


Truyện dài LƯƠNG NGỌC THÀNH:
BA NĂM
https://drive.google.com/drive/folders/1kHtnVNGYgdGrxLvT4rHu_vJUxfv9cKfv?usp=sharing_eil&ts=68269612
CÁI TÊN THÀNH XÌ.
Trường tôi có những điều khiến nhiều trường khác trên thế giới này phải chào thua và tôi, một học trò bình thường, có cái nick name mà ai nấy đều phải thích thú, dễ nhớ, thắc mắc và ấn tượng, "Thành Xì."
Dẫu cho không thật sự hài lòng với cái nick name này cho lắm, tôi cũng như bất cứ ai trong trường, kể cả ông hiệu trưởng đáng kính, bác Nhất hiền lành, dù không muốn, dù không thích, cũng không thể nào chối bỏ hay hoán cải cái tên mà chỉ có dân NLS Bảo Lộc chúng tôi mới có mà thôi. Cứ nghĩ mà xem? Đâu có ai tự dưng nặn óc, suy nghĩ với một sự quan tâm nhất định cho cái tên của ta đâu nhỉ? Hồi tôi còn bé, bố mẹ tôi phải vâng theo ý của bà nội tôi để gọi tôi là "Tèo". Bà đã thương yêu thằng cháu trai đầu lòng lắm đấy chứ. Ông nội tôi, người ưa nói vần nói điệu, ủng hộ ngay,
"Tên xấu xí làm cho ông bà không để ý."
"Thằng Tèo rồi tới thằng Tài.
Đẻ con trai có tiền xài hoài."
Có ai nói tên Tèo xấu chưa nhỉ? Nghe ai gọi tên "Tèo", tôi nghĩ ngay đến những người trong giòng họ nội ngoại ở Tham Lương, Bà Điểm hoặc vài người hàng xóm ở Cần Thơ hồi tôi còn bé.
Vào Trung học Phan Thanh Giản, tôi đã không có tên gì nhưng vừa đặt chân vào trường NLS Cần Thơ, tôi có một nhóm anh em kết nghĩa, gồm những chàng trai cứng đầu, quyết chí lên Bảo Lộc. Người đầu sỏ, Lý Thái Lâm, là Hai Khùng. Tôi đứng thứ 6- Sáu Ngố. Nhưng cái tên này ít ai biết và không có gây một ấn tượng gì cả. Tôi thậm chí nhiều lúc đã quên bẳng cái tên đó. Nhưng ở đại học tôi có một tên còn được gọi cho đến bây giờ, Lương Cộ. Rõ ràng lớp phó Lý Xuân Tha- MS-71 đã đặt tên này cho tôi. Cứ mỗi khi lớp tôi đi lao động, ngoại khóa, công tác hay thực tập, việc gì lớn nhỏ nặng nhọc đều được tôi gánh vác. Đệm hát một bài hát nào mới cả lớp gọi tôi. Làm một bài bích báo, ban báo chí réo gọi tôi. Nửa đêm đói bụng cồn cào, tụi bạn cùng phòng lôi tôi dậy. Mỗi khi tới phiên phòng tôi trực nấu cơm cho ký túc xá, tôi dĩ nhiên làm bếp trưởng. Khi không đủ tiền trả cho chầu cà phê nào đó, tôi chắc phải đương đầu với chủ quán thôi. Những bó củi, giỏ đồ đá banh, bao gạo nặng chịch được lớp phó Lý Xuân Tha giao cho tôi "cõng". Khi có những mâm thức ăn thừa, hơi hôi thiu hắn vừa mỉm cười vừa ra hiệu cho tôi "tém sạch."
Vì Long Kh'mer thương mến, coi tôi như một hướng đạo sinh. Nó đã đặt tên tôi là "Gấu Rừng đảm đang." Thấy tôi chu toàn công việc những hè lên ở tại lò nem Má Chánh trên Bảo Lộc, Long Kh'mer còn nói,
"Trên đây ai cũng thương nhắc tên mầy hoài đó thằng quỷ xứ. Mầy biết ba tao nói về mầy thế nào không hả?"
Một hôm ông nói với tao, "Thằng Thành Xì có tướng lắm đó."
Tao hỏi ngay,
"Tướng gì vậy ba?"
Ổng tỉnh bơ nói ngay,
"Tướng cướp."
Cả hai đứa tôi cười sặc sụa vì tôi chưa hề làm trái khuấy một chuyện gì và vì tôi quá lành tính lành nết hay "sinh viên chân yếu tay mềm" như theo cách nói của má Chánh.
Rất nhiều người đã thắc mắc. Rất nhiều giả thuyết giai thoại đã được họ đặt ra. Rất nhiều lời đàm tiếu về cái tên Thành Xì. Họ kê ra nhiều cái "xì", xì ke, Xì be, xì dách, xì thẩu, xì trum, xì tin, xì po hoặc thậm chí là xì xằng. Có lần tôi nghe ai đó giả định "xì" là xì gà. Có kẻ khác cho rằng tôi ưa ăn xì dầu mới có cái tên này. Những ai ở miền tây, người ưa lấy cái thứ tự để ráp vào tên tục như: Hai Đoàn, Sáu Nghĩa, Út Vinh, rất ấn tượng khi nghe giới thiệu tên tôi. Các vị nữ nhi thì mỉm cười và tôi chẳng hiểu chữ "xì" ấy tạo nên điều gì trong cái cười của họ.
Vậy nên tôi có quyền tự hào, khoái chí khi có nhiều người quan tâm đến cái tên của tôi.
Mới lên Bảo Lộc được một ngày, chúng tôi đã được phong danh là "Băng Cần Thơ." Tuần sau đó, khi Tâm Dê thấy Phúc Lùn mừng vui đến đỏ mặt khi nhận bất cứ bức thơ nào, nó phát biểu,
"Đúng là Băng Cần ‘Thơ' rồi."
Có lẽ, trước khi chết, tôi sẽ căn dặn vợ con hay tôi tự tay viết vào di chúc,
"Để bạn tôi dễ tìm thăm ,
mình và hai con nhớ khắc trên mộ bia hai chữ Thành Xì."
Bà Bảng chủ nhà cho chúng tôi ăn ngon, đúng giờ, thức ăn bốc khói nghi ngút. Tuổi dậy thì và việc chuyển lên ở một nơi có độ cao, nhiệt độ khá lý tưởng đã khiến chúng tôi thay đổi rất nhanh. Tôi lên cân hàng tuần. Bữa ăn nào cũng được chúng tôi thanh toán thật nhanh. Các thứ bát, đĩa được chúng tôi "liếm" sạch bóng. Sau bữa ăn, cái bụng chúng tôi chỉ được đầy hơn phân nửa, nhất là tôi, người lên cân nhiều nhất. Đầu năm học tôi có 45 ký lô- chiều cao 1m 65. Tháng thứ ba sau khi nhập học, tôi cân được 52 ký- chiều cao 1m 67. Không lên được Bảo Lộc học, chắc tôi mãi còn là anh chàng cao kều.
Thành Xì tại Úc 2018: Thành Xì Po
Sau hai tháng đầu đói rét, chúng tôi có một vị cứu tinh. Trọng Cọp cho biết bác nó có một miếng vườn bỏ hoang. Với xà bất, túi bao, dao, mác trong tay, chúng tôi được nó dẫn đi đến tận nơi để "khai thác." Như chuột sa hủ nếp, chúng tôi chặt quày chuối này, nhổ lên vài gốc khoai mì ở nơi kia nhưng cái thứ khoái khẩu nhất là mấy giồng khoai lang. Như một mỏ lộ thiên, xới nhẹ lên chúng tôi nhận ra ngay các củ khoai tím. Chỗ nào có một vài lá mầm nhú lên y như là phía dưới ấy là một củ khoai tròn to như một cái bát ăn cơm. Thay vì cùng tụi nó đào bới, tôi kéo nhẹ lên các củ khoai như thể đó là chiến lợi phẩm của riêng tôi.
Ngay tối đó, chúng tôi nấu một nồi khoai lang to tướng. Khi các anh chàng khác chọn lựa củ này, củ nọ, tôi chỉ nhắm vào củ nào to tròn như trái vú sữa, rất nhiều tinh bột. Sau bữa ăn, tôi là người đầu tiên phát ra cái âm thanh vừa gây buồn cười vừa gây ngạc nhiên. Tôi cứ nhằm cái mầm non để kéo lên củ to tròn khi đi ăn trộm và tôi cũng trung thành nhằm vào củ to tròn đó mà tọng vào mồm hằng đêm. Suốt một năm học lớp 10, suốt những đêm dài, cái điệp khúc ấy, cái tiếng xì ấy đã khiến tôi có cái tên độc đáo như thế đấy.
Ngoài cái giai thoại ấy, tôi còn là kẻ không chịu ăn một chút gia vị gì vì sợ khó tiêu hóa. Có thể tôi là người duy nhất trong lớp tôi không uống cà phê- một chất kích thích, theo suy nghĩ của tôi lúc ấy. Trong lớp tôi là tay chơi thể thao đúng điệu, cần cù, chịu tập luyện rất "xì po". Trong đội bóng đá đại diện tỉnh năm 1972 đi dự Đaị Hội Thể Dục Thể Thao Học Sinh tại Phan Rang, khi mà Trần Ngọc Sĩ (TL- 72) làm thủ môn, tôi là tiền đạo. Tôi cũng là người chơi bóng rổ tiến bộ nhất trong băng Cần Thơ của tôi.
Không có trường Bảo Lộc, không có các củ khoai tròn to ấy, chắc không có tôi như ngày nay. Và không có cái tên Thành Xì, tôi chắc phải có cái tên nào khác đấy thôi. Nhưng thú thật, tôi rất yêu thích cái tên của tôi. Nếu cần hiểu thêm điều gì, xin mail cho tôi: thanhxi19855@gmail.com.
Rạch Giá 21- 5- 2012
Thành Xì TL- 71
MỒNG HAI TẾT
Có biết bao nhiêu điều người ta có thể làm trong ngày mồng hai tết mà tôi có thể hình dung ra nhưng họ không thể tưởng tượng nỗi tôi đã làm gì từ 3 giờ sáng ngày mồng hai của năm Nhâm Ngọ 2002.
Có một dạo sau năm 1975, dãy phố ngay góc rẻ xuống Cầu Trắng, Tiệm kính Phú Vinh cũ, đã từng là nhà sách, cửa hàng văn hóa phẩm và là "Cửa hàng ăn uống". Mỗi khi lên Bảo Lộc, đi ngang qua đây, tôi đều ghé mắt nhìn vào dảy phố ấy. Năm 1977, trong cửa hàng có treo một bức tranh sơn dầu đen trắng. Nó đập ngay vào tâm trí tôi và đã khiến tôi luôn ước ao vẽ lại nó trong khỏang 10 năm cho đến lúc tôi tình cờ mua được tập tranh của họa sĩ - một giáo sư giảng dạy về phong cảnh người Nga- Ivan Ivanovich Shishkin (1832 - 1898). Bức tranh gây ấn tượng mạnh mẻ đến mức ngày ngày tôi luôn mong đến lúc vẽ lại cái phong cảnh rừng nỗi tiếng thế giới ấy.
Chính vì thế mà trong một chuyến lên Dalat nhân để kỷ niệm 5 năm ngày cưới 1989, tôi đã đặt mua một khung tranh 2 x 1,2 mét để chuẩn bị cho bức tranh tôi mong muốn sẽ có ngày nào đó chép vẽ lại.
Vào năm 1998, ngay phía trước nhà, tôi mở ra một phòng vẽ quảng cáo như là cách kiếm thêm ít thu nhập, giúp được 2 nhân công và cách tôi tự khẳng định mình. Tôi đã có dịp thiết kế một số kiểu chữ, một số bảng hiệu, neon sign đẹp mắt và làm bảng hiệu mica hộp đèn lần đầu tiên tại Rạch Giá.
Việc dạy học chiếm khá lớn thì giờ của tôi trong năm. Nhưng những học trò của tôi vội vàng nghỉ ngay từ rằm tháng chạp và rồi họ đi học lại khoảng rằm tháng giêng. Họ cứ thoải mái nghỉ còn tôi mất một tháng thu nhập một cách không thoải mái. Tôi có một nhóm học trò thân thiết đến thăm vào ngày mồng 4 tết vài năm liên tiếp. Sau đó, tôi cảm thấy trống trãi, buồn bả ngay từ ngày mồng hai tết.
Trước đó 6 năm, tôi đã từng thuê xe tải sang lấp đất cái mương to phía sau vườn sau khi đã mua 15 mét khối đất ruộng. Có được khoảng đất 18 mét x 40 mét vườn sau nhà, tôi quyết định trồng xoài cát Hòa Lộc. Các cây giống chiết cành mau phát triển và mẹ tôi mau chóng có một niềm vui thật lớn với các bà bạn gần xa, có một vườn xoài thẳng tấp. Có năm tôi chọn việc làm cỏ miếng vườn ngay sáng mồng hai tết và từ chối đi qua Cần Thơ chơi với vài đứa bạn đồng môn Phan Thanh Giản bên ấy.
Năm nào tôi cũng có lời mời của Thi Lùn lên Bảo Lộc, Cậu Doản lên Đà Lạt. Bạn bè mong muốn làm tôi vui nhưng làm sao tôi có thể vui thú gì khi mà tôi chẳng có một khoản để dành ít nhất cho tiền lì xì, tiền vé xe, tiền xăng, và cho khoảng nhỏ nhất để vá xe...? Làm sao tôi có thể thoải mái khi mà lòng tôi nặng nỗi lo mưu sinh, nỗi buồn cho cái cách tôi phải bó tay bó chân ở cái nơi mà cơ hội khá ít ỏi với tôi. Nhìn mẹ tôi ngày càng già đi, con tôi ngày càng lớn lên, tôi ngày càng buồn phiền, lo toan, vẩn vơ, ngày ngày làm những điều tôi phải làm chứ không phải những điều tôi ưa thích.
Ngày 13 tháng 6 năm 2001, mẹ tôi vĩnh viễn ra đi, để lại trong lòng tôi một lổ hỏng thật lớn, một nỗi buồn không thể diển tả được bằng lời và một nỗi đau không có loại thuốc men nào làm có thể làm thuyên giảm được. Cuối năm ấy, tôi mang ra cái khung tranh để ráp lại. Tôi sơn lót miếng ván ép và ráp vào khung. Chiều ngày mùng một, kê khung tranh lên giá vẽ, bày biện các tube sơn dầu, cọ vẽ trên bàn để sáng sớm hôm sau, mồng hai tết, tôi vẽ lại bức tranh tôi đã nhìn thấy trên Bảo Lộc 23 năm trước.
Từ 3 giờ sáng ngày mồng hai, tôi bắt tay vào việc, phóng bức tranh mẩu, 6,5 x 14 cm thành bức trang lớn hơn 30 lần. Tôi chọn tâm điểm là con gấu đứng ngước nhìn lên, mảng sương mù chung quanh là vùng ánh sáng tương phản. Suốt ngày mồng hai tết, tôi chẳng hề có khách hoặc học trò đến thăm. Tôi chẳng hề phải nghỉ tay, không có một phút bận lòng. Tôi đứng trước giá vẽ như một tay thợ chép tranh mải mê việc cho kịp ngày giao cho khách hàng. Tôi quên hết mọi việc xảy ra chung quanh. Tôi chăm chú vào các đường nét rỏ nét nhất, các nhánh cây, vết nứt tét của cái cây thông và hàng trăm chi tiết sinh động sống thực khác.
Sáng ngày hôm sau, người đầu tiên nhìn thấy tôi vẽ là thầy Danh. Khi đi thể dục ngang nhà, ông thầy giáo có tiếng ở đây có thể cho rằng tôi có một bức tranh chép phải hoàn tất trong tháng giêng. Những ai khác có thể rất ngạc nhiên khi nhìn cái tông màu trắng đen và họ không thích thú gì với công việc tôi đang làm. Nhưng tôi chỉ làm cái tôi thích, vẽ ra cái tôi cảm nhận và muốn được ai đó nhìn ngắm.
Sáng ngày mồng 4, bức tranh dần hiện ra cái nội dung của nó. Bước ra phòng vẽ trước nhà ngắm nhìn một lúc, đứa con gái nhỏ ngây thơ reo lên,
"Ah, ba vẽ mấy con gấu của nhà mình."
Tay chân bê bết các vết sơn dầu, tôi không thể xoa lên tóc con bé được. Cuối thấp người xuống, nhìn vào gương mặt xinh xắn của đứa con gái 4 tuổi, tôi hỏi nó,
"Con gấu ba đâu? Gấu con đâu?"
Con bé trỏ ngón tay lên,
"Gấu ba to nhất đứng dưới đất. Gấu con đang đứng trên cây nhìn xuống gấu anh hai đó, phải không ba?"
Tôi cảm động hỏi nhỏ,
"Còn gấu mẹ đâu con?"
Ánh mắt sáng quắt, con bé tiếp tục chỉ tay qua bên phải một tí,
"Ba đang vẽ ra đó. Con gấu mẹ đang đứng canh chừng 2 anh em con đó!"
Tôi quay ngang giấu diếm giọt nước mắt ứa xuống. Tôi rất e ngại phải nghe nó hỏi,
"Gấu bà nội đâu rồi ba?"
Trên bàn thờ mẹ tôi giửa phòng khách, di ảnh của người rỏ ra đấy. Bà nhìn buồn bả, ưu phiền. Mỗi khi con tôi điều gì đấy sai quấy, tôi đều bảo cháu đến trước bàn thờ bà nội lạy bà 3 lần để xin lỗi. Nó thơ ngây không hiểu tại sao người ta cho "cái hộp bằng gỗ rất to" của bà cháu xuống đất ở trên Bà Điểm Hốc Môn. Nó có thể tự hỏi nay sao có hình bà nội trên cái bàn cao cao này. Khi muốn xin trái cây mà mẹ cháu vừa cúng bà nội, cháu đều hỏi tôi. Tôi nghiêm mặt lại trả lời con gái,
"Con ra xin bà nội đi con."
Konica ngoan ngoản như anh nó, Canon. Nó làm theo lời tôi. Khi cháu trở lại, tôi hỏi,
"Bà nội nói sao vậy con?"
Nó thản nhiên nói dối với tôi,
"Nội nói, con muốn ăn gì thì cứ lấy đi."
Đến xế chiều ngày mồng 5, tôi có một học trò ghé thăm. Lâm NguyênVũ, từ Hà Tiên ra Rạch Giá chơi rồi đến chúc tết tôi,
"Tết có gì vui không thầy?"
Chỉ vào bức tranh sắp hoàn chỉnh, tôi trả lời,
"Niềm vui rất lớn tôi mới có ở trong đó đó."
Tôi nhờ hắn phụ một tay để treo tác phẩm của tôi lên ngay giửa phòng khách như người ta treo một vật quý giá nhất. Tôi nhìn ra các nét cọ vụng về, thô thiển và tôi tự hứa sẽ có ngày tôi mang nó xuống để tô điểm lại. Ngày ấy có thể sẽ là ngày mồng hai tết của năm nào đó tôi vừa có một mất mát nào khác. Ngày ấy có khi sẽ không bao giờ đến vì tôi sẽ vẽ một bức tranh khác với một tinh thần khác. Nhưng thế nào tôi cũng sẽ bắt đầu một công việc gì mới mẻ vào sáng mồng hai tết.
Đến khi con gái đủ khôn lớn, tôi sẽ kể cho nó nghe cái gì tôi đang vẽ ra hôm nay đây, bốn con gấu trong rừng. Cuộc đời giống như một cánh rừng to lớn mênh mông vô tận. Cuộc đời như một mái nhà chung cho nhiều thứ. Nó có thể chứa mọi thứ đẹp xấu. Nó cũng có thể chứa mọi thứ rất giá trị, rất vô giá trị. Trong đời, biết bao nhiêu nỗi hiểm nguy điều tốt đẹp, biết ngần nào là cơ may, mất mát. Người ta được sinh ra đời như ai đó đi vào rừng mà không có một chút hiểu biết gì về nó cả.
Mỗi người giống như một lá cây trong rừng. Sau khi rụng xuống, chiếc lá trở về với đất mẹ. Nó sẽ được hồi sinh ở một thế giới mới mẻ nào khác hoặc nó chỉ sẽ nằm yên nơi đấy với mẹ cho đến mục rữa thành một phần của mẹ.
Rạch Giá, mồng hai tết năm Quý tỵ
Lương Ngọc Thành
BÁC BA
Trong những người cha mẹ của bạn học, Bác Ba là người thương tôi nhất và tôi để lại trong lòng Bác ấy nhiều ấn tượng tốt đẹp ngay từ khi biết tôi cho đến những ngày sau cùng của bác.
Năm học đệ ngũ, 8-2, NLS Cần Thơ- 1968, tôi phải đến nhà Hậu để đi quá giang nó trên chiếc xe đạp đòn giông của nó. Hằng sáng tôi luôn đến sớm. Bác Ba thấy tôi luôn đến đúng giờ trong khi người trong nhà phải gọi 6 Hậu dậy. Bác có khi cằn nhằn nó,
"Hậu đâu rồi? Lẹ lên để thằng Thành chờ tự nãy giờ"
Dịp kế đó Bác Ba gặp tôi khi tôi đang nấu cơm tại hàng ba trước lớp trong lúc hè chúng tôi ở trên trường làm ruộng. Bác Ba lắc đầu hỏi tôi,
"Lát nữa tụi con ăn cơm với cái gì?"
Tôi gãi đầu gãi tai, ấp úng như đứa học trò không thuộc bài,
"Chắc tụi con ăn chao nữa."
Bác Ba móc bóp ra, dúi vào tay tôi một ít tiền,
"Con đi mua thịt xá xíu hay cái gì đó. Mua thêm rau nữa nghe không? Có thức ăn mới có sức để làm việc chứ."
Sau khi cả nhà 6 Hậu dọn nhà về nơi ở mới, tôi phụ suốt mấy buổi. Tôi phải ăn cơm với cả nhà. Trong những lúc vắng vẻ sau bữa ăn, vì xem tôi như người thân thiết, Bác Ba gái đã buộc miệng kể với tôi,
"Thằng Hậu có phước lắm. Cả nhà thương nó như ruột thịt. Mẹ nó bỏ cho ổng bắt về nuôi khi nó mới một hai tuổi gì đó. Con thân với nó, con khuyên nó ráng học. Bác Ba chỉ mong nó học giỏi để lo tấm thân nó thôi."
Đúng là 6 Hậu được đối xử công bằng, cái công bằng của Bác Ba Phép- một cán bộ hành chánh khi mà Ba tôi lâu nay đâu có biết hai anh em tôi sống ra sao. Bác Ba thường nhắc thằng Hùng- em út trong nhà- chở tôi đến nhà để hai đứa tôi tập bơi ở cái lung khá lớn sau nhà mỗi khi con nước lớn. Sau lần đầu tiên tôi theo Hậu về bên Nội nó, đa số Cô Dượng thương tôi đặc biệt là Bà Nội. Sau lần đó, mỗi dịp tết, Bác Ba lại sai thằng Hùng đến nhà tôi để xin phép má tôi cho tôi được theo cả nhà về bên Nội. Tôi nhớ rõ năm đầu tiên, Bác Ba giới thiệu tôi với bà con xa gần,
"Thằng Thành này là bạn học với thằng Hậu."
Năm sau đó và mãi về sau này, Bác đổi lại,
"Thằng này là cháu tôi."
Ít ai hình dung nỗi sung sướng của tôi như thế nào đâu. Ít ai thèm một tiếng kêu yêu thương như thế. Tôi được xem như có một quê hương mới, có một vị trí như 6 Hậu. Bà Nội thấy tôi hiền lành, chịu khó nên càng "kết" tôi hơn. Bà có vài lần hỏi tôi,
"Con về đây chơi thường có để ý đứa nào không? Con của Cô nào cũng được hết há. Nội đứng ra lo hết cho. Nội gả không cho"
Nghe vậy, Bác Ba thích ý lắm, cười híp mắt,
"Thằng Thành thế nào cũng làm cháu rể trong gia đình này rồi."
Tôi thẹn thùng đỏ mặt hoài. Chị Năm, chị Hằng, tiếp lời Bác ba,
"Bà Nội chịu là xong hết hà Thành ơi. Chà Chà, Thành sướng hơn 6 Hậu rồi còn gì."
Tôi chỉ mong 6 Hậu không mặc cảm. Tôi muốn nó được Bác Ba thương lo như tôi tự mong được có người cha như Bác vậy, cái mong mỏi bình thường của một đứa con trai rất bình thường. Hậu ít nói như tôi nhưng nó ngông như tên gọi của nó- 5 Ngông còn tên tôi là 6 Ngố- theo bí danh trong Bụi Gia Trang của chúng tôi. Nó không hề hé môi về cái lai lịch của nó, về ý kiến của Bác Ba hay về những gì Nội nói với tôi. Lần đầu tiên đến nhà tôi- 12/5 Lê Lai- là lần Bác Ba được tôi mời đến dự tiệc "chia tay để đi Bảo Lộc học" do chính tay tôi tổ chức. Bác ngạc nhiên vì không thấy có ai khác trong nhà. Biết Bác muốn hỏi gì đó, tôi nhỏ nhẹ giải thích,
"Dạ Má con đi làm ca tối. Chị con chắc là có tiệc tùng gì với mấy người đồng nghiệp. Còn em con... nó đi chơi tối ngày."
Bác ái ngại hỏi tôi một chi tiết,
"Ai lo nấu nướng mấy món này?"
"Dạ con có nhờ chị hàng xóm phụ một chút. Con tự nấu hết. Dạ con nấu quen rồi."
Đã từng dự hàng ngàn buổi tiệc, Bác Ba không ngờ có một bữa tiệc do một thằng con trai 15 tuổi tổ chức. Dĩ nhiên, Bác khuyên chúng tôi cố học và mời cả nhóm chúng tôi ăn sáng trước khi lên đường. 6 Hậu chắc không để ý tôi đã hãnh diện đến dường nào đâu. Đầu kỳ nghỉ hè năm 1973, sau một năm có nhiều kẻ đã phải gác bút nghiên để đi quân dịch, 6 Hậu đã làm một chuyện quá sức ngông mà dĩ nhiên làm tôi sững sốt và làm Bác Ba rất đau lòng. Biến mất hôm đầu tiên, nó lái chiếc xe Honda của Bác Ba đi dong ruỗi đến tận Đà Lạt với một nhóm bạn. Bao nhiêu ngày nó vắng nhà là bấy nhiêu buồn phiền chồng chất khiến mái tóc của Bác Ba bạc hơn và Bác Ba như già đi 10 tuổi. Hằng ngày, trên đường đi đến lớp luyện thi của "Thầy Trí Ba Túi dạy toán"- "Thầy Lễ dạy triết", tôi đi tắt ngang nhà 6 Hậu. Lần nào gặp tôi là lần ấy Bác cảm thấy đau nhói vì thấy tôi đi học trong khi 6 Hậu đi chơi. Sau khi 6 Hậu trở về, Bác Ba- một cán bộ ngành cảnh sát, chở nó ra một tiệm hớt tóc quen. Đưa tiền cho nó xong, Bác phải đi công chuyện ngay. Cũng vài phút ngay sau đó, 6 Hậu rời tiệm hớt tóc- với cái mái tóc vẫn như cũ.
Năm học lớp đệ nhất, năm khó khăn nhất, có một việc rất lớn xảy ra giữa hai cha con. Bác Ba chậm gởi tiền lên cho nó. 6 Hậu xem như ông già muốn làm khó nó. Thay vì lo học, nó vùi đầu vào quán cà phê, những cuốn truyện dịch dầy cộm. Cậu Doãn là một đồng minh thân cận. Băng Cần Thơ chúng tôi hết ý kiến. Tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nó trong lớp.
Bác Ba phải đi cải tạo sau ngày giải phóng nên tôi đã không gặp Bác trong những lần tôi từ trường ghé lại thăm nó. Cái dịp đặc biệt- trung tuần tháng tư- tôi ghé thăm cũng là lần cuối cùng tôi gặp được Bác Ba. Tôi thẩn thờ hay tin nó đang ở trong trại giam Cây Gừa. Ngoài việc mang theo cho nó một đôi giày và một áo thun đá banh củ, tôi còn mang theo một món quà tinh thần rất lớn lao mới mẻ- "tao sắp ra trường rồi đây nè."
Bác Ba xế chiều hôm đó, đang ngồi chùi ống khói, chăm dầu hôi vào hai cây đèn. Buồn bã, già nua và mệt mỏi, Bác Ba nói một câu tôi còn nhớ đến bây giờ,
"Thằng Hậu lại bỏ đi nữa rồi Thành ơi. Nó bỏ bạn, bỏ bè lại rồi con ơi."
Rạch Giá Sep 4- 2010
Lương Ngọc Thành- Thành Xì TL71
MẠ CHÁNH
(Ở Bảo Lộc nhiều người biết tiếng lò nem của bà Chánh nhưng rất ít ai biết Mạ Chánh có một tình sử thật độc đáo.)
Tại số 23/3 đường Gia Hội, xóm Trần Trạch, mạ Chánh đã được sinh ra và lớn lên trong phủ của bà Công chúa Đồng Phú. Là con út trong một gia đình nho giáo dòng giõi thứ 25 của vua Thiệu Trị, đang học lớp 5, Cours Supérieur, tuổi 15, mạ Chánh không biết chi ngoài việc học lấy bằng Primaire Élémentaire.
Cậu học sinh con một Trương Chánh từ huyện Tam kỳ, Quảng Nam, được gia đình gửi ra Hội An trọ học. Sống gần một khu nhà thổ, nơi ăn chơi ồn ào náo nhiệt của giới mày râu, cậu học trò vốn thường nghịch phá ấy đã có rất ít tiến bộ. Dù chỉ theo nghề nem chả của ông bà, ba ruột của Chánh luôn luôn mong cậu con một ấy học giỏi. Vốn không sanh được con, cô dượng của cậu xem Chánh như con ruột. Cha ruột và cha nuôi, một thầy thuốc, cùng quyết định đưa cậu Chánh đang học lớp đệ tứ, rời Hội An ra học trường Tư Thục Thuận Hóa, cố đô Huế.
Một hôm, một người bạn của dì của Mạ đến xin cho một cậu học trò Chánh lớn hơn Mạ 4 tuổi ở trọ học. Vốn rất ít nói nhưng học khá giỏi, Chánh nhanh chóng khiến cho ông ngoại thương yêu. Dù tuổi cao đang bệnh hoạn, ông luôn quan tâm đến người học trò xứ Quảng ấy. Mỗi khi có quà bánh, thức ăn ngon, ông đều nhắc cô con gái út chia phần cho Chánh. Biết sức khỏe yếu dần, người cha xứ Huế rất muốn cho "con ni" gần với "thằng nớ" hơn. Quá thương Chánh, ông ta luôn thầm nghĩ ra cách để giữ người học trò xứ Quảng ấy ở lại Huế luôn. Ông bảo Trương Đức Chánh dạy kèm cho cô con gái út môn toán và Pháp văn, 3 buổi tối một tuần. Được sống trong khung cảnh nên thơ của vùng có nhiều đền đài lăng tẩm núi Ngự sông Hương, Trương Chánh còn bị một sức hấp dẫn rất mạnh từ người con gái Huế mà chàng giảng dạy.
Sau khi nghỉ tết năm Ất Dậu, 1944, Trương Chánh từ Tam Kỳ, Quảng Nam trở ra Huế với một cái chân bị băng bó. Thay vì hỏi han "ông thầy dạy kèm" vừa bị tai nạn gì, cô học trò nhỏ, Trần Thị Mãi Tiếu, cứ che miệng cười ra vẻ trêu chọc. Chàng đã cứ tưởng là,
"Mãn mùa toóc gạo rơm khô,
Bạn về quê bạn biết nơi mô kiếm tìm?"
Tiếu càng ít quan tâm đến cái vết thương ấy, ông thầy Chánh càng dỗi hờn. Chánh chỉ còn biết trách thầm,
"Người mô mà vô tình như rứa?"
Sự vô tình ấy như thúc giục thêm chàng trai xứ Quảng, họ Trương tiến thêm một bước. Sau gần một năm dạy kèm cho cô học trò Huế, một buổi tối, trong giờ học, thầy Chánh viết ra trên một mẩu giấy nhỏ một thông điệp vô cùng vắn tắt và độc nhất vô nhị. Lòn tay xuống dưới mặt bàn, dùng chân khều chân của cô học trò nhỏ, thầy Chánh trao một mảnh giấy nhỏ,
"Tiếu có thương anh không?"
Đang rất lo lắng về 10 bài toán phải nộp vào sáng mai, nhất là đang ngồi trong bàn học gần giường bệnh của cha, không hé miệng nói đến nửa lời, người học trò Mãi Tiếu vò ngay mảnh giấy nhỏ ấy và buông nó rơi xuống sàn nhà.
Không màng đến chuyện gì chung quanh, thầy Chánh lòn tay xuống bàn cố trao cho người học trò đang ngồi thẹn thùng trước mặt một mảnh giấy nữa, với cùng một câu hỏi,
"Tiếu có thương anh không?"
Lần nào cũng vậy, chữ Tiếu được chàng viết hoa và gạch dưới. Lần nào đón nhận, người thiếu nữ Huế chưa biết thế nào là thương yêu ấy cũng vò nhỏ rồi buông rơi nó xuống sàn nhà, thầm mong sao cho thời gian trôi qua thật nhanh.
"Tình về Đại Lược.
Duyên ngược Kim Long.
Tới đây là chỗ rẽ của lòng.
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?"
Một bên, người con gái 16 tuổi, "ốt dột", không nói một lời nào. O Mãi Tiếu chỉ cúi rủ mái tóc dài che mặt, trong lòng vừa lo sợ vừa hờn giận. Bên phía bên kia bàn, người thanh niên họ Trương, 20 tuổi, cũng không nói một lời nào mà cứ tiếp tục viết và trao cho O Tiếu mảnh giấy khác cho đến hết buổi học. Những mẩu giấy bị vò nhỏ ấy vương vãi khắp dưới mặt bàn.
"Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời không thấy người thương."
Sau khi không được nàng phúc đáp, chàng bèn viết thư về cho cha ruột và cha nuôi. Hai người cha lập tức ra Huế để gặp ngay người anh cả của Mãi Tiếu để xin làm đám hỏi và có thể là cưới "chạy tang". Bà mẹ của Tiếu liền phản đối, vì theo lời bà giải thích,
"O Tiếu còn nhỏ lắm, còn phải đi học. Mai này, sau khi ông quy tiên, mạ còn trông nhờ vào O, chăm sóc kề cận chứ hỉ."
Ba của Tiếu thì cho rằng đến lúc sắp ra đi như vầy ông chỉ muốn nhìn thấy cảnh Trương Chánh trở thành con rể. Ông mong sao được cặp tân lang tân nương dâng cho ông miếng bánh, ly rượu lễ.
Biết ngày một yếu dần, ông đồng ý làm một đám cưới gấp trước khi ông trút hơi thở sau cùng.
Khoảng 11 giờ đêm hôm ấy, với 3 mâm trầu rượu, 1 trên bàn thờ tổ tiên, một trên bàn thờ Phật và một mâm lễ. Xính lễ của gia đình họ Trương là một đôi bông tai và 3 tờ giấy bạc Đông Dương. Cạnh giường bệnh, người anh rể của Mãi Tiếu viết tay tờ giấy hôn thú. Mãi Tiếu không được mặc áo cưới, không trang điểm, không có họ nhà gái chúc mừng, cho quà và không có lạy xuất gia. Khi cặp nam nữ ấy đang đứng sánh đôi thắp hương bàn thờ tổ tiên, tiếng pháo nổ trước sân khiến nhiều người hàng xóm chạy đến xem. Ông được đỡ dậy để nhìn thấy quang cảnh đám cưới của cô gái út. Để ông hưởng chút ít lễ cưới, người con rể đút cho ông một tí bánh. Ông vui lòng nhấm nháp trên đầu môi. Một số người dự lễ lại có ý kiến để ông nhấm chút rượu. Ông mỉm cười nhìn đôi tân lang tân nương rồi nhấm nháp một chút rượu được người rể lớn dâng đến miệng. Cốc rượu lễ vừa được lấy ra, Ông cũng vừa ngả đầu nhẹ về phía phải, nhắm mắt ra đi trong tiếng khóc rống lên của mọi người.
Sau cái đám cưới chạy tang ấy, cô dâu Tiếu thi đậu bằng Primaire và chú rể Chánh thi đậu Diplôme và được bà mẹ vợ làm một cặp vịt vừa để cúng người chồng quá cố vừa để khao chàng rể hiền, hiếu học.
Suốt đời Mạ chỉ có ba Chánh và cuộc tình của Mạ thật đáng đọc.
Rạch Giá 21- 05- 2013
Thành Xì- TL 71
MÁ NĂM
Nếu kiếp sau được phép chọn một người mẹ đẻ, tôi chọn ngay Má Năm vì nhiều lý do và Má Năm chắc sẽ hạnh phúc hơn, Long Kh'mer cũng sẽ vui hơn nhiều.
Ngay sau khi gặp Long Kh'mer, sáng hôm sau nó dắt chúng tôi đến quán Má Năm để uống cà phê. Má nhận ra thằng Khuê Bầu ngay. Long giới thiệu tôi như là một người bạn mới của nó và công dân mới của Bảo Lộc. Má Năm pha hai cái "phin" đãi 2 đứa tôi một cách ân cần. Trưa hôm ấy, chúng tôi ra quán để tận dụng khoản cơm cháy trong cái nồi cơm to má vừa bán xong. Má nấu các món ăn mặn thật đặc sắc. Dân xe tải gốc nam bộ rất mê món ăn của Má Năm. Khách đi xe Đà Lạt sau ghé ăn một lần, luôn luôn buộc tài xế ghé quán của má dẫu cho phải ngồi chờ má bắt thêm cơm hay làm thêm món ăn họ đặt. Chị Năm cũng góp phần làm quán đắt khách với cái cách chị hỏi chuyện vừa dọn bàn vừa trả lời các câu hỏi của thực khách một cách thân mật tự nhiên. Vài hôm tối trời, má còn mời mấy tay tài xế một đĩa đồ nhấm khi họ quyết định ngủ lại Bảo Lộc, bên lề đường, ngay trước quán của Má Năm.
Gọi là quán vậy thôi chứ nó chỉ là một khoảng hơn 10 mét vuông, trong cái mái che ở phía sau của chợ Bảo Lộc. Quán gồm một cái quầy- cái hộp hình chữ nhật có 3 cạnh, chiều dài vừa bằng chiều cao của má và đủ chỗ cho hai mẹ con chui vào lọt thỏm trong đó và 2 bộ bàn nhôm xếp, ọp ẹp, ghế đẩu hơi xiêu vẹo và không có bảng hiệu. Mặt trên quầy là chỗ má bày những thứ cần cho việc buôn bán, cái tủ thuốc lá, một vài hũ rượu, một cái kệ gỗ cũ kĩ chứa chai lọ đựng đồ gia vị hay bất cứ thứ gì khác. Má Năm không hề hé răng than phiền cái cơ nghiệp má có để nuôi sống hàng chục người trong nhà. Mỗi khi trời mưa, chị Năm phải lay hoay che chèn chỗ hổng này, hứng nước dột chỗ khác. Trừ chị Tư ở nhà nuôi một cháu tàn tật và làm nội tướng, Thành Lát, Hạnh Ù, Dung Đen phải đi làm để phụ với má. Mọi người trông nhờ vào cái quán này của Má Năm.
Má Năm có cái tên khai sinh trùng khớp với tên của "Liên Hải Cẩu"- Nguyễn Thị Liên- quê quán Trà Vinh. Ba Năm gốc Tàu- Quảng Đông, từng là thợ cơ khí của hãng Bason. Sau khi thua lỗ trong việc làm ăn, và sau khi được giới thiệu lên Bảo Lộc sửa xe cho một ông tây chủ đồn điền, ba Năm dắt má Năm và 6 đứa con lên B'lao lập nghiệp. Trước khi về Pháp, ông tây giới thiệu má nấu ăn cho cha sở. Sau này cha sở giúp má Năm vào làm thợ nấu cho Tòa hành chánh huyện B'lao. Sinh thêm 3 đứa con nữa, tảo tần suốt năm, má Năm đến nay chưa có dịp nào về thăm lại nơi "chôn nhau cắt rún". Sau ngày Giải phóng, má bày ra một sạp bán ngay ở Bến xe. Chưa có lần nào Má Năm nghỉ bán để đi đâu cả. Mọi chuyện trong nhà chị Tư chăm lo. Chị Năm sát cánh với má lo cho nồi cơm chung cho 11 người. Ba Năm bó gối ở nhà. Yếm thế, buồn đời, ông dần dà thành kẻ nghiện rượu. Khi con bé Hạnh Ù, Dung Đen hay thằng Tèo ra quán để đem thức ăn về, tụi nó hay kể cho Má nghe ở nhà ba Năm vừa quậy như thế nào. Dĩ nhiên, Long Kh'mer rất ray rức về chuyện ấy. Anh của nó- Thành Lát- cũng góp phần làm nó buồn thêm bởi cái ngang tàng bê tha của hắn và cả chuyện hắn cãi vã với ba Năm nữa.
Một lần, khi Má Năm nghe Long kể về tôi,
"Thành Xì ở ký túc xá ăn cơm tập thể với bo bo và bột mì. Còn cơm hả? Má mà lấy cục cơm chọi con chó, nó dám lăn đùng ra chết lắm đó má."
Má Năm tặc lưỡi, hỏi tôi,
"Cực khổ quá vậy hả con?"
Thằng Long lẻo mép đó "châm thêm dầu vào lửa",
"Mỗi tháng nó được 21 đồng tiền học bổng đó má. Có khi nào nó có xu nào dính túi đâu Má?"
Má Năm trợn mắt, nhìn tôi,
"Rồi sao con có tiền ăn quà hàng bánh gì hả con?"
"Nó còn cạy cơm cháy nhà bếp để ăn sáng đó má!"
Má xoa đầu tôi,
"Mèn đét ơi! Tội nghiệp thằng nhỏ quá chừng. Thôi ráng nghen con. Ra trường xong, lên đây ở với má."
Tôi thấy run run trong lòng dù trời đang nắng ráo. Dãy phố cũ kỹ phía sau chợ Bảo Lộc bỗng dưng lung lay nhảy múa trước mắt tôi. Mặt đất như đang rung rinh, như sắp có trận động đất. Sau khi có má Chánh rồi, tôi vừa có thêm một người má nữa ở Bảo Lộc này mà mẹ ruột của tôi nào có hay. Cái chòi, mái tole, được che chắn tạm bợ xiêu vẹo này, cái sạp bán tềnh toàng thế này bỗng trở thành một căn nhà nhỏ xinh xắn ấm áp. Các vật dụng tềnh toàng bỗng trở thành bông hoa, thành đồ trang trí đẹp mắt. Tôi thầm cảm ơn má và ước chi tôi không còn một lựa chọn nào khác. Tôi thầm mơ ước sao tôi có thể làm được điều gì đó để giúp cho Má ngay tức khắc. Dọn bàn, bưng thức ăn ra cho khách là chuyện tôi làm được. Má rầy tôi,
"Để cho chị Năm làm! Con ngồi chơi với thằng Long đi. Con khuyên nó ít nhậu lại giùm cho má."
Quay sang nó, má cũng "mần" nó luôn,
"Cái thằng quỷ này nè. Cứ tới giờ cơm là nó dắt "thằng nhỏ" đi đâu mất biệt vậy hà. Để nó ở lại quán má tẩm bổ cho nó chứ"
Long Kh'mer chưa kể nhiều chuyện về má Năm cho tôi nghe nhưng tôi cũng chẳng cần biết thêm một điều nào nữa cả. Tôi chưa nghe má than phiền ai. Tôi không hề nghe má mắc mứu một điều gì. Má đi lễ hằng chiều chủ nhật. Cha Thịnh, vì quý tài năng Long Kh'mer- người vẽ tặng cho cha một bức chân dung Chúa Jesus rất tuyệt- với cái tựa đề rất sốc "Đại Ca Jesus"- nên cũng rất quý mến Má Năm. Một lần tôi được Má Năm rủ đi chợ. Tôi nghe biết bao nhiêu tiếng chào, tiếng hỏi han của các bà nội trợ hay bà bán hàng. Má vui vẻ giới thiệu tôi với mọi người,
"Bạn của thằng Long, lên đây nghỉ hè."
Có khi má lại buộc miệng,
"Cháu tôi, học ở Sài Gòn."
Tôi cảm động nhất khi nghe má bảo với họ rằng,
"Con trai tui đó. Nó về trên này nghỉ hè."
Ai đi chợ Bảo Lộc và nhiều người dân Bảo Lộc hôm ấy chắc phải tự hỏi,
"Bà Năm sao có lắm con đến thế nhỉ?"
Mỗi khi có chuyến xe tải quen ghé lại trong một cơn mưa phùn hay vào một chiều tối có gió lạnh, má hỏi ngay bác tài,
"Nhâm nhi chút gì cho ấm bụng nhen con."
"Dạ, má cho gì con nhậu cái đó."
Má Năm nấu thật nhanh một món thơm phức, bốc khói. Rót ngay một ly rượu trắng, má mời mọc người thực khách kia như một đứa con từ xa mới về,
"Vô đi, chờ má nấu chút xíu nhen!"
Chưa có một thực khách nào phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Dù cho các bàn ăn và ghế ngồi hơi lung lay, chỗ ngồi của họ có khi bị mưa hắt vào hay bị dột, nhưng thức ăn má nấu, cái cách má tiếp họ làm họ rất hài lòng. Cũng chưa có ai trong nhà không thương lo và tội nghiệp cho má. Tôi thấp thỏm lo lắng,
"Ngày tháng cứ trôi qua, bà mẹ già rồi sẽ xa ta."
Tôi ao ước một ngày thấy má bớt vất vả. Tôi mong sao có ai trong nhà mang má về phụng dưỡng để má chỉ ngồi ăn trầu, đọc kinh, bồng ẵm cháu và thỉnh thoảng được về Trà Vinh thăm quê hương.
Sau chuyến Long Kh'mer bất ngờ qua Rạch Giá thăm tôi, tháng 5 năm 1993, chỉ nhận được một món quà rất nhỏ của tôi- hộp dầu cù là của Thái Lan, má Năm mừng rỡ buộc miệng nói ngay với Long Kh'mer,
"Thằng Thành Xì tìm đâu cái hủ dầu "quá đả" vậy con. Biểu nó có rảnh thì lên trên này chơi thăm má nghen! Nhắc nó mua cho má một hủ dầu nữa nhen."
Khi Long Khmer xuống dự đám cưới của tôi, tháng 3 1994, thấy nó đeo tang, tôi mới biết là má Năm đã đi hơn 3 tháng sau một cơn bệnh nặng.
Má Năm ơi,
"Con chỉ muốn ngã vào lòng má, nghẹn ngào nói nhỏ rằng,
"Má ơi! con sẽ lên thăm má và con sẽ mang cho má nhiều thứ má thích nữa kìa!"
Rạch Giá 16- 10- 2011
Lương Ngọc Thành
ĐI THĂM MẸ
Ai có mẹ đều phải thường xuyên đi thăm. Tôi đã vắng xa mẹ tôi 4 năm. Khi đi thăm người, tôi đã có một hành trình ít có ai tưởng tượng ra được.
Một lần chị tôi, trên đường đi về kinh tế mới Long Đất, ghé trường ĐH Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức để thăm tôi. Chị ấy kể cho tôi nghe cái nơi mẹ tôi đang ở: Ngả ba kinh Quản Thống, Sóc Xoài, Hòn Đất, Kiên Giang - nơi tôi hứa chỉ sẽ đến sau khi tôi tốt nghiệp. Được nhà trường tiếp tục đào tạo từ tháng 9,1975, tôi quyết tâm tự lực- không để chuyện gia đình chi phối, không trở về gặp mẹ tôi cho đến khi thành đạt. Trong khi chờ nhận quyết định phân công của nhà trường, tôi đã xin phép ban quản lý ký túc xá để đi thăm bà mẹ ruột, ngày 12 tháng 9 năm 1979. Từ 4 giờ sáng, tôi đã có mặt tại Xa cảng miền Tây để sắp hàng mua vé xe Rạch Giá. Quá nhiều cầu nhỏ, quá nhiều ổ gà lớn và 2 cái phà quá tải đã khiến cho chuyến xe chậm hơn nhiều so với mong muốn rất thông thường của đứa con đi thăm mẹ như tôi. Đến 4 giờ rưỡi chiều, tôi mới đến bến xe Rạch Giá. Biết không còn kịp đò, tôi đi xe lôi về bến xe Lam. Chờ thêm vài người hành khách đi trễ, bác tài mong kiếm thêm vài đồng bạc lúc cuối ngày. Tôi ước gì có được khoản tiền ấy để tôi yêu cầu ông ấy cho xe lăn bánh sớm hơn. Ngoài trời chuyển mưa rất to còn trong lòng tôi thì có nỗi lo rất lớn. Nếu tôi không tìm được nhà mẹ tôi đêm nay, rất có thể tôi được xem như một kẻ xấu, như một tên tù vượt ngục.
Chiếc xe Lam khiến tôi khổ sở hơn chiều tối hôm đó. Nó cà giật cà giật như một con gà bệnh, mắc giây thun, như gã say rượu chân hươu đá chân nai. Cơn mưa đổ xuống như thác nước lớn trong mùa mưa. Hai bên đường không có một bóng người hay xe cộ nào khác. Những ánh đèn dầu lù mù loé ra khỏi các khe cửa hớ hênh hoặc các vách lá tềnh toàng làm cho tôi thêm lo sợ. Trên xe có cả thảy 7 người. Họ đã quen với các chuyến xe chót như thế trong khi, với tôi, đó là chuyến xe kinh hoàng nhất tôi từng đi. Tiếng máy xe nổ vang, trộn lẫn trong tiếng sấm chớp, tiếng mưa rơi nặng hạt đập lên nóc mui xe, tiếng gió rít qua các khoảng cách giữa các ô cửa kéo và tiếng đập hoảng loạn trong tim tôi tạo ra một bản hoà tấu kinh dị nhất trong thế giới âm nhạc. Để tự trấn tỉnh tôi cố hình dung ra mẹ tôi lúc ấy. Bà có thể ngồi bên bếp lò- được kê bằng các viên gạch thẻ, chụm các bó rơm nhỏ, các khúc gỗ đước trong một cái chòi lá thấp nhỏ bé, không cửa sổ, không có gian, buồng hoặc bàn ghế gì cả. Bà cũng có thể nằm thở dài trên một cái giường- nẹp tre là cái vạt giường, miếng đệm bằng lát thay cho miếng nệm, bốn khúc gỗ tràm to bằng bắp chân làm chân giường- cái giường ít có một hoạ sĩ trẻ tuổi nào có thể vẽ ra được.
Khi đó tôi thèm được đi trên cái xe đò 52 chỗ ngồi lao vun vút lúc xuống mấy con dốc trên quốc lộ 20 đi Bảo Lộc. Tôi ước chi có một phép mầu đẩy chiếc xe lam cũ kĩ chậm chạp chết tiệt này thật nhanh đến cái kênh Quản Thống gì đó để tôi gặp mẹ tôi ngay tức khắc. Một người khách xuống xe dọc đường làm vơi đi một ít tải trọng nhưng lại chất thêm lên một ít hoang mang lo lắng. Một người khách nào đó ngoắc xe dừng lại- cũng là có thể là kẻ ngoắc tôi lại để hỏi như tát nước vào mặt tôi:
"Đi đâu vào giờ này hả? Xuống đây làm gì hả"
Dọc theo đừơng bộ đi Hà Tiên là một con sông dài song song. Từ Rạch Giá, cứ mỗi 3 hoặc 5 kí lô mét là một cây cầu- cầu số một- cầu số hai. Tôi hỏi thăm mới biết rằng kinh Quản Thống nằm khoảng 2 phần ba tính từ cầu số 3 đến cầu số 4- chợ Sóc Soài. Thẳng góc về phía Long Xuyên là các con kinh nhỏ, một đầu ra biển còn đầu kia dắt vô khu tứ giác Long Xuyên. Về bên phía đầu kinh đổ ra biển là khu vực dân cư của người Kh'mer và một số hộ nông dân nghèo.
Chiếc xe qua cầu số hai một cách khá vất vả. Khi xuống dốc cầu, nó chạy nhanh hơn nhiều. Vượt qua chợ Mỹ Lâm vắng ngắt, rồi chốc sau nó đổ lại bến xe. Mọi người trong chiếc áo mưa lục đục xuống xe, không một tiếng chào, không một tiếng cám ơn. Bước xuống xe nhanh nhẩu, mình trần, đầu trần, mặc cho nước mưa tạt rát trên gương mặt còn búng ra sữa của tôi, tôi hỏi ông tài xế hom hem, đang co ro trong cái áo khoác đẫm nước:
"Từ đây đến kinh Quản Thống còn bao xa nữa vậy bác?"
"Khoảng 9 cây số."
" 9 cây số! Còn xe tàu gì đi đến đó không bác?"
"Trời tạnh ráo thì còn đón đò, xin quá giang được. Mưa giông như vầy thì vô phương."
Ông ta, lộ vẻ nghi ngờ, đã hỏi nhỏ tôi:
"Cậu đi đâu giờ nầy có một mình vậy?"
"Cháu từ Sài Gòn về thăm mẹ cháu ở kinh Quản Thống, bên kia sông."
" Tôi cứ tưởng xuống đây để...gì gì đó chứ. Hồi nãy sao cậu không ngủ lại Rạch Giá? Giờ này vô đó ớn lắm. Ghé nhà tôi nghỉ lại qua đêm đi. Sáng có đò sớm. Nhà tôi gần đây nè."
Tôi linh cảm như có mẹ tôi đang chong đèn chờ tôi. Tôi biết mẹ tôi có thể thức trắng đêm nay mong đợi tôi. Nếu tôi không đến được tối nay, mẹ tôi chắc vì buồn lo mà già đi vài tuổi, tóc bạc đi quá phân nửa. Tôi lễ phép từ chối rồi chào ông tài xế tử tế. Mặc cho mưa gió, tôi bước nhanh đi về phía trước.
Hai bên đường các căn nhà lá đóng cửa im ỉm. Ánh đèn dầu yếu ớt như cuộc đời của một kẻ đau bệnh. Tôi bước bì bỏm trên mặt đường có nhiều ổ gà, nay nằm chìm trong nước mưa. Có khi tôi như trên đường, có lúc tôi như lội trong cái ao nhỏ. Đôi giày da từ thời ông ngoại tôi còn thanh niên có thể là một vật gia bảo của ai đó bổng trở thành một chứng nhân tội nghiệp cho chuyến độc hành của tôi. Tôi cảm thấy hai chiếc giày như tăng lớn lên một cỡ, da giày mềm nhũn. Cái ba lô tôi mang trên vai, mặc dù sũng nước trở nên nhẹ tênh như tôi đang cảm thấy mỗi khi vượt qua một đoạn đường. Sau hai kí lô mét đầu, tôi vượt qua vài chùm tre tầm giông nơi mà bóng tối trở nên khủng khiếp, nơi mà ai cũng có thể nghĩ ra những điều tệ hại, ma quái nhất. Mỗi khi có sấm sét, ánh sáng từ bầu trời rọi rất nhanh xuống như để ra hiệu cho tôi, thúc đẩy tôi và cảnh cáo tôi. Một tay bất lương nào đó bất kỳ có thể bất ngờ chạy vồ ra nắm lấy tay tôi, lôi tôi xuống chiếc xuồng tam bản ọp ẹp và chèo thẳng đến một nơi hẻo lánh nào đó như một vụ bắt cóc ngoạn mục. Điều thú vị nhất là không có ai trả tiền chuộc. Nếu có lục soát hết người tôi, tên bắt cóc có thể tìm ra một số tiền mua được một bao thuốc lá đen.
Có một luồng điện khá mạnh chạy suốt cơ thể tôi như thể tôi bị sét đánh vậy. Tôi muốn vụt bỏ chạy khi tôi nghe tiếng nổ giòn tan của một chiếc xuồng máy gần đó, tiếng máy rất to. Tôi định la to lên để át tiếng mưa, tiếng động cơ:
"Ai đó cho tôi quá giang với." hoặc "Cứu tôi với." hay rất tội nghiệp:
"Tôi đi thăm mẹ tôi ở kinh Quản Thống, tôi không phải là kẻ xấu. Làm ơn giúp tôi với!"
Tội nghiệp tôi ư? Ông trời gầm một cái thật to, át tiếng kêu của tôi. Tiếp theo là tiếng khởi động của chiếc xuồng máy, bỏ tôi lại một mình trên đường vắng trong cơn mưa vẫn còn nặng hạt. Tôi tự vấn:
"Chẳng phải ta lâu nay bị bỏ rơi một mình hay sao? Chẳng phải ta đã một mình vượt qua biết bao gian khổ hay sao? Chẳng phải ta vừa trải qua 4 năm học Đại Học với một ít tiền học bổng nhưng với quá nhiều khó khăn. Nếu người chiến sĩ nào đó sống sót được trong rừng một thời gian trước khi bị bắt, ta cũng có thể đi bộ nhanh đến Kinh Quản Thống ấy trước khi bị ai đó chụp bắt."
Tôi như tiếp thêm sức mạnh. Tôi như được một liều thuốc tiên. Tôi như trẻ lại 5 tuổi. Tôi muốn chạy thật nhanh đến cái kinh chết tiệt ấy, vừa chạy vừa la:
"Con về đây mẹ ơi! Con về đây mẹ ơi!".
Vừa đến đầu kinh, thay vì hỏi nhờ ai bơi xuồng qua sông, tôi muốn nhảy đùng xuống và bơi ngay qua sông. Tôi muốn ôm ghì lấy mẹ tôi và cả hai cùng khóc nức nở. Cả hai cùng không nói ra được một lời nào.
Qua cầu số ba, trời vẫn còn mưa to, tôi vẫn một mình trên đường. Tôi thấy nhà dân rất thưa thớt. Kinh Kiên Hảo thẳng tắp hướng về phía đất liền, hướng bên tay trái đổ ra biển. Bên phải con đường, ít có nhà, chòi lá nên quang cảnh sáng sủa hơn. Tôi không hề thấy mỏi mệt hay đói khát. Cái cảm giác đến nhà, gặp mẹ làm tôi quên hết mọi thứ. Tôi bền bỉ như một lực sĩ đi bộ đường trường. Tôi biết đôi giày sắp rời ra từng mảnh. Tôi biết có ai đang sắp đuổi bắt tôi. Tôi hình dung mẹ tôi đang ngóng chờ tiếng gọi đò của tôi. Tôi vượt qua đoạn đường 3 kí lô mét như người ta tản bộ trong một công viên nhỏ. Khi thấy một cụm mái nhà lá san sát nhau và bên kia sông có một kinh nhỏ, tôi tự nhủ chắc là đây rồi. Tôi đi nhanh hẳn lên như có ma đang đuổi theo ở ngay sau lưng. Tôi bỗng la lên thật to- tiếng của ai đó kêu cứu lúc nửa đêm:
"Bà Sáu ơi! Bà Sáu ơi."
Một cánh cửa phên nhích lên khi có một giọng bên trong phát ra:
"Ai kiếm bà Sáu giờ nầy vậy hả?"
"Dạ, dạ, tôi là con của bà Sáu nè. Dì làm ơn đưa tôi qua sông giùm nhe. Tôi xuống đây trễ quá. Làm ơn nhe."
Đội nón lá lụp xụp, tay cầm cây dầm, người phụ nữ- như được mẹ tôi dặn dò trước nhiều lần- không hỏi, nói thêm điều gì nữa, cẩn thận bước xuống chiếc xuồng nhỏ được cột sát bên vách nhà và sẵn sàng đưa tôi qua sông.
Tôi vội bước xuống, lòng nhẹ nhõm, vui như một du kích được xuồng đưa vào khu an toàn, như người tù được đón sau một chuyến vượt ngục gian lao. Khi qua được hơn hai phần ba con sông, trời còn mưa, trong bóng tối đen như mực, tôi bỗng buột miệng kêu lên:
"Mẹ ơi, mẹ! Mẹ ơi, mẹ! Con về đây mẹ ơi".
Tiếng kêu từ trái tim của một con chim lạc đàn gọi mẹ.
Không ai từng nghe thấy. Không ai lập lại được như thế đâu!
Rạch Giá 15-1-10
Lương Ngọc Thành
THU HƯƠNG - CẦN THƠ
Hằng tuần chúng tôi đều có thư từ Cần Thơ. Trong khi thằng Phúc Lùn mừng đến đỏ mặt tía tai khi nhận thư của Hồng Vân, giống như tôi khi nhận thư của Thanh Vân, Trọng Thỏ- trưởng lớp- trầm tĩnh cho cái phong bì vào sấp sách vở nó đang ôm trên tay. Ai cũng biết nó chỉ nhận thư của một người: Nguyễn Thị Thu Hương.
Trên đường Võ Tánh, cạnh trường tiểu học Võ Tánh, ở cùng hẻm 2, ngay góc khúc quẹo phải vô nhà nó, Thu Hương ngày ngày để mắt tới anh chàng hơi còm, hơi cà khêu, hơi kênh kiệu và rất ít nói ấy. Nàng không thấy có bạn hắn đến chơi. Nàng cũng không hề thấy chàng đi đâu ngoài giờ đi học hay đi chơi bóng rổ. Nàng không hề thấy chàng quở trách em út, không hề bị bố mẹ la mắng. Khi chàng vào lớp 8 Nông Lâm Súc Cần Thơ, thấy chàng lấm lem khi đi học về, với ít rau muống, rau lang trên cái yên xe sau, tim nàng bắt đầu rung động rộn ràng hơn mỗi khi gặp chàng.
Thu Hương thường tự hỏi,
"Làm sao có anh chàng nào vừa hiền ngoan, chịu khó lại vừa lành tính lành nết cần cù như thế này nhỉ?"
Tình cờ được cậu út dạy cho đàn guitar cổ điển, Trọng Thỏ- vốn là kẻ ham thích âm nhạc, cần cù với các ngón tay dẻo dai khẳng khiu này học rất nhanh. Với cây đàn cũ khá tốt người cậu tốt bụng tặng cho hắn, Trọng Thỏ trở thành một tay chơi guitar classic có hạng trong lứa tuổi 15 khi ấy. Tính khí của hắn vốn được bộc lộ lâu nay qua ngòi viết- chải chuốt lả lướt, qua cú sút bóng rổ nắn nót kỹ lưỡng, giờ đây, ôm đàn lên mỗi buổi tối sau giờ học bài, hắn làm cho Thu Hương thêm say mê đắm đuối. Xưa kia, nhờ có chàng Trương Chi xấu xí cất tiếng hát, nàng Mị Nương đã nhanh chóng bình phục bệnh tình. Nay nghe tiếng đàn của chàng Trọng Thỏ- người chắc hẳn đẹp trai hơn Trương Chi nhiều- nàng Thu Hương bỗng dưng sinh bệnh.
Thiếu tiếng đàn của chàng, bệnh của nàng trở nên nặng hơn. Trong hè vừa hết lớp 9, đầu năm học 1970- 1971, biết chàng phải đi đến tận Bảo Lộc để nộp đơn chuyển trường, Thu Hương cảm thấy xốn xang, lo lắng, đứng ngồi không yên. Viết hết những 4 trang vở học trò, Thu Hương vận dụng tất cả vốn liếng văn chương thi phú và vài cánh hoa ép khô để bộc lộ tình cảm của nàng. Nàng giải bày những điều đã khiến nàng yêu quý, kính trọng người thanh niên cùng xóm- hai nhà đối diện và dĩ nhiên nàng chỉ xin chàng im lặng mỉm cười với nàng- một đặc ân duy nhất- Khéo léo thuyết phục Như Trang- em gái của Trọng Thỏ trao thư tận tay chàng và giữ kín chuyện này. Mối tình của hai người bắt đầu sau khi Trọng Thỏ ta đọc thư. Tối hôm ấy, Trọng Thỏ đàn hay hơn bao giờ hết và Thu Hương cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết khi nhìn thấy chàng mỉm cười với nàng.
Tối hôm trước ngày chàng lên đường đi Bảo Lộc nhập học, 27- 8- 1971, dưới gốc cây trứng cá, họ ngồi cạnh nhau trong bóng tối trong yên lặng và ngay khi chàng "Thỏ" ấy vừa nắm lấy tay nàng, nước mắt nàng tuôn trào như con suối Đam Rong mùa mưa lũ. Thu Hương như muốn ngã gục xuống chân chàng,
"Anh đi lên đó ráng lo học và giữ sức khỏe. Em sẽ gởi lên cho anh những thứ anh cần với cả trái tim em."
Trọng Thỏ xúc động, bối rối vì lần đầu tiên chàng nghe những lời lẽ như thế,
"Hương ở lại ráng học. Chừng nào về anh sẽ có quà cho Hương nhé."
Thu Hương đáp ngay như đã chuẩn bị sẵn,
"Chỉ cần anh về với em là đủ lắm rồi."
Trên Bảo Lộc, ngay những ngày đầu tiên, hắn rất nghiêm túc, lo học, không hề màng tới điều gì khác ngoài việc cùng nhóm chúng tôi lội bộ qua trường tàu Đồng Nhân chơi bóng rổ. Cơm chiều vừa xong, nhâm nhi chút trà xanh, đánh đàn một lúc, hắn lao ngay vào sấp tập vở. Hắn tụng bài như một tay sư trẻ tụng kinh và muốn làm cho sư cả hài lòng. Hắn đặt quyển vở, rất sạch với chữ đẹp bay bướm, trên tay đi đi lại lại lầm thầm đọc bài giống như một nhà sư sắp giác ngộ. Hắn bực dọc khi có thằng nào ồn ào. Hắn liếc trừng mắt khi có ai chọc ghẹo, to tiếng. Giống như khi chúng tôi chơi bóng rổ với nhau, hắn cau có, khó chịu khi đứa nào chuyền bóng hay lên rổ trái ý của hắn hay sút hụt một quả bóng ngon ăn. Nhưng mỗi khi đọc thư của nàng, hắn tỏ ta tư lự, mỉm cười khá hài lòng và trầm tĩnh.
Ngay tuần đầu tiên hắn có thư của người tình- Thu Hương- từ Cần Thơ. Vừa thấy mặt thằng Phúc Lùn đỏ ngây ngất như say rượu và Trọng Thỏ vui sướng hớn hở khi nhận thư nàng, Tâm Dê- thằng chẳng được thư của ai- đã nghĩ ngay đến cụm từ "cần thư- thư tín". Hắn đã đặt tên cho nhóm 6 đứa chúng tôi,
"Băng Cần Thơ đúng là "cần thơ" mà!"
Vừa nhận được địa chỉ nhà trọ, từ Cần Thơ, Thu Hương gởi lên cho chàng yêu thương một chiếc áo len. Mỗi tháng Trọng Thỏ đều nhận được quà của nàng, nào là cá khô, bánh kẹo, tập vở, giấy viết thư, giấy chậm mực, vải quần áo và gần ngày trung thu năm ấy, chàng nhận được một cái bánh trung thu từ người con gái đang yêu chàng tha thiết. Chúng tôi thèm thuồng, ganh tị. Hét Quắn cứ nhìn hắn cười mỉm chi. Hậu Bào chọc tức hắn,
"Mầy viết thư hỏi nó coi một cái bánh làm sao đủ chia cho cái nhà trọ mười thằng ốm đói thiếu ăn này chứ hả?"
Phúc Lùn bênh vực,
"Mầy ngon thì kiếm người yêu đi rồi bảo nàng gởi bánh lên cho mày xơi một mình nhé. Tụi này "đếch thèm đâu nhé."
Thằng Đức Cống - CT- 71- chọc quê,
"Để tớ đánh điện tín về nhà bảo mẹ tớ gởi lên ngay 10 cái nhé. Thằng Đức Cống còm cõi này xin tiền xài thì khó chứ xin mẹ thức ăn thì có ngay."
Tuấn Bùi- CN-71- có dịp vào cuộc,
"Trọng Thỏ ơi! mầy viết thư xin nàng mấy con khô cá Sặc nữa nhé. Từ bé đến giờ, tớ chỉ ở tại Phương Lâm chưa hề biết cái thứ chi mà ngon đến như thế."
Thu Hương chắc vui lắm khi biết cả nhà trọ chúng tôi trầm trồ thèm muốn các thứ nàng gởi lên. Nếu có một cuộc thi "người tình chu đáo", tôi sẽ bầu chọn ngay Thu Hương- người đáng làm cho tất cả những ai từng mài đủng quần trên ghế trường NLS Bảo Lộc phải ganh tị.
Sau 3 tháng hè gắn bó với nhau hơn, năm học sau, Thu Hương gởi quà nhiều hơn năm học trước. Ngoài những thứ năm trước Trọng Thỏ đã nhận, năm sau, thỉnh thoảng chàng một mình lên bưu điện để nhận "manđa". Để yên chí không bị mất những thư, quà quan trọng, Thu Hương đã nhờ địa chỉ của ông chủ nhà Vũ Ngọc Bảng. Vốn ít thổ lộ, Trọng Thỏ cất giữ mọi thứ Thu Hương một cách kỹ lưởng hoặc nhờ bà Bảng giữ hộ. Hắn bắt đầu mặt áo sơ mi trắng mới toanh. Cái đồng hồ cũ năm lớp 10 bổng trở thành một cái "đổng" mới "keng" mà thằng Hậu Bào đã thèm chảy nước dãi.
Năm học cuối, Trọng Thỏ- Nguyễn Phước Trọng- ăn mặc chỉnh tề nhất lớp, học lực cũng khá nhất lớp, và Thu Hương vẫn là người tình chung thủy nhất- người duy nhất gởi thư và quà cho hắn nhưng lạ thay hắn chưa hề kể lể cái đoạn kết về mối tình này. Sau ngày giải phóng, chúng tôi nghe đồn rằng Thu Hương đã cùng gia đình vượt biên bỏ lại một trong những mối tình nổi tiếng nhất của cả hai trường NLS.
Rạch Giá 17- 11-2012
Lương Ngọc Thành