top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
LuongNgocThanh_self_3.jpg

                 VĂN            

           LƯƠNG NGỌC THÀNH

 Rạch Giá - Cựu học sinh PTG

__________________

GIÁNG SINH CỦA TÔI Ở BẢO LỘC

 

   Vào ngày 23 tháng 12 năm 1975, sau khi nhận được học bổng đầu tiên- 19 đồng của nhà nước, tôi cũng đã nhận được lịch thi đấu cho giải bóng đá “Mùa Xuân 75”của Bộ Đại Học, và cũng vừa mừng vừa lo và vừa thèm nhớ bạn bè, tôi đã âm thầm ra xa lộ Thủ Đức lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau để đón xe đi Bảo Lộc.

 

    Tôi là người duy nhất trong “băng Cần Thơ; từ Phan Thanh Giản vô Nông Lâm Súc” được tiếp tục học đại học. Tôi may mắn, và tôi tận dụng vận may này với khả năng của tôi để thành thủ môn của đội bóng đá trường Đ.H. Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. Vì vừa trải qua 3 môn thi học kỳ, hôm ấy rất nhiều sinh viên về quê nhà , hoặc về nơi một nào đó để đón Giáng sinh trong khi tôi trên đường- thay vì về Cần Thơ- lên Bảo Lộc- nơi tôi xem như quê hương thứ hai của tôi.   

 

    Xa lộ hôm ấy đã không có nhiều xe cộ. Thiên hạ bận bịu việc âm thầm lén lút trang hoàng trong nhà, lo toan cuộc sống khó khăn mới ở một vùng kinh tế mới nào đó, hay họ không thèm lo chuẩn bị gì cho đêm Giáng Sinh lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4. 

 

  Trước tiên, tôi chợt nhớ đến thằng Hải Bầu, người tôi đã đưa về Cần Thơ để dạy kèm để hắn có thể thi tú tài tự do ngành Nông Lâm Súc  tại Bình Dương. Có theo thằng Hải về nhà một lần năm ngoái, nên tôi còn nhớ rõ làm sao để đến nhà hắn. Hơn thế, bố của Hải là một hạ sĩ quan cảnh sát ở ngay địa phương đó. Tôi bảo lơ xe ghé lại nhà thờ xứ Dốc Mơ- Gia Kiệm khi trời nắng nóng, gần 11 giờ. Hớn hở, đi vội vả đến nhà hắn, nhưng tôi sững sờ nhận ra gương mặt tiều tụy đau khổ của mẹ nó người đã thống thiết kể lễ với tôi ngay khi tôi bước chân vào nhà,

 

    - Mấy hôm sau ngày giải phóng, công an huyện đến tìm nó mà cứ bảo là tìm “giáo sư Hải.”

 

Tôi mở to mắt ngạc nhiên hỏi lại,

 

    - Giáo sư Hải?

 

Bà mẹ của Hải gục xuống khóc nức nở,

 

    - Anh bảo...Hải mới 20 tuổi mà làm giáo sư thế nào được cơ chứ!? Thế mà họ dững dưng không nghe. Cả nhà tôi khào khóc trong nỗi oan ức...

 

Lắc đầu ngao ngán, tôi vội hỏi người đàn bà tuổi tứ tuần nhưng trông già hơn mười tuổi thật,

 

    - Trời ơi, rồi thế nào hả bác?

 

Khóc rống lên một cơn, bà mẹ khổ sở của Hải phải cố gắng lắm mới kể tiếp,

 

    -  Họ cứ còng tay, đưa nó đi và đến nay nó biệt tăm. Jesus Ma lạy chúa lòng lành! Nhà tôi là cảnh sát đi cải tạo còn được thăm nuôi. Còn anh Hải thì… lạy Chúa tôi! Ối giời cao đất dầy ơi!

 

   Tiếng kêu khóc thảm thiết của người đàn bà phải chịu đến hai nỗi đau xé lòng đã khiến cho tôi không thể nào đứng đấy nổi nữa.

 

   Tôi chẳng biết phải nói làm sao nữa nhưng tôi cương định lời từ chối khi được bà mời dùng cơm trưa và ở lại nhà hôm đó. Tôi lủi thủi trở ra quốc lộ 20, phần buồn cho Hải Bầu, phần buồn cho bao nhiêu kẻ gặp vận hoạn nạn, gặp vận đen đủi kỳ quặc, không thể giải thích nổi như vậy. 

   Thằng Thông Chảo- Bùi Chí Thông, lớp A3- vừa là đồng môn, người cùng xóm, bạn chơi bóng rỗ- cũng bị một nhóm mặc thường phục, đội mũ tay bèo, đeo băng đỏ trên cánh tay đi xe Jeep lùn, đến nhà bắt ngay tối 30 tháng 4 với lời công bố,

   - Bắt giam giáo sư Thông!

 

     Chờ bên lề đường một mình, tôi quyết định thật nhanh. Nếu có xe đò về Sài Gòn, tôi đi về lại Thủ Đức nhưng nếu thấy có xe chạy lên Bảo Lộc, tôi sẽ vọt lên đó- dù chỉ có tối hôm nay thôi! Chưa uống xong ly cà phê, từ xa tôi nhận ra một xe chạy từ hướng Sài Gòn lên Bảo Lộc. Tôi chen lên xe và chợt vui lên như bất cứ lần nào tôi được đi Bảo Lộc. Chuyến xe duy nhất này dừng rước bất cứ hành khách nào như tôi. Mọi người đều có chuyện riêng để đi ngày hôm ấy. Tôi đi chỉ để gặp Long Kh’mer sau khi không thăm được Hải Bầu- "Giáo Sư Hải" theo lời của công an huyện Đồng Nai. 

 

     Tôi còn nhớ hoài nét mặt đau khổ của bà mẹ của thằng Hải Bầu. Tôi chợt nhớ đến mẹ tôi. Tôi không biết so sánh thế nào nhưng chắc mẹ tôi còn có nhiều niềm vui hơn bà mẹ của thằng Hải nhiều và có khi còn hơn nhiều người mẹ khác nữa. Tôi hình dung ra ngay gương mặt của Má Năm- mẹ của Long Kh'mer, người suốt cuộc đời vất vả chỉ cho chồng con mà thôi. Tôi nhớ nét nhăn trên gương mặt gầy guộc của Mạ Chánh, người luôn vui cười dù cuộc mưu sinh của gia đình mạ còn lắm nhọc nhằn. Tôi mong ngóng đến từng kí lô mét đường xe chạy qua như một người tù nhân vừa mãn hạn tù trên đường về đoàn tụ với gia đình. Chưa khi nào tôi có một chuyến đi như thế này. Ôi! đến khu rừng Giá Tỵ rồi, Định Quán rồi! Tôi bồn chồn nôn nao như một gã đi ly hương trên đường về quê, như một tay vừa vượt ngục đang trên đường gặp những bạn tù khác để sau đó có thể cùng nhau đào thoát và cũng giống như một chàng trai trẻ về thăm quê hương của cô bạn gái mà hắn từng yêu quý. 

 

   Khi xe qua đèo chuối, tôi nhớ lại ngày đầu tiên đón xe lên Bảo Lộc, tháng 6, 1971. Trời hôm đó mưa dầm lạnh lẽo, sương mù vây kín cảnh vật hai bên đường. Xe như chạy vào một khu rừng rậm. Mưa to làm mờ hết đường nhựa đen trải dài phía trước mặt. Mọi người trên xe như nghẹt thở bất động. Đường đèo vắng xe một cách lạ lùng. Ít có ai đi đâu trong ngày cận kề Noel như thế này sao? Tiếng máy xe nổ giòn giã như để khẳng định với những hành khách rằng chuyến đi sẽ đến đích, chuyến xe này chắc chắn sẽ đến nơi an toàn. Dẫu cho chỉ mặc cái áo sơ mi mỏng manh, xuềnh xoàng, trong trời tháng 12 khô, lạnh, nhưng tôi vẫn cảm thấy như bình thường. Điều tôi mong đợi là gặp được Long Kh’mer để trò chuyện với nó, để nghe nó kể lể cho thoả lòng của cả hai đứa tôi.

    

   Khi xe lên Đèo Bảo Lộc, như nhiều lần khác, tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Cái cảm giác vui sướng lâng lâng của chàng học trò được điểm cao, được lời khen ngợi của cô thầy khó tính nào đó. Cái niềm vui khó tả của một người ly hương sắp gặp lại thân nhân. Khoảng đường dắt lên đèo Bảo Lộc bỗng đẹp hơn, trơn láng hơn. Lòng tôi thênh thang nhẹ nhàng như chiếc xe đang chạy thật êm ái chuẩn bị lên đèo. Cái đoạn đường đèo 10 kilô mét này đặc biệt ý nghĩa vì nó gây cho hành khách sự chuẩn bị, sự toan tính những gì họ sẽ làm hoặc sẽ xảy đến với họ trên Bảo Lộc. Tôi dự tính gặp Long Kh’mer và chỉ có thế thôi. Điều gì có thể xảy ra với tôi nhỉ? Có ai biết được thằng Long Kh'mer bạn tôi cũng bị một chuyện xui rủi nào, một tai nạn nào như "giáo sư Hải" ở Dốc Mơ và "giáo sư Thông" ở Cần Thơ!?

 

  Khi ấy, tôi không có cách nào để báo cho hắn biết rằng tôi sắp lên thăm. Khi ấy, việc chúng tôi gặp nhau sẽ có rất nhiều ý nghĩa. 

 

  Tượng đài Đức Mẹ trên đèo là một nơi dừng chân lý tưởng đối với khách tham quan hoặc cho những ai cần cầu xin điều gì. Vừa nhìn thấy đài Đức Mẹ xong, tôi liền nghĩ đến việc Long Kh’mer đi hành hương trong lúc ấy với nhóm thanh niên ca đoàn hay hướng đạo gì gì đó. Xe chầm chậm leo đèo, vượt qua nhiều đoạn cua quẹo. Tôi nhìn thật kỹ lưỡng một xe đò nhỏ đang đậu và số người đang dừng chân ở khu đài Đức Mẹ bên phía trái. Cảnh vật vẫn thế nhưng tình cảnh nay đã khác. Lòng người có thể vẫn thế nhưng trong lúc mà cái ăn cái mặc, cái cảm giác bình an đơn giản nhất có thể khác đi nhiều. 

   Tôi đã không nhìn thấy có Long trong nhóm khách viếng Tượng Đức Mẹ. Tôi nhẩm đếm từng khúc cua trên đường. Khúc cua thứ mười bốn là nơi có Miếu Ba Cô- để tưởng niệm tai nạn thảm khốc đã làm tử nạn ba cô gái vào năm 1975.. Xe vẫn cứ tiến tới như tôi cũng vẫn cố hy vọng. Tính từ khi xe vừa qua cua quẹo thứ nhì, tôi nhận ra ngay cây đàn guitar quen thuộc và người mang nó trên vai, thằng Bình Bon- lớp Công Thôn- khóa 72. Tôi nhìn chầm chập vào nhóm thanh niên đang đi bộ phía lề đường bên phải để mong tìm thấy người tôi muốn gặp. Xe cứ tiến đến cua quẹo thứ ba, thứ tư. Tôi cứ dõi mắt tìm hắn. Cái linh cảm rằng hắn thế nào cũng có mặt trong nhóm thanh niên thanh nữ này, khiến tôi chồm người ra cửa sau, ngoái mặt ra ngoài để nhìn rõ hơn. Đến cua quẹo thứ mười hai tôi nhận ngay ra Long Kh’mer trong một nhóm hơn mười thanh niên đang đi bên lề phải. 

 

   - Long Kh'mer!

 

  Tôi kêu thật to tên của hắn một cách thảng thốt và hắn giật bắn người khi nghe tiếng gọi của tôi. Khi chiếc xe vừa sắp qua hết khúc cua cuối cùng để lao thẳng về Bảo Lộc là lúc tôi kêu dừng xe. Chắc gã tài xế đó chắc chưa bao giờ phải dừng xe lại vào cái lúc mà ai cũng mong xe chạy thật nhanh vì nó đang ngon trớn để lên cái dốc thoải dài. Cái dốc mà xe vừa chạy vượt qua không cao lắm. Vừa thật sự lấy được thăng bằng sau khi nhảy xuống xe, tôi vừa chạy hấp tấp ngược về cái dốc để mong gặp được Long Kh'mer càng nhanh càng tốt.

 

  Long Kh’mer cũng vừa chạy lên từ phía dốc phía bên kia vừa kêu tên tôi thật to. Không có một đạo diễn nào nghĩ ra cái pha mà hai đứa tôi gặp nhau như vậy và cũng không có diễn viên nào có thể làm được như thế. Chúng tôi ôm nhau, trong hơi thở hổn hển, trên một đoạn đường trống trải nhưng trong lòng hai đứa tôi đầy ắp biết bao là niềm vui. 

 

   Long nắm chặt tay tôi, hai bàn tay của nó lạnh ngắt vì ẩm mồ hôi hay vì cái lạnh của bầu không khí. Nó cười thật tươi như nó vừa đạt được đều nó mong đợi- sẽ xong một bức tranh sơn dầu hay kết thúc rất hay một bài hát yêu thích. Cái răng khểnh bên phải của nó như cũng lên tiếng chào hỏi tôi. Hai bàn tay Long trơn ướt lạnh vì mồ hôi của tê thấp và vì cái lạnh trên đèo B'lao- cao 500 mét. Người nó ấm áp, nó nói trong hơi thở dồn dập,

 

  - Thằng quỷ! Sao mà mày hay quá vậy!?

 

  - Thì tao muốn lên đây vậy thôi!

 

 Trời hanh khô nhưng hai đứa tôi thấy như đang đội một cơn mưa phùn thật nhẹ. Trời dần ngã màu xẫm tối khi chúng tôi thấy có ánh sáng vừa lóe lên trong lòng. Chúng tôi cần có nhau như người đi lễ cần nhà thờ, như người cần xưng tội cần có một linh mục ngồi nghe những lời khó nói ra nhất. 

   Tại sao người ta không kề cận nhau, lắng nghe, dung thứ, khuyên bảo nhau. Tại sao người ta cứ phải liên tiếp bài kích nhau, vạch ra những lỗi lầm to nhỏ để hạ thấp nhau. Tại sao họ luôn bận tâm đến việc làm của người khác. Tại sao chúng ta phải toan tính, phải che đậy, dối trá với nhau và phải tìm ra câu biện hộ này, lời giải thích bâng quơ nọ. 

   Hai đứa tôi chỉ có kể lễ, tâm tình, nghe ngóng và chỉ vậy thôi cũng đủ cho cả hai, vốn đã đau buồn, tủi thân, bất toại, bất ổn và bất hạnh.

 

   Con đường quốc lộ từ đấy về Bảo Lộc vắng vẻ trơ trọi, hai bên đường nhà nhà đóng cửa im ỉm,  nhưng chúng tôi thấy đầy ắp niềm vui, một niềm vui rất lạ lùng. Bất kể điều gì xảy ra với chúng tôi cũng đều không quan trọng vì chúng tôi vừa gặp được nhau rồi. Đêm mai người ta vui Giáng Sinh trong nhà hay trong một thánh đường rực rỡ ánh đèn trang hoàng với tiếng nhạc Giáng Sinh rộn rã. Còn đêm nay, Long Kh’mer và tôi vui hội ngộ trên con đường tối vắng tanh.  

 

   Chúa giáng trần mang đến thế gian sự bình an cứu rỗi to lớn. Tôi lên đây mang đến Long Kh’mer một niềm vui đơn giản nhỏ bé. Long Kh'mer và những hướng đạo sinh vừa đi thăm đài Đức Mẹ về. Tôi đã vừa đi thăm gia đình thằng Hải Bầu- "giáo sư Hải" và gặp mẹ hắn. 

 

    Sự mất mát, đau khổ, trông đợi, và thất vọng như là những thứ ai cũng có, ai cũng phải gánh chịu dù muốn hay không gì. Sự bình an, hạnh phúc, những thành tựu và những điều tốt đẹp là những thứ không phải ai cũng có thể có được. Hơn hẳn những người bạn, tôi còn đi học, còn có nơi để dung thân, và còn có một tương lai đơn sơ nhỏ nhắn. Và vì vậy, tôi muốn đem lên đây chia cho Long Kh'mer một ít. Tôi muốn mang lên Bảo Lộc một nửa của cái tôi đang có. Tôi muốn kể lễ cho nhiều người ở trên Bảo Lộc này sự thật về tôi, về cái đặc ân, may mắn, cái cơ hội mà sẽ khiến họ vui mừng hoặc ganh tị, lo lắng hoặc thoải mái, hoặc chúc mừng tôi hoặc thèm thuồng được có những điều như vậy.

 

    Kề vai tôi, Long Kh’mer đưa tôi về đến nhà lúc trời tối đen như mực. Chúng tôi ăn cơm hẩm thức ăn lạnh ngắt với chị Tư rồi hai thằng rủ nhau ra ngoài chợ, đến cái quán cóc của Má Năm để.. được nghe má mắng yêu hoặc có khi má thưởng cho 2 cái phin cà phê và 2 điếu thuốc thơm.

 

    Chúng tôi đã có một buổi tối bình an, đẹp đẽ như nhiều người hằng mong đợi- một buổi tối mừng Chúa giáng sinh.

   

 

Rạch Giá 8- 12- 2010

Lương Ngọc Thành

___________________________

  CÁI KHÚC RUỘT KHÌA

 

     Cái việc chỉ làm một khúc ruột khìa rất ngắn để cho ba tôi nhâm nhi với hai chai bia BGI buổi trưa hôm đó đã đủ phát đi một ca khúc về tình cha của tôi dài dằng dặc âm thầm cho đến bây giờ và mãi mãi. 

 

      Có một lần, từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, do công việc làm ăn khá bê trễ, ba tôi buộc lòng phải ghé lại nhà tôi- cái gia đình cũ của ông. Biết hai anh em chúng tôi đã chưa ăn cơm chiều và khi má và chị Tư tôi chưa đi làm về, ông bảo hai đứa tôi thay đồ rồi đưa hai anh em tôi đi ăn tối ở quán Vĩnh Ký nổi tiếng ở Cần Thơ. 

 

    Làm sao tôi có thể quên được cái cảm giác hạnh phúc của buổi ăn tối đầu tiên trong đời đó chứ. Trên một chiếc lôi xe máy, trong cái áo sơ mi ngắn tay cũ kĩ, cái quần xà lỏn, màu đen bạt màu bằng vải Kate ngắn cũn cỡn, rộng rãi đón gió lùa vào mát mẻ, chúng tôi sung sướng hơn bao giờ hết, hơn cả cái cảnh con trai mặc đồ mới đẹp đi chơi tết hoặc đi ăn nhà hàng sang trọng với người cha đáng kính. Khi ấy tôi lờ mờ nhận ra cái ý nghĩa đơn giản của hạnh phúc dù chỉ thoáng qua, dù không trọn vẹn và tôi đã rùng mình nhắm mắt lại cố gắng không để nước mắt trào ra.

 

    Ông hất hàm về phía băng ghế nệm ý ra lệnh cho hai thằng nhóc con của ông ngồi lên đó. Anh em tôi ốm yếu chúng tôi như lọt thõm trong cái khoảng 8 tấc dài 5 tấc rộng của chiếc xe lôi thay vì ông ngồi lên ngay giữa ghế, đặt em tôi vào lòng, một tay ôm cái vòng bụng của tôi. Cả hai anh em tôi, ngồi trên phần ghế nệm, vênh váo nhìn quanh xem có ai nhìn thấy chúng tôi không. Mặc dù ba tôi ngồi trên miếng ván đối diện, ngoảnh mặt về một phía đường, với mọi thằng cùng trang lứa khác trên thế gian này vào lúc đó, không có ai hạnh phúc như anh em tôi đâu!? Và so sánh với 3 thằng con trai của bà kế mẫu với ba tôi, hôm tối duy nhất đó, hai anh em chúng tôi hạnh phúc sung sướng hơn tụi nó nhiều.

 

   Chúng tôi đã được má tôi đưa đi chợ mua đồ tết và tôi đã nhớ cách má tôi kẹp hai chân để giử thằng em tôi, ghì chặt tôi trong vòng tay của bà như sợ có ai đó sắp giật tôi ra khỏi xe hoặc không bị chúi nhủi mỗi khi xe quẹo, thắng gấp hay chạy nhanh hơn. 

 

   Khi xe chạy xuống nửa đường Nguyễn An Ninh, gió lùa mạnh làm tôi thấy ớn lạnh rùng mình nhưng em tôi ra vẻ rất hân hoan, khoái chí. Nó toét miệng cười thật tươi làm tôi chợt nghĩ rất có thể nó sẽ kể lại cho má tôi nghe trong khi tôi tự nhũ tôi sẽ âm thầm giấu kín chuyện này.

 

    Như mọi buổi chiều tối khác, tiệm ăn Vĩnh Ký chiều tối hôm đó đông nghẹt thực khách. Em tôi thản nhiên nắm tay ba tôi đi vào trước trong khi tôi bở ngỡ đứng nép mình đi bên cạnh ông ấy. Vì trời tháng 5 khá oi bức nên ba tôi đã kéo chúng tôi ra ngồi một cái bàn bên ngoài sân. Xem sơ qua cái tờ thực đơn, ba tôi gọi ngay một dĩa mì xào dòn- cái món đầu tiên tôi biết ăn. 

 

  - Một chai bia Larue BGI.

Ông gọi thức uống cho ông mà quên phức hai thằng con trai của ông cũng đang khát nước.

   Dĩa mì xào Húp hết cái muổng nước sốt chua ngọt béo ngậy khó tả ấy, tôi nheo mắt nhìn thằng em tôi đang nuốt vội vàng, nước sốt dính hai bên mép nhễu nhão. Nhai những sợi mì gìon khấu ấy, tôi như nghe được những tiếng kêu vui sướng của thằng bé con nào đó lần đầu tiên được ba nó cho ăn cao lương mỹ vị.

   Ba tôi chỉ gắp vài miếng gan để nhâm nhi với ly bia. Phần còn lại hai anh em tôi chia nhau đến khi cái đĩa sạch bóng,

  - Ngon quá trời luôn!

Thằng Tài em tôi vừa liếm mép vừa nói.

  - Ừa, tao mới biết ăn cái mì xào giòn này!

Tôi phụ họa ra vẻ khoái chí

   - Mì xào giòn hả! đã quá há! Phải chi...

Nó không nói ra hết ý nó muốn nói nhưng tôi hiểu phần nó vừa bỏ lững,

    - Phải chi...hai anh em mình được đi ăn như vầy hoài hén!

 

Tôi gật đầu và thấy tội nghiệp cho nó quá. Tôi ăn thứ gì cũng thấy ngon. Má tôi làm món gì tôi cũng ăn sạch. Tôi cũng không hề quên cách mẹ tôi nấu. Thỉnh thoảng má tôi đã lén đem về nhà món ăn thừa của nhà bếp hoặc phần thức ăn của bà được quấn bằng cái tờ báo cũ hay bỏ vào bao giấy được nhét xuống đáy cái giỏ xách tay của bà. Khi bị quân cảnh hay an ninh cổng phi trường xét hỏi, bà nói ngay,

  - Tui đem phần thức ăn của tôi về cho hai thằng con ăn cơm.

 

  Tôi ăn hết ngay cái cánh gà hay cái đùi gà lăn bột bị cắn dỡ dù biết rằng má tôi có thể giải thích với tay anh ninh khám xét cái giỏ đồ của bà,

  - Tui đem cái về cho con chó. 

  Tôi vội cất trong tủ lạnh vài miếng ham hoặc một trái táo còn mát lạnh. Tôi pha nước nóng vào bịch cơm sấy thay vì nấu cơm mà thấy ngon như được má tôi mua cho thứ gạo ngon. Em tôi có lúc chê bai,

  - Thứ này hôi hôi, cón cái kia thì lạt nhách.

 Hoặc có khi nó cho rằng,

  - Đồ ăn dư thừa của người ta mất vệ sinh.

 Trong khi đó, tôi luôn trân trọng cái lòng và cái công mẹ tôi phải lén lút mang về.  

 

    Biết tụi tôi chưa hề biết đến món gì đặc biệt, ông gọi thêm món “rùa rang muối”. Phần thịt thơm lừng bốc khói là của ông. Ông gắp các trứng rùa vào chén cho hai đứa tôi. Chia nhau 3 trứng mỗi đứa, hai anh em tôi đã lần đầu tiên thưởng thức cái loại trứng độc đáo béo ngậy đó. 

 

  Khi gọi chia bia Larue thứ nhì, ông mới nhớ gọi cho hai đứa tôi 2 chai xá xị con nai mà đã không buồn hỏi xem chúng tôi có thích thức uồng gì khác không. Em tôi hí hững vội rót chai xá xị vào ly làm bọt tràn đầy ra ngoài miệng ly tuôn xuống mặt trong lúc tôi cứ ngồi tần ngần nhìn nó và lén liếc nhìn ba tôi đang thản nhiên như đang ngồi uống bia một mình. Ông ra vẻ đăm chiêu, tư lự chứ không có vẻ hảnh diện với các người cha khác vì ông đang đưa con đi ăn lần đầu tiên.

 

   Có một thằng nhóc tì- nhỏ hơn em tôi- ăn mặc đẹp đẻ ngồi với ba má nó cách chúng tôi một bàn đang ngồi nghịch phá cái chiếc xe hơi đồ chơi trong hai tay mà không màng tới  việc ba má nó đang quan sát nó. Mẹ nó luôn chăm chú chọn các thứ ngon trong cái lẩu đang sôi sùng sục để đút nó ăn. Ba nó thỉnh thoảng nhắc nhở hay xoa đầu hay đưa cái ống hút vào miệng nó như muốn nó ngoan ngoãn ăn hết những gì mẹ nó chọn cho nó.

 

    Cũng không buồn hỏi chúng tôi đã no chưa, ông còn gọi cho hai anh em tôi một đĩa cơm rang Dương Châu size nhỏ trong khi ông ăn hết phần còn lại của món rùa rang muối.

   - Ăn cơm hết đi.

Ông nói như ra lệnh, ngắn gọn, trổng lốc, 

 

Chắc chắn ba tôi không bao giờ nhớ những chi tiết của buổi ăn tối ấy vì ông đã đưa các con của dì ăn hàng quán quá nhiều lần rồi. Em tôi có khi nhớ còn lờ mờ hoặc đã quên bẵng nó đi, nhưng tôi thì không bao giờ quên được cái bữa ăn tối duy nhất trong đời ấy.  

  

      Dượng Bảy của tôi, một phu xích lô máy lam lũ suốt ngày chạy xe ngoài đường, hằng ngày mua thức ăn về cho cả nhà. Và khi tối đến, ông thường chở 5 đứa con từ nhà, gần khu nhà thờ Kỳ Đồng đi ăn hàng ngoài chợ Đa kao hoặc tận ngoài Ngã Sáu Cộng Hòa. Dượng Chín của tôi chạy xe Lam ngoài bến xe Phú Nhuận. Mỗi tối chạy xe về nhà nghĩ, gần chợ An Hội, Gò Vấp, ông đều mua về những món ăn thêm cho cả nhà. Cậu Tư của tôi, một bơm nhậu, mặc dù đang say mèm cũng không quên mang một chút đồ nhậu còn thừa, hay một trái ỗi, hai trái mận về cho hai đứa con gái nhỏ. 

 

    Chú Hải cạnh bên nhà, một tay cờ bạc có tiếng trong đơn vị, rất thường chở hai thằng con trai lớn đi ăn sáng hay mua thức ăn ngon về cho cả nhà chú và hàng cuối tuần chú ấy đưa cả nhà đi ăn tiệm trừ những lúc chú có các trận đánh sập xám rất lớn hoặc vài lần chú cháy túi. Chú Nhuệ, người hàng xóm ở hẻm 2 đường Tham Tướng, đi chợ nấu ăn cho cả nhà Chủ Nhật hàng tuần sau khi đi lễ nhà thờ buổi sáng về. 

 

   Nhiều người cha khác luôn mang về cho con họ những món đồ chơi mới đẹp mắt, cho cả nhà những món ngon vật lạ. Cha tôi thì chưa bao giờ làm cái chuyện ấy. Có phải chăng phần vì ông bận rộn phần vì ông vô tâm? Hay có khi vì chúng tôi chưa bao giờ dám xin xỏ hay hỏi han ông ấy? Hoặc cũng có thể ba tôi suy nghĩ,

   - Tụi bay ở với mẹ, theo phe mẹ... thì mẹ mày phải lo chứ!

 

   Sau khi chia tay mẹ tôi để lên Sài gòn với người vợ hai, ba mẹ tôi không hề nói với nhau nửa lời. Mỗi khi không có mặt bà ở nhà, nhắm vào tôi, ông thường tố khổ, nói xấu hay nhắc lại những chuyện nhỏ nhặt để nhằm công kích, hạ bệ hoặc làm lu mờ hình ảnh mẹ tôi; cái kiểu phe này nói xấu phe đối nghịch.

    - Hồi tao ra đi, tao có để lại... hoặc

    - Má mày cứ không hề nhắc tới cái nhà này...nó là của tao bỏ lại... 

 

   Có khi ông còn muốn gây ác cảm với má chúng tôi bằng cách đeo một đồng hồ giây bằng vàng 24 kara, nhét một cọc tiền dầy cộm trong túi quần mà không hề hỏi hai thằng con trai một câu gì về chuyện học, chuyện ăn mặc và cho chúng tôi một tờ giấy bạc nào.

 

  Tôi vừa khổ tâm vừa sợ phải nghe ông ta lập lại cái điệp khúc chói tai, kì quặc mang tính xuyên tạc và không đúng sự thật ấy. Cha con tôi như hai người hàng xóm, hai người bà con xa hoặc như ông bố dượng với đứa con ghẻ...

 

     Lạ thay! ông ấy chưa hề hỏi xem tôi đang học lớp mấy, trường nào hoặc em tôi đã bỏ học từ lúc nào, thậm hai đứa con trai của ông năm nay mấy tuổi. Dĩ nhiên, ông cũng không hề để ý đến chị Tư của tôi, người đã bỏ học giữa năm lớp đệ ngũ để cùng má tôi đi làm kiếm tiền.

 

   Từ Cần Thơ, sau khi ông đơn vị trưởng buộc ba tôi phải ký giấy chia lương để mẹ tôi nuôi con, ông còn phải chuyển đơn vị ra tận Quy Nhơn. Biết chạy áp phe và làm lụng rất vất vả lắm, ba tôi đã  có một cơ ngơi kha khá. Sau 5 năm, ông lại được chuyển về Tổng Y  viện Cộng Hòa. Có lẽ vì cuộc mưu sinh của ba tôi quá đỗi khó khăn khắc nghiệt, có lẽ vì 4 đứa con riêng của ông với người vợ hai đã chiếm mất hết sự yêu thương chăm sóc của ông rồi chăng? Có lẽ cuộc chiến tranh lạnh lâu dài giữa hai ông bà đã khiến ông tin rằng chúng tôi âm thầm theo phe mẹ tôi, phe đối nghịch! Riêng với tôi, ông chắc tự nghĩ rằng là con trai đang tuổi lớn, tuổi bắt đầu nhận ra lẽ phải, sự thật, tôi sẽ cố quên ông đi như cái cách mẹ tôi từ nào đến giờ đang làm. Và tệ hơn nữa, ba tôi tự nghĩ ra rằng tôi sẽ cố tránh né gặp ông mỗi khi ông có dịp trở lại Cần Thơ.

 

    Thương mẹ, không thể để cảnh nhà trống trải, tro bếp nhà lạnh lẻo, đồ đạc trong nhà bề bộn, khi đó mới có 12 tuổi đầu, tôi đã quán xuyến việc nội trợ, bếp núc như một trưởng nữ giỏi dang có trách nhiệm. Không có cha trong gia đình, nên tôi phải làm những việc của một người đàn ông, leo trèo trên mái nhà tole, vá cái lổ nhỏ trên tường bị bong tróc hay trên nền xi măng bị nức nẽ. Thay cái cầu chì mới, bắt lại cái công tắc đèn vừa bị hư hỏng hay thay cái đèn neon mới là việc khá nhẹ nhàng với tôi. Sẵn có một cái máy may ở nhà, tôi đã đi học may và tự may vá, sửa lại quần áo cho hai anh em tôi. Và tôi còn làm thợ sửa miễn phí lấy ngay cho bất cứ đứa bạn học Phan Thanh Giản nào khác cần nới ra cái ống quần, bóp lại cái vòng bụng của những áo quần của ba nó ít mặc hay chê không muốn đụng tới nữa.

 

   Hàng sáng, mẹ tôi phát 2 đồng để tôi đi chợ nấu ăn cho cả nhà. Dù không phải là một đứa con gái thích nấu nướng, tôi tìm tòi học cách nấu các loại món ăn trong các tạp chí Phụ Nữ mà chị tôi đã đọc xong và cố thay đổi thực đơn hàng ngày. Sau khi tan sở, ăn hàng quán với những người đồng nghiệp, chị tôi ít ăn cơm chiều nên không khi nào tôi không chừa thức ăn cho chị tôi cả. Tiết kiệm đúng mức, tôi không bao giờ nấu dư cơm, không để thừa một chút thức ăn nào. Tôi biết chọn mua một vài cái muổng canh hoặc một chục đủa tre để dành nếu không muốn cất giấu những miếng 50 xu khi đi chợ còn thừa tiền. Mẹ tôi thường nhắc tôi,

  - Hôm nay má đi làm ca đêm nghen.

Hoặc có khi lại bà bảo tôi,

   - Hai anh em tụi con muốn ăn gì cũng được, má và chị Tư con đi ăn tiệc trong sở làm.

 

   Tự dưng, chưa bao giờ bà hỏi tôi xem tôi có biết làm món này hoặc chỉ dạy tôi làm sao để nấu được món ăn kia. Tôi cũng tự động học, điều chỉnh cách nêm nếm, dùng đúng gia vị hoặc cách thắng nước màu. Cứ như thể tôi là một đứa con gái lớn đã quen việc nội trợ rồi vậy. Mọi việc diễn ra theo cái cách tự nhiên của nó. Mẹ tôi đi làm đều đặn 30 ngày một tháng, và một năm 12 tháng; bà không hề có holiday hay sickleave. 

 

   Chị Tư của tôi nghỉ làm những ngày chủ nhật- những ngày chị đến chơi nhà bạn bè đồng nghiệp. Em tôi ít khi có mặt trong những bữa cơm. Tôi ở nhà một mình như một người nội trợ đơn độc, một người con mồ côi.

 

    Ngày hôm ấy, ba tôi bất ngờ ghé lại nhà lúc sáng sớm, sau khi mẹ tôi đã vừa mới đi làm ca sáng. Em tôi mừng rỡ ôm hai chân của ông reo lên, 

  - Ba về! ba về!

 

Lẳng lặng móc một sấp tiền trong túi quần ra, ông rút một tờ giấy bạc lẻ đưa cho nó rồi bước vào nhà như thể ông vừa nạp tiền vô cửa. Bất giác tôi bạo dạn hỏi ông dù hai tay tôi hơi rung rung và đôi môi mấp máy,

  - Chừng nào... ba về vậy ba?

 

Ông ta buộc miệng cầu nhầu nói trổng lốc mà không thèm nhìn xuống tôi, không màng đến thằng em tôi vừa chạy vọt ra khỏi nhà, 

   - Chờ “tụi nó” gom tiền chắc tới chiều tối nay mới xong.

   Gần năm nay, ông lén rút bớt đi một số thuốc xịch muỗi và các loại hóa chất diệt côn trùng của đơn vị của ông- Ban Y khoa  Phòng Ngừa- Quân Y Viện Cộng Hòa. Khỏang một lần mỗi tháng, ông ta chuyển cho các tiệm thuốc trừ sâu lớn ngay trên dãy phố ở Bến Xe Mới, Cần Thơ bằng những xe đò của hãng Hiệp Thành quen thuộc và rồi chính ông phải xuống tận nơi để nhận tiền. 

 

   Tôi hiểu rằng ông không hài lòng “tụi nó” vì phải chờ đợi để nhận tiền. Tôi nghe rất rõ,

 

  - Chắc tới chiều tối nay mới xong. 

 

 Vậy là tôi cũng hiểu ra rằng ông ta phải ở lại đây qua buổi trưa. Nếu tôi có nghe,"Tối nay mới xong" có nghĩa là ông vội đi ngay về Sài Gòn về cái tổ ấm thứ hai của ông.

 

  Và chỉ có một mình tôi phải cố gắng làm một điều gì đó cho ông ấy vui, vừa vui miệng mà cũng vừa vui lòng. 

 

    Tôi hình dung ngay đến việc mua cho ông hai chai bia Larue khổ lớn- cái gu của ông và nhất là tôi phải làm cái gì cho ba tôi nhâm nhi để giữ chân ông ta ở nhà và nhất là để ông quên đi “nỗi buồn phiền hay bực mình” nào đó. Trong túi tôi chỉ có số tiền đi chợ ấy, 2 đồng. Trong nhà hiện không có sẵn một món thứ gì để ăn thêm, đậu phọng, một vài con cá khô, một nhúm tôm khô, một ít củ kiệu hay một hộp cá mòi và tôi không có một xu để dành nào. Tôi tự nhủ,

   - Hôm nay ta  phải đi chợ sớm hơn. Ra chợ, mình phải chọn cái thứ gì ngon miệng, rẻ tiền cho ba nhấm nháp trưa nay mới được.

 

    Đi chợ hơn một năm nay, tôi biết gần hết giá cả, tỷ lệ và sự phù hợp của các loại thức ăn như một người nội trợ giỏi. Thông thường, tôi chọn mua một ít thịt nạc dăm để nấu canh với cải chua hoặc hẹ, tép hay tôm khô để nấu canh cải bẹ xanh, bí đao hay khổ qua. Tùy vào thời tiết ẩm ướt hoặc khi má tôi nhắc nhở, tôi mua một khúc mắm cá Lóc hoặc cá Thu để chưng cách thủy. Không bao giờ tôi quên đặt trên cái tô mắm chưng ấy vài miếng tép mỡ, mấy miếng củ hành tím và rắc tiêu đều khắp trên mặt. Khi trời nóng nực, tôi chọn nấu món canh chua bạc hà với cá lóc hay cá rô đồng. Thỉnh thoảng, tôi mua thịt ba rọi để kho với tép nhỏ hoặc để xào với mắm ruốt, dĩ nhiên có đậu rồng kèm theo. 

 

   Hôm nào mẹ tôi về ăn cơm chiều, tôi tự biết phải mua một 100 gram mắm Thái với rau sống để ăn với bún, miếng thịt heo quay ba rọi để bà cuốn bánh hỏi...hay mua thứ gì khác tùy theo cái món mà mẹ tôi yêu cầu hoặc tự tôi muốn thay đổi. 

 

   Hôm nào bà làm ca chiều tối, tôi tự ý chọn những món khác những ngày trước đó để em tôi không bao giờ chê bai những thứ gì tôi nấu. Và đúng như tôi mong muốn, tôi chưa bao giờ bị mẹ tôi chê chuyện bếp núc nội trợ của tôi cả.

 

    Đến hàng rau cải, tôi bốc lên một mớ hẹ, cải xanh, dưa leo, rau xà lách, rau thơm và không bao giờ quên xin thêm một vài trái ớt chín. Các bà bán hàng cũng nhẳn mặt cái thằng nhóc con, ốm yếu, mặc quần xà lỏn đen vải kate, cái áo sơ mi ngắn cũn cỡn, tay cầm cái túi “bàn”. Cả hai phía người bán, kẻ đi chợ đều quen mặt thông cảm nhau. Tôi không bao giờ trả giá hay kêu ca mắc hay rẻ. Tôi tự cho rằng,

   - Không lẽ nào mấy dì mấy bà bác đó lại bán mắc cho mình?

 

Tôi chưa bị mẹ tôi rầy la vì mua thiếu món này, mua lầm món kia hoặc món nọ bị cân non món kia bị ôi thiu hư hỏng. Tôi tin rằng,

    - Chẳng lẽ nào mấy bà ấy cân thiếu khi bán cho một thằng nhóc tì như ta 100 gram thịt hay 200 gram tàu hủ hay sao?

 

   Hôm đặc biệt ấy tôi ra chợ với một tinh thần khác biệt, tưng bừng rộn rã- chọn mua một thứ gì đó để làm món đồ nhấm cho ba tôi nhưng cũng phải lo các món cho hai bữa cơm hôm ấy. Tôi chọn mặc bộ đồ tươm tất, sạch sẽ nhất. Mặt mài tươi tỉnh sáng sũa, nhưng có vẻ hơi ngại ngùng, tôi tiến đến hàng thịt của bà Chín Mập. 

 

   Đúng nghiêm trang, chờ hai người mua hàng vừa quay lưng đi khỏi, tôi mới nhỏ nhẹ hỏi người bán hàng thịt mập mạp,

  - Bà Chín ơi! một người ăn chừng... bao nhiêu gram ruột khìa vậy bà?

Bà Chín bật cười khanh khách,

   - Bà… thì  bà“lủm” hết một kí mới vừa bụng lận con trai ơi!

Tôi thộn mặt ra,

   - Dạ... không... Ý con nói là… để nhâm nhi... một mình há.

 

Vừa vuốt cái dao chặt thịt dầy cộm vào thanh thép mài dao sáng loáng nghe rợn tóc gáy, bà vừa liếc mắt xuống hỏi lại tôi,

   - Cho ai nhâm nhi vậy con?

Tôi thiệt thà, thơ ngây trả lời, 

    - Dạ... dạ cho ba con, mới ở trên Sài Gòn xuống.

Buông cây dao xuống cái thớt thịt, bà kêu lên,

  - Mèn đét ơi! Làm mồi cho ba con nhấm hả? Cái thằng nhỏ mới bây lớn như vậy này có hiếu quá trời hén! Thôi... nè, cầm cái khúc ruột ngắn ngắn này nè về đi con! 

  Bà Chín bỗng quan tâm đến việc tôi làm đồ nhấm cho ba tôi, 

  - Ủa, mà con biết phải làm sao không?

 

    Nhanh tay nhặt lên một đoạn ruột non khoảng 50 cm, đặt nó lên trên cái miếng lá sen, quấn lại bằng sợi dây lạc mỏng, bà nhanh nhẩu làm một nút thắt gút rồi chồm người tới trao tay tôi.

  - Nè, đem “dìa” làm cho ông già “lai gai” đi con. Thiệt là tội nghiệp hết sức vậy đó!

 

Rồi với cặp mắt hiền từ cảm động, bà ta nói trổng lốc,

  - Thằng nhỏ mới bây lớn mà có hiếu ghê hông!?

 

  Đoán là tôi không biết làm cái món lạ này, bà Chín trỏ tay về phía quầy cạnh bên bán đồ gia vị. Bà căn dặn tôi mua mỗi thứ một ít thôi và hỏi người bán cách khử mùi, cách “ướp” cho thơm, cách “riêm” cho vừa miệng.

   Mừng rỡ vì không phải tốn tiền mua cái món ăn chánh đó, tôi dạ rang và nói lia lịa,

  - Dạ, con cảm ơn bà Chín...Dạ, con về hỏi dì Út kế bên nhà. Con làm được mà.

 

    Hăm hở, vui vẻ trên đường về nhà, tôi nghĩ đến việc ba tôi vừa uống một ngụm bia, vừa nhai ngon lành những miếng ruột khìa thơm lừng vừa miệng đựơc tôi đặt đều quanh trên cái đĩa kiểu, với những lát dưa leo mỏng sắp chung quanh, vài khoanh cà chua đặt xen kẽ với vài miếng ớt sừng đỏ thắm khác với bất cứ cái đĩa nào ông đã từng thưởng thức trong các tiệm ăn hay quán nhậu. 

 

   Tôi thấy con đường về như ngắn hẳn lại, trời dịu mát và mọi người hân hoan với tôi và mọi sự vật xinh tươi hơn. Bước vội ngang tiệm thuốc tây Khương Bình Tịnh, tôi liếc nhìn mấy miếng cửa kính bóng loáng để xem cái hình ảnh phản chiếu của tôi hôm nay trông có khác đi không. Nhanh chân chen lách qua nhóm đông người trước cái ki-ốt khắc bảng tên Thanh Liêm, rồi khi bước qua rạp háp Tây Đô nơi có một nhóm thanh niên đang đứng xem tấm phông vẽ quảng cáo phim chưởng tuần sắp tới, mà không hề đảo mắt nhìn lên xem phim gì đang được trình chiếu hôm đó. Tôi tự thấy mình như một thanh niên chững chạc. Tôi đã không thèm liếc mắt để xem tâm phông quảng cáo tuần sau chiếu chim chưởng gì khi đi ngang qua nó, có Khương Đại Vệ hoặc Địch Long gì đóng hay không?  

 

   Tôi cũng đã không để ý đến cái chữ tựa phim Hỏa Thiêu Khỗng Tước Thành hay Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm được viết rất mỹ thuật vì tôi chỉ để tâm đến thời gian đi về nhà để kịp làm bếp, làm món đồ nhấm cho ba tôi vào cái hôm đặc biệt đó. Tôi có khi bước đi mà cứ như đang nhảy múa chân sáo nhẹ nhàng. 

 

   Quẹo vô đường Tự Đức, gần đến gần nhà, tôi càng thấy mình như một đứa con gái vào tuổi thành niên đi chợ mua một món ăn vừa mới vừa ngon cho người cha mà nó rất yêu thương; người cha vừa từ xa về thăm nhà và cho bữa cơm trưa cho cả nhà vậy.

 

    Dì Út đã đi đâu vắng, không có ở nhà. Tôi định bụng sẽ phải nhờ chị Lệ ở ngay phía sau nhà tôi. Tôi lầm thầm ôn lại những lời chị ấy căn dặn, chỉ bảo về việc làm bán mùi hôi của ruột heo, các loại gia vị tẫm ướp trước khi bắt chảo lên khìa. Nhanh chóng, bắt nồi cơm, nấu một ít nước xôi để trụng khúc ruột đó, tôi lộn ngược lộn xuôi nó rồi để cho nó ráo. Phi mỡ hành xong, sau khi đã tẩm ngũ vị hương, tiêu, muối đường, tỏi, hành tím vào khúc ruột, tôi cho nó vào cái chảo lớn và nêm nếm sơ qua hai ba lần, chờ đợi cái khúc ruột thắm gia vị. Giật mình vì tôi đã không có chút nước dừa nào hết, tôi tắt cái bếp dầu hôi. Lục lọi trong cái góc tủ áo nhỏ, lấy ra 50 xu đã được cất giấu từ lúc nào không rõ rồi tôi chạy vội vã ra tiệm cà phê Vân Khanh ngay góc đường để mua một trái dừa xiêm khổ nhỏ. Vặn lửa thật nhỏ, tôi kiên nhẫn chờ khúc ruột thắm gia vị, chuyển sang màu nâu nhạt bắt mắt. Hì hục, khéo léo và hơi hồi hộp lo lắng nhưng rồi tôi cũng làm xong cái món nhậu đầu tiên trong đời cho ba tôi- cái dĩa mồi ruột khìa có một không hai đối với riêng tôi, thằng con trai mới vừa được 12 tuổi, sẽ học lớp đệ thất trường Phan Thanh Giản. 

 

  Trong một tạp chí phụ nữ nào đó của chị tôi, trong một mục nào đó mà tôi cũng không nhớ cái tiêu đề, nhưng tôi đã câu này rất rõ ràng,

 

    - Mỗi khi người mẹ vắng nhà, đứa con gái rất hạnh phúc vì nó có dịp gần với ba nó hơn, nấu một món gì đó cho ba nó ăn và nó mong đợi được ba nó khen tặng.

   Tôi không phải là con gái nhưng tôi đã rất hạnh phúc vì đã tự làm được một món cho ba tôi nhấm. Tôi cũng không phải mong được ba tôi khen tặng mà chỉ mong ba tôi hài lòng. Và khác với một đứa con gái nào đó, nũng nịu hỏi người cha,

  - Ngon không ba?Ba ăn thêm đi ba!         

 

  Tác giả của câu đó không ngờ rằng con trai cũng có thể làm được điều đó. Và vì là nam nhi, thằng con trai nào đó chỉ cần được nhìn thấy ba nó gật gù, ăn ngon miệng. Hoặc trong khi ba nó đang thưởng thức cái món ăn gì đó mà nó vừa cố gắng nấu xong, nó sẽ đứng nép vào cái đùi đang nhịp nhịp để nhìn rõ cái nét mặt, ánh mắt hoặc cái nụ cười vui lòng của ba nó mà lòng nó còn vui mừng hơn thế. Chắc chắn, sâu kín trong lòng, con bé gái ấy đang mong chờ một cái hôn của ba nó để chốc nữa đây khi mẹ nó về nhà nó sẽ hãnh diện kể lại cho mẹ nó nghe,

 

    - Mẹ biết không?

 

Mẹ nó nhìn xuống, vuốt tóc nó và âu yếm hỏi ngay,

 

    - Biết gì con gái cưng của mẹ?

 

Con bé chỉ chờ có thế,

 

   - Ba khen con nấu ăn ngon...ba còn hôn thưởng con nữa đấy.

 

   Tôi không cần ba tôi hôn và tôi cũng sẽ không kể lại cho mẹ tôi nghe chuyện này. Chỉ vì tôi không muốn nghe tiếng "hứ" của bà hoặc câu bà nói mĩa mai,

 

   -  Hay quá hén! Cha con gì...

 

  Tôi chỉ mong được làm cho ba tôi vui miệng, vui lòng để rồi tôi cũng sẽ được sung sướng...âm thầm trong lòng. 

 

    Trưa hôm đó, như mọi khi, em tôi đi chơi hoang ở đâu đó không về ăn cơm. Nếu mà nó có biết tin có ba tôi ghé lại nhà hồi sáng nay chắc nó sẽ ở lại nhà, quấn quýt, hỏi chuyện ông. Ba tôi một mình đã nhâm nhi hết đĩa ruột khìa ở nhà. Tôi lén đứng nhìn ông khi ông ta uống cạn hai chai bia như không có việc gì lạ, gật gù ra vẻ hài lòng, không có điều gì khiến ông bực mình. Tôi thấy ba tôi thật khác thường. Ông thâm trầm, bình tâm và hài lòng trong cái mái nhà mà ông đã không hề biết má tôi đã đổ ra biết bao nhiêu là mồ hôi, nước mắt mới tạo ra được. Có thể ông ấy chỉ ung dung nghĩ rằng,

    - Mỗi khi chờ tụi nó lo thanh toán tiền bạc, ta cứ ghé về nhà nghỉ ngơi qua buổi trưa.

 

   Ba tôi đã thật vô tình đã trước đó không hỏi chúng tôi về những món ăn ông ta gọi ở nhà hàng Vĩnh Ký cách đây gần 2 năm và bây giờ ông đã vừa thật vô tình đã không hỏi xem ở đâu ra cái đĩa đồ nhấm đó. May mắn thay- đối với tôi- ông đã không hề cố ý “kèm rèm” một chút gì về mẹ tôi. Ông đã vô tình quên hỏi hang gắt gỏng gì về hai anh em tôi và nhất là ông đã rõ ràng không nhìn thấy tôi nảy giờ đã đứng khép nép ở một góc, kéo cái vạt áo sơmi lên chùi đôi mắt ướt nhẹp đến mấy lần. 

 

   Cái đĩa kiểu màu sành trắng vẫn còn nằm yên trên bàn nhưng các miếng ruột khìa màu nâu tươi được tôi cẩn thận khéo léo thái đều vừa miệng đã không còn trên đó. 

 

   Không biết đến bao giờ tôi mới có thể làm cho ba tôi một đĩa ngon hơn thế, đẹp hơn thế, nhiều hơn thế để ba tôi ở lại nhà lâu hơn như tôi hằng mong đợi.

Rạch Giá, ngày 27- 8- 2016

     Lương Ngọc Thành

__________________________________________________________

 TỪ 20 ĐIỂM TOÁN CỦA THẦY PHI

 

    Tôi chưa hề giỏi môn toán hoặc đi học thêm môn học khó nhất này nhưng cái điểm 20 mà thầy Phi cho tôi đáng được đem ra làm một điển hình về chuyện vâng lời thầy cô và còn hơn thế nữa.

    Việc tôi vào được trung học Phan Thanh Giản từ trường tiểu học Tham Tướng đáng làm một kỳ tích, một niềm tự hào của gia đình tôi. Giống như bất cứ học trò mới nào khác, tôi đi học rất đều đặn và rất ngoan ngoãn. Các môn học trong lớp đệ lục đó đều mới mẻ. Các thầy cô dạy ở đây đều khác biệt với những ai đã dạy tôi ở cấp tiểu học. Tôi như lạc vào một thế giới mới. Áo trắng muốt như mây trắng trên vùng trời rộng tinh khôi. Quần xanh dương tươi thắm, màu truyền thống, như một báo hiệu của một bầu trời mới với trời xanh trong sáng, thành đạt, kỹ nghệ và ý chí. 

Mỗi khi vào lớp, thầy Nguyễn Tấn Lực làm như thể thầy là một vị tướng trong đám lính mới chúng tôi. Ở tiểu học, cô Thủy của tôi thật giản dị trong mọi lúc. Đến giờ đầu học toán. Khi thầy Võ Văn Phi ung dung vào lớp, thầy có hai điều khiến chúng tôi choáng ngợp. Thầy vẫn mang kính Rayban và lấy ống pip ra nhồi thuốc sau khi cả lớp chúng tôi ngồi xuống. Mùi thơm của thuốc “Half and half” tỏa khắp phòng học. Chúng tôi im phăng phắt chờ thầy bắt đầu bài học đầu tiên. Thầy kẻ nhẹ trên bảng một cái ô chữ nhật tượng trưng cho trang giấy trong vở. Thầy chậm chạp kẻ nhẹ nhàng từ trên xuống dưới bên phía phải của trang giấy tượng trưng cho đường kẻ màu đỏ nhạt, đường ranh giới của các dòng chữ. Thầy ôn tồn giải thích,

   “Các em kẻ một đường viết chì ngay giữa mỗi trang vở, không tính đến cái vạch đỏ này… Bên phía trái của các em, vẽ những hình mà thầy vẽ trên bảng. Phía bên phải, các em viết các định lý hay thí dụ.”

Tôi nhủ thầm,

   “Điều này thật dễ hiểu và rất nhẹ nhàng.” 

Thầy Phi căn dặn tiếp,

   “Em nào làm như vậy sẽ được tôi cho 20 điểm.”  

Tôi lập tức làm theo lời thầy mà không thèm quan tâm đến những đứa chung quanh tôi. Sau đó mỗi khi học toán hay làm bài tập ở nhà, tôi lần lượt kẻ viết chì “đường phân hai trang vở” như lời thầy Phi căn dặn ngày đầu tiên. 

Vừa ngậm ống pip, thầy Phi bắt đầu bài học. Thầy đọc chậm rãi và vừa đủ lớn cho chúng tôi nghe,

“Trong hình học Euclide, có một và chỉ có một đường thẳng đi qua hai điểm bất kỳ khác nhau. Đường thẳng này tạo ra đoạn nối ngắn nhất giữa hai điểm đó.”

Thầy chấm 2 điểm bên phần vở để vẽ hình và chậm rãi viết định lý Euclide bên phía bên kia. 

    Tôi làm theo những gì thầy trình bày trên bảng và không so sánh hay to nhỏ gì với 2 đứa bạn học ngồi bên tôi. Ở tuổi tôi thanh thiếu niên, chúng tôi đều có những tính cách giống nhau, lười, ngông, lơ đãng, lo lắng thái quá hoặc nổi loạn… 

    Với chiếc SS 67, tôi sau đó theo nhóm “chạy xe gắn máy” hơn nửa năm học. Có vẻ như tôi sắp sửa chểng mảng chuyện học. Có dư luận cho rằng tôi sẽ học yếu đi hoặc tệ hơn là ở lại lớp. Ngạc nhiên thay, tôi vẫn học đều và quan tâm đến tất cả các môn học. Với một học lực khá, tôi được các thầy cô bạn học trong lớp chú ý đến.

    Vào đầu giờ một buổi học gần cuối đệ nhị lục cá nguyệt, như mọi khi, thầy Phi từ tốn công bố,

“Ai có kẻ những đường viết chì trên tất cả các trang vở trong lớp? Mang vở lên đây. Thầy cho 20 điểm.” 

   Lớp tôi bỗng im phăng phắt. Tôi nghe được vài tiếng tặc lưỡi tiếc rẻ hay lo lắng rằng thầy sẽ quở trách chúng tôi. Chờ khoảng 2 phút, tôi đứng lên và bước lên phía bàn của thầy. Cả lớp thở phào và nao núng vì không thấy đứa thứ hai bước lên bục gỗ. Chỉ có mình tôi làm theo lời căn dặn của thầy. Và đúng theo lời hứa, thầy cho tôi 20 điểm. Không ai biết liệu rằng có đứa nào ở lớp khác đã được như tôi không và thầy cũng tuyệt nhiên không hề nhắc đến chuyện đó nữa. 

 

   Một lời khuyên bảo giá trị xứng đáng được mọi học trò ở mọi thế hệ noi theo. Tôi không quá mừng rỡ hay tự hào vì cái điểm đó nhưng chuyện này đã âm thầm vào trong tâm khảm của tôi.

 

   Bốn mươi năm sau, khi đang dạy Anh Văn một lớp thiếu nhi, tôi tuyên bố,

  “Lời bài hát "How can I tell her"này của người lớn. Các em chỉ đặt trước câu chữ “mom” và chữ “she” trong bài này sẽ ám chỉ mẹ của các em. Ai làm được như vầy, thầy sẽ cho 200 điểm.”  

   Tuần sau đó, những đứa trẻ trong lớp có thể quên lời tôi căn dặn. Trong khi chờ cả lớp viết bài, tôi nhắc lại những gì thầy Phi đã làm cách đó 40 năm,

 

 “Ai có đặt chữ “mom” vào các câu của bài này? Mang vở lên đây.”

 

  Thu Trang, học lớp 4, 10 tuổi, có một người cha vô thừa nhận. Dĩ nhiên, Trang thương mẹ nó nhiều hơn những đứa khác. Bé gái rụt rè nhút nhát đó đã mang quyển vở lên bàn tôi. Không có ai khác nhúc nhích gì. Xúc động mạnh, tôi cảm thấy lạnh trên ngực, nước mắt tôi ứa ra khi tôi đọc,

 

 “Mom, how can I tell him about you?”

 

  Sau đó 8 năm, tôi có dịp dạy Anh Văn tại trường Infoworld School ở Sài Gòn. Cũng trong khi dạy bài hát, “I have a dream”, tôi căn dặn học trò làm vài thay đổi nhỏ câu đầu tiên. Tôi cũng rất xúc động khi có một nữ sinh, từ câu,

“I have a dream a song to sing” đã viết lại thành,

“I have a mom a dad to love.”

 

     Lời dạy của thầy Phi, và của các thầy cô khác nữa, cho đến ngày nay đã giúp tôi có những sáng kiến, những thay đổi. Mọi học trò của tôi giờ đây viết từng câu tiếng anh dài suốt 2 trang vở và mỗi câu cách nhau 2 ô chữ. Ai nấy đều thấy rằng, từng câu dễ đọc, dễ nhớ và nhất là dễ so sánh câu hỏi phía trên với câu trả lời phía dưới.

     Thầy Phi ơi! Em rất muốn các học trò phải nghe lời thầy cô như cái cách em đã nghe lời thầy cách đây 48 năm.

     

 Rạch Giá Dec 15, 15

 Lương Ngọc Thành

____________________

PTG_PicinSchoolYard_new.png

  TÔI VÀO TRƯỜNG PHAN THANH GIẢN

    Là một hạ sĩ quan ngành Y Khoa Phòng Ngừa, ba tôi thường được thuyên chuyển đi công tác tại nhiều bệnh viện khác nhau. Má tôi được học rất ít ở một trường làng rồi bị bà ngoại ép lấy chồng lúc 14 tuổi. Cả  ba má tôi không có những kiến thức, sở học, kinh nghiệm sống để hoặc dạy bảo con cái hoặc có kỳ vọng anh chị em chúng tôi sẽ có một học lực cao.

    

    Giữa năm 1959, thuyên chuyển đến bệnh viện Pleiku không bao lâu, ba tôi may mắn trúng thầu Câu Lạc bộ trong bệnh viện quân đội đó. Nhân cái cớ về quê tìm người giúp việc, ba tôi từ Gò Vấp, Sài Gòn đưa lên Pleiku một người đàn bà vừa mang bầu 3 tháng với ông. Không bao lâu sau, cái cơ đồ kinh doanh ăn sáng, cà phê, rượu bia, cơm tháng cho lính và sĩ quan độc thân, bàn bida, trong câu lạc bộ...vừa mới được ba má tôi gầy dựng vài tháng bị sụp đổ tan tành. Cái chuồng chim bồ câu ba má tôi đang gầy dựng được 30 con bỗng một buổi chiều không có con nào bay về. Đàn dê 10 con đang phát triển nhanh mạnh khỏe cũng dần dà bỏ ăn, đi lạc, bị trộm bắt mất. Nhiều người cho rằng đó là một điềm gỡ. Những người làm, phụ bếp và bếp trưởng cùng lúc xin nghỉ việc. Cái câu lạc bộ của ông bà Lương Văn Giỏi phải thay đổi chủ.

   Từ khu vực quân sự, sau cái biến cố gia đình đó, chúng tôi dọn ra ngoài để tạm cư tại một khu dân cư nhỏ khoảng 20 gia đình tại thung lũng phía dưới cây số 3. Nhà tôi ở khoảng giữa đoạn đường từ quân y viện đến khu vực phố chợ của thị xã. Kí lô mét được tính là đơn vị đo khoảng cách từ khu vực quân sự đến khu thị xã, nên địa chỉ của nhà tôi là Cây số 3; trùng tên với Nhà máy cán đá số 3.

  Tôi học tại trường Mẫu giáo Thánh Tâm còn chị tôi đi học trường tiểu học thị xã Pleiku. Đó là cách đi đến trường duy nhất, cách đi học duy nhất mà hai chị em tôi phải chấp nhận học. Những ngày mưa dầm, từ khu vực dân cư dưới thung lũng, hai chị em tôi đội áo mưa đi bộ trên con dốc thoai thoải trơn trượt để lên đến lề đường. Hai chị em tôi thường phải trú mưa tại nhà máy cán đá đấy để chờ đón xe quá giang chạy ra hướng thị xã để đến trường. Tôi đã phải theo người chị gái đón xe GMC, Dodge ngay cả xe Zeep lùn của quân đội để đi đến trường trong khu thị xã. Đoạn đường dài 3 cây số với nhiều đồi dốc cao chập chùng, hai bên đường đất đỏ không có dân cư sinh sống. Mỗi khi thấy tôi bị thấm nước mưa ướt lạnh run rẫy, người tài xế kéo tôi ngồi chồm hổm xuống sàn xe để hơi nóng của động cơ xe tạt vào người tôi, sưởi ấm cho tôi. Buổi chiều về, từ nhà máy cán đá số 3, hai chị em tôi nắm tay nhau, bấm chặt các ngón chân trên nền đất đỏ chai cứng trơn trợt để không bị té ngã. Có lẽ, ít có ai đi học mẫu giáo cái cách giống như hai chị em tôi.

   Hơn hai năm sau, ba tôi lại thuyên chuyển đến Bệnh Viện Quân Y Quy nhơn, nơi tôi học lớp nhất và nửa năm lớp nhì còn chị tôi đi học tiểu học Bồ Đề một cách rất bình thường. Tôi một mình, chân trần đi dọc theo bờ biển để đến trường- mà bây giờ tôi không còn nhớ tên. Tôi đã không hề có một kết quả tốt, một điểm cao nào hoặc một ký ức, hoài niệm nào về trường lớp ngoại trừ cái giọng nói khó nghe của đồng môn và thầy cô giáo. 

   Hai chị em không hề kể cho nhau nghe về việc học của nhau và chúng tôi cũng ít để tâm đến chuyện thằng Tài em út, nhỏ hơn tôi hai tuổi, học hành ra sao, có ưu khuyết điểm gì hay không. Việc đi học của chị em tôi cứ như là việc cái quả lắc đồng hồ đu đưa qua lại. Khác lạ hơn bất cứ bậc cha mẹ, phụ huynh nào, ba má tôi cũng không hề nghĩ tới việc chúng tôi đi học thế nào, lo lắng kết quả học cuối năm sẽ ra sao. Và hai ông bà cũng ít phải chăm sóc bữa ăn sáng hay quà bánh ăn giờ ra chơi. Không biết có phải vì tiền lương hạ sĩ quan của ba tôi có hạn, ba má tôi chẳng phải tốn tiền mua sách vở, quần áo đồng phục gì cho chúng tôi cả. 

    Và rồi đến cuối năm 1963, chúng tôi đã đến Cần Thơ, nơi tôi thật sự có một thay đổi lớn nhất trong đường học vấn trong khi chị tôi vẫn phải theo học tư thục, trường Võ Văn. Có thể vì không thân thiết gần gũi và chia sẻ với nhau, tôi không thể kể ra một điều gì, chi tiết nào về chuyện học hành của tôi ở cái trường mới chuyển đến cho chị tôi và em trai tôi nghe. Và mắc cười thay, họ cũng làm điều tương tự. 

   Thay đổi chỗ ở trọ đến 5 lần, từ khu gia binh gần Chùa Kiến Quốc- lộ 20, một cái hẻm nhỏ bên bờ sông Cái Khế, hẻm 2 gần nhà thờ Tham Tướng, đến xóm nhà sàn trong hẻm 5 đối diện bệnh viện Quân Y Phan Thanh Giản. Sau cùng, chú Hải và ba tôi dựng lên 2 căn nhà lá liền vách một cách tạm bợ xơ xài để tránh cái cảnh phải chật vật trả tiền thuê nhà hàng tháng. Nằm cạnh bên Khu Văn Hóa khang trang, thiết kế mẫu mực, vừa mới được xây dựng xong, nhưng chúng tôi đã không có điện, nước máy để sử dụng vì căn nhà lá ọp ẹp được lén lút dựng lên tạm bợ đó không hề có giấy phép xây dựng. 

Tôi đã nghe lóm ông đại úy Phong, người đơn vị trưởng của ba tôi nói để khuyên răn ba tôi, 

   "Hoàn cảnh thật sự tạo ra con người chúng ta hay sao? Con người có phải là một sản phẩm của hoàn cảnh không?."

     Không hiểu sao, tôi còn bé nhỏ như vậy mà cứ suy nghĩ về câu nói đó.

    Sau đó không lâu, ba tôi đưa gia đình thứ hai của ông từ Sài Gòn về tạm sống ở trên lộ 20, và từ đó chúng tôi đã không hề có được một ngày đầm ấm, một buổi cơm nào ngon miệng với đầy đủ 5 người trong gia đình. Chị tôi rất có thể phần vì có học lực dưới trung bình, phần vì ít lo cho em út, nên thằng em trai tôi và tôi phải tự lo việc học, tự đi đến trường với bộ đồ không được tươm tất sạch sẽ như bao đứa nhỏ trang lứa khác. Để có thêm chút đỉnh tiền cho gia đình, má tôi phải nhận giặt ủi đồ và phụ việc nhà cho khu gia binh gần bên.

   Không thông minh, không có sự chăm sóc, giáo huấn nào từ ba má tôi, chút ít giúp đỡ hướng dẩn nào từ bà chị, tôi tự một mình lo mọi việc đến trường. Chưa bao giờ có điểm cao, được một thầy cô nào khen, và tôi chưa bao giờ lảnh phần thưởng cuối niên học. Cũng chưa bao giờ có một người bạn học cùng lớp nào mách bảo, một thằng bạn hàng xóm nào có một đức tính tốt, tôi phải tự thân cố học và chỉ có một học lực gần mức trung bình. Tự nhận biết không có một ưu điểm hay năng khiếu gì, vốn đã  không có một sức khỏe tốt, tôi phải tự thân âm thầm, kiên nhẫn tiến lên như cái cách một con rùa mới nở trong cuộc đua với những con rùa anh em mạnh khỏe khác để chạy nhanh ra biển hòng tránh phải làm mồi ngon cho những thú đói háo ăn, diều hâu hung tợn đang chờ sẵn. Nếu may mắn, rùa con thoát ra biển rồi lớn lên. Có lắm lúc, một con rùa trưởng thành phải kiên trì chạy đua đường trường với một con thỏ nhanh nhẩu để dành chiến thắng. Tôi ngẫm nghĩ tôi phải như con lạc đà con mới được mẹ sinh ra. Nó phải tự cố đứng lên sau cái hít của mẹ nó và rồi tập tễnh bước theo mẹ đi kiếm ăn. Tôi tự so sánh tôi như một cây non yếu ớt khác tự vươn lên trong một cánh rừng nhiệt đới rất rậm rạp, có côn trùng sâu bọ, nhiều nguy hiểm rình rập.

   Đầu năm học lớp ba, một biến cố khác đã xảy ra trong gia đình tôi. Năm 1965, sau khi không chịu được rất ít tiền lương và về nhà với 4 mẹ con tôi, bà âm thầm có một quyết định. Mẹ tôi nộp đơn xin ông đơn vị trưởng của ba tôi can thiệp, giúp đỡ chuyện gia đình chúng tôi.  Ba tôi bị buộc phải ký giấy chia lương làm hai, bị thuyên chuyển ra Quy Nhơn. Ông mang gia đình thứ hai với bà kế mẫu và 2 đứa con theo ông ra tới tận cái xứ biển xa xôi đó; bỏ 4 mẹ con chúng tôi lại Cần Thơ. 

   Nhận được phân nửa tiền lương tháng của ba tôi, nhận được căn nhà lá tềnh toàng dột nát, má tôi tìm cách nuôi 3 đứa con và tìm đủ tiền để thay đổi căn nhà cũ kỹ và cái hoàn cảnh bi đát khi đó. May mắn thay, bà tìm được một công việc khá ổn định- dọn dẹp làm vệ sinh căn cứ quân sự trên phi trường Bình Thủy. Tôi đoán là chị tôi đã bỏ học giữa năm học lớp đệ tứ để phụ giúp mẹ tôi một tay. Vốn đã chểnh mảng việc học hành, hoặc cũng có thể nó giống ba tôi, em tôi rời thế giới học đường để bước vào một thế giới mới với những đứa cùng hoàn cảnh, tâm trạng với nó. Nó thường vắng nhà, lêu lỏng, phá phách và trở thành một thằng du đãng, hút xì ke có tiếng ở Cần Thơ. 

   Ngày càng cô độc, bi quan, yếm thế, ngày càng lo lắng cho những tháng ngày sắp diễn ra trong đời, tôi càng lo học và tôi bắt đầu phải xách cái giỏ bàng nhỏ đi chợ nấu ăn cho 4 người chúng tôi. Ngắm nhìn những gia đình công chức trong khu văn hóa ngay trước nhà tôi, tôi thấy rõ người cha công chức ăn mặc chỉnh tề, đi xe gắn máy mới; chở một đứa con mặc đồng phục. Hoặc tôi cũng thường thấy người mẹ ăn mặc đẹp nắm tay con đi ra tiệm hay ra chợ. Vào cuối tuần, cả ba người cùng trên một chiếc xe gắn máy vui vẻ đi ăn tiệm hay một nơi vui chơi nào đó.

   Tủi cho thân phận, thường xuyên đóng kín cửa nhà, tự giam hãm trong một không gian chật hẹp, tôi luôn luôn tự nhủ,

   - Chỉ nhờ vào một học vấn tốt ta sẽ thành một người như ông công chức kia. Chỉ có học giỏi, ta mới có thể thoát ra cái hoàn cảnh này.

   Càng ngày tôi càng thấm thía những lý do lạ lùng, nhiều điều khó hiểu của những sự xung đột, tranh giành trong đời mà trong tâm trí tôi nó cái gì đó rất kỳ bí. Tôi thường tự hỏi tại sao chú Nhuệ, làm việc cùng đơn vị với ba tôi, suốt ngày chăm sóc lo lắng mọi việc trong gia đình chú. Tôi buồn bả khi không được một chút chăm lo nào từ ba tôi. Chú Hải, ở cạnh bên nhà, thường đưa gia đình chú đi ăn tối, đi chơi cuối tuần, hoặc việc chở hai thằng con trai của chú đi học. Nhưng ba tôi chưa bao giờ làm những chuyện đó. Tôi ray rức khi so sánh chú Nhuệ, chú Hải với ba tôi mỗi khi tôi nghĩ về chuyện chia ly của ba má tôi. Tôi cũng tìm tòi, tự vạch ra một khuyết điểm gì đó của mẹ tôi khiến bà đã bị ba tôi ruồng bỏ. Tôi thắc mắc tại sao ba tôi có thể thản nhiên bỏ mặc chúng tôi. Càng suy nghĩ, tôi lại càng có thêm một động lực mới thúc đẩy, một ý chí học thiệt giỏi.

    Luôn ao ước những niềm vui hạnh phúc gia đình, tôi thèm có một người cha rất bình thường, một nông dân như cậu Tư của tôi, một phu xe xích lô như dượng Bảy, một người tài xế xe đò nhỏ như dượng Út kế bên nhà hoặc như bất cứ một người đàn ông bình thường nào khác. Chỉ vì tôi đã nhận thấy mấy đứa em bà con của tôi, nhiều đứa cùng trang lứa có nhiều nụ cười, có vẻ mặt hân hoan hơn và sống hạnh phúc hơn tôi. 

  Tôi chưa hề có sinh nhật, chưa hề biết chơi một môn chơi nào mà trẻ con thường thích thú. Tạt lon, cút bắt, thả diều, vít hình, đá cá lia thia, đá dế hay bắn đạn bi là những thứ tôi chưa hề biết chơi qua. So với  tất cả tụi nó, anh em tôi thường mặc đồ cũ kĩ, áo sờn vai, quần xà lỏn rộng thùng thình bạc màu. Chúng tôi nhìn giống hệt như con mồ côi. Tôi không thèm so sánh hình thức bên ngoài nhưng tôi đã tự nhận thấy rõ ràng quả tim của hai anh em tôi chắc chắn phải trống trãi, khô khan lắm. 

  Vốn ốm yếu, thường bị chóng mặt nhức đầu, tôi phải nhờ bà hàng xóm cạnh nhà cạo gió mỗi khi có nắng sớm mưa chiều. Vốn dễ bị tổn thương, tự ti mặc cảm, tôi co rút người lại trong lớp học, ít nói trong gia đình và tôi đã bị trầm cảm.

   Một chiều cuối năm nhiều lọn gió mát lạnh, như thường lệ, sau khi chuẩn bị cho buổi tối, quét dọn toàn căn nhà, châm dầu hỏa vào các cây đèn dầu lớn nhỏ, chùi sạch các bóng đèn, tôi mang cây đèn ABC sang nhà chú Hải cạnh bên để mồi đèn. Lần đầu tiên, chú ấy đã không nói gì với tôi. Vừa bước ra khỏi cửa nhà chú, một lọn gió mạnh đã thổi phụt tắt cây đèn dù tôi đã cố giang hết cở cái bàn tay nhỏ của tôi ra che cơn gió. Tôi phải quay vào nhà chú để mồi đèn lại. Không những không gíup tôi rút cái bóng đèn vừa mỏng vừa nóng khó cho tôi cầm giữ, chú liếc nhìn tôi một cách bực bội, buông lời mắng mỏ tôi,

   - Mồi đèn, mồi đèn hoài! “Cái nhà gì” mà không sắm nỗi một cái hộp quẹt chứ hả?

  Tôi phải cố kềm lại hai giọt nước mắt vừa sắp tuôn trào ra. Tôi cắn chặt hai hàm răng có hơi phạm vào cái môi đưới đau điếng. Một thằng nhỏ trong gia đình trống vắng không có người cha, và mẹ nó đang còn đi làm như tôi vừa bị la mắng oan uổng. Không ai hiểu tại sao tôi đã khóc từ lúc quay lưng để cản gió, lùi bước chầm chậm, bưng cây đèn vô nhà cho đến khi lên giường và suốt đêm hôm ấy. Và tôi đã tự hứa với lòng,

   - Không bao giờ để ai có thể rầy la ta nữa! Không bao giờ để cho ai mở miệng nói ra ba chữ “cái nhà gì” khó nghe đó nữa! Không để ai coi thường gia đình của ta nữa! 

Và thêm một lần nữa, giống như Trần Quốc Tuấn bóp nát trái cam, tôi thề rằng,

   - Ta sẽ phải học thật giỏi, phải lo việc nhà thật chu đáo!  

   Từ ngay hôm sau cho đến nhiều năm sau đó, tôi chưa hề qua nhà chú Hải, không hề xin hỏi nhờ chú hay thiếm một điều gì nữa cả. Thằng Hùng, học lớp tiếp liên Minh Nhựt-Văn Đạt và em trai kế nó, Việt, học trường Nam, có khi qua nhà tôi chơi với em tôi.  Còn tôi ư! tôi đã lầm lì, không bao giờ hỏi han hay bắt chuyện gì tụi nó. Tôi không còn thèm cái cảnh đứa con được cha nó chở đi học bằng xe gắn máy như chú Hải ba tụi nó chở hai anh em nó đi học bằng xe gắn máy hiệu Brigestone mới toanh đó nữa.   

   Tôi chú ý thấy áo sơ mi trắng tinh của tụi nó được thiếm Hải mẹ của tụi nó ủi phẳng phiu. Tối đến, tôi thấy chú Hải ngồi giữa hai thằng “quý tử” để chú ấy truyền lửa hay khảo bài, chỉ dẩn làm một bài toán đố quá khó nào đó hay dạy tụi nó viết câu mở đầu khi làm một bài luận có cái đề khó viết. Tự nhìn lại mình, tôi bỗng xiết chặt hai bàn tay, bậm thật chặt đôi môi,

   - Ta sẽ phải cố gắng gấp đôi tụi nó.

Và nếu có quả cam trong tay, chắc tôi sẽ bóp nát nó như Trần Quốc Tuấn đã làm. Nhưng tôi sẽ nói ra một câu khác,

    - Ta sẽ học giỏi, sẽ trở thành một công chức hay sẽ thành một người hữu dụng trong xã hội.

    Mỗi khi nghe thoại kịch của Túy Hồng trên radio, tôi ghi nhớ những mẫu đàm thoại của các nhân vật. Vài lần đi xem phim tình cảm xã hội có phụ đề tại rạp Huỳnh Lạc hoặc Casino, tôi khắc ghi các câu hay trên màn bạc vào tâm trí non nớt của tôi. Trong nhà tôi, trên hai cái vách lá được lợp khá thưa thớt, không hề có cái kệ sách như các căn nhà khác. Nhiều người cha đọc nhật báo hằng ngày và con cái của họ có quá nhiều thứ trên tờ báo đó để đọc, để hỏi và hiểu biết thêm nhiều điều ngoài cái phạm vi nhỏ hẹp trong gia đình. 

   Vì không có cha, tôi không có gì để đọc. Nhưng tôi có một khối óc biết suy nghĩ, một ý chí vượt lên như cái cây non ốm yếu trong một khu rừng nhiệt đới um tùm rậm rạp kia vậy.

    Tôi thật vui mừng khi có hai thằng nhóc mới đến ở đậu nhà của dượng Út Thơ để đi học. Tôi bắt chước theo hai anh em gốc Hoa từ Phong Điền mới ra Cần Thơ này. Tôi đã không tò mò hỏi han chúng nó và tụi nó cũng không tự động kể ra hoàn cảnh gia đình. Tụi nó lượm củi vụn ở cái vựa cây tràm ở cuối hẻm để làm củi chụm. Sáng sớm, hai đứa nó rảo quanh chợ Ninh Kiều để lượm các thứ rau cải bị người bạn hàng lặt bỏ để đem về luộc hay xào làm món ăn chánh. Hai thằng không biết tắm với xà bông cục “Cô Ba” và cũng không đánh răng với kem “Hynos” như hai anh em tôi. Tụi nó không có ai ra thăm nom và cũng chẳng có ai gửi cho vật dụng, thức ăn đồ uống gì cả. Khi mới đến đây, hai anh em nó có khệ nệ vác theo một bao gạo và một bao vải đựng quần áo tập vở. Hình như dượng Út Thơ có quen biết với ông bà của nó. Dượng cho tụi nó ở đậu trong phần trống của gian bếp sau nhà.

   Hai anh em nó thật gần gũi và thương yêu nhau. Khi thằng Tỷ- đứa anh- đang vo gạo, thằng em trai- Túc- đang hì hục nhúm bếp, canh lửa nấu cơm. Hai đứa cùng nhau nhặt lựa ra các lá hẹ, lá bắp cải bầm dập. Khi đứa này đang cắt bó hẹ ra 3 đoạn, đứa kia đã đặt cái chảo lên bếp chuẩn bị cho món hẹ xào mỡ. Khi thấy cách hai anh em quấn quít bên nhau, cách tụi nó ăn cơm trắng với hẹ xào hoặc cải luộc, chấm nước mắm tỉn mặn lè, tôi mới nhận ra rằng anh em tôi còn quá hạnh phúc sung sướng. Tôi tự dặn lòng,

  - Ta cũng có thể làm những điều tương tự thậm chí là còn hơn thế nữa.

   Sau khi về xóm này được một tuần, Tỷ và Túc bắt đầu công cuộc mưu sinh bằng cách bán bánh mì. Tụi nó đi ra lò bánh mì từ lúc 4 giờ rưỡi sáng để chờ lò bánh điện mở cửa. Sau khi có “hàng”, chúng nó hoan hỉ nhanh chân vác hai bao bánh mì nóng hổi trên vai về để đi rao bán lẻ lại cho cư dân xóm tôi. Đi vòng quanh cái Khu Văn Hóa này mất chừng 20 phút. Nhưng nếu phải đi chậm rãi để rao, bán bánh, thối lại liền lẻ hay phải chờ chủ nhà mở cửa rào, hai thằng nhóc ấy phải mất gần một giờ. Đến khoảng gần 6 giờ, hai anh em nó cuốn hai cái bao không lại, hí hửng về nhà thay đồ đồng phục của trường Thọ Nhơn đi học. Hai thằng xấp xỉ tuổi của tôi sáng hôm đó đã kiếm được một số tiền lời mà tôi chưa hề nghĩ tới- 10 đồng.

    Thuyết phục thằng em lười biếng nhút nhát xong, âm thầm tìm mua 2 bao bột mì bằng vải bố, hôm sau, tôi đánh thức em tôi dậy rất sớm. Hai anh em tôi làm đúng theo những gì thằng Tỷ hướng dẫn để tập bán bánh mì kiếm tiền. Ngày đầu tiên đi bán hai anh em tôi kiếm được gần 8 đồng. Nó lăn kềnh ra ngủ khi tôi còn phải đi chợ nấu ăn. Tôi chiên trứng vịt để ăn 4 ổ bánh mì còn xót lại hồi sáng.  

 

   Chúng tôi đồng lòng giấu mẹ tôi chuyện này. Khi làm ca sáng, má tôi đi làm từ 4 giờ sáng. Chúng tôi ra khỏi nhà sau đó nửa tiếng đồng hồ. Ngày hôm sau mẹ tôi đi làm thay cho một bà bạn một ca buổi chiều, mẹ tôi chặn chúng tôi ngay cửa khi thấy hai thằng con trai nhỏ rón rén ra khỏi nhà lúc trời còn tối mịt, chưa có tiếng gà gáy.

   - Tụi con làm cái gì vậy? Đi đâu vào giờ này?

Tôi trả lời thay cho em tôi- còn ngái ngủ,

   - Dạ tụi con đi bán bánh mì.

Mẹ tôi nghẹn ngào và trào ngay ra hai giọt nước mắt,

   - Ai xúi biểu tụi con làm như vậy chứ.

Xoa lên tóc tôi, bà vừa nói vừa quẹt nước mắt,

    - Má chỉ muốn tụi con học giỏi thôi. Một mình má đi làm nuôi tụi con được mà.

    - Dạ con biết nhưng...

    - Ba má ít học nên mới ra nông nỗi như vậy. Con có thương má thì con chỉ lo học giỏi thôi!

    - Da, con hứa!

    Một lần hiếm hoi, theo hai anh em thằng Tỷ, thằng Túc đi tắm ở cái mương cạn nhỏ ở cuối hẻm Tài Xỉu Cuối hẻm có một hàng cây Gòn rậm rạp tiếp giáp với miếng ruộng, nơi có nhiều thanh niên che chòi để trốn quân dịch. Khi có quân cảnh bố ráp ban đêm, họ dễ dàng len lỏi trốn tránh khá an toàn. 

   Nhờ lần đi tắm mương này, tôi đã đi ngang qua một cái lớp học nhỏ nằm ở góc cuối hẻm Tài Xỉu. Tôi đã đứng dừng lại, tần ngần quan sát cái quan cảnh 6 đứa học trò trạc tuổi tôi, ngồi trên hai bộ bàn ghế bằng thanh tre gọn gàng.

  Thầy Lê Minh Phán từ đâu đó không rõ vừa về Cần Thơ định cư. Thầy dựng căn nhà lá nhỏ nhắn nhưng gọn đẹp cuối hẻm Tài Xỉu để dạy tập làm văn và toán luyện thi vào lớp đệ thất. Hai anh em thằng Tỷ- học trò trường Tàu Thọ Nhơn-  không hề để tâm đến cái lớp luyện thi đó nhưng tôi ngẩn ngơ suy tính mỗi khi đi học và về ngang cái lớp nhỏ xíu ấy. Tôi mím môi tự hỏi,

    - Không đi học thêm, làm sao ta có thể giải các bài toán động tử quá lắc léo hay viết các bài luận khó và nhất là làm sao thi đậu vào trường công được?

    Ông Năm bán nước đá bào không biết gì và cũng không bận tâm gì đến cái lớp học đó mà chỉ biết gần đây nhờ có một số con trai con gái đến đó học ông bào được nhiều ly nước đá bào nhận, chan xi rô hai ba màu nhiều hơn thôi. Nhưng bà Tư Mập bán tạp hóa quan tâm đến chuyện học hành hơn vì có một đứa con vừa đi quân dịch. Khi thấy tôi chầm chầm nhìn vào lớp, bà Tư vừa ra hiệu cho tôi bước lại gần bà vừa nói ngay,

   - Lợi đây học đi con. Tụi học trò ở đây nè đứa nào cũng khen thầy dạy hay, dễ hiểu lắm.

Tôi xấu hổ, nói lí nhí, 

   - Dạ, con không dám hỏi thầy.

Bà Tư Mập phì cười, 

   - Trời ơi, hỏi vô học mà làm gì không dám chứ!? Tội nghiệp quá đi, thôi để bà hỏi giùm cho nghen. Ừ, bà mà nói con là đứa mồ côi, hiếu học thì ông thầy Phán nhận con vô lớp liền cho coi.

Bà Tư nói trúng phóc. Thầy Phán nhận tôi vào lớp và xếp tôi ngồi trên cái ghế dựa trước cái bàn của thầy. Trông tôi cứ như một ông thầy giáo nhóc con; ngồi lọt thỏm vô bộ bàn ghế của giáo viên. Thầy cho tôi làm một bài toán động tử và viết một bài tập làm văn để biết sức học của tôi.

  Sức học của tôi đã tiến lên, khá lên theo hàng buổi học với thầy Phán và cô Thủy trong trường.

  Trong lớp nhất A, bao giờ tôi cũng được cô Thủy khen vì tôi rất chăm chú nghe cô giảng bài, viết bài nhanh cẩn thận và nhất là tôi không hề nói chuyện với ai chung quanh bàn trong giờ học cả. Khi nói về kỳ thi từ tiểu học vào trung học công lập đệ nhất cấp, cô Thủy thường nhắc học trò tụi tôi, 

   - Những em nào không đậu vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Nhưng học sinh trường công có một tiếng thơm hơn, được dạy dỗ tốt hơn...

Không biết ai khác trong lớp tôi nghĩ sao chứ tôi chỉ cần nghe đến việc "trả học phí" tôi đã rùng mình rồi. Ngay lập tức tôi tự hứa sẽ cố gắng gấp hai lần hơn những đứa học cùng lớp để đậu vào trường công Phan Thanh Giản và để có tiếng thơm cho má tôi. 

    Đậu vào trường trung học Phan Thanh Giản không dễ một chút nào đối với những học trò lớp nhất không vượt lên, không có một ý chí rèn luyện và đức tính tự tin. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất kỳ thi có tính chọn lọc khá cao, 60 phần trăm những trường danh tiếng như Phan Thanh Giản tỷ lệ trúng tuyển chỉ khoảng 1 phần 10.

   Thầy Phán dạy toán rất dễ hiểu và những đề bài tập làm văn rất hợp với suy nghĩ và hoàn cảnh của tôi. Thầy giải thích cách viết và thầy nhắc chúng tôi điểm quan trọng cần cho mọi đề bài. Khi thầy cho viết một đề bài đã ra thi trước đó 3 năm, "Điều gì làm em sung sướng nhất?"

  Tôi viết ngay cái mở bài thật nhanh,

   - Gia đình hạnh phúc là điều làm em hạnh phúc nhất.

  Khen tôi xong, thầy Phán giảng giải tiếp, 

    - Con viết được phần mở đầu nhanh gọn như vậy xong con sẽ có rất nhiều hứng thú, thời gian cho hai phần còn lại. Nhớ rằng trong kết luận con như viết tóm lại những gì con mới viết nhưng có một câu thiệt xúc tích. Thành, viết thử cho thầy một đề bài nào con thích cho thầy coi coi.

   Nhanh lẹ, tôi viết một mạch về những gì lâu nay tôi suy nghĩ. Tôi đưa vài câu phụ đề hay vài từ ngữ hay lạ trên màn bạc xuống trang giấy làm bài, 

    - Sống cuộc sống mình mong muốn chính là những ngày tháng tươi đẹp nhất và cách sống mà mình muốn mới chính là cách sống tốt nhất.

  Khi tập viết đề bài ,"Tả một ngày vui trong tuổi thơ của em.", tôi đã viết về một ngày mà nhà tôi có nhiều tiếng cười nhất như thế này,

   -... Ba tôi quay qua hỏi chị tôi, "Má mày thôi ba ra thì con theo ai?"

   Chị tôi cười cười nói ngay, "Theo má." 

     Không giận chị tôi, ba tôi nắm tay hai anh em tôi hỏi cái câu tương tự. Hai đứa tôi không ai bảo ai, đồng thanh hô to, "Theo má."

    Má tôi từ nãy đến giờ ngồi im lặng, chờ xem ba tôi sẽ nói gì.

    Ba tôi nói lầm bầm, "Con gái theo má. Hai thằng con trai cũng theo má nữa."

    Bỗng ông đứng lên, nói lớn tiếng như một người tuyên bố điều gì quan trọng lắm vậy,

    - Vậy tao cũng theo má mày luôn!

Những tiếng cười giòn giã tự nhiên của gia đình 5 người chúng tôi chỉ vang lên một lần thôi và đó đúng là ngày tôi vui nhất.

   Tôi chưa bao giờ giỏi môn toán nhưng hình như những suy nghĩ toan tính, những phân tích tình lý của những chuyện xảy ra chung quanh tôi đã giúp tôi có thêm óc phân tích, lý luận và tôi ghi nhớ rất kỹ công thức hiểu thấu các cách chứng minh...

   Cô Thủy và thầy Phán có cũng một nhận xét, 

   - Thành học rất tiến bộ. Thế nào em cũng đậu năm nay.

   Tôi không có ai để kể lại cái câu khen ngợi của thầy cô như vậy nhưng mỗi khi tôi nhìn thấy thằng Hùng vò đầu bức tóc, thằng Hải cắn gần muốn đứt cái đầu cán viết, tôi lập tức ngồi học. Tôi viết nhanh như một nhà báo. Tôi làm các bài tập toán lẹ làng chính xác như mấy ông chủ tiệm người Tàu, hay người tài phú kéo lên, hất đẩy xuống mấy cái hàng nút trên cái "bàn tán" bằng gỗ đen bóng. Thấy tôi học hành chăm chỉ và tiến bộ, thầy Phán đã ân cần trao cho tôi 2 quyển sách. Chúng đã giúp tôi tăng lên một nấc học lực mới mà không có ai trang lứa tôi sánh kịp. Đó là quyển truyện "Người Anh Cả" của Lê Văn Trương và "380 bài toán đố" của Nguyễn Văn Tòng. Thầy nói với tôi, 

  - Con biết không, người Pháp nói, "Vouloir c'est pouvoir." Những gì con muốn đều khả dĩ thành hiện thực nếu con cố gắng.

  - Dạ nhưng con lo lắm thầy ơi.

Thầy Phán nhìn khắp phòng học một lúc, 

  - Con có biết ba nền tảng cho việc học là gì không?

  - Dạ, không. Con chỉ biết là con cố gắng hơn vậy thôi.. thưa thầy.

  - Con có đủ 3 nền tảng đó: Nhận xét nhiều, từng trải nhiều và học tập nhiều. 

Thầy Phán làm tôi hết sức ngạc nhiên,

   - Dạ con chưa hiểu hết ý của thầy.

   - Những ai lớn lên trong chăn êm nệm ấm, cơm ăn áo mặc thừa mứa, ba mẹ thương yêu cưng chiều nữa thì làm sao có cái nền tảng đầu tiên là nhận xét nữa...Con về viết thêm một bài nữa về những gì con từng trải. Con phải ghi nhớ rằng: 

     "Sự học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt lùi." 

 

   Trong những lớp học cuối cùng của lớp Nhất A, cô Thủy dặn dò riêng tôi một câu,

  - Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý. Em của Thành bỏ học sớm quá rồi có khi nó sẽ bất tri lý..

 Khoanh tay cảm ơn và chào cô, tôi hiểu ý cô dặn dò và hứa sẽ thành công, sẽ thi đậu vào đệ thất. 

 

    Tôi một mình đi tới trường Nam để thi vào trường Phan Thanh Giản. Đến giờ ra nghỉ giải lao, nhìn thấy cảnh phụ huynh chen chút nhau để có thể nhìn thấy con em họ bên trong, nhìn thấy những cảnh sát đi qua đi lại, xe quân cảnh đậu ngay góc đường, tôi thấy mình lớn hẳn ra. Nhiều thí sinh quanh tôi đây, thi vào trường công và học vì gia đình chúng nó. Tôi, đang làm điều tương tự, học vì cả cái dòng họ Lương bên nội và họ Lâm bên ngoại. 

   Tôi đã làm bài khoa học thường thức, "Bình thông nhau là gì? Nguyên tắc của bình thông nhau?" khá dễ dàng và đang chờ môn Việt Văn. Tôi đã viết trơn tru một mạch,

  -  Để biết mực chất lỏng trong một bình kín không trong suốt nào đó, người ta dựa vào nguyên tắc của bình thông nhau: một nhánh được làm bằng một ống thủy tinh nhỏ trong suốt. Mực chất lỏng trong bình kín luôn luôn bằng với mực chất lỏng mà ta nhìn thấy ở phần ống thủy tinh. Dụng cụ này được gọi ống đo mực chất lỏng mà ta thường thấy trong các bình hay thùng chứa xăng, dầu hỏa hay các loại chất nhờn khác.

 

   Đề bài, "Em hãy viết ra điều gì là em hối hận nhất?" làm tôi bừng tỉnh. Nó đã làm tôi cầm chặt cán viết xuống làm bài ngay, không cần viết nháp.

   Tôi đã nghĩ ngay đến thằng Tài em tôi. Và đúng là tôi đã hối hận vì tôi đã không hề thay mặt mẹ và chị tôi để theo dỏi, khuyên can và giúp nó học, ngăn cản việc nó đã bỏ học khi chưa xong lớp ba. Tôi đã làm bài tập làm văn một cách thật tự nhiên, 

  "...Em đang làm bài thi ngay lúc này và đứa em của em sẽ không bao giờ có cái giây phút này trong đời nó vì nó đã nghĩ học hai năm nay rồi. Giờ này em chỉ còn biết hối hận mà thôi. Thật đúng là, "Không nên sợ việc thất bại mà chỉ nên lo sợ vuột mất cơ hội để làm bất cứ một điều lớn nhỏ gì trong đời vì ngày hôm qua sẽ không bao giờ trở lại."

 

   Thật tội nghiệp cho cái thân "mồ côi mồ cút" của tôi. Chiều tối hôm qua, trong khi đốt nhang như hàng trăm buổi tối khác. Trước cái trang thờ Bà Mẹ Sanh, tôi cắm một cây nhang vào cái lư hương như bình thường. Nhưng trước cái trang thờ cạnh bên có cái hình ông Quan Công có gương mặt đỏ như máu, không biết sao tôi bỗng run run, hai bàn tay nắm cây nhang vừa xá 3 lần vừa lầm thầm khấn vái,

   - Con xin ông phù hộ con thi đậu đệ thất, con sẽ cúng ông một nải chuối.     

Tôi thấy tự mắc cở nên đâu dám kể cho má tôi nghe cái chuyện kỳ cục như vậy....

    Những ngày chờ đợi coi kết quả thi hình như dài gấp đôi gấp ba lần gì đó. Nhưng rồi nó cũng đến. Tôi không biết sao mà bên nhà chú Hải rộn ràng, tiếng chú hối thúc hai thằng quý tử của chú thay đồ để chú chở ra trường Phan Thanh Giản coi kết quả. Bên phía nhà, không có một tiếng nói, tiếng động đậy gì trừ tiếng đập thình thịch của trái tim tôi.

    Khi hai anh em thằng Hùng, Việt chuẩn bị leo lên cái yên sau của chiếc xe Brigestone của ba nó, tôi vuột miệng hỏi lớn,

   - Hùng ơi! Cho tao mượn xe đạp của mày đi coi kết quả luôn nghen, Hùng.

Nó hảo hớn, rộng rải nói ngay, 

   - Ừ! Vô trong nhà lấy đi.

Khi tôi dắt chiếc xe đòn giông của nó ra sân, cái vệt khói của chiếc xe hai thì của chú Hải như muốn bao trùm lấy người tôi. Nó như muốn nói với tôi rằng,

   - Mày chỉ là thằng hửi khói xe của mấy tay đua xe vọt trước mày rồi đó thôi, Thành ơi!

Thôi kệ, tôi lòn chân phải xuống dưới cái thanh ngang vì không tài nào tôi choàng chân qua tới được. Tôi phải ẹo cái lưng để đạp xe được hết những vòng quay của cái dĩa lớn...

   - Ai đến cứ đến! Rồi mình cũng tới nơi thôi!

    Tôi vừa thở dốc vừa đua tay phải lên quệt mồ hôi từ trán rịn xuống hai gò má ròng ròng. Một ít nước mắt vô tình hay cố ý chen vào mắt tôi làm nó cay xè. Có lẽ tôi đã khóc mà tôi không biết. Mọi người dò kết quả thi chung quanh tôi luôn có người đi cạnh bên. Họ vui vẻ hò hét với thân nhân hoặc leo lên yên xe ngồi chết lặng mặt mày tiu nghỉu. 

   Tôi đứng có một mình, cánh tay phải choàng trên cái ghi đông xe sợ nó ngã rớt hay ai đó vô ý lấn tôi để dành chỗ xem cho rõ những con số báo danh được viết bằng phấn trắng trên cái bảng màu xanh lá cây được treo dưới mái ngói. 

   Nhón người lên, ẹo cái lưng qua phía tay phải, ánh mắt từ hai con mắt hí của tôi như muốn rọi đốt cái bảng ghi số báo danh của thí sinh đậu. Cột này đến cột số khác...rồi đến gần giữa của cột thứ 6 hay 7 gì đó, tôi rú lên thầm trong miệng 1296- số báo danh của tôi.

   Trời ơi! Tôi đậu rồi! Không ai hay biết! Không có ai cười vui! Không có một tiếng nói nào được phát từ cái họng của tôi đang bị cứng ngắt như có ai vừa tọng vào đó một cái chày đâm tiêu hay một trái chuối già cui chưa chín tới. Tôi đớ lưỡi cứng họng. Tôi đứng chết trân như bị trời trồng.

   Trời đất như tối xầm lại. Mặt đất rung lắc như sắp có một cơn động đất mạnh 7 độ Richter. Chiếc xe đòn giông của thằng Hùng bỗng mềm nhũn; biến dạng thành một con tuấn mã trắng muốt. Tôi tự nhiên thấy người tôi cao lên mấy tấc. Chân trái đặt lên trên chỗ gác chân tôi choàng chân phải lên lưng con tuấn mã nhẹ nhàng. Tôi ghì dây cương, hít hai gót chân cho nó bước nước kiệu ra khỏi cổng trường một cách nhẹ nhàng, không nghe tiếng móng sắt nện xuống đường.

  Mặt đường nhựa tự nhiên biến thành mặt cỏ xanh mướt. Hai bên lề đường có nhiều hoa đủ màu mọc lên. Trời xế chiều bỗng trở nên sáng đẹp như đang ở giữa buổi sáng. Tôi chễm chệ trên cái yên ngựa tiến về nhà. Cái chòi lá xiêu vẹo, nơi che mưa nắng cho má tôi bán đủ thứ lặt vặt cho hàng xóm, bỗng biến thành một căn nhà xinh đẹp được trang hoàng rực rỡ.

   Nhéo mạnh vào cánh tay một cái, tôi giật mình. Cũng lòn chân xuống dưới cái thanh ngang của chiếc xe đòn giông, tôi đạp thật nhanh về nhà.   

 

   Trong khi má tôi nghe tôi nói lí nhí xin tiền để mua một nải chuối để cúng.., bà cũng nghe tiếng chửi bới hai thằng con cưng thi rớt của chú Hải.

 

    Dưới chợ trái cây, rau cải cuối đường Nguyễn Thái Học, trước mặt tiền chợ, bà Chín ngồi trong cái sạp bán chuối mỉm cười với tôi khi nghe tôi lễ phép xin bà cho tôi đổi lại nải chuối già mà tôi mới mua cách đâu nửa tiếng thành một nải chuối xiêm. Bà Chín đoán biết cái lý do nên hỏi tôi tỉnh bơ,

   - Ủa, hồi nảy sao con không có nói. Mua chuối về cho má con cúng phải không?

Chắc chắn bà Chín rất ngạc nhiên khi nghe tôi ào khóc nức nở,

  - Dạ không, dạ.. con... cúng thi đậu đệ thất. 

 

       Rạch Giá ngày 12-5-2018

       Lương Ngọc Thành

____________________________

   TÔI NẤU RƯỢU

 

    Sau khi bị một Công ty sa thải, học nghề của ông già vợ khoảng 2 tháng, tôi đã nấu rượu vừa trúng vừa ngon đến nỗi bạn bè, nhiều dân nhậu ở Rạch Giá và cả ông “thầy dạy nghề” bất đắc dĩ của tôi phải khen đáo khen để.

   Theo quy luật: “Ăn cơm chúa, phải múa tối ngày”, vì ăn cơm của gia đình vợ, tôi phải làm phụ việc cho gia đình vợ tối ngày thôi. Ông già vợ tôi đã từng nấu rượu ở mức độ 5 bao gạo “chỉ xanh” một ngày, đã xắm xe mô tô TWN- Boss và có cả chiếc ghe chở rượu. Nhiều lần xích mích với vợ, có một nhân tình, ông ta đã bỏ nhà và bôn ba ra tận Phan Rang, và cũng nấu rượu. Trở lại gia đình sau 20 năm, lần này ông nhạc gia của tôi quyết tâm lấy lại những gì đã mất, tình cảm, uy tín và nhất là tiếng tăm “nấu rượu”. Thằng em vợ và tôi, bộ đội xuất ngũ, vừa là thợ mới vừa là lao công. Khác với đứa em vợ, vô tư, hồn nhiên, tôi âm thầm quyết tâm học nghề với cái phương châm của Nông Lâm Súc Cần Thơ mà tôi khắc cốt ghi tâm từ khi và trường 1968: 

“Học để làm. Làm để học. Tạo tiền để sống. Sống để phụng sự.” 

Nó luôn nằm sâu trong tiềm thức, trong cách sống và cách tôi mơ về tương lai của tôi. Tôi luôn tìm học thêm nghề mới, luôn làm hết mình. Hồi còn làm việc cho một công ty, tôi đã tự tập kẻ vẽ bảng hiệu. Danh sách những nghề phụ của tôi luôn được kéo dài thêm ra.

   Năm 1984, khi mà mọi thứ đều hiếm hoi, mắc mỏ, người ta nấu mía cây để lấy ra thứ đường chảy. Phế phẩm của thứ công nghệ này được gọi là “mật mía hay bọt đường”. Chúng tôi nấu rượu từ cái thứ mật mía ấy, với loại men riêng, cách ủ và cách nấu riêng biệt. Đặc biệt nhất là cái tháp chưng cất. Nó vừa cao vừa có rất nhiều ngăn ngưng tụ. Rượu hứng được vừa không có mùi đường, mùi aldehyt và ceton. Nó vừa có thể được thưởng thức như một loại rượu gạo thứ thiệt với mùi ethanol đặc trưng- không cần phải dùng một ít gạo nếp lên men rồi cho rượu này chảy qua để che lấp mùi của các tạp chất. Hôm đi đám cúng 100 ngày cho Long K’hmer, tôi mang theo một bình 5 lít, 40 độ cồn. Dân Đà Lạt đón nhận nó như một loại rượu “ gạo miền tây chính hiệu”. Tụi nó pha với trà nóng và uống lấy uống để. Vừa buồn ở Bảo Lộc, tôi vui vì tôi đã một lần nữa mang đặc sản Rạch Giá lên Đà Lạt trong khi Hùng Sùi tuyên bố, “Thứ này còn ngon hơn rượu Khô Như Khương.” 

   Sáng sớm, tôi mang chuyển mật mía từ thùng phuy chứa vào các lu đất nhỏ hơn để ủ men. Lu đất- khoảng 30 kg- phải được sát khuẩn bằng cách đốt cồn phía vách trong và nước pha phải hơi hơi ấm- gần 50 độ C. Tôi phải trút bỏ hết  dung dịch trong lu nào không dậy men tốt, không bốc mùi thơm rượu. Quy trình ủ men phải được làm lại từ đầu. Tôi luôn làm sạch những dụng cụ chứa ủ men. Sau mỗi đợt nhập mật mía về, tôi phải chia đều vào mỗi phuy chứa. Hồi xưa đi học, trên Bảo Lộc, khi tôi phụ làm nem tại nhà Má Chánh được cả nhà khen ngợi. Giờ làm rể, ở với gia đình vợ, tại Rạch Giá, nấu rượu- việc không khó khăn gì đối với tôi, tôi cũng được bà má vợ khen ngợi. Tôi lầm lủi ngoan ngoản làm việc từ sáng sớm đến tối mịt. Ngoài việc nhập nửa tấn “nguyên liệu” mỗi 2 tuần khá nặng nhọc, phần việc chua nhất có là chụm lò trấu. Bụi trong trấu khiến tôi ngứa ngáy suốt ngày. Nhiệt độ từ lò nấu làm tôi nóng chảy mồ hôi suốt từ sáng sớm. Suốt ngày tôi chỉ mặc cái quần đùi. Ngồi chụm lò, tôi phải luôn để mắt vào cái “vỉ lò- ngăn bậc thang” ở miệng lò để gạt trấu đã cháy tàn- tro trấu, cho một số trấu mới tràn xuống. Tùy nhiệt độ trong lò và thời điểm bốc hơi rượu, tôi phải gạt mạnh nhẹ tay thế nào, thường xuyên thế nào để cho hơi rượu bốc lên tháp, ngưng tụ trong bầu và có được rượu nhiều nhất, cao “chữ” nhất và ngon nhất. Sau khi ông già vợ giận bỏ đi lần nữa, tôi trở thành lao động chánh trong gia đình và là thợ nấu chánh trong lò rượu lậu này. Tôi đã phải chạy chiếc xe gắn máy tồi tàn qua Long Xuyên, đến một địa chỉ chị tôi đã chuyển tiền từ bên Úc qua vào dịp tết- để xin ứng trước $100 Úc để làm vốn. Tôi sau đó chạy hàng vài chục cây số lên Hòn Đất để giao rượu hoặc thu tiền. Tôi phải chưng cất số rượu “thấp chữ”- ít độ cồn- để có một thứ alcol 85 độ cồn- cồn y tế. Tôi biết vô chai, in nhản hiệu và bỏ mối tại một số tiệm thuốc tây lúc bấy giờ. Thật ra, tôi đã trở thành một chủ lò rượu.

   Tôi tâm đắc cái bài học mà cuộc đời đã dạy tôi: 

“Cứ làm, cứ học, cứ chắc lòng chắc dạ và cứ sống như chưa bao giờ được sống một lần nữa vậy. Không có việc gì thấp hèn và không có nghề nào thấp hèn.” 

   Tôi cũng nhớ một câu trong hành khúc Nông Lâm Mục chúng tôi phải hát hàng sáng thứ hai ở cột cờ,

“Dầu núi sông bao la, dầu gió mưa sương sa, chúng ta không sờn chí trên vạt đường xa.”

Không vào được Đ.H Lâm Nghiệp, tôi qua Đ.H Sư Phạm Kỹ Thuật. Không làm việc cho nhà nước được nữa, tôi làm việc cho nhà vợ. Và nếu tôi không thể tồn tại ở Rạch Giá được nữa, tôi có thể qua Cần Thơ làm nghề gì đó hoặc lên Bảo Lộc cuốc đất. Thì chẳng phải ngay sau ngày giải phóng tôi đã theo Khuê Bầu lên Bảo Lộc làm rẫy đó hay sao? Thì chẳng phải tôi đã đào trộm khoai lang để qua hằng đêm lạnh trong ba năm học đấy sao? Thế tôi đã chẳng phải nào là đi đá chầu cho vài đội banh ở Thủ Đức, bán sữa đậu hàng nửa năm, dạy tại tư gia ở Rạch Giá, qua Cần Thơ phụ việc cho Khuê Bầu, bỏ mối cà phê giúp cho Thông Quắn đó sao? 

   Một tuần đúng 7 ngày, một tháng đúng 30 ngày, tôi làm việc như một người thợ lành nghề, nhưng không hưởng lương cao, không có cơ hội thăng tiến, không có đồng nghiệp, không có sick leave và không có wellfare. Vì có thói quen không ra khỏi nhà, có tính cẩn thận chu đáo, chịu học hỏi từ hồi còn bé, tôi làm ra một khác biệt khá đáng kể sau ba tháng thừa hưởng cái lò rượu ấy: năng xuất cao hơn, rượu ngon hơn và mọi thứ suôn sẻ hơn. Có một lò rượu đặt lấy cồn của chúng tôi để về pha. Có mấy thằng thanh niên- bạn nhậu hồi tôi còn đi làm- thích lên nhà tôi nhậu với “rượu do chính tay Thành Xì nấu”. Có hai kỹ sư Hóa Học đến đây để quan sát cái tháp chưng cất của chúng tôi. Có những bà bạn đã khen mẹ vợ của tôi,

“Bà thiệt có phước. Bà có một thằng rể thiệt xứng đáng.”  

Tôi đã thức rất sớm… để học bài hồi đi học, nay tôi lại thức sớm… để nấu rượu.

Quen vất vả từ thưở nhỏ, nay tôi không xem đây là chuyện vất vả. Tôi đã sống tốt đẹp mấy lần nghỉ hè trên Bảo Lộc trong gia đình Má Chánh thì nay tôi sẽ làm như vậy trong gia đình vợ một cách dể dàng. Trước đây, khi tá túc nhà Má Chánh, chỉ khi nào Long Kh’mer ghé nhà rủ, tôi mới theo nó đi ra ngoài. Nay tại Rạch Giá, không có ai như nó rủ tôi cả, tôi luôn luôn ở trong nhà sau giờ cơm chiều. Tôi đã thưa Má Chánh khi đi chơi với Long, nay tôi thưa bà già vợ khi có tụi bạn trẻ tuổi mang đồ nhắm lên nhà rủ tôi nhậu với rượu tôi nấu. Tụi nó cứ thắc mắc làm sao tôi có thể sống như thế được vì tụi nó không nhớ tôi đã kể tôi đã trải qua những năm tháng học trên Bảo Lộc như thế nào.

   Không ai hiểu rằng tôi sẳn sàng làm mọi việc đàng hoàng như thế này và sẳn sàng quên hết danh lợi. Họ có biết đâu rằng tôi đã chỉ vì mơ làm một kiểm lâm mà đã vào NLS Cần Thơ để có thể chuyển trường lên Bảo Lộc. Nay trong số họ, không ai biết tôi đã vất vả một mình trong lò rượu như thế nào đâu?  

 

                                                          Rạch Giá 15- 12- 2010

                                                                       Lương Ngọc Thành-TL 71-74- Bảo Lộc 

ThanhLuong_Nho Me.jpg

 TÔI DẠY ANH VĂN 

 

   Từ trường trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, ban Thủy Lâm, tốt nghiệp đại học, ngành giảng dạy Nông Nghiệp, ít có ai lại trở thành thầy giáo tiếng Anh như tôi và cũng ít có giáo viên tiếng Anh nào có những suy nghĩ, cách làm như tôi. 

 

      May mắn thay, tôi được mời đi dạy sau khi tôi mới có bằng A bởi vì tôi được xem như là một ứng cử viên sáng giá nhất lúc ấy ở trung tâm tôi đang theo học. Không có ai có thể tượng được tôi đã trước chỉ tập nghe được khoản một tháng với cái máy casstte cũ kỹ của vợ của Khuê Bầu- một dồng môn, trong lúc qua làm việc cho nó bên Cần Thơ. Vì trước đó chưa hề được đào tạo, tôi đã chọn cho riêng tôi một cách khi tôi dạy lớp đầu tiên cho người học vở lòng- vừa khó cho phía học trò và cũng vừa khó về phía tôi. Khi tôi được mời dạy một nhóm bác sĩ sản khoa, tôi đã phải lại có một cách khác.

 

    Kế tiếp tôi được mời dạy một lớp thiếu nhi, loại lớp khó nhất, cần nhiều năng khiếu, nhiều tố chất nhất. Tôi đã diễn xuất cả như một nghệ sĩ hài, kịch sĩ hoặc như một ca sĩ. 

 

    Trong khi các giáo viên cố che giấu họ trước đó đã học và hiểu như thế nào, tôi kể cho học trò tôi nghe hết mọi thứ về tôi. Những giáo viên áp dụng cái gì họ đã học trước đây trong khi tôi thực thi cái gì tôi có thể nhận ra trong khi dạy. Họ cứng nhắc, rập khuôn từng chi tiết nhỏ theo sách giáo khoa. Tôi linh động, sáng tạo và thay đổi phương pháp liên tục để củng cố nghề dạy học của tôi. Tôi tự dặn lòng rất nhiều điều. Tôi tự xét, tôi tự vạch ra mục tiêu để tăng tiến và tôi cũng đau khổ nhận ra rằng học trò thường học Anh Văn như cái cách của người nông dân ra đồng, cái cách mà một số ông bạn lười biếng của tôi đã làm trên Bảo Lộc. 

 

  Học trò thường nghỉ học hoặc đến sớm về trể, đóng học phí một cách tuỳ tiện. Họ không hiểu nổi rằng việc học Anh Văn giống như việc cải tạo đất cho nhiều năm sau sử dụng. Họ không công phu như một nông dân chân chính trong khi tôi vất vả tận tuỵ như một cán bộ nông nghiệp xã, ấp. Họ đã không đọc từ vựng cái cách tôi đã tụng các tên khoa học của cây rừng hồi ở Nông lâm Súc Đa số học trò khác hẳn với tôi người siêng năng tập nghe, mày mò nghĩ ra cách điểm tương đồng dị biệt trong các luật văn phạm.

 

   Qua một số bộc lộ của học trò, tôi nhận biết rằng dù họ không giỏi tiếng Anh nhưng họ khá giỏi trong việc nhận ra ông thầy nào ăn nói hay hơn hoặc dạy hay hơn. Đặc biệt họ cho rằng đồng tiền họ trả phải được đánh đổi bằng sự phục vụ của ông thấy giáo như một người khách đi massage hoặc một người thực khách trong một quán ăn vậy. Họ quên rằng một số lớn thầy giáo có sĩ diện có cái tâm có cái kinh nghiệm học và cái trách nhiệm dạy của họ. 

 

  Tôi bỏ nhiều giờ để điểm lại những học trò đã bỏ tôi bất thình lình và tôi có thể rút ra những bài học cho riêng tôi. Nhưng dẩu sao các cá biệt đó không thể đem đi so sánh được, áp dụng được.

 

   Tôi trình bày với học trò những kinh nghiệm tôi tự học, những khám phá của tôi về việc hiểu biết văn phạm thật nhanh và tôi đối với họ vừa như một phụ huynh nghiêm khắc, vui tính, tận tuỵ, và công bằng vừa như một đàn anh đích thực. Tôi so sánh cái khó của ngôn ngữ. Tôi chứng minh cái sai của các bài báo tiếng Việt. Tôi -theo cách ấy- có thể thành nhà ngôn ngữ học mất thôi. Tôi kể cho họ nghe những tấm gương xấu và tốt, những cách dạy và học Anh Văn ở trung học. Tôi cho họ biết tôi có cách riêng để tồn tại và tôi cũng đã và đang làm nên chuyện. 

 

  Tôi nhủ lòng nhiều lần rằng,

 

  - Tại sao họ bỏ ta? Tại sao họ không hiểu điều ta đã làm tinh giản dễ hiểu nhất? Tại sao ta không giữ được đứa học trò này? Tại sao ta đã không như thế này hoặc thế khác?

 

   Tôi cũng đã nhiều lần tự an ủi,

 

   - Cớ gì ta phải đi xét đoán những kẻ không biết điều, biết chuyện chứ. 

 

   Cái chuyện cần biết nhất là việc học một ngôn ngữ đòi hỏi rất nhiều sự nổ lực cá nhân chứ không phải của do công lao của ông thầy dạy hoặc những cuốn sách, giáo trình cái thứ mà một nhóm người nào đó dựa trên một số kinh nghiệm nào đó xây dựng nên cho một nhóm học trò nhất định.    

 

   Sau khi đứng dạy những lớp mới và rất khó như- Nhà Thờ Rạch Giá, Chùa Phật Quang, Công Ty Xi Măng Hà Tiên, Đại Học Ngoại Thương & Ngân Hàng, Cao Đẳng Nghề Việt Mỹ, Infoworld School, Bệnh Viện Bình Dân, Bệnh viện Bình An, mấy cán bộ trong ủy ban tỉnh, một nhóm bác sĩ Đại Học Y Dược hay một ông cha Phó quản hạt, tôi cảm thấy tự tin hơn rất nhiều. 

 

   Sau khi phiên dịch cho bệnh viện vài lần, tôi dạn dĩ hẳn lên. Sau tiếp xúc với các giáo viên có vẻ hơn mình, các giáo viên ngoại quốc hoặc Việt kiều, tôi cảm thấy yên tâm, vững vàng hơn. Khi làm bài tập hoặc nghe viết đọc, tôi cảm thấy mình nhỏ bé hơn. Khi cùng nhóm học trò thiếu nhi hát các khúc hát ngắn do tôi viết lời, tôi thấy mình trẻ lại. Và khi tôi viết ra những gì tôi đã trải qua những điều tôi chiêm nghiệm được, tôi cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhõm. 

 

    Khi tôi xin việc tại Công Ty Bảo Hiểm Manulife ở Cần Thơ hoặc Prudential Finance ở Sài Gòn, tôi tự tin trả lời rằng, 

 

  - Từ một học sinh Nông Lâm Súc tôi thành thầy giáo, và từ một giáo viên xoàng, nay tôi có thể dạy đủ loại lớp và lên Sài Gòn dạy 7 trường hoặc trung tâm ngoại ngữ Sài Gòn. Điều đó có thể chứng minh rằng tôi có thể làm được mọi chuyện tôi chọn hoặc muốn làm.

 

   Các thầy cô giáo ở Cần Thơ, Bảo Lộc ít nhiều gì cũng đã giúp tôi, đã tạo bên trong tôi cái chất sư phạm, cái lịch duyệt, cái bản lãnh cần có khi tôi đứng trước. 

 

  Ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, Thầy Phi dạy toán, Thầy Tấn dạy Sữ Địa và thầy Nguyễn Văn Sĩ Nghiêm dạy Anh Văn đã âm thầm giúp tôi thành người thầy. 

 

   Ở trên Bảo Lộc, thầy Minh Híp dạy toán, thầy Sáu Râu dạy Hóa Học, thầy Hy dạy Thủy Lâm, thầy Vũ Thủy dạy triết, thầy Hùng Đô La dạy Anh Văn và cô Nguyệt dạy Việt Văn đã làm tôi thích, hay nói cho đúng hơn là; yêu quý việc học. 

 

  Tôi hiểu và thông cảm khi thầy Lai Minh đỏ mặt, khi thầy Minh Luân nỗi giận. Tôi thầm phục Thầy Tân, lịch sự, hết lòng, tha thiết khi giải thích câu văn này, ý nghĩa nọ. Tôi hiểu tại sao thầy Niệm thường nhắc về trường Bảo Lộc. Mọi thầy cô giáo tôi đã học qua đều ghi nhận sự rõ nét chuyên cần hết lòng của tôi. 

 

  Các ông thầy đã phỏng vấn tôi trong những lần tôi thi ở đại học Ngoại Ngữ Hà Nội hệ Từ Xa, đều thích cái cách tôi trò chuyện với họ, các câu tôi phúc đáp, thậm chí chất vấn họ nữa. Tôi đã đặt những câu hỏi thí dụ như,

 

  - Theo thầy, làm thế nào để dạy giỏi nhất? hoặc,

  - Sau bao nhiêu năm dạy học, điều gì khiến thấy, cô, theo đuổi nghề nghiệp đến ngày hôm nay?

 

    Ít có ai trong số những giáo viên đang hành nghề đã từng đi học rất xa nhà, thất nghiệp, làm cầu thủ đá banh, thợ nấu rượu, thợ chụp hình dạo, thợ vẽ bảng hiệu và làm công nhân như tôi đã từng làm. Ít có ai trong số họ từng thức sớm khoảng 4 giờ sáng ròng rả 20 năm trời để tập luyện. Ông thầy tôi, Thầy Chu Sĩ Lương, đã lấy tôi ra như là tấm gương cho nhiều học trò của thầy. 

 

   Thầy Hà Thái Trọng Danh- nỗi tiếng ở Rạch Giá- thường đố học trò của ông ta xem họ có biết tôi- đến khi ấy- có bao nhiêu cuốn băng cassette không như là cách động viên họ tập nghe. Một ông bạn học lớn tuổi hơn đã sững sờ khi nghe tôi trả lời cái số lượng băng cassette ấy- hơn 550. 

 

  Đài VOA Special English cũng đã viết thư, đề ngày Mar 3, 1997, để cảm ơn tôi, 

 

   - We’re much impressed that you have recorded almost 200 tapes of our English language teaching programs.  

     (Chúng tôi ấn tượng nhiều vì ông đến nay thu thanh gần 200 cuộn băng cassette những chương trình dạy Anh Văn của chúng tôi.)

 

  Nếu có ai hỏi tôi hai câu như vậy, tôi sẽ trả lời rằng,

 

  - A teacher learns as long as he lives.

  (Một giáo viên còn sống là còn phải học.)

 

   Tôi có lẽ giống như các thấy cô khác thích tâm tình, nhưng bằng Anh Văn. Tôi kể hết cho học trò nghe về cuộc đời tôi. Không một chút do dự, tôi chỉ cho họ những gì tôi chiêm nghiệm sau nhiều năm, cái chất xám và cảm tính của người thầy giáo. Không ngại công khó, tôi lục tung các bài nghe rắc rối nhưng rất đời thường, các trích đoạn hay nhất để dạy họ. 

 

  Một vài lần, các học trò cũ chào tôi, nhắc một vài kỹ niệm họ ghi nhớ rất rõ về tôi- ôm đàn vào lớp hát bài này- hay dạy họ hát một khúc hát nọ, đội berret đen, mang cái còng bằng đồng. Nhưng nếu có bị ai phỏng vấn tôi điều gì khiến tôi dạy học được cho đến ngày hôm nay, tôi sẻ trả lời ngay rằng,

 

   - Những năm học ở trung học, cái cách giảng dạy của các thầy cô đó và cái tính cách riêng tôi đã thật sự giúp tôi đấy.

 

                                                                                                                    Rạch Giá July 22, 2012

                                                                                                                       Lương Ngọc Thành

____________________________________________________

   MẢNH BẰNG 

 

    Mảnh bằng tôi viết ra đây không phải là chữ “a certificate” của tiếng Anh mà nó là một trong những bài hát nổi tiếng của ban nhạc trào phúng AVT của cố nhạc sĩ Lữ Liên, và nó đã bài hát mà chúng tôi đã biểu diễn hai lần tại “Đại Thính Đường.” của trường tôi Nông Lâm Súc Bảo Lộc. 

 

     Trong năm học lớp đệ tam, 1971, chúng tôi chưa đóng góp gì nhiều cho trường ngoại trừ việc ba đứa tôi tham gia vào chương trình văn nghệ cuối năm với bài hát “Mảnh bằng.” Thằng Trọng Thỏ là thằng nhát như thỏ nhưng nó đàn hay như một nghệ sĩ. Cậu Doãn có giọng hát bè rất độc đáo và nó vốn là người Bắc chánh gốc. Biết loại nhạc của AVT này ngay từ hồi còn bé, tôi rất thường ngân nga nhiều bài hát của ban nhạc ấy một mình. Nền âm nhạc dân tộc đặc biệt là xẩm, các làn điệu Dân ca Bắc Bộ và Trung Bộ nghe rất gần gũi mà cũng rất vui nhộn với tôi. Đặc biệt nhất là bài “Mảnh bằng”, tôi có thể nhớ ca từ, lời thoại và hát suốt bài này thành thục. Tôi nghiễm nhiên trở thành người tập hát cho nhóm chúng tôi dẫu rằng tôi không phải là người hát hay nhất. Tôi đã viết ra lời bài hát, phân vai tập lời đàm thoại và tôi cũng là người quyết định trang phục cho nhóm. Tôi còn nhớ rất rõ trang phục của ban AVT, áo gấm thụng 3 màu khác nhau, khăn đống, và các cây đàn truyền thống Việt Nam; Vân Sơn chơi đàn Tỳ Bà, Tuấn Đăng chơi đàn đoản và Lữ Liên sử dụng đàn nhị; đàn cò.

 

    Nhưng với truyền thống của nhóm Bụi Gia Trang từ hồi ở N.L.S. Cần Thơ, tôi chọn ngay áo kaki vàng. Một câu mà tôi đã phải tự hỏi hoài là: “mặc quần gì?”. Rồi tôi cũng phải tự quyết định luôn, quần Jeans xanh bạc màu. Tôi phải tra hỏi từng thằng trong lớp, đi mượn quần Jeans của tụi nó về cho hai chàng kia mặc thử rồi phải sửa lại cho vừa và tôi tìm cho ra ba sợi dây nịch cùng màu, cùng kiểu. 

 

    Đêm đầu tiên, khi đi xem chương trình một biểu diễn, ba đứa tôi quá choáng ngợp vì cái phong cách chuyên nghiệp của lớp đàn anh- lớp đệ nhị Thủy Lâm. Họ không có một nét gì của một ban nhạc học trò. Họ chơi nhạc Rock và hát tiếng Anh bài "Have you ever seen the rain?" như một ban nhạc trẻ của Sài Gòn, thậm chí tôi cho rằng còn hay hơn. Tôi không có cái ấn tượng xấu về nó như thằng Trọng Thỏ- cổ hủ, nhưng tôi trân trọng mọi điều tôi được tận mắt tận tai nghe thấy. Các ban, các lớp khác cũng diễn khá hay với dàn nhạc, trang phục, trang điểm và có khi còn cả múa phụ họa nữa chứ. Họ đã múa hát như một ban nhạc đang chơi cho một vũ trường. Họ đã biểu diễn như những ca sĩ, nhạc công. Họ đã biến những khoảnh khắc đó thành bất hủ và duy nhất trong suốt thời gian họ“mài đũng quần” ở ghế nhà trường. Và chính họ đã hun đúc thúc giục tôi, 

 

  - Mỗi người một vẻ. Mỗi nhóm nhạc có nét đặc sắc riêng biệt.

 Tôi đã ngẫm nghĩ, 

  -  Ban nhạc trào phúng AVT thần tượng của ta đã chẳng đi vào một thời kỳ cực thịnh với những chuyến lưu diễn tại nhiều quốc gia Âu Châu vào nhữn năm 1968-69 đó hay sao.

 

  Đại Thính Đường là nơi chúng tôi lần đầu tiên bước vào. Nhạc rock là thứ lần đầu tiên tôi nhìn thấy, nghe thấy. Và đứng hát trên sân khấu là điều cả ba đứa tôi làm lần đầu tiên. Những người đã biểu diễn tối hôm trước liếc nhìn chúng tôi khiến hai anh chàng kia chùng bước. Tôi kích động hai thằng nó bằng một câu đơn giản, 

 

   - Mỗi người có một cách riêng để khẳng định mình. Bài mà tụi mình hát là vô địch- không có ai cạnh tranh đâu!

 

   Không có ông bầu cũng không có lấy một cổ động viên, tự ba đứa tôi tập và mỗi đứa tự tập đọc lời thoại và nhắc nhau tập luyện. Trọng Thỏ nói thoại với giọng nam bộ, Cậu Doãn dĩ nhiên là nói giọng bắc rồi và tôi phải “chơi”giọng Huế- khó nhất. Tôi cũng phải đứng ra trách nhiệm về ca từ, cách biểu diễn, thậm chí phải ngâm câu hát câu đầu tiên, 

"Àh, này anh... sách vẫn có câu...

 

   Ban nhạc AVT sử dụng đàn sến, đàn cò và đàn tỳ bà. Chúng tôi chỉ có mỗi một cây đàn Ghi ta. Cây đàn guitar của tôi được Trọng Thỏ chọn vì nó có tiếng vang và nhìn gọn đẹp. Đêm sau, bài chúng tôi diễn được xếp áp chót khi mà không khí trong Đại Thính Đường đã thật sự thấm trộn vào cái chất học trò của ngôi trường này, hồn nhiên, trân trọng, hết mình, trào phúng và độc đáo. 

   Thằng Trọng ôm đàn đứng sát vào một cái chân micro. Cậu Doãn thấp nhỏ con đứng cạnh tôi hát chung cái micro thứ nhì. Chúng tôi đứng trên sân khấu lần đầu tiên trong đời và đã hát bài này hay nhất trong đời học trò từ trước cho đến lúc đó. 

 

   “Cái bằng đâu lạ gì ai ơi. Cái bằng nó chỉ một gang thôi... mà sao con gái mà sao con gái họ ham quá trời.” 

    Câu hát này được tán thưởng nhiều hơn chúng tôi có thể nghĩ ra nổi. Tràng vỗ tay và tiếng cười từ khán giả làm nức lòng ba đứa tôi. Tôi nói lời thoại,

 

   “Nhưng mà em bé nói với anh ra làm “răng”?”  rất ư là Huế đến nỗi sau này có lời đồn đại là tôi người gốc Huế. Buổi biểu diễn là một khởi đầu rất đẹp trong sự nghiệp văn nghệ của ba đứa tôi nói riêng, của lớp chúng tôi nói chung và của trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc nữa chứ, nếu đem so với trường trung học Lê Lợi của tỉnh.

 

    Năm lớp đệ nhất, năm chúng tôi thi ra trường- đậu hoặc rớt- đi lính hay vào đại học. Thầy “Hùng Đô La” được nhà trường giao làm trưởng ban tổ chức văn nghệ. Thầy rất đồng tình với bài Mảnh Bằng mà tôi vừa đề nghị và vì rất hiểu nỗi khó khăn của việc học thi nên thầy đã tuyên bố trước lớp, 

   “Tụi em cứ tự sắp xếp tập tành cho thuần thục. Tụi em lên sân khấu và hát được là hay rồi. Không cần lên Đại Thính Đường để dợt trước gì cả.” 

 

  Trong lần này- lần diễn cuối cùng của chúng tôi ở trường này, tôi chọn mặc áo nâu, 3 cái áo cùng màu nâu, cùng kiểu may. Lần này chúng tôi đã thật sự hiểu ý nghĩa của bài hát, cái thâm thúy của ca từ mà nhạc sĩ Lữ Liên chắc phải cực công lắm để viết ra. Tôi vừa nhận ra bao nỗi cay đắng, vinh nhục, một cách bất lương hay đàng hoàng của việc có hay không có một cái mảnh bằng. 

   Lần này tôi thấu rõ cái ý nghĩa của bao đêm tôi học khuya, bao khó khăn của những bài toán tôi giải được, bao niềm vui nỗi buồn tôi sắp phải mang theo đến hết cuộc đời và  bao nhiêu điều tôi không thể thố lộ được hoặc vì ngôn từ Việt Nam không có đủ để tôi diễn tả. Tôi thật thấm thía cái mất mát, xa cách ngôi trường, cái khoảng thời gian tuyệt vời mà tôi đã cảm nhận được. 

 

    Lần này tôi đã nói giọng Huế giống hơn lần trước và lần này tôi có ba khán giả rất đặc biệt:  Bác Thiện và Hương Ù, chủ quán cơm tháng- người sẽ đãi chúng tôi nồi chè đậu và người con gái Huế có cảm tình với tôi. Hương Ù đã phá kỷ lục- lần đầu tiên đi ra ngoài vào buổi tối chỉ để nghe tôi hát. Hương Ù đã mặc áo bà ba nhung the màu tím than. Bác Thiện đã đeo chuỗi hạt trai cho cô cháu gái ngoan hiền của bác và khi bác khen Hương Ù đẹp làm cho O Hương ốt dột vô cùng. 

   Đặc biệt là người thứ 3- Bích Vân- người tôi tình cờ gặp bên cửa hông Đại Thính Đường trước khi vào diễn. Gần 3 năm học đệ nhị cấp, chỉ có hai đứa tôi nhìn nhau đỏ mặt và hai ánh mắt chúng tôi thỉnh thoảng chạm nhau làm ấm lòng nhau, làm sáng lên một tương lai.

 

   Ba đứa tôi đã hát bài này hay hơn lần trước nhiều và tôi có đủ tự tin để nhìn xuống khán giả ngồi chật ních rạp đêm ấy. Tôi vào câu đầu tiên rất ngọt, 

 

   “À này anh... sách vẫn có câu...

cho rằng xưa nay... nghịch nhất là ma, thứ nhì là quỷ... 

ấy đến thứ ba là học trò. 

   Cậu Doãn hát câu kế, 

 

Nhưng mà có học mới biết rằng lo. 

Có thi mới biết… cam go…đoạn trường.” 

 

   Và ba đứa tôi đã vào bài trơn tru,

 

"Ngày xưa lúc... tuổi còn ấu thơ...tình tang

Bố tôi mà thường nói... 

 

   Trọng Thỏ- bận tay đệm đàn- nên hát không khác lần trước bao nhiêu. Nhưng Cậu Doãn, với giọng đặc chất Bắc, hát nhuyễn hơn lần trước nhiều và hay nhìn tôi mỉm cười hơn.

 

     “ Có người thi để làm quan sang. Có người thi cử mà vinh quang. Còn tôi mong kiếm... còn tôi mong kiếm cơm ăn nhờ bằng.” 

 

   Ba giọng của chúng tôi trộn vào nhau. Ý nghĩa của câu hát trộn vào cuộc đời của học trò của mọi người từng cắp sách đến trường. Chắc chắn ban nhạc AVT, Lữ Liên, Vân Sơn và Tuấn Đăng- khi ấy còn sống- cũng vỗ tay tán thưởng và mỉm cười với tụi tôi thôi, vừa khen vừa khuyến khích,

 

 “Thật đúng người, đúng bài và đúng lúc! Mấy tay này hát nghe cũng được chứ nhỉ!”.

 

  Mấy anh chàng chuẩn bị “lều chỏng lên kinh ứng thí”;vì không đủ điểm để được miễn thi, chắc chắn phải rúng động. Các chàng nào lâu nay bỏ bê việc học vì nhiều lý lẽ khác nhau rồi sẽ rất thấm cái đoạn này đến hết cuộc đời, 

 

   “Ngày xưa lúc tuổi còn ấu thơ tình tang, 

bố tôi mà thường nói con ráng học cho mà chuyên cần. 

Học nhiều thì ấm vào thân...ối a… 

biếng lười sau chỉ...tình tang... bám chân...đàn bà! 

Vợ con nó bắt coi nhà... đuổi gà... 

Biết nhục thì ráng... ối a ... học mà làm to. 

Tú tài nên ký.. nên cò...tình tang. 

Bác sĩ mà dân kiết, dân cúm, dân ho là giàu. 

Kỹ sư tay trắng xây lầu.. tang tình. 

Luật sư đắt vợ... ối a... lại giàu hồi môn. 

Ráng mà học lớp...mà .. sĩ quan, ối a, 

Vợ sinh năm một, nhiều lon… đếm con mà lượm tiền.”

 

       Tiếng reo hò, vỗ tay huýt sáo nghe dài hơn các bài khác trong đêm đó. Với chúng tôi nó không quan trọng bằng cái điều mà chúng tôi vừa rót vào lòng các học sinh và thầy cô giáo cái ý nghĩa của học hành, thi cử, may rủi, thành bại trong đời và cái thâm thúy của tiếng Việt trong ca từ của bài độc nhất vô nhị này từ thập niên 60 cho đến tận ngày nay. Trong những đồng môn, những ai học cùng niên học với tôi, 1973- 1974, chỉ có khoảng phân nửa có được mảnh bằng tú tài II hoặc để học tiếp lên đại học hoặc vào trường võ bị Thủ Đức, Sĩ quan Đà Lạt hoặc chỉ đưa cho ba mẹ chúng ta xem như hành khách chìa passport để lên tàu bay hoặc tàu hỏa.

 

    Riêng với tôi, thế nào tôi khi trở về nhà ở Cần Thơ sẽ dâng cho mẹ tôi xem một mảnh bằng, “Tú Tài Trung Học Nông Lâm Súc Bảo Lộc- hạng bình, Ngành Thủy Lâm” để làm mẹ tôi mỉm cười. Rồi nếu tôi thi đậu vào đại học nào đó, bốn năn tới nữa, tôi lại sẽ khoe với mẹ tôi một mảnh bằng đại học để làm cho bà hảnh diện, để tôi tạm quên cái áp lực suốt thời thanh niên vừa qua, mảnh bằng.

 

                                                                                          Rạch Giá , 10- 22- 2014

                                                                                           Lương Ngọc Thành 

_________________________

    HOÀNG HOA LỘ

 

         Hoàng Hoa Lộ là con đường đẹp nhất của trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc và là nơi tôi đã từng có một “mối tình” mộng mị nhất trong đời.

 

         Có một chọn lựa rất độc đáo- ở lại sau cùng trong lớp để học bài cho đến khi trời xẫm tối- tôi một mình trong một thế giới mà tôi đã cố tạo ra. Tôi không ngạc nhiên khi có ai đó nhìn chầm chầm vào tôi. Tôi thản nhiên khi nhìn thấy cảnh ai đấy tản bộ, thầy cô nào đó rảo bước hoặc gấp rút trên đường, thầy Hy chở cô Đào hoặc cô Nguyệt đi về một mình. Nhưng tôi thật ngạc nhiên khi một chiều thứ bảy có một thiên thần, áo dài trắng, áo len màu tím hoa cà bước uyển chuyển nhẹ nhàng bên lề trái của Hoàng Hoa Lộ. Có phải nàng là người mang thông điệp đến cho tôi không? Chỉ liếc nhẹ vào dãy nhà C, nàng mỉm cười với tôi một cách thật nhẹ nhàng nhưng quyến rũ. Cái  thằng ngu ngơ trong tôi không biết chạy ra chào đón cái người quan trọng ấy. Những hằng số, các ký hiệu, các câu giải thích vắn tắc của cuốn toán giải tích của Đinh Đức Mậu hôm ấy đã khiến ngu đần ra. Tôi thật đáng bị nguyền rũa. Thiên thần của tôi đã thẩn thờ buồn bả và dần tan biến vào đoạn cuối đường. Đêm ấy tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy mình bị xét xử vì phạm tội gì đấy nhưng được tha bổng vì tôi là một học sinh ngoan ngoãn. Tôi vẫn vào trường ngày chủ nhật như thông lệ. Tôi vẫn ở lại lớp sau giờ tan học như thường lệ. Thiên thần của tôi lại xuất hiện vào chiều thứ bảy tuần sau như thường lệ. Tôi bớt ngu đi một chút. Tôi tiến gần đến cửa sổ nhìn thẳng về phía nàng. Nàng dừng bước trong giây khắc, nhẹ nhàng nhìn tôi, mỉm cười, chào tôi và nói nhỏ gì đấy. Cái khoảng cách giữa hai chúng tôi được như rút ngắn lại. Nàng như hiện ra trước mặt tôi và rất duyên dáng nàng hát câu của Lionel Richie, “Hello, Is it me you’re looking for?”. Thật khốn nạn cho cái thằng dốt tiếng Anh như tôi. Tôi nín thinh như tên học trò không trả lời được câu hỏi của cô giáo. Cô giáo đã nỗi giận và biến mất.

 

      Thứ bảy kế đó, như một học trò thuộc bài tủ muốn lên chuộc lỗi và kiếm mười điểm, tôi rảo bước trên Hoàng Hoa Lộ và thầm mong cho trời không bao giờ tối đi, cho con đường được kéo dài ra đến vô tận. Xác hoa vàng rơi bên hai lề của con đường nhựa, tô lên sự tương phản vàng-đen độc đáo. Hướng về Đông Bắc, con đường như chếch lên cao, chạm vào màu xanh da trời chân trời tạo ra một sự tiếp xúc- con đường và bầu trời. Hai hàng cây Muồng lá nhỏ chụm vào nhau tạo ra một dây cung độc nhất trên đời. Có một sự tiếp xúc của hai thứ, hữu hình và vô tận. Làm sao ta đến được trời xanh kia? Làm sao một người học trò như tôi có thể kéo bầu trời xuống cho gần lại con đường? Làm sao chúng tôi kéo con đường lên tận khoảng trời xanh kia? Làm sao tôi có thể giữ cho hai ngọn cây hai bên đường luôn kề nhau, cho ra bông vàng, một cái cung màu vàng trên bầu trời xanh? Ôi! tôi nhỏ bé, tôi nghiệp và bất lực.Trời đã phụ lòng tôi, cứ tối dần như cái bóng tối trong lòng tôi. Trời tháng mười một lạnh dần, trường cũng vắng vẻ và yên lặng dần. Tôi cũng thấy mình tan biến dần trong cái lạnh và tối tăm ấy. Đêm đó tôi mơ thấy mình đi lạc vào rừng. Nhiều hoa dại đã làm tôi choáng váng. Dây leo gai góc đã cào rách da thịt tôi như để trừng phạt kẻ đột nhập. Tôi kêu cứu. Trong phút chốc tôi vui mừng nhận ra nàng đứng hơi khuất sau một bụi rậm. Nàng vẩy tay chào tôi nhẹ nhàng và như một làn sương mỏng, hình ảnh của nàng tan biến. Tôi la thất thanh và ngồi bật dậy ngay khi tiếng gọi của Tài Bột, người ở chung phòng với tôi. Tôi đã được đánh thức đúng lúc, 1giờ.

 

       Sáng thứ hai kế đó, tôi có một bức thư rất lạ. Tên tôi- người nhận được viết ra rất đẹp bằng mực tím. Tên của người gởi được viết tắc:”N.T.T.T” và một hàng chữ nhỏ nhưng rất dể đọc,” Tr. Trung Học Lê Lợi- Bảo Lộc. Tôi hơi run rẩy như một học trò bị cô giáo bắt “copy” bài kiễm tra. Tôi bị choáng nhẹ như người học trò nhận giấy báo gọi lên phòng hiệu trưởng. May mắn thay không ai nhận ra sự thay đổi đó. Tôi thấy mình thật tội nghiệp. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ mong gặp nàng trên Hoàng Hoa Lộ. Các bóng hồng ngày hôm ấy đều khoác mầu áo nâu-xanh dương chứ không phải màu trắng- tím sen tôi mong đợi.

 

   Hôm ấy thời gian trôi qua rất chậm nhưng sáng sau tôi học bài rất nhanh và đúng lúc 3 giờ tôi mở thư của N.T.T.T ra đọc,

 

      Bảo Lộc, ngày 15 tháng 11 năm 1973.

         Anh Thành thân mến!

Em biết anh qua một người bạn học, là em gái của bạn anh.

Em đã nghe kể về anh và những điều đó khiến em khâm phục  

và mến anh. Em vào trường NLS như để chào anh và em nhờ thư này làm quen với anh. 

         Anh Thành mến !

Em giống như anh- yêu mẹ và chăm học. Nhưng em là con gái yếu đuối, chịu nhiều định kiến xã hội. Em có đọc ở đâu đó,

“Những trang sách vỡ tuy khô khan nhưng chứa chan hy vọng. Những lần gặp nhau có thể làm đau khổ sau trăm năm.”  

Em âm thầm học ở anh tính kiên nhẫn, hiếu học và lòng hiếu thảo. Em cũng sẽ âm thầm đến trường hàng chiều thứ bảy và đi trên đường Hoàng Hoa Lộ để được nhìn thấy anh trong lớp. Em mong em sẽ âm thầm ở trong tâm trí của anh, được không anh? 

         Con gái như hoa.

         Hoa rụng xuống đường. 

         Con trai như cây.

         Cây trơ trước gió.

Em sẽ thỉnh thoảng viết thư cho anh.

Chúc anh mọi điều tốt đẹp.

         Nguyễn Thị Thu Trang.

         Tr. Trung Học Lê Lợi 

 

Thiên thần đã đến thăm tôi có tên là Thu Trang. Tôi sẽ được nàng đến thăm. Tôi sẽ chỉ nhìn thấy nàng đi trên Hoàng Hoa Lộ. Tôi sẽ chỉ được nàng viết thư thăm hỏi. Tôi sẽ được những thứ mà hàng triệu người học trò như tôi khó mà có được, tình cảm của một cô gái vừa êm đẹp, cao thượng vừa mộng mị. Tôi không thể trả lời thư của Thu Trang nhưng tôi sẽ viết thư cho mẹ tôi và tôi sẽ rất cố gắng viết ra một bức thư thật đẹp. Trong thư viết cho mẹ tôi, bà sẽ đọc được một đoạn,

 

  “ Thưa má ! Gió mạnh sẽ làm gãy cành, ngã cây.

  Con của má sẽ là một cây rừng rắn chắc, không bị đỗ ngã.

  Má luôn thương con và tin con phải không má?”

   Thu Trang có những điểm giống tôi, ham học, thương mẹ, không có tình thương  cha, có một tâm trạng bất ổn, có một trái tim với đầy máu nóng với vài mơ ước giản dị, tội nghiệp.

 

    Sau khi ba nàng bỏ nhà theo người vợ hai, mẹ nàng dắt hai con nhỏ từ Huế vào Bảo Lộc để chung sống với người dì lớn tuổi cô đơn nhưng rất thông hiểu. Mẹ của Trang chọn nơi này làm nơi trú thân và là nơi cho Thu Trang học xong trung học. Cô bé chọn học Trung Học Phổ Thông Lê Lợi vì cô ấy yêu màu áo len “tím sen”, một màu rất “Huế”. Thu Trang là một trong những ngôi sao sáng của trường Lê Lợi. Nàng học giỏi đều các môn. Nàng ít nói, ngoan hiền và tốt bụng. Giống như mẹ, Thu Trang rất nghiêm khắc. Một trong những nơi Thu Trang thích dạo qua là Hoàng Hoa Lộ của NLS, nơi mà nàng cảm thấy như ở quê nhà. Một trong những mơ ước Thu Trang hằng lâu nay ấp ủ là sự thành đạt để nàng có thể khiến mẹ nàng đồng ý trở lại Huế, điều mà Thu Trang sau này mới thố lộ với tôi trong một bức thư. Thu Trang không có khả năng tự giải trí như cách tôi chơi đàn classic, nhưng nàng thích nghe nhạc độc tấu ghita. Sau khi tình cờ nghe tôi đàn một lần, nàng đã quyết định làm quen với tôi bằng cách đi trên Hoàng Hoa Lộ và viết thơ cho tôi.    

       

    Đầu năm học lớp 12, tôi được Trọng Thỏ rủ vào lớp toán lý của Thầy Định. Thầy cho tôi vào lúc giữa khoá vì tôi đã trước đó theo một “cua” ở Cần Thơ. Cùng theo lớp học đó, Thu Trang đã biết tôi từ khi tôi vào học. Nàng để ý thấy tôi học nghiêm chỉnh và trả lời được vài câu hỏi khó của thầy. Không ai có thể làm khác hơn những gì nàng đã nghĩ và làm: âm thầm chào tôi và viết thơ cho tôi. Nàng chỉ muốn tôi đọc thơ của nàng thôi. Và không có ai làm khác hơn điều mà khi ấy tôi đang cố gắng làm, học thật chăm để có thể thi đậu vào đại học.

 

     Trong những bức thư tôi nhận được từ Thu Trang, tôi thích nhất và cảm động nhất với bức thư đề ngày 15-2-1974. Mực tím, chữ viết nắn nót, bức thư ấy đã khiến tôi thuộc lòng rất nhanh những gì nàng đã viết,

 

    “Anh có bao giờ tự hỏi điều gì làm mẹ anh hạnh phúc nhất chưa? Điều gì anh cho là quan trọng nhất trên đời này chưa? Anh có bao giờ tự xét xem anh đến nay có làm gì khiến mẹ anh buồn chưa? Anh đã có bao giờ dặn lòng rằng: 

   “Điều trước hết để có được hạnh phúc là biết chấp nhận cái riêng tư của chính mình 

   (The first thing to make your life happy is to accept yourself as you are.)

 

Em biết điều em đang làm. Em hiểu điều gì tim em lên tiếng. Em mong hai đứa ta hiểu và quý trọng nhau rất lâu dài như hai hàng cây trên Hoàng Hoa Lộ vậy, nhé anh? Em thích màu vàng- đen của con đường. Em thích nhìn thấy anh đang chăm chỉ học. Anh đã có đọc câu này chưa nhỉ?

        “Tình yêu trong thuở học trò chỉ để làm thơm tho sách vở.”   

 

   Tôi tôn trọng cách của nàng và càng tôn trọng cái giấc mơ của nàng, tôi càng học chăm chỉ hơn. Hàng chiều thứ bảy, Thu Trang chạy xe P.C vào trường. Nàng chạy xe chậm hẳn lại khi ngang qua dãy nhà C để chào tôi và mỉm cười với tôi. Hai tuần một lần, nàng gởi cho tôi một bức thơ với những lời thăm hỏi, chúc tụng và mong muốn gặp nhau hằng chiều thứ bảy kế tiếp. 

      Tôi thấy tội nghiệp cho nàng vì tôi đã không làm được gì cho nàng cả. Trong những lúc đọc thơ của nàng, tôi rất muốn viết cho nàng nhưng nàng không đồng ý.

 

“Tụi bạn lớp em sẽ đồn đại lên rồi đến tai mẹ em và em sẽ không còn có dịp đi trên đường Hoàng Hoa Lộ để nhìn và chào anh nữa đâu.” 

 

   Thu  Trang đã viết như vậy. Tôi thấu hiểu sự nghiêm khắc của mẹ nàng. Tôi tôn trọng các bà mẹ và những quyết định của họ. Tôi ước gì có dịp đến thăm và trò chuyện với mẹ của nàng như là cách tốt nhất cho nàng có thể kết thân với tôi. Tôi thật sự chẳng có một lần nào bách bộ trên Hoàng Hoa Lộ để thư giãn hoặc để tìm kiếm ý tưởng cho bài toán này, cái khái niệm khó hiểu nọ. Đứng trên bục giảng, trước cái bảng rộng, tôi làm toán giải tích, cố hoàn tất các bài tôi đã bỏ dỡ và cố “tọng vào” các công thức, phương trình khó hiểu hoặc rất khó nhớ. Cái nên thơ thú vị của việc dạo trên con đường đẹp đẻ ấy có lẽ - với riêng tôi thôi - không có ý nghĩa bằng việc hiểu thấu hơn một chút các bài học, các công thức và việc làm chắc hơn khả năng thi đậu của tôi. Tuy nhiên, một hôm tôi chợt có một sáng kiến để gặp nàng. Và tôi từ lúc ấy đã rất mong đến cái ngày thứ bảy sắp đến để làm điều tôi vừa nghĩ ra.

 

       Với một bức thơ phúc đáp mà tôi đã viết rất cẩn thận được đặt vào sau trang bìa trong một quyển sách, cầm chặt nó trên tay, tôi đi bộ chậm chạp bên lề trái của Hoàng Hoa Lộ như thể tôi sắp gặp nàng để trao cho nàng cái tôi muốn nàng đọc. Tôi tự dặn lòng là không được nói gì nhiều với nàng mà chỉ trao bức thư và chào nàng thôi. Tôi tự nhủ và cảm thấy mình trẻ trung thơ mộng như một công tử trẻ tuổi đang yêu, đang đi đón một công chúa từ một nước láng giềng - lần đầu tiên - trong một vườn hoa đẹp. Tôi tự thì thầm,

 

     “Hai hàng cây Muồng lá nhỏ ơi, hôm nay sao mà mi vô duyên thế. Các hoa vàng của mi lại càng quá thờ ơ đến nhẫn tâm với ta thế. Cây ơi ! rung lên đi chứ!? Cành ơi, cành phải lay động mạnh lên đi chứ!? Hoa vàng ơi, nở hoa nhanh lên, làm ơn rụng xuống nhiều vào, lấp kín hết khoảng màu đen nhựa đường xấu xí cho ta nhé!. Ta thích đi trên một con đường có đầy ắp hoa vàng. Hoa vàng làm nàng thích đến đây nhiều, nhiều lần nữa đấy. Hoa vàng làm ta cảm thấy ấm áp tự tin hơn nữa. Gió ơi, gió đâu rồi? Gió giúp ta kéo nàng đến đây nhé. Sương mù đâu mất hết rồi? Ta cần nhiều sương mù ngay bây giờ. Làm ơn giúp ta che mờ bớt khung cảnh này. Nàng sẽ rất thích cho mà xem. Cây, cành, hoa , gió và sương mù sẽ làm cho Hoàng Hoa Lộ đẹp hơn lên cho mà xem. Và ta sẽ thường ra đây, tản bộ trên đây cho mà xem.” 

 

       Tiếng xe P.C quen thuộc cắt ngang suy tư của tôi. Tôi quay lại và nhận ra ngay nàng từ khá xa, trong chiếc áo dài trắng và áo len “tím sen”. Chạy rất chậm ngang “Toà Bạch Ốc”, nàng có vẻ mất bình tĩnh. Xe chạy hướng đến, nhưng người ngồi trên xe có vẻ như muốn rẻ sang hướng khác. Tôi cũng đi chậm hẳn lại và hoang mang tự hỏi,

 

  “Ta có sai không khi tự nhiên ra đây đón nàng mà không có báo trước không? Nếu nàng ngại đối mặt, thì ta biết làm sao để xin lỗi đây?”

 

  Thu Trang có cái quyền đến đây để gặp tôi nhưng có thể mẹ nàng không cho nàng cái quyền tiếp xúc một thanh niên để có thể tiến tới một bước gần hơn điều mà dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến việc học. Vì quý trọng vâng lời mẹ, nàng muốn tránh gặp tôi chiều thứ bảy ấy. Tôi trách mình dại dột ngu ngơ. Tôi muốn biến mất đi cho rồi khi mà nàng chầm chậm tiến đến gần cột cờ. Thay vì vòng theo đường cung để chạy thẳng về Hoàng Hoa Lộ, nàng rẽ sang lề trái và quẹo trái. Xe chạy hơn nhanh hơn về Hoa Ngâu Lộ và ra cổng chánh mất hút, bỏ tôi đứng một mình ngẩn ngơ. Tôi muốn mình tan biến đi như làn khói mỏng sau xe nàng. Trời trở lạnh và tối đi rất nhanh và tôi cũng trở nên ngu ngơ rất nhanh. 

 

      Hoàng Hoa Lộ bỗng dưng dài ra thăm thẳm. Lòng tôi bỗng dưng trống trãi lạ lùng. Mọi việc đã xảy ra rất nhanh và tôi cũng rất nhanh nhận ra cái lỗi của tôi. Tôi tự trách mình. Tôi thầm xin lỗi Thu Trang, “Anh đã mất tự chủ”.

Tôi cùng lúc ấy đã thầm xin lỗi mẹ tôi, 

 

“Mẹ ơi, mẹ tha lỗi cho con nghe mẹ. Chiều nay con chẳng học được bài gì cả.”

 

       Thật ra đó chính là bài học rất lớn của tôi. Từ đấy về mãi sau này, tôi đã không có thư của nàng và chẳng hề gặp nàng trên Hoàng Hoa lộ nữa.

 

                                                                                              Rạch Giá, Nov 22, 2009

                                                                                              Thành Xì TL-71-74

   CÁI BƯỚU CỔ CỦA MẸ TÔI

 

   Không biết mẹ tôi có cái bướu cổ đó từ khi nào, nhưng tôi biết rất rõ vì sao và lúc nào nó đã biến mất. 

 

   Gia đình chúng tôi dời về Cần Thơ vào cuối năm 1963. Tôi vào học lớp 3 trường Tham Tướng và ba tôi thuê được một căn nhà lá, trong hẻm 5 - kế cận một người đồng nghiệp. Từ hẻm Hai đến nhà thờ Tham Tướng khoảng 50 mét, cách đầu hẻm khoảng năm căn nhà, nhà tôi thật dễ tìm. Ba tôi là con trai cả, con một, nên được Ông nội tôi thương lo nhiều hơn hết. Ông thường đi thăm chúng tôi mỗi khi ba tôi thuyên chuyển đến một đơn vị mới. 

 

   Vì ngày mồng 8 tháng 6 âm lịch là ngày giỗ của bà Cố, và vì việc đi xuống Cần Thơ không quá khó, vào ngày 6 tháng 6 âm lịch, ông nội tôi đã một mình đi xuống thăm chúng tôi và ngày hôm sau ông sẽ đưa ba tôi về Sài Gòn dự đám giỗ. Tìm đến nhà lúc 5 giờ xế chiều, ông tôi mới hay là mẹ tôi sửa soạn đi nhập viện để sáng ngày hôm sau mổ một cục bướu rất to bên phải sau khi đã uống thuốc, khám nghiệm và được bác sĩ bệnh viện quân y trưởng chuẩn y rồi. Ông tôi ngăn cản ngay chuyện đi mổ vì cho rằng hai anh em tôi còn nhỏ quá. 

 

  Theo cách nói có vần có điệu, ông tôi giải thích với mẹ tôi rằng,

 

  - Tụi nó còn con nít, con nôi. Có bề gì, tội nghiệp hai đứa phải mồ côi, mồ cút!

 

    Rất quý chuyến thăm bất ngờ nhiều ý nghĩa đó và lời khuyên răn của ông tôi, mẹ tôi đi cất ngay cái giỏ nhựa màu đỏ đựng những đồ dùng cá nhân của bà, bình thuỷ, khăn mền, hai hộp sữa và một cái ca nhựa. Tôi vui mừng có ông nội thăm. Tôi vui mừng vì mẹ tôi không phải đi mổ. Tôi còn nhớ cái giấy cam kết ba tôi đã ký đồng ý, cái con dấu đỏ, chữ ký tên của bác sĩ đại úy quân y Trần Ngọc Châu. 

 

   Vì gần sau này, cái bướu đã quá lớn, mẹ tôi phải nghiêng đầu về môt bên và không thể nhai cơm được nữa. Mẹ tôi thường nấu cháo hoặc nấu súp nui cho cả nhà ăn. Tôi còn hình dung ra cái tô súp nui mẹ tôi làm cho 2 anh em tôi- thơm ngon như thể mẹ tôi là một thợ nấu trong nhà hàng. Có thể tôi đã nghe đâu mẹ tôi đã phải mang bướu cổ ấy hàng 7- 8 năm gì rồi. 

  Vì còn quá nhỏ tuổi, tôi đã không hiểu mức nguy hiểm, phản ứng phụ hay di chứng gì của ca mổ cả nhưng tôi biết rõ một điều là bác sĩ Châu- một đại uý quân y, nổi tiếng ở Cần Thơ. Tôi chỉ mong sao sau ca mổ mẹ tôi không còn phải ăn cháo, ăn nui, không còn nghiêng đầu qua bên phải, không còn phải thường đưa tay lên vuốt vuốt, không còn phải mở một nút áo sát trên cổ và tôi mong sao mẹ tôi sẽ vẫn còn là mẹ tôi sau cuộc giải phẩu. 

 

    Sáng sớm hôm sau, theo một thói quen cố hữu, ông nội tôi đi bộ ra chợ Tham Tướng để uống cà phê. Về nhà lúc trời vừa có nắng nhẹ, ông tôi kêu lên rằng hơi mệt và hơi chóng mặt khó chịu. Một y tá gần đó đến ngay để đo huyết áp, chích cho ông vitamin hay thứ gì đó giúp ông mau khoẻ lại. 

  Trưa hôm ấy, nhà của chú Nhuệ kế bên có một tiệc nhỏ. Ông tôi được mời qua dự. Cả bàn tiệc chào mừng ông, chúc ông mau khoẻ để ông cùng ba tôi đi về Sài Gòn. Có người khuyên ba tôi nên ra xe về Sài Gòn trước để ông ở lại đây vừa nghỉ ngơi vừa để chơi với hai đứa cháu nội. 

 

   Vốn ít nói, ông tôi không có ý kiến gì khác. Sau giờ cơm trưa hôm đó, vì trời rất nóng, hai anh em tôi đi tắm mương cạn nhỏ ở trong khoảng gần cuối con hẻm 5 đó. Cùng lúc ấy, ba và ông tôi vừa xong bữa tiệc. Ba tôi vội lên đường đi Sài Gòn ngay. Vừa bước vào nhà, vừa nghe hai đứa cháu nội đang tắm lúc nắng trưa nắng như vậy, ông bảo ngay mẹ tôi rằng,

 

  - Xấp nhỏ đâu có biết bơi, biết bung gì đâu. Con nít, con nôi đi tắm ao, tắm hồ xa xôi phải có người lớn coi chừng, coi đổi chớ. Kêu hai đứa nhỏ về đi con!

 

    Mẹ tôi đã vâng lời ông nội và chúng tôi đã vâng lời mẹ ngưng tắm. Tôi vào nhà khi ông tôi đang nằm nghỉ trên giường. Khi tôi đang thay đồ ngay bên cái tủ áo thấp nhỏ ngay cạnh bên đầu giường, tôi thấy rất rõ ông tôi tựa một cùi chỏ lên cái gối ôm to, vấn một điếu thuốc. Vừa mặc xong cái quần đùi, tôi cũng vừa thấy ông tôi đặt cái điếu thuốc chưa kịp mồi, lên trên thành mép giường bên trái. Ông kéo cái gối ôm để tựa đầu lên và ngay sau đó ông co hai tay lên, hít thở sâu một cách khó khăn. Ông phải co giật hai tay, chần và toàn thân đến mấy lần. 

   Nhận ra chuyện bất thường, tôi chạy vội ra phía trước nhà để báo cho chị tôi. Khi hai chị em cùng vội bước vào khi mẹ tôi cũng từ phía sau nhà bước lên và chính mắt của mẹ tôi mục kích cái giây phút ông tôi ra đi.

 

   Là người đang bệnh nặng, với ba đứa con nhỏ, chồng vừa đi vắng, mới về một xóm lạ, mẹ tôi kêu rên đau đớn khôn cùng. Nghe theo lời bàn bạc của ai đó, mẹ tôi bảo chị tư tôi lập tức ra bến phà Cần Thơ để tìm và ngăn ba tôi lại. Không gặp ba tôi, chị tôi, mới 14 tuổi, phải một mình đi ngay lên Sài Gòn để báo hung tin. Thật may cho ba mẹ con tôi khi mà rất đông người hàng xóm trong cái hẻm đó sốt sắng tự nguyện đến phụ giúp. 

   Bà Sáu Đô tự động mang một số tiền khá lớn đến cho mẹ tôi vay. Vài người tự mang cả máy may của họ đến để lo giúp may những bộ đồ tang cho chúng tôi. Có nhiều đàn ông, thanh niên khiên đến 2 bộ bàn ghế và cùng nhau họ dựng căng lên tấm bạc che. Hai anh em còn nhỏ xíu, chẳng biết phải làm gì vào lúc đó. Trong đêm tang tóc đầu tiên đó, mẹ tôi không ăn uống được gì. Cái bướu cổ sưng đỏ vẫn còn gây mẹ tôi đau nhức. Nhiều người bà trong xóm đó lo sợ và khuyên mẹ tôi đi mổ sau khi an táng ông nội của tôi xong.

 

     Trưa hôm sau đó, một đoàn người bà con của tôi từ Sài Gòn xuống. Ông Chín, em chú bác với ông tôi đã đại diện gia đình để tổ chức đám tang và tẩn liệm cho ông tôi. 

   Theo lời dị đoan, ông Chín tin rằng,

   - Người mất đi có thể giúp mang theo xuống tuyền đài cái bệnh nan y, thương tích cho người họ yêu thương, quan tâm nhất.

 

  Ai cũng đồng tình rằng ông tôi chủ ý, cố tình xuống Cần Thơ thăm chúng tôi đã cố ngăn mẹ tôi đi mổ. Ông tôi cũng dường như cố ý để mẹ tôi nhìn mặt lần cuối nên ông tôi có thể giúp mang đi cái bướu cổ đó. Kêu mẹ tôi đến bên giường, Ông Chín tôi nắm bàn tay của ông tôi đặt lên cái khối u sắp được giải phẩu ấy của mẹ tôi, rồi vừa vuốt 3 lần vừa nói khá to trước khi lịm,

   - Anh Tư ơi! Anh thương con dâu thương cháu nội nên anh mới về đây thăm rồi ra đi ở đây. Con dâu anh có tật nguyền, có u có bệnh, anh giúp đem bỏ nó đi nghe anh Tư?

 

    Khi cả đoàn người và gia đình chúng tôi đưa cái hòm của ông tôi về Sài Gòn, cả xóm ra tiển đưa. Ai nấy đều tội nghiệp cho mẹ con chúng tôi. Ai nấy đều mong ngày chúng tôi trở về sau cái đám ma của ông tôi. Ai nấy đều muốn biết cái gì sẽ ảnh hưởng đến cái bứơu cổ của mẹ tôi, sau ngày dự tính được mổ và sau 3 lần vuốt tay của ông tôi.

 

    Bên nội tôi có khá nhiều bà con. Trên làng An Hội, xã Thông Tây Hội- Gò Vấp đó, nhiều người biết gia đình ông nội, giòng họ Lương ở đó có nhiều chi cho nên đám ma khá lớn. Trong bốn ngày quàn lại đó, công việc tấp nập, tiếp chuyện nhiều người bà con đến cúng viếng, mẹ tôi quên bẳng đi cái chướng ngại vật ngay trên cổ. Mọi người bên họ nội của tôi chẳng ai màng đến cái gì về mẹ tôi cả. Cô Bảy của tôi, người khá giả nhất, lanh lợi nhất, và dĩ nhiên có thế lực trong gia đình nhất, đã trách móc mẹ tôi đủ điều nhất là vì phải xuống thăm chúng tôi ở xa xôi như thế ông tôi mới mất sớm như thế. Nhưng rồi, ngày chôn cất và mở cửa mã- 3 ngày sau- cho ông nội tôi cũng đã đến.

 

   Mọi chuyện ma chay vừa tạm ổn và mọi người tạm yên lặng nghỉ ngơi. Mẹ tôi và hai anh em tôi đang nằm trên bộ đi văng khi mẹ tôi kêu lên,

 

   - Ôi trời ơi, Nó lặn rồi nè!

 

   Bà bật dậy tuột xuống bộ đi văng và đến đứng ngay trước tấm kiếng lớn. Cái mụt bứơu bây giờ chỉ còn khoảng phân nửa, không còn màu đỏ hồng như trước. Mẹ tôi không còn thấy vướng víu khi nuốt và bà không còn phải nghiên cổ về một phía. Bà không bị khó thở, khó nuốt và đau cổ họng nữa. Mẹ tôi ăn uống như bình thường và quan trọng nhất là mẹ tôi sẽ không phải đi mổ, không còn làm chúng tôi lo sợ phải bị mồ côi mẹ sớm nữa.

 

   Khoảng 9 ngày tính từ khi chúng tôi rời Cần Thơ đến lúc mẹ con chúng tôi trở về căn nhà thuê đó. Cả xóm đến mừng, hỏi thăm, rờ mó cái bướu cổ- nay không còn nữa. Biết bao nhiêu lời trầm trồ, bao nhiêu tiếng xuýt xoa, bao nhiêu câu nhắc nhở ông nội tôi và biết bao nhiêu niềm vui, kinh ngạc thậm chí là ganh tị vì mẹ tôi được một phép mầu- cái khối u đó trên cổ đó đã biến mất. 

 

                                                                                                                           Rạch Giá 07-01-15

                                                                                                                  Lương Ngọc Thành 

_____________________________

   QUẢ TRỨNG

 

   Không biết đến bao giờ tôi mới quên được cái chuyện đơn giản khó giải thích và nổi gai óc ấy; cái trứng gà nằm ngay giữa cái giường nệm trắng muốt sau một đêm tôi đã ngủ trên cái giường đó.

 

   “Thực Hành Nông Trại” khi là cái môn mà là cái môn chúng tôi rất thích thú. Nhưng nó đã khiến cho nhiều công nương, công tử “lỡ” những kẻ phải mặc áo nâu đi học hay đã phải thi vào cái trường Nông Lâm Súc này để được giảm một tuổi đi quân dịch phải điên đầu đối phó lại . 

  Thằng Hậu Bào chọn nuôi một chuồng 5 con thỏ với sự trợ giúp chăm sóc của ba và chị tư của nó. Nó chỉ đơn giản lo phần cắt cỏ Tây lông hay dây rau lang mang về nhà. 

  Hét Quắn bên xóm chài, cũng nuôi vài con thỏ và ông cậu Tư bên cạnh nhà, độc thân, cũng phụ giúp nó nuôi mấy chú thỏ của nó như con cháu trong nhà cậu ta vậy. 

  Thằng Phúc Lùn nuôi 2 con heo như là một phần của cái “nồi cơm gia đình” mà má nó chính là người cho heo ăn, vệ sinh chuồng trại. Nó chỉ có việc điền các chi tiết công việc, mức tăng trọng hàng kỳ và loại và lượng thức ăn hàng ngày.

  Trọng Thỏ và Thuận Què nuôi gà trong cái chuồng trước nhà có vài người nhà phụ giúp chăm sóc. Và với vốn liếng và công sức của cả gia đình, Lê Hoàng Trung lập nên cả một trại nuôi gà đẻ hàng 100 con để kinh doanh trứng với sự trợ giúp của má nó và hai đứa em gái.  

 

   Tôi; một mình một thân; nuôi 20 con gà công nghiệp tại góc trái trên căn gác gỗ sau nhà khi mà phần gác trước thấp nóng chỉ được dùng để chất chứa đồ đạc thừa cũ mà thôi. Tôi chọn ngủ tại gác sau luôn vì tôi cảm thấy yên tỉnh, mát mẻ về đêm nhờ cái cửa sổ đón gió. Cái gác đó- rộng 3 mét rưỡi dài 5 mét- riêng lập vì vậy tôi đã có thể học bài được vào ban đêm. 

   Hai mươi con gà đẻ Rhode Island Red đem đến cho tôi 8 điểm rưỡi môn Thực Hành Nông Trại đó rất dễ dàng. Chuồng trại được tôi thiết kế đơn giản và chấp nhận được nhưng Cô Vân, dạy môn Thú Y- Chăn Nuôi, có vẻ không hài lòng với cách tôi tổ hợp và pha trộn thức ăn. 

 

   Sau khi được chấm điểm, tôi nhận 10 con gà thịt của Thuận què để lập một trại sản xuất trứng và thịt gà mini cho gia đình và lối xóm với 30 con tổng cộng. Bà con trong xóm thường hỏi mua khi họ cần gà thịt hoặc trứng trong khi tôi gìn giữ số gà như một  dân chăn nuôi, sản xuất đích thực. Tôi thường đếm số trứng thu hoạch hàng ngày, số con gà còn lại như một tài sản nho nhỏ. Phải đán đo, bóp bụng lắm tôi mới làm thịt một con để đãi khách hoặc để khao ông anh ba từ Sài Gòn xuống thăm chúng tôi. Đã có một lần tôi rất hoan hỉ vì có một nhóm bạn học cũ đến nhà chơi. 

  Quá hiếu khách, tôi đã tự nguyện và tự tay tôi đã làm thịt một con gà to béo, nấu đãi tụi nó món gà nấu bia ngon lành. Tôi cũng thường chiên trứng để ăn sáng với bánh mì hoặc làm cơm chiên trứng- món khoái khẩu của thằng em bụi đời của tôi. 

 

   Sau nhiều tháng “chăn nuôi sản xuất”, đàn gà có lông nâu đỏ chỉ còn một con và một con gà mái ta lông đen tuyền do tôi mua được một lần đi chợ. Hằng ngày tôi vẫn phải lên gác lúc xế chiều để chăm sóc vệ sinh chuồng trại, còn mỗi có 2 con, một "con tây" màu nâu đỏ và một "con ta" màu đen tuyền. Tôi gọi tên chúng như vậy cho vui khi có ai hỏi việc tôi nuôi gà trên nền trấu, trên cái gác gỗ sau nhà.

  - Ê! đàn gà bây giờ còn mất con, Thành Xì?

  - Một Tây, một ta!

  - Ủa? Tao nhớ hồi đó mầy nuôi một chuồng đầy luôn mà.

  - Ừ thì cái gì, con gì mà hổng chết chứ. Còn lại có hai mống àh! Định dẹp cái chuồng luôn cho rộng đây. Mày biết có ai cần phân gà trộn trong trấu không?

 

   Nền trấu lâu nay dầy lên hằng 4 tấc không cần đến sự bận tâm gì của tôi nữa. Mỗi buổi chiều, máng ăn và máng uống cạn khô chờ tôi lên rửa ráy và cho nước mới, thức ăn mới vào máng. Con gà Tây- gà công nghiệp- đến hôm đó đã quá lớn tháng nên chỉ đẻ ra cho tôi 10 trứng một tháng. Nàng gà ta thì béo trùng trục nên hầu như chỉ cho tôi phân nửa số trứng đó. 

 

    Từ cầu thang gác lên là cái cửa chánh. Đối diện cửa chánh là cửa nhỏ nhìn ra sau nhà và dắt ra một hàng lan can nhỏ. Cửa sổ bên phía trái để thông gió chính cho căn phòng. Nhìn từ đây, tôi có thể trông thấy khu đất trống mà theo thiết kế là Nhà thờ chánh tòa- nay là công viên Lưu Hữu Phước. Tôi dựng 2 cạnh ván ép vào góc để tạo ra cái chuồng 2,5 mét x 3,5 mét. Lưới kẻm rộng 1 mét 2 được bắt vào làm tăng chiều cao của vách chuồng. Ngay cửa ra vào chuồng gà là cái ghế bố được trải một miếng nệm Mỹ phẳng phiu. Loại nềm dầy một tấc, rộng 1 mét 2, dài 2 mét đó có một vải bố bao bọc dầy có những sọc xanh dọc theo chiều dài nhỏ dịu mắt. Tôi cũng trải drap trắng tinh và nó khiến cho căn phòng thêm sáng sủa. Ánh đèn tròn 40 watt đủ rọi sáng khắp phòng. Căn gác không tiếp giáp với cái gì khác, nhánh cây cao hoặc mái nhà hoặc căn gác nào gần bên. Căn gác gỗ bất khả xâm phạm ấy là giang sơn của riêng tôi. Lên ngủ hàng đêm, tôi gài chốt bên trong như một cô gái sợ bị có anh chàng liều mạng nào đó xâm nhập vào phòng lúc nửa đêm.

 

 Dạo này thỉnh thoảng mới có trứng nhưng hằng ngày tôi phải làm cái việc mà nhà chăn nuôi nào cũng phải làm, thêm thức ăn, thay nước và thu hoạch trứng. 

 

   Chiều hôm đó, trên nền trấu có một quả trứng màu nâu nhạt, kích thước trung bình, dĩ nhiên do con gà tây đẻ ra. Sau khi xong việc phải làm, tôi nhặt quả trứng ấy lên, bước ra khỏi chuồng rồi tiện tay đặt nó lên ngay giữa giường. Thay vì mang nó xuống dưới nhà và đặt nó vào cái hộp trong cái “chạn” (garmanger), tôi vô tình để quên mất nó đi khi nhanh chân ra khỏi phòng đi vội xuống cầu thang. Nó vẫn còn nằm ngay trung tâm trên cái giường nệm drap trắng.

 

    Tối hôm đó tôi cũng lên gác ngủ. Cũng như mọi khi, tôi bật đèn trước khi mở cửa bước vào. Đặt lưng xuống ngay giữa giường, nằm im thẳng người, tôi cũng có một đêm ngon giấc như mọi ngày. Tôi không nhớ là đêm đó tôi có một giấc mơ nào hay không nhưng rõ ràng tôi đã ngủ một đêm rất ngon. Cái điều khác hơn mọi ngày là khi sáng thức dậy, ngay khi ngồi bật dậy, bỗng dưng quay lưng nhìn xuống mặt nệm còn tương đối phẳng phiu, tôi nhìn thấy quả trứng mà hồi chiều hôm qua chính tay tôi đã đặt lên ngay giữa giường. Gai ốc nổi lên đầy người tôi. Một cái cảm giác ớn lạnh như có ai đó dùng một cục nước đá vuốt dọc cái sóng lưng của tôi. Tôi rùng mình như vừa bị một cơn gió lạnh thổi ập đến mặc dù cái trời buổi sáng hôm đó khá khô nóng. Tôi tối tăm mặt mũi như vừa bị một cơn đột quỵ. Tôi vội chạy xuống nhà như thể có ai đó đang nhoẻn miệng cười với tôi, đang trợn mắt nhìn tôi hoặc tệ hơn thế sắp hành hung hoặc sắp ôm chầm lấy tôi.

 

   Tôi đã không dám đi lên gác ngay sau đó. May mắn thay, hôm ấy là ngày chủ nhật. Tôi rủ chị tôi lên gác để xem có nên bắt một con gà làm thịt nấu cháo và bắt luôn con kia ra khỏi chuồng để tôi có thể dẹp luôn cái chuồng gà ấy.

 Chị tôi thản nhiên,

  • Mày liệu xem thế nào cho tiện. Chị chẳng có ý kiến gì đâu.

 Tôi gãi đầu, gãi tai,

  • Mà chị phải lên xem một chút đi, coi nên chọn con nào?

  • Chị sắp đi chợ với chị Hoa rồi. Để chiều chị lên coi nghen.

 Tôi cố tình nài nỉ chị tôi,

  • Nhưng chị lên đó đi! Em muốn chỉ cho chị coi một cái chuyện lạ lắm.

 Bà chị Tư của tôi gạt phăng,

  • Có chuyện gì thì cứ nói đại ra đi. Tao làm biếng lên gác lắm! 

 

     Tối hôm ấy, chị tôi về đến nhà rất trễ. Tối hôm ấy tôi đã ngủ ở dưới nhà trong căn phòng bỏ trống cạnh phòng ngủ của chị tôi. Chiếc nệm mousse dầy 4 tấc, có lò xo, không có gió từ cửa sổ, đã khiến tôi nóng nực khó ngủ và bồn chồn lo lắng. Cái trứng gà kia chắc vẫn còn nằm trên gác hay có ai mang nó xuống cái giường nệm dưới này.

    Tôi tự hỏi,

  • Liệu có ai đó vô hình cố tình chọc phá ta nữa hay không? 

   Tôi nghi vấn,

  • Làm sao ta có thể nằm ngủ ngay trên quả trứng trên chiếc nệm phẳng phiu mà không hề hay biết, không hề đụng chạm vào nó chứ. 

   Tôi tiếp tục hoang mang, lo lắng suy nghĩ cho đến khi gần sáng,

  • Tại sao quả trứng ấy không bể ra, không lăn qua, xê dịch qua một bên ? Tại sao có cái chuyện kỳ dị nhưng đơn giản đến như vậy. 

  • Sáng hôm sau, sau một đêm rong chơi, em trai tôi xuất hiện. Biết tôi sắp đi học, nó hỏi ngay,

  • Nhà còn gì ăn không anh? Em đói bụng từ khuya tới giờ.

Tôi vừa bước xuống bếp vừa bảo nó,

  • Mày lên gác lấy một quả trứng xuống đi. Tao chiên cơm cho ăn ngay này.

Nó phóng vội lên gác và chốc sau cầm xuống cái quả trứng ấy. Nó ngạc nhiên hỏi tôi,

  • Ai để nó ngay giữa cái giường của anh vậy?

Vẫn chăm chú vào công việc dở dang, tôi trả lời nó, 

  • Ừ thì tao đó chứ ai nữa. Tao để quên trên đó từ chiều tối ngày hôm qua.

 

   Làm như không có việc gì lạ lùng xảy ra, tôi phi mỡ tỏi sau khi dùng tay vò nhuyễn số cơm nguội trong nồi. Cho cơm vào chảo một đỗi, tôi đập quả trứng gà đó để trộn nó vào cơm chiên. 

   May thay, bên trong quả trứng cũng là hai thứ thông thường, tròng trắng và tròng đỏ chứ không có một thứ gì đặc biệt khác. 

 

    Rạch Giá Jan 20, 13

    Thành Xì

_________________________________

 THÔNG CHẢO

 

   Dù học khác lớp, đệ thất A3, nhưng chơi bóng rổ với nhau hằng ngày, thỉnh thoảng đi học về cùng đường, ở cùng một khu vực, Bùi Chí Thông, Thông Chảo, có những điều trong thời “mài đũng quần” ở ghế nhà trường mà tôi mục kích, ghi nhớ và muốn viết ra đây để góp phần vào cái đẹp, cái đặc biệt của những chàng nam sinh, những người có những cái đầu chải brillantine láng bóng, quần áo lượt là, mặt mày trắng trẻo, nhưng lại có kẻ trông như lao công, phu mỏ.

 

   Cao to hơn hẳn trong nhóm, lưng căng phồng phẳng rộng, ở trần, dang nắng nhiều buổi trưa trước giờ học, nó đen như cái chảo. Có khiếu ăn nói tếu lâm, thích đùa nghịch những đứa nào dị điểm hay đặc điểm để cười vui, Thông Chảo là một thằng bạn đáng mến và có sức lôi cuốn nhất đến cái tuổi ấy trong bao nhiêu “cầu thủ bóng rổ nhí” chúng tôi.  Trong lúc giải lao, chúng tôi cúi người thấp xuống để uống nước máy từ cái robinet thấp ngang tầm đầu gối. Nó làm nhiều đứa tôi ôm bụng cười ho sặc sụa, chảy nước mắt sống. 

   Nhìn cặp môi hơi dầy của thằng Bình Đen, nó phán một câu,

  - Thằng Bình có môi dầy như môi Mỹ đen. Hôm nào thiếu thức ăn, má nó cắt môi của nó để xào với hẹ.

   Chê tôi cao kều, chơi dở, nó phán cho một câu,

  - Thằng Thành chỉ cần đứng ngay dưới cái rổ, chọt cho trái banh văng ra ngoài.

Thằng Phùng Trương đẹp trai nhất bọn tôi, và cũng nhất khóa 1967, cũng bị nó phong một cái tên,

  -  Thằng Trương bị tài tử Địch Long soán ngôi minh tinh nên buồn quá nó mới chơi bóng rổ.

    Mỗi khi có “độ” ăn nước đá đậu ở xe đẩy của chú Xồi, nó chọc phá chú như thể nó một thằng cháu vui tính lâu ngày về thăm ông chú ruột. Nó xin thêm tí nước đường, nó múc thêm vài hột đậu hoặc chan thêm một chút nước cốt dừa. Nó dành bào nước đá vào ly của thằng này, thêm nước xi rô màu vào ly của thằng khác. Khi uống nước giải khát, nó dùng hai ngón tay kẹp cái vòi của ấm trà giống y như cái cách tụi con trai đi “tháo nước ra ngoài.”

    Sau khi đi xem đội bóng rổ Thọ Nhơn tập luyện vài lần, nó bắt chước cách lên rổ của “A Chảy” nó cũng nhái được đánh mông nhẹ nhàng của “A Húi”. Nó làm cho chúng tôi vừa buồn cười vừa khâm phục. Nó là người không thể thay thế được.

   Rõ ràng Thông Chảo có tài, có năng khiếu tếu lâm bẩm sinh. Chàng ta biết làm mắt lé, lận cặp môi dầy ra ngoài, rung lắc hai vú, mông và cái bụng mỡ đủ kiểu. Nó có khi nghĩ ra, kể cho chúng tôi nghe các món ăn lạ lẫm, 

  - Tao hiện khoái món:“Môi Mỹ đen xào hẹ.

  - Hôm qua tao vừa ăn món:“Móng tay chiên giòn.

Hoặc có khi nó mô tả cách sút bóng,

  - Một tay kéo áo xuống, tay kia xoáy bóng.

  - Móc bóng từ sau lưng rồi lăn tròn tới một vòng.

Có lần nó lén đưa đôi giày đang bốc mùi nồng nặc vào mũi thằng Tòng đang nằm lim dim ngủ trưa.

   Nó tập được cách nói của thầy này, nó nhớ thuộc lòng cách nói của một cô khác của trường Phan Thanh Giản. Nó chỉ cho chúng tôi xem cái tính cách độc đáo của thầy Phi, cái điều lạ lùng của thầy Lực, của cô Hồng... Nó đã khiến Mẫn Lùn đã phải nhảy vào cuộc. Hai anh chàng đã khiến những buổi tập chơi bóng rổ của chúng tôi thật đáng nhớ. 

    Mỗi khi ngồi lại bên nhau để nghỉ ngơi sau một ván đấu 20 điểm, hắn nghĩ ra đủ cách, đủ câu chuyện để chọc cho chúng tôi cười. Chưa bao giờ nó bị ai đó cự cãi hay hờn mát gì nó sau khi bị nó chọc ghẹo. Chưa bao giờ nó giận hờn ai hay có vẻ buồn bã ưu sầu như thể nó chẳng có gì để buồn. 

   Có lần nó chọc tôi, người vừa từ bỏ theo nhóm “chạy xe Honda”, còm cõi nhất, chơi dở nhất trong nhóm,

   - Mầy sau này có lấy vợ, chọn cô nào mập cỡ như tao để tối ngủ không phải đắp mền, để khi đi đau bệnh có người ẵm bồng.

Nó chọc thằng Mẫn Lùn,

   - Sau này nếu mày có bồ cao ráo. Muốn hôn nó, mày cứ nhảy lên ôm cổ nó.

   Mỗi khi có lớp học buổi chiều tối, khi có những chiếc áo dài trắng thướt tha vào sân trường, nó càng chơi hay càng tếu phá như nó vừa có thêm một phép thuật gì vậy.

Không ai trong chúng tôi có bạn gái. Không ai trong chúng tôi để ý đến nàng nào. Không có ai thích kể về một nữ sinh nào như thể mọi đứa tôi chỉ yêu “quả bóng rổ.” Giống như đa số chúng tôi, Thông Chảo không chừa hai môn bóng đá và bóng chuyền. Nó sút phạt khá mạnh và “phá banh” cũng khá hay. Nó đỡ quả phát bóng rất cao của thằng Phúc Lùn mà không cần phải chuẩn bị gì.

   Mỗi khi có bóng ở đường biên cuối sân bóng, dùng thân mập, nặng ký nhất trong nhóm, nó hất văng chúng tôi ra ngoài sân. Có khi chúng tôi phải tự nhảy ra khỏi sân bóng để không phải dính vào cái lưng đang nhầy nhụa mồ hôi dầu của nó. Ai cũng ngại hoặc lười ôm quả bóng về nhà, hắn thì không. Thông Chảo đã không những vui vẻ vân vê quả bóng mà khoác cái áo sơ mi trắng trên một vai, để lộ gần hết cái thân trần trụi từ trường về. Môi dầy, cười híp mắt, tiếng cười dòn tan, Thông Chảo thật đáng nhớ, thật xứng với cái nick name đó.

    Nhóm muốn đi lên Bảo Lộc của chúng tôi phải vào NLS Cần Thơ đầu niên học 1968- 69. Về sân trường cũ, chúng tôi đánh với nhóm Phan Thanh Giản khi họ đang tập trong sân hằng chiều. Đội Bụi Gia Trang tụi tôi như có thêm một nguồn lực mới, một kỹ thuật mới, một tốc độ mới nhất là sau khi chúng tôi đã tập chung với nhóm lính Mỹ ở sân trước nhà thờ Tin Lành, lộ 20. Có một cái gì khác hơn trước đây, một phe áo trắng, một phe áo nâu. Chúng tôi mặc đồng phục có số áo. Bên phe kia cũng có bộ áo mới. Thằng Định Vịt Xiêm hay Liêm Hút được cử làm trọng tài cho thêm phần nghiêm túc. 

   Thông Chảo vẫn còn là một sứ giả hòa bình giữa hai nhóm. Lý Thái Lâm thật ít nói nhưng chơi hay hơn nhiều. Những thằng khác trong Bụi Gia Trang cũng theo bước của “Anh hai Lâm” chuyền nhanh, di chuyển liên tục, sút xa chuẩn xác. Đội “Bụi Gia Trang” của chúng tôi chơi hay hơn. Chúng tôi đã nhích lên một nấc. Nhóm đi Bảo Lộc như thể đang chuẩn bị lên đường.

    Hay tin tôi sắp đi học, Thông Chảo đã đến nhà tôi vài buổi chiều để tâm tình, tra gạn, tranh luận, phân tích một cách nghiêm túc như một nhà giáo dục học, một kẻ trưởng thành rất có trách nhiệm về việc đi học xa nhà, không giúp được gia đình, một mái nhà có cơ nguy bị hư hỏng. Nhà đông anh chị em có công việc làm ổn định, và là em út, Thông Chảo khó lòng nghĩ đến chuyện như tôi sắp làm dù nó cũng rất thích được học hỏi nhiều hơn, khám phá nhiều điều mới mẻ hơn và được thay đổi nhiều hơn như chúng tôi.

    Mỗi dịp hè về, tết đến, hắn đều đến nhà thăm tôi. Đường Lê Lai khi đó được tráng nhựa, chỉ mất 5 phút để gặp tôi, Thông Chảo thường ghé đến chơi với tôi hơn trước đây. Và những anh chàng khác, Thiên Tài, Bảo Toàn, Đức Ngân, Hét Quắn, Khuê Bầu, cũng theo chân hắn lần lượt đến tệ xá của tôi. Thông Chảo phỏng vấn tôi,

  - Mầy thấy việc đi học xa nhà có lợi nhiều hay ít, mậy?

  - Tùy theo người...

  - Mầy đã học được gì từ trường N.L.S Bảo Lộc?

  - Nhiều lắm chứ...

  - Tụi mày có chơi bóng rổ trên đó không? Trời lạnh chơi đã hơn phải không? 

  - Trời lạnh làm cho mình ít mất sức hơn. Có lẻ cũng vì là đại diện cho Cần Thơ, tụi tao chơi hay hơn 

Giờ đã là học sinh mặc áo nâu của N.L.S Cần Thơ rồi, giờ không còn rất tinh nghịch như hồi còn bé, Thông Chảo tò mò hỏi tôi về chuyện có bạn gái,

   - Mầy có yêu ai trên đó chưa hay có nàng nào để mắt đến mầy chưa? Con gái trên Bảo Lộc dễ thương không?

Tôi trả lời ngay,

   - Tao có một thương người rất dễ thương.

Thông Chảo chuyển đề tài,

   - Mầy có làm cho gia đình buồn lòng về điều gì không?

Tôi lắc tay,

   - Không bao giờ. Mày tin tao phải không Chảo!?

 

   Thông Chảo làm tôi thấy ý nghĩa của việc đi học xa nhà hơn ai hết. Chính nó làm tôi thấy hãnh diện vì tôi đã đem về Cần Thơ, về mái nhà xưa, về trường cũ, khá nhiều điều mới mẻ tốt đẹp. 

                                                 

                                                                                   Rạch Giá- Apr 14, 2013

                                                                                      Lương Ngọc Thành 

 

_____________________  

                                          NHÓM MÁU CỦA TÔI

 

     Loài người có các nhóm máu A, B, O hoặc A-B. Tôi đến giờ vẫn chưa có dịp đi xét nghiệm xem tôi có nhóm máu nào nhưng tôi biết rất rõ ràng rằng tôi có một nhóm máu phụ mà các bác sĩ không hề hay biết. Đó là nhóm máu L.N.T. Đây là loại máu giúp tôi làm được nhiều điều khá ngoạn mục mà người bình thường phải chịu thua.

     Điều đầu tiên ngay sau khi ra trường tôi đã làm đó là đưa thằng Hải Bầu về Cần Thơ. Tôi chứa nó ở tại nhà và tôi dạy nó sao cho nó có thể thi lại được bằng tú tài chuyên nghiệp ngành Nông Lâm Súc. Cả lớp tin là tôi làm được và bản thân Hải cũng đã rất tin tôi.

   Trước hết tôi bắt hắn dậy 3 giờ sáng để học. Hàng ngày, tôi bắt hắn làm 20 bài toán và lý. Tôi tự tay pha cà phê cho hắn nhưng tôi quên bẵng đi việc cho hắn vài điếu thuốc lá. Tội nghiệp cái thằng đang hàm ơn tôi. Hắn đã không dám nhắc tôi và đã cố nhịn thuốc lá trong 49 ngày ở Cần Thơ học thi tú tài với tôi. Tôi giải thích bài, dạy hắn những nguyên lý, công thức một cách dễ hiểu, ấn tượng. Ngày qua ngày, Hải Bầu tiến bộ rõ ràng và sau 7 tuần lễ hắn trở về nhà, Dốc Mơ- Gia Kiệm. Hắn đã thi đậu khá dễ dàng. Thầy Minh Còi dạy toán có tiếng của trường NLS không thể hiểu nổi làm sao tôi có thể làm được cái điều khó tin ấy. Nhóm máu L.N.T đã giúp tôi đấy thôi.

   Điều thứ hai mà những đồng môn, nhiều người cùng trang lứa với tôi khó lòng làm được. Đó là trong những tối Thanh Vân qua thăm tôi trong những ngày nghỉ hè năm lớp đệ nhị- 1973, đệ nhất- 1974, trong phòng khách của nhà tôi, tôi chỉ trò chuyện với nàng khoảng nửa giờ một cách trang nghiêm, đàng hoàng, thậm chí không nắm tay, không cợt nhả, không hẹn hò đi chơi ở đâu cả, không một lời trăng hoa ong bướm gì hết. Nàng cười nhẹ khi chào tôi ra về, nhưng trong lòng nàng, tôi tự nghĩ, thể nào nàng cũng tự hỏi:

 - Không biết ảnh có cái loại máu gì mà sao thấy ảnh nguội lạnh với mình quá? Nhà không có ai, ảnh cũng không có gì để ngại ngùng. Còn ta thì chỉ biết ngồi yên và chờ đợi ảnh.

Thanh Vân đã không biết rằng cái nhóm máu đó của tôi đã giúp tôi làm được như vậy đấy.

Khi đón nàng đến thăm hay lúc tiễn nàng ra về, tôi đều tự dặn lòng:

  - Ta chỉ là một thằng học trò, học hành chưa đến đâu. Chuyện yêu đương rồi cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Nắm tay hay hôn lên má nàng hoặc ôm nàng vào lòng là việc chẳng có gì khó, nhưng để không làm những chuyện gì... gì đó xa hơn thế mới thật là khó và đáng làm.

    Điều thứ ba tôi đã làm còn khiến tôi ngạc nhiên đến tận ngày nay. Từ ngay sau ngày về Cần Thơ nghỉ hè đến đầu năm lớp đệ nhất, tôi đã phải dự một lớp luyện thi tú tài. Tôi làm bài tập suốt ngày. Thầy Trí “Ba Túi” dạy toán khen tôi đáo để cái cách tôi ghi chép, vẽ hình học hoặc giải bài tập. Khóa học đó kết thúc vào đầu tháng 10. Trường tôi khai giảng năm học mới vào đầu tháng 9. Tôi, người chưa hề nghỉ một giờ học nào trong 2 năm lớp đệ tam và đệ nhị, đã quyết định lên học trễ nửa tháng năm lớp đệ nhất. Dĩ nhiên, cả nhóm Cần Thơ chúng tôi đã lên học đúng ngày khai giảng. Nếu không phải vì cái nhóm máu lì lợm chịu chơi, ai mà dám vắng mặt 2 tuần như thế được? 

   Tôi còn nhớ việc bị thầy tổng giám thị cắt tóc 2 lần và tôi đã để yên như vậy đúng hai lần. Tôi đã ngoan cố ư, lập dị chăng? Tôi không biết phải giải bày thế nào cho chính xác nhưng có lẽ cái nhóm máu lạ của tôi đã khiến tôi …hơi ngông?  

 

   Điều thứ tư tôi đã làm quá tốt là thi đậu thủ khoa vào Đ.H Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức- Viện Đại Học Bách Khoa. Tôi, một tuần 2 ngày, phải học các môn khoa học tự nhiên tại trường Bách Khoa và ngồi chung giảng đường với sinh viên Đ.H Nông Lâm và Bách Khoa Phú Thọ. Để có chỗ ngồi những hàng ghế đầu, tôi phải từ nhà trọ trên Thủ Đức đạp xe đi học từ lúc 3 giờ rưỡi sáng. Trưa tôi ăn bánh mì với chuối và tối đạp xe về. Việc siêng học của tôi, vốn đã nhen nhúm ở Cần Thơ, rồi nó bén rể từ Bảo Lộc, đã chinh phục được ông chủ nhà quá khó tánh nhất ở khu vực đó. Sau một tuần, ông ta đã tình nguyện giặt đồ cho tôi để giúp tôi có thêm thì giờ học. Còn bà chủ nhà thì cho rằng tôi học cực hơn là một người đi lính đánh trận. Hai ông bà đã tự động giảm tiền thuê phòng còn phân nửa và thường mời tôi ăn sáng hay ăn thêm chút ít gì với họ vào buổi chiều tối.

   Một cô sinh viên trong lớp, gốc N.L.S Tây Ninh, Thúy Nga, đã thú thật với tôi là nàng đã chẳng hiểu mô tê gì các bài giải của tiến sĩ toán Võ Thế Hào. Nàng xin tôi dạy kèm cho nàng và một người bạn học khác, N.L.S Long An, Đặng Thị Hạnh. Một cách rất khiêm tốn, tôi đã nhận lời ngay có lẽ vì cái áp lực khủng khiếp của nhóm máu trong người tôi- làm để học- giúp đỡ mọi người. Không biết có ai trong đại học, vốn không giỏi toán, không đủ giờ học, không dạn dĩ lại dám nhận dạy kèm toán cao cấp cho 2 cô sinh viên cùng lớp không? Vài tuần sau, tôi đã thật sự giúp họ hiểu toán hơn.

   Điều thứ năm đến ngay sau ngày 30 tháng 4, tôi đã khiến Mẹ tôi sửng sốt đến bật khóc khi tôi xin bà cho tôi lên Bảo Lộc làm rẫy với thằng Khuê Bầu, sau tôi 2 khóa. Tôi đã lên rẫy, ăn độn khoai ngô ngay ngày đầu tiên lên Bảo Lộc, 16- 5- 1975. Sau đó một tháng, cùng với Long Kh’mer, chúng tôi lên Liên Khương để kiếm việc làm. Ông chủ vườn- một giáo sư trường Bùi Thị Xuân Đà Lạt-  đã thật tử tế với chúng tôi. Một tuần sau, ông ta khuyên chúng tôi nên trở về Bảo Lộc làm giấy tạm vắng để ông ấy có thể hợp thức hóa cho chúng tôi sống và làm vườn cho ông ta. Đọc đơn xin của chúng tôi xong, tên công an khu vực dắt chúng tôi lên công an Huyện và họ biệt giam hai đứa tôi với tội danh là “tình nghi khai man lý lịch để âm mưu phản cách mạng.” Suốt những ngày trong lô cốt đen ngòm, lạnh lẽo và ẩm thấp, tôi đã âm thầm soạn ra những câu viện dẫn, đã nghĩ ra những câu hỏi hóc búa sẽ bị điều tra và những khả năng xấu nhất có thể xảy ra. Tôi đã bào chữa một cách hùng hồn, khá thuyết phục. Nhóm máu của tôi đã giúp hai đứa tôi ra “tù”và chúng tôi bị "trục xuất" ra khỏi Bảo Lộc trong một ngày để trở về nguyên quán- Cần Thơ.
   Hiếm có một người thanh niên hay một sinh viên nào chỉ nghĩ đến việc mưu sinh bằng nghề nông như hai đứa tôi. Trường chúng tôi đã dạy chúng tôi rằng:” Học để làm. Làm để học. Tạo tiền để sống. Sống để phụng sự.”Đất nước nay được hòa bình độc lập. Chúng tôi cũng chỉ muốn sống một cách độc lập, yên bình. Khuê Bầu muốn độc lập tìm kế sinh nhai và tách mình ra khỏi gánh nặng nuôi 5 người con của mẹ nó. Tôi cũng muốn độc lập sống ở đây thay vì phải sống trong gia đình với một thằng em hút xì ke, bất trị và côn đồ. Tôi đã bỏ nhà lên đây vì không muốn chứng kiến cái cảnh xụp đổ ấy. Tay cán bộ hỏi cung tôi đã chú ý nghe tôi “thuyết trình.”

    - Thế các cậu sẽ làm gì ở đây nào?

    - Thưa cán bộ! Chúng tôi sẽ xây dựng lại trang trại. Chúng tôi sẽ nuôi một đàn gia súc, một đồng cỏ. Bạn tôi sẽ khuếch trương nghề trồng dâu nuôi tằm của cậu hai nó. Chúng tôi dự tính cả việc lập một tập đoàn sản xuất. Lập một thủy điện nhỏ tại con suối nhỏ ở đây là chuyện chúng tôi đã mơ ước. Chúng tôi còn có thể…

    - Thôi, thôi thế đủ rồi. Tốt, tốt lắm.

 Tay cán bộ hỏi cung ấy có vẻ thấm đòn “tâm lý chiến” của tôi rồi. Nghĩ ngợi một đỗi, hắn ta kết luận:

  “Hai cậu lên đây sống gần một tháng nay bất hợp pháp, gây ra sự mất an ninh trật tự trong địa phương, gây mất đoàn kết nội bộ, bất bình trong quần chúng nhân dân, gây ra sự quan tâm lo lắng của công an khu vực, và cả hát nhạc vàng nữa đấy… Nay tôi phải ký lệnh trục xuất hai cậu về địa phương để lao động sản xuất! Cậu có 24 giờ để rời khỏi Bảo Lộc.”

  Hai đứa tôi vô tội, được tự do rồi. Hai đứa tôi như chim được sổ lồng về tổ cũ ở Cần Thơ rồi. Cả nhà Má Chánh đều mừng cho hai đứa tôi. Chúng tôi được thưởng vài cây chả nóng mới ra lò. Thằng Long Kh’mer đã kéo chúng tôi ra quán Má Năm ở mặt sau chợ Bảo Lộc. Bà đã thiết đãi chúng tôi một chầu cơm trắng còn Long kh’mer thì tận tình, tận tay pha cho hai đứa tôi hai ly cà phê đen, có lẽ là ngon nhất trên thế gian này. Có lẽ, nó đã “chôm” tiền của Má Năm để mua vé cho hai đứa tôi về Cần Thơ. “Phải không thằng quỷ sứ kia, Long kh’mer?”

Má Năm thường hỏi nó như thế. Còn khi nói về tôi, bà thường rầy Long Kh’mer,

   “Tối ngày mày cứ kéo thằng Thành Xì đi đâu đâu đó không hà. Không để cho thằng nhỏ ăn cơm ăn nước gì hết há”

Tôi nhớ những câu nói này của má Năm như in vậy.

     Trong những ngày ở Cần Thơ, tại sân banh Quang Trung, tôi bắt đầu tập chụp bóng để mong trở thành một thủ môn. Hồi ở Phan Thanh Giản, thủ môn Vinh đã là thần tượng của tôi. Tôi mê cách anh ấy ôm gọn trái banh hay cách anh ta phóng người chụp trái banh xệch như một con mèo vồ chặt con chuột. Ngày ngày, như một cầu thủ của một đội nào đó, từ lúc 1 giờ trưa, tôi tập chụp bóng cùng với một học sinh lớp đệ tam cho đến lúc trời xế chiều.

   Một hôm khoảng đầu tháng 9, tôi nhận được một bức điện tín cái đã làm thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Đặng Văn Lâm, NLS Phan Rang, gửi điện tín kêu tôi về trường học lại. Không đăng ký, không sinh hoạt, không có lý lịch tốt, không có thân nhân tham gia cách mạng, không có tiêu chuẩn ở ký túc xá, tôi đã bắt đầu đi học lại đại học từ con số không.

   Nhóm máu của tôi đã giúp vượt lên. Tôi đá bóng cho đội lớp và tập cho nhiều sinh viên trong lớp. Tôi đã khéo léo dẫn dắt đội lớp đến chức vô địch toàn trường. Đương nhiên, tôi được tuyển ngay lập tức với vai trò tiền vệ trung tâm. Anh Nguyễn Hưng, người Phan Rang được tuyển làm đội trưởng. Trong một lần tập, tôi đã bảo với anh Hưng:

  -Để em làm thủ môn cho. Thằng Thuận, lớp 74 KCN, hơi thấp và chậm chạp quá.

Anh Hưng trợn mắt nhìn tôi:

  -Từ lâu nay Thành đá tiền vệ mà? Anh thấy mày đá ngon lắm mà!

Thay vì trả lời, tôi đã bảo anh Hưng đá bóng lại phía tôi. Vung một cú sút khá mạnh, anh muốn thử tài tôi. Tôi bắt thật gọn và đưa bóng lại cho ảnh thật điệu nghệ. Lần này ảnh đá bóng sệt và xoáy. Tôi nhoài người nhẹ nhàng ôm bóng như một tay chuyên nghiệp. Anh Hưng chỉ còn biết đến bắt tay chúc mừng tôi,

   - Đúng là thủ môn rồi!

     Sau khi anh Hưng ra trường, cuối năm 1975, tôi lên làm đội trưởng kiêm thủ môn. Tôi liên tiếp được bầu làm xếp đội 4 năm liền và khi ra trường tôi được trường giữ lại làm” Cán bộ thể thao, phụ trách Bóng đá, Bóng rổ”. Tôi được hưởng chế độ khá cao và là người cán bộ đại học duy nhất của năm ấy có 3 cái không: không phải là đoàn viên, không có lý lịch tốt và cũng không có điểm tốt nghiệp lớn hơn 8. Trường Đại Học Cần Thơ- với gần 5000 sinh viên- trước đó đã không thể xin tôi về công tác như một cán bộ phong trào thể thao cho trường của họ.

     Giống như trong chuyện tiểu thuyết, sau khi ra trường, đi làm ổn định, tôi vác ba lô hành lý đi xuống Sóc Soài, Rạch Giá tìm thăm mẹ tôi người đã trốn chạy xa thằng em tôi từ đầu năm 1976. Mẹ tôi dùng gần hết số tiền bán căn nhà ở Cần Thơ để tậu 3 hecta đất ruộng ở đây. Bà sống trong một túp lều nhỏ một mình bên kia sông. Đêm hôm ấy dù mệt nhoài sau một chặng đường dài, tôi đã không tài nào ngủ được. Trưa ngày hôm sau đó, vác đôi giày trên vai, gọi đò sang sông, tôi lội bộ lên sân bóng xã để tập. Thanh niên ở đây trầm trồ xem tôi đá tập như tôi đã từng ngưỡng mộ các cầu thủ Thể Công tại sân Quang Trung Cần Thơ mấy năm trước.

    Tôi được mời đá chầu cho một đội lớn của tỉnh Kiên Giang- Vật Tư Tổng Hợp. Họ đã bao ăn ở, thanh toán tiền xe đi xuống và trả cho tôi 100 đồng một trận- gấp 2 lần tiền vé xe đò đi về đây. Và rồi không bao lâu sau, tôi đã được giấy chuyển công tác về một công ty này đây để vừa làm vừa đá banh cho họ. Trái bóng tròn đã lăn tròn cuộc đời tôi. Nghe lời khuyên chí tình của ngừơi mẹ nuôi, tôi đã về đây để có thể phụng dưỡng người mẹ ruột- chứ không phải để có thể dễ đi vượt biên.

   Hai tháng sau, Như Ngọc- vị hôn thê của tôi-  xuống đây thăm tôi đúng như lời mẹ nuôi tôi đã hứa. Nàng là con út trong gia đình, là học sinh xuất sắc của trường Lê Quý Đôn, là người hiểu biết thành thục tiếng Anh và tiếng Pháp và là người chỉ mơ mộng đi du học mà thôi. Ngay sau khi biết chúng tôi yêu nhau, bà tổ chức một đám hỏi tại Nhà hàng Đồng Khởi. Bà cũng đã lén đưa cho tôi đôi nhẫn và một sợi dây chuyền để tôi tặng vị hôn thê của tôi.

   - Thành à, má thương con như con ruột. Chờ ngày con học ra trường, má làm đám cưới cho như thể cùng một lúc má vừa cưới dâu mà cũng vừa gả con gái vậy.

Tiếng đàn ghi ta của tôi, cách nhìn cuộc sống của tôi, cách tôi thương mẹ nuôi, và cách tôi đối xử với nàng khiến nàng thật sự yêu tôi. Để giúp nàng sống ở đây một thời gian tự lập, tôi đã bán sữa đậu nành mỗi buổi tối. Tôi tự tay xay đậu, nấu đậu và đứng bán bên lề đường. Ít ai ngờ rằng bán hết số sữa đậu nành ấy tôi thu được một khoản tiền bằng với tiền một tháng lương, 61 đồng. Nhiều người tốt nghiệp đại học, đồng nghiệp, ngay cả mẹ nuôi tôi cũng không ngờ rằng, nàng vì sống hạnh phúc thật, đã ở lại Rạch Giá với tôi 6 tháng. Trong sáu tháng đó, tôi đã giữ được tiết trinh cho nàng. Nhiều người đã hỏi tôi điều gì đã khiến tôi làm được điều như vậy. Tôi trả lời ngay, “Nhóm máu của tôi.”

      Sau khi em trai và chị tôi vượt biên năm 1982, tôi không còn được tin dùng nữa. Tôi đã lập gia đình năm 1984. Vợ tôi là người tôi đã chọn để giúp tôi phụng dưỡng mẹ tôi. Còn vị hôn thê ư? Tôi đã đơn phương viết thư chia tay với nàng, người lúc nào cũng nghĩ đến việc“ra đi” và vừa rồi đã lên tiếng chỉ trích, tỏ ra vẻ bất kính tôi.

   Tôi sống bên nhà vợ và nấu rượu với ông già vợ. Họ tưởng tôi sẽ trở thành “nhà sản xuất rượu lậu”. Bất ngờ, vị huấn luyện viên đội bóng Sở Lâm Nghiệp tìm gặp tôi để mời tôi chụp cho trận bán kết một giải đấu trong tỉnh. Tôi đã chẳng những không phụ lòng họ mà còn chơi xuất sắc trận chung kết 3 ngày sau đó. Ngay lập tức trong bữa tiệc nhận cúp vô địch, tôi được mời làm cho Công ty Lâm Sản, với chức danh: giám sát công trình. Lại phải sáng sớm đạp xe vài cây số đi làm, lại phải đá banh tranh giải hàng năm, và đặc biệt hơn lại phải chơi đàn accord cho ban nhạc Sở Lâm Nghiệp tranh giải văn nghệ quần chúng hàng năm, tôi hy vọng tạo ra một sự đổi thay.

   Giáo sư Phạm Phi Hoành rất tình cờ gặp tôi một sáng nọ tại Rạch Giá. Ông hỏi tôi ngay,

    - Sao không tìm cách đi đi…tôi nghe bảo cậu đi rồi mà?

Em trai của Bích Vân trong một chuyến công tác, đã rất ngạc nhiên khi thấy tôi đang đứng sơn vẽ bảng tên của Công Ty Lâm Sản như một người thợ.

  Gần 5 năm làm việc, tôi đã vắt hết mồ hôi, tôi trút hết bầu nhiệt huyết vốn có, tôi đã cần mẫn làm việc, tôi đã mong một ngày được cấp một ít gỗ để làm một căn nhà nhỏ để rước mẹ tôi về chung sống. Họ đã lãng quên tôi. Họ đã thản nhiên quên mất những gì tôi đã làm cho bọn họ. Họ còn cử tôi vào phân xưởng mộc để xẻ gổ tạp làm củi trong lúc mà cả Sở Xây Dựng lẫn Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Tp HCM đánh giá cao sự đóng góp của tôi.

   Tôi làm đơn nghỉ việc sau khi tập tành làm được hai nghề phụ: thợ chụp ảnh và thợ vẽ bảng dạo. “Chúng ta không sờn chí trên vạn đường xa” quả là một câu tuyên bố để đời. Tuần 3 buổi tối, tôi cắp tập sách đến trung tâm ngoại ngữ thị xã để học Anh Văn. Cô Thành và thầy Hùng Đô La có ngờ đâu thằng học trò dốt nát ngày xưa của họ trên Bảo Lộc, chỉ sau một khóa học 3 tháng, lại có thể đậu ngay cái bằng A, với hạng xuất sắc, do ĐH Tổng Hợp Tp HCM cấp.

   Một buổi chiều bình thường đầu năm 1989, đích thân ông thầy dạy Anh Văn của tôi đạp xe mini đến nhà tôi:

   - Thành này, chúng tôi đã họp bàn kỹ lưỡng rồi và quyết định mời cậu làm giáo viên cho chúng tôi. Cậu dạy ngay chiều tối hôm nay trong khóa mới này. Chúng tôi tin cậu. Cậu trả lời sao nào?

  Khi ấy 36 tuổi, hai bàn tay trắng, ứa nước mắt, lặng cả người, tôi thẩn thờ nhìn chung quanh. Đây là căn nhà lá cũ kĩ dột nát mà chúng tôi đang ở đậu mà tệ hơn là không có đăng ký tạm trú. Đứng ngoài kia là vợ tôi đang mang bầu sắp sanh đứa con đầu lòng. Ngồi chơi nhà kế bên là mẹ tôi, người khắc khoải lo toan cho tương lai của chúng tôi, mong có đứa cháu nội từ nhiều năm nay.

  Tôi nghĩ ngay đến những gì đã từng trải qua, đã chứng kiến, đã trăn trở mơ ước, đã bật khóc, đã mỉm cười nghẹn ngào, những điều đã khiến tôi phải văng tục chửi thề và cũng đã âm thầm câm tức, những đêm thức gần đến sáng để học hoặc để vẽ cho xong một bức tranh, những tấm lịch do chính một mình tôi làm ra. Thầy Chu Sĩ Lương còn điềm tỉnh chờ tôi trả lời, còn tôi thì không thể nào giữ được bình tĩnh được nữa. Tôi đã chững chạc trả lời,

  -I hope I can make it if you all count on me and give me a hand.

(Em mong rằng em có thể làm được nếu như thầy và mọi người chung quanh tin em và giúp đỡ em).

Thưa các thầy cô! các bậc niên trưởng, các đồng môn, điều gì đã giúp Thành Xì này có được một cơ hội như thế? Có phải là nhóm máu L.N.T không?!

                    

 Sài Gòn  22 tháng năm, 09

                                                                                                                  Lương Ngọc Thành

_________________________

CHÁO TRẮNG VỚI NƯỚC MẮM KHO QUẸT

 

Trong cuộc đời đi học, chúng ta có khi phải ăn nhiều thứ lạ miệng, nghe lạ tai. “Nước mắm kho quẹt” là một trong các món đó. Tôi đã nấu cái món độc đáo này sau khi tụi nó đã công phu “chôm” được ít gạo và nấu xong nồi cháo trắng. 

      Sau khi ba tôi bỏ nhà đi, má và chị tôi phải đi làm suốt ngày. Tôi trở thành thợ nấu bất đắc dĩ khi mới có 10 tuổi. Hằng ngày tôi đi chợ nấu ăn và không bao giờ lập lại món canh, mặn 2 lần trong tuần. Năm 1965, với tiền chợ là 2 đồng, tôi nấu ăn hai buổi cho 4 người trong gia đình. Món ”Nước mắm kho quẹt” tôi học được từ mẹ tôi. 

   Một hôm mưa rất to, bà không đi làm được cho nên tôi có dịp nghỉ tay để xem bà nấu ăn: cháo trắng với nước mắm kho quẹt. Tôi giống mẹ tôi ở điểm: thao tác nhanh, nêm nếm rất vừa miệng- đặc chất nam bộ. Có ai từng được một nhóm bạn 6 đứa yêu cầu nấu cho ăn cái món “Nước mắm mỡ hành” như tôi chưa? Có ai tự học nấu ăn bằng cách đọc lén mục nấu ăn trong tạp chí Phụ Nữ của bà chị hay hỏi mấy bà bán hàng ngoài chợ như tôi chưa? Có ai chưa bao giờ bị mẹ la rầy vì nấu cơm hay thức ăn dở như tôi chưa? Tôi làm được những điều ấy chẳng qua là do tôi rất yêu thích những điều tôi biết và có trách nhiệm với những gì tôi làm.

      Đang tuổi lớn, chuyển lên sống ở xứ lạnh, học khuya và không có tí hàng bánh gì suốt ngày như chúng tôi, thì hỏi làm sao mà tụi tôi không đói bụng cồn cào đến nỗi không thể nào ngủ được cơ chứ? Tiền cơm tháng là 4.000 đồng, năm 1971, chỉ đủ cho chúng tôi ăn được hai chén đầu có thức ăn mà thôi. Bà Bảng chủ nhà hay nấu thịt đông, canh rau đay, trứng chiên- có trộn bột và da heo thái mỏng-, tàu hủ sốt cà hoặc cá Ba Thú chiên dòn- ngon tuyệt! Từ chén thứ ba, chúng tôi dành nhau vét dĩa, tô cái gì có trên bàn. Chai nước mắm bữa ăn nào cũng bị “khai thác” gần như cạn kiệt. Khổ nỗi 5 thằng chúng tôi còn chơi bóng rổ nữa chứ. 

  • Đói ơi là đói!

 Trọng Thỏ rên rỉ thường nhất. 

Đức Cống, một cậu ấm, người Sài Gòn, thường ra đầu ngõ mua snack. Hoàng Cận, con nhà khá giả, cũng thả bộ đâu đó “kiếm gì bỏ bụng”. Có khi Luận Già ra bưu điện tỉnh lãnh “măng đa”về với một quảy chuối nhỏ. Chúng tôi xơi tuốt tuột trong vòng vài phút như một đàn khỉ đói lâu ngày. Ba của Luận Già có lần lên thăm và mang lên một bịch xôi lớn- mẹ của anh ta những tưởng để con trai của bà ăn dần trong tuần. Chúng tôi “đợp’ cái bịch to tướng đó trong chớp mắt. Vậy khi nào “vả” quá, chúng tôi đành mang tập vở ra, nhai gậm đỡ “cái chữ” cho đỡ đói. 

   Chính vì bữa cơm nào cũng được chúng tôi “tận hưởng” 100% cho nên bà Bảng không có một cơ hội nào để nuôi lợn“tăng gia sản xuất” như các người chủ nhà khác. Thằng Hậu Bào tiếu lâm,

  - Đến nỗi con chuột, con gián còn sống không nổi chứ nói gì đến chuyện nuôi lợn- cơm hả!? không còn một hột.” 

Trọng Thỏ chêm thêm, 

  • Cái Thu- con gái lớn của bà chủ- khỏi cần phải rửa chén đâu nhé! Tụi anh đã liếm sạch bon hết rồi!

 Nồi cơm tháng đầu còn ít cơm cháy. Từ tháng thứ hai, ngày nào nồi cơm cũng “sạch trơ đáy”. Hét Quắn chỉ cười hì hì còn tôi thì đang cố tìm ra một “giải pháp”. 

      Chiến tranh ngày một leo thang. Vật giá ngày một đắt đỏ và thế nên thức ăn bà chủ nhà nấu ngày càng ít đi. Chất lượng càng giảm bớt đi và theo một tỷ lệ nghịch, chúng tôi càng đói nhiều hơn, thường xuyên hơn. Như một vị cứu tinh, Trọng Cọp đến rủ chúng tôi đi thu hoạch chuối, khoai ở vườn nhà Bác của nó. Khi nó tri hô lên “Chạy”, chúng tôi mới biết là nó đã rủ chúng tôi đi ăn trộm. "Băng Cần Thơ" chúng tôi đi “hành sự” hàng cuối tuần. Hằng đêm, ăn chuối ăn khoai suốt mấy tháng liền, chúng tôi đâm ra ngán ngẩm. Khi ấy, tôi vừa có một sáng kiến.    

      Một tối nọ, trời mưa rả rích, tôi chờ mấy thằng - không phải trong băng Cần Thơ- ngủ hết, tôi mới bật mí với thằng Hậu Bào.

  • Tụi mình đột kích ra phía sau, mày cố mở ổ khoá của cái ‘tủ chạn’ lấy gạo nấu cháo, còn tao lo đồ ăn mặn nghen!

Thằng Hậu không một chút do dự ra tay ngay. Nó khoái chuyện gì có ít nhiều tính mạo hiểm. Thật khẽ, trong bóng tối, nó làm tròn nhiệm vụ khá dễ dàng như một tay đạo chích chuyên nghiệp. Tôi nhờ nó thắp sáng bằng que diêm để tôi tìm những “vật liệu” cho cái món mặn tôi đã hứa.

   -Trước hết là: tóp mỡ. Ngày nào bà Bảng chẳng chiên xào, ngày nào bà ta chẳng thắng mỡ chứ?

 Tôi tự nhủ thế khi tay tôi sờ nhẹ nhẹ các lọ, hũ và lon mỡ.

Kế đến là lọ tiêu, phải có đủ tiêu mới ngon được!

-  Đường thì loại gì cũng được cả.

Tôi tuyên bố như thế trong khi chụm củi cho nồi cháo trắng. Có mấy thằng ngồi quanh bếp lửa để hơ ấm. Thằng Hậu Bào giúp tôi tìm thứ tôi đang cần. Tôi trổ tài như đang biểu diễn trước ống kính truyền hình, nhuyễn nhừ và dứt khoát. Tôi cứ nêm đi nếm lại nhiều lần cho đến lúc gật gù đắc ý. Trước hết, tôi cho tóp mỡ vào xoong, bớt lửa. Tôi khuấy đôi đũa đều đều cho các tóp mỡ chảy hết mỡ, giòn cháy đều. Tôi cho nước mắm vào nhẹ nhàng, không để nó văng bắn ra ngoài. 

  • Khuấy hoài chi vậy Thành Xì?

Có tiếng hỏi tôi. Tôi lên giọng của một thợ bếp,

  • Cho thắm đều, cho vừa ăn vậy mà. Hỏi hoài!

  • Xong chưa, nghe mùi thơm quá.

  • Suỵt! nói nhỏ thôi!

Tôi cho đường vào, từng muỗng, quậy, nếm liên tục cho đến lúc nước mắm xệt lại. Tôi rút bớt củi, dụi thanh củi cháy vào phần tro bếp- tôi nhìn thấy mẹ tôi làm như vậy mỗi khi bà sắp muốn bớt lửa. Cuối cùng, tôi rắc tiêu lên đều khắp mặt xoong khi mà nồi cháo trắng cũng sắp chín nhừ. Tôi chợt nhớ ra một thứ tuyệt hảo. Tôi gọi đích danh,

  • Bác Hét ra phía sau nhà nè, bên cạnh khóm rau muống có một chòm “lá dứa”. Ngắt vài lá vào đây.

Hắn nhẹ nhàng mở cửa sau, lách ra ngoài và vô tình để cho một ngọn gió lạnh buốt lùa vào phía chúng tôi đang ở phía trong ấm áp.

Tôi khoanh sơ mấy cái lá dứa rồi dìm vào nồi cháo khuấy lên nhè nhẹ. Mùi thơm toả ra khiến bọn nó thèm chịu không nổi. Khi ấy có lẽ hơn nửa đêm rồi.

       Bưng nồi cháo lên nhà, Hét Quắn thương tình kêu thằng Hải Bầu và Đức Cống thức dậy. Hải Bầu, một trưởng nam, gốc Bắc chính hiệu, vừa dụi mắt vừa trân trối nhìn cái xoong rồi hỏi, 

  • Cái quái gì thế này? 

  • Đặc sản miền tây đấy! 

  • Nước Mắm Kho Quẹt có ăn không thì bảo?

Đức Cống thay mặt tôi để trả lời. Con nhà Hải ta nếm thử và kêu lên, 

  •  Chúa ơi! Sao nó ngon thế!

Dưới ánh đèn tròn mù vàng, cái xoong trông thấy tuyệt làm sao. Tóp mỡ cháy mầu nâu xậm đều khắp mặt xoong. Tiêu được rắc đều tạo ra những đốm nâu đen. Nhưng khoảng nước mắm khô quánh lại cũng tạo ra màu nâu đậm, nâu cam có bọt đốm trắng của muối cô lại. Mùi nước mắm Phan Thiết đặc thù toả lên cái không gian nhỏ nhắn đáng yêu của chúng tôi. Cái xoong có giá trị như một món cao lương mỹ vị mắc tiền của bọn nhà giàu. Giá mà tôi có ghi lại được hình ảnh đấy, tôi có thể được giải nghệ thuật đấy. Hét Quắn khôn ngoan chọn cái dĩa, dùng muỗng quậy thật nhanh làm cháo mau nguội để húp nhanh nhất. Tiếng húp cháo, tiếng cạo những miếng kho quẹt khô đọng trên đáy xoong, tiếng xít xoa khen ngon làm ấm lòng tôi. Thằng Hải Bầu- chưa bao giờ nghe đến cái từ này trong đời- hỏi đi hỏi lại tên của cái món “quá đã” này. Tuấn Khờ thật thà phát biểu, 

  • Tao về nhà bảo mẹ tao làm món này cho cả nhà ăn mới được. Thành Xì dạy tao nhe mậy!

  • Mầy về Cần Thơ đi! Tao làm đủ món cho mầy ăn mê luôn, bỏ xứ Phương Lâm của mầy luôn. 

  • Tao chỉ cần cái món này thôi, Thành Xì ơi!

 

Làm cho ai đó cảm thấy đã cũng có nghĩa là làm cho chính mình đã, có khi còn đã hơn họ nữa chứ. Khi đi học xa nhà, có nhiều thứ đáng nhớ. Đêm hôm ấy, nồi cháo ấy và cái xoong nước mắm kho quẹt ấy của tôi là một trong những điều tôi khó mà quên được. Cái món nước mắm kho quẹt ấy có lẽ lúc nào cũng là chọn lựa đầu tiên khi tụi nó ăn khuya hoặc lúc nấu cháo trắng. 

   Mẹ tôi, lúc ấy tại Cần Thơ, chắc vui lắm khi biết tôi cũng nấu được ngon và được khen như bà vậy. 

                                                       

                                                                                 Rạch Giá – Sep 22, 09

                                                                                  Lương Ngọc Thành

                                                   CÁI ĐỒNG HỒ

 

      Trong số học trò có tiếng là chơi ngông, liều lĩnh, tôi là một ngoại lệ, thật thà chất phát cho nên tôi rất ngỡ ngàng khi theo thằng Hậu Bào vào quán cơm “Miền Tây” ở Bình Tuy cuối năm 1971.

     Theo lời mời của Bảy Bình, băng Cần Thơ chúng tôi theo nó về nhà nó ở Long Khánh trước dịp có 5 ngày nghỉ Noel năm 1971, năm học lớp đệ tam. Là anh em cô cậu với Bảy Bình, Thắng Cọ cũng đi theo chúng tôi. Nhóm khách chúng tôi đến nhà thằng Bình tới 6 thằng. Đầu tiên chúng tôi cần những bữa cơm gia đình, một chỗ ngồi buổi tối hoặc bất cứ cái gì tốt nhất mà “vị tiểu chủ gia” có thể cho chúng tôi được. Bảy Bình tiếp chúng tôi không nồng nhiệt như cách dân miền Tây chúng tôi mong đợi. Cái depot nước giải khát nước đá khá lớn ở khu vực này chứa đầy các két bia, nước ngọt. Ba má của Bảy Bình cũng đã không vồn vã với mấy thằng khách trẻ- bạn học của con trai duy nhất của họ. Hậu Bào và tôi thấy nhột nhạt vì sự tiếp đãi không mặn mòi gì cho lắm của Bảy Bình, và cũng để trút bớt gánh nặng “tiếp khách” của nó nên 2 đứa tôi bàn với nhau về chuyến đi Bình Tuy nơi thằng Hậu có ông chú Tám, người lập nghiệp được 20 năm trời và thiếm Tám có một tiệm may khá nỗi tiếng- Ngọc Huyền. Hậu mỉm cười nói nhỏ với tôi,

"Chỉ tao với mày đi thôi. Để tao lo hết cho."

Cũng không muốn ở đây thêm nữa, nghĩ ngay đến biển Bình Tuy, tôi trả lời ngay,

"Ừ há, tụi mình ra đó tắm biển cho đã luôn."

Thằng Hậu tiếp lời tôi,

"Chú Thiếm tao chắc mừng lắm."

  Hồi còn học ở trường Phan Thanh Giản, chơi bóng rỗ hay nhất nhì so với thằng Hà Thanh Mẫn có tiếng trong những người hâm mộ môn thể thao này, thằng Hậu- lớp A 3, nổi lên như một thần tượng so với thằng Phùng Trương lớp A1 của tôi. Tụi nó có thân thể cân đối, cao 1 mét 62, dẽo dai, ném rỗ hay, chuyền banh rất chính xác và có phong cách của người thủ lãnh so với cái thằng cao kều, mắc nhiều lỗi kỹ thuật thông thường, mém bóng ra ngoài nhiều hơn vào rỗ của tôi. Theo cách chia giờ của khối lớp đệ thất của tụi tôi, thỉnh thoảng hai lớp A3- A1 chúng tôi đánh bóng rỗ 30 phút. Thằng Hậu và Phùng Trương là hai ngôi sao sáng, ghi điểm nhiều nhất. Tôi không có gì khiến cho nó chú ý nhưng tôi thầm mong có ngày chơi được cở như nó, điềm tĩnh, chắc chắn.

  Vào Nông Lâm Súc, Hậu học cùng lớp với tôi và chúng tôi bắt đầu thân nhau. Tôi ngồi trên cái thanh ngang nhỏ của chiếc xe đòn giông của nó để nó đạp xe đưa 2 đứa tôi đến trường. Có dịp giỗ chạp hay vào mùa gặt lúa, tôi theo nó về quê nội của nó, Cái Vồn Bình Minh. Chúng tôi còn có một điểm chung- ăn mặc. Nó rủ tôi may quần ống loa màu trắng. Nó mang mấy cái áo sơmi, kaki vàng, quần Jeans của 2 ông anh nó đến nhà cho tôi sửa lại cho vừa. Vài buổi tối trong tuần, tôi cùng nó ra sân bóng rỗ Thọ Nhơn để coi các cầu thủ người Hoa tập dượt hoặc ngồi trước hẻm nhà nó trên đường Nguyễn Huỳnh Đức và vài thằng khác để ngắm thiên hạ chạy Honda qua lại.

   Đã từng theo nó qua Cái Vồn Bình Minh nhiều lần kể cả hai cái tết, tôi có nghe nói chút ít về chú Tám nhưng chưa hề gặp chú bao giờ. Tôi vui mừng vì đoán rằng thế nào thằng Hậu và tôi sẽ được đón tiếp tử tế.

    Khi trên đường quốc lộ 1 rất ít xe vắng người vì sáng 26 tháng 12 người ta còn ngủ vùi sau đêm Noel tối hôm qua, tôi mới biết là mình thật diễm phúc, bất ngờ được đi chơi. Vượt qua suốt một đoạn đường dài cát trắng từ ngả rẻ bên phải quốc lộ 1, xe đò của chúng tôi ghé vào bến xe khi trời rực nắng nóng với gió biển rát mặn. Đi bộ một đổi, thật dễ dàng cho tụi tôi để tìm ra tiệm may Ngọc Huyền, tên hai đứa con gái của chú Tám nhưng thật không dễ dàng gì để nói với 2 cô bé rằng chúng tôi rất đói bụng trong khi chú thiếm Tám đi vắng. Hai đứa con gái nhỏ, khoảng 10 hay 12 tuổi, chắc chưa biết nấu nướng hoặc tụi nó đã ăn hàng bánh thay buổi ăn trưa. Thằng Vũ em út, mới 5 tuổi, rất vui khi có hai ông anh từ Cần Thơ ra thăm. Có lẽ nó chưa hề gặp thằng Hậu nhưng tình anh em chú bác khiến nó cứ nắm tay, quấn quýt thằng Hậu.

   Liếc nhìn vô cái tủ chén trống không, thằng Hậu nhìn tôi nhún vai, nháy mắt. Nó dắt tôi lên lầu trống tênh. Cái phòng ngủ không đóng cửa. Tôi yên chí rằng tôi sẽ có một đêm ngủ ngon giấc nhất là sau một buổi tắm biển chút nữa đây. Gió biển mát rượi thổi từ phía sau làm tôi thấy thật nhẹ nhàng thoải mái.

   Một lúc sau, từ dưới nhà thằng Hậu rủ tôi ra biển dạo một vòng cho quên cơn đói.  Để nguyên bộ đồ đi đường, áo nâu, quần màu xẫm, hai thằng tôi thả bộ đi theo phía hai đứa em gái hướng dẩn. Tóc hơi dài, nước da có vẻ trắng hơn so với thanh niên dân biển rám nắng ăn mặc dơ dáy sốc sếch ở đây, chúng tôi bị biết bao nhiêu ánh mắt xoi bói, dò xét.

   Nhìn thấy màu nước biển sau hơn 3 tháng với màu xanh cỏ cây trên Bảo Lộc, chúng tôi thật thỏa mản nhưng cái bao tử chúng tôi thì không. Máu ngông nỗi lên đến tận cổ, thằng Hậu tuyên bố,

“Ghé vào chỗ nào ăn trưa đi Thành Xì. Tao đói bụng quá. Chú thiếm Tám có khi đến chiều mới về.”

Tôi đồng tình ngay nhưng lo ngại,

"Ăn gì?"

Quen giờ cơm trên B’lao rồi, tôi cũng phải đói cở như thế nên làm theo lời nó. Đi ngang một quán cơm “Miền Tây” với hàng chữ quảng cáo khá lớn,

“Đủ các món cá đồng tươi của miền tây.”

Tôi ngập ngừng dù nó vừa gãi đúng chỗ ngứa của tôi. Đoán rằng nó đã hỏi hai đứa em gái một số tiền đủ để hai cái bao tử của chúng tôi được lắp đầy, tôi hơi bỡ ngỡ theo nó vô quán. Hơn một giờ trưa nên quán vắng khách. Chúng tôi ngồi ngay một bàn giữa quán ăn. Các bàn ăn đã được dọn, sàn nhà cũng đã lau chùi sạch sẽ. Thực đơn được cô bồi bàn mang ra và tôi biết rõ chúng tôi chỉ có thể trả được 2 đĩa cơm trắng với một đĩa thịt hay trứng chiên vì hồi sáng này tôi đã nhìn thấy Thắng Cọ dúi vào tay Hậu Bào một số tiền nho nhỏ để đi xe ra đây, ăn quà vặt hay thuốc lá cho thằng Hậu.

“Ăn gì mậy?”

Đẩy tờ thực đơn về phía tôi, Hậu vừa mỉm cười vừa hỏi tiếp.

“Mầy kêu gì cũng được mà.”

Tôi trả lời như một cái máy,

"Thôi mầy cứ chọn đi!"

   Không để cô hầu bàn chờ lâu, Hậu Bào thản nhiên gọi một tô canh chua cá lóc và cá rô kho tộ, hai món tiêu biểu của món ăn nam bộ.

  Hơn ba tháng trên Bảo Lộc, bà chủ nhà nấu cho 10 đứa chúng tôi canh rau đay, trứng chiên, cá biển kho vừa lạc lẽo, thiếu hương vị, vừa thiếu dưỡng chất. Dẫu cho những bữa cơm tháng trên đó thiếu thức ăn, 10 đứa tôi tận hưởng, vét sạch tất cả trên mâm cơm. Sau khi Trọng Cọp dắt chúng tôi đi trộm chuối và khoai trong một miếng vườn mà nó nói phét là của Bác nó, chúng tôi có thêm những củ khoai nhiều tinh bột thơm ngọt để lấp dạ lúc khuya sau khi học bài hay sáng sớm trước khi đi học. Nhưng giờ đây, trên bàn ăn chỉ có hai thằng với hai món ăn nhà hàng miền tây. Đồ ăn thì rõ ràng là thừa thải, ngon tuyệt, nhưng trong dạ dày của tôi có cái gì như bị tê liệt. Vừa đói vừa mệt và vừa quá ngon miệng, hai đứa tôi cũng đã tém sạch những thứ có trên bàn, kể cả hai trái chuối tráng miệng và hai ly trà đá. Cô bé hầu bàn- lúc đó vừa rỗi việc- chống cầm cười mỉm chi nhìn chúng tôi ăn cơm như chưa hề thấy ai “ăn” bao giờ trước đây. Nếu mà tụi bạn lớp tôi thấy được cái cách chúng tôi “thưởng thức” bữa cơm có một không hai này, nếu mà gia đình chúng tôi thấy cái cảnh học trò ở xa ăn cơm nhà hàng như thế nào, nếu mà chúng tôi có đủ tiền để được ăn cơm như thế trên Bảo Lộc, mọi người chắc vui lắm.

  Việc gì đến phải đến. “Tính tiền” là chuyện mà Hậu Bào phải làm vì nó là người mời cơ mà. Khi cô bé hầu bàn mang tờ hóa đơn ra và đặt nó trên bàn, Hậu, đẩy tờ giấy về phía tôi, mỉm cười nói với tôi,

“Tính tiền đi mậy.”

Như muốn độn thổ, tôi lúng túng trả lời ngay,

“Thì mày tính đi!”

Tôi ước gì tôi đang ngồi ngay gần nhà để có thể chạy về xin tiền mẹ. Tôi ước gì tôi có thể ra ngay đàng sau rửa chén đĩa để lấy công bù cho số tiền của bữa ăn này. Thằng Hậu thản nhiên như không có việc gì lạ cả. Lòn tay dưới bàn nó dúi vào tay tôi một cái đồng hồ.

“Mày đi lo đi.”

Tôi liếc xuống thật nhanh để “địa” cái “thứ ấy”. Đó là cái đồng hồ cũ xì, hơi dẹp, mặt tròn kính có vài vết trầy, dây da sờn cũ. Nếu ai đó trao nó cho hai đứa tôi, chắc nó hoặc tôi cũng chẳng buồn nhận nữa. Trán tôi tươm mồ hôi. Áo sơ mi của tôi thấm mồ hôi. Tôi hơi tái mặt rụt tay lại trong lúc nó vẫn thản nhiên như không có việc gì lớn lao cả. Nó hỏi cô gái đang đứng chờ nảy giờ,

“Bà chủ đâu rồi em?”

Cô bé hơi ngạc nhiên hỏi lại,

“Chi vậy anh?”

“Thì anh có chuyện muốn gặp vậy mà.”

     Nhìn về hướng nhà bếp, đi theo cô bé, Hậu ung dung bước đi sau khi nháy mắt với tôi và đưa hai ngón tay ra để ám hiệu “V”. Thời chiến tranh ấy, V- victory- là dấu hiệu chiến thắng. Hai đứa tôi chiến thằng ai đây? Ý nó muốn bảo tôi yên tâm đi, nó sẽ chiến thắng bữa ăn “quỵt” này hay sao? Hay nó sẽ ngồi đây chờ chú Tám đến trả tiền? Tôi phải làm gì đây để giúp nó một tay? Đúng là “thứ nhất là ma, thứ nhì là quỷ, thứ ba là học trò.” Nó đứng kia trước quầy, mặt đối mặt với bà chủ quán. Tôi thấy nó móc bóp ra để lấy tấm căn cước. Tôi nhận ra nét mặt khó chịu của người chủ quán nhưng cứ như thế này tôi sẽ được giải thoát rồi. Tôi nhỏm đứng lên để xem sự tình khi mà Hậu ra hiệu biểu tôi ngồi xuống. Đút chiếc đồng hồ cũ vào túi áo, rồi nhét cái bóp vào túi quần tây, nó quay trở lại bàn trong khi tôi thở phào nhẹ nhõm như vừa làm xong bài toán khó của thầy Minh Còi, trả bài Vạn Vật của thầy Minh Híp hoặc điền được một từ khó viết vào câu tiếng Anh khó hiểu của thầy Hùng Đô vậy.

     Chiều tối hôm đó, áo sơ mi tay dài trắng muốt, quần xanh đậm, hai đứa tôi trông rất đàng hoàng so với những thanh niên dân chài, xóm biển. Nhận được một số tiền của chú Tám và lời trách móc nhẹ, Hậu cùng tôi trở lại quán trong một tư thế khác hẳn. Nó trả tiền bữa cơm rồi nhận lại tấm căn cước đã để lại làm bằng chứng hồi trưa. Tôi không kềm được sự tò mò nữa,

“Cái đồng hồ đó ở đâu ra vậy?”

Nó bật cười,
“Tao ép thằng Trọng Thỏ đưa cho tao.”

Tôi chau mày thắc mắc,

“Làm sao cái thằng “Thỏ” ấy chịu đưa cho mầy cái thứ ấy cơ chứ?”

Thằng Hậu cười to khoái trá,

“Phải có chiêu mới thắng được nó thôi mầy ơi! Tao nói với nó ở Bình Tuy tao có ông anh họ chuyên sửa đồng hồ. Để tao mang ra nhờ ổng làm mới lại mà không tốn một xu nào. Cái thằng ích kỹ đó vui vẻ đưa ngay cho tao và còn nhờ tao chuyển lời cảm ơn ông chú nữa đấy. ”

Cho nó cười thỏa thích xong, tôi mới hỏi thêm,

“Thế hồi trưa này, mày đã nói gì với bà chủ quán vậy?”

Thằng Hậu chậm rải kể lại,

“Tao phải phịa rằng cái đồng hồ đó hiệu Rolex của ông già tao cho, giá trị lắm. Nhưng bả nói đây không phải là tiệm cầm đồ. Tao phải tuôn ra rằng chú Tám tao, Nguyễn Phước Chiêu, phó ty Giáo Dục, thiếm tao là chủ tiệm may Ngọc Huyền bả mới vui vẻ nhận tạm cái căn cước của tao đó chứ.”

    Đâu phải học trò nào cũng biết nói dóc đâu. Nhưng Thằng Hậu Bào thật có tài để dụ lấy cái đồng hồ trước khi đi Bình Tuy và còn tính dụ bà chủ quán để cầm cố nó. Rủi thay lúc ấy cái đồng hồ đã chết ngắt tự lúc nào rồi.

 

 Rạch Giá Apr 6, 2011

                                                                                                                   Lương Ngọc Thành

   PHÒNG HỌC 903

 

   Từ Cần Thơ vào tuổi 15 tôi đã rời gia đình ở Cần Thơ để lên Bảo Lộc học Lâm Nghiệp và rồi ở tuổi 53 tôi đã rời nhà ở Rạch Giá để lên Sài Gòn dạy Anh Văn.

     Sau khi dạy lần lượt tại một trung tâm nhỏ, hai trung tâm lớn: IES, Cao Đẳng nghề Việt Mỹ, trường Infoworld School, hai trung tâm ngoại ngữ của ĐH Ngoại Thương và Ngân Hàng, dạy kèm hai tư gia tại Q: 8 và Q: 12, làm “cố vấn ngôn ngữ” cho trung tâm bóng đá “Arsenal- Vinamilk, dạy thị nguyện với một người bạn Mỹ  và rồi dịch thuật cho một công ty, tôi đã có một cách kiếm sống khá độc đáo: dạy kèm trong căn phòng thuê trên lầu 9 khách sạn Công đòan, phòng 903, số 1 Bùi Thị Xuân, Q: 1, Sài Gòn. 

    Dĩ nhiên tôi phải có những chuẩn bị nhất định cho cái lớp đặc biệt có một không hai ấy. Bàn học là điều thứ nhất. Tôi đã nhặt cái bàn xếp cũ kĩ đã bị ai đó vứt đi lâu nay trong một góc. Dùng thanh gỗ giăng mùng, tôi đã ghép nối 4 chân bàn mụt sét để cho nó “đứng” lại được. Tôi dùng dây kẽm cột cố định và sơn mới 4 chân bàn. Mặt bàn được tôi dán decal màu vàng vỏ hột gà. Cái gáy bằng nẹp gỗ tróc lớp vecni dơ bẩn được tôi dán băng keo dầy cùng màu. Sau hai buổi sáng, tôi đã tái tạo cái thứ vứt đi ấy thành ra cái bàn dạy học.

    Hai cái ghế nhựa cùng màu bị ai đó bỏ quên ngoài phòng được tôi mang lên phòng tôi lúc sáng sớm để tránh bị bắt gặp. Căn phòng 25 mét vuông được tôi ngăn làm hai bằng cái màn vải. Quanh tường vôi cũ, tôi trang hòang bằng những câu tiếng Anh, những hình phong cảnh trong tờ lịch cũ. Tôi vá víu các nền sàn bằng những mẫu decal hợp với cái hiện trang loang lỗ của nó. Dùng “au de javel”, tôi chùi sạch mọi thứ bằng nhựa, trên tường. Tôi kéo chèn gọn ghẽ các dây điện trong phòng. Tôi đã biến cái phòng ở trọ của 4 người thành cái phòng học một cách được nhiều người sinh viên, nhiều khách ghé qua phải khâm phục.  

    Người học trò đầu tiên, dược sĩ Trần Đoan Trinh- đang làm cho Zuellieg Pharma VietNam, rất hài lòng cái “lớp học ấy” và cả cái chất lượng của lớp học do một mình tôi đảm nhiệm. Sau khi thử học một buổi chung với một nhóm y bác sĩ, D.S Trinh tự quyết định hỏi tôi học riêng và đồng ý nơi học, giờ học và học phí 5 đô la một tiết học. Sau khi hết 24 tiết, sau những bài học, những cuộc đàm thoại, những niềm vui của cả hai phía, cô ấy bằng hai tay lễ phép trao tay tôi một phong bì có chứa tờ 100 đô la Mỹ, tờ giấy bạc sạch sẽ nhất thế giới, một khoản tiền tôi cho là to tát nhất mà tôi kiếm được trong đời. Trinh- vốn là học sinh giỏi Hóa của Đà Lạt được tuyển thẳng vào Đại Học Y Dược- đã giới thiệu một vị dược sĩ khác người có cùng thành tích ấy nhưng từ tỉnh Long An. 

   Thay vì giấu nhẹm cái “lớp bất hợp pháp” đó, tôi thì thầm nhỏ to với các cô tiếp tân,

“Các cô chọn giờ rảnh lên phòng tôi học nhé.” hoặc 

“Tụi em cứ gọi hỏi tôi những câu tiếng Anh cần nói với khách ngoại quốc nghen.” 

Và sau cùng tôi đã lên tiếng với vị phó G.Đ Khách Sạn- người tin rằng tôi đang ở đây vừa làm vừa đi học,

“Tôi rất mong được anh ủng hộ.”

 Bắt tay tôi, ông ấy nhã nhặn, trân trọng đáp lời tôi,

“Thầy cứ dạy.  Đừng để mất trật tự hoặc gây ồn ào thôi. Chúng tôi cũng rất  muốn giúp thầy.”

   Một nhóm nhỏ bác sĩ cũng nghe theo lời giới thiệu của hai nữ dược sĩ ấy lên phòng học “903” của tôi. Lớp của tôi đã âm thầm từng bước phát triển. Một cô công nhân ở tầng dưới tìm tôi để học riêng từ 5 giờ15 hàng sáng. B.S Loan từ Gia Lai gọi tôi để xin cho cô con gái học. Cháu Linh, sinh viên năm thứ 2, từ Gò Vấp đến đúng 1: 30 trưa một cách thật đáng kinh ngạc và cháu đã tiến bộ một cách tôi phải nể phục. Có một sinh viên nam khác học cùng giờ, tôi cho hai học trò hai bài học khác nhau, hai chỗ ngồi khác nhau. Có học trò chọn buổi học rất đặc biệt, từ 9:30 tối. Tôi thường xuyên phải ngả lưng trên cái ghế bố sau tấm màn một tí để qua cơn buồn ngủ đến sập mí mắt. 

   Một đứa cháu gọi tôi bằng ông chú đã rất thích thú với các bài học của tôi. Cô bé chạy xe gắn máy từ nhà ở Hốc Môn mất hơn một giờ mỗi bận để đến học. Vừa về đến nhà, nó mang bài học đi khoe với nhiều chúng bạn kẻ từng học lâu nay tại Hội Việt Mỹ. Ba đồng môn của tôi ở Bảo Lộc cũng đưa con đến học. Một ông thầy tóan đã tự tay đưa học trò lên tận phòng tôi, một loại lớp học rất mới. Họ phải gửi xe ở tầng hầm, đi thang máy đến lầu 6 rồi đi bộ lên lầu 9. Khi có ai hỏi đi lên phòng nào, tìm ai, họ thản nhiên trả lời,

“Lên phòng 903 học Anh Văn.”

Đúng là một chuyện mới lạ. Và tôi cũng đã bắt đầu có một niềm tin mới lạ. 

    Lớp học “903” trên lầu 9 Khách Sạn Công Đòan đã góp phần làm thay đổi cái nhìn nhận của mọi người về tôi và cái tôi nhìn nhận về điều mà đa số gọi là “số phận”. Chính tôi, hai bàn tay tôi, khối óc và Anh Văn của chính tôi, chứ không phải ai khác, điều gì khác đã làm cái lớp đó hiện hữu. 

   Thế không phải tôi đã từng cuốc đất ruộng phồng tay, bừa ruộng bằng cái băng ghế dài, từng nấu cơm bằng nước ao, ăn bánh mì chấm nước đá chanh thay cơm trưa, ngủ trên bàn học trong phòng lớp 92 ở N.L.S Cần Thơ đó sao? Thế tôi đã chẳng từng kể rằng tôi đã ăn khoai lang để trừ cơm thay cho món điểm tâm nhiều ngày tháng trên NLS Bảo Lộc đó hay sao? Trong thời sinh viên, tôi không phải đã từng trốn học, bất chấp bị kiểm điểm, để đi đá banh cho đội Bột Giặt Viso chỉ vì một bữa cơm chiều đó hay sao? Và còn ba lần nghỉ hè tôi đã lên Bảo Lộc? Chắc không phải vì lý do gì khác hơn là: kiếm cơm! Thế tôi không phải từng về Kiên Giang đá “chầu” đó sao? Gò lưng, buộc bụng làm cho một công ty có tiếng tăm với mức lương hạng bét, tôi đã vì cái gì nào? Bán sữa đậu nửa năm, nấu rượu gần cả năm trời, đứng trên thang tre cheo leo ngoài trưa nắng như đổ lửa để kẻ vẽ bảng hiệu và đi chụp hình dạo suốt ba ngày tết, tôi đã muốn gì nếu không phải là để tìm miếng cơm manh áo chứ? 

   Tôi đã thật tự hào vì đã làm được điều tôi hằng mơ ước, “Vì hết gạo tôi phải chạy rong, đã kiếm sống chính bằng cái sức mọn tài hèn và cái tấm lòng của chính tôi tại phòng 903 khách sạn Công Đoàn.”

 

                                                                   Rạch Giá Ngày 31-8-2012

                                                                   Thành Xì TL-71

CON MA BAN NGÀY

 

  Huỳnh Văn Ron- lớp Công Thôn khóa 3 trường N.L.S. Bảo Lộc-71-74- vào đại học SPKT với tôi. Không có điều gì Ron hơn hẳn chúng tôi ngoại trừ việc hắn được ở tại một gia đình quen biết với ba nó, số 46 Nguyễn Hữu Cầu, P. Đa Kao, Q.1, nơi mà sau ngày 30 tháng 4, có một con ma trong nhà đó đã cố tình đeo đuổi hắn.

 

  Huỳnh Văn Ron thiệt thà chất phát từ cách ăn mặc đi đứng và lối sống. Có lẽ hắn thuộc loại người vô tư lự và không có vấn đề gì lớn. Trên Bảo Lộc, nó ở nhà Thầy Minh Còi dạy toán cùng với Đoàn Ngọc Liên- Canh Nông 71- người cùng quê Long Thành với hắn. Mọi việc đã diễn ra suôn sẻ, tốt đẹp.

  Có con trưởng nam lên đại học, ba hắn lặn lội xuống Sài Gòn tìm chỗ cho hắn ở. Từ khi nhận lời giúp hắn, tháng 9-1974, cái phòng này được người chủ nhà- bạn thân của ba hắn- làm ra cho hắn ở để “đi ăn học.” Cả nhà ‎này thương mến và coi cái anh chàng lành tính lành nết, nói khá nhanh mà hơi cà lăm này như một người trong gia đình của họ. Nhưng sau ngày 30 tháng 4, được triệu tập học lại tại Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức, hắn tiếp tục ngụ tại căn nhà cũ ấy, một tiệm bán tạp hóa giữa dãy phố bên phải của chợ Tân Định khá sầm uất.

   Phòng của hắn, trên tầng 3 của căn nhà, là một căn gác gỗ, 18 m2, có giường 1m4, tủ quần áo, bàn học, kệ sách và có cửa sổ nhìn xuống dưới chợ. Sinh hoạt của hắn và mọi chuyện cứ diễn ra suôn sẻ, tốt đẹp cho đến một ngày đẹp trời, đẹp duyên, đẹp số!

   Đó là một buổi sáng chủ nhật, ngày 14 tháng 10 năm 1975. Sau một lúc học bài, ngay khi vừa nằm xuống giường để nghỉ lưng, thì từ đâu đó bên phía tay phải, có một bàn tay không rõ nét chìa ra trước mặt hắn một miếng giấy vở học trò cũ kĩ được xếp làm tư. Thản nhiên như đây là một chuyện có thật, hắn mở miếng giấy ra xem. Hàng chữ tàu không thẳng hàng và hơi nhòe mực khiến hắn giật mình ngồi bật dậy và ngay khi ấy miếng giấy cũng biến mất. Tiếng ồn ào từ dưới chợ vọng lên, cái nóng từ mái tole hắt xuống và ánh sáng từ cửa sổ lùa vào căn phòng như nhắc nhở với hắn rằng đây đúng là cõi dương trần. Hắn nhìn chung quanh vài lượt. Không có điều gì làm hắn e ngại hay hoảng sợ cả. Đồng hồ treo tường chỉ 10 giờ 25 phút.

     Sau khi bước tới bước lui một lúc, hắn cho rằng chắc là hắn bị choáng hay hoa mắt gì đó thôi. Vừa đặt lưng nằm xuống giường lần thứ hai, hắn lại cảm thấy như có ai chìa ra cho hắn xem một bức ảnh chân dung bán thân khổ 9-16cm, cũng không rõ nét. Khi hắn vừa cố tình ngồi dậy và nắm lấy bức ảnh, nó cũng chợt biến mất.

“Có ai đó muốn tự giới thiệu với mình!”

Hắn thật dạn dĩ, thật hồn nhiên khi nghĩ thầm như vậy. Và hắn cũng tỉnh táo để nhận ra rằng “người ấy” chỉ hành sự khi hắn nằm trên giường.

   Vì tự thấy rằng mình chẳng có tư thù, gây ác với ai, chẳng có một nỗi ám ảnh gì, và để tự kiểm chứng, hắn cố tình nằm xuống giường lần thứ ba. Ngay tức khắc, hắn bị một cái bấu vào cánh tay trái và một lực kéo hắn về phía vách có cái cửa sổ. “Người ấy”dường như muốn kéo hắn chồm lên để nhìn xuống dưới đường. Hắn cố níu kéo lại. Hắn muốn hét to lên để có ai từ tầng dưới chạy lên gác để phụ hắn một tay. Dùng chân phải đạp thật mạnh vào cái vách, hắn thoát ra cái sức kéo ấy. Mồ hôi tuôn ra như tắm, hắn đi xuống gác. Vừa kể vừa mỉm cười với mọi người, đang làm bánh bao ở tầng dưới căn gác,

“Mới có con ma trên gác nó cho tôi coi một bức thư, một tấm hình rồi còn lôi tui ra cửa sổ nữa chứ.”

Có tiếng của một phụ nữ trẻ hỏi hắn như trêu chọc,

“Con ma đó đẹp hông anh?Nó còn cho anh coi cái gì nữa không?”

Hơi cà lăm nhưng rất rắn giọng, hắn vung tay để cố phân bua rằng,

“Tui chưa kịp thấy thì nó biến đâu mất tiêu rồi. Chắc nó lầm tui với ai đó. Từ xưa đến giờ tôi có làm gì hại ai đâu, có tư thù gì với ai đâu chớ hả.”

Một tiếng cười thật lớn của nhiều người khiến hắn ngượng ngùng đỏ mặt. Hắn bỏ đi xuống dưới nhà như để tìm cách khuây khỏa và để cho con ma đó lãng quên hắn.

    Khoảng giữa chợ Tân Định, ngay trên lề đường, các dãy hàng quán bán đồ ăn, gánh gióng liên tiếp nhau. Nhiều thực khách đang thưởng thức bữa ăn sáng muộn. Các bà nội trợ vội vã bước về nhà hoặc tìm xe của người thân đang chờ hoặc đón những chiếc xích lô đạp quen thuộc. Nhiều khách mua sắm khu chợ bán đồ cũ khá nổi tiếng tại chợ Tân Định này. Tuyệt nhiên, không ai trong số họ có thể tưởng tượng được chuyện gì vừa xảy ra với hắn, với Huỳnh Văn Ron bằng xương bằng thịt. Hắn chợt thấy mình quá cô đơn, kỳ quái. Hắn tức tối tự nhủ thầm rằng mọi chuyện sẽ đâu vào đấy ngay thôi. Hắn nghĩ trong dòng thác người ngược xuôi ấy, đâu có ai hay biết hắn đang đau khổ, cái khổ vì bị một con ma hành giữa ban ngày ban mặt.

    Lần này trở lên căn gác, thật tỉnh táo, thật tự tin, hắn tự nhủ,

“Ai muốn làm gì ta thì cứ việc.”

Bước lui tới một đỗi, hắn không nhận được một sự tiếp xúc nào của con ma.

Nhưng ngay khi hắn vừa đặt lưng xuống giường, như là giận dỗi lắm, con ma níu lấy tay phải của hắn để lôi hắn ra phía cửa sổ như là cách để kéo hắn ra khỏi cái kiếp sống này vậy. Kháng cự với sức trai trẻ, bản năng sinh tồn, vùng ra được cái níu tay ấy, hắn đã tự giải thoát. Không thể còn cách nào khác ngoài việc phải rời bỏ cái gác này ngay. Lần này hắn xuống dưới gác để rủ một người làm nhân chứng. Thằng Tám Tàng, một lính ngụy trẻ gan dạ, từng nả nhiều băng đạn, tung nhiều quả lựu đạn, từng nằm cạnh nhiều xác chết của cả hai sắc áo, từng đi di tản từ Quảng Trị về Sài Gòn, vội vã quệt hai tay đang dính đầy bột mì, nói lớn với Ron,

“Để tui coi nó làm gì được tui. Chắc là một con ma đói nào đấy thôi!”

   Hai người ở trên gác cho đến giờ ăn trưa. Đã không có chuyện gì xảy ra cả. Có thể con ma không muốn cho người thứ hai biết tung tích của nó. Tám Tàng cứ cho rằng Ron bị ám ảnh trong khi Ron luôn miệng kêu oan.

Sau buổi ăn trưa chung với cả nhà, Ron gần như quên chuyện xảy ra vào buổi sáng. Ngay vừa bước lên bước thanh gác cuối cùng, Ron tự nhiên thấy rờn rợn như đang lúc nửa đêm trong một bãi tha ma lạnh lẽo hoang vắng khi đồng hồ trên tường chỉ một giờ, 15 phút. Hắn không quen có một giấc ngủ trưa ngắn. Nhưng hắn muốn cố thử một lần nữa xem sao. Ron nói thầm và mong có một thay đổi trong cách “kẻ đó” tiếp xúc với hắn,

“Tui chỉ là học trò thôi mà, đâu có làm gì ác, đâu có hãm hại ai đâu?! Để cho tôi ở yên đây, để đi học nghen.”

Ngay khi mà phần cuối của cái lưng chạm xuống cái giường, một sức mạnh của một con người đè lên người hắn như người ấy muốn ôm xiết hắn, như muốn tỏ tình một cách thô bạo. Cái trọng lượng ấy phải là của ai đó nặng cân hơn hắn. Dùng hết sức bình sinh, hết cách để vùng vẫy, hết cách có thể có được, hắn gần kiệt sức khi có tiếng của thằng Tám Tàng hỏi lớn,

“Anh Ron ơi, xuống uống chút cà phê cho tỉnh táo, anh Ron ơi!”

Không thể làm sao để kêu cứu, Ron muốn thét thật to lên vì đã bất lực nhưng hắn không còn đủ sức nữa.

“Anh ngủ nãy giờ hả? Xuống dưới chơi!”
Tiếng nói của Tám Tàng khi vừa lên gác đủ lớn để làm cho con ma ấy biến mất và làm cho Ron thoát ra. Người ướt như vừa xông hơi, Ron cà lăm hơn bao giờ hết,
”Con… ma, con… ma đó… muốn… giết… giết… tui.”

    Ron chạy xuống tận nhà dưới, cà lăm cà lặp xin ông Hái cho nó về nhà liền ngày hôm đó và nó phải nhờ thằng Tám Tàng lên gác lấy cho nó một bộ đồ và những cuốn vở nó cần mang về nhà học. Ba nó không thể hiểu được tại sao có một ai đó khuất mày khuất mặt theo đuổi và hành hung con ông đến như thế được. Hai hôm sau, hai cha con đi Sài Gòn sớm. Tại ngã tư Thủ Đức, Huỳnh văn Ron ghé lại trường để làm 2 môn thi, còn ba nó đi thẳng về nơi nó ở trọ, chợ Tân Định. Ông ta và ông Hái trò chuyện bàn bạc về một nơi ở khác để tránh xa “kẻ ấy”, để cho Ron có thể học được.

      Nghe lóm câu chuyện, thằng Tám Tàng nhanh nhẩu chạy chiếc Honda SS.67 về nhà để xin với ba má nó cho Ron ở trọ, một căn nhà nhỏ trong hẻm gần chợ ĐaKao. Ông Bà Bảy thương binh nhận lời cho Ron ăn và ở ngay từ hôm đó. Và không bao lâu sau, Ron và Tám Tàng kết thân với nhau. Năm nào cũng vậy, Ron ghé lại thăm ông bà Hái một vài lần nhưng đến lúc ra trường- đầu tháng 9 năm 1979- Ron có một cách làm vừa thiệt thà vừa nhân hậu. Được biết căn gác vẫn còn bỏ trống từ ngày Ron dọn đi, nó xin phép ông Hái cho nó lên thăm chỗ ở cũ và biết đâu thăm được luôn “kẻ ấy”.

    Dùng cái chổi lông gà quét bụi bám trên cái chiếu cũ vài lần, bình tĩnh ngồi xuống mép giường, Ron nhẹ nhàng đặt lưng xuống giường trong một sự tỉnh táo sáng suốt hơn bao giờ hết. Ngay lập tức một áp lực đè lên người, lên đều hai tay chân của Ron. Vừa định mở miệng kêu cứu thì như có một bàn tay chận miệng của nó lại. Nếu Tám Tàng không chạy vội lên gác sau đó 15 giây để lôi Ron ra khỏi giường, “kẻ ấy” có thể làm Ron mất mạng vì ngộp thở. Nó vừa bước xuống cầu thang vừa nói trỗng với “người vừa tấn công” nó,

“Làm gì ghê vậy? Có..có gì thì nói chứ... sao..sao làm.. kỳ cục vậy chứ?”

   Sau khi ra trường, làm việc tại một trại chăn nuôi gia cầm lớn nhất ở Long Thành, cũng như biết bao nhiêu người trẻ tuổi được ăn học, có bằng cấp khác, Huỳnh Văn Ron bị kỳ thị, bóc lột công sức làm việc. Nó than thở với ba nó và buồn bã thở dài hoài đến độ ba nó không chịu nổi. Ba nó đã cho nó 10 cây vàng để nó có một chỗ đi chính thức ở Biên Hòa. Ron may mắn được chính phủ Úc tiếp nhận sau nửa năm ở trại tị nạn bên Mã lai.

    Có ai biết “kẻ ấy” đã muốn theo hắn qua bên Úc hay không? Có ai biết Huỳnh Văn Ron đã trở lại căn gác xưa để thử xem “kẻ ấy” có còn ở đó để chờ đợi hắn hay đã có một ai khác rồi? Thiệt tội nghiệp cho anh chàng lành tính, lành nết, thiệt thà nhất trong ban Công thôn của trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc, người hiện giờ là một thương gia thành đạt bên Melbourne, Úc Châu. Không ai biết cái con ma đó muốn theo hắn qua đây không nữa?

   Huỳnh Văn Ron ơi! nhiều đồng môn và tao rất mong gặp mày để được nghe mày kể thêm về “kẻ ấy”. Thiệt...thiệt.. mà!

                                                                                    Sydney, Jul 12, 2014

                                                                                   Lương Ngọc Thành

RICHARD CULSHAW- NGƯỜI BẠN TÂY

 

    Tôi không chắc Rick có phải đúng là người bạn lớn của tôi hay chưa nhưng những gì hắn đã kể cho tôi, những câu trả lời rất thẳng thắn tôi đã hỏi hắn có vẻ đúng là một bài học rất lớn đối với tôi về, “Sự cô đơn và khí phách của đàn ông”.

     Một học trò của tôi đã đưa hắn đến nhà tôi buổi sáng ngày 19 - 11 năm 2005 để hắn có thể hỏi được nhiều điều mà hắn muốn tìm hiểu hơn. Hắn viết ra tên của hắn là Richard Culshaw, lớn hơn tôi 9 tuổi, một thợ lặn sò Abalone chuyên nghiệp ở Port Lincoln, gần Adelaide, Nam Úc. Hắn tự nhiên thật thà hỏi tôi rất nhiều chuyện, nhiều chi tiết về hải sản, về các đảo, bờ biển, về việc săn bắt dưới biển và về khả năng hắn có thể xin phép lặn ở hay đây. Hắn khoe với tôi rằng hắn là một trong những người có giấy phép hành nghề chuyên nghiệp bên Nam Úc. Để làm rõ ràng những gì hắn muốn hỏi, tôi đưa cho hắn vài tờ giấy trắng và viết chì. Để lai rai và để có thể kết thân, tôi mời hắn uống bia ngay tối hôm đó sau khi giới thiệu cho hắn một vị nha sĩ cho hắn đến trám răng sáng hôm sau.

 

 

   Giống như tôi, hắn cũng thích tôi ngay nhất là cái cách tôi hỏi chuyện, cách tôi tiếp xúc với hắn. Nhìn thấy bàn thờ mẹ tôi, gặp vợ và hai đứa con tôi, hắn hiểu ngay tôi đang làm gì và làm như thế nào. Tôi thích ngay cái tính cách, cái vốn sống như một tàn thư của Rick, giọng nói khá dễ nghe và hơn thế nữa hắn có nhà ở Adelaide, nơi chị Tư tôi sinh sống. Chúng tôi uống bia và trò chuyện với nhau thật vui thú đến nửa đêm. Biết hắn ly dị đã lâu và thích phụ nữ Việt Nam, tôi giới thiệu hắn với một cô bạn tôi mới quen trên Sài Gòn, Hiền Thu, người có những điểm có vẻ không gây hắn ấn tượng lắm.  Sau đó, tôi đặc biệt kể nhiều hơn về một học trò của tôi- Ngọc Châu, một nữ tài xế kiêm hướng dẫn viên du lịch, tuổi giữa 40 mà cũng còn khá dễ nhìn- nói tiếng Anh rất khá, đang làm cho một công ty của Đài Loan ở Vũng Tàu. Tôi gọi ngay cho Châu và cô ấy cho Rick số điện thoại. Tôi đưa cho Rick nói chuyện với Châu. Vì cái quán nhậu khi đó khá ồn ào, họ nói chuyện chút ít nhưng có vẻ cũng thích nhau. Tôi bất ngờ khi hắn nhắc tôi rằng hắn sẽ trả tiền cho cuộc gọi điện thoại ngắn ngủi ấy. Hắn hứa sẽ gặp Châu vì thế nào hắn cũng sẽ ghé thăm Vũng Tàu, nơi có biển chứ không phải có nhiều du khách đến, theo lời hắn nói. Hắn về nhà trọ và sau đó dọn đến một khách sạn gần nhà tôi cho tiện việc gặp tôi.

     Xế trưa ngày hôm sau đó, vào ngày Nhà Giáo 20-11, tôi phải đi dự một tiệc cưới của một học trò ở một huyện Tân Hiệp, cách 16 Km mà không tiện mời hắn đi theo, tôi đã để lại lời nhắn tại khách sạn rằng tôi sẽ gặp lại hắn hôm sau. Nhưng bất ngờ thay, hắn đã trả phòng ngay đêm tối hôm đó.

   Biết là tây balô đến rồi đi, tôi đã không có gì tiếc rẻ hoặc thắc mắc về hắn cả cho đến một hôm tôi gọi hỏi thăm Ngọc Châu. Cô ta cũng thật bất ngờ không kém. Châu đã kể lại rằng,

“Em nghe giọng của Rick chào hỏi em trên điện thoại. Ông hẹn gặp em chiều hôm sau đó. Em spell địa điểm gặp và nhắc lại hai lần. Đinh ninh rằng ít nhất em cũng có được một ông tây để kết thân.”

Châu kể đến đây xong bị tôi cắt lời.

“Rồi sao nữa.”

“Vừa đến nơi hẹn, em vừa chợt thấy một người đàn ông đi ra. Em chờ một lúc sau và nhận ra rằng hắn chợt đổi ý khi vừa thấy em đến.”

 

    Không bao lâu sau, tôi quên bẵng cái chuyện đó. Nhưng rồi trong lúc vòng chung kết giải bóng đá thế giới- World cup- đang diễn ra- từ ngày 27-6- 2006, Rick lù lù xuất hiện sau 7 tháng trời không hề có một thông tin gì.

Hắn vui vẻ hơn, khá mập hơn, chậm chạp hơn đôi chút nhưng thân mật hơn lần ghé trước nhiều. Hắn nhắc mấy lần rằng hắn vừa chia tay với một cô gái bên Campuchia để ghé đây thăm tôi và một học trò của tôi người mà hắn rất ngưỡng mộ, B.S Cường. Đang bị đau tendons bên chân phải, hắn hỏi tôi về một bác sĩ châm cứu. May thay khoảng giữa nhà tôi và khách sạn nơi hắn ở, có một phòng châm cứu. Sáng hắn ghé tôi chơi, ngồi suốt buổi để coi tôi dạy học, đến trưa hắn đi bộ đến phòng châm cứu. Có một buổi trưa hắn đến với vài lon CoCa và một chai rượu Rhum đỏ. Hắn đi ra phía sau nhà và hỏi xin vài cục nước đá, rồi chính tay pha mời tôi như thể chúng tôi uống cà phê với nhau vậy. Rick tự kể cho tôi nghe rất nhiều điều về hắn, về 7 tháng hắn vừa trải qua còn tôi thì cố tìm hiểu hắn, người đã vào nghề quá sớm, đi quá nhiều và sống dưới biển quá lâu và những gì hắn tận mắt chứng kiến. Tôi cũng hỏi Rick bất cứ điều gì cuộc đời, sự nghiệp, kinh nghiệm sống của hắn về đàn bà, về chính phủ Úc, về những nơi hắn đến, Cuba, Hong Kong, Indonesia, nơi mà có một phụ nữ trẻ, em của một tay tài phiệt, chính thức lên tiếng muốn lấy hắn, và về những người bạn đồng nghiệp, về chuyện nuôi dạy con cái và về mọi thứ khác tôi có thể nghĩ ra.

   Từ thưở nhỏ là một học sinh ốm yếu, hắn tập bơi. Từ việc mê bơi, Rick đã trở thành tay bơi số hai toàn nước Úc năm 17 tuổi. Từ số tiền nhỏ ba hắn tặng nhân ngày sinh nhật thứ 19 của hắn, Rick mua một chiếc thuyền độc mộc, dây, lưởi câu rồi trở thành một thợ câu. Từ thợ câu, hắn lặn tìm thứ có giá trị hơn và hắn trở thành tay thợ lặn chuyên nghiệp thứ 22 ở Nam Úc. Hắn được mệnh danh là, “Rick- the rapist” vì khả năng khai thác khủng khiếp của hắn. Một trong những điều mà tôi đã hỏi hắn đó là chuyện ly dị. Hắn làm tôi ngạc nhiên vô cùng khi kể về tấm thảm kịch mà ông già vợ hắn đã gây ra. Sau đó vợ và hai người chị gái bị một “phobia kinh sợ gớm ghiết đàn ông.” Để chứng minh với tôi hắn vẫn luôn nghĩ đến gia đình, sáng hôm sau hắn mang đến nhà tôi hình vợ con hắn.  

    Tôi học từ hắn như một sinh viên đọc sách trong thư viện. Tối hôm sau, hắn và tôi tình cờ ghé vào một quán vắng khách, lộng gió, yên tĩnh khiến hắn càng có thời gian để nói hơn.  Tôi hỏi những câu mà hắn chưa hề được ai hỏi. Hắn có người để kể những chuyện hắn rất muốn kể. Những đêm đó, hắn đều dành trả tiền hoá đơn và có lần hắn tuyên bố với tôi rằng nếu hắn muốn ở lại đây, hắn sẽ gọi cho cô con gái lớn để gởi qua cho hắn khoảng 10 ngàn đô ngay tức khắc. Hắn thật tình và gây cho tôi cái ấn tượng khó quên rằng:“Ai cũng cần tình bạn”. Trong con người hắn, tôi nhận ra một phần của bạn tôi, Long Kh’mer, những người bạn thân của tôi đã ra đi quá sớm. Một trong những câu hỏi của tôi mà hắn rất thích là,

“How would you want to die?” “You hổng chừng muốn chết như thế nào?”

Câu mà hắn rất lúng túng khi trả lời là:

“If you were young again, whom would you choose to be your wife?”

“Nếu you có thể nào trẻ lại, you chọn ai để cưới làm vợ?”

Hắn cũng hỏi tôi một số ý kiến và vài câu hỏi như:

“What did you learn from your Agricultural high school?”

“You đã học được gì từ trường Trung học N.L.S?”

“How did you turn yourself into a teacher of English?”

“Làm thế nào you tự chuyển thành thầy giáo dạy Anh Văn?”

   Hắn đặc biệt kể cho tôi nghe về cô gái hắn gặp bên Campuchia, Thu Hồng, gốc Sài Gòn, khoảng 30 tuổi, có ít tiếng Anh, nhưng khá nhiều về nhan sắc, nhưng theo hắn, có rất nhiều cá tính tốt.

   Hồng trước đó không lâu đã theo bạn trai qua đó lập nghiệp nhưng họ có chuyện bất hoà và hắn đã bỏ về. Hồng mưu sinh bằng cách nhận đồ giặt ủi từ khách “Tây ba lô.” Rick mô tả khá chi tiết rằng Hồng và Rick sống chung êm ấm tốt đẹp được 1 tuần như thế nào cho đến khi hắn muốn qua Rạch Giá để thăm tôi. Hắn cho nàng ít tiền đi xe về Sài Gòn và bảo nàng ở nhà chờ hắn đến thăm. Rick đưa tôi xem địa chỉ của Hồng và hắn tính sẽ đi tìm nàng. Tôi nhanh chóng gọi điện cho Hoàng Cận- một bạn học cũ để nhờ thằng bạn thân này đi tìm địa chỉ ấy quận Bình Tân. Rick có ý định chu cấp cho nàng sống ở Sài Gòn. Với những tài sản, bất động sản hắn có bên Úc, tôi nhẩm tính Rick có khoảng 2 triệu đô Úc nhưng hơn tất cả hắn còn là người đích thực có trái tim nhân hậu, rất tích cực làm việc, rất khỏe mạnh- tinh thần lẫn thể xác.

      Hắn kể với tôi về rất nhiều người phụ nữ, về vợ con của hắn, về mọi điều hắn đã trải qua. Tôi học được từ hắn quá nhiều điều về chuyện đời, chuyện đi và khám phá. Hắn và tôi hợp nhau vì cái quan điểm, cách nhận định về cái thế giới này. Với tính ham học hỏi, tôi đâu có quên hỏi hắn những chuyện lớn hơn, thời sự quốc tế, cái nhìn của một số nước về Mỹ trong vụ can thiệp vào Iraq, chuyện Bill Clinton với vụ Monica, chuyện đóng thuế của ngưòi Úc, chuyện dân Cuba sống ra sao khi đem so sánh với dân Việt… Khi được hỏi về triết lý sống, hắn không có một chút do dự,

“Living a full qualified life.” “Sống một cuộc đời đầy đủ chất lượng.”

     Vì được phô diễn cho tôi nghe những quan điểm, vài bài thuyết trình, hắn ngày càng tỏ ra thích thú. Có khi trưa hắn cũng đến. Rick thích cách tôi dạy học. Tôi cho hắn nghe các trích đoạn ngắn tôi vừa thu từ đài VOA về kết quả các trận đá ngày hôm đó. Hắn thích các học trò của tôi. Nắm tay Thuỳ Dương, 21 tuổi, xinh đẹp, duyên dáng, hắn hỏi cô ấy có chịu để hắn bảo lãnh đi Úc không. Hắn khen cách cô học trò khác của tôi- Ngọc Phúc ghi chép, nhanh chóng chính xác. Hắn rất nể B.S Cường- người một mình đến học với tôi lúc 9 giờ tối hằng ngày. Nhưng hắn không thích cái cách Trung Hoa- một học trò học để thi IELTS đi du học Úc. Hắn tìm tôi như Long Kh’mer trước đó đến thăm tôi vậy, vui mừng kể lể và trả lời các câu hỏi của tôi- từ những câu rất chung đến những câu rất chi tiết. Hắn rủ tôi xem với hắn trận chung kết Pháp- Ý, ngày 9-7-2006 và đó là đêm cuối cùng hắn ở Rạch Giá. Giải đấu đã đóng lại nhưng tôi mong tình bạn của chúng tôi vừa hé mở thêm. Hắn có nói dịp sau sẽ ghé lại Rạch Giá thăm tôi và đặc biệt hơn là việc hắn có thể mời tôi qua Úc chơi 1 tháng. Lập tức tôi hứa sẽ viết cho hắn một truyện ngắn về cuộc đời và những chuyến đi nước ngoài của hắn. 

   Sáng hôm sau tôi giúp mua cho hắn một vé xe đi SG, gọi Thùy Dương và Phúc ra tận xe để chia tay hắn.. Ngày 12-7, từ Sài Gòn, Rick gọi điện chia tay tôi để về làm lại sau hơn 7 tháng holiday và rất mong sớm gặp lại tôi. Tiếc thay cái địa chỉ mail của thằng con rể mà hắn viết cho thầy trò tôi dường như không đúng hay nó đã bị hủy bỏ.

   Đến nay, tôi luôn mong Rick trở lại như thể tôi rất mong một người bạn thân đến thăm.

                               

     Rạch Giá, Aug 29, 2014

    Lương Ngọc Thành

LNThanh_3pers.jpg

 MỘT PHONG BÌ LÌ XÌ

 

      

 

 

 

 

 

 

   

 

     Vì là một giáo viên dạy tại nhà, không có thu nhập tháng nghỉ tết, tôi rất mừng vì hôm nay, chỉ mới là ngày 17 tháng chạp, tôi nhận được một phong bì lì xì của Ngô Huỳnh Hiếu, một cô học trò cũ hiện đang ở Canada.

 

      Khoảng tháng 7 năm 2003, tôi được mời làm cố vấn kỹ thuật cho Câu lạc bộ nói tiếng Anh trong công ty của Hiếu- Kigimex Kiên Giang. Được dịp chứng tỏ cái kết quả luyện nghe VOA Special English của tôi, bất cứ khi nào nói tiếng Anh, tôi nói thật kỹ lưỡng chậm rõ và tôi đã tạo ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng mọi người. Không bao lâu sau, tôi được mời dạy một lớp cho công ty đó. Trong ban tổ chức lớp cũng như Câu lạc bộ, Huỳnh Hiếu là người gây cho tôi một ấn tượng khá xâu sắc. Cô gái ấy có nước da trắng của một người con lai, tóc thưa suông thẳng dài hơn nửa lưng. Thường cười mĩm chi với tôi, Huỳnh Hiếu khiến tôi chú ý hơn ai hết. Nhưng khi nói tiếng Anh, Hiếu, cũng như mọi người ở đó khiến tôi hơi thất vọng. Tôi luôn đến đúng giờ. Tôi có vài sáng kiến. Tôi mang đàn organ hoặc ghita đến, hát mẫu các đoạn nhạc hay và tập họ hát như một ông thầy giáo dạy nhạc. Tôi được hầu hết mọi người quý trọng, mến mộ kể cả cô Mỹ Trang, cử nhân Anh Văn, tốt nghiệp từ trường ĐH Tổng Hợp T.p Hồ Chí Minh.

 

      Một buổi chiều đầu tháng 9 năm 2004, Hiếu đã đến nhà tôi. Cô lo lắng kể cho tôi nghe hết sự tình. Người anh cả của Hiếu- đang làm hồ sơ cho cha mẹ qua đoàn tụ, nay lại muốn lãnh Hiếu qua Canada để học Thạc sĩ. Cô cho tôi biết rằng dịch vụ du lịch đã cho rằng cô ta rất ít có khả năng đi. Hai tháng trước ngày phỏng vấn, vì không muốn bị quá lúng túng trong cuộc thử thách khó khăn ấy và cũng vì muốn tập nghe nói, Hiếu đến học với tôi. Sáng sớm trước giờ làm việc, sau khi tan sở, 2 lần trong ngày, Hiếu đến học một cách ngoan ngoãn tự nhiên như một học sinh trung học. Khi ấy 27 tuổi, chưa có bạn trai, tốt nghiệp ĐH Ngoại Thương, Hiếu là một trong những học trò khá đặc biệt của tôi. Khi tôi cho cô ấy nghe những bài hay, cô xuýt xoa khen ngợi. Khi tôi sửa chữa các lỗi thông thường của Hiếu, cô ta tự thú rằng cô ta chưa hề tự tập nghe gì cả. Khi đến học sáng sớm, Hiếu mục kích cách tôi rèn luyện - nghe một mặt băng cassette tiếng Anh trong lúc nhảy dây 1000 lần để giảm cân. Cô ta không ngờ tôi đã tập thể dục để giảm cân nhanh và luyện nghe cái cách như thế. Thấy cái phù hiệu trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc tôi treo trên tường, cô ta biết rõ là tôi đã không có một vốn liếng tiếng Anh hoặc sư phạm gì cả như đa số các thầy cô khác. Tôi đã nhận học phí của Hiếu khá thấp vì tôi biết rằng thu nhập của cô ấy có cao đâu. Thầy trò tôi càng ngày càng thân thiết với nhau hơn cho đến một hôm tôi có một sáng kiến.

 

     Bằng tiếng Anh, tôi trình bày với Hiếu cái nguyên cớ cô ấy xin qua Canada học thay vì được anh lãnh đi:

“Tôi đã được một ông thầy dạy mời hợp tác. Ông ta dự tính mở một trường Anh Văn tư thục. Tôi không hài lòng với cái công việc tôi hiện có. Tôi cần qua Canada học thạc sĩ trong khi thầy tôi xây dựng trường trên nền đất nhà- trị giá 20 ngàn đô la…” 

Khi Hiếu gọi điện thoại cho công ty dịch vụ để kể cho họ nghe cái nguyên cớ tôi đã nghĩ ra, họ đánh giá rất cao cái ý tưởng ấy của tôi. Tôi chỉ biết tìm cách giúp được ai và dạy được ai càng nhiều càng tốt. Thế thôi.

 

     Trong chuyến đi lên Sài Gòn để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, Hiếu mời tôi đi theo để động viên tinh thần. Tôi nhận lời và cũng nhân đó tôi có dịp thăm thằng em của tôi- đang trị bệnh trên Sài Gòn. Sáng hôm sau, tôi đến nơi mà Hiếu trú ngụ để tập cho cô ấy và cũng để trả lời những thắc mắc cô ấy mới nghĩ ra. Tôi trở về vì cho rằng sáng hôm sau, từ lãnh sự  quán Canada họ có thể gọi phỏng vấn tôi về trường hợp của Hiếu và tôi cũng chẳng có gì khiến tôi phải ở lại trên đó. Đúng như tôi tiên đoán, khoảng 9 giờ sáng hôm sau, ngày 22-10-2004, tôi có một cuộc điện thoại. Một giọng nữ sắc xảo, mạch lạc hỏi tôi về trường hợp của Hiếu và cái dự án mở trường tư của tôi:

   “Tại sao ông chọn cô Ngô Huỳnh Hiếu để mời dạy cho ông?”
  “Dựa vào đâu mà ông mở trường Anh Văn Tư Thục?”

   “Ông đến nay có những thuận lơị gì để mở trường?”

Tôi trả lời một cách trôi chảy tự tin không kém gì người đã hỏi tôi. Khoảng nữa giờ sau, Hiếu gọi cho tôi với giọng nói thật vui,

   “Thầy ơi, em đậu rồi. Em được cấp visa rồi. Anh Hai  của em nhắn lời cám ơn thầy nhiều lắm.”

 

    Giọng nói của Hiếu rung rung vì nghẹn ngào vui sướng và nó cũng khiến tôi xúc động. Hiếu mời tôi về nhà để gia đình khoản đãi tôi. Tôi từ chối ngay vì tôi cũng chẳng muốn được như vậy. Theo lời khuyên của tôi, sau khi bàn giao công việc, trước ngày đi, cùng với những người nàng sắp chia tay, Hiếu mời tôi dự tiệc tại “quán Nướng”. Trước lúc tàn tiệc, tôi được Hiếu trao cho một món quà- một cái đồng hồ. Tôi chỉ còn biết nhận, cám ơn và chúc cô ta học giỏi, hạnh phúc. 

 

    Hai năm sau, Hiếu về Việt Nam để thăm cha bệnh và để làm đám cưới với một Việt Kiều Canada- một thanh niên hiền hậu, lịch sự. Trong ngày cưới đơn sơ ấy, 20-11- 2006, ngày Nhà Giáo Việt Nam, tôi được anh chị hai của Hiếu từ Canada về và nhiều người cám ơn tôi. Tôi vui vì ít có dịp nào tôi giúp được ai nhiều như thế. Ngày mồng hai tết năm ấy, từ Canada Hiếu và chồng gọi điện thoại chúc tết tôi- cuộc điện thoại ý nghĩa nhất trong đời làm thầy giáo của tôi. Giữa hai chúng tôi, có một thứ mà người đời gọi là “Tình thầy trò.” Vì lúc nào cũng chăm chú việc dạy tốt người này, giúp người nọ phát triển và vì bận bịu công việc dạy học, tôi quên bẳng đi cô học trò cũ ngày nào: Ngô Huỳnh Hiếu.

 

       Sáng nay tôi có hai người khách trung niên, một học trò cũ tên Ngọc Thúy và Huỳnh Mai- chị ba của Ngô Huỳnh Hiếu. Cả hai xin phép tôi để qua tết học. Mai kể cho tôi nghe về Hiếu. Cô ta hiện có hai con, sống hạnh phúc với người chồng tốt và hiện làm việc cho một nhà xuất bản. Trước khi chào tôi ra về, Mai trao tôi một phong bì- được gọi là quà của Ngô Huỳnh Hiếu. Sau khi tiễn khách, tôi mở phong bì và nhận thấy một tờ giấy bạc 100 đôla Canada.  

 

     Tết năm nay, cả nhà tôi chắc sẽ sung túc hơn một tí nhưng tôi chắc sẽ có một mùa xuân vui vẻ hơn rất nhiều.

                                                                    Ngày 7 tháng Chạp, năm con Mèo.

                                                                           Lương Ngọc Thành  

TL_redenvelope_2.jpg

        NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA MẸ TÔI


 

     Tôi là người có diễm phúc được kề cận với mẹ tôi cho đến giây phút sau cùng. Mẹ tôi đã ra đi quá êm đẹp đến nỗi nhiều người phải tin ngay rằng bà đã thể hiện quá rõ ràng tình thương của bà dành cho các con yêu của bà, hơn hai ngày chăm sóc và với rất ít tốn kém.

     Trừ những ai làm việc trong ngành Y tế hoặc đang làm ở trong một bệnh viện công, ít có bệnh nhân nào nhận được sự chăm sóc hết sức chu đáo trong hai ngày cấp cứu như mẹ tôi. Ngay sáng hôm sau khi mẹ tôi nhập viện vì một cơn ngưng tim, một bác sĩ học trò cũ của tôi- B.S Hồng Hoa- đã báo tin xấu này trong buổi giao ban đầu tuần, ngày 11-6-2001. Bác sĩ Thủy- phó giám đốc- xuống tận giường bệnh để thăm hỏi tôi. Sau đó ít lâu, hàng giờ có những bác sĩ đến làm các xét nghiệm cho mẹ tôi. Bác sĩ Thanh, một học trò khác, cho tôi biết khả năng xấu nhất sắp xảy ra và khuyên tôi bình tĩnh. 

  Tôi chỉ biết ngồi suốt bên giường bệnh, làm vệ sinh cho mẹ tôi. Tôi bỗng dưng bình tâm vì có lẽ người mẹ đang nằm hôn mê bất động đấy rất thấu hiểu và rất thương tôi. Tôi phải đóng vai trò của con gái chăm sóc, vệ sinh cho mẹ. Chị hai tôi ở Sài Gòn đã hay tin nhưng chưa có hồi âm. Hai đứa con của chỉ được mẹ tôi mang về đây nuôi dưỡng nhiều năm cũng không có tin gì xuống cho tôi. 

    Em và chị tôi từ bên Úc gọi điện báo rằng họ sẽ về. Em tôi vì sắp làm ăn lớn, và vì dị đoan, đã điện về nói rõ là nó muốn sao mẹ tôi ra đi vào ngày tốt, sau đó đúng 2 ngày. Tôi yên chí vì sẽ có đủ anh chị em tôi tề tựu bên cái quan tài của mẹ tôi rồi. Tôi gọi điện báo hung tin này và xin trung tâm Anh văn cho tôi nghỉ dạy một tuần. Vợ tôi ở nhà chăm sóc hai con, trai 10, gái 2 tuổi. Một đứa học trò thân thiết đến thăm tôi vào ban đêm. Ngồi ngay dưới chân bà, tôi âm thầm ngoan ngoãn ở bên mẹ tôi- không ai có thể nói với ai một lời nào. 

    Theo ý mẹ tôi, bà muốn được hoả thiêu và được tôi gìn giữ xương cốt của bà tại nhà. Cách đây 21 năm, tôi đã từ Sài Gòn về Rạch Giá để mong được cái ngày này. Cách đây 19 năm, tôi đã từ chối vượt biên một chuyến với chị em tôi cũng vì cái giờ phút này. Tôi luôn bình tĩnh, ngồi bên giường của mẹ tôi hồi tưởng lại những gì tôi đã làm được cho bà, những gì tôi đã chưa làm được. Như một cậu bé con hiền hậu, tôi có thể rành rẻ kê ra một danh sách về những điều ấy. Mỗi điều tôi nghĩ đến làm cho một hàng nước mắt tôi trào ra. Tôi chợt rùng mình, ràn rụa nước mắt vì không có một điều gì, bất cứ một người con hiếu thảo nào có thể làm được để khiến mẹ của họ có thể sống lại được. Tôi bổng tiếc nuối khủng khiếp những khoảnh khắc tôi đã làm mẹ tôi không được vui như tôi trước đó hằng mong muốn. Tôi tự trách chính mình vì đã không làm gì hơn thế được. 

    Mẹ tôi đã trước đó bị tiểu đường 15 năm và đã trước đó bị hở van tim phải 2 năm. Bây giờ bà nằm đó, bất động và tôi ngồi cạnh người đây, bên người mẹ đã chịu đựng quá nhiều điều bất hạnh, khổ sở. Cái khoảng 2 gang tay giửa hai mẹ con tôi sắp trở thành một khoảng cách vô tận. Cái khoảng cách vô tận ấy có thể được rút ngắn lại hay không còn tùy vào hai trái tim của chúng tôi. Trong tim tôi, mẹ tôi luôn ở trong đó. Còn trong tim bà, tôi chẳng biết rõ là tôi ở trong một xó xỉnh nào nữa. Từ trước đến giây phút đó, mẹ tôi luôn luôn hiện diện để âm thầm thúc đẩy tôi tiến lên. Người luôn luôn ở trong tim tôi.

    “Thưa thầy, nhờ thầy điền vào bệnh án của bà ạ.” 

Lời mời nhỏ nhẹ của cô y tá làm tôi giật mình. Tôi vào văn phòng khoa cấp cứu để viết lách cho rõ. Mọi người trong phòng nhìn tôi vừa kính, vừa mến, vừa như muốn gánh bớt cái đau của tôi- một ông thầy dạy Anh văn cho bệnh viện. 

   Cách đây một năm, tôi được một cú điện thoại của một bác sĩ học trò khác mời gấp vào bệnh viện để phiên dịch. Một phái đoàn của Bộ Y tế vào để cùng một đại diện của Y tế của CHLB Đức khảo sát điều đình một khả năng cho bệnh viện Kiên Giang vay 5 triệu đô la để mua thiết bị y khoa. Sau đó hai lần nữa, tôi lại được mời làm phiên dịch- một khi có hai chuyên gia về tài chính đến. Trong lúc đến các khoa phòng trong bệnh viện, những ai từng biết tôi đều ngạc nhiên vì cách tôi phiên dịch lưu loát. Với dòng máu nóng sẵn có trong cơ thể- lúc nào và với việc gì khó khăn, tôi đều làm được.

     Và vào lần cuối khi một tiến sĩ Y khoa, Schumacher, từng làm giám đốc một bệnh viện ở Lesoto, Châu Phi, với một mức lương $6.000 một tháng- đến để xác định tính khả thi của dự án. Trong hai ngày đi khảo sát tại bệnh viện Kiên Giang và hai huyện An Minh, Hà Tiên, tiến sĩ Schumacher luôn hỏi tôi xem có phải tôi làm trong bệnh viện không. Khi nghe tôi kể rằng tôi học NLS, ngành Lâm Nghiệp, Đ.H ngành Nông Nghiệp và bắt đầu học anh văn từ năm 35 tuổi và hiện đang là giáo viên tự do, ông ta bắt tay tôi và nhún vai,

“I can’t put it into words- Tôi không biết phải nói sao nữa.”

Trò chuyện về gia đình nhau, ông ta kể rằng mẹ ông đang ở nhà dưỡng lão còn bà vợ và hai đứa con của ngài thường bận bịu với chuyện cộng đồng và bạn bè. Tôi hớn hở kể cho ông ta nghe về gia đình 5 người của tôi, về việc mẹ tôi đã được chúng tôi chăm lo thế nào. Ông nói nhỏ với tôi,

“What a family!” “Quả đúng là một gia đình!”

    Những ai ra vào phòng cấp cứu hai ngày ấy, nhất là ai đến thăm mẹ tôi, đều thắc mắc về những dụng cụ, thiết bị y khoa, về số lượt và về cách mà các y, bác sĩ chăm sóc cho mẹ tôi. Tôi không hề có một yêu cầu nào, thậm chí tôi còn cảm thấy ái ngại vì việc nhận được quá nhiều sự quan tâm. Nếu mẹ tôi có thể nghe tôi nói, tôi sẽ thì thầm vào tai mẹ tôi, 

“Má thấy người ta chăm sóc má tử tế và chu đáo như thế nào không? Má cứ yên tâm nhé! Con luôn ở bên cạnh má đây. Các bác sĩ luôn luôn đến lo cho má!”

    Đêm thứ ba trong bệnh viện, gần 3 giờ sáng, tôi nhận thấy mẹ có những biến động khác thường và vội báo cho phòng trực. Một bác sĩ trẻ và một y sĩ vội đến để cấp cứu. Họ đã làm tất cả những gì họ có thể. Sau khỏang mười phút, cả hai nhìn tôi, rất buồn bã, 

“Thưa thầy, tụi em xin... chia buồn với thầy”.

        Tôi rùng mình nỗi gai ốc và nghẹn lời khi cảm ơn họ. Ràn rụa nước mắt, tôi chợt kêu rú lên trong lúc tôi ghì cánh tay của mẹ tôi,

“Má ơi! má không chờ để chị và em con về để nhìn thấy má sao... má ơi!”

    Trong một giây khắc, tôi như rơi lọt vào một thung lũng sâu đến tận cùng. Tôi cảm thấy đang rơi tự do từ trên một tầng mây cao trên trời. Bỗng chốc tôi như một đứa trẻ gầy gò hom hem bị ném bỏ vào một cái hang động tối ẩm ướt, lạnh lẽo. Tôi như một đứa bé con vừa được sinh ra rồi bị bỏ rơi đâu đó trên lề đường, trong một cái giỏ nhỏ. Tôi bỗng thấy mình như một hành khách trong một chuyến đi vượt biên bị cướp biển ném xuống biển sâu lúc nửa đêm. Tôi thẫn thờ như một bệnh nhân tâm thần được cho xuất viện- không có nơi đến- không có ai đón- không có gì để làm và không có gì để mất. Tôi gần giống như một gã quê mùa bị dụ dỗ vào một chốn đàn đúm, sa đọa, nguy hiểm. 

   

   Cố trấn tĩnh nhìn đồng hồ, 2 giờ 56 sáng, tôi điện thoại báo tin cho nhà tôi. Tôi run run ký tên vào hồ sơ bệnh án. Tôi tĩnh táo nhớ đến việc xin xe chở xác mẹ tôi về. Tôi gọi B.S Tiếu- phó giám đốc- một học trò cũ- và được phúc đáp ngay. Quả đúng là tôi được những thứ một người bình thường không thể có được. Ngay sau khi đưa mẹ tôi về nhà, tôi gọi ngay cho các đồng môn Nông Lâm Súc Bảo Lộc, và Phan Thanh Giản bên Cần Thơ. Mỗi khi tôi có tin vui hay buồn gì, chúng tôi cũng cần có nhau, hơn thế nữa tụi nó đều là những người kính quý mẹ tôi và sẵn lòng mỗi khi tôi cần đến.

          “Mẹ ta đang ở nhà.” tôi căn dặn mình như thế. 

          “Mẹ tôi đang nằm nghỉ đấy thôi mà!” tôi muốn nói thì thầm với mọi người. 

Nhưng khi trả lời điện thoại của Khuê Bầu, tôi im lặng 3 phút vì nghẹn ngào không nói ra được nửa lời. Tôi cần nó và những đứa bạn khác qua đây với tôi. Tôi không biết phải làm sao lấp cái khoảng trống đang lan rộng, đang bao trùm lấy tôi. Cái khoảng trống mà bất kỳ người con thương mẹ nào cũng phải trải qua, phải ngập chìm trong đó cho đến bất tận, cho đến hết cuộc đời họ. 

      Tôi lặng lẽ ngồi bất động bên giường mẹ tôi. Nếu có được một phép mầu, tôi chỉ xin được thay chỗ: “Mẹ tôi ngồi đây để tôi đổi lại nằm chỗ kia.” Ôi! Cái hoán đổi nhỏ nhặt đơn giản vậy thôi sao mà khó thế.!

                                                                Rạch Giá, 12, 10, 09

                                                                Lương Ngọc Thành

  GIÁNG SINH CỦA TÔI Ở BẢO LỘC

 

   Vào ngày 23 tháng 12 năm 1975, vừa nhận được học bổng đầu tiên- 19 đồng, tôi cũng nhận được lịch thi đấu cho giải bóng đá của Bộ Đại Học, “ Mùa Xuân 75.” Vừa mừng vừa lo và vừa thèm nhớ bạn bè, tôi đã âm thầm ra xa lộ Thủ Đức lúc 8 giờ sáng ngày hôm sau để đón xe đi Bảo Lộc.

    Tôi là người duy nhất trong “băng Cần Thơ” được tiếp tục học Đại Học. Tôi may mắn, và tôi tận dụng vận may và khả năng của tôi để thành thủ môn của đội bóng đá trường Đ.H. Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. Vì vừa trải qua 3 môn thi học kỳ, hôm ấy rất nhiều sinh viên về quê hoặc nơi nào đó để đón Giáng sinh trong khi tôi trên đường về Bảo Lộc- nơi tôi xem như quê hương thứ hai của tôi. Xa lộ hôm ấy không có nhiều xe. Thiên hạ bận bịu việc trong nhà hay họ lo chuẩn bị cho đêm Giáng Sinh lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4. 

    Trước tiên, tôi chợt nhớ đến Hải Bầu, người tôi đã đưa về Cần Thơ để dạy kèm để hắn có thể thi tú tài ngành chuyên nghiệp N.L.S tại Bình Dương. Có theo Hải về nhà một lần năm ngoái, nên tôi còn nhớ rõ làm sao để đến nhà hắn. Tôi bảo xe ghé lại nhà thờ xứ Dốc Mơ- Gia Kiệm khi trời nắng nóng, gần 11 giờ. Hớn hở khi bước vào nhà hắn, tôi sững sờ nhận ra gương mặt tiều tuỵ đau khổ của mẹ nó người đã thống thiết kể lể với tôi ngay khi tôi bước chân vào nhà,

      “Mấy hôm sau ngày giải phóng, công an huyện đến tìm nó mà cứ bảo là tìm “giáo sư Hải”. Họ cứ còng tay đưa nó đi và đến nay nó biệt tăm. Nhà tôi đi cải tạo mà còn được thăm nuôi. Còn anh Hải thì… lạy Chúa tôi!”.

Tôi chẳng biết phải nói làm sao nữa nhưng tôi cương quyết từ chối khi được bà mời ở lại hôm đó. Trở ra quốc lộ 20, vừa buồn cho Hải Bầu, tôi vừa buồn cho bao nhiêu kẻ gặp vận hoạn nạn, đen đủi kỳ quặc, không thể giải thích nổi như vậy. 

Đứng chờ bên lề đường một mình, tôi quyết định thật nhanh. Nếu có xe về Sài Gòn, tôi đi về lại Thủ Đức nhưng nếu có xe lên Bảo Lộc, tôi vọt lên đó- dù chỉ có tối hôm nay thôi! Chưa uống xong ly cà phê, từ xa tôi nhận ra một xe chạy từ hướng Sài Gòn lên B.L. Tôi chen lên xe và chợt vui hẳn lên như bất cứ lần nào tôi được đi Bảo Lộc. Chuyến xe duy nhất này dừng rước bất cứ hành khách nào như tôi. Mọi người đều có chuyện riêng để đi ngày hôm ấy. Tôi đi lên chỉ mong gặp Long Kh’mer sau khi không thăm được Hải Bầu. 

     Còn nhớ hoài nét mặt đau khổ của bà mẹ của Hải Bầu, tôi chợt nhớ đến mẹ tôi. Tôi không biết so sánh thế nào nhưng chắc mẹ tôi có nhiều niềm vui vì tôi hơn nhiều người mẹ khác. Tôi hình dung ra ngay gương mặt của Má Năm- mẹ của Long người suốt cuộc đời vất vả chỉ cho chồng con mà thôi. Tôi nhớ nét nhăn trên gương mặt gầy guộc của Mạ Chánh. Tôi mong ngóng đến từng kí lô mét đường một. Chưa khi nào tôi có chuyến đi như thế này. Ôi! xe đến khu rừng Giá Tỵ, Định Quán rồi! Tôi bồn chồn nôn nao như một gã ly hương trên đường trở về quê, như một tay vừa ra tù trên đường về đoàn tụ gia đình, như một chàng trai trẻ về thăm quê hương của cô bạn gái mà chàng yêu quý. Khi xe qua đèo chuối, tôi nhớ lại ngày đầu tiên đón xe lên Bảo Lộc, tháng 6, 1971. Trời mưa dầm lạnh lẽo. Xe như chạy vào một khu rừng khá rậm, mọi thứ rất vừa vặn, từ những cung đường không quá gắt, không quá nghiêng dốc, bên phía thung lũng không quá sâu, bên triền núi đá không quá cao. Tôi cảm thấy êm đềm khi ngắm nhìn màu xanh mướt thật tươi mới từ những rừng cây dập dìu cành lá. Cơn mưa phùn làm mờ hết đường xe chạy. Mọi người trên xe như nín thở bất động. Đường đèo hôm đó vắng xe một cách lạ lùng. Ít có ai đi đâu trong ngày cận kề Noel như thế này hay sao? Tiếng máy xe nổ giòn giã như để khẳng định với những hành khách rằng chuyến đi sẽ đến đích, chuyến xe này chắc chắn sẽ đến nơi an toàn. Dẫu chỉ mặc cái áo sơ mi xuềnh xoàng, trong trời cuối tháng 12 khô, lạnh, tôi cảm thấy như bình thường. Điều tôi mong đợi là gặp được Long Kh’mer để trò chyện với nó để nghe nó kể lể cho thoả lòng của cả hai đứa tôi.    

   Khi xe lên Đèo Bảo Lộc, như nhiều lần khác, tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Cái cảm giác vui sướng lâng lâng của chàng học trò được điểm cao, được lời khen ngợi của cô thầy khó tính nào đó. Khoảng đường dắt lên đèo Bảo Lộc bỗng đẹp hơn, trơn láng hơn. Lòng tôi thênh thang nhẹ nhàng như chiếc xe đang chạy thật êm ái chuẩn bị lên đèo. Cái đoạn đường đèo hơn 10 kilô mét này đặc biệt ý nghĩa vì nó gây cho hành khách sự chuẩn bị, sự toan tính những gì họ sẽ làm hoặc sẽ xảy ra với họ trên Bảo Lộc. Tôi dự tính gặp Long Kh’mer và chỉ có thế thôi. Điều gì có thể xảy ra với tôi nhỉ!? Có ai biết được Long cũng bị một chuyện xui rủi nào, một tai nạn nào đó hay không. Khi ấy không có cách gì để báo cho hắn biết rằng tôi sắp lên thăm. Khi ấy việc gặp nhau có rất nhiều ý nghĩa. 

    Miếu Ba Cô và tượng đài Đức Mẹ Maria trên đèo là một nơi dừng chân lý tưởng đối với khách tham quan hoặc cho những ai cần cầu xin điều gì. Vừa nhìn thấy đài Đức Mẹ xong, tôi liền nghĩ đến việc Long Kh’mer có thể đi hành hương trong lúc ấy với nhóm thanh niên ca đoàn hay hướng đạo gì gì đó. Xe chầm chậm leo lên đèo, vượt qua nhiều đoạn cua quẹo. Tôi nhìn thật kỹ lưỡng một xe đò nhỏ đang đậu và số người đang dừng chân ở khu đài Đức Mẹ. Sự vật vẫn như thế nhưng tình cảnh nay đã khác. Lòng người có thể vẫn thế nhưng trong khi mà cái ăn cái mặc, cái cảm giác bình an dù cho đơn giản nhất có thể lại khác đi rất nhiều. 

   Tôi đã không nhìn thấy có Long trong nhóm khách viếng Tượng Đức Mẹ. Tôi nhẩm đếm từng khúc cua trên đường đèo. Khúc cua thứ mười bốn là Miếu Ba Cô. Xe vẫn cứ tiến tới và tôi cũng vẫn cố hy vọng. Tính từ khi xe vừa qua cua quẹo thứ nhì sau khi qua miếu, tôi nhận ra ngay cây đàn guita quen thuộc và người mang nó trên vai, Bình Bon- lớp Công Thôn- khóa 2. Tôi nhìn chầm chập vào nhóm thanh niên đang đi bộ phía lề phải để mong tìm thấy người tôi muốn gặp. Xe cứ tiến đến cua quẹo thứ ba, thứ tư. Tôi cứ dõi mắt tìm hắn. Linh cảm rằng hắn thế nào cũng có mặt trong nhóm thanh niên thanh nữ này, khiến tôi chồm người ra cửa sau, ngay mặt ra ngoài để nhìn rõ hơn. Đến cua quẹo thứ mười hai tôi nhận ngay ra Long Kh’mer trong một nhóm hơn mười thanh niên. Tôi kêu tên hắn một cách thảng thốt và hắn giật bắn người khi nghe tiếng gọi của tôi. Chiếc xe vừa sắp qua hết khúc cua cuối cùng để lao thẳng về Bảo Lộc là lúc tôi kêu dừng xe. Chắc gã tài xế đó chưa bao giờ phải dừng vào cái lúc mà ai cũng mong mau về nhà và xe đang chạy thật ngon trớn. Cái dốc xe vừa chạy qua không cao lắm. Vừa thật sự lấy được thăng bằng sau khi nhảy xuống xe, tôi chạy hấp tấp ngược về cái dốc để mong gặp được Long càng nhanh càng tốt.

      Long Kh’mer cũng vừa chạy lên từ phía dốc bên kia vừa kêu tên tôi thật to. Không có một đạo diễn nào nghĩ ra cái pha mà hai đứa tôi gặp nhau như vậy và không có diễn viên nào có thể làm được như thế. Chúng tôi ôm nhau, trong hơi thở hổn hển, trên một đoạn đường trống trải nhưng trong lòng hai thằng tôi đầy ắp biết bao là niềm vui. Long nắm chặt tay tôi, cười thật tươi. Cái răng khểnh bên phải của nó như cũng lên tiếng chào hỏi tôi. Hai bàn tay Long trơn ướt lạnh. Trời hanh khô nhưng hai đứa tôi thấy như đang đội một cơn mưa phùn thật nhẹ. Trời dần ngã màu xẩm tối khi chúng tôi thấy có ánh sáng lên trong lòng. Chúng tôi cần có nhau như người đi lễ cần nhà thờ, như người cần xưng tội cần có cha ngồi nghe những lời khó nói ra nhất. Tại sao người ta không kề cận nhau, lắng nghe, dung thứ, khuyên bảo nhau. Tại sao người ta cứ phải liên tiếp bài kích nhau, vạch ra những lỗi lầm to nhỏ để hạ thấp nhau. Tại sao họ luôn bận tâm đến việc làm cho người khác phải toan tính , phải che đậy, dối trá vì phải tìm ra câu biện hộ này, lời giải thích bâng quơ nọ. Hai đứa tôi chỉ có kể lể, tâm tình, nghe ngóng và chỉ vậy thôi cũng đủ cho cả hai, vốn đã đau, buồn, tủi bất toại, bất ổn và bất bình.

   Con đường từ đấy về Bảo Lộc vắng vẻ trơ trọi, hai bên đường nhà nhà đóng cửa im ỉm,  nhưng chúng tôi thấy đầy ắp niềm vui, một niềm vui rất lạ lùng. Bất kể điều gì xảy ra với chúng tôi cũng đều không quan trọng vì chúng tôi vừa gặp được nhau rồi. Đêm mai nhiều người và con chiên vui Giáng Sinh tại nhà hay ở nhà thờ. Đêm nay, Long Kh’mer và tôi vui hội ngộ trên con đường vắng.   

    Chúa giáng trần mang đến sự bình an cứu rỗi. Tôi lên đây mang đến Long Kh’mer một niềm vui đơn giản. Long và họ vừa đi thăm đài Đức Mẹ về. Tôi vừa đi thăm gia đình Hải Bầu và gặp mẹ hắn. Sự mất mát, đau khổ, trông đợi, và thất vọng là những thứ ai cũng có, ai cũng phải gánh chịu. Nhưng sự bình an, hạnh phúc, những thành tựu và những điều tốt đẹp là những thứ không phải ai cũng có thể có được. Hơn hẳn những người bạn tôi- còn đi học, còn có nơi để dung thân, và còn có một tương lai đơn sơ nhỏ nhắn- tôi muốn đem lên đây chia cho Long một ít. Tôi muốn mang lên Bảo Lộc một nửa của cái tôi đang có. Tôi muốn kể lể cho nhiều người ở trên Bảo Lộc này sự thật về tôi, về cái may mắn, cái cơ hội mà sẽ khiến họ vui mừng hoặc ganh tị, lo lắng hoặc chúc mừng tôi hoặc thèm thuồng được có những điều như vậy.

   Kề vai tôi, Long Kh’mer đưa tôi về đến nhà lúc trời tối đen. Chúng tôi ăn cơm với chị Tư rồi ra quán để thăm Má Năm. Chúng tôi đã có một buổi tối bình an, đẹp đẽ như nhiều người hằng mong đợi- một buổi tối trước ngày Chúa giáng sinh.

 

 Rạch Giá 8- 12- 2010

 Thành Xì TL-71          

______________________      

BÓNG ĐÁ và CUỘC ĐỜI TÔI

 

       Nhiều nhà văn, nhiều tài liệu, phim ảnh đã nói quá nhiều về bóng đá rồi cho nên tôi chỉ biết viết ngắn gọn rằng: bóng đá đã làm thay đổi cuộc đời tôi một cách sâu sắc.

       Từ một chàng sinh viên có học lực khá nhưng bất đắc chí vì lý lịch xấu, gia đình tan nát, tôi chọn chơi bóng đá như là cách để chứng tỏ chính mình. Từ một tiền vệ trung tâm, tôi đưa đội bóng lớp tôi- 74 KNNc vào trận chung kết. Hạ đối thủ-lớp 74 KCNa, lớp tôi vô địch trường và tôi nghiễm nhiên thành một tiền vệ có đủ tài năng và uy tín. Nhận ra chàng thủ môn lớp 74 CTM không đủ tiêu chuẩn- vừa thấp vừa chậm- tôi tình nguyện làm người mang găng tay trấn giữ khung thành của đội bóng trường Đ.H Sư Phạm Kỹ Thuật từ trận đá đầu tiên- tháng 12- 1975 cho đến lúc tôi về Kiên Giang cuối tháng 3- 1980. 

    Để được yên vị và tiến bộ, tôi chỉ còn có cách tập luyện thật chăm chỉ. Hồi còn học ở Bảo Lộc năm lớp đệ nhất, để thức sớm làm bài luyện thi vào đại học, tôi cố đi ngủ lúc 9 giờ tối. Còn lúc ấy, để ngủ được hằng đêm, tôi chỉ còn có cách tập đá banh hằng buổi trưa. Vì tôi đã từng“làm con mọt sách” và tập đàn ghi ta 365 ngày một năm ở Bảo Lộc rồi, tôi cũng đã có thể tập đá bóng cũng theo mức độ ấy. Nắng mưa, cái lạnh đã không có thể cản tôi thức sớm để học, để đánh đàn, nên tôi cũng đá bóng bất chấp khi trời mưa to hay khi nắng gắt như lửa đốt. 

      Khi người tiền nhiệm- Nguyễn Hưng- lớp Cao Đẳng khóa 1, ra trường- tháng 7- năm 1976, tôi được bầu chọn làm đội trưởng. Ngay khi vừa xuất hiện trận đầu tiên trong giải đấu: “Mùa Xuân”- do Sở Giáo Dục T.p Hồ Chí Minh tổ chức- tôi đã được chọn làm 1 trong 3 thủ môn của đội tuyển Sinh Viên Sài Gòn. Suốt 4 năm học, tôi không vắng mặt một trận đá bóng nào, chơi yếu kém trong bất cứ một trận nào. 

       Đầu năm 1977, thầy Phan Văn Lân- khoá 2, Đ.H Thể Dục Thể Thao Từ Sơn về công tác tại trường tôi. Thầy Lân lập ra một quy chế cho trường, “Những trưởng ban thể thao có trách nhiệm và quyền tự chủ để phát triển bộ môn mà họ đảm nhiệm”. Tôi là người thầy Lân chọn đầu tiên. Phong trào thể thao trong toàn trường càng lớn mạnh, tôi càng có nhiều trách nhiệm và uy tín. Tôi hiểu hơn ai hết bóng đá là cái ưu điểm đặc biệt của tôi, và tôi cũng hiểu rất rõ tôi phải làm gì. Điều ấy giúp ích tôi rất nhiều như một anh nông dân biết rất rõ công việc đồng áng từng ngày một, người nghệ sĩ thuộc vai diễn như người chiến sĩ hiểu rõ từng trận đánh một. 

    Dù không phải là đoàn viên trong chi đoàn lớp, tôi được phân công làm trưởng ban bóng đá của đoàn trường và dĩ nhiên của cả chi đoàn Nông Nghiệp. Dù không được dự một khoá đào tạo nào, tôi đã cầm còi điều khiển tất cả các trận đấu trong các giải đấu trong trường như một trọng tài tốt. Môn bóng rổ theo chân sự thành công của bóng đá. Tôi- với vốn liếng đã chơi trên Bảo Lộc- lại có một dịp tốt nữa để có mặt trong đội bóng rổ nam. Vì các sinh viên nữ trong ký túc xá muốn tập chơi bóng rổ, tôi được cử làm huấn luyện viên cho họ- một thần tượng trong mắt của một số cô sinh viên xinh đẹp, năng động lúc bấy giờ.

    Các đội bóng đá chung quanh trường đều thiếu họăc không có sân tập. Đội chúng tôi trở thành cục nam châm lớn. Có rất nhiều đội mời chúng tôi thi đấu. Đội bóng công ty bột giặt Viso rất thường mời tôi và hai đồng đội khác chơi chính thức cho họ. Sau đó trường Kỹ Thuật Việt Đức và đội tuyển huyện Thủ Đức cũng cần có đôi tay nhựa của tôi.  Khi đi thực tập tại Ô Môn- Cần Thơ, tôi khiến cho nhiều người lầm tưởng tôi là thủ môn của Cần Thơ. Tại Sóc Trăng, người đội trưởng đội tuyển tỉnh khi ấy đến gặp tôi để mời tôi chơi cho họ một trận. Lên Bảo Lộc nghỉ hè, tôi cũng đã nhận một lời mời tương tự. 

    Hồi ở trung học NLS Cần Thơ, Nguyễn Bảo Toàn, Lý Thái Lâm, Hậu Bào và vài tay nữa với tôi phải đèo nhau ra sân bãi cát, sân ĐH Cần Thơ hay sân trường Lassan để tập đá hoặc đá với các sinh viên. Lên Bảo Lộc, nhờ tài nghệ của Tâm Dê và Bảy Bình, dẫu cho là cây ghi bàn thứ hai trong lớp, tôi còn khá nhút nhát. Số bàn thắng tôi đã ghi được giúp tên tôi được ghi vào danh sách “đội bóng đá tỉnh Lâm Đồng” trong giải đấu ĐH Thể Thao học sinh tại Phan Rang năm 1972. Tôi đã đá khá hay trong giải toàn quốc đó.

    Sau ngày 30- 4, tôi tự ti mặc cảm. Nhưng sau khi làm được những gì mà phong trào thể thao của trường của tôi cần, tôi tự tin. “Hồng hay chuyên” là cụm từ của ai đó thường nói qua cửa miệng. Tôi chỉ thường tự hỏi, “Tốt hay chưa”. Thay mặt toàn đội, tôi được giao trách nhiệm nhận giữ xe khi có các trận đấu lớn của huyện. Tôi nhận phần rắc vôi sân bóng, mắc lưới 2 bên cầu môn và nhận trọn khoản tiền thù lao cho đội, 25 xu mỗi người từng buổi tập hay trận đấu chính thức. Hằng các trận đấu lớn ở Sài Gòn, đội của tôi được nhận 2 vé xem tại sân Thống Nhất. 

    Khi lớp tôi đi thực tập gần 2 tháng ở 4 địa điểm khác nhau, ngoài cây đàn ghi ta đeo trên lưng, tôi còn phải mang vác theo một bao giày bóng cho đội. Theo một cách nào đó, khi nhận lời thi đấu với một địa phương- nơi chúng tôi đang thực tập, tôi đã vừa quảng bá được cái thương hiệu của trường tôi và đồng thời vừa tập luyện như một cầu thủ nghiệp dư. Tại Dưỡng Điềm, Thuộc Nhiêu, Tiền Giang, đội địa phương ấy còn rủ chúng tôi đá một trận bán vé sau khi chúng tôi có tăng cường 2 tiền vệ của tỉnh đội Bến Tre, trong đó một là em của Nguyễn Công Trực. Chỉ vì nghe những gì tôi đã làm được cho trường tôi mà vị phó phòng tổ chức của Đ.H Cần Thơ đã chính thức xin nhận tôi về công tác cho họ tháng 9- 1979.

     Khác với nhiều dự đoán, tôi được phân công làm: “Cán bộ thể thao của trường”. Tôi được cái vinh dự đó ngoài mức mong đợi. Xe đưa rước, phòng, bếp ăn riêng, chế độ cao: 19 kí lương thực, thịt, sữa, trang phục thể thao… là những thứ nhiều sinh viên khi đó thèm muốn. Người má nuôi và cũng sẽ là má vợ của tôi không còn điều gì để mong đợi ở tôi hơn nữa cả. Tôi trở về đoàn tụ với gia đình bà sau hơn một năm tôi giận người chị thứ bảy trong nhà.   

   Xong chuyện học, việc riêng tư, tôi quyết định về thăm mẹ ruột ở Sóc Xoài, Hòn Đất, Kiên Giang. Trong hành trang tôi mang theo, có một tình yêu thương mẹ nồng nàn và một tình yêu bóng đá rất mạnh mẽ nữa. Mặc bộ đồ thể thao, đi giày bóng đá của một trường ĐH, khi tôi tập tại sân bóng xã Sóc Xoài, mọi người chiêm ngưỡng tôi, xem tôi như một ngôi sao- giống hệt như chúng tôi đã ngưỡng mộ Phương Thanh- nghệ sĩ- người vào sân trường Nông Lâm Súc tập và đá cho trường một trận năm 1973. Ông Tư Dả- ông bầu đội bóng, đã ký hợp đồng cho tôi thi đấu cho đội Công Ty Vật Tư tỉnh mấy trận liền. Vì thiếu cấu thủ, đội bóng giàu mạnh nổi tiếng này- vô địch mấy năm liền- đã nhận tôi về Kiên Giang công tác và “đá bóng”. Ít ai biết rằng má nuôi của tôi chính xác là người khuyên tôi về đây để tôi có thể tiến thân, có dịp đi vượt biên, nhất là gần gũi và phụng dưỡng bà mẹ ruột.

    Cuối tháng 3 năm 1980 tôi về đây trong lúc em trai tôi còn trong trại giam, chị tôi ở kinh tế mới. Tập dợt hàng trưa, thi đấu gần như hàng nửa tháng một trận, tôi chơi khá hẳn lên. Trong giải A2 toàn quốc năm đó- 1982, tôi được chọn làm thủ môn dự bị. Đội bóng Kiên Giang được một tiền vệ của đội Cảng Sài Gòn huấn luyện. Tôi là thủ môn dự bị nhưng cũng chơi 2 trận khá hay. Hằng tuần sau khi đá bóng, tôi về thăm mẹ ruột, người hãnh diện vì:

“Ít có ai được đứa con như bà.” theo như nhiều lời đàm tiếu, bàn bạc về tôi.

    Sau khi có vị hôn thê tôi xuống thăm, sau khi chị em tôi đi vượt biên tháng 4 năm 1982, công ty của tôi đề quyết rằng tôi đã hụt chuyến đi ấy và họ tuyên bố không còn tin dùng tôi nữa. Sự thất vọng, mất niềm tin đã khiến tôi rượu chè. Không bao lâu sau khi vào “làng nhậu”, tôi có một cấp bậc khá cao. Xin cơ quan cho ra ở ngoài để làm gia sư, tôi còn hùn vốn để gia công làm phấn viết bảng. Tôi cũng tập vẽ bảng hiệu một mình như để chuẩn bị cho một bước ngoặt mới. 

    Việc có người yêu và lập gia đình giúp tôi tin vào một tương lai khá hơn. Tôi về ở rể và tiếp tục đi làm cho đến khi họ cho tôi thôi việc. Xin một vài nơi không được, tôi quyết định theo ông già vợ làm nghề nấu rượu. Trái bóng đá đã ngừng lăn trong đời tôi rồi sao? Chuyện đời yên ổn như thế à? Tôi yên lòng làm người thợ nấu rượu lậu được hả? Tôi không tin vào số phận nhưng tôi tin vào những gì Đạt- một tiền đạo có tiếng- khi đó đang là huấn luyện viên cho đội Sở Lâm Nghiệp- nói với tôi:

“Anh ráng chụp giúp cho một trận nhé anh Thành.”

    Đó là trận bán kết giải bóng đá tỉnh K.G năm 1985. Tôi chụp khá ổn định và chúng tôi thắng trận. Tôi lại được mời chụp trận kế tiếp- cái trận chung kết định mệnh ấy. Đỡ được một trái penalty trong trận đá đó, tôi gần thành người hùng rồi. Trong 5 trái đá luân lưu 11 mét phân định ngôi thứ ấy, đối thủ của chúng tôi- Xi Măng Hà Tiên 2- chắc chắn không bao giờ quên được tôi- thủ môn Thành vì tôi đỡ được cái quả đá cuối cùng để đưa đội Sở Lâm Nghiệp lên ngôi vô địch. Tôi được phó giám đốc Sở mời đi làm. Đời như vậy đấy. Tôi trở thành một giám sát công trình cho Công Ty Lâm Sản nhưng kiêm là thủ môn và đặc biệt là tay ghita accord cho đội Sở Lâm Nghiệp từ tháng 5 năm 1985 cho đến khi tôi không chịu nổi sự bạc đãi của họ. Tôi đã tự ý xin nghỉ việc vào ngay đầu năm 1989.

    Với ý chí của kẻ đã nhiều năm tự luyện tập và chơi bóng đá, tôi đã tự học Anh Văn vào tuổi 35 và may mắn trở thành một thầy giáo. Nhờ đã từng luyện tập đá banh chăm chỉ, tôi cũng đã dạy và học Anh Văn chuyên cần như thế đó. Sau 2 năm học, tôi có chứng chỉ C do Đ.H Tổng Hợp Tp Hồ Chí Minh cấp và rồi sau 4 năm nữa tôi có tấm bằng Cử Nhân Anh Văn hệ đào tạo từ xa của ĐH Ngoại Ngữ Hà Nội. Tôi đã dạy nhiều trung tâm ngoại ngữ, đủ các loại lớp, vào các giờ khác nhau, từ 5 giờ sáng đến 11 giờ tối. Tôi đã thành một trụ cột vững vàng cho gia đình 5 người của tôi.   

     Nếu việc tôi đã từ trường Phan Thanh Giản vào NLS Cần Thơ đến việc tôi lên học trên NLS Bảo Lộc hoặc việc chơi bóng đá trên đại học và việc tôi về Rạch Giá đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào, thì giờ đây, đến phiên “Việc học và dạy Anh Văn.” cũng như thế ấy.

    Lắm lúc, cuộc đời quả thật là ngoạn mục như một trận bóng đá!

 

Rạch Giá 30 tết năm Canh Dần

Lương Ngọc Thành  

_________________________________

LẦN ĐẦU TÔI UỐNG RƯỢU

   Giống như nhiều chuyện lần đầu khác, hút thuốc, tỏ tình, làm ra tiền, lần đầu tôi nhậu thật đáng nhớ vì tôi đã phải đóng giả vai trò của một cán bộ kỹ thuật khi tôi đang đi thực tập để viết đồ án tốt nghiệp, cuối tháng 3 năm 1979, và đó cũng là lần thứ nhì tôi nói dối.

   May cho tôi khi tôi nhận được đề tài: “Tìm hiểu tổ chức và hoạt động của trạm máy kéo ở Hậu Giang- Ô Môn, Sóc Trăng.”. Với 23 đồng tiền học bổng của tháng đó, với một balô nhỏ trên lưng, tôi đi Cần Thơ với hy vọng rất lớn: gặp được các bạn học NLS, nhận các lời động viên chúc may mắn của tụi nó. Đến nơi tôi mới hay đa số bạn tôi đã đi vượt biên trong tháng hai rồi. Tôi mới hiểu ra tại sao lần cuối về thăm thằng Hậu Bào, nó luôn nhắc tôi, “Tết này về với tao nghen.”

  Tôi chỉ gặp được Phùng Trương- NLS Cần Thơ- và ngủ qua đêm với nó để nghe nó kể hết sự tình, kể cách tụi nó đã chuẩn bị. Hôm sau, một mình tìm đến Chi Cục Máy Kéo Hậu Giang, tôi nhỏ nhẹ khéo léo chiếm được cảm tình của ông cán bộ hành chánh để ông ta viết cho một giấy giới thiệu với nội dung là, “Điều tra những vấn đề kỹ thuật tại trạm máy kéo ở Ô Môn và Sóc trăng”, thay vì là “sinh viên đi thực tập”.

   Nghiễm nhiên là cán bộ kỹ thuật rồi, cho nên khi ra ruộng với chiếc máy kéo với giàn cày chảo, tôi phải tỏ ra rất thuần thục. Thầy Phạm Phi Hoành đã từng hướng dẫn chúng tôi sử dụng một cái máy cày Caterpillar của Mỹ to tướng rồi còn gì, nên tôi bước lên nhảy xuống chiếc máy kéo MTZ- nhập từ Liên Xô- một cách nhẹ nhàng thuần thục. Tôi móc ngay ra cuốn sổ tay, ghi ghi chép chép. Tôi rút cây thước ra đo chỗ này, lắc lắc đầu khi sờ vào chỗ khác trong khi anh chàng lái máy kéo trả lời vài câu hỏi của người chủ đất. Hắn vội vã lên máy đang nhả khói lên bầu trời trong xanh nắng ráo. Tiếng động cơ rú lên kéo theo một vệt khói đen, hắn hành sự trong khi tôi tiến tới ông chủ đất để hỏi chuyện,

“Chú được cày đất mấy mùa rồi vậy chú?”

Ông nông dân miền tây thứ thiệt với các phát âm miệt vườn thứ thiệt,

“Mùa“gồi” tui có mần được gì đâu cán bộ ơi.”

“Sao vậy chú?”

“Cái máy cày “Gon Đia”( John Deer) của ông TámTàng bị hư nặng.

Tụi tui kêu cặp bò của Bảy Hảo kéo lớt lớt thôi chú.”

Tôi cố gây cảm tình với ông ta,

“ Mùa này có máy kéo mới chắc ngon ăn hả chú?”
”Dái chời dái Phật” mùa này “chúng” đặng tui “chả” một phần nợ.”

Ông bỏ tôi đứng một mình để lo đặt đồ cúng xuống góc của thửa đất. Chốc lát sau ông đốt nhang, lạy bốn phương tám hướng, vung mấy vốc gạo với muối trắng lên như thể ông đang rải phân trên ruộng vậy.

“Lát nữa nhậu cho đã một bữa nhe ông cán bộ.”

Tôi không trả lời ngay vì còn đang bận quan sát đường cày ải của chiếc MTZ đang phun khói chạy băng băng lui lui tới tới. Trên cánh đồng trống trải rộng mênh mông ấy, tôi đang đứng một mình nhưng trong lòng ngổn ngang nhiều nỗi mà không biết bày tỏ cùng ai. Người nông dân đó có tôi để kể lể còn tôi thì không thể làm điều ngược lại. Anh chàng lái máy cày trẻ tuổi và người thư kế toán đội đang mãi mê cái tác phẩm của họ và vì phần ngán ngẫm cái bữa nhậu giữa trưa như vầy rồi nên bỏ mặc tôi một mình.

“Thôi ngồi xuống đây đi ông cán bộ.”     

Tôi giật mình nhưng rất nhanh miệng đáp ngay,

“Có rủ ai nữa không chú?”

“Hồi tối tôi có “gủ” mấy thằng cha bạn “gồi” đó chứ. Thôi mình cứ “mần chước” đi cán bộ.”

Tôi đáp lời một cách ngon hơ,

“Mần thì mần.”

Học ở Bảo Lộc 3 năm, sống với 3 người chủ nhà gốc Bắc, học với nhiều bạn Bắc kỳ, tôi tập theo cách nói của họ rất nhanh chóng, nào là, “zét nắm”- “kinh vấy”, “uống Ziệu”, nhờ vậy nay tôi cũng “mần được” ngon lành. Trên đó tôi uống chè xanh như người miền nam ở đây uống nước trong lu vậy. Trên đó, bận áo len suốt ngày, ở dưới này tôi cởi trần suốt ngày. Và giờ đây tôi sắp chính thức uống rượu- lần đầu tiên trong đời.

“Cán bộ vô “chước” đi- khỏi tiên chủ hậu khách há.”

“Bao nhiêu đây chú?”

“Chăm phần chăm” đi. Vô cho nó ngon, “mần ăn” mới ngon chứ.”

Hít một hơi thật xâu, cầm cái ly rượu một cách điệu nghệ, tôi uống chậm chạp, ngọt ngào như cái cách người ta uống một ly trà ngon vừa nguội vậy.

“Chời ơi”! Cán bộ dô ngọt quá! Thiệt quá đả!”

Tôi làm bộ hỏi để chận lại cái choáng của ly rượu vừa uống,

“Rượu này ngon ghê.  Chú đặt đó hả?”

“Thằng em “dợ” của tui “mần gụ” lâu năm “gồi”. Nó nấu ngon nhất xã này đó. Tui thấy cán bộ “dô” ngon ơ mà ham. Thôi tui “dô”luôn hén!”

Mời tôi cái đùi gà, múc cho tôi chén cháo nóng, ông chủ đất- vốn rất hiếu khách- kể cho tôi nghe,

“Tui có ba thằng con “chai”. Không có thằng nào chịu đi học hành gì “gáo chọi”. Nghĩ mà buồn lắm chú ơi. Tui lở dốt “gồi”, “gáng mần” nuôi tụi nó ăn học, “dậy” mà…Cán bộ chắc giỏi chữ nghĩa lắm há, Kỹ sư Nông Nghiệp phải không? Còn “chẻ”ghê hén? Có “dợ” con gì chưa?”

Tôi ậm ừ. Tôi có thể nói qua loa với ông ta cho qua chuyện nhưng khó lòng mà qua hết cái chai rượu và nồi cháo gà đặc sệt đang bốc mùi thơm phức. Tôi thấy gần với ông chủ đất người đang đối ẩm với tôi, gần với cái thực tế phũ phàng- cái người này cần lại là cái mà người kia không hề để mắt tới.

“Chú phải ráng đưa mấy người con trai ra chợ học cái nghề. Tui đây phải học cực khổ lắm mới có ngày hôm nay chứ bộ.”

Người nông dân thiệt thà chất phát này vô cùng cảm kích,

“Ba má của cán bộ chắc là “dui” lắm há? Tụi con tui có chữ nghĩa đâu mà học, cán bộ ơi? Tụi nó đang đòi “lấy dợ” đây chớ. Thôi dô cho đở buồn!”

Chén thù chén tạc, tôi với người đàn ông trạc tuổi ba tôi đó đã chia nhau gần hết chai rượu một lít. Tôi cố ăn cho kịp những gì ông ta gắp vào chén tôi. Trời đứng ngọ. Liếc xuống mặt nước mương cạnh bên, mặt tôi trông thấy đỏ như ông mặt trời nhưng sự trấn tỉnh giúp tôi thản nhiên như một tay nhậu cừ khôi, một tay cán bộ thứ thiệt.

“Chút nữa tôi phải về Chi cục máy kéo để họp. Chú cần tôi đề đạt gì với chi cục máy kéo với nhà nước không?”
”Dậy hả? Thiệt “mai mắn” quá. Cán bộ hỏi giùm nhà nước để mấy ông máy kéo này cày kỹ kỹ hơn nghen. Dân ở đây biết ơn nhiều nghen, Cán bộ.”

Thật rõ rằng người dân không có cách gì để lên tiếng với nhà nước nếu không có người đến với họ, ngồi cạnh họ, hỏi chuyện họ.

“Chú yên chí đi. Tôi bắt thằng này cày kỹ cho chú, đo đất cho đàng hoàng. Họ cày có một mà báo cáo là hai, vừa ăn gian số dầu của nhà nước, vừa ăn gian tiền cày của dân nữa chứ. Tôi sẽ báo cáo với chi cục chuyện này.”

“Thiệt cán bộ tốt quá. Ai cũng được như “dầy” tụi tui đỡ khỗ biết mấy.”

     Cái bữa nhậu kết thúc sớm vì lời nói dối ngắn gọn của tôi, “phải về Chi Cục họp”, nhưng cái ý nghĩa của bữa nhậu được kéo dài ra từ lúc đó. Người chủ đất, kẻ thiệt thà, vừa được tôi, kẻ vừa nói dối, gieo cho một niềm tin- một niềm tin vào lẽ phải.

    

Rạch Giá Jan 15, 2012

THÀNH XÌ- TL 71-      

CẦN THƠ- QUYỂN TỰ ĐIỂN

 

Ai cũng biết là quyển tự điển được dùng để tra nghĩa của từ vựng. Tôi đã mua và hiện còn giữ một quyển mà tôi muốn dùng để kể về cách tôi thương mẹ tôi và tôi đã lo xa cho tương lai của tôi như thế nào.

                           

 

                                  Vào lúc học lớp đệ lục A-1, thầy Nguyễn Văn Kỷ                                                          Nghiêm đã khiến chúng tôi từ điên đầu về “chia động                                                từ” đến kinh sợ và rồi “cúp cua” 6 giờ học hằng tuần.                                                Đến lớp đệ tứ, vào Nông Lâm Súc, trong lớp tôi đứa                                                  nào cũng dốt nát tiếng Anh cả. Sau 3 năm học ở NLS                                                  Bảo Lộc, tôi đã học được chút ít Anh Văn nhờ ở                                                        chung với Nguyễn Khánh Luận, người đã có thể trò                                                  chuyện với một nhóm nhà môi trường người Mỹ đến                                                thăm trường tháng 11 năm 1973. 

 

Trong số bạn học cũ ở NLS Cần Thơ, Tài Râu giỏi tiếng Anh hơn cả. Vì nó mơ làm một chính trị gia, một nhà làm chiến lược tầm cỡ thế giới, nó phải tra cứu Anh Văn rất nhiều trong thư viện của hội Việt Mỹ. Trong thời gian tôi về Cần Thơ chuẩn bị thi Đại Học, tháng 5, 1974, tôi thỉnh thoảng gặp hắn hoặc đến nhà tôi để trò chuyện với tôi. Khi bù đầu học thi Toán, Lý và Hoá, đâu có ai màng đến tiếng Anh để mà làm gì. Tôi chẳng mong gì hơn là thi đậu vào Đại Học. Tôi chẳng mong gì hơn là làm cho mẹ tôi vui lòng. Một hôm Tài Râu đến nhà tôi và tỏ ra rất hào hứng. Hắn vào đề ngay, 

“ Hội Việt Mỹ đang “sale” sách. Có vài cuốn tự điển bỏ túi đã lắm. Tao thấy mấy tiệm trên đường Ngô Quyền cũng có nữa, mày ra mua ngay một cuốn đi. Đừng để trễ uổng lắm Thành Xì ơi.”

Tôi quý những lời khuyên như vậy và nhất là từ Tài Râu, một đứa bạn tốt, ham học hỏi và có lý tưởng. Tôi quyết định nghe lời khuyên của nó. Tôi mở hết tất cả các quyển sách đặc biệt mà tôi đã giấu tiền trong đó. Đếm đi đếm lại, tôi có được khoảng 535 đồng. Đây là số tiền tôi không chi tiêu gì gì đó từ khi tôi từ Bảo Lộc về nhà. Má tôi cho một ít, chị tôi nhét vào túi tôi một ít. Nếu tôi không cất giấu kỹ lưỡng, chắc thằng em xì ke của tôi đã chộp mất rồi. Bộ dây đàn ny lon trên cây đàn guitar yêu quý cũa tôi đã bị nó tháo mất cách đó mấy ngày rồi còn gì. Tôi đang mong có đủ tiền để mua lại một bộ dây khác. Chừng nào tôi có thêm vài khoản tiền để mua lại bộ dây mới thì tôi không rõ nhưng tôi tin lời Tài Râu rằng sách bán sale không có bao lâu đâu. Tôi quyết định đi mua cuốn tự điển với số tiền tôi đang có. 

 

   Trưa nắng nóng tháng 5 hôm đó khá gay gắt. Tôi đạp xe đến hai tiệm sách liền kề trên đường Ngô Quyền. Tiệm Đức Trí hôm đó đóng cửa. Tiệm sách Văn Nhiều có khá nhiều sách ngoại văn. Trên tủ kiếng đầu tiên, có hai cuốn tự điển khổ bỏ túi có niêm yết giá. Quyển bìa mầu đỏ “The New Merriam- Webster Pocket Dictionary” giá 500đ. Tôi tự hỏi,

“Ta có thể tìm ra một quyển hay hơn, đẹp rẻ hơn không?”

 

 

 

Dắt xe đạp qua năm căn phố trên đường Ngô Quyền, tôi nhận ra một quyển tự điển tương tự, nhưng cái bìa màu đen “The Webster Pocket Dictionary” giá 550đ.     

  

Chẳng hiểu mô tê gì về việc làm sao để chọn một quyển sách tốt hơn, tôi đã mở quyển màu đen để tra một từ đơn giản như “butterfly”. Với hình in đủ màu sắc, con bướm trông rất ấn tượng. Nhiều từ khác nữa cũng có hình màu minh hoạ. Tôi nhận ra sự khác biệt của 2 quyển và tôi cũng nhận ra ngay tôi không có đủ tiền để mua cuốn bìa màu đen đó. Biết rằng có thể bị ai đó phổng tay trên cho nên tôi đã xin người thủ quỹ cho tôi đặt cọc một khoản tiền trước. 

   “Thế em chọn mua quyển nào?” người bán sách hỏi tôi.

   “Dạ em cũng chưa quyết định xem nên chọn cuốn nào nữa.” tôi đáp lời.

   “Còn hai cuốn này thôi đó nghen. Em nhanh tay lên.”chị ta mỉm cười với tôi.

   “Em sẽ trở lại ngay.” 

   Tôi đáp nhanh để kịp phóng lên xe đạp về. 

 

   Cách cái chòi lá nhỏ ngay đầu hẻm khoảng 20 mét, tôi dừng xe vào sát lề đường Tự Đức. Từ đây tôi có thể nhìn thấy cái mặt sau của cái chòi của mẹ tôi. Tôi hình dung ra lúc ấy mẹ tôi đang dọn cơm. Tôi hình dung ra các món thức ăn bà nấu ở cái bếp che tạm bợ bằng đủ thứ loại vật liệu dễ cháy. Tôi hình dung ra cái tủ kính nhỏ vừa được dùng để đựng thuốc lá phía ngăn trên và đựng tiền trong cái hộc tủ nhỏ ở dưới. Tôi nhớ lúc nào cái hộc tủ cũng được mẹ tôi khoá lại sau khi nhận tiền hoặc thối tiền cho khách. 

 

Cái chòi lá đã được mẹ tôi tự dựng lên, ọp ẹp, chắp vá. Tự tay bà kê cái chỗ để nằm bằng miếng ván ép bà mua của mấy người bán đạp xe ba gác bán dạo. Cái sàn nước bằng các miếng ván cũ được kê trên các khúc cây tràm vụn của mấy ông làm thợ hồ bán để làm củi chụm. Hai cái bàn nhựa thấp với năm ba cái ghế cũ kỹ cũng do các người gánh ve chai bán dạo mang đến bán cho bà. Với những thứ như vậy, mẹ tôi bán cà phê- suốt ngày, một ít đồ tạp hoá, một ít đồ gia vị, nước đá cục, đá bọc, kem chuối và bất cứ thứ gì bà tự tạo ra được hàng ngày. Nhưng tôi biết rất rõ số tiền đó có một hệ số còn cao hơn môn Lâm Nghiệp của tôi- hệ số 6. Tôi biết rất rõ nỗi vất vả nhọc nhằn từng ngày, từng giây phút của mẹ tôi để có số tiền mà tôi đã nhận được trong ba năm học trên Bảo Lộc. 

   Tôi bỗng tự dưng trào nước mắt. Tôi không muốn dụi các giọt nước mắt nóng hổi, trong cái nắng nóng như bốc lửa. Tôi chỉ muốn có thêm 15 đồng để mua cái quyển tự điển có hình màu minh hoạ, có cái bìa màu đen mà tôi ưa thích hơn. Nhưng tôi sẽ có thể làm mất đi 150 phút hoặc có khi là 15 ngày làm việc vất vả của mẹ tôi. Tôi sắp có được cái tôi thích, nhưng tôi cũng sắp làm mất đi một nụ cười hay ít ra là cái vẻ mặt bình thường của mẹ tôi- điều mà từ lâu nay tôi không muốn nhìn thấy một chút nào cả. 

   Tôi tự trách mình đã không làm ra được một xu nhỏ nào cho nhu cầu của bản thân mình. Mẹ tôi không cần biết hai cuốn tự điển đó khác nhau ra sao. Bà không thể hình dung niềm vui đơn giản tôi sắp có được. Nhưng mẹ tôi, với một nét nhăn nhỏ- có thể là rất nhỏ- sẽ phải mở cái khoá nhỏ, đếm tiền lẻ để đưa cho tôi 15 đồng- một khoản tiền rất nhỏ- tôi sắp xin thêm. Tôi biết chắc đó là điều tôi có thể tránh đi được. Tôi không chắc là tôi có tránh phải bị đi lính vì thi rớt đại học hay không. Tôi không chắc rằng từ ngày hôm ấy cho đến ngày mẹ tôi mất đi, tôi còn có bao nhiêu lần tránh gây cho mẹ tôi những nếp nhăn lớn nhỏ trên trán, những phiền muộn lo toan vì tôi. Tôi không thể chắc rằng tôi có thể báo hiếu, có thể chăm sóc, có thể tạo cho mẹ tôi những nụ cười, những niềm vui hay không. Nhưng, rất chắc chắn,  tôi tránh được một nét nhăn mặt của mẹ tôi khi tôi không hỏi xin 15 đồng nào cả. 

    Người bán sách của tiệm Văn Nhiều chắc đã ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi- mồ hôi nhuể nhại, hai mắt đỏ hoe, đạp xe trở lại rất nhanh để mua ngay quyển tự điển màu đỏ. 

 

    Bạn bè của tôi ngạc nhiên khi thấy tôi- thằng dốt tiếng Anh- lúc nào cũng để chưng quyển tự điển ấy trên đầu giường hay cái tủ nhỏ đựng vật dụng. Tài Râu thì hài lòng khi tôi nghe lời hắn. Mẹ tôi từ hôm ấy và sau nhiều nhiều năm tháng nữa không có điều gì để phiền lòng về tôi. Còn tôi thì còn nhớ mãi cái cảm giác tiếc rẻ vì đã không mua được quyển tự điển bìa màu đen có hình minh họa. Dĩ nhiên, tôi chứng minh rõ ràng như toán học tại sao tôi mua cuốn tự điển bìa màu đỏ với giá 500 đồng.

 

     Sau 43 năm, đến nay nhiều học trò của tôi ngạc nhiên khi thấy tôi rất ưa tra từ với quyển tự điển ấy. Nó chỉ chứa 5.000 từ tiếng Anh thông dụng nhưng theo tôi nó còn ẩn chứa một cụm từ tiếng Việt rất thông dụng: “Tình thương dành cho Mẹ.”

 

                                                             Rạch Giá Sep 20, 2018

                                                               Lương Ngọc Thành

LuongNgocThanh_dictionary.jpg
LuongNgocThanh_duongNgoQuyen.jpg

NGÀY CUỐI CÙNG CỦA LONG KH’MER.

 

  Ngày cuối cùng trong đời, Long Kh’mer đã đến nhà gia đình nuôi của tôi- 20 A Võ Thị Sáu- quận nhất- Sài Gòn- với nhiều điều đặc biệt, làm nhiều điều đáng nhớ như cách nó sống cuộc đời nó cho đến tận cái ngày cuối cùng rất đặc biệt ấy- 19- 8- 1984, ngày sinh nhật của tôi.

   Sau khi đi cúng 100 ngày cho Long Kh’mer trên Bảo Lộc trở về, tôi ghé lại Sài Gòn để thăm gia đình nuôi của tôi. Lần nào cũng vậy, mọi người trong nhà nghênh đón tôi. Tôi đã gặp ngay thằng út Hải hoặc để uống cà phê tại nhà hay rủ nó ra chợ Đa Kao để lai rai. Thằng Hải- thân với tôi nhất nhà- kể lại cái ngày cuối cùng của Long. Nhắm nháp chút ít cà phê sữa, mồi một điếu thuốc Con Mèo, nó bắt đầu bằng một nhận xét về Long Kh’mer,

“Anh Long đẹp trai, duyên dáng, nhậu rất cừ và ảnh rất thương anh , thương gia đình mình.”

Hải nhớ từng chi tiết nhỏ nhặt trong ngày hôm ấy như một đạo diển trình bày cái đoạn phim quan trọng, hấp dẩn nhất vậy.

   “Ảnh nhấn chuông cửa trong khi cả nhà đang ngủ trưa, hình như hơn hai giờ gì đó...Em còn ngáy ngủ nhưng vội xuống lầu để mở cửa cho ảnh. Anh Long mặc cái áo lính cũ kĩ và rộng thùng thình- field jacket-, trên đầu có dảy băng trắng mà ảnh nói là ảnh vừa bị thương bên Kampuchia. Em nghe thấy có mùi bia- chuyện bình thường- nhưng em nhận ra anh Long hôm ấy rất khác thường.

Rít một hơi thật dài, liếc nhìn tôi, nhả hết khói thuốc ra xong, thằng Hải chậm rãi kể tiếp,

“Ảnh kể huyên thuyên vài chuyện mà em không hiểu nhưng ảnh luôn luôn nhắc về anh. Khi thấy má vừa trên lầu bước xuống, ảnh vội đến đỡ tay má. Anh Long Kh’mer dành đốt nhang bàn thờ Chúa và em mới nghe ảnh kêu “má” thật tự nhiên.”

   Hải ứa nước mắt,

Ảnh nói với má,“Để con đốt nhang cho má, nghen má!

Ba cũng nhận ra là nhà có khách quen nên bước ra tiếp chuyện. Ảnh kêu ba bằng “ba”ngọt ngào cứ y như thể ảnh là hiện thân của anh vậy.”

   Tôi ngắt lời Hải,

“Hải thấy có phải anh Long Kh’mer xỉn quá phải không?”

    Hải lắc đầu lia lịa, phân bua rằng,

“Mọi thứ đều rất bình thường trừ cái chuyện ảnh nói ảnh mới đi bộ đội bên Kampuchia về và ảnh nằng nặc kêu em nhận cái áo khoát đó để làm kỷ niệm.

Hải nhờ thằng cháu trai ra cái quán ngay bên nhà kêu giùm nó vài chai bia 333 mà không cần hỏi ý kiến tôi. Nó nheo mắt nhìn tôi,

  “Anh Thành biết không? Ảnh muốn mua cho ba một chai bia khi anh hai Tâm mới vừa đi đâu về. Anh Long nhất định đi ra cái quán trước nhà gần chổ đình thánh Trần mua bia bất chấp việc anh Tâm dành đi mua. Ảnh thiếu điều muốn cải lộn với anh Tâm,”

Hải lập lại lời của Long Kh’mer,

“Anh phải để em đi mua bia cho ba chứ. Em là con mà. Em nhỏ hơn anh...nên để em đi mua. À, em mua cho anh luôn nghen, anh hai?”

Thấy nó thật sự xúc động khi nhắc tới những chi tiết nhỏ như vậy, tôi cứ giử yên lặng ngồi chờ nó kể tiếp,

“Sau đó ảnh rủ anh Tâm và em nhậu. Ảnh nhờ em đi kêu 10 chai bia và dành trả tiền trước.”

    Tôi thấy nhớ Long Kh’mer hơn bao giờ hết. Tôi chỉ vừa quen biết nó trong những ngày tôi theo thằng Khuê lên Bảo Lộc, giửa tháng 5 năm 1975, để mong kiếm sống trên miếng đất rẫy của cậu nó đã bỏ hoang khi Bảo Lộc thất thủ cuối tháng 3 năm 1975.  

    Long Kh’mer vừa là hướng đạo sinh vừa là phật tử vừa là tay anh chị. Nó đẹp trai, hai mắt rất to hấp dẫn. Nó có tướng rất thư sinh, nhanh nhẩu và rất đa tài. Nó vẽ tranh như một họa sĩ có tài ẩn danh. Cha Điền ở giáo xứ Bảo Lộc rất mê bức tranh nó vẽ chúa Jesus- nhất là cái hàng chữ bay bướm ngay góc dưới bên phải- “Đại Ca Jesus”. Thằng Phước Mọi luôn kể cho tôi nghe bức tranh “Ơn cha nghĩa mẹ” mà Long đã tặng nó. Ba nuôi của tôi thì quý bức tranh sơn dầu “Ngũ hạc vượt trùng dương” do chính tay nó mang từ Bảo Lộc xuống SG để tặng cho gia đình, mà tôi còn gìn giử đến ngày nay ở Rạch Gía.

   Mỗi khi buồn, nó sáng tác như một nhà thơ thứ thiệt, nét chữ thật lã lướt, các tiêu đề thật độc đáo. Những bạn thơ của nó, Thành Đại Khái, Khuê Bầu, Hào Cận, rất quý tài làm thơ của nó. Nhưng khi hứng khởi, nó có thể phóng dao phóng búa như một tay chuyên nghiệp trong rạp xiếc. Nó ôm đàn guitar, hát như một nghệ sĩ. “Bài ca học trò” và “Người yêu tôi bệnh” là hai bài ca nó rất thường bắt đầu ngay khi ôm cây đàn lên. Mãi đến sau này, khi được yêu cầu hát trong một tiệc rượu nào đó, nhớ đến nó, tôi chỉ hát bài “Người yêu tôi bệnh” mà thôi.  

   Chính nó đã dắt tôi đến ngày tất niên của nhóm Du Ca Đất Việt, cuối năm 1975,  nơi tôi đã kết bạn với một vài người tài năng. Xuống Rạch Gía để dự đám cưới của tôi, trong ngày nhóm họ, nó đã làm cho mọi người thán phục cái tài trang trí đám cưới của nó bằng giấy thủ công. Nó xếp giấy màu, cắt bằng kéo nhỏ, vừa xong, nó thoa hồ dán lên tường cái giỏ hoa, cái trống đồng và chữ song hỷ nhanh như một thay thợ thủ công chuyên nghiệp.

    Tôi thấy có cái gì đấy rất giá trị trong cách Long đối với ba má tôi, và với cả mọi người trong nhà này. Có vẻ nó muốn đóng thế vai trò của tôi khi tôi đã có gia đình ở dưới tận Rạch Giá. Chúng tôi có một điểm giống nhau- nó cưới con gái của bà mẹ nuôi của nó- Như Quỳnh. Tôi đã phải bỏ học một ngày để lên bưng mâm trầu trong ngày đám hỏi của nó- cuối năm 1976.  Biết tôi yêu thương con gái của bà mẹ nuôi của tôi, nó rất mừng và cũng rất lo cho tôi.

    Lần đầu tiên tôi đưa Long đến nhà khoảng giửa năm 1976, bà mẹ nuôi của tôi đã đồng ý cho Long ở lại với tôi đêm hôm đó. Không lâu sau, bà đã nhắc lại chuyện đó với tôi,

“Nhìn vẻ mặt của con, má biết ngay con thương quý thằng Long như thế nào liền. Lúc đó nhà mình đang chứa chấp mấy người vượt biên, còn má thì đang bị cảm cúm nữa… nhưng má vì con nên cho thằng Long ngủ lại với con cho con vui.”

 Sau 7 năm với rất nhiều biến cố, thay đổi, tôi đã viết thư cho vị hôn thê của tôi- Như Ngọc- và cả bà mẹ nuôi để từ hôn. Dù biết chuyện đó, Long Kh’mer vẫn cứ ghé lại căn nhà 20 A Võ thị Sáu để thăm hỏi như những lần trước đây, như thể tôi vẫn còn là người trong gia đình đó vậy.

                        

                                                (Long Kh’mer và tôi trên đèo Prenn năm 1977)

                                                 Có lẻ nó đã quá thèm được sống trong cái gia đình                                                   như thế này- có ba mẹ, anh em, có thương yêu,                                                        hiểu biết và những cái mà không thể tìm thấy ở                                                      bất cứ đâu. Khi có niềm vui từ ai đấy- dù thân                                                          thiết hay mới làm quen, mẹ hay chị em gái của                                                        một thằng bạn nào đấy, bửa cơm đầm ấm của gia                                                    đình một ai đấy, nó thường nói với tôi,

“Tao đi vay mượn hạnh phúc của người ta.”

Trên Bảo Lộc, tôi có đến chơi và ngủ lại tại nhà nó vài lần. Từ lâu nay, ba nó nát rượu. Anh Ba của nó ngông nghênh yếm thế chán đời. Khi họ gây gổ to tiếng với nhau, Long rất buồn bả tìm nơi lánh mặt. Nó giao du rộng, đủ hạng thanh niên, mọi lứa tuổi. Có nhiều thiếu nữ- ở nhiều nơi nó đi qua- mến một, yêu thích nó. Nó rất nỗi tiếng khi về Cần Thơ chơi. Minh Ngọc- một cô gái trẻ- con chủ tiệm vàng ở chợ Cái Khế- đã yêu nó vô cùng.

  Xuống Rạch Giá thăm tôi, tại khu nhà của Công Ty tôi đang làm việc, khi tôi bận bịu chuẩn bị cho kỳ “Hội diễn văn nghệ toàn tỉnh- lần đầu tiên năm 1981”, Long đã làm cho hai nữ sinh viên thực tập phải đắm đuối, ghen tương lẩn nhau. Những nhạc công trong ban nhạc, những cán bộ trong công ty tôi phải thán phục nó, vì muốn đưa tôi lên Bảo Lộc chơi nó đã ở lại gần 10 ngày để chờ tôi trình diễn xong và xin nghỉ phép năm.

    Nhân dịp xuống Cần Thơ, nó còn đưa Quỳnh, vợ nó và Cường, đang có tình ý với nhau, xuống Rạch Giá thăm tôi khi tôi đang làm gia sư và rất khó lòng đón tiếp 3 người khách như vậy. Nhiều người biết tôi đều thắc mắc đều nghi ngờ. Họ hỏi thẳng tôi,

  “Chắc là mấy người đó xuống đây tìm đường vượt biên nhưng mượn cớ đi thăm bạn phải không!?”

 

    Đưa chai bia lên uống hết gần phân nửa, tôi thúc giục Hải kể tiếp. Mồi một điếu thuốc khác, cầm chai bia ướp lạnh cụng vào chai bia tôi vừa mới cầm lên, tu một ngụm bia, chùi mép xong, Hải mới bắt đầu vào đoạn cuối của câu chuyện,

“Anh Tâm và em uống với ảnh tại nhà vì má không cho ảnh đi ra ngoài với cái đầu băng trắng như thế. Anh còn nhớ cái lần ảnh đi với tụi mình uống bia hơi ở Tao Đàn không...ảnh xỉn quá...bị má rầy. Anh nhớ không?

Mỉm cười vui vẻ, khui thêm hai chai bia nữa cho tôi và nó, tôi cứ im lặng để nghe nó kể tiếp,

“Điều làm cho em nhớ nhất là ảnh luôn nhắc đến anh. Đặc biệt là ảnh đã nhìn thấy bức trang sơn dầu ảnh cưới của ba má mà anh đã treo trong phòng ngủ của anh. Anh Long như muốn trăn trối điều gì chăng khi mà ảnh cứ nói, “Lên Bảo Lộc chơi với anh đi, em sẽ hiểu được dân Nông Lâm Súc tụi anh.”

Nghiêng cái đầu tóc quăn dài tới bả vai, Hải hỏi tôi,

“Anh Long đâu có học Nông Lâm Súc phải không anh? Em nhớ ... anh kể với em là ảnh học tư thục, sau anh một năm học. Phải không anh?

Tôi đáp ngay,

“Đúng vậy nhưng nó chơi thân với nhiều thằng học trò NLS lắm.”

 Tôi ngậm ngùi hỏi,

“Anh Long có kể gì về chuyện hồi hai tháng trước bị một thằng phế binh đánh cái nạng bằng nhôm trên đầu của nó không?”

 Hải trợn mắt ngạc nhiên hỏi lại tôi,

“Sao vậy anh? Em đâu có nghe ảnh kể gì đâu!”

Tôi kể vắn tắc,

“Một chiều tối, từ nhà may mà hai vợ chồng nó mới gầy dựng nên, nó thằng Kiệt Chùa ra khu chợ cũ uống sữa đậu. Một thằng phế binh, ngồi cạnh bên hỏi mồi thuốc. Thay vì quay nhìn lại và đưa điếu thuốc cho thằng đi cái nạng đó, nó chìa ra cái hộp quẹt. Thằng côn đồ kia cứ cho rằng nó bị Long Kh’mer làm nhục. Nó sinh sự và đập mạnh cái nạng nhôm lên đầu của Long Kh’mer.”

Tôi để ý cái chi tiết “cái băng trắng”,

“Hải có hỏi anh Long tại sao ảnh có cái băng trắng trên đầu không?”

Thằng Hốt Dải- nick name của nó, gật gù,

“Thì ảnh cứ nói là ảnh bị thương trong khi đánh giặc bên Campuchia. Anh Tâm cũng không tin chuyện đó.”

   Tôi tự hỏi tại sao Long phải nói dối như thế, bịa ra cái chuyện hơi khó tin như thế. Tôi còn có một cách để tự giải thích thôi.

    Trước đó 3 ngày, trong chuyến xuống SG nhận một thùng quà từ gia đình bên Mỹ,  Như Quỳnh dắt Long xuống Sài Gòn tìm đến nhà thằng Quân Què bên Bình Thạnh và tụi nó ở lại đây với Quân- một người trong những thằng bạn tử tế, tài năng và quý mến nó. Sáng hôm sau, Quỳnh đưa Long đến bệnh viện Chợ Rẫy để tái khám vết thương theo giấy hẹn của bác sĩ. Sau 5 tuần giử gìn nghiêm ngặt không đụng đến chất kích thích- rượu bia, cà phê, vết rạn nứt trên đầu- do cú đánh bằng cái nạng nhôm lên đầu nó- của Long có tiến triển rất khá. Nó không còn bị nhức đầu, không còn cảm thấy chóng mặt hay buồn nôn nữa. Các y sĩ băng bó cái đầu nó rất khéo. Long Kh’mer hứa làm theo lời căn dặn của các bác sĩ điều trị rất đàng hoàng.

    Nhưng bất ngờ, sau khi biết vợ trở lên lại Bảo Lộc gấp, Long nghĩ ngay đến Cường, đang là nhân tình của nàng. Mất niền tin rằng có thể được hồi phục, có được hạnh phúc bên vợ và con gái, Long Kh’mer đã ngông nghênh, tuyệt vong nghĩ đến một cách để quyên sinh.

    Nó nói với Quân Què rằng nó đi thân gia đình một người bạn thân bên Đa Kao- trên đường Võ Thị Sáu, nhưng bắt thằng Quân dừng xe đạp cho nó xuống xe tại Lăng Cha Cả, chợ Bà Chiểu. Quân không thể cưỡng lại ý muốn của Long nỗi. Nó nằng nặc bắt thằng Quân phải đạp xe về,

“Mày yên chí đi mà. Tao đi thăm nhà bà già nuôi của thằng Thành Xì. Tao ổn mà...”

Sau này Quân Què rất hối hận vì đã để Long Kh’mer đi một mình hôm đó.

Có lẻ Long Kh’mer đã một mình uống vài chai bia trước khi tìm đến nhà tôi để thăm gia đình tôi, để uống thêm nhiều nữa và rồi để mong cái vết rạn nức trên hộp sọ của nó xuất huyết ra để đưa nó đi... Mùi bia và cái cách của nó khiến thằng Hải “lõi đời”tin chắc như thế.

   Đến sập tối, má tôi từ trên lầu xuống dưới nhà thăm chừng và bà biểu Long Kh’mer ăn cơm với cả nhà và ngủ lại đây. Má tôi trìu mến nói với nó,

“Con cứ ở đây như thằng Thành hồi lúc trước vậy. Con xỉn quá rồi. Ráng ăn một chén cơm đi rồi lên lầu ngủ với thằng Hải nghen con.”

 Từ ngày mất mẹ, Long Kh’mer thương mẹ nuôi của tôi hơn. Nó thật dể thương khi trả lời rằng,

“Dạ con cám ơn má. Để con rủ thằng Hải và Như Ngọc ra chợ Đa Kao ăn cơm Tàu với con. Con có chuyện muốn nói với hai đứa nó nữa nghen má. Má cho phép con nghen má!” 

  Như Ngọc phải chiều lòng Long Kh’mre vì nó nhắc lại lời mời hoài và thúc giục cô thay đồ mãi. Hai năm trước đó, theo tôi đi Đà Lạt chơi một tuần lễ, đã gặp Long, Như Ngọc không còn e ngại gì vì Long đã quá thân thiết với hai đứa tôi rồi. Cô ấy cũng rất xúc động khi cứ nghe Long nhắc về cái hình của ông bà già mà tôi treo ở góc phòng dưới Rạch Gía. Hải không cần chuẩn bị gì khi mà Như Ngọc trang điểm nhẹ nhàng để không nghe Long nhắc thêm một lần nữa.

  Ra khỏi nhà khoảng 7 giờ rưỡi, Long khoát vai Ngọc và Hải đi bộ ra góc đường. Nó vui vẻ huyên thuyên kể đủ chuyện như đó là lần cuối cùng nó được nói vậy.

   Tại quán cơm Diệu Ký- ngay góc Trần Quang Khải- dưới Cầu Bông- Long Kh’mer gọi thức ăn, gắp thức ăn cho Ngọc, ép cô ta ăn, mời Hải uống thêm hai chai bia nữa. Long Kh’mer đã lần cuối cùng mời ai đi ăn, lần cuối cùng kể về tôi và lần cuối cùng được uống bia với người nó thích.

    Hải không thể dành trả tiền bửa ăn được mà cũng không thuyết phục được Long Kh’mer trở vô nhà ngủ hôm nó- như nó đã từng ngủ lại đó với tôi vài năm trước mỗi khi ghé lại trường để thăm tôi. Trong lúc chia tay, Long nằn nặc bảo Hải nhận cái áo khoác của lính ngụy cũ sờn mà Long đang mặc. Mặc dù gọi xích lô cho Long Kh’mer về bên đường Bùi Hữu Nghĩa- qua Cầu Sắt- nhưng thằng Hải không an tâm. Nó hỏi đi hỏi lại,

“Tối nay anh đi đâu nữa? Anh sẽ ngủ ở đâu? Anh có về nhà ngủ không em sẽ chờ cửa nhen?”

Long Kh’mer, như chưa hề có chút men nào trong người,

“Anh qua bên cầu Sắt nè. Anh ghé thăm anh Tư, trên đường Bùi Hữu Nghĩa và chắc anh sẽ “ngủ” lại đó.”   

Thằng Hải muốn nghe Long Kh’mer xác nhận lại,

“Nhưng nhà của ai mà anh ghé ngủ vậy?” 

Long vui vẻ thản nhiên trả lời mặc dù hơi chếnh choáng,

“Anh rễ của anh. Ảnh với chị Tư chia tay mấy năm nay rồi.”

Thằng Hải không hiểu nổi Long Kh’mer lúc đó, cái lý do lạ lùng đó. Như Ngọc buộc lòng phải lên tiếng,

“Nếu anh không về, thế nào má cũng rầy tụi em cho mà xem. Má cứ nói má coi anh cũng như anh Thành vậy thôi. Tụi em biết nói với mà làm sao đây?”

Long Kh’mer chống chế, nói đi nói lại nhiều lần,

“Về nói với má đừng có lo cho anh. Anh biết anh sẽ ổn mà.”

Hai chị em Ngọc và Hải không thể nào dằn co mãi với Long bên lề đường được nữa, bên cạnh chiếc xích lô đang chờ Long bước lên. Họ đứng chờ chiếc xe xích lô quẹo vô hướng chợ Đa Kao xong mới rủ nhau đi về nhà.

     Khác hẳn với gì Long Kh’mer nói, nó có triệu chứng không ổn- vật vả- toát mồ hôi lạnh- lúc gần sáng hôm sau trên căn gác ọp ẹp của nhà anh rể. Nó hôn mê xâu trên đường đi đến bệnh viện Bình Dân và trút hơi thở cuối cùng khi không có một ai thân thích bên cạnh nó.

      Long Kh’mer ơi! Mầy đang ở đâu, có ổn không? Ai cũng nhắc mầy hết đó. Mầy có biết không?

                                                                     Rạch Giá, Sep 19- 2011

                                                            (Nhân ngày giỗ của Long Kh’mer)

                                                                         Lương Ngọc Thành

LuongNgocThanh_LongKhmer.jpg
bottom of page