc khoải lời thề nợ máu xương
Giữ vững niềm tin và lý tưởng
Màu cờ vàng rợp bóng quê hương
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy tôi
Dõi theo mây tím cuối chân trời
Mộng mơ với chút hồn thi sỹ
Bỗng thấy thương hơn những mảnh đời
Rồi cũng sẽ là dĩ vãng thôi
Kỷ niệm Trại Tỵ Nạn xa xôi
Nên trái tim đa sầu đa cảm
Nức nở mong chờ bóng chiều rơi
KIM LOAN
TÌNH YÊU KHÔNG HẸN TRƯỚC
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư .
Nơi nào tôi cũng có người quen, vì ở trại Transit (tự do) này mọi người đều chung hoàn cảnh may mắn, đậu thanh lọc, chờ ngày tìm được phái đoàn nào đó phỏng vấn rồi đi định cư, tương lai phơi phới, nên chúng tôi mau chóng gần gũi mến thương nhau .
Ở trường ESL có một nhóm Thầy, Cô khá hợp “gu”, mặc dù tôi nhỏ tuổi nhất, ngoài giờ dạy, chúng tôi còn gặp nhau ngoài quán cafe, hủ tíu, đến nhà nhau ăn cơm mỗi khi có sinh nhật, giỗ quảy .
Trong nhóm này, tôi thân nhất với Chị, một phần vì Chị ở chung lô nhà, hai “nhà” đối diện nhau, gặp nhau cả ngày, đến trường cũng gặp nhau, phần khác là Chị cũng từng là giáo viên Tiểu Học như tôi khi còn ở Việt Nam, nên hai chị em ríu rít mỗi ngày, rủ nhau đi chợ, đi ăn, tối tối rảnh cùng vài Thầy Cô khác kéo nhau lên trường ESL tán dóc với Thầy Hiệu Trưởng “đóng đô” ngày đêm trên đó . (Thầy được phân công ở ngay căn phòng nơi cổng sau của trường).
Chị qua trại cùng với hai đứa con, một trai một gái, mười tuổi và tám tuổi. Chồng chị bị mất tích trên biển trong một chuyến vượt biên từ vài năm trước. Chị kể, chuyến tàu mang chồng chị và mấy chục người khác, ra khơi mấy tháng liền không có tin tức, tất cả các gia đình có người thân trong chuyến tàu dáo dác hỏi thăm nhau, rồi niềm hy vọng dần dần tàn lụi, đớn đau tuyệt vọng . Gần ba năm sau, chị quyết định mang hai đứa con lên đường ra khơi, mặc dù gia đình Chị ngăn cản vì lo sợ hiểm nguy, Chị bảo:
- Chả lẽ số phận đã để ảnh mất tích trên biển, rồi không tha ba mẹ con chị luôn sao?
Vết thương nào rồi cũng nguôi ngoai, Chị tin rằng hoàn cảnh Chồng chị mất tích đã giúp ba mẹ con đến bờ tự do và may mắn đậu thanh lọc, Chị mong hương hồn Chồng tiếp tục phù hộ cho Chị và các con trên con đường tương lai khi định cư ở nước thứ ba .
Bữa đó tôi đến nhà Chị, thấy ba mẹ con đang ăn cơm với hai người tôi không quen biết, Chị giới thiệu:
- Loan ơi, đây là Phúc, người đi chung chuyến tàu chị. Đây là Tân, em chồng của chị, cũng đi chung chuyến tàu, Phúc và Tân mới đậu thanh lọc, vừa nhập trại Transit mình hôm qua đó.
Tôi sà vào ăn cơm chung với cả nhà. Anh Phúc nhỏ hơn Chị 4 tuổi, còn Tân nhỏ hơn tôi hai tuổi . Bữa ăn hội ngộ rộn ràng, và Chị vui vẻ nhận lời nấu cơm tháng cho anh Phúc và Tân, vì đàn ông một mình vụng về cơm nước, mà Chị thì đằng nào cũng lo cơm nước cho ba mẹ con . Tôi nghe kể anh Phúc từng là giáo viên Tiếng Anh bên Việt Nam bèn đề nghị Chị rủ Anh Phúc vào dạy trường ESL, còn Tân thì có bạn sẽ giúp đưa vào làm ngoài bệnh viện khu Lào-Hmong. (Ở trại tỵ nạn Thailand, những người đi làm thiện nguyện, ngoài chuyện mỗi tháng có chút lương bổng tượng trưng từ Cao Ủy, còn được ưu tiên miễn làm lao động định kỳ trong trại, và nhất là có chút ...uy với người xung quanh, nên chúng tôi, kẻ trước người sau, thường giới thiệu bạn bè quen biết cùng đi làm thiện nguyện)
Thế là từ đó, hàng ngày, ngoài buổi sáng đi dạy chung, Anh qua nhà chị ăn hai bữa cơm, rồi dạy các con chị học bài hoặc chơi với chúng.
Tình yêu, có ai ngờ! Lửa gần rơm hay hai trái tim đã tìm thấy rung một nhịp đập? Anh chị bắt đầu yêu nhau, nhưng chỉ trong âm thầm vì còn biết bao cản trở xung quanh: Trước tiên là hàng rào tuổi tác (tình yêu chị em hả, có ai chấp nhận và hiểu cho!), rồi là rào cản của thị phi cuộc đời, làm sao thoát khỏi những cái miệng “rảnh rang”của những ông bà Tám cùng lô nhà, rằng “trai tân cặp với gái già”? Làm sao công khai nơi trường ESL khi họ vẫn gọi nhau là chị/em? Làm sao ăn nói với hai đứa nhỏ khi lâu nay chúng vẫn gọi anh là “chú” rất thân thương, yêu mến? (Từ “chú” chuyển thành “cha” khó à!). Ngoài ra, rào cản “nặng ký” khác là thằng Tân, em chồng đang ăn cơm tháng ở nhà chị. (Trên giấy tờ căn cước tỵ nạn của chị còn ghi rành rành tên chồng với ghi chú “Lost at Sea”).
Mà hai người dấu kỹ lắm, các Thầy Cô trường ESL không ai nghi ngờ, thằng Tân cũng rất vô tư chẳng tò mò thắc mắc, các “bà Tám” trong lô cũng chẳng chút mảy may đặt dấu hỏi gì, vì hàng ngày cả Anh và thằng Tân đều đến nhà Chị ăn cơm hai bữa, Anh nán lại chỉ bảo bài vở cho hai đứa nhỏ, và cũng có mặt tôi thường xuyên đến chơi nữa mà!
Tuy nhiên, Chị không thoát khỏi “cặp mắt sắc bén” của tôi, dầu đôi lần tôi ỡm ờ dọ ý Chị vẫn chối phăng. Cho đến một buổi chiều kia tôi đến cửa nhà Chị thì Anh vừa bước ra, tôi tiến vào nhà thì Chị còn đứng đó, trên tay là một nhánh hoa hồng đỏ, còn lấp lánh mấy giọt nước .
Lần này Chị bèn trút hết bầu tâm sự cho tôi nghe, thú nhận cõi lòng vì Anh vừa được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và nhận cho định cư, trong khi Chị và hai con đang bị Mỹ “pending” treo hồ sơ .
Chỉ cành hoa hồng, chị nói:
- Ảnh tặng chị đó, ảnh nói hôm nay là Valentines, ngày Tình Yêu.
- Ủa, ngày gì lạ à nghen, chắc ảnh mê chị rồi ảnh bịa ra, chớ nào giờ em có nghe gì về ngày này đâu nà!
- Thì chị cũng như em, có biết gì đâu. Nhưng ảnh nói bà Sue người Úc bên Hội Thánh Tin Lành nói cho ảnh biết đó .
- Vậy là có Ngày Tình Yêu thiệt hả chị?
Thấy Chị buồn, tôi khuyên Chị cứ chờ phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn, và hãy để thời gian minh chứng tình yêu . Tôi cũng cảm thông khi hai người không dám công khai tình yêu . Tôi bảo, khi qua Mỹ rồi thì Chị và Anh nếu còn tình yêu thì lúc đó hai con sẽ hiểu và chấp nhận, còn với trại tỵ nạn thì trăm nghìn miệng lưỡi thế gian, vả lại, Anh cũng sắp lên đường định cư, thôi thì ráng giữ gìn cho nhau, hẹn ngày tái ngộ không xa .
Do vậy, họ tiếp tục yêu thầm lặng, chỉ trao nhau tình yêu qua ánh mắt, qua những cử chỉ lặng lẽ, và những cái nắm tay vội vã những lúc hiếm hoi ở bên nhau ngắn ngủi. Một vài giờ riêng tư bên nhau cũng không thể , vì lúc nào cũng có con cái, thằng em chồng, hàng xóm xung quanh tấp nập, nên bỗng dưng mối tình trở nên “lén lút”, còn khổ hơn “cách núi ngăn sông”.
Cứ thế, cho đến ngày Anh có tên trong danh sách lên đường đi Mỹ. Nửa đêm hôm đó, khi cả trại còn say giấc, Anh liều mạng mò qua nhà Chị, rồi chui vào mùng (Chị ngủ 1 mùng, hai đứa nhỏ 1 mùng. Cũng may Anh không chui lộn mùng trong trời tối đen vì anh có mang theo cái đèn pin). Chị giật mình khi nhận ra Anh nhưng không nói một câu nào vì sợ hai con thức giấc. Họ hôn nhau dồn dập trong bóng đêm, vỡ oà bao nỗi niềm của những ngày câm nín. Khi Anh sắp chạm vào giới hạn “rực rỡ chơi vơi”, thì Chị bừng tỉnh, chỉnh lại áo quần, rồi lao ra bên ngoài. Anh sững sờ, rồi chạy theo Chị.
Chị vẫn chạy đi trong đêm, qua các lô nhà, băng qua những con đường gập ghềnh trong trại, đôi chân trần của Chị bị đau vì rướm máu. Anh vẫn đuổi theo sau, như hai bóng ma, không dám gọi tên nhau. Khi đến gần cổng trại, thấy có bóng lính Thái và ban bảo vệ đi tuần tra, Chị đành rẽ vào khu bể nước gần đó, vừa lúc Anh đuổi kịp. Anh ôm Chị, liên tục xin lỗi, và lau những giọt nước mắt nức nở, nghẹn ngào trên khuôn mặt người yêu, rồi hai người bước trở về khu nhà khi trời đang hừng sáng để tiễn anh lên đường đi định cư.
Những chi tiết trên, là Chị kể lại cho tôi nghe trong một chiều mưa sau khi anh rời trại được mấy hôm, lòng còn đầy nỗi niềm nhớ thương vời vợi.
Một thời gian sau đó, tôi đi định cư Canada, có viết về trại cho Chị vài lá thư rồi bị mất liên lạc, nghe nói ba mẹ con Chị cũng lên đường đi Mỹ .
Mỗi mùa Valentines tôi lại nhớ Chị, nhớ cành hoa hồng Anh tặng Chị năm xưa. Trong một lần gặp gỡ vài người tỵ nạn cũ ở California nhiều năm trước, có người cho tôi biết Chị từng sống ở Quận Cam, chỉ với hai đứa con, không có Anh, rồi ba mẹ con dọn đi tiểu bang khác. Vậy là mối tình nồng cháy, không hẹn trước nơi trại tỵ nạn ấy cũng theo “lời nguyền” mà dân tỵ nạn hay nói với nhau “chặt cua là khuất bóng”, chỉ còn là kỷ niệm mang theo trong đời!?
Tôi chợt nhớ câu hát của nhạc sĩ Trúc Phương tôi thường đùa, hát cho chị nghe mỗi khi chị nôn nao đợi chờ thư của Anh từ Mỹ Quốc: “Đường vào tình yêu, có trăm lần vui, có vạn lần sầu …”, rồi chị mắc cở, mắng tôi: “Hát gì tầm phào không hà, nghe xui thấy mồ!”
Chẳng lẽ tôi có “cái miệng ...ăn mắm ăn muối” thiệt sao!?
Edmonton, Valentines 2025
KIM LOAN
" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"
-Luke 23:34-
_______________________


50 NĂM, XUÂN TRÊN ĐẤT MỚI
Hồi hè vừa rồi, chồng tôi thông báo:
-Năm 2025 anh sẽ đi Pharmacy Conference từ cuối tháng Một cho đến hết tuần đầu tháng Hai .
-Vậy có phải ở San Jose, hay New Orleans, hay San Francisco như những lần trước để em đi theo ?
-Kỳ này là ở Toronto, Canada của chúng ta.
Tôi chợt nhớ ra:
-Khoan, để em xem lịch có trùng ngày Tết không nhe.
-Khỏi em ơi, anh đã xem rồi, đúng ngày mồng 2 Tết Ất Tỵ luôn đó . Nếu em vẫn muốn qua Mỹ ăn Tết với gia đình thì em cứ đi.
-Thôi, tụi mình đã ăn Tết bên đó nhiều lần rồi, từ California đến Texas. Vậy nên em ở nhà, sẽ nhận lời làm MC Hội Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Edmonton.
-Ủa, sao em biết họ sẽ mời em làm MC, em đã hết chức vụ trong Ban Quản Trị Hội Người Việt lâu rồi mà?
-Thì hồi tháng rồi, anh Hội Trưởng có nhắn em, nếu năm nay em không qua Mỹ ăn Tết thì giúp làm MC Hội Chợ Tết 2025 vì đây là dịp đặc biệt, là cột mốc kỷ niệm 50 năm tha hương, 50 mùa Xuân trên đất mới, 50 năm Quốc Hận!
-Ui chao, vậy là họ rà trúng “đài” của em rồi.
-Bởi mới nói, đó là …ý Chúa, chớ đâu phải tự dưng năm nay anh phải đi Conference tại Canada trúng mùa Tết để em khỏi có lý do bay qua Mỹ, và ở lại Canada làm MC ?
-Coi như Tết này dù không qua Mỹ sum họp đại gia đình nhưng anh và em vẫn vui vẻ bận rộn công việc riêng của mỗi người .
-Dù sao, gia đình chúng ta cũng mới gặp nhau trong đám cưới của con gái mình rồi, cuối năm 2025 lại gặp nhau tại Texas trong đám cưới đứa cháu nữa, hẹn cái Tết khác thôi. Xuân đến Xuân đi rồi Xuân lại đến mà, lo chi.
Vợ chồng tôi đã có những cái Tết sum vầy bên Mỹ rất đông vui, nhiều kỷ niệm . Ở Nam California, mà người Việt mình gọi tóm tắt là khu Little SaiGon, Phố Bolsa, khi Tết đến Xuân sang đã thu hút hàng ngàn du khách đồng hương từ các tiểu bang khác trong nước Mỹ ( và cả những đồng hương từ Canada, Châu Âu) tìm về vùng đất ấm áp để sống lại không khí Tết quê hương . Nơi đây, đúng là nơi “đất lành chim đậu”, với số lượng người Việt đông đảo nhất Bắc Mỹ, khí hậu lý tưởng, đã cho chúng ta cảm giác thân thương của mùa Xuân rạo rực .
Mỗi lần qua ăn Tết, chúng tôi đến trước vài tuần, vì thích niềm vui chộn rộn chuẩn bị sắm Tết, rồi đến ngày Tết là quay về Canada . Từ chợ đêm Phước Lộc Thọ, chợ Hoa Tết, Hội Chợ Tết, các chương trình Văn Nghệ, các khu thương mại chợ búa, khu văn phòng người Việt, đâu đâu cũng thấy “mùi của Tết”, “ hương vị Tết” , nhất là ở các Chùa, Nhà Thờ đêm giao thừa, nghe tiếng pháo nổ mà lòng xôn xao .
Vì là “đất lành chim đậu” nên tôi có rất nhiều bạn bè người quen ở vùng Nam California . Ngoài gia đình ông anh và họ hàng ruột thịt, là những bạn cũ từng ở chung trại tỵ nạn, là những bạn bè, đồng nghiệp xưa khi còn ở Việt Nam, là những người hàng xóm cũ thân thương . Hầu như mỗi lần tôi qua đó, đều không thể gặp gỡ được hết mọi người, mà phải chia bớt ra theo nhóm, hẹn Xuân sau .
Riêng ở Arlington, Texas, tôi có nhiều anh chị em và gia đình chú ruột cùng các em họ ở đây, nên chúng tôi ăn Tết Texas nhiều hơn Tết Cali .
Tôi vẫn nhớ cái Tết đầu tiên năm 1994 khi tôi mới định cư Canada liền bay qua Texas đón Tết với đại gia đình . Lúc ấy Arlington còn thưa thớt người Việt, còn hiện nay thì người Việt “sinh sôi nảy nở” cũng như từ các nơi khác về đây lập nghiệp, mỗi lần Tết rất đông đúc rộn ràng, với các Hội Xuân liên tiếp nhau tại các khu chợ lớn nhứt là HongKong, Asia Times Square và Bến Thành Plaza . Có năm, chúng tôi bay qua sớm, từ Arlington lái xe đến Houston, thưởng thức Kim Sơn Việt Nam buffet, ngắm phố Bellaire chuẩn bị Tết, các quán xá, tiệm giò chả bánh chưng nườm nượp người xếp hàng. Có thế mới thấy, người Việt chúng ta, dù xa quê hương, đang ở bất cứ nơi nào, cũng vẫn mang dòng máu Tiên Rồng, máu chảy về tim, mỗi mùa Xuân không thể quên văn hóa, cội nguồn dân tộc từ ngàn đời.
Năm nay, tôi sẽ làm MC Hội Chợ Tết Edmonton đúng dịp 50 năm tha hương của người Việt, bao nỗi buồn niềm vui biết nói sao hết cho vừa .
Canada thường có tuyết rơi và thời tiết lạnh căm khi Tết đến, vậy mà người ta vẫn đến chật kín hội trường hàng năm. Cô bạn bên San Jose có lần hỏi tôi:
-Trời, nghe nói trời lạnh từ âm mười cho đến âm vài chục độ C, nếu tuyết rơi nữa, thì làm sao mà mọi người vẫn diện áo dài đến Hội Chợ Tết ?
-Ở đâu quen đó bạn ơi! Có người vẫn mặc đồ mùa đông rồi đến Hội Chợ sẽ vào phòng vệ sinh thay áo dài, thay giày thay guốc, vẫn đẹp lộng lẫy.
Riêng tôi thuộc nhóm người…làm biếng, nên nhanh gọn hơn nhiều, tôi mặc sẵn áo dài từ nhà, nhưng hai ống quần dài sẽ được cột lại bằng dây thun, rồi mang đôi giày boots mùa đông, áo khoác dày mùa đông . Khi đến nơi, tôi chỉ việc tháo dây thun khỏi hai ống quần dài, thay đôi giày cao gót, thế là vẫn …thướt tha tà áo dài mùa Xuân .
Dù lạnh nhiều hay lạnh ít, mỗi mùa Hội Xuân đều có đông đủ người Việt và cả người ngoại quốc đến vui Xuân .
Sau phần Chào Cờ, đốt pháo, múa Lân, phần Văn Nghệ luôn được chờ đón với những bài nhạc Xuân vời vợi nhớ thương: Anh Cho Em Mùa Xuân, Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa, Xuân Ngày Con Không Về, Câu Chuyện Đầu Năm, Mùa Xuân Lá Khô, Tôi Chưa Có Mùa Xuân...
Các tiết mục múa của các em sinh viên học sinh với các bài hát dân ca ai cũng thuộc lòng như Qua Cầu Gió Bay, Trống Cơm, Lý Ngựa Ô luôn nhận được những tràng pháo tay không dứt của khán giả, dù trong nhóm múa có nhiều em nói Tiếng Việt chưa rành, chưa hiểu hết ý nghĩa bài hát, và những điệu múa còn vụng về, thô cứng, nhưng rất đáng yêu.
Đặc biệt là các em bé, từ tuổi chập chững mới biết đi, cho đến các trẻ con tuổi mẫu giáo, tiểu học trong những bộ áo dài truyền thống để dự thi “trình diễn áo dài dân tộc”. Rồi các em chạy nhảy, tham gia các gian hàng trò chơi, hồn nhiên vô tư trong ánh mắt tự hào hạnh phúc của cha mẹ ông bà, khi ngắm nhìn thế hệ con, cháu đang nối tiếp truyền thống văn hóa quê hương.
Tôi nói với chồng:
-Tính ra thời gian tụi mình sống trên quê hương thứ hai đã dài hơn nhiều so với thời gian đã từng sinh sống tại Việt Nam, nên những mùa Xuân nơi đây cũng đã trở nên quen thuộc . Hễ Tết đến là trời phải …lạnh, là phải ... có tuyết nhe, hổng có là em hổng chịu đâu á!
Chàng cười lớn, và phụ họa:
-Đồng ý! Đồng ý! Nay mai khi quê hương không còn Cộng Sản, chúng mình về quê ăn Tết, biết đâu lúc đó em lại…không quen, vì giữa nắng vàng Sài Gòn chiều Xuân em sẽ nhớ …tuyết trắng Canada.
Nói thì nói vậy, chớ tôi tin rằng, người Việt Nam chúng ta ở hải ngoại, từ nơi nắng ấm California, cho đến Texas, New York, Washington, qua Canada, Châu Âu, Châu Úc …dù hàng năm vẫn đón Xuân, vẫn ăn Tết, không thiếu món gì, nhưng từ tận đáy lòng, vẫn cảm thấy …thiếu một cái gì đó, có phải ?
Có một đêm giao thừa ở Texas, sau khi ăn uống với đại gia đình cũng gần khuya, mấy chị em tôi đi dạo quanh khu phố để tìm cảm hứng phút giao mùa năm xưa. Những con đường vắng tênh, những ngôi nhà đóng cửa im lìm, tắt đèn tối thui, có thấy “Tết nhứt” gì đâu! Bà chị chép miệng:
-Thì Tết là của cộng đồng Việt Nam và Tàu thôi mà. Dân Mễ dân Mỹ còn đang say sưa giấc nồng để ngày mai còn đi làm sớm. Có ai quan tâm đêm nay là “giao thừa”!!
Thế đấy! Đó là cái “thiếu”, bởi chúng ta đâu chỉ “ăn Tết” bằng bánh chưng bánh tét, bằng mứt dừa mứt sen, bằng hoa mai hoa đào, mà chúng ta cũng cần “ăn” cái hồn Tết, cái hồn quê thắm đượm trong không gian đất trời, nhà cửa, phố xá, con người xung quanh... mà chỉ có nơi quê Cha đất Mẹ mới có được.
Dù chỉ được hưởng 9 cái Tết thời Việt Nam Cộng Hòa, nhưng trong ký ức của tôi vẫn còn in dấu hình ảnh mùa Xuân bình an hạnh phúc trong thời chiến .
Là những ngày Tết nắng rực vàng, tôi hớn hở mặc bộ quần áo mới toanh, sáng mồng Một dậy sớm, đứng khép nép nơi bàn Ba tôi đang uống trà ăn mứt với khách, đợi tiền lì xì, rồi sung sướng chạy xuống bếp tìm món thịt đông và chè kho của má, có khi còn giành nhau với các anh chị em trong nhà cái đùi gà còn nóng hổi, miếng xôi còn lại trong chõ xôi khi chờ khói nhang tàn trên bàn thờ ông bà tổ tiên. Chiều tối, êm đềm gia đình quây quần, nơi phòng khách chiếc tivi đang vang lên bài ca Xuân bất hủ của Phạm Đình Chương đầy hy vọng tin yêu:
“ Chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành, mừng người vì nước quên thân mình ...”
Giờ đây, ba má tôi đã không còn nữa, các anh chị em trong gia đình mỗi người một mái gia đình riêng, mùa Xuân tuổi thơ đã là dĩ vãng .
Chiều nay, đứng nơi cửa sổ sau nhà, ngắm nhìn bầu trời trắng xóa tuyết rơi, tôi ngẩn ngơ tìm đôi cánh én báo tin Xuân, và thả hồn lãng đãng, theo trái tim mộng mơ về những mùa Xuân đầm ấm trên quê hương, một thuở xa lắm :
MÙA XUÂN TUỔI THƠ
Tôi đã có một thời tuổi nhỏ
Đếm từng ngày khao khát đợi mùa Xuân
Tờ lịch trên tường dường như chậm quá
Sao chẳng rơi như chiếc lá ngoài sân?
Tôi thích ngắm mỗi lần trời nổi gió
Cây soan trước nhà lá rụng lan man
Để ao ước thời gian đi nhanh nữa
(Chưa biết buồn theo chiếc lá thời gian!)
Là mỗi độ Xuân về tôi vẫn biết
Lá sẽ khô theo cơn gió cuối năm
Chợ sẽ vui những sắc màu ngày Tết
Người rộn ràng mua sắm, phố thêm đông
Rồi mẹ sẽ may cho tôi áo mới
Nồi bánh chưng như cổ tích ngày xưa
Tôi hớn hở nhận đồng tiền mừng tuổi
Thảnh thơi ăn kẹo mứt, cắn hạt dưa
Tôi đã ước mình đừng bao giờ lớn
Để suốt đời tôi được đếm thời gian
Được tung tăng chạy vui đùa trong xóm
Với bạn bè khi thấy gió Xuân sang
Để tôi mãi có ông bà, cha mẹ
Anh chị em sum vầy, chẳng rời xa
Bên mâm cỗ, mùi khói nhang ngào ngạt
Đêm giao thừa nao nức chờ pháo hoa
Bao năm qua, bây giờ tôi đã lớn
Giấc mộng trẻ thơ như quả bóng bay
Những cái Tết không đợi chờ vẫn đến
(Tôi vô tình khi mộng khỏi tầm tay!)
Nhưng xóm nhỏ của tôi vẫn còn đó
Tôi đã đi phiêu bạt mấy phương trời
Lá vẫn rơi, lại có bao đứa trẻ
Ước ao và chờ đợi Tết như tôi??
Edmonton, Xuân Ất Tỵ 2025
KIM LOAN