



MỘT NGÀY VUI
Xứ Canada này có bốn mùa rõ rệt, mùa nào ra mùa đó không lẫn vào đâu được . Mới hôm nào tuyết trắng xóa lạnh căm, rồi qua mùa tuyết tan là những cơn mưa xuân trong vắt, mát rượi cả đất trời, và nay đang là mùa hè nóng, nắng vàng tươi khắp các nẻo đường .
Tôi biết một bà cụ người da trắng nơi tôi làm ở Nhà Già, khi tôi mới đi California thăm gia đình về, bà bảo:
- Tôi có căn nhà bên San Francisco mấy chục năm nay, thỉnh thoảng chúng tôi bay qua bển chơi có chỗ nghỉ ngơi .
Tôi liền nhanh nhẩu:
- Vậy sao bà không dọn qua đó, ở đây chi cho lạnh lẽo...
Không chờ tôi nói hết câu, bà đáp ngay một tràng, đại khái là:
- Không! Trăm lần không, vạn lần không! Tôi là người Canadian chánh gốc, tôi yêu đất nước có bốn mùa đẹp đẽ này, nhất là Mùa Giáng Sinh huyền hoặc lung linh, rồi mùa Hè đủ nóng để mọi người chăm sóc vườn tược, cây trái, dã ngoại, ra ngoài ăn uống shopping, hòa mình với thiên nhiên .
Hôm nay cũng là một ngày hè như thế đó .
Nhà tôi, hàng năm có hai lần “clearance” tổng vệ sinh, một lần đầu hè và lần cuối mùa thu . Từ tuần trước, tôi đã để sẵn các bao, ra lệnh với chồng con trong nhà, dọn dẹp áo quần giày dép, cái nào hư cũ thì cho vào bao rác, cái nào còn dùng được thì cho vào bao cho Goodwill . Kể từ khi con gái đi lấy chồng ở riêng, thì người giựt giải “có nhiều đồ clearance” nhứt chính là tôi chớ còn ai trồng khoai đất này . Ông xã từng nói với tôi:
- Hai cái closets trong master bedroom, em đã xài một cái, rồi xài luôn cả closet của phòng con gái sau khi nó lấy chồng, chưa kể cái closet phụ nằm ở phòng đọc sách chỉ dành riêng cho những bộ áo dài và áo khoác của em, vậy mà em vẫn thấy chưa đủ, vẫn đi shopping vác đồ về, để rồi tới mùa dọn dẹp lại cho vào bao Goodwill.
Chàng nói đúng quá nên tôi chỉ biết giả lả cho qua, dù có “biết bao lần em đã hứa”, để rồi “hứa cho nhiều rồi lại thôi”, y như Vũ Thành An viết bài này dành riêng cho tôi và các chị em phụ nữ đi mua sắm không có lập trường vững chắc. Có khi, chỉ cần tìm một cái áo, nhưng đến tiệm lại không thấy áo mình muốn mua, mà lại có... quần đang sale, thế là ôm cái quần về rồi tính sau. Cứ thế, nhất là những lúc đi theo bạn bè cho vui, chẳng có ý định mua gì, nhưng lại gặp lúc “on sale”, thôi cứ mua để đấy, riết rồi closets chật cứng, có lúc cho vào bao Goodwill những món áo quần chưa mặc tới, tôi cũng áy náy tội lỗi lắm, vì lúc mua thấy cũng được, mà đem về nhà thử lại thì không ưng.
Ở thành phố này, các cửa tiệm Goodwill thường có các nhân viên bán hàng “đặc biệt”. Họ là những người ăn welfare, được chính phủ giới thiệu họ vào đây, vì muốn họ vẫn phải đi làm kiếm chút tiền, rồi welfare cho phần còn lại, đủ chi phí cho sinh hoạt tối thiểu. Hoặc đó là những người từ các trung tâm cải tạo những người nghiện thuốc, nghiện rượu, họ phải đi làm những giờ “lao động công ích” cho xã hội ... Bởi vậy, tôi lại tự tha thứ cho cái tội mua sắm tùm lum của mình, an ủi rằng, thích thì cứ mua, rẻ thì cứ khuân về, mặc vài lần rồi sau này đem cho Goodwill, cũng là làm ... charity, giúp cho người khác có việc làm, đôi bên cùng có lợi, chẳng hề lãng phí chút nào.
Nấu cơm xong xuôi mọi việc, tôi vác các bao đồ cũ ra xe, thẳng tiến đến tiệm Goodwill cách nhà gần chục blocks đường . Như thường lệ, khi tôi vừa lui xe vào cửa sau của tiệm, bước ra mở trunk xe, có một phụ nữ trung niên, là manager của tiệm chạy ra phụ tôi khiêng các bao đồ vào nhà kho. Sau lời cám ơn, cô ấy đưa tôi tấm vé:
- Gửi cô ticket cho Bake Sale Event cuối tuần này nhé.
- Ủa, Bake Sale nhân dịp gì vậy cô?
- Oh, mấy neighbourhood quanh đây kết hợp với Sở Cảnh Sát và Sở Cứu Hỏa trong vùng, tổ chức Bake Sale để gây quỹ giải bóng đá mùa hè cho đám trẻ con trong các xóm, cô nhớ ghé ủng hộ, tại sân trường St.Catherine trưa Chủ Nhật. Ticket này 50% off dành cho những người tặng đồ cho cửa tiệm Goodwill của chúng tôi.
- Ôi! Đã tham dự thì cần gì 50% off nữa chớ, nhưng tiếc quá cuối tuần này gia đình rôi đi thăm con gái ở Calgary, thôi cô để vé này cho người khác giùm tôi, hẹn dịp khác tôi sẽ có mặt.
Vừa goodbye cô manager tiệm Goodwill, tôi nhìn thấy khu shopping bên kia đường, có tấm bảng thật lớn của tiệm The Bay: “Clearance Closing Sale- 60-80% Off – Everything Must Go!”
Trời ơi, đã là sự thật rồi ư ? Hồi tháng trước, hai vợ chồng tôi xem tivi, tin tức cho biết, tình hình kinh tế khó khăn, nhất là sự cạnh tranh của shopping online, nên nhiều công ty bán lẻ có uy tín lâu đời tại Canada, trong đó có Hudson’s Bay đang trong nguy cơ dẹp tiệm nếu không được chính phủ giải cứu. Lúc ấy, tôi vẫn hy vọng có phép màu để The Bay tiếp tục, vì nơi đó, là kỷ niệm, là nơi shopping mà tôi yêu thích.
Nhớ khi vừa đặt chân đến Canada từ trại tỵ nạn Thailand, cái thuở đi học ăn trợ cấp chính phủ, còn nghèo, tôi và mấy người bạn, sau giờ học thường lang thang vào The Bay để ngắm nghía đồ đạc . Khu mỹ phẩm nước hoa thơm tho một mùi nhẹ nhàng cao sang, đến giờ tôi vẫn không quên mùi hương ban đầu ấy. Khu bán đồ nội thất, khu bán đồ gia dụng nhà bếp, rồi khu giày dép áo quần, nữ trang. Khu nào cũng đẹp, cũng cho chúng tôi niềm vui sáng ngời trên xứ tự do dù chỉ là “window shopping”.
Sau này khi lập gia đình, đi làm, bớt... nghèo, thì The Bay là nơi chúng tôi thường xuyên vào mua sắm, mấy chục năm trôi qua, nơi này là một phần không thể thiếu trong ký ức của các thành viên gia đình. Mới hôm nọ trong bữa cơm sum vầy, cả nhà ai cũng nhắc đến The Bay với nỗi lòng luyến lưu, vậy mà hôm nay, giờ đây, đang chuẩn bị đóng cửa vĩnh viễn, buồn làm sao .
Tôi bèn bước qua đường, vào khu shopping của The Bay. Người ra vào nhộn nhịp, khu nào cũng đông người lựa đồ, nhất là khu quần áo. Cả một rừng áo quần tràn ngập, các bảng giá thiệt bự, big sale lần cuối .
Tôi biết, sau vài lần gần đây mang nhiều đồ đến Goodwill, tôi đã tự hứa với lòng mình, kể từ nay, tôi chẳng còn thiếu thốn gì cả, vả lại, bắt đầu “có tuổi” người ta dần dà buông bỏ những thói quen, những đam mê lãng phí tiền bạc và thời gian, sống đơn giản nhẹ nhàng, nên tôi đã đề ra quy ước, chỉ đi shopping mua sắm khi thực sự cần thiết và khi giá cả món đồ cũng như chất liệu vải vóc, kiểu dáng, màu sắc... mọi thứ phải ưng ý từ 80% trở lên thì mới mua, còn nếu lơ lửng phân vân thì sẽ là “No!”
Nhớ quy ước đó, tôi mạnh dạn tiến đến khu áo quần, cơ man hàng trăm hàng nghìn món, hì hục chọn lựa qua vòng “sơ khảo”, tôi ôm khoảng hơn chục món vào khu thử đồ để tiếp tục vòng “chung khảo” .
Vào phòng thử, lúc này tôi mới chậm rãi mặc từng cái, quay qua quay lại trước gương kỹ lưỡng vài lần, cuối cùng còn 3 món vào “chung kết”, đó là một chiếc áo khoác, một quần jeans, và cái áo đầm satin, tổng cộng là $110, quá rẻ, quá hờ .
Tôi khựng lại, nhắc mình xem lại quy ước của chính mình một lần nữa trước khi quyết định. Trước tiên là có cần thiết không ? Dĩ nhiên là không, bởi vì hôm nay tôi chỉ tính đi cho đồ Goodwill rồi đi về nhà, không hề có nhu cầu mua sắm. Tiếp theo, các món này có đủ tiêu chuẩn hài lòng 80% không? Tôi ngắm nghía từng món, cái áo khoác kiểu này, tôi có hai cái đang nằm trong closet, quần jeans ư, tôi còn đủ để mặc vài năm nữa, lúc ấy mua thêm cũng chưa muộn, áo đầm satin hả, cũng đẹp nhưng màu hơi tối tăm, họa tiết khá rối mắt, tôi cho điểm chung ba món này đúng 80% không hơn không kém, nghĩa là tôi có quyền... mua (như trong quy ước).
Tôi lại bỗng ngập ngừng, bấy lâu nay tôi chỉ hứa chớ chưa làm, hôm nay tôi phải... can đảm thực hiện lời hứa để ông xã không còn dịp than thở bằng câu hát “biết bao lần em đã hứa ...”. Tôi hít một hơi thật sâu và dài, rồi như có một sức mạnh nào đó khiến tôi mang tất cả đống quần áo ra ngoài trả lại cho nhân viên phòng thử đồ. Cô ấy nhìn tôi tiếc nuối:
- Chả lẽ không có cái nào vừa ý cô sao? Cái áo đầm satin này giá bình thường là $149 đấy, mặc đi tiệc là đẹp lắm.
Cứ tưởng thoát nạn nhưng lại gặp “cám dỗ” nữa rồi! Tôi nể lời cô nhân viên, và cũng có phần tiếc rẻ, cầm chiếc áo đầm, nhìn kỹ lại lần nữa, và may sao, lý trí vẫn còn tỉnh thức, tôi mỉm cười, đưa lại chiếc áo cho cô ấy:
- Tôi đã có chiếc áo satin khác ở nhà, cũng còn tương đối mới, cảm ơn cô!
Tôi vội vàng bước nhanh ra khỏi cửa tiệm, khi ra hẳn ngoài đường, tôi thở phào nhẹ nhõm, và cảm thấy vui khi đã tiết kiệm được $110 cho ngân sách gia đình .
Lúc này tôi mới cảm thấy khát mà chai nước suối để quên trong xe. Kế bên bãi đậu xe gần tiệm Goodwill là tiệm bán nước giải khát và bánh ngọt, tôi quyết định tự thưởng cho mình một thức uống nào đó, coi như món quà dành cho tôi đã “chiến thắng chính mình” trước cơn cám dỗ của shopping .
Rồi tôi cũng bước vào xe với ly cafe sữa đá và cái bánh waffle trong tay, với giá $10, phơi phới lái xe trong nắng hè nồng nàn.
Tính ra, hôm nay tôi vẫn còn save được $100, tôi nôn nóng về nhà để khoe với chồng “thành tích” này.
Quả là một ngày vui!
Edmonton, tháng6/2025
KIM LOAN
_______________
Khi đàn ông phạm tội
Hồi tôi học lớp bảy, trường có phong trào làm báo tường mừng Xuân. Vì lớp không có ban Báo Chí nên tên lớp trưởng kiêm hết mọi chuyện, kêu gọi, gom bài. Hắn gặp tôi tại sân trường cuối giờ hôm đó:– Bà ráng viết một vài bài cho báo tường lớp mình nha! Tôi cũng hơi chảnh:– Để tui suy nghĩ rồi trả lời ông sau. – Suy nghĩ gì nữa! Mà nè, bà phải gọi tui là anh mới đúng, vì tui hơn bà một tuổi. Tôi trề môi dài cả thước: – Còn lâu! Học chung lớp, ai cũng như nhau. – Nhưng tên của tui là Nguyễn Anh Nuôi, bà nhớ chưa?
Sự thực mà nói, hắn ta hiền khô, hay cười trừ mỗi khi có chuyện bế tắc, nhưng tại vì cái lý lịch “dân tập kết”, nói giọng nửa nam nửa bắc, đôi khi làm tôi khó chịu, không muốn kết thân. Lúc ấy “giải phóng” đã bốn năm rồi, tôi đã qua cái thuở thơ ngây chưa biết gì về thời cuộc, nhất là vừa mới chứng kiến ông anh thứ tư của tôi đậu đại học vẫn phải đi “nghĩa vụ quân sự”, rồi đào ngũ trốn chui trốn nhủi, sau đó may mắn vượt biển qua được Songkla, Thailand. Trường tôi vì gần khu quân sự nên thời điểm đó đón nhận một mớ học sinh là con của các gia đình cán bộ tập kết, hoặc từ bên kia vỹ tuyến tràn vào, mà nghe cái tên thôi cũng đoán được lý lịch của từng đứa. Lớp kế bên có hai anh em sinh đôi Nguyễn Văn Thống Nhất, Nguyễn Văn Hữu Nghị (hãi chưa?) Rồi còn có Phạm Trường Sơn, Trần Nam Tiến, rồi Vũ Huân Chương (chắc ba nó là Vũ Bằng Khen quá!), thậm chí có cả Đoàn Tiệp Khắc, Võ Việt Xô nữa cơ (thật là hùng tráng tình quốc tế anh em). Tuy nhiên, trong cả đám học sinh miền ngoài đó, chỉ còn lại tên Anh Nuôi lớp trưởng khá hiền lành nên tôi còn “giao lưu”, nói chuyện.
Nói gì thì nói, viết văn là sở thích của tôi từ thuở bé. Tôi còn nhớ, lúc ấy báo chí chưa có nhiều, chỉ có vài tờ nhật báo, trong đó có tờ Sài Gòn Giải Phóng. Mỗi thứ ba hằng tuần, tờ báo có trang dành cho thiếu nhi, giới trẻ. Tôi và một đứa bạn cũng mày mò, viết bài, bỏ vào phong bì, ra đầu xóm mua con tem, ghi địa chỉ toà soạn, rồi mang ra bưu điện gửi, và sau đó thấp thỏm đợi chờ. Nên chuyện báo tường chỉ là chuyện nhỏ, tôi viết một mạch về mái trường, về lớp học, về bạn bè thầy cô, trong vài ngày là xong. Tôi hào hứng đưa tên lớp trưởng hai đoản văn tản mạn. Hắn nhận xong, hỏi tôi:
– Bà nè, tui mới về trường năm nay, nên chưa rành vụ báo tường, bà nói sơ sơ cho tui nghe coi.
– Thì tìm mua một tấm giấy cứng màu trắng, khổ rộng, rồi để tất cả các bài trên đó, trang trí cho đẹp vào.
– Vậy thì đâu có bao nhiêu bài?
– Ngáo ạ! Mỗi mục có thể có vài bài là các trang giấy chồng lên nhau, như những tờ lịch xé vậy đó, người xem chỉ việc lật lên lật xuống.
– Mà cần những mục gì?
– Thôi ông hỏi nhiều quá, lên văn phòng mà hỏi thầy Hiệu Phó. Tóm lại, các mục tiêu biểu là Thơ, Văn, Tạp Bút, Truyện Cười, Lượm Lặt Đó Đây, Dưới Mái Trường, tuỳ mình chế ra mục nào mình thích nữa.
Gần tới ngày treo báo cho toàn trường ngắm thì hắn tuyên bố lớp 7A1 của chúng tôi sẽ không có báo, vì không kịp thời gian.
Hắn khai thật với tôi:
– Thiệt tình là tui đã cố gắng, đã họp với mấy tên biết vẽ trong lớp mình, nhưng cuối cùng chẳng ra đâu vào đâu. Hơn nữa, đến giờ phút này chỉ mới nhận được… hai bài của bà thôi à, làm sao ra nổi tờ báo??
Hắn nói vậy thì tôi nghe vậy, hơi thất vọng chút xíu, chớ biết sao bây giờ, vì thời hạn đã cận kề, chỉ có trời mới giúp được. Đến ngày khai mạc báo tường, tôi hớn hở cùng bạn bè đi xem các tờ báo lớp khác. Bỗng tôi thấy hai bài của mình trên báo tường lớp sáu và tác giả ghi bên dưới là Nguyễn Anh Thư, chính là em gái thằng lớp trưởng. Tôi giận run người, nổi cơn điên, đến phòng hiệu trưởng mách thầy giáo phụ trách Báo Chí và chạy đi gặp hắn, để sỉ vả một trận. Sân trường giờ ra chơi biết tìm hắn nơi đâu? Chạy ra sân banh thì thấy hắn đang co giò chuẩn bị một cú sút phạt đền vào lưới đối phương. Nhìn thấy tôi tiến tới với bộ mặt trời gầm, đất lở, hắn làm liền cú sút bóng, nhưng trái bóng bay thẳng qua xà ngang, lọt ra ngoài hàng rào sân trường. Hắn đỏ mặt, chạy về phía tôi, là tôi trút ngay cơn giận vào hắn:
– Nè ông! Tại sao hai bài của tôi có mặt trên báo tường lớp 6A1 dưới tên của em gái ông?
Hắn nhễ nhại mồ hôi, vẫn bình tĩnh gãi đầu, và cười trừ:
– Tui không biết! Chắc là nó lấy trộm trên bàn học của tui.
– Nói vậy tưởng tui tin sao?
– Thiệt đó! Tui không biết, thôi bà đừng giận nữa.
Không để hắn nói hết câu, tôi gằn giọng:
– Kể từ ngày hôm nay, à mà không, kể từ giây phút này, ông nhớ tránh xa tui ít nhất là ba mét nhé, nếu không thì đừng trách tui hung dữ!
Nói xong cho hả cơn giận, tôi đùng đùng bỏ đi, mặc kệ hắn đứng như trời trồng giữa sân banh nắng gắt.
Đó là chuyện của xa lắc xa lơ, còn tiếp theo là chuyện mới đây, khi ở bên Canada xứ lạnh tình nồng. Những năm trước, khi còn là thành viên của Ban Quản Trị Hội Người Việt Edmonton, tôi phụ anh Hội Trưởng, kiêm trưởng ban Báo Xuân xem xét các bài vở trước khi layout. Bữa đó, có một bài thơ được gửi từ Saskatoon, nhưng đó lại chính là bài thơ của tôi đã từng đăng trên Báo Xuân Hội Người Việt những năm trước đó. Giờ bài thơ được sửa lại vài chữ ở vài câu, và đề tên tác giả mới. Sau khi tìm hiểu, được biết tác giả là một chú “có tuổi”, cũng có hoạt động cộng đồng ở vùng Saskatoon, tôi bàn bạc với anh Hội Trưởng, rồi bắt đầu gửi email: “ Cám ơn chú đã sửa lại bài thơ của cháu hay hơn, nhưng rất tiếc là chúng cháu không thể đăng bài thơ này nữa vì nó đã được đăng cách đây vài năm”.
Tưởng đọc email xong thì chú ấy im lặng cho xong, ai ngờ chú ấy email lại, phủ nhận:
“Ồ, vậy là chúng ta tư tưởng lớn gặp nhau. Riêng bài thơ này tôi đã làm từ chục năm trước rồi cơ!” (Ngầm ý là chú ấy mới chính là tác giả).
Không muốn đôi co với người lớn tuổi, tôi lại bàn bạc với anh Hội Trưởng, và gửi tiếp email: “Dạ, cháu biết tư tưởng giống nhau trong văn chương là chuyện bình thường. Tuy nhiên, Ban Biên Tập vẫn quyết định không đăng (lại) bài thơ này! Mong chú thông cảm”.
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ hồi đó trong xóm tôi, có chị kia đi đánh ghen chồng ngoại tình. Chị đến tận nhà tình địch, gõ cửa, và y như rằng, có chồng chị ở trỏng. Vậy mà chồng chị giải thích anh ta đến đó để… trả nợ tiền làm ăn cho cô kia. (Còn tại sao “trả nợ” phải vào phòng đóng cửa thì không thấy nói). Chị hàng xóm của tôi thuộc loại lạt lòng, nên bỏ qua, không làm lớn chuyện, vợ chồng vẫn vui vẻ như chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng chị có tuyên bố một câu: “Đờn ông hả? Khi họ sai lầm, phạm tội, bằng chứng rành rành, nhưng việc đầu tiên là họ vẫn luôn luôn chối”.
So sánh với hai “sự cố” của tôi, cũng thấy… quen quen! Bây giờ nhớ lại, tôi không còn nổi cơn sừng sộ như cô bé tuổi 13 hoặc bực bội của tuổi “chớm… sồn sồn” như xưa nữa. Ngược lại còn thấy vui, vì nhờ vậy tôi mới có bài viết này và có những kỷ niệm vui để mỗi khi đến Ngày Phụ Nữ mà kể tội... đàn ông.
Kim Loan
_______________

Yêu người, yêu phượng, yêu mùa hè
Buổi học cuối cùng, sầu tiếng ve
Sân trường nắng đỏ màu lưu luyến
Nặng trĩu bước chân em đi về
Ngẩn ngơ Thầy đứng trên bục giảng
Bàn ghế im lìm nhớ dáng ai
Từ nay sẽ không còn thấy nữa
Suối tóc dịu dàng, đôi mắt nai …
Cổng trường khép lại, em bâng khuâng
Ngàn lời muốn nói bỗng ngại ngần
Rộn rã những giờ Thầy lên lớp
Đâu ngờ ngày vui trôi qua nhanh
Bóng em xa khuất cuối con đường
Hành lang lớp học, Thầy vấn vương
Vì cô bé có chiếc răng khểnh
Áo trắng ngây thơ buổi tan trường
Ép đôi cánh phượng vào lưu bút
Nâng niu kỷ niệm một mùa hè
(Em viết tên Thầy vào trang cuối
Với một bài thơ …dẫu vụng về)
Bên bài giáo án, Thầy thao thức
Ngọn đèn khuya, điếu thuốc trên môi
Dòng nhật ký em ghi dang dở
Nhìn ánh sao đêm nhớ một người
Thế là ngày mai ta xa nhau
Mùa Hạ cuối cùng, hai trái tim đau!!!
KIM LOAN
Những Ánh Mắt Trẻ Thơ
- Vào bài :
Khi ba vừa bước chân vào nhà
Tưởng các con vui khi gặp ba
Nhưng trong ánh mắt con, ba hiểu
Ba chỉ là một bóng hình xa...
Cũng phải ba năm anh mới trở lại thành phố này, nơi anh đã từng ở và có rất nhiều kỷ niệm, hơn thế nữa, có hai đứa con anh đang sống. Cuộc sống mới bận rộn đã ràng buộc anh, với khoảng cách đường dài mười tiếng lái xe và anh nghĩ các con đã đầy đủ với số tiền cấp dưỡng hàng tháng nên chuyện thăm nom chúng không là điều bắt buộc. Dù đã dứt lòng khi ra đi nhưng khi lái xe về những con đường cũ, khu phố cũ, anh không khỏi cảm thấy man mác buồn.
Cho đến khi xe dừng trước cửa nhà thì anh lại thêm nỗi bối rối, không biết sẽ thế nào khi đối diện với người vợ cũ và hai đứa con. Người vợ mà trước kia anh đã dễ dàng buông ra những lời lạnh lùng nhất, tàn nhẫn nhất, để được chia tay, đi theo tiếng gọi của một tình yêu mới mà anh say đắm. Anh ngồi trong xe thật lâu để ngắm lại ngôi nhà, chẳng có gì thay đổi, có chăng là trong ngôi nhà này đã thay đổi, đã thiếu một người. Anh hồi hộp bấm chuông cửa, vài phút im lặng trôi qua, bây giờ là buổi chiều, anh tin là mọi người đang ở trong nhà, anh phải bấm chuông thêm hai lần thì cánh cửa mới từ từ hé mở ra, đó là thằng cu Tí, con trai lớn của anh.
Thấy ba, thằng bé vừa mừng vừa ngạc nhiên:
- Ba về hả, con nhìn qua lỗ cửa thấy ba nhưng con không tin.
Anh xoa đầu nó:
- Ba đây mà. Tại sao con lại không tin? Ba có khác đâu.
Đôi mắt thằng bé cụp xuống, vẻ vui mừng lúc nãy biến mất:
- Con nghĩ là ba không muốn về đây nữa. Ngày ba đi mẹ đã khóc nhiều lắm.
Anh hình dung ra người vợ tội nghiệp, lát nữa gặp anh, cô ta có khóc và mắng chửi anh bao nhiêu, anh cũng chấp nhận hết cho vơi bớt day dứt bấy lâu.
Anh giục con:
- Mở cửa cho ba vào nhà. Hôm nay ba về thăm hai con.
Cu Tí mở rộng cánh cửa, bước vào nhà anh khựng lại nhìn thằng cu Tí, trẻ con mau lớn quá, mới ba năm, giá mà năm năm, mười năm thì chắc anh sẽ không nhận ra con của mình nữa.
Anh quàng tay ôm vai con, âu yếm hỏi:
- Mẹ con đâu?
- Mẹ đi làm rồi.
Thì ra cô ấy đã đi làm dù hai con còn nhỏ không có ai bên cạnh trông nom đỡ đần. Ba năm nay người vợ cũ đã trừng phạt anh bằng cách không hề liên lạc với anh, cô đổi số điện thoại, không trả lời những thư từ anh gởi tới bằng đường bưu điện nên anh không biết gì về cuộc sống của họ, mặc dù hàng tháng tiền trả child support vẫn trừ trực tiếp vào lương của anh đều đặn.
Anh chợt nhớ ra:
- Thế em đâu rồi? Em Tina đâu rồi?
- Nó đang ngủ.
- Để ba vào phòng thăm nó nhé.
Thằng bé gạt đi:
- Thôi ba, nó mà thức dậy thấy người lạ nó khóc đấy.
“Người lạ”, thằng cu Tí bình thản nói như một điều đương nhiên. Anh lẩm bẩm lập lại hai chữ “người lạ”, chợt thấy chạnh lòng, mà cũng phải, khi anh ra đi bé Tina mới mấy tháng tuổi nó có biết gì về anh đâu.
Hai cha con ngồi đối diện nhau, cu Tí đã 12 tuổi rồi, trông chững chạc hẳn ra, không biết vì anh đã xa nó một khoảng thời gian, một khoảng cách cuộc đời hay vì nó đã lớn khôn theo hoàn cảnh? Những đứa trẻ trong gia đình ly dị bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn những đứa trẻ trong gia đình bình thường.
Anh hỏi han con về chuyện học hành trường lớp, cu Tí trả lời đầy đủ. Khi anh hỏi con có nhớ ba không thì nó trả lời ngây thơ:
- Lúc ba mới đi thì nhớ, con khóc nhiều lần lắm và ngày nào cũng chờ mong ba về, nhưng bây giờ hết rồi.
Và nó hỏi lại:
- Thế ba có nhớ con và em Tina không?
- Ba nhớ thương các con chứ.
- Sao ba không về thăm? Ba bỏ đi lâu thế?
Anh lúng túng:
- Tại ba…bận rộn quá.
- Mẹ nói ba ở nhà khác với vợ con khác của ba!
Anh nhìn con, trong đôi mắt thằng cu Tí vẫn vô tư, nói về ba nó mà như nói về một người nào xa lạ, Cu Tí không hề làm quan tòa kết tội anh, nhưng câu nói của nó đã gieo vào lòng anh như ngàn lời oán trách.
Bỗng có tiếng điện thoại reo, chắc đã là thông lệ nên cu Tí nói:
- Mẹ gọi đấy.
Nó ra dấu cho anh im lặng để nó nói chuyện phone. Anh lắng nghe cuộc đối thoại giữa hai mẹ con, mà chủ yếu là từ những câu trả lời của cu Tí, nó kể với mẹ là Tina đang ngủ, mẹ nó dặn khi nào em thức dậy thì cho em uống thuốc ho rồi mới cho ăn cơm, rồi sau đó tắm cho em. Câu cuối cùng là cu Tí luôn miệng vâng dạ, con nhớ lời mẹ dặn mà, con sẽ không bao giờ mở cửa cho người lạ đâu, mẹ cứ yên tâm.
Cúp phone xong cu Tí mỉm cười nheo mắt nhìn anh, coi như nó vừa làm một sự chiếu cố đặc biệt cho anh, đã phá lệ, để người lạ vào khi không có mẹ ở nhà. Nó đã không coi anh như một thành viên trong ngôi nhà này nữa.
Chỉ trong vài phút ngắn ngủi trò truyện giữa hai mẹ con, anh đã hình dung ra cuộc sống hiện nay của họ. Buổi sáng cô ở nhà lo cho con và buổi chiều đi học về cu Tí phải gánh vác nốt những việc còn lại, thiếu một người cha, thằng bé đã phải làm những công việc của người lớn.
Cu Tí kể:
- Ngày nào lúc break time ở hãng mẹ cũng gọi để xem nhà có chuyện gì không, và mẹ nhắc nhở con đủ thứ việc nhà.
Anh cảm động khen con:
- Cu Tí ngoan và giỏi quá.
Anh đi lại khắp nhà, vẫn những đồ đạc cũ khi anh còn ở đây, kể cả những đồ dùng lặt vặt, người vợ cũ vẫn tiết kiệm như trước hoặc cô không có khả năng mua sắm cái mới.
Căn nhà này vợ chồng anh khi mới cưới nhau đã mua trả góp, đã là căn nhà hạnh phúc, căn nhà ước mơ của hai vợ chồng. Sinh thằng cu Tí xong, vợ anh đi làm tiếp để mau trả nợ nhà, khi cu Tí gần 9 tuổi món nợ nhà vơi bớt, vợ mới mang bầu Tina đứa con thứ hai, cô đâu ngờ rằng thời gian này anh đang có người yêu và sắp sửa lìa bỏ gia đình.
Căn nhà anh đã sống 9 năm trời nên anh dễ dàng nhận thấy vài thay đổi hư hỏng, những vết tường loang, cái mành cửa sổ xộc xệch, vài cái nẹp cửa phòng ngủ vênh ra, vòi nước trong phòng tắm đang chảy nhỏ giọt hững hờ như đang oán trách người chủ cũ đã vắng mặt lâu ngày.
Anh ra nhà kho sau vườn lấy búa đinh vào đóng lại nẹp cửa và sửa vòi nước, điều đơn giản dễ làm ấy nhưng với mẹ con cô cũng là điều không thể làm được. Khi mang hộp đồ nghề trả lại nhà kho, anh dạo quanh khu vườn. Cây đào, cây lê ngày nào còn bé nhỏ, vợ chồng anh hí hửng mua về, đã mong cây mau lớn để có bóng mát cho các con chơi. Nay cây đã lớn, đã có bóng mát, nhưng hai đứa con anh đã bao giờ vui thích chơi đùa dưới bóng mát ấy chưa?
Anh không dám nghĩ tiếp, bước vào nhà, những hình ảnh quá khứ bỗng đổ ập vào tâm tư anh, đây là phòng ăn, nhà bếp, cô ấy đã từng đứng nấu nướng, dọn ra những bữa ăn cho chồng con, kia là phòng ngủ, đã từng có những lúc mặn nồng hạnh phúc vợ chồng. Nhưng anh đã không yêu cô nữa, có một tình yêu khác làm anh mê đắm, anh đã đi theo tiếng gọi của con tim, dù khi anh đề nghị ly dị, vợ anh đã phản đối, đã khóc hết nước mắt, xin anh nghĩ lại vì các con, đừng làm tổn thương những tâm hồn vô tội.
Bé Tina đã thức dậy, từ trong phòng ngủ đi ra, thấy anh, Tina vội túm lấy áo cu Tí tìm chỗ nương tựa chở che và nhìn anh bằng ánh mắt nghi ngờ, xa lạ. Tina đã hơn 3 tuổi, nếu gặp ngoài đường anh không nhận ra con, anh thấy mình tệ bạc quá khi bây giờ mới đến thăm con lần đầu kể từ khi ly dị.
Anh đến bên Tina giơ tay định bế nó, nhưng cu Tí nói ra vẻ hiểu biết đầy kinh nghiệm:
- Ba đụng vào người nó, nó sẽ khóc đấy.
Rồi cu Tí quay ra dỗ dành em:
- Đây là ba, ngày xưa ba cũng ở chung nhà với chúng ta mà. Cho ba bế Tina nhé?
Con bé vẫn chưa tin cậy, nó càng dựa vào người cu Tí và bám chặt lấy cu Tí hơn. Anh đành chịu thua, ngồi nhìn hai đứa con, ít nhiều ngày xưa anh đã từng bồng bế Tina, từng nâng niu nó, đó là máu thịt của anh, nhưng giờ đây chẳng khác gì người xa lạ. Khi ly dị vợ, xa con, anh không thể hình dung ra tình huống này.
Cu Tí để mặc anh ngồi thừ ra ở ghế, nó đi lo cho em, lấy chai thuốc ho như lời mẹ dặn. Anh không nỡ nhìn thằng bé loay hoay mở hộp thuốc, anh giúp nó bơm thuốc vào ống để cu Tí mang ra cho Tina uống, xong nó dắt em vào bếp lấy cơm để ra bàn cho con bé tự ăn một mình, cu Tí dịu dàng với em:
- Ăn cẩn thận, đừng làm đổ ra bàn, ăn xong anh cho ăn kẹo.
Tina ngoan ngoãn gật đầu và rón rén múc từng muỗng cơm ăn ngon lành. Tất cả diễn ra trước mắt anh như một vở bi kịch, vở bi kịch do chính anh gây ra và hai đứa con anh là nhân vật chính.
Từ lúc nào hai mắt anh cay xè mờ lệ. Cuộc sống hiện nay anh đang có bên vợ mới, con mới, chắc gì đã được như anh ước mơ, vậy mà anh đã đánh đổi bằng sự vất vả và thiếu thốn tình cảm của hai đứa bé này. Một ngày nào đó khi chúng lớn lên, chúng sẽ hiểu vì đâu.
Anh bỗng rùng mình và đau đớn, anh cứ ngồi nhìn hai con và không biết phải làm gì, nỗi đau như chôn chặt anh trong lòng ghế.
Một lúc lâu cu Tí dè dặt hỏi:
- Ba đợi mẹ về không?
Anh lắc đầu, hình như nếu anh thốt ra lời thì nước mắt cũng ra theo.
- Vậy ba về đi, chút nữa con còn tắm cho Tina và học bài nữa, con bận lắm.
Anh rút ra một xấp tiền đưa cho cu Tí, nó nắm chặt lấy món tiền, chắc nó nghĩ những đồng tiền cần thiết cho mẹ và sẽ làm mẹ vui. Nhìn cử chỉ và nét mặt vui mừng của thằng bé, anh có thể đoán ra mẹ con họ đã sống trong cảnh chắt chiu từng đồng. Căn nhà anh hào phóng để lại cho vợ con nhưng cô ấy vẫn phải tiếp tục trả góp thêm vài năm nữa.
Anh ôm chặt lấy cu Tí, trong đời anh, chưa bao giờ có một cảm xúc thương yêu con dạt dào như bây giờ. Bé Tina vẫn đứng xa, nhất định không cho anh đụng tới.
- Ba đi nhé, con hãy ngoan, chăm học. Ba sẽ về thăm các con thường xuyên.
Anh đến đây, dự định sẽ gặp lại vợ cũ, sẽ nói lời xin lỗi và vui chơi cùng hai con. Bây giờ anh hiểu rằng, có nói trăm ngàn lần lời xin lỗi và dù vợ anh có tha thứ, chấp nhận hiện tại đường ai nấy đi, nhưng những cái nhìn của hai con, ánh mắt buồn vui bất chợt và dửng dưng của cu Tí, ánh mắt xa lạ và dè dặt của bé Tina, sẽ theo ám ảnh anh không biết đến bao giờ.
Cánh cửa mà cu Tí vừa khép lại sau lưng anh, lại gieo vào lòng anh cả sự lạnh lùng và oán trách. Cánh cửa đã phân chia ranh giới, như hai kẻ xa lạ mỗi người một lối đi và cuộc sống khác nhau.
Anh lái xe rời khỏi thành phố như một kẻ chạy trốn.
Edmonton, Fathers Day 2024
Kim Loan

CÁC CON LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Con gái tôi, Amanda là một trường hợp có năng khiếu Tiếng Việt từ lúc còn bé xíu. Khi chưa đi học, ở nhà nói và nghe Tiếng Việt là chuyện đương nhiên, nhưng “nàng” biết cảm nhận ngôn ngữ nhạy bén. Hồi “nàng” 4-5 tuổi, vì còn biếng ăn nên vẫn bú sữa bình, hôm ấy “nàng” đang nằm vắt chân chữ ngũ trên sàn nhà, bú sữa, tôi có chuyện gì đó bực mình, nên lỡ miệng la mắng “nàng” và gọi là “mày” . Thế là “nàng” giận, quăng bình sữa vào góc nhà, rồi đứng giậm chân khóc lóc:
- Mẹ không được gọi con là “mày”, mẹ phải gọi con là “con”.
Tôi liền hờn mát, cao giọng:
- Ừ, thì “con”!
Nhưng “nàng” khóc to hơn:
- Không! Mẹ phải nói “con” nhẹ nhàng dịu dàng, không được lớn tiếng.
Lần này, tôi bật cười và ôm “nàng” xin lỗi.
Rồi “nàng” lớn lên, chín mười tuổi nghe nhạc Việt cùng ba cùng mẹ, biết hát ngon lành ngọt xớt nguyên cả bài hát“ hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi/ chim vẫn hót trong vườn nhà tôi.” (tác giả Thanh Tùng), rồi “mai tôi đi chắc trời giăng mưa lũ/ mưa thì mưa chắc tôi không bước vội ..” (tác giả Nguyên Sa/Song Ngọc), và vài bài hát khác dù “nàng” đã đi học, tiếp xúc với ngôn ngữ và âm nhạc Phương Tây .
Có lần tôi gọi “nàng”:
- Đà ơi, Đà ơi
“Nàng” liền phụng phịu:
- Tên con là Amanda đẹp vậy, mẹ cứ gọi “Đà Đà” nghe xấu hoắc, y như bác Hai gọi chị Elly là “Lì”, gọi chị Tiffany là “Nì”, kỳ cục quá!
- Ủa ủa, mẹ gọi con bao năm nay con có nói gì đâu, sao bây giờ phản đối? Mà nè, trước khi chọn tên Amanda cho con, mẹ tính chọn tên Jennifer đấy, giờ còn muốn “Đà” hay muốn “Phờ”?
- Thì bây giờ con lớn rồi, con không muốn “Đà”, càng không muốn “Phờ”! Hay mẹ gọi con là Đào, Hồng Đào, giống như cô Hồng Đào diễn hài trên chương trình Thúy Nga, con thích tên đó.
Ui chu choa ơi, có lẽ “nàng” là cô bé duy nhất, hoặc là cô bé đầu tiên, ở hải ngoại tự đặt tên Việt cho mình, và từ đó đến nay đi đâu gặp người Việt “nàng” cũng giới thiệu:
- Dạ, tên con là Amanda Hồng Đào.
Vào tuổi niên thiếu từ cấp hai đến cấp ba, tôi cho Amanda tham gia sinh hoạt nơi Hội Người Việt, vào nhóm múa, từng làm MC tiếng Việt cho Hội Tết Trung Thu, và hát Quốc Ca Canada-Việt Nam trong một lần Hội Chợ Tết Cộng Đồng .
Đến Nhà Thờ , Amanda vào nhóm tình nguyện dạy Giáo Lý cho các em bé bằng cả Tiếng Việt và Tiếng Anh, cũng như ghi danh vào nhóm đọc sách Thánh bằng Tiếng Việt (Lời Chúa Cựu Ước) trong những dịp Lễ lớn.
Đến nay, khi tôi viết những dòng chữ này thì nàng đã lớn, bước vào tuổi 28 (nên tôi bỏ ngoặc kép ra khỏi chữ nàng). Nàng đang là Head Nurse trong một Children Hospital. Nhờ biết hai thứ tiếng (Việt và English) nên hễ trong bệnh viện có những trường hợp cần thông dịch là nàng được gọi đến giúp đỡ. (Cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt nhờ khả năng bilingual của nàng, tôi đã viết trong các chuyện “Biết Rồi Khổ Lắm ...” và “Đầu Năm Nhiều Chuyện”).
Nàng mới vừa lấy chồng gần một năm nay, chồng nàng mang dòng máu Tàu và Tây, nhưng nàng vẫn cho chồng nghe một số bài nhạc Việt mà nàng yêu thích, rồi giải nghĩa từng câu hát cho chồng hiểu, có gì khó hơn thì nàng hỏi tôi:
- Mẹ ơi, “người từ trăm năm/ về khơi tình động/ người từ trăm năm/ về như dao nhọn/ dao vết ngọt đâm/ ta chết trầm ngâm” ...là sao hả mẹ?
Tôi cố vận dụng hết hiểu biết để giảng cả bài hát cho nàng, dù rằng khi Nguyễn Tất Nhiên làm bài thơ này rồi được Phạm Duy phổ nhạc “Thà Như Giọt Mưa” thì tôi còn là cô bé để tóc muỗm dừa, cởi trần tắm mưa ngoài đường.
Nhưng bài đó cũng chưa làm khó tôi như bài này:
- Mẹ ơi, “Lệ rưng rưng trên mắt người hôm qua,/Có bóng em lung linh quanh phím ngà/Em xa ta mà vóc dáng kiêu sa/Ta cúi đầu đi về mộ đời ta...” nói sao cho chồng con hiểu đây, ảnh thích điệu hòa âm nhạc này và giọng Quốc Khanh hay quá .
- Ừa, từ từ để mẹ nghĩ xem ...
Tiếc là nhạc sĩ Anh Bằng không còn chớ nếu còn, tôi cũng dám email tác giả hỏi nhờ giúp, như đã từng email nhạc sĩ Phạm Duy chỉ vì tôi và một anh trong ban Báo Chí Giáo Xứ từng tranh luận. Tôi nói rằng “tóc mai sợi vắn sợi dài/ lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm” là từ ca dao Việt Nam, còn anh ấy là “fan cứng” của Phạm Duy cứ nhất quyết đó là câu thơ của Phạm Duy trong bài hát “Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài”, và kết quả Phạm Duy trả lời là tôi đúng! (thuở đó Google chưa thịnh hành).
Nàng vẫn thích hỏi về Tiếng Việt, y như ngày xưa nàng có nhiều điệp khúc, mẹ ơi, tại sao là “chợ búa”, tại sao là “gà qué”, tại sao “buồn cười”, mẹ ơi, mẹ ơi và mẹ ơi ...
Còn tục ngữ, ca dao, dân ca... là cả một kho tàng, nhưng để giảng giải cho sự hay thắc mắc của nàng cũng là một vấn đề, cũng may lúc này đã có bá Google nên mọi chuyện dễ dàng hơn nhiều.
Vậy đó, hai mẹ con tôi "học hỏi lẫn nhau". Tôi dạy nàng hiểu sâu sắc hơn Tiếng Việt, nàng cũng giúp tôi chỉnh sửa trong chuyện nói, viết Tiếng Anh, và cả âm nhạc. Hồi nàng còn học Đại Học, mỗi sáng tôi lái xe đưa nàng ra bến xe điện ngầm để đến trường, lúc bài Hello của Adele đang nổi đình đám, nàng mở cho tôi nghe trên xe, hát theo, giải nghĩa những từ tôi chưa nghe kịp, riết tôi thuộc và yêu bài này hồi nào hổng hay. Hiện nay, mấy bài thịnh hành của Taylor Swift nàng cũng ngân nga, tiếc là nàng đã ở riêng với chồng, chớ không thì tôi cũng có thêm vài bài cho hợp phong trào với đám trẻ.
Mới đây trong bữa ăn sum họp cuối năm, tôi phải giải thích từng từ từng chữ cho nàng và thằng rể của tôi, một bài vui trên Facebook, đại khái rằng, tiếng Anh đơn giản nói về chữ “chết” là “die”, hoặc “pass away”, trong khi tiếng Việt mình thì ...bao la, đếm mệt nghỉ! Này nhé: chết- mất- ngỏm củ tỏi- đi bán muối-chầu Diêm Vương- gặp ông bà ông vải- chán sống- thích ngắm gà khỏa thân- muốn ăn chuối cả nải- về cõi Niết Bàn- tiêu diêu miền cực lạc- được Chúa gọi về- ở nơi Suối Vàng –nghỉ ngơi nơi chín suối... Nàng và thằng rể cười thả ga, khen tiếng Việt mình độc đáo, phong phú, tuyệt vời!
Thành quả Tiếng Việt của nhiều trẻ Việt thế hệ thứ 3 tại hải ngoại, là một quá trình thấm nhuần Tiếng Việt từ khi mới ra đời, trong chiếc nôi ông bà cha mẹ họ hàng cùng dạy dỗ con cháu không quên tiếng nói cội nguồn, là những buổi học tại các trường Việt Ngữ khắp nơi của các Hội Người Việt, Chùa, Nhà Thờ Công Giáo, Hội Thánh Tin Lành .v.v..
Tôi cũng từng là cô giáo Việt Ngữ tại Hội Người Việt Edmonton một thời gian. Năm đầu tiên, tôi dạy lớp Một, có một cô gái trẻ dẫn đứa con gái lai chừng 7-8 tuổi đến ghi danh. Xong xuôi, cô ấy giới thiệu người chồng da trắng đứng bên cạnh:
- Chị ơi, cho em ghi danh ông xã em, Joshua vào học lớp Một cùng với con gái em luôn nha!
Tôi cười cười, vì nghĩ cô ấy nói đùa, nhưng cô ấy rất nghiêm túc:
- Em nói thiệt đó chị, vì hàng năm tụi em đều dzìa quê Tiền Giang thăm gia đình em, nên ảnh muốn học Tiếng Việt để còn nghe bên vợ nói chuyện. Vả lại, ảnh là người đưa con đến đây học, rồi ảnh vào học luôn, học xong ảnh lái đưa con về, khỏi mất công đón đưa.
Thế là lớp tôi có một “học sinh đặc biệt”. Chàng Canada này dễ thương lắm, giờ ra chơi, chàng thực tập Tiếng Việt với mấy “bạn” cùng lớp, nhiều phen cười bể bụng .
Mùa chuẩn bị Tết đến, lớp nào cũng chỉ học tiết đầu, sau giờ ra chơi là tập Văn Nghệ để trình diễn tại Hội Chợ Tết, vui hết biết. Bên đây tôi mở nhạc Trống Cơm tập cho lớp mình, bên kia là bài múa Nắng Xuân, dưới lầu thì tập kịch, Áo Dài show, còn mấy em không trong nhóm múa thì gom lại ... hợp ca Xuân Đã Về, cả trường chộn rộn, chàng “học trò” Canada ngồi xem chúng tôi tập dượt đầy thích thú, rồi chạy qua tiệm Bakery đầu đường mua bánh bồi dưỡng cho mọi người.
Sau gần chục năm (dạy lớp Viêt Ngữ và trong Ban Chấp Hành của Hội), gia đình tôi dọn về phía Bắc, xa trung tâm nên tôi không còn tham gia sinh hoạt với Hội Người Việt. Thỉnh thoảng đi chợ, hoặc đi đâu đó, gặp lại các em học trò cũ. Thực tình mà nói, ngoài những đứa vẫn nói Tiếng Việt khá rành rẽ, cũng có đứa nói lõm bõm, có đứa quên hẳn Tiếng Việt, trả hết cho Thầy Cô, nhưng vẫn cúi đầu chào Cô rất lễ phép, rồi cười ngượng nghịu khi tôi yêu cầu em phải trả lời cô bằng Tiếng Việt.
Có khi tôi nhận lời làm MC Hội Chợ Tết, lại được nhìn các em học sinh trường Việt Ngữ trong các tiết mục ca múa, lòng tôi lại bồi hồi nhớ về những kỷ niệm của một thời đã qua, cùng với Ban Giám Hiệu và các Thầy Cô khác, với một tâm huyết giữ gìn Tiếng Việt cho các thế hệ sau này, để các em sẽ như bài hát của Phạm Duy: “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi tiếng ru muôn đời ...”
Viết về đề tài dạy Tiếng Việt là rà trúng “đài”... “bệnh nghề nghiệp” ngày xưa, tôi có thể viết nhiều hơn nữa, nhưng xin được tạm dừng nơi đây để viết bài Thơ, dành tặng cho tất cả các Thầy Cô và các học trò Việt Ngữ ở khắp nơi hải ngoại:
CÁC EM LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Cô dạy các em học tiếng Việt Nam
Để các em nhớ cội nguồn dân tộc
Một đất nước rất xa nơi em sống
Bên bờ Thái Bình có tự ngàn năm
Em sẽ hiểu được bao nỗi nhọc nhằn
Những xương máu hy sinh bao thế hệ
Dân tộc Việt Nam mấy lần dâu bể
Khao khát cuộc đời hạnh phúc tự do
Học tiếng Việt Nam để biết quê Cha
Để tha thiết muốn hiểu về đất Mẹ
Em sẽ nghe câu ca dao thuở nhỏ
Cha mẹ ông bà đã thấm lời ru
Dù em có hiểu ý nghĩa hay chưa
Sự học hỏi vẫn là điều đáng quý
Các em là bầy chim non xa xứ
Nước Việt Nam em chỉ biết bằng lời
Các em sẽ có nhiều giấc mộng đời
Ở một nước văn minh và giàu đẹp
Lớp Việt Ngữ là nơi cô đã gặp
Những tâm hồn như giấy trắng thơ ngây
Cô và trò cùng tập đọc, vui vầy
Tiếng mẹ đẻ mà sao nghe ngọng nghịu
Có em nói tiếng Việt không ai hiểu
Dẫu vụng về, cố gắng, thương làm sao
Cũng có em nói tiếng Việt ngọt ngào
Như tiếng sáo líu lo và rành rẽ
Tự hào thay, những học trò bé nhỏ
Tiếng Việt trên môi thắm đượm tình quê
Cô và trò, trong lớp học, mộng mơ
Lũy tre xanh, cánh diều, đồng lúa chín
Kìa dòng sông trôi, con thuyền ghé bến
Đêm trăng thanh nghe gió hát êm đềm
Và những câu chuyện cổ tích, thần tiên
Lịch sử, địa lý dải đất hình chữ S
Học đi em, tiếng Việt mình rất đẹp
Để mai này xây dựng lại non sông
“Tiếng Việt còn, nước Việt còn”, em biết không?
Dù chúng ta xa quê hương vạn dặm
Cô hạnh phúc vì các em vẫn nhớ
Các em mãi là giòng giống Việt Nam
Edmonton, Tháng 3/2025
KIM LOAN
_____________

MẸ XIN LỖI
Sau mấy ngày đi chơi thăm các thắng cảnh nổi tiếng ở thành phố, ăn fast food và các món ăn Ý, Pháp, Mexico…hôm nay ba mẹ con quyết định tìm nhà hàng Việt Nam vì thèm bữa cơm có canh chua, cá kho tộ, rau muống xào tỏi. Từ nơi khách sạn, Quỳnh cùng hai con đi bộ gần 3 blocks đường đến một nhà hàng Việt Nam rộng lớn và nổi tiếng với các món ăn đậm đà hương vị ẩm thực Việt.
Ba mẹ con vừa đói vừa mệt nên hào hứng ăn ngon lành, hết sạch, chuẩn bị món tráng miệng và sau đó chương trình là sẽ đi dạo bờ biển đón gió đêm.
Trong lúc hai con xúm lại xem lại các hình chụp trên iphone, Quỳnh cũng rảnh rang đưa mắt ngắm nghía xung quanh tiệm thì bất chợt như có linh tính mách bảo, nàng nhận ra có một bóng dáng rất quen thuộc đang đi ngang phía trước hồ cá trong tiệm, cùng với vài người nữa, đang tìm vào ngồi ở chiếc bàn phía bên hông cửa nhà hàng, đối diện xéo với bàn của nàng. Tim Quỳnh đập loạn xạ, hơi thở dồn dập nhưng nàng cũng lấy lại bình tĩnh, với tay lấy bình trà nóng, cố làm mọi sự bình thường để các con không nhận ra sự thay đổi bất chợt trên khuôn mặt và ánh mắt của nàng. Cũng may, nhờ cái hồ cá che khuất, mà phía bên kia không thể nào nhìn thấy Quỳnh, mà Quỳnh vẫn có thể đưa mắt quan sát rất rõ và đầy đủ những người của bàn bên kia.
Đâu có ai xa lạ, bởi đó chính là chồng cũ của Quỳnh. Cùng bàn còn có một phụ nữ trẻ, một bé trai khoảng 3 tuổi, và một bà cụ có dáng dấp quê mùa như nhiều người Việt lớn tuổi mới từ quê nhà sang Mỹ định cư, và khuôn mặt bà phúc hậu hiền hoà. Đó chính là vợ con mới của anh ấy, Quỳnh thầm nghĩ, và bà cụ kia chính là mẹ của anh ấy, mà trước đây trên danh nghĩa là mẹ chồng của Quỳnh, dù nàng chỉ được nhìn qua hình ảnh chứ chưa bao giờ gặp mặt hoặc chung sống một ngày nào. Bởi cũng chính vì bà mẹ chồng này, đã từng là nguyên nhân để cho Quỳnh, một người con gái đẹp, được chồng cưng chiều nâng niu, quá tự tin vào sắc đẹp của mình, rồi tự cao, làm gia đình tan vỡ.
Cách đây gần chục năm, Quỳnh đang có một mái ấm thật hoàn hảo và hạnh phúc. Chồng nàng là một kỹ sư giỏi giang, làm việc hợp đồng cho một hãng máy bay lớn. Cưới nhau xong, Quỳnh sinh liền hai con, ở nhà làm công việc nội trợ và chăm sóc con nhỏ. Cuộc sống không thiếu thốn thứ gì, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh, anh càng yêu chiều nàng nhiều hơn lúc quen nhau, và Quỳnh cũng mãn nguyện với cuộc sống của gia đình bé nhỏ của mình.
Rồi một ngày, anh thông báo với nàng:
-Em ạ, giấy tờ bảo lãnh mẹ sang đây đang tiến triển tốt đẹp. Mẹ đã có ngày phỏng vấn, vậy hôm nào mình đi sắm sửa vài món chuẩn bị cho căn phòng của mẹ ở nhà mình nhé.
Quỳnh hơi bất ngờ, dù việc bảo lãnh nàng đã biết từ lâu, nhưng anh ấy còn một bà chị lớn ở cách đây 4 tiếng lái xe, thì mẹ anh nên ở với gia đình bà chị là hợp lý hơn chứ.
Quỳnh thắc mắc và anh đã giải đáp:
- Anh là con trai út và là con trai duy nhất của gia đình, nên anh muốn phụng dưỡng mẹ để đền bù những năm tháng mẹ đã vất vả từ khi ba anh mất sớm, mẹ đã ở vậy lo cho các con khôn lớn, hơn nữa, vợ chồng chị Hai còn bận rộn coi sóc tiệm Phở, nên không thể chăm sóc mẹ tốt như chúng mình.
Quỳnh vẫn không chấp nhận có một người khác xen vào mái ấm riêng của nàng, dù đó là mẹ của anh ấy. Cứ nghĩ đến việc một bà già quê vùng biển miền Trung Việt Nam, sẽ vào ở nhà nàng, xáo trộn mọi sinh hoạt riêng tư của hai vợ chồng, con cái, nhất là sự khác biệt của người mới chân ướt chân ráo qua đây, từ cách suy nghĩ, lối sống và quan điểm sống khác nhau, Quỳnh cảm thấy rất ngột ngạt, khó chịu.
Và còn một lý do khác, Quỳnh chỉ muốn chồng dành sự yêu thương cho nàng và hai đứa con nhỏ, nàng không muốn chia sẻ niếm ưu ái đó cho bất kỳ ai khác. Quỳnh bèn ra tối hậu thư, bà mẹ chồng phải ở với gia đình người chị, nếu không thì nàng sẽ mang hai con ra ngoài, sống nơi khác. Quỳnh tự tin vào nhan sắc của mình, (thuở đó, anh đã phải vất vả nhiều công sức và thời gian để chinh phục trái tim nàng), và nàng còn có một “vũ khí” quan trọng khác, đó là hai đứa con bé nhỏ mới ba bốn tuổi đầu, còn ngây thơ xinh xắn đáng yêu, sẽ là mối dây mạnh mẽ ràng buộc anh với gia đình, để anh phải chấp nhận yêu cầu của nàng.
Anh đã buồn rầu suốt mấy tuần lễ, vẫn cố gắng nài nỉ và thuyết phục nàng, hãy nghĩ đến tình mẫu tử của anh và mẹ, tình vợ chồng, cũng như tình cha con của anh với hai đứa con thơ, anh không muốn xa những người yêu thương của đời anh. Quỳnh vẫn cương quyết giữ lập trường của mình, bắt đầu chiến tranh lạnh, và cuối cùng anh vẫn nhẹ nhàng cầu xin:
- Chỉ còn hai tháng nữa là mẹ qua rồi, anh mong em hãy suy nghĩ lại và thay đổi ý định đó, vì anh vẫn muốn mẹ ở chung với chúng ta, anh cầu xin em đấy Quỳnh ơi.
Quỳnh gần như nổi giận, vì anh đã chọn mẹ, mà không chọn vợ con, và trong niềm kiêu hãnh, giận hờn, tự ái, Quỳnh đã mang hai đứa con ra khỏi nhà hai tuần trước ngày mẹ anh đến Mỹ. Suốt hai tuần đó, Quỳnh đợi chờ, nhưng anh không hề gọi phone thăm hỏi, xin được gặp con hoặc gặp Quỳnh như nàng đã tưởng tượng. Nàng biết anh không thể sống xa con vài ngày, đôi lúc phải đi công tác xa nhà, anh đã gọi phone hàng ngày để được nghe giọng nói các con, để được nghe nàng kể chuyện. Quỳnh biết anh rất giận, nhưng không lẽ tình yêu vợ con của anh không đủ lớn để anh liên lạc, xin lỗi và tìm cách đưa trở về nhà hay sao?
Rồi suốt một vài tháng sau đó, nghĩa là mẹ của anh đã qua đến Mỹ đoàn tụ, anh vẫn im lặng, trong khi Quỳnh vẫn tự tin nghĩ rằng mẹ anh, tức bà nội của các con, cũng phải có ý muốn gặp cháu mình, nhưng sự chờ đợi của Quỳnh càng vô vọng, khiến nàng càng tức tối, nhất là khi nghe một người quen nói lại, chính anh là người không cho mẹ anh gặp nàng và hai con.
Chuyện gì đến phải đến, Quỳnh vẫn là người háo thắng, (như đã từng nhiều lần trong những cuộc cãi vã giận hờn giữa hai vợ chồng, anh luôn là người xin lỗi), giờ đây, nàng cũng như thế, không muốn là người thua cuộc, nàng mang con đi tiểu bang khác, gửi đơn ly dị chồng, cắt đứt mọi liên lạc mặc dù toà xử cho anh có quyền thăm con, tiền cấp dưỡng vẫn trừ vào tiền lương hàng tháng của anh, chuyển thẳng vào tài khoản ngân hàng của nàng. Thời gian đầu, thỉnh thoảng anh có phone muốn nói chuyện với con, nhưng nàng cố tình không trả lời phone, hoặc kiếm cớ khi thì con bận học, khi thì chúng đang ngủ, nói chung là muôn vàn lý do khiến anh nản lòng. Nàng đã trừng phạt anh như thế, muốn thấy anh đau khổ dằn vặt khi xa con, và nàng thoả mãn với hành động của mình.
Thời gian trôi qua, xoa dịu mọi nỗi đau. Nàng cũng có việc làm, các con cũng lớn dần, nhưng vẫn có nỗi buồn u ám bao quanh ngôi nhà thiếu vắng đàn ông. Nàng chưa sẵn sàng mở lòng cho tình yêu khác vì còn phải lo cho cho con, chúng vẫn còn nhỏ, và còn nhiều lúc chúng nó vẫn chợt hỏi nàng, rằng chúng con rất nhớ bố, sao lâu quá bố không về thăm.
Niềm kiêu hãnh trong nàng đã bắt đầu tàn lụi, khi nàng cảm nhận mình có lỗi với các con, và nàng biết mình còn yêu anh, nhưng mọi việc đã đi quá xa. Có lẽ anh đã hận nàng nhiều lắm nên lâu dần anh không muốn gặp lại nàng và cả hai con như một sự trả đũa, tim nàng se thắt đớn đau, nhưng khi chợt tỉnh lại thì đã quá muộn màng.
Hồi tưởng lại những việc đã xảy ra trong quá khứ, những giọt nước mắt như muốn trào ra nhưng Quỳnh đã kịp ngăn lại, để hai con tiếp tục vô tư ăn uống, trong khi nàng vẫn nhìn qua bàn bên kia qua sát.
Anh ấy vẫn như xưa, đôi mắt chiều chuộng nồng ấm ngày nào giờ đang chăm chú nhìn người vợ mới đang mớm thức ăn cho đứa con trai bé bỏng. Đứa bé cố nhai những sợi bún và bị sặc, anh vội vàng với lấy tấm khăn giấy đỡ vào miệng con trong khi mẹ anh âu yếm dỗ dành thằng bé, bế nó lên ngồi vào lòng bà rồi đưa ra món đồ chơi cho nó cầm. Anh gắp thức ăn cho vợ, cô ấy nhìn anh dịu dàng, hai người nói cười thật hạnh phúc.
Sau khi hoàn tất thủ tục ly hôn được vài năm, Quỳnh có nghe tin anh cưới vợ từ dạo đó, nhưng nàng không ngờ hôm nay được tận mắt nhìn thấy gia đình của anh, chắc hẳn là anh đưa họ đến thành phố biển này để du lịch nghỉ ngơi. Con người đó từng là chồng của nàng, hai người đã có những năm tháng yêu đương mặn nồng, anh đã từng yêu thương chiều chuộng nàng biết bao. Anh ấy đã từng ngắm các con nàng ăn uống trong niềm hãnh diện sung sướng dạt dào của một người bố. Bà mẹ chồng kia lẽ ra là của nàng, là của các con nàng để chúng nũng nịu vòi vĩnh, quấy phá…Tất cả sẽ vẫn là của gia đình bé nhỏ của nàng, nhưng vì niềm tự cao ích kỷ, nỗi bốc đồng tự ái nhất thời mà nàng đã làm cho các con mất đi một mái gia đình.
Bàn bên kia vẫn ăn uống vui vẻ. Anh đứng lên ẵm ru thằng bé, chắc nó đang mệt nên gục đầu trên vai bố, ngủ ngon lành. Mẹ và vợ anh thảnh thơi tiếp tục ăn uống và nói chuyện thân mật.
Quỳnh không thể chứng kiến cảnh hạnh phúc đầm ấm ấy thêm một phút giây nào nữa, nàng gọi hai con đi ra ngoài xe ngồi chờ, nàng ra quầy tính tiền thật mau, rồi bước ra khỏi tiệm, nhưng không vào xe với các các con mà đi vòng ra phía góc bãi đậu xe, nơi có những tàn cây vắng vẻ . Nàng dừng lại, để nước mắt thật sự tự do trào ra khóe mắt, rồi không kìm được cảm xúc, nàng dựa vào một thân cây, ôm mặt khóc òa như đứa trẻ, rồi nấc lên từng cơn, nàng khẽ gọi tên các con:
- Các con ơi, mẹ xin lỗi, mẹ ngàn lần xin lỗi ....!!
Mother's Day 2025
KIM LOAN

GỬI NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ
Sao anh lại đến quê hương tôi
Từ nửa vòng trái đất xa xôi?
Biết đâu cuộc chiến tàn khốc quá
Lý tưởng hay là mộng mơ thôi!
Những lá thư anh gửi về nhà
New York, Utah, Alabama…
Có cả niềm vui và nỗi sợ
Cô đơn đêm vắng giữa rừng già
Mẹ Cha thương nhớ biết bao lần
Trông ngóng từng ngày mong tin anh
Bản đồ Việt Nam treo bên cửa
Dõi theo từng bước chân hành quân
Những địa danh xa, bỗng thật gần:
Quảng Trị, Hạ Lào hay Khe Sanh
Bên này anh vào sinh ra tử
Bên kia dâng Chúa những lời kinh
Noel về, người lính xôn xao
Nhớ người thân, phố xá hôm nào
Bên hố bom côn trùng thao thức
Mơ tuyết rơi, kỷ niệm ngọt ngào
Ôi những chàng trai tuổi đôi mươi
Tâm hồn phơi phới mùa xuân tươi
Vâng lệnh Tổ Quốc đi chiến đấu
Gìn giữ tự do cho muôn nơi
Để rồi anh đến với Miền Nam
Dẫu không cùng máu đỏ da vàng
Để mến thương nơi này tha thiết
Mưa nắng hai mùa, nhớ mênh mang
Và đến một ngày tàn chiến chinh
Về với gia đình anh bình yên
Cũng có khi niềm vui không trọn
Vì anh đã là người thương binh
Hoặc anh trở về lòng đất Mẹ
Cờ phủ quan tài trời tang thương
Quốc kỳ Mỹ vinh danh lính Mỹ
Cái giá tự do. Cuộc chiến buồn.
Nghĩa trang Quốc Gia anh yên nghỉ
Những ngôi mộ lặng im, thẳng hàng
VietNam War đã là quá khứ
Cám ơn anh, dẫu biết muộn màng.
Tháng Tư Đen, 2025
KIM LOAN
________________
CÂY TRỨNG CÁ TRONG TRẠI “CẢI TẠO”
Chuyến đi thăm chồng “cải tạo” đầu tiên, bà chị Cả cho tôi đi theo, dù tôi lúc ấy mới 9-10 tuổi.
Lý do chính, là vì trại ở Thành Ông Năm, chỉ cần một chuyến xe đò từ nhà tôi ở Hạnh Thông Tây, đến chợ Hóc Môn rồi lấy một chuyến xe lam đến thẳng nơi trại “cải tạo”. Hơn nữa, lúc ấy má tôi mới mất, ba vẫn còn bị giam giữ “cải tạo”, chị mới sanh đứa con thứ hai được vài tháng, nên chỉ mang theo thằng con lớn 5 tuổi đi thăm bố, thêm ông anh Tư đi theo để phụ hợ chị xách đồ đạc, còn tôi thì có nhiệm vụ đi… chơi chung thằng cháu 5 tuổi cho nó đỡ quấy má nó trên đường đi thăm nuôi.
Chiếc xe lam thả chúng tôi xuống ngay gần cổng Thành Ông Năm, nơi đây đã có nhiều người đến trước, và lai rai đến sau đó, cũng là thân nhân của “tù cải tạo”. Dù không quen biết, nhưng cùng hoàn cảnh, nên mọi người mau chóng trở nên thân thiện, hỏi han nhau đủ điều. Chị tôi nhận ra người đồng hương Gò Vấp, chỉ cách nhau con đường song song, nhà tôi trên đường Phan Văn Trị, còn nhà cô ấy bên đường Quang Trung, ngay cư xá sĩ quan Phan Chu Trinh (cũ). Cô ấy tên Thảo, dắt theo hai đứa con trai, đứa lớn tên Tuấn, bằng tuổi tôi, đứa nhỏ là Tú, cỡ 3-4 tuổi, được bà ngoại ẵm. Hai gia đình bỗng gần nhau hơn, cho nhau địa chỉ để sau này dễ dàng liên lạc, thăm nhau khi cần thiết.
Đến giữa trưa, một quản giáo bước ra, cầm tờ danh sách, điểm danh đầy đủ thân nhân có mặt, chúng tôi được đi vào cổng trại, rẽ phải ngay khu nhà chờ. Người lớn nôn nao hồi hộp, còn lũ trẻ chúng tôi bắt đầu quanh quẩn nơi khu vực chờ đợi, có cây trứng cá thiệt lớn, xum xuê lá và những chùm trái nhỏ xíu đỏ mọng. Một số người lớn tuổi tìm chỗ ngồi nơi vài chiếc ghế dài được kê rải rác xung quanh.
Giây phút trùng phùng cũng đến, một đoàn tù nhân “cải tạo” rảo bước từ xa, các bà các cô nhốn nháo ngóng tìm người thân, nhưng chẳng ai nhận ra ai vì tất cả họ đều mặc áo quần xập xệ, màu xám tối đen, những mái tóc húi cua, những khuôn mặt hốc hác đen đúa . Có một số phụ nữ bật khóc, nhưng nhìn thấy hai quản giáo đứng kế bên liền lau vội những giọt nước mắt vừa trào ra khoé mi. Tôi cũng trong đám người ngơ ngác, xúc động, dù chẳng nhìn ra anh rể mình là người nào trong đám đông đang bước về khu nhà chờ. Ngày anh lấy chị, tôi mới lên 3 tuổi, anh rể chiều em vợ, thường bồng bế tôi, chở tôi đi chơi trên chiếc xe Honda 67 của anh, anh để tôi ngồi phía trước nơi bình xăng và chở tôi đi đó đây trong xóm tới bao giờ tôi chán thì thôi.
Mọi người được lùa vào nhà chờ, các tù nhân “cải tạo” ngồi một bên bên chiếc bàn dài, thân nhân ngồi bên đối diện, trong phòng các quản giáo đứng cầm súng canh gác, nghe tất cả những câu chuyện của gia đình tù nhân.
Ngẫu nhiên, gia đình tôi và gia đình cô Thảo ngồi kế bên nhau, hoá ra anh rể tôi và chồng cô Thảo chung nhóm lao động trong trại. Tôi chỉ cười cười nhìn anh rể, anh nhoài người với qua bàn, nắm tay từng người, hôn thằng con, rồi chúng tôi kéo ra ngoài sân, chỉ còn lại bà chị Cả tiếp tục ngồi với chồng. Bên nhà cô Thảo cũng vậy, sau khi thằng Tú 3 tuổi đứng giữa bàn, ngây thơ hát tặng bố bài hát “Cháu lên ba, cháu vô mẫu giáo”, bà ngoại và thằng Tuấn- Tú cũng đi ra ngoài sân, để hai vợ chồng cô Thảo tiếp tục câu chuyện thăm nhau.
Tôi đang đứng dưới tàn cây trứng cá, thằng cháu và mấy đứa nhóc chạy nhảy tung tăng rộn ràng cả khu đất, Tuấn đến bên tôi, chìa ra cái bánh bao:
- Bạn ăn bánh bao nè, ngon lắm, bà ngoại tui làm đó.
Trong khi ông anh tôi và bà ngoại Tuấn đứng nói chuyện và coi chừng lũ trẻ chơi đùa, tôi và Tuấn ngồi xuống ăn bánh bao, kể nghe câu chuyện về trường lớp:
- Tui học trong trường Phan Chu Trinh, ngay trong khu quân đội.
- Còn tui, trường Đồng Tháp, cũng trong khu quân đội trại Đoàn Dư Khương.
- Ở khu tui, cũng có cây trứng cá, thích lắm, trưa nào tan trường, tụi tui cũng hái một mớ, ăn vào ngọt lịm.
- Mà bây giờ chính quyền mới đổi tên khu Phan Chu Trinh và Đoàn Dư Khương qua tên mới, nghe lạ hoắc!
Ăn xong bánh bao, hai đứa theo đám nhóc hái trứng cá, vừa hái vừa reo cười thích thú, mỗi đứa được cả bọc nhỏ, thì đến lúc hết giờ thăm nuôi. Đoàn người thân nhân lại lục tục kéo ra cổng. Trước khi lên xe lam, tôi ngoái lại, nhìn cây trứng cá, tự dưng thấy buồn, rơm rớm nước mắt. Tuấn cũng có vẻ buồn, nhưng cố tỏ ra “bản lĩnh”, nhìn tôi, chọc quê:
- Loan nhớ cây trứng cá hả? Lần sau tụi mình sẽ hái nhiều hơn.
Tuấn đưa tôi bọc trứng cá của Tuấn, bảo đem về chia cho mấy đứa bạn trong xóm ăn cho vui.Tôi biết Tuấn làm vậy để tôi (và cả Tuấn) bớt buồn vì phải xa nơi chốn này (mới đến mà sao thân thương quá chừng!).Tôi vốn là cô bé nhạy cảm, nghĩ rằng, chúng tôi được trở về nhà, với cuộc sống thường nhật, còn cây trứng cá sẽ cô đơn hiu hắt vắng lặng với những người tù lặng câm, đất trời cằn cỗi nắng bụi mịt mù.
Sau lần đó, chị tôi và cô Thảo thỉnh thoảng đến nhà nhau khi có thông tin nào đó về trại, về các tin đồn mong manh cho ngày trở về đoàn tụ, cho những chuyến thăm nuôi sắp đến. Có lần chị dẫn tôi đến căn nhà trong cư xá sĩ quan của nhà cô Thảo thật đẹp. Dù đang trong thời kỳ “Cả Nước Xuống Hố”, đồ đạc trong nhà thưa thớt, nhưng vẫn còn nét sang trọng của căn nhà nhỏ, có lầu đúc hai tầng, sân thượng trồng cây cảnh, lan can trước nhà có trồng làn giây hoa lan leo, và trong sân nhà là cây táo Thái sum suê trái. Tuấn đưa tôi ra sân hái táo, những trái táo màu xanh, cỡ như trái chanh, cắn vào giòn rụm ngọt ngào. Ăn táo no nê, chúng tôi vào phòng học của Tuấn, căn phòng gọn gàng, sách vở bàn học ngay ngắn, nét phong lưu của gia đình còn in rõ trên từng ngóc ngách của căn nhà.
Rồi là cái Tết đầu tiên sau ngày Sài Gòn bị “giải phóng”, dù muốn dù không thì Xuân vẫn về, dẫu lòng người đang buồn hay vui. Hôm chiều cúng ông Táo, chị tôi mừng rỡ nhận được giấy báo thăm nuôi vào đầu tháng sau. Chị đem một cái bánh Tét, chở tôi trên chiếc xe đạp đến nhà cô Thảo, trước là tặng quà Tết, sau là hỏi thăm bên nhà cô có giấy thăm nuôi cùng ngày hay không. Cô Thảo mừng rỡ đón chúng tôi, và cho biết sẽ cùng gặp nhau tại trại thăm nuôi kỳ tới.
Suốt buổi ngồi nghe chị tôi và cô Thảo nói chuyện, tôi không thấy Tuấn như lần trước, chỉ có bà ngoại đang chơi với thằng Tú ngoài bếp, tôi hỏi:
- Cô ơi, Tuấn có nhà không cô?
Cô Thảo nhìn tôi, cười:
- Tuấn đi chơi với Dì Ba rồi con.
Nghe vậy thì tôi biết vậy, chắc đang mùa Tết nên đi chơi với Dì, là em của cô Thảo, dù tôi chưa bao giờ gặp mặt Dì Ba.
Tháng sau, tôi háo hức dậy từ sớm, chuyến đi thăm nuôi lần này sẽ vui hơn lần đầu tiên, vì tôi đã biết nó sẽ diễn ra như thế nào, và tôi lại được gặp Tuấn, lại ngồi ăn bánh bao, hái trứng cá, kể nhau nghe chuyện học hành. Nhưng tôi đã thất vọng, vì nhà cô Thảo chỉ có cô, bà ngoại và thằng Tú, chẳng thấy bóng dáng Tuấn. Khi đứng ngoài sân dưới cây trứng cá, tôi hỏi bà ngoại:
- Bà ơi, sao Tuấn bữa nay không đi thăm bố?
Bà cười, hiền hậu:
- Chút nữa cô Thảo nói cho con nghe, nhe!
Tôi nôn nao, linh tính có chuyện gì đó, chẳng biết là buồn hay vui.Tôi chẳng còn bạn để cùng hái trứng cá, để nói chuyện trường lớp, tôi ngồi dưới gốc cây trứng cá suy nghĩ vẩn vơ, cây trứng cá không biết nói nhưng đang là “người bạn” cho tôi nương tựa lúc này, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Rồi tôi chợt lo lắng, hay là Tuấn bị bệnh? Mà phải là bệnh nặng lắm nên mới không đi thăm ba được.
Cuối giờ thăm nuôi, gia đình cô Thảo kéo đến nhóm gia đình tôi, vui vẻ:
- Bây giờ tụi mình đón xe lam ra chợ Hốc Môn, tôi mời cả nhà bữa hủ tíu.
Đến chợ, trong lúc chờ thức ăn, cô Thảo nói thì thầm cho đủ hai gia đình nghe, trong khi cô nhìn tôi:
- Con ơi, Tuấn nhà cô đi vượt biên với Dì Ba, đã đến trại tỵ nạn Songkla, Thailand, đã có thư về rồi.
Lúc ấy, trong xóm đã có vài gia đình đi vượt biên nên tôi cũng hiểu vấn đề, một cảm giác buồn bã xâm chiếm hồn tôi. Không hẳn vì tôi nhớ Tuấn, mà chính là chạnh lòng, là có chút ghen tỵ, vì Tuấn may mắn, đến một phương trời mới, tương lai mới, trong khi tôi vẫn ở lại mảnh đất đang bị chính quyền mới tàn phá tang thương, chuyện học hành và cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, bất mãn.
Vài tháng sau, tôi lại được theo chị đến nhà cô Thảo. Cô hớn hở kéo hai chị em vào nhà:
- Thằng Tuấn đã đến Mỹ, vào đây xem hình Tuấn nè.
Vào phòng khách, cô lấy ra một phong bì trắng dầy cộp, thơm phức (sau này tôi gọi đó là mùi … Mỹ, khi gia đình tôi có hai ông anh vượt biên thành công, qua Mỹ, gửi thư về). Cô rút ra hai tờ thư và một số tấm hình:
- Thư này Dì Ba gửi bà ngoại, còn tờ thư này Tuấn gửi cho cô, con đọc cho vui.
Tôi đón lấy tờ thư Tuấn viết:
“Má ơi, con vừa đến Mỹ là được đi học liền à! Buổi sáng có xe đến rước, buổi trưa ăn ở trường luôn, thức ăn ngon lắm. Trường có cả hồ bơi, tha hồ tắm, các bạn và thầy cô người Mỹ ai cũng dễ thương.Má cho con gửi lời thăm Loan, em của cô Thanh nha. Nói với Loan ở đây không có cây trứng cá!...”
Tôi xúc động, thấy được an ủi vì Tuấn còn nhớ tôi. Đêm hôm ấy, tôi thao thức với giấc mơ vượt biên. Những tấm hình Tuấn đứng bên xe yellow bus của trường học, đứng chung với bạn trong lớp nơi sân trường, chụp với Dì Ba trước cửa nhà rợp đầy bóng mát bình yên…là những hình ảnh cho tôi niềm khát khao được tìm đến, thoát cảnh tương lai mù mịt nơi quê nhà, khi mà phong trào vượt biên bắt đầu trở nên rầm rộ, mà ai đó đã từng nói “cây cột điện nếu có chân cũng muốn đi”.
Sau chuyến thăm nuôi ấy, tôi không được đi thăm anh rể nữa vì anh chuyển trại về Hàm Tân Thuận Hải, còn ba của Tuấn bị chuyển ra ngoài trại phía Bắc. Hai gia đình liên lạc thưa thớt dần, rồi cô Thảo chuyển nhà về đâu, hoặc cũng có thể đã âm thầm đi tìm tự do, không ai biết.
………………………………..
Anh rể tôi "học tập cải tạo" hơn 6 năm mới được về. Thoát khỏi nhà tù nhỏ anh rể về nhà tù lớn với vợ con, tiếp tục cuộc sống khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất, vì anh vẫn bị phường quản lý, đi đâu làm gì cũng phải viết đơn trình báo. Cho đến năm 1991 thì gia đình anh chị tôi sang Mỹ định cư diện HO.
Còn tôi, dù muộn màng hơn Tuấn, tôi cũng ra khơi cuối năm 1989, may mắn đến bến bờ tự do và định cư ở Canada năm 1994.
Tuấn đang ở đâu đó trên đất Mỹ, nếu đọc được bài này, hy vọng Tuấn sẽ nhớ ra kỷ niệm thăm nuôi ba “cải tạo” ở thành Ông Năm, có cây trứng cá với cô bạn “bé nhỏ” dễ cười dễ khóc thuở nào.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Tôi cũng thế, cũng có những kỷ niệm êm đềm thời bé thơ bên cha mẹ anh chị em, kỷ niệm hai chuyến đi thăm anh rể ở Thành Ông Năm, tôi đứng chơi dưới gốc cây trứng cá chỉ trong chốc lát mà không thể nào quên, để khi ra về tôi bỗng thương cây trứng cá ở lại, có lẽ vì tôi thương anh rể tôi cùng bao người tù “cải tạo” khác còn ở lại chốn tù tội đoạ đầy lao khổ ấy.
Bao nhiêu năm trôi qua, mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn thương.
Edmonton, Tháng4 Đen 2025
KIM LOAN
________________
CÓ NHỮNG THÁNG NGÀY NHƯ THẾ ...
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo.
Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh.
Hồi đó, mỗi người trong sổ hộ khẩu đều có một Sổ Sức Khỏe, bên ngoài bìa ghi vài thông tin tổng quát, gồm họ tên, tuổi bao nhiêu, và địa chỉ thường trú. Thằng cháu mới 9 tuổi, anh lấy cây viết cùng màu mực với số 9 rồi viết thêm số 2 đàng trước rất phù hợp với độ tuổi của anh (anh thực sự 28 tuổi), nhưng cái tên của thằng cháu khá “đặc biệt” làm anh hơi ngại ngần. Ba của nó tên Hoàng, là Đại Úy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc bà chị họ của tôi sanh thằng nhỏ thì ảnh đang “lắc lư con tàu đi” tác chiến ở vùng sông nước Hậu Giang và nhắn vợ đặt tên con là Lê Hoàng Biển Cả, coi như kỷ niệm tình yêu sự nghiệp đời Lính của anh.
Anh Hai mượn Sổ Sức Khỏe của cháu, vì anh không còn chọn lựa nào khác. Ba người anh còn lại của tôi, một anh đã vượt biên đang ở Mỹ, hai anh khác học xong Đại Học ra trường đi làm ngoài tỉnh nên hộ khẩu ở chỗ làm. Anh Hoàng, chồng bà chị họ mới “học tập cải tạo” về nhà, còn trong thời hạn bị địa phương quản chế nên có cho vàng anh Hai cũng không dám mượn sổ, không muốn gây thêm liên lụy cho anh rể. Ba tôi, cũng mới nằm bệnh viện cả tháng chữa bệnh bao tử nên cái Sổ Sức Khỏe đầy chữ viết bệnh án của bác sĩ, anh không thể mượn sổ của ba vì dễ bị phát hiện. Chỉ còn đứa cháu 9 tuổi, cái sổ còn trống trơn. Bà chị họ sốt sắng đưa anh cuốn sổ của thằng Biển Cả, bảo anh cứ liều... “mạng cùi” đến bệnh viện, cùng lắm thì anh bị trở vào tù, chớ ai lại bắt thằng bé 9 tuổi?
Thế rồi cũng êm xuôi trót lọt, anh được điều trị cắt cơn sốt rét tại bệnh viện, thời gian dự trù khoảng hai tuần. Tôi đang học lớp10, đường đi đến trường có ngang qua bệnh viện, nên có một buổi chiều sau khi tan học, tôi ghé thăm anh. Gặp tôi, anh vui vẻ tươi tỉnh, biểu tôi gửi xe rồi cùng anh đi dạo ra ngoài vì cả tuần qua anh còn mệt nên chỉ loanh quanh trong bệnh viện.
Hai anh em tản bộ về hướng chợ Xóm Mới, mải mê nói chuyện, đến cổng nhà thờ Hoàng Mai thì tôi nghe tiếng gọi:
- Anh Biển Cả! Anh Biển Cả!
Sau vài giây khựng lại, tôi liền nhớ ra, quay qua anh Hai:
- Anh Hai ơi, có người gọi anh... Biển Cả kìa!
Anh ngưng nói chuyện, cố tìm trong ráng chiều chạng vạng người nào đã gọi anh, thì một cô gái đi nhanh về hướng chúng tôi. Anh nhận ra, cười tươi và giới thiệu:
- Em ơi, đây là cô Hoài, người y tá chăm sóc anh ở bệnh viện. Còn đây là Loan, em gái của tôi học ở trường Nguyễn Trung Trực gần đây nên ghé thăm tôi.
Chị Hoài hỏi thăm tôi vài câu, rồi nói:
- Anh Biển Cả và Loan chờ đây nhe, em chạy vào trong nhà một chút.
Chị chạy vào trong hẻm nhà thờ, lát sau mang ra một túi đồ dúi vào tay tôi và nói với anh:
- Bữa nay nhà em có đám giỗ, em tính sáng mai mang đến bệnh viện chút trái cây để anh dưỡng sức, nhưng bây giờ gặp thì đưa luôn, có thêm miếng xôi vò, chả lụa và mấy cái bánh ngọt, hai anh em cùng ăn cho vui nha.
Tôi chần chừ, chị Hoài nói tiếp:
- Lộc đám giỗ thôi mà, vả lại, chị muốn cám ơn anh Biển Cả dạy kèm English cho chị.
Anh Hai gật đầu nên tôi cầm lấy bịch thức ăn. Trên đường trở về bệnh viện, anh kể, cái tên Biển Cả làm anh ... nổi tiếng trong bệnh viện. Hễ khi gọi tên bệnh nhân lấy thuốc, cứ đến lượt “Lê Hoàng Biển Cả” là các cô y tá bụm miệng cười, nhìn anh vừa tinh nghịch vừa thân ái. Chị Hoài là người chữa trị và theo dõi bệnh tình của anh, cũng có hỏi anh về cái tên lạ mà hay này, anh trả lời qua loa cho xong chuyện, dù có đôi lần lỡ miệng, xuýt bị lộ thân phận. Khi biết anh là giáo viên dạy Tiếng Anh, chị Hoài nhờ anh giúp mỗi ngày các bài vở chị học từ một Trung Tâm Ngoại Ngữ vì gia đình có chị ruột bên Mỹ đang làm giấy tờ bảo lãnh diện ODP.
Tôi trêu anh:
- Nhìn vào cặp mắt chị Hoài khi nói chuyện, em dám chắc là anh đã lọt vào “mắt xanh” của chị ấy rồi đấy, anh tính sao ?
- Anh biết chớ, nhưng anh chẳng còn tâm trí nào cho chuyện tình cảm yêu đương. Hiện giờ anh chỉ còn một con đường, là phải vượt biên bằng mọi giá, thế thôi.
Sau đó, anh được xuất viện, vừa trở về nhà vài ngày thì may mắn có chuyến vượt biên do bạn thân giới thiệu nên anh lên đường ra khơi. Một chiều tôi đi học về, bà chị họ chạy qua:
- Hồi nãy có cô Hoài y tá đến tìm anh... Biển Cả.
Tôi đã từng kể cho cả nhà nghe chuyện gặp chị Hoài lúc đi dạo với anh Hai, nên chị chép miệng:
- Tội cô ấy quá, nhưng nhà mình còn đang nóng ruột chờ tin nên chị đâu dám nói sự thật, đành nói dối “anh Biển Cả” đi Cần Thơ.
Ba tuần sau, cả nhà sung sướng khi nhận điện tín của anh Hai từ đảo Bidong, Malaysia. Trong nỗi vui mừng này, tôi nghĩ đến chị Hoài, đắn đo có nên báo cho chị biết tin anh Hai. Nhưng tôi lại thôi, nào có ích gì, chỉ làm cho chị buồn thêm.
Rồi trời xui đất khiến buổi sáng chúa nhật tôi đi chợ Xóm Mới, đang đi vào tiệm bánh gai đầu chợ thì gặp chị Hoài cũng đang mua bánh gai. Hai chị em mừng rỡ ríu rít, chị kéo tôi vào quán nước để nói chuyện nhiều hơn. Tôi báo tin vui mà không dám... hớn hở:
- Chị ơi, anh Hai của em đã đến đảo Bidong rồi đó.
Chị thoáng thất vọng, buồn buồn, nhưng kịp mỉm cười:
- Ôi, chị mừng cho anh Hai, chung vui cùng gia đình em.
Nói chuyện qua lại một lúc, trước khi chia tay, chị Hoài ngập ngừng:
- Em nè, chị hỏi điều này nếu em không thấy phiền, em cho chị địa chỉ anh Hai bên đảo được không? Thú thiệt với em, gia đình chị chờ đi ODP lâu quá, nên chị và đứa em trai đang tìm mối vượt biên. Chủ tàu nói chuyến đi dự tính đã đầy người, nhưng nếu phút chót có ai rút lui thì sẽ kêu chị. Nếu chị may mắn tới đảo Bidong sẽ tìm anh Hai của em, còn nếu chị tới đảo khác nước khác, chị cũng sẽ viết thư liên lạc với ảnh, được không em?
- Trời ơi, có gì mà phiền chớ. Ngày mai đi học em sẽ ghé qua bệnh viện đưa chị địa chỉ. Mà chị ơi, vậy thì em phải khai thiệt với chị một chuyện ...
- Chuyện gì, em cứ nói.
- Dạ, anh Hai của em hổng phải tên Biển Cả.
- Chị biết mà! Nãy giờ em có thấy chị gọi ảnh là “Biển Cả” không?
- Ủa, ủa, là sao??
- Hôm nọ chị đến nhà tìm ảnh, dù đã có địa chỉ lấy từ sổ sức khỏe, nhưng khi đến đầu hẻm thấy một bác ngồi bán khoai mì đang ... rảnh rang, chị bèn hỏi nhà anh Biển Cả, bác ấy cười lớn, anh gì mà anh, căn nhà cổng màu xanh đó, thằng Biển Cả đang chơi bắn bi với mấy thằng nhóc trong xóm kìa, cô là cô giáo của nó hả!
- Ha...ha...Vậy là chị biết từ ngày đó?
- Thực ra, chị biết từ những ngày ảnh còn ở bệnh viện.
- Ủa, ủa, là sao nữa?
- Chị là người tiếp nhận ảnh lúc đến khám bệnh, thấy cái tên hay, các cô y tá xúm vào hỏi han, ảnh ngượng ngùng bối rối, đúng kiểu chưa quen nói dối. Sau đó chị nhìn kỹ sổ sức khỏe, thì thấy chỗ ghi tuổi, cái số 29 không đều nhau, nét mực cũng hơi khác. Rồi khi chị hỏi ảnh thẻ “chứng minh nhân dân” để làm thủ tục nhập viện, ảnh nói bị mất. Cũng may chị là Y tá trưởng nên bỏ qua thủ tục này.
- Ôi, chị vừa thông minh lại vừa tốt bụng. Sao chị dám giúp ảnh, lỡ ảnh là... tội phạm nguy hiểm thì sao?
- Nghe chị nói nè, trước tiên, chị hành động theo lương tâm “lương y như từ mẫu”, làm sao chị có thể đuổi bệnh nhân ra về khi họ đang run vì cơn sốt? Lý do tiếp theo, dáng vẻ bên ngoài của anh ấy với cặp mắt kiếng, phong thái mô phạm, giọng nói từ tốn điềm đạm, cũng đủ gây tin tưởng cho người đối diện. Hơn nữa, khi tiếp xúc, thì càng thấy anh ấy là người đứng đắn, đạo đức, nhất là sự hiểu biết của ảnh, không chỉ trong môn English mà trong các vấn đề khác. Chị đã cảm mến ảnh từ những ngày đó.
- Chị nói thì em mới dám... khoe luôn, ảnh là cuốn tự điển bách khoa của gia đình và cả xóm em luôn á! Em xin thay mặt anh Hai, cám ơn chị đã bao che và chữa bệnh cho anh ấy.
- Chị cũng cám ơn ảnh, thời gian hai tuần lễ chị đã mở mang thêm một số kiến thức là nhờ ảnh.
Tôi về nhà, viết liền lá thư cho anh Hai, kể lại toàn bộ cuộc nói chuyện với chị Hoài, và dặn ảnh chuẩn bị tinh thần, biết đâu con tàu của chị ấy sẽ cập bến Malaysia. Anh viết lại, biểu tôi yên tâm, vì ảnh đang làm thiện nguyện, dạy English ở đảo, nên quen thân với Ban Điều Hành trại, hễ có chuyến đưa người mới vào đảo là anh được xem danh sách từ chiều hôm trước, rồi đến ngày, anh vẫn hòa vào đám đông kéo nhau ra cầu Jetty đón đoàn người tỵ nạn mới, để tìm người quen, bạn bè, hàng xóm.
Vậy mà bốn tháng sau, khi anh có tên đi định cư Mỹ, buổi tối trước khi rời đảo Bidong để qua trại Sungai Besi, anh viết thư về nhà, có viết riêng cho tôi một đoạn:
- Em ơi, sao chị Hoài vẫn chưa đến Bidong, mà cũng chưa viết thư cho anh từ trại khác, liệu có chuyện gì xảy ra với chị ấy chăng? Em hãy đến bệnh viện tìm xem chị ấy còn ở đó không nhé.
Tôi chạy liền đến bệnh viện, vào thẳng phòng trực y tá, với tư cách người nhà bệnh nhân, xin gặp chị Hoài để nói lời cảm tạ. Một chị y tá cho biết:
- Chị Hoài nghỉ làm rồi em ơi.
- Từ khi nào hở chị?
- Cỡ bốn, năm tháng.
Trời ơi, đúng là lúc chị nói với tôi dự tính vượt biên. Tôi hồi hộp:
- Vậy chị cho em địa chỉ nhà chị Hoài để em ghé thăm.
- Khỏi ghé em ơi, chị Hoài vượt biên đến Thailand rồi.
Tôi run run:
- Thiệt không chị? Chị ấy đến Thái hay Bidong, Mã Lai?
- Đến Thái! Chị ấy có gửi thư và hình cho tụi chị, nếu em muốn xem thì ngày mai quay lại chị cho xem.
Tôi thở phào, trở về nhà, nhưng cả đêm thao thức với những nghĩ suy, tại sao chị ấy không viết thư cho anh Hai như đã nói với tôi? Tôi bèn đưa ra hai giả thuyết, thứ nhất, có thể trên đường vượt biển chị đã đánh mất hành lý và địa chỉ của anh Hai (giả thuyết này có nhiều khả năng xảy ra, vì hai người anh của tôi đi vượt biên đều gặp tình trạng này, kẻ thì làm rơi trên biển, người thì đánh mất lúc di chuyển từ ghe nhỏ qua tàu lớn). Giả thuyết thứ hai, có thể nào chị đã gặp gỡ một tình yêu chung chuyến tàu hoặc chung trại tỵ nạn, nên không còn ý muốn liên lạc với anh Hai?
Rồi tôi cũng đi vào giấc ngủ với niềm vui, là chị Hoài đã thoát được nơi chốn này, đến được bến bờ tự do như mong ước. Còn chuyện sau đó, dù là giả thuyết một, giả thuyết hai, hay giả thuyết ba, bốn, năm, sáu ...gì chăng nữa, với tôi, cũng đều là một kết thúc vừa ý.
Anh Hai, sẽ nhớ những ngày được cô y tá dễ thương cứu giúp trong hoàn cảnh “hoạn nạn khốn khó”. Chị Hoài, sẽ không quên cảm xúc xao động nhẹ nhàng khi chữa trị cho một bệnh nhân có cái tên giả “đặc biệt”.
Anh Hai, chị Hoài, và tôi, người chứng kiến và kể lại câu chuyện này, cùng có một kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ về quãng thời gian sống dưới chế độ “Xã Hội Chủ Nghĩa- Xuống Hố Cả Nút”, khi mà “cây cột đèn có chân cũng muốn ra đi”!
Edmonton, Tháng 3/2025
KIM LOAN
________________

CHIỀU TRONG TRẠI TỴ NẠN
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy em
Đôi mắt của một người không quen
Thăm thẳm như hoàng hôn vừa xuống
Ký ức nào em đang muốn quên?
Đêm hãi hùng thuyền gặp sóng lớn
Hải tặc vây quanh chẳng xót thương
Em bé nhỏ, em cố vùng vẫy
Tiếng kêu lạc loài vào đại dương?
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy chị
Lặng lẽ bên rào nhìn xa xăm
Chắc hẳn đêm qua trong mộng mị
Có bóng quê nhà chị ghé thăm?
Người ấy có vẫn đợi chị không
Tình yêu đâu cách trở mấy sông
Nhưng đất nước u mê tăm tối
Tương lai còn mù mịt, mênh mông
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy anh
Điếu thuốc trên tay, khói toả bay
Ngày mai lên đường đi thanh lọc
Kỷ niệm vô vàn gửi lại đây
Chiến hữu gặp nhau nơi xứ lạ
Khắc khoải lời thề nợ máu xương
Giữ vững niềm tin và lý tưởng
Màu cờ vàng rợp bóng quê hương
Chiều trong trại tỵ nạn, tôi thấy tôi
Dõi theo mây tím cuối chân trời
Mộng mơ với chút hồn thi sỹ
Bỗng thấy thương hơn những mảnh đời
Rồi cũng sẽ là dĩ vãng thôi
Kỷ niệm Trại Tỵ Nạn xa xôi
Nên trái tim đa sầu đa cảm
Nức nở mong chờ bóng chiều rơi
KIM LOAN
TÌNH YÊU KHÔNG HẸN TRƯỚC
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư .
Nơi nào tôi cũng có người quen, vì ở trại Transit (tự do) này mọi người đều chung hoàn cảnh may mắn, đậu thanh lọc, chờ ngày tìm được phái đoàn nào đó phỏng vấn rồi đi định cư, tương lai phơi phới, nên chúng tôi mau chóng gần gũi mến thương nhau .
Ở trường ESL có một nhóm Thầy, Cô khá hợp “gu”, mặc dù tôi nhỏ tuổi nhất, ngoài giờ dạy, chúng tôi còn gặp nhau ngoài quán cafe, hủ tíu, đến nhà nhau ăn cơm mỗi khi có sinh nhật, giỗ quảy .
Trong nhóm này, tôi thân nhất với Chị, một phần vì Chị ở chung lô nhà, hai “nhà” đối diện nhau, gặp nhau cả ngày, đến trường cũng gặp nhau, phần khác là Chị cũng từng là giáo viên Tiểu Học như tôi khi còn ở Việt Nam, nên hai chị em ríu rít mỗi ngày, rủ nhau đi chợ, đi ăn, tối tối rảnh cùng vài Thầy Cô khác kéo nhau lên trường ESL tán dóc với Thầy Hiệu Trưởng “đóng đô” ngày đêm trên đó . (Thầy được phân công ở ngay căn phòng nơi cổng sau của trường).
Chị qua trại cùng với hai đứa con, một trai một gái, mười tuổi và tám tuổi. Chồng chị bị mất tích trên biển trong một chuyến vượt biên từ vài năm trước. Chị kể, chuyến tàu mang chồng chị và mấy chục người khác, ra khơi mấy tháng liền không có tin tức, tất cả các gia đình có người thân trong chuyến tàu dáo dác hỏi thăm nhau, rồi niềm hy vọng dần dần tàn lụi, đớn đau tuyệt vọng . Gần ba năm sau, chị quyết định mang hai đứa con lên đường ra khơi, mặc dù gia đình Chị ngăn cản vì lo sợ hiểm nguy, Chị bảo:
- Chả lẽ số phận đã để ảnh mất tích trên biển, rồi không tha ba mẹ con chị luôn sao?
Vết thương nào rồi cũng nguôi ngoai, Chị tin rằng hoàn cảnh Chồng chị mất tích đã giúp ba mẹ con đến bờ tự do và may mắn đậu thanh lọc, Chị mong hương hồn Chồng tiếp tục phù hộ cho Chị và các con trên con đường tương lai khi định cư ở nước thứ ba .
Bữa đó tôi đến nhà Chị, thấy ba mẹ con đang ăn cơm với hai người tôi không quen biết, Chị giới thiệu:
- Loan ơi, đây là Phúc, người đi chung chuyến tàu chị. Đây là Tân, em chồng của chị, cũng đi chung chuyến tàu, Phúc và Tân mới đậu thanh lọc, vừa nhập trại Transit mình hôm qua đó.
Tôi sà vào ăn cơm chung với cả nhà. Anh Phúc nhỏ hơn Chị 4 tuổi, còn Tân nhỏ hơn tôi hai tuổi . Bữa ăn hội ngộ rộn ràng, và Chị vui vẻ nhận lời nấu cơm tháng cho anh Phúc và Tân, vì đàn ông một mình vụng về cơm nước, mà Chị thì đằng nào cũng lo cơm nước cho ba mẹ con . Tôi nghe kể anh Phúc từng là giáo viên Tiếng Anh bên Việt Nam bèn đề nghị Chị rủ Anh Phúc vào dạy trường ESL, còn Tân thì có bạn sẽ giúp đưa vào làm ngoài bệnh viện khu Lào-Hmong. (Ở trại tỵ nạn Thailand, những người đi làm thiện nguyện, ngoài chuyện mỗi tháng có chút lương bổng tượng trưng từ Cao Ủy, còn được ưu tiên miễn làm lao động định kỳ trong trại, và nhất là có chút ...uy với người xung quanh, nên chúng tôi, kẻ trước người sau, thường giới thiệu bạn bè quen biết cùng đi làm thiện nguyện)
Thế là từ đó, hàng ngày, ngoài buổi sáng đi dạy chung, Anh qua nhà chị ăn hai bữa cơm, rồi dạy các con chị học bài hoặc chơi với chúng.
Tình yêu, có ai ngờ! Lửa gần rơm hay hai trái tim đã tìm thấy rung một nhịp đập? Anh chị bắt đầu yêu nhau, nhưng chỉ trong âm thầm vì còn biết bao cản trở xung quanh: Trước tiên là hàng rào tuổi tác (tình yêu chị em hả, có ai chấp nhận và hiểu cho!), rồi là rào cản của thị phi cuộc đời, làm sao thoát khỏi những cái miệng “rảnh rang”của những ông bà Tám cùng lô nhà, rằng “trai tân cặp với gái già”? Làm sao công khai nơi trường ESL khi họ vẫn gọi nhau là chị/em? Làm sao ăn nói với hai đứa nhỏ khi lâu nay chúng vẫn gọi anh là “chú” rất thân thương, yêu mến? (Từ “chú” chuyển thành “cha” khó à!). Ngoài ra, rào cản “nặng ký” khác là thằng Tân, em chồng đang ăn cơm tháng ở nhà chị. (Trên giấy tờ căn cước tỵ nạn của chị còn ghi rành rành tên chồng với ghi chú “Lost at Sea”).
Mà hai người dấu kỹ lắm, các Thầy Cô trường ESL không ai nghi ngờ, thằng Tân cũng rất vô tư chẳng tò mò thắc mắc, các “bà Tám” trong lô cũng chẳng chút mảy may đặt dấu hỏi gì, vì hàng ngày cả Anh và thằng Tân đều đến nhà Chị ăn cơm hai bữa, Anh nán lại chỉ bảo bài vở cho hai đứa nhỏ, và cũng có mặt tôi thường xuyên đến chơi nữa mà!
Tuy nhiên, Chị không thoát khỏi “cặp mắt sắc bén” của tôi, dầu đôi lần tôi ỡm ờ dọ ý Chị vẫn chối phăng. Cho đến một buổi chiều kia tôi đến cửa nhà Chị thì Anh vừa bước ra, tôi tiến vào nhà thì Chị còn đứng đó, trên tay là một nhánh hoa hồng đỏ, còn lấp lánh mấy giọt nước .
Lần này Chị bèn trút hết bầu tâm sự cho tôi nghe, thú nhận cõi lòng vì Anh vừa được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và nhận cho định cư, trong khi Chị và hai con đang bị Mỹ “pending” treo hồ sơ .
Chỉ cành hoa hồng, chị nói:
- Ảnh tặng chị đó, ảnh nói hôm nay là Valentines, ngày Tình Yêu.
- Ủa, ngày gì lạ à nghen, chắc ảnh mê chị rồi ảnh bịa ra, chớ nào giờ em có nghe gì về ngày này đâu nà!
- Thì chị cũng như em, có biết gì đâu. Nhưng ảnh nói bà Sue người Úc bên Hội Thánh Tin Lành nói cho ảnh biết đó .
- Vậy là có Ngày Tình Yêu thiệt hả chị?
Thấy Chị buồn, tôi khuyên Chị cứ chờ phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn, và hãy để thời gian minh chứng tình yêu . Tôi cũng cảm thông khi hai người không dám công khai tình yêu . Tôi bảo, khi qua Mỹ rồi thì Chị và Anh nếu còn tình yêu thì lúc đó hai con sẽ hiểu và chấp nhận, còn với trại tỵ nạn thì trăm nghìn miệng lưỡi thế gian, vả lại, Anh cũng sắp lên đường định cư, thôi thì ráng giữ gìn cho nhau, hẹn ngày tái ngộ không xa .
Do vậy, họ tiếp tục yêu thầm lặng, chỉ trao nhau tình yêu qua ánh mắt, qua những cử chỉ lặng lẽ, và những cái nắm tay vội vã những lúc hiếm hoi ở bên nhau ngắn ngủi. Một vài giờ riêng tư bên nhau cũng không thể , vì lúc nào cũng có con cái, thằng em chồng, hàng xóm xung quanh tấp nập, nên bỗng dưng mối tình trở nên “lén lút”, còn khổ hơn “cách núi ngăn sông”.
Cứ thế, cho đến ngày Anh có tên trong danh sách lên đường đi Mỹ. Nửa đêm hôm đó, khi cả trại còn say giấc, Anh liều mạng mò qua nhà Chị, rồi chui vào mùng (Chị ngủ 1 mùng, hai đứa nhỏ 1 mùng. Cũng may Anh không chui lộn mùng trong trời tối đen vì anh có mang theo cái đèn pin). Chị giật mình khi nhận ra Anh nhưng không nói một câu nào vì sợ hai con thức giấc. Họ hôn nhau dồn dập trong bóng đêm, vỡ oà bao nỗi niềm của những ngày câm nín. Khi Anh sắp chạm vào giới hạn “rực rỡ chơi vơi”, thì Chị bừng tỉnh, chỉnh lại áo quần, rồi lao ra bên ngoài. Anh sững sờ, rồi chạy theo Chị.
Chị vẫn chạy đi trong đêm, qua các lô nhà, băng qua những con đường gập ghềnh trong trại, đôi chân trần của Chị bị đau vì rướm máu. Anh vẫn đuổi theo sau, như hai bóng ma, không dám gọi tên nhau. Khi đến gần cổng trại, thấy có bóng lính Thái và ban bảo vệ đi tuần tra, Chị đành rẽ vào khu bể nước gần đó, vừa lúc Anh đuổi kịp. Anh ôm Chị, liên tục xin lỗi, và lau những giọt nước mắt nức nở, nghẹn ngào trên khuôn mặt người yêu, rồi hai người bước trở về khu nhà khi trời đang hừng sáng để tiễn anh lên đường đi định cư.
Những chi tiết trên, là Chị kể lại cho tôi nghe trong một chiều mưa sau khi anh rời trại được mấy hôm, lòng còn đầy nỗi niềm nhớ thương vời vợi.
Một thời gian sau đó, tôi đi định cư Canada, có viết về trại cho Chị vài lá thư rồi bị mất liên lạc, nghe nói ba mẹ con Chị cũng lên đường đi Mỹ .
Mỗi mùa Valentines tôi lại nhớ Chị, nhớ cành hoa hồng Anh tặng Chị năm xưa. Trong một lần gặp gỡ vài người tỵ nạn cũ ở California nhiều năm trước, có người cho tôi biết Chị từng sống ở Quận Cam, chỉ với hai đứa con, không có Anh, rồi ba mẹ con dọn đi tiểu bang khác. Vậy là mối tình nồng cháy, không hẹn trước nơi trại tỵ nạn ấy cũng theo “lời nguyền” mà dân tỵ nạn hay nói với nhau “chặt cua là khuất bóng”, chỉ còn là kỷ niệm mang theo trong đời!?
Tôi chợt nhớ câu hát của nhạc sĩ Trúc Phương tôi thường đùa, hát cho chị nghe mỗi khi chị nôn nao đợi chờ thư của Anh từ Mỹ Quốc: “Đường vào tình yêu, có trăm lần vui, có vạn lần sầu …”, rồi chị mắc cở, mắng tôi: “Hát gì tầm phào không hà, nghe xui thấy mồ!”
Chẳng lẽ tôi có “cái miệng ...ăn mắm ăn muối” thiệt sao!?
Edmonton, Valentines 2025
KIM LOAN
" Father, forgive them, for they do not know what they are doing"
-Luke 23:34-
_______________________


50 NĂM, XUÂN TRÊN ĐẤT MỚI
Hồi hè vừa rồi, chồng tôi thông báo:
-Năm 2025 anh sẽ đi Pharmacy Conference từ cuối tháng Một cho đến hết tuần đầu tháng Hai .
-Vậy có phải ở San Jose, hay New Orleans, hay San Francisco như những lần trước để em đi theo ?
-Kỳ này là ở Toronto, Canada của chúng ta.
Tôi chợt nhớ ra:
-Khoan, để em xem lịch có trùng ngày Tết không nhe.
-Khỏi em ơi, anh đã xem rồi, đúng ngày mồng 2 Tết Ất Tỵ luôn đó . Nếu em vẫn muốn qua Mỹ ăn Tết với gia đình thì em cứ đi.
-Thôi, tụi mình đã ăn Tết bên đó nhiều lần rồi, từ California đến Texas. Vậy nên em ở nhà, sẽ nhận lời làm MC Hội Chợ Tết Cộng Đồng Người Việt Edmonton.
-Ủa, sao em biết họ sẽ mời em làm MC, em đã hết chức vụ trong Ban Quản Trị Hội Người Việt lâu rồi mà?
-Thì hồi tháng rồi, anh Hội Trưởng có nhắn em, nếu năm nay em không qua Mỹ ăn Tết thì giúp làm MC Hội Chợ Tết 2025 vì đây là dịp đặc biệt, là cột mốc kỷ niệm 50 năm tha hương, 50 mùa Xuân trên đất mới, 50 năm Quốc Hận!
-Ui chao, vậy là họ rà trúng “đài” của em rồi.
-Bởi mới nói, đó là …ý Chúa, chớ đâu phải tự dưng năm nay anh phải đi Conference tại Canada trúng mùa Tết để em khỏi có lý do bay qua Mỹ, và ở lại Canada làm MC ?
-Coi như Tết này dù không qua Mỹ sum họp đại gia đình nhưng anh và em vẫn vui vẻ bận rộn công việc riêng của mỗi người .
-Dù sao, gia đình chúng ta cũng mới gặp nhau trong đám cưới của con gái mình rồi, cuối năm 2025 lại gặp nhau tại Texas trong đám cưới đứa cháu nữa, hẹn cái Tết khác thôi. Xuân đến Xuân đi rồi Xuân lại đến mà, lo chi.
Vợ chồng tôi đã có những cái Tết sum vầy bên Mỹ rất đông vui, nhiều kỷ niệm . Ở Nam California, mà người Việt mình gọi tóm tắt là khu Little SaiGon, Phố Bolsa, khi Tết đến Xuân sang đã thu hút hàng ngàn du khách đồng hương từ các tiểu bang khác trong nước Mỹ ( và cả những đồng hương từ Canada, Châu Âu) tìm về vùng đất ấm áp để sống lại không khí Tết quê hương . Nơi đây, đúng là nơi “đất lành chim đậu”, với số lượng người Việt đông đảo nhất Bắc Mỹ, khí hậu lý tưởng, đã cho chúng ta cảm giác thân thương của mùa Xuân rạo rực .
Mỗi lần qua ăn Tết, chúng tôi đến trước vài tuần, vì thích niềm vui chộn rộn chuẩn bị sắm Tết, rồi đến ngày Tết là quay về Canada . Từ chợ đêm Phước Lộc Thọ, chợ Hoa Tết, Hội Chợ Tết, các chương trình Văn Nghệ, các khu thương mại chợ búa, khu văn phòng người Việt, đâu đâu cũng thấy “mùi của Tết”, “ hương vị Tết” , nhất là ở các Chùa, Nhà Thờ đêm giao thừa, nghe tiếng pháo nổ mà lòng xôn xao .
Vì là “đất lành chim đậu” nên tôi có rất nhiều bạn bè người quen ở vùng Nam California . Ngoài gia đình ông anh và họ hàng ruột thịt, là những bạn cũ từng ở chung trại tỵ nạn, là những bạn bè, đồng nghiệp xưa khi còn ở Việt Nam, là những người hàng xóm cũ thân thương . Hầu như mỗi lần tôi qua đó, đều không thể gặp gỡ được hết mọi người, mà phải chia bớt ra theo nhóm, hẹn Xuân sau .
Riêng ở Arlington, Texas, tôi có nhiều anh chị em và gia đình chú ruột cùng các em họ ở đây, nên chúng tôi ăn Tết Texas nhiều hơn Tết Cali .
Tôi vẫn nhớ cái Tết đầu tiên năm 1994 khi tôi mới định cư Canada liền bay qua Texas đón Tết với đại gia đình . Lúc ấy Arlington còn thưa thớt người Việt, còn hiện nay thì người Việt “sinh sôi nảy nở” cũng như từ các nơi khác về đây lập nghiệp, mỗi lần Tết rất đông đúc rộn ràng, với các Hội Xuân liên tiếp nhau tại các khu chợ lớn nhứt là HongKong, Asia Times Square và Bến Thành Plaza . Có năm, chúng tôi bay qua sớm, từ Arlington lái xe đến Houston, thưởng thức Kim Sơn Việt Nam buffet, ngắm phố Bellaire chuẩn bị Tết, các quán xá, tiệm giò chả bánh chưng nườm nượp người xếp hàng. Có thế mới thấy, người Việt chúng ta, dù xa quê hương, đang ở bất cứ nơi nào, cũng vẫn mang dòng máu Tiên Rồng, máu chảy về tim, mỗi mùa Xuân không thể quên văn hóa, cội nguồn dân tộc từ ngàn đời.
Năm nay, tôi sẽ làm MC Hội Chợ Tết Edmonton đúng dịp 50 năm tha hương của người Việt, bao nỗi buồn niềm vui biết nói sao hết cho vừa .
Canada thường có tuyết rơi và thời tiết lạnh căm khi Tết đến, vậy mà người ta vẫn đến chật kín hội trường hàng năm. Cô bạn bên San Jose có lần hỏi tôi:
-Trời, nghe nói trời lạnh từ âm mười cho đến âm vài chục độ C, nếu tuyết rơi nữa, thì làm sao mà mọi người vẫn diện áo dài đến Hội Chợ Tết ?
-Ở đâu quen đó bạn ơi! Có người vẫn mặc đồ mùa đông rồi đến Hội Chợ sẽ vào phòng vệ sinh thay áo dài, thay giày thay guốc, vẫn đẹp lộng lẫy.
Riêng tôi thuộc nhóm người…làm biếng, nên nhanh gọn hơn nhiều, tôi mặc sẵn áo dài từ nhà, nhưng hai ống quần dài sẽ được cột lại bằng dây thun, rồi mang đôi giày boots mùa đông, áo khoác dày mùa đông . Khi đến nơi, tôi chỉ việc tháo dây thun khỏi hai ống quần dài, thay đôi giày cao gót, thế là vẫn …thướt tha tà áo dài mùa Xuân .
Dù lạnh nhiều hay lạnh ít, mỗi mùa Hội Xuân đều có đông đủ người Việt và cả người ngoại quốc đến vui Xuân .
Sau phần Chào Cờ, đốt pháo, múa Lân, phần Văn Nghệ luôn được chờ đón với những bài nhạc Xuân vời vợi nhớ thương: Anh Cho Em Mùa Xuân, Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa, Xuân Ngày Con Không Về, Câu Chuyện Đầu Năm, Mùa Xuân Lá Khô, Tôi Chưa Có Mùa Xuân...
Các tiết mục múa của các em sinh viên học sinh với các bài hát dân ca ai cũng thuộc lòng như Qua Cầu Gió Bay, Trống Cơm, Lý Ngựa Ô luôn nhận được những tràng pháo tay không dứt của khán giả, dù trong nhóm múa có nhiều em nói Tiếng Việt chưa rành, chưa hiểu hết ý nghĩa bài hát, và những điệu múa còn vụng về, thô cứng, nhưng rất đáng yêu.
Đặc biệt là các em bé, từ tuổi chập chững mới biết đi, cho đến các trẻ con tuổi mẫu giáo, tiểu học trong những bộ áo dài truyền thống để dự thi “trình diễn áo dài dân tộc”. Rồi các em chạy nhảy, tham gia các gian hàng trò chơi, hồn nhiên vô tư trong ánh mắt tự hào hạnh phúc của cha mẹ ông bà, khi ngắm nhìn thế hệ con, cháu đang nối tiếp truyền thống văn hóa quê hương.
Tôi nói với chồng:
-Tính ra thời gian tụi mình sống trên quê hương thứ hai đã dài hơn nhiều so với thời gian đã từng sinh sống tại Việt Nam, nên những mùa Xuân nơi đây cũng đã trở nên quen thuộc . Hễ Tết đến là trời phải …lạnh, là phải ... có tuyết nhe, hổng có là em hổng chịu đâu á!
Chàng cười lớn, và phụ họa:
-Đồng ý! Đồng ý! Nay mai khi quê hương không còn Cộng Sản, chúng mình về quê ăn Tết, biết đâu lúc đó em lại…không quen, vì giữa nắng vàng Sài Gòn chiều Xuân em sẽ nhớ …tuyết trắng Canada.
Nói thì nói vậy, chớ tôi tin rằng, người Việt Nam chúng ta ở hải ngoại, từ nơi nắng ấm California, cho đến Texas, New York, Washington, qua Canada, Châu Âu, Châu Úc …dù hàng năm vẫn đón Xuân, vẫn ăn Tết, không thiếu món gì, nhưng từ tận đáy lòng, vẫn cảm thấy …thiếu một cái gì đó, có phải ?
Có một đêm giao thừa ở Texas, sau khi ăn uống với đại gia đình cũng gần khuya, mấy chị em tôi đi dạo quanh khu phố để tìm cảm hứng phút giao mùa năm xưa. Những con đường vắng tênh, những ngôi nhà đóng cửa im lìm, tắt đèn tối thui, có thấy “Tết nhứt” gì đâu! Bà chị chép miệng:
-Thì Tết là của cộng đồng Việt Nam và Tàu thôi mà. Dân Mễ dân Mỹ còn đang say sưa giấc nồng để ngày mai còn đi làm sớm. Có ai quan tâm đêm nay là “giao thừa”!!
Thế đấy! Đó là cái “thiếu”, bởi chúng ta đâu chỉ “ăn Tết” bằng bánh chưng bánh tét, bằng mứt dừa mứt sen, bằng hoa mai hoa đào, mà chúng ta cũng cần “ăn” cái hồn Tết, cái hồn quê thắm đượm trong không gian đất trời, nhà cửa, phố xá, con người xung quanh... mà chỉ có nơi quê Cha đất Mẹ mới có được.
Dù chỉ được hưởng 9 cái Tết thời Việt Nam Cộng Hòa, nhưng trong ký ức của tôi vẫn còn in dấu hình ảnh mùa Xuân bình an hạnh phúc trong thời chiến .
Là những ngày Tết nắng rực vàng, tôi hớn hở mặc bộ quần áo mới toanh, sáng mồng Một dậy sớm, đứng khép nép nơi bàn Ba tôi đang uống trà ăn mứt với khách, đợi tiền lì xì, rồi sung sướng chạy xuống bếp tìm món thịt đông và chè kho của má, có khi còn giành nhau với các anh chị em trong nhà cái đùi gà còn nóng hổi, miếng xôi còn lại trong chõ xôi khi chờ khói nhang tàn trên bàn thờ ông bà tổ tiên. Chiều tối, êm đềm gia đình quây quần, nơi phòng khách chiếc tivi đang vang lên bài ca Xuân bất hủ của Phạm Đình Chương đầy hy vọng tin yêu:
“ Chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành, mừng người vì nước quên thân mình ...”
Giờ đây, ba má tôi đã không còn nữa, các anh chị em trong gia đình mỗi người một mái gia đình riêng, mùa Xuân tuổi thơ đã là dĩ vãng .
Chiều nay, đứng nơi cửa sổ sau nhà, ngắm nhìn bầu trời trắng xóa tuyết rơi, tôi ngẩn ngơ tìm đôi cánh én báo tin Xuân, và thả hồn lãng đãng, theo trái tim mộng mơ về những mùa Xuân đầm ấm trên quê hương, một thuở xa lắm :
MÙA XUÂN TUỔI THƠ
Tôi đã có một thời tuổi nhỏ
Đếm từng ngày khao khát đợi mùa Xuân
Tờ lịch trên tường dường như chậm quá
Sao chẳng rơi như chiếc lá ngoài sân?
Tôi thích ngắm mỗi lần trời nổi gió
Cây soan trước nhà lá rụng lan man
Để ao ước thời gian đi nhanh nữa
(Chưa biết buồn theo chiếc lá thời gian!)
Là mỗi độ Xuân về tôi vẫn biết
Lá sẽ khô theo cơn gió cuối năm
Chợ sẽ vui những sắc màu ngày Tết
Người rộn ràng mua sắm, phố thêm đông
Rồi mẹ sẽ may cho tôi áo mới
Nồi bánh chưng như cổ tích ngày xưa
Tôi hớn hở nhận đồng tiền mừng tuổi
Thảnh thơi ăn kẹo mứt, cắn hạt dưa
Tôi đã ước mình đừng bao giờ lớn
Để suốt đời tôi được đếm thời gian
Được tung tăng chạy vui đùa trong xóm
Với bạn bè khi thấy gió Xuân sang
Để tôi mãi có ông bà, cha mẹ
Anh chị em sum vầy, chẳng rời xa
Bên mâm cỗ, mùi khói nhang ngào ngạt
Đêm giao thừa nao nức chờ pháo hoa
Bao năm qua, bây giờ tôi đã lớn
Giấc mộng trẻ thơ như quả bóng bay
Những cái Tết không đợi chờ vẫn đến
(Tôi vô tình khi mộng khỏi tầm tay!)
Nhưng xóm nhỏ của tôi vẫn còn đó
Tôi đã đi phiêu bạt mấy phương trời
Lá vẫn rơi, lại có bao đứa trẻ
Ước ao và chờ đợi Tết như tôi??
Edmonton, Xuân Ất Tỵ 2025
KIM LOAN