
Cần xem tiết mục nào xin click vào Trang bài / webpage trong MENU dưới đây:
TRANG CHÍNH / HOME . BÀI MỚI ĐĂNG . SINH HOẠT HOUSTON, TX . ĐH XXIII-MARYLAND 2019 . ĐH XXII-SAN JOSE 2018 . ĐH XXI-HOUSTON 2017 . SINH HOẠT CANADA . SINH HOẠT ÚC CHÂU . CÁC ĐẶC SAN ĐH . SINH HOẠT BẮC - NAM CALI - SINH HOẠT VÙNG NEW ENGLAND - SINH HOẠT VIỆT NAM - TIN SINH HOẠT CÁC NƠI . GÓC SÂN TRƯỜNG NHÀ . VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT . VÒNG TAY NGHĨA TÌNH . CHIA BUỒN - CHUNG VUI . TÌM NGƯỜI - NHẮN TIN
.jpg)
Thơ văn
CAO VỊ KHANH
Montreal, Canada
CHS PTG-CGS Nguyễn Trung Trực, Rạch Giá
___________________


Cần xem tiết mục nào
xin click vào Trang bài /
webpage trong MENU
dưới đây:
SINH HOẠT HOUSTON
TÁC GIẢ:


Khi viên đạn được bắn ra từ một góc khuất trên căn lầu bỏ trống của cái kho sách phế thải ở một góc đường Dallas năm đó, nó đã mang theo trong đường bay của nó định mạng của một người và một dân tộc. ( giả sử có một hơi thở gấp làm ngón tay bấm cò khẻ run, một tia nắng chợt loáng qua làm nheo con mắt đang căng cứng, chiếc công xa chạy nhanh hơn một chút, chậm hơn một chút… và viên đạn trệch đi một kẻ tóc… ờ có bao nhiêu giả sử trong đời như những phải-chi vẫn mãi là những lời xin lỗi )
Lúc đó, trong một góc vườn nằm xa hơn một chút về phía tây bắc, lá phong cũng đã đổi màu đỏ rực.
Khi đó, xa hơn nữa, tận đáy cùng một lục địa da vàng tối tăm và buồn bã, người thiếu niên mới lớn là tôi như chợt thấy chính mình vừa tử thương. Trong trái tim nồng nàn của nó, thời đó, không chỉ có hoa và bướm, có thơ và mộng mà còn có thêm nữa những áp bức bất công, những chết chóc điêu tàn, những nghèo nàn ngu dốt… hậu quả của một chủ nghĩa thực dân khốc hại và đang trở thành một vùng môi sinh mầu mỡ cho chủ nghĩa cộng sản. Bộ mặt điêu tàn của một xả hội nhược tiểu càng trở nên thảm hại hơn nữa trong sự tranh chấp giữa những bạo quyền. Và cùng lúc càng lộ rõ vẻ trơ trẻn của những “thần tượng” trong cơn chạng vạng của niềm tin. Ngay lúc đó, sự xuất hiện của một người Mỹ trẻ tuổi con-nhà-giàu-học-giỏi-đẹp-trai đặc biệt với những ý tưởng cấp tiến đến độ gần như thách thức lại cả một lực lượng bảo thủ đã ăn rễ trăm năm trong xả hội (tư bản) Mỹ tự nhiên trở thành một niềm hy vọng cho hơn một người tuổi trẻ. Ðã có lúc thanh niên ở những nước kém mở mang, nô lệ nghèo đói và giặc gĩa, bỗng vui náo nức như vừa tìm được một người đồng minh thông cảm và tin cậy. Lứa tuổi của cách-mạng-lãng-mạn tìm được trong đôi mắt sáng, nụ cười ấm, và nhất là ý thức công bằng xả hội như một liều thuốc hồi sinh cho căn bệnh trầm kha của đất nước họ.
Buổi sáng hôm đó cái chuyện không ai ngờ được đã xảy ra, viên đạn được nhắm bắn từ một độ cao năm tầng lầu đã đi đúng hướng và nổ tung làm văng mất một phần não bộ của vị Tổng Thống trẻ tuổi thứ 35 của Hoa Kỳ, niềm hy vọng của tuổi trẻ những năm 60, bỗng như nổ tung một lần nữa, giữa tim tôi.
Mới vài năm trước, trong kỳ thi tú tài, tôi đã cắm cúi và hào hứng viết không kịp thở bài luận văn có đề tài rất thời thượng. “Anh hay chị nghĩ gì về câu nói của Tổng Thống J.F.Kennedy : đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho tổ quốc” Bài thi văn có hệ số 3 và đã vớt tôi qua trót lọt kỳ thi dù rằng điểm toán nếu chẳng là zéro thì chắc cũng không khá hơn một.
Câu nói được khéo léo đặt theo lối nghịch đảo và mệnh lệnh cách đủ gây ấn tượng mạnh và đột ngột đặt lại mối tương quan giữa con người và đất nước. Câu nói có thể là lời nhắn gởi riêng với thanh niên của xứ sở ông ta nhưng cũng đã gây tác động không ít đến thanh niên xứ khác. Dường như đã từ lâu lắm người ta mới thấy xuất hiện một lãnh tụ thông minh và khả ái như vậy.
Giai nhân tự cỗ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
Tháng mười một năm nay tôi lại có dịp ghé qua Dallas. Ðúng dịp kỹ niệm 40 năm ngày thảm sát. Thành phố đã có chút dáng vẻ vào thu. Trời không còn nóng cháy và quanh tượng đài đã có lác đác lá vàng rơi. Bốn bức tường trắng vẫn đứng im ỉm như còn giữ nguyên niềm bí ẩn chưa được giải thích thỏa đáng.
Xa hơn một chút, trong góc vườn cũ, những lá phong cũng đã bắt đầu ửng đỏ.
40 năm. Lịch sử đã xóa đi và viết lại nhiều lần. Cuộc chiến ý thức hệ ở Việt Nam mới dây dưa vào thời kỳ ấy đã bộc phát dữ dội suốt mười năm sau và rồi cũng đã chấm dứt từ hơn hai mươi lăm năm nay. Người chết đã chết. Người còn sống, cay đắng, tật nguyền hoặc vui cười thỏa mãn. Và sự thật thì vẫn còn là nạn nhân đầu tiên và cuối cùng của bất kỳ một cuộc chiến tranh nào.
Tháng mười một thơm như một tàu lá mới. Thành phố sạch bóng như vừa được lau chùi. Và lòng người thì cũng trơn lùi kỷ niệm. Người ta có nhớ lại thì cũng chỉ một chút ngậm ngùi. (để làm gì những ngậm ngùi !) Giữa mặt đường láng lẩy ngay chỗ viên đạn nổ tung một giấc mộng có đánh dấu chữ X. Người ta đánh dấu một tội ác hay đánh dấu một tiếc nuối. (và những tiếc nuối có phải là lời tạ lỗi vô thưởng vô phạt ?)
Ðứng ở đó, dưới một bầu trời rất mới mà cũng rất cũ như đã y vậy tự bao giờ, lòng bỗng nhiên cảm khái như chuyện chỉ mới vừa xảy ra. Có một cái gì không phải cứ tiếp tục được lặp đi lặp lại. Con người có tự nhận là thượng đế của chính mình thì cũng chỉ là một cuộc đảo chánh vô vọng. Và, lịch sử rốt lại chỉ là một cuộc đánh tráo gian lận của định mạng. Vậy thôi. Trời đất bày vẻ đủ điều chỉ cốt để mà mắt con người và ... bi kịch, chính là ai nấy đều tưởng thật. Người ta sống với cái ảo tưởng về một quyền năng phù phiếm. Người ta ôm ấp những hoài bảo, nuôi nấng lý tưởng, năng nổ hành động như trăm năm là một khắc mà quên rằng sát na đã lố tận thiên thu. Cái phút-chốc có giá trị tiên tri của một lời sấm rủa. Và con người mãi mãi chỉ là một thứ đồ chơi rẻ tiền của tạo hóa.
Tháng mười một rực rỡ như một vết thương mới kéo da non.
Và… trong góc vườn thu cũ, lá phong cứ hực đỏ như một nỗi tiếc nuối bị ngậm nín lâu ngày.
Cao Vị Khanh


THỐN TÂM
-1-
Rượu chiều chưa ngấm đủ say
hồn lưu lạc đã thấm cay vị tình.
Ly đầu sóng sánh điêu linh
Ngày chưa ngất lịm đã hình như đêm.
Ngật ngừ tựa bóng. Im lìm.
Trăng sao trốn biệt. Buồn chìm hiện thân
Nâng ly cụng bước phong trần
mươi năm. Ngẫm lại tội ngần ấy mơ !
Sá gì chút mộng làm thơ
mà đem tâm sự vổ bờ hư không.
Đeo chi cái thói đèo bồng.
-2-
Bấy lâu lòng lặng như tờ.
Lơ mơ giấy trắng. Ơ hờ mực đen.
Cõi thơ lạc nẻo đào nguyên.
Cõi người lắt lẻo giữa triền tử sinh.
Lòng đau thế sự gập ghình.
Bút đau thắc thỏm chuyện mình với ta .
Mực tung tóe cõi ta bà !
Ba sinh gom lại một tà huy phai.
Phất phơ đời ngắn tưởng dài
quơ tay vói níu, rõ hoài ! Rổng không.
Thôi thì bỏ thói đèo bồng.
c a o v ị k h a n h





tranh OSWALDO GUASAYAMIN
Ta theo ta, những dặm dài
từ đêm điếm cỏ nối ngày cầu sương.
Ai xui mộng mị dị thường
chân tù ngục, hồn dặm trường thiên nhai.
Dưng không, du tử đường dài
bốn bên bề bộn bạn bầy bỏ bê.
Kiếp chung cá chậu ê chề
thớt dao đã sẵn, tư bề. Bó thân.
Đường tình sắp lớp cố nhân
khít khao lắm cũng xa gần chiêm bao.
Sẩy tay, nguyệt rụng phương nào ?
Ô hay sương khói bào hao nỗi mình !
Thôi thì, huyệt mộ làm thinh,
kết hoa, tẩm liệm, cung nghinh điệu sầu.
Đường đời bước thấp bước cao.
Bấp bênh. Lạ lẫm. Lao nhao. Lằng nhằng.
Bốn phương tám hướng lăng xăng.
Bước lang bang. Bước hoang mang. Bước càng.
Tới. Lui. Lèn lách. Chàng ràng.
Nhơn. Chia. Trừ. Cộng. Phí thân phận người
. ........
........
Mỏi chân. Ngó lại. Bật cười.
Đầu đời tay trắng. Cuối đời tay trơn.
Cvk

GIỖ MÁ
Con về máy động tuổi thơ
ngủ quên đáy mắt mẹ chờ cuối năm.
Con về lau giọt lệ thầm
sót trên khóe mỏi khóc câm. Những ngày.
Con về cầm lại đôi tay
trơ xương từ buổi trời bày cuộc chia.
Con về nối lại đoạn lìa.
Má đâu đó sáng, con khuya biệt mù .
Cao vị khanh


Tháng bảy. Tháng của bất chợt mưa đêm và lao chao cánh phượng. Tháng của trường đóng cửa và bàn ghế bỏ trống.
Tháng bảy. Tháng của râm ran tiếng ve đến sốt ruột và của những trang lưu bút viết vội khi đầu óc còn bàng hoàng vì dư âm của khúc nhạc tạm biệt, bây giờ nghe ra ngu ngơ mà hồi đó sao xao xuyến chi lạ. Hôm nay đây còn vui trông thấy nhau. Bên tiếng ca tiếng đàn vượt trời cao...
* Không đâu mà bỗng dưng nhớ lại. Những mùa bãi trường tháng bảy... của một thời đã xa và ở một chỗ không còn gần nữa.
Mới cuối tháng sáu, sách vở đã bị bỏ quên sau kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt mới vừa xong. Thầy cô còn lo chấm bài thì học trò không hẹn mà đã bắt đầu lơ là với chuyện học hành. Mà làm sao không lơ là cho được. Học trò còn bận bịu trăm ngàn chuyện khác, còn quan trọng và thiết thực hơn biết mấy cái mớ định lý với luận đề cùng những niên biểu với triều đại xa xôi như mấy cái cố sự mịt mù. Phải rồi ai mà dửng dưng cho được, khi trên trời xanh thì mây trắng cứ đong đưa, nắng thì cứ vàng hoe, ve sầu cứ kêu ra rả và lòng người ta thì chộn rộn như cái nắp vung đậy nồi xào bần ba ngày tết bị chụm lửa quá độ. Người ta đã bị o ép chín tháng trời mệt lả. Toán, lý hoá, văn chương, sử ký, địa lý... toàn là thứ cũ mèm khô hóc trong khi mấy cái món tươi roi rói kia thì cứ bị cấm đoán rầy la. Này mắt em-chưa-quen-đã-nhớ ngoài cửa lớp, này bóng anh-nhẳn-mặt-cònlạ lấp ló cuối hành lang, này tờ thư làm bộ bỏ quên trong quyển sách mới-mượnchiều-qua-đã-trả-lại-sáng-nay... - học trò còn mắc mớ với bao nhiêu là bận-bịuchẳng-ai-xúi-biểu của cái thuở vậy-đó-bỗng-nhiên-mà-họ-lớn...
Tháng bảy là những ngày dài rong chơi, phố gần, chợ xa, vườn rẫy, núi non, sông nước... những góc vắng tụ năm tụ ba chia lén điếu thuốc đầu đời, những tối long nhong đạp xe qua nhà ai mắt cứ liếc ngang liếc dọc, có thấy gì được đâu họa may một cái bóng vô tình mà cũng về hí ha hí hửng chép thơ-nguyên-sagặp-một-bữa-anh-mừng-một-bữa...
Tháng bảy. Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết. Ðàn chim non hớn hở rủ nhau về. Chín mươi ngày nhảy nhót ở đồng quê. Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ.(**)
Cái mùa bãi trường tháng bảy... cái mùa xuân lộn chỗ đã làm hơn một kẻ luyến lưu... Có người còn coi đó là những kỷ niệm đẹp nhất của một đời người.
Vậy mà rồi mất hết khi người ta phải bỏ đi, một ngày nào đó. Ở chỗ xa, không có phượng đỏ làm sao còn thấy rơi xuống lòng ta những giọt châu. Không có bạn bè làm sao mà yêu dấu. Không có tiếng trống thùng thình làm sao mà bồi hồi. Và nhất là không có ngôi trường cũ nóc dột đã mấy đời, những gốc me gốc còng cỗi đến không còn đếm được tuổi, những xe bánh lọt đậu đỏ ngọt ngây, những rổ cốc rổ ổi chua lét, và những mái tóc và những đôi mắt... thôi đã mờ như trầm tích, lấy gì mưa xuống cho những linh hồn đã khô...
Vậy mà rồi mất hết... Người ta buồn bã bỏ đi. Mười năm. Mười lăm hai mươi năm. Buồn bã sống như loài ốc không hồn, bò lết trên những nhánh đời thất lạc...
Từ vài năm nay, tháng bảy ở Mỹ châu, ở Âu châu, ở một thành phố xa lắc tuốt bên Úc, ở một thị trấn lưng chừng đâu đây, bỗng nghe một ngày họp mặt, một buổi gặp gỡ của những người tưởng đâu đã biệt tích, ngờ đâu đã trầm luân... Rồi bỗng trở về, bàng hoàng như từ cõi trăm năm... Họ gặp lại nhau, đuôi mắt đã đầy dấu chân chim, đầu tóc đã bào hao sương tuyết... Họ níu tay, vỗ vai, cười ha hả hay khóc sụt sùi. Họ ôm chầm lấy nhau, ngỡ ngàng ngó lại quá khứ mình, rưng rưng thấy lại tuổi trẻ mình... cái quá khứ cái tuổi trẻ đã chìm khuất theo quê hương biết bao nhiêu thương nhớ mà cũng biết bao nhiêu ruồng rẫy. Họ cười nói, chuyện trò, uống chung nhau ly rượu, ăn ké nửa miếng bánh như thuở còn sẻ nhau góc tư góc tám những sợi-tóc-cứ-vương-vướng-chân-người.
Em kể cùng ta những dặm đường. Những hồi ly biệt, nỗi tang thương. Những sông suối cạn, cồn quạnh quẽ. Những núi tang thương, biển đoạn trường.
Chép lại một đoạn đã viết về một lần họp mặt đó. “
...Vậy đó, mỗi người đều có một ngôi trường cũ tưởng khi vội vã ra đi đã bỏ sót lại. Tưởng đâu người ta đã cướp mất luôn cái nơi chốn thân yêu sau khi đã đuổi mình đi tan tác. Nhưng không, ngôi trường cũ của em đã không bị cướp mất mà còn được nhân lên mấy lần nhiều hơn nữa. Bởi vì cái xác trường thì còn kẹt lại đó, chớ cái hồn trường thì đã theo em và bạn bè đi lưu lạc tứ phương. Bằng chứng là lâu lâu lại nghe tin buổi hợp mặt học trò trường Nguyễn Trung Trực ở chổ này, mai mốt lại nghe hợp mặt ở chổ khác. Hóa ra cái trường Nguyễn Trung Trực đâu còn ở tận cái thị xả xa xôi đó nữa. Nó ở ngay đây, kề bên em đó. Nó ở giữa phố phường đông đúc vùng vịnh biển phía tây nước Mỹ, nó cũng ở tại vùng đồi núi cheo leo phía đông. Nó nằm trên vùng cực bắc lạnh lẽo mà nó cũng có giữa đồng cỏ miền trung tây mênh mông. Nó có ở châu Âu mà cũng có tuốt bên châu Úc. Nó đã hóa thân thành muôn vạn tấm lòng rải ra khắp cùng mặt đất. Ðến đổi chừng như nơi nào có đôi ba học trò cũ là có trường mới dựng lên, hồn nhiên và thành khẩn. Những người học trò cũ đã chắt chiu mang theo từng mảng vụn để rồi dựng lại thành những ngôi trường mới, những nơi chốn mới để cùng trở lại hành hương. Ở đó em gặp lại đủ hết, thầy cô cũ, bạn bè cũ. Có thể còn thiếu sót một số người. Nhưng có sao đâu em, họ đến trễ đó thôi, vẫn còn chổ để dành riêng cho họ. Ở đó em sẽ thở lại chút hương thời tuổi dại. Em sẽ thấy lại từng mặt người quen, dù sơ hay thân vẫn là cái tình người nồng ấm, cái tình người mà tôi chắc nếu em có bỏ công lặn lội ngàn ngàn cây số để trở về, đứng lại giữa khung lớp cũ em cũng không còn tìm thấy được nữa. Người ta đã thiêu hũy nó lâu rồi. Cái tinh thần tôn sư trọng đạo, cái ý chí của bậc đại nghĩa mà trường mang tên đâu còn chỗ ở đó nữa. Tên tuổi đó bây giờ chỉ là sự ngụy trá chớ còn hồn thiêng cũng đã phưởng phất theo bầy con cháu tha phương. Chính những ngôi trường mới mà đám học trò cũ bằng tinh thần xưa gầy dựng lên ở đâu đây, một hôm nào đó mới là cái nối tiếp liền lạc của nếp văn hóa đã thành truyền thống, mà chúng ta còn hảnh diện mang tên. Tôi vẫn tin rằng, ở nơi chốn cũ, bạn bè và thầy cô, những người đã mang chung cùng em kỷ niệm, dù có lao đao lận đận vẫn gởi lòng sang trong những buổi hợp mặt này. Tôi tin em cũng không quên họ. Em đến để gặp lại những người có mặt. Mà em cũng đến để gặp lại những người vắng mặt nữa. Phải không? Giữa bàn tay siết chặt, trong vòng ôm thân ái ở đây làm gì không có thấp thoáng một dấu vết xa xôi, một lời thăm hỏi ở đây làm gì không có ngậm ngùi một câu nhắn gởi thầm cho người còn ở lại đó. Tôi tin vậy lắm bởi vì chung thủy vẫn là đức tính của người-nguyễntrung-trực và nghĩa nhân vẫn là bài học thuộc lòng mà chúng ta vì muốn nhớ nên đến nỗi phải bỏ đi. Ở ngôi trường mới đó còn bao nhiêu người em chưa hề thấy mặt nhưng tôi tin rồi em sẽ quen biết dễ dàng. Ở đó mọi cấp lớp đã bị xóa đi, mọi giờ khắc sẽ sắp trùng lại. Mọi người chỉ còn một thời dụng biểu duy nhất. Thực tập cái bài học tình thương bị bỏ dở nửa chừng. Những anh, những chị, những em sẽ không còn là những chủng tử lạc loài. Chúng ta đã có cơ may để nhập lại làm một. Một tấm lòng duy nhất. Chúng ta may mắn có ngôi trường cũ rộng mênh mông như biển đủ sức hút về hết mọi nhánh sông con. Giữa lượng biển hãi hà có giọt nước nào khác với giọt nước nào đâu, phải không em? Dường như có lần nhà thơ họ Vũ sau khi thấy hết cảnh núi lở sông bồi đã ngậm ngùi than rằng:" Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau". Vâng, đúng rồi em, chúng ta đã mất hết, nước non, tuổi trẻ, danh vọng, tiền tài... Cái chúng ta còn lại chỉ là một tấm lòng son sắt như chút "của tin" mà Thúy Kiều đã giữ suốt mười lăm năm đòi đoạn để trân trọng giao lại cho người tình. Ðoạn trường của chúng ta đã hơn hai mươi lăm năm, chúng ta còn gì để lại cho trường cũ nếu không là chút tình nghĩa tặng cho nhau trong cơn thất tán này.
Và cũng chút xíu tình nghĩa đó thôi để mai kia mốt nọ có lỡ bước trên dặm đường lưu lạc vẫn còn biết có một nơi mà gởi gắm lòng về... ”
Ðã đủ chưa để nói về một sinh hoạt mới của đám dân lưu lạc. Hai mươi lăm năm đã quá thừa cho một câm nín. Ðã đến lúc để nhắc nhở nhau về một nơi chốn đã bỏ đi, hâm nóng lại chén đời đã lạnh, mời nhau húp lại chút cặn thừa rất tình-xưa-nghĩa-cũ. Nhưng mà có gì nồng nàn và chân thành hơn mớ dây mơ rễ má bắt đầu từ ngôi trường cũ đó, lúc mà tuổi đời không quá non để còn khờ khệch mà cũng không quá cằn để đến nỗi chai lì. Bởi vì phải không, chính ở đó mà chúng ta đã lớn lên, học hỏi trong yêu thương và tin tưởng sáng lán nhất. Chính ở đó chúng ta đã có những thầy cô gần gũi và ân cần đã hé mở cho chúng ta dấu dạng của tương lai. Và cũng chính ở đó, chúng ta đã có những người bạn mà chân tình không dễ gì tìm lại được nữa.
Tháng bảy năm nay tôi sẽ đi dự buổi họp mặt thầy cô và học trò cũ của ngôi trường tôi đã dạy. Chắc tôi sẽ gặp lại một số người quen biết cũ. Dù thân hay sơ, có thể họ đã già đi nhiều sau những năm lận đận, có thể họ sẽ tươi tắn hơn nhờ những thành đạt ở đây, tôi không biết tôi sẽ gặp ai, nhưng điều tôi biết chắc là tôi sẽ gặp lại những tấm lòng. Những tấm lòng dù nông sâu khác nhau đều đã được un đúc, nuôi dưỡng bằng chính tinh thần nhân ái vẫn là nền móng của những ngôi trường trung học cũ ở miền Nam trước năm 75. Cái tinh thần nhân ái đã chắp cho họ đôi cánh mỏng, giúp họ bay qua những vòm trời gió bão, và còn giúp họ bay tìm nhau sau cơn hoạn nạn chung.
Chúng ta vẫn còn đó, những niềm tin, phải không ?
Cao vị Khanh
* Ngày tạm biệt-Lê Dinh
** Thơ Xuân Tâm

“DÔ” ! “DÔ” !
-tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Âu Dương Tu
c a o v ị k h a n h
RƯỢU CHIỀU
Rượu chiều chưa ngấm đã say
đã hai con mắt phương đoài đăm đăm .
Người đi chẳng một vọng âm
chỉ nghe quạnh một tiếng thầm trong tôi
t r ầ n b a n g t hạ c h
RƯỢU CHIỀU
-CỤNG LY 1-
Ở đây dư một chỗ ngồi
thừa con mắt nhớ, thiếu lời tri âm
nhớ người tôi chuốc rượu thầm
nghe men rượu đắng từ trăm năm nào.
n g u y ễ n v ĩ n h l o n g
RƯỢU CHIỀU
-CỤNG LY 2-
Chiều nghiêng theo chút rượu này
Hơi men đã thấm những ngày tháng xưa
Người đi lá chợt thay mùa
Sao nghe trong tiếng tình xa ngậm ngùi
Người đi mang cả hồn tôi...
n g u y ễ n t h ị k h á n h m I n h
RƯỢU CHIỀU
-CỤNG LY 3-
Ở đây... lạnh một chỗ ngồi
Bước cô độc bước. Nhớ người. Tới. Lui.
Có con dế gáy sụt sùi
Cụng ly ta với đất trời mang mang.
b c d
RƯỢU CHIỀU
-CỤNG LY 4-
Rượu người. Tôi uống. Môi cay.
Rượu tôi. Dưới đáy. Chạm ai môi buồn.
Những chiều, những tối tuôn tuôn
Chỗ ngồi đã mõi mòn đường quan san.
______________









Chui ra khỏi bụng mẹ là ôi thôi nợ đâu mà nợ như Chúa Chổm. Thiệt tình cũng chẳng rõ ông Chúa Chổm nợ nần ra sao mà đời trước tới đời sau, ai cũng biết, cũng rêu rao, cũng xỏ xiên... Mà hổng biết ông chúa đó rồi có thanh toán được chút nào món nợ... như-chúa-chổm đó không, chớ nhìn ra thiên hạ bốn phươngkể cả kẻ đang muốn.... trần tình này chẳng những nợ nần ngập đầu mà còn gần như là chuyên môn... giựt nợ. Từng đoạn đời là từng lần vay mà không trả. Rồi có khi có trả mà thiếu đủ cũng chẳng biết ra sao. Ý là chưa nói đến chuyện lời lỗ của chủ nợ. Vậy mà cứ dang thân đi mượn nợ gần như không biết... mắc cở là cái chi. Hết nói.
Lại nữa, nợ tiền nợ bạc xanh xít đít đuôi gì vậy mà dễ tính. Còn cái thứ nợ dẫu chưa bao giờ được tính phân lời, dẫu chủ nợ chưa bao giờ xắn quần xắn áo tru tréo rủa xả đòi cho bằng được... vậy mà làm như dẫu cho có muốn trả hoài trả hủy mà rồi sao thấy nợ vẫn còn... nợ. Kỳ thiệt.
Có khi nào rảnh rổi, ngồi buồn, mà đừng có bày đặt bắt chước Thúy Kiều-buồntrông-cửa-bể-chiều-hôm chi cho nó mỏi mòn con mắt, nhìn ngay cái chỗ gần xịt, khít rịt với mình nè, nói văn hoa chút theo kiểu ông TCS là nhìn-lại-đời-mình-đờiđã-xanh-rêu đó, coi có phải ! Ngay cái lúc mới mang-tiếng-khóc-bưng-đầu-mà- ra, nợ nần đã lút đầu lút cổ. Phải không. Làm chi mà để mấy má, mấy mẹ, mấy mệ, mấy mợ, u, bầm, măng, mom... đeo cái bầu tròn vo trước bụng, phá vở hết mọi đường cong mỹ thuật của phái đẹp, rồi lại nặng nề đêm ngày ì ạch tới lui mất cả vẻ thướt tha của phái nữ, đôi khi còn ụa mửa tới mật xanh mật vàng... Phải chi cực nhọc vậy sau 9 tháng 10 ngày rồi vọt ra cục vàng cục ngọc gì cho cam. Đằng này, chui ra đỏ hỏn huyết nhớt lòng thòng thấy mà phát gớm. Lắm khi còn bị phán cho một tiếng gọi nghe ra cũng chẳng ngọt ngào gì cho lắm: cục nợ. Mà thiệt, gọi vậy cũng đáng. Chớ nghĩ lại coi, khi không rồi những bậc thuyền quyên vốn mỏng mảnh như tơ như lụa mà thiên hạ cứ xưng tụng là liễu yếu đào tơ đó lại đau đớn tới nỗi vặn vẹo rên rỉ như bị khảo tra tùng xẻo gì đâu á. Nội cái thành ngữ banh-da-xẻ-thịt đủ cực tả cảnh lâm bồn vừa vinh quang vừa rùng rợn hết nói. Nghĩ lại mà thấy thương ơi là thương thân phận nữ nhi, dẫu khi muốn khi... lỡ, mà hễ được lên chức cái là trần ai lai khổ. Rõ ràng là bất công quá mạng. Trai nam nhi muốn làm cha sao dễ ợt. Có khi lại còn được đưa lên tới tận cõi thiên thai. Còn làm mẹ, thì ôi thôi, dẫu có lỡ dại nghe lời rù quến mà theo tới cõi đào nguyên rồi sau đó đường về trần thế ôi sao mà... đoạn trường quá đỗi.
Nghĩ vậy rồi dưng không mà phát hoảng ! Từ khi là cục nợ, sau suốt mấy chục năm trời, theo luật tự nhiên nợ hẵn là mỗi ngày mỗi lớn, tới nay chắc hẵn đã là cả ôm, cả đống, cả khối, cả núi nợ... không chừng. Vậy mà suốt mấy chục năm trời ròng rã đeo đẳng mà chẳng chút áy náy, mà vẫn nghênh ngang ( có lúc cũng thì thụt ) đi lại giữa đời sao tự dưng thấy lòng cảm thán quá đỗi !!!
Thiệt vậy, từ cái ngày gọi là lọt-lòng-mẹ, dấn mấy tấc thân mềm nhủn vào đời kể ra cũng lắm nỗi nhiêu khê cho cả ba bên bốn phía. Từ ẩm bồng, rồi bò lết, rồi đứng chựng, rồi lẫm đẫm hai ba bước cho tới khi chạy nhảy lưng tưng... cho đến khi gọi là lớn đại, đi đứng vững vàng... Từ chuyện bú móm đến chuyện rửa ráy... đã có bao nhiêu lần tay đỡ tay bồng, bao nhiêu lần tay dìu tay dắt, vỗ về, răn dạy... chưa kể những lúc ấm đầu sổ mủi... cho đến khi gọi là trưởng thành, đi đứng vững vàng... biết bao nhiêu là công lao mà người xưa gọi là dưỡng dục. Công cha vô cùng thì nghĩa mẹ cũng vô biên. Cũng chẳng phải có ý so bì nhưng dẫu sao cũng phải nhìn nhận là những việc lắt nhắt, hay gọi là lặt vặt như thay tả, tắm rửa, tay vừa bếp núc tay vừa đưa võng ầu ơ... ít khi được “ thống kê ” chính thức... nên dễ bị bỏ vào xó lãng quên trong cái đầu vốn rối mù của thế nhân. Người ta có thói quen hay nhớ cái gì to, lớn, rõ ràng, rổn rảng... Còn ba cái chuyện rủ rỉ rù rì... gọi là “dổ em” rất dễ chìm lĩm trong cái biển động ì xèo của cõi nhân sinh.
Thử nghĩ coi một cục đất sét nếu không có người nhồi, nắn... từng chút một thì làm sao thành hình cái tộ tròn vo hay cái chén tròn trịa để đem đi hầm cho cứng cáp... Nhưng rồi người ta thường hay tấm tắc khen lớp men láng lẫy hay mấy nét vẻ sơn thủy hữu tình. Ít kẻ thấy ra hai bàn tay dính đầy bùn đất...
Tình mẹ nuôi con như hai bàn tay dính đầy bùn đất đó...
Nghĩ vậy rồi quay sang người bên cạnh. Đã có ông nhà văn nào đó ở bên tây có lần phát ngôn ngon ơ : Tội lỗi ( hay hạnh phúc hay đau khổ ) chỉ có khi có đôi có cặp. Mà thiệt, một người thì có làm ra trò trống gì được. Sát bên cạnh người đàn bà cơ cực đủ thứ đó là người cha- tùy theo “vùng miền” mà đổi lại gọi là ba hay cậu hay thầy hay tía... cũng sừng sững có dẫu không cao như ngọn Thái Sơn kiểu Tàu nhưng cũng không thấp hơn dãy Trường Sơn kiểu ta khi dang thân mình che chắn, chống đỡ, răn đe, uốn nắn... nuôi dưỡng đứa con suốt từ tuổi non xèo cho tới khi chín tới...
Còn nhớ chăng, những bữa mưa ngày nắng, trần vai gánh nặng ngoài trời hay còng lưng trong xưởng thợ, mặt mũi tay chân lấm lem hay cặm cụi trong phòng ốc... Gì thì gì cũng để đầu tháng đem đồng lương về mua sửa, đong gạo, thuốc men, mua tấm áo mới tựu trường, sắm chiếc xe đạp ba bánh con con... Hơn nữa, đôi khi còn là tấm gương cho đứa trẻ soi mình.
Nói chung, cả cha cả mẹ, cả ba cả má, thầy mợ... những bậc sinh thành ra ta đó, đã một đời tranh sống để nuôi dưỡng ta lớn lên, ngày hai bữa cơm canh, còn dạy dỗ ta tình huynh đệ nghĩa bằng hữu, kính trên nhường dưới, gần gũi xóm giềng, yêu thương đồng loại, tránh cái xấu chuộng cái tốt, gìn giữ đạo làm người... Những bậc sinh thành đó, thức khuya dậy sớm trong bao năm trời để theo ta từng bước, dẩn dắt ta hướng đúng chính đạo để chờ ngày ta dong ruổi... Những bậc làm cha làm mẹ đó, đã còng lưng trải cho ta con đường sáng rỡ, hy vọng chờ ta, một ngày dấn bước...
Tính ra, từ sơ sinh tới trưởng thành có đứa con nào không vay mượn của mẹ cha thời gian, sức lực, tinh thần... Những nợ nần đó nếu đem đổi ra đô-la Mỹ chắc cũng đếm không xuể, còn nói tới tiền Hồ Chí Minh thì ôi thôi biết là bao nhiêu triệu triệu tỷ tỷ... hổng chừng xây không biết bao nhiêu cái lăng mộ Ba Đình mà cũng còn dư nữa là.
Những công lao đó nếu không là nợ nần ta đã vay thì là gì ? Là gì ? Mà rồi có trả cái món vay mượn đó không. Nếu không trả được sòng phẳng thì rõ ràng là... giựt nợ, phải không ?
Cùng lúc đó, vừa lên năm sáu tuổi cha mẹ đã đưa ta đến trường lớp, gởi gắm cho thầy cô. Những ông thầy bà cô luống tuổi, thân xác teo tóp mà lại cứng cáp như những nhánh tre già, kính lão trệch đùa xuống sóng mủi, đôi khi cây roi mây tưa xơ nhịp nhịp giữa mấy ngón tay khẳng khiu, đã tập cho ta đánh vần từng chữ cái, đã cầm mấy ngón tay ta tập đồ những nét chữ cong cong, tập cho ta học thuộc lòng những bài thơ chữ nghĩa nồng nã tình người tình nước... Lớn lên chút nữa, lại lớp thầy cô khác, có khi trẻ tuổi hơn nhưng cũng không kém tận tâm đã mở cửa một vòm trời mới, cao vời vợi đính đầy những tinh tú sáng ngời của kiến thức nhân loại. Từ văn chương của tình tự dân tộc đến khám phá khoa học của thế giới, không nhiều thì ít, những vị thầy cô lúc đời ta đang độ hàm tiếu đang chuyển mình qua tuổi mãn khai, đã sắm sửa hành trang và mở lối cho ta phóng mình vào cõi đời bao la đến trăm mặt.
Bao nhiêu là chữ nghĩa, bao nhiêu là thơ văn đầy ắp hồn tính dân tộc, bao nhiêu là kiến thức khoa học dù có sơ khai vẫn là căn bản để vững chân bước vào đời.
Mười mấy năm vô ra trường ốc, ai không mơ có ngày đền đáp lại công ơn giảng dạy đó, đem mớ kiến thức đã vay mượn trước trả lại cho lớp trẻ đi sau. Ai không nghĩ có ngày đền đáp lại tâm sức của thầy cô bằng cách truyền thụ lại hết lòng cho những thế hệ tới sau để cùng phục vụ đất nước đã hết mực cưu mang.
Những công lao đó nếu không là nợ nần ta đã vay thì là gì ? Là gì ? Mà rồi có trả cái món vay mượn đó không. Nếu không trả được sòng phẳng thì rõ ràng là... giựt nợ, phải không ?
Vậy đó, làm sao tính ra cho hết, những món nợ trần ai đã vay đã mượn. Dẫu không có giao kèo cũng chẳng có hạn kỳ, những món nợ vay mượn hết sức hồn nhiên đó vẫn là những món nợ, còn đeo đẳng đâu đó, để những khuya hôm mất ngủ, để những sớm mai thức dậy, chợt lòng sao áy náy, thoáng chút băn khoăn.
Thêm chút gì ray rứt...
Nghĩ cho cùng, phải đâu mánh mun chụp giựt gì cho cam. Từ buổi đầu, dẫu không có thề nguyền, vẫn in lòng đền trả...
Sực cái...
Đại nạn bất kỳ...
Thế nước tới hồi mạt vận. Mọi thứ thay đổi lộn tùng phèo. Chính trị, kinh tế... kể cả luân thường đạo lý vốn đã ngàn đời ăn luồn trong mạch máu... một sớm một chiều đổi trắng thành đen. Cái “dữ” lên ngôi. Dẫu đời xưa hay nói “hùm dữ không ăn thịt con” nhưng lần này thì kẻ chiến thắng đem làm thịt thiệt cái đám lơ-tơ-mơ ở phía Nam, vốn mù mờ như bầy thiêu thân thấy bóng sáng. Vậy rồi, đường cùng, cả bọn kéo nhau trốn đi. Người phước đức vớt vát được thêm cha già mẹ yếu. Còn cái đám lo thân riêng còn trật vuột nói gì vói tới được thân thích ngay cả cha mẹ mình. May mắn giàn trời mới nhét được cái thân mình lên ghe có- giang đi vượt biển. Vậy rồi...
-Trích truyện ngắn RAU RĂM Ở LẠI -
Khuya đó ông bà nội đốt đuốc đưa cha con mình ra bờ sông chờ đò lên tỉnh.̣(-để đi ké một chuyến ghe vượt biên, chín ngày sau ) Nước lớn mênh mông chảy lênh láng sát mé bờ. Gió như bầy thú sút chuồng rượt đuổi nhau chạy giỡn ngoài vàm trống. Ba đứng giữa quấn kín con trong chiếc khăn lông ôm sát vào lòng. Ông bà nội đứng hai bên chắn gió, dáng bà nội xiêu xiêu như tàu lá mỏng. Con chó Lu già sụm cũng lẩn quẩn chạy theo chân rồi nằm ngóc mỏ bên chân nội. Ngọn đuốc cháy lập lòe, chập chờn mấy cái bóng im im. Đêm chưa muốn sáng thấp thỏm chờ mấy vì sao đến muộn. Rồi đò tới. Ông bà nội ôm hôn ba và con lần chót. Ba quay mình bước xuống đò ngoái nhìn lên thấy bờ bãi lạnh tanh. Hình bóng nội lung linh như có như không. Đò quay mũi. Ngọn đuốc sắp rụi hắt đóm lửa cuối bùng lên đủ cho ba nhìn thấy hai khuôn mặt thân yêu lần nữa. Mặt bà nội ướt đẩm như sương. Mặt ông nội hun hút hằn sâu như khắc. Ba còn thấy kịp nữa con hình như chân bà nội khịu xuống tay ông nội dang ra đỡ rồi đuốc tắt ngấm, đò chạy xa thêm, bóng tối trùm lên mù mịt. Đò chạy xa thêm. Ba mất nội và mất cả quê hương từ lúc đó.-
Và từ đó, bặt tăm !
Năm bảy năm sau, cha mẹ qua đời, chẳng về đội được chiếc khăn tang ! Có phải là giựt nợ không ?
Xứ người, đổi đời thêm lần nữa. Mớ chữ nghĩa đã thu tóm được từ tiền nhân, đã cày cục mài dủa thêm cho sáng ngời ý vị, đã chăm bẳm sẽ đem truyền đạt cho lớp đời sau để vừa trả món nợ đã vay vừa nối tiếp công lao của người đi trước. Nối tiếp việc truyền tụng để rỡ ràng thêm hồn tính dân tộc, để siết chặt hơn nữa mối ràng buộc tình nghĩa đồng bào... bỗng chốc hóa ra vô nghĩa, vô ích, vô dụng. Xứ người, mớ ca dao tục ngữ, lớp văn chương nền nếp, tư tưởng tamgiáo-đồng-nguyên... đã được kết tạo và lưu truyền bằng máu huyết của cha ông rồi cũng đành xếp xó. Thay vào đó mớ chữ tây chữ u uốn éo tới méo miệng, đinh ốc bù lon kềm búa múa loạn tới chai tay... Nghĩ cho cùng, kiếm ăn bằng cách nào thì cũng là để... no bụng. Mà điều lắm khi nghĩ tới công lao của bao nhiêu người đi trước đã dày công truyền tụng, riêng mình đã tâm niệm nối bước đành đem bỏ xó, lắm khi cũng không khỏi ngậm ngùi.
Nói ngậm ngùi là cho ra vẻ... văn chương thi phú ! Chớ đúng ra phải nói là mắc cở. Ai đời ngay khi đất nước bị giặc phá tan hoang, bạn bầy đồng lứa, kẻ thì súng dài súng ngắn lội rừng ngủ bụi, xả thân che chắn cho yên lành trường ốc, kẻ thì vùi thây khi chưa tới tuổi đôi mươi cốt giữ cho yên lành ngày tháng tới lui làm bạn bầy với chữ nghĩa. Vậy rồi, trèo lên bục giảng học trò chưa kịp nhẵn mặt, thoắt cái đã gục mặt bỏ đi, bỏ lại hết bao nhiêu ân nghĩa đã nhận từ những kho trí tuệ uyên bác cũng như từ mạng sống của lớp lớp trai trẻ đồng thời.
Và từ đó, biệt dạng !
Mươi năm sau, chẳng trả lại được một chữ nhất ! Có phải là giựt nợ không ?
Ba cái chuyện quốc gia đại sự sau mấy lần nhấp nhỏm rồi thôi cũng đành. Còn lại tấm thân lưu vong rõ là bỏ xứ đi kiếm ăn đúng y kiểu người xưa đã cảm thán bằng bốn chữ tha-phương-cầu-thực. Không hơn không kém. Mớ thề nguyền trong dạ ngày trốn chui trốn nhủi xuống ghe, bỏ mặc đất nước với cha mẹ già và nền nếp dân tộc một sớm một chiều rồi y như kẻ trốn nợ. Còn hơn vậy nữa. Nói trốn nghe ra còn chút vớt vát biết đâu có ngày khấm khá, quày lại trả nợ xưa... Đằng này thành ra kẻ giựt nợ chuyên nghiệp.
Mà phải vậy thôi đâu, ngoài ba cái món nợ chính thức coi như dễ dàng khai báo, còn lại thứ nợ có có không không, có mà như không không mà như có... thì ôi thôi, huyền ảo còn hơn cả chuyện thần tiên chẳng biết tin vào đâu cho đúng.
Ngay từ cái thuở mà người ta gọi là ăn chưa no lo chưa tới, còn hí hửng ra vô mấy khung cửa lá sách nép kín dưới mái nhà lợp ngói âm dương, rõ là rổi rảnh, cơm nước thì có cha mẹ lo, chữ nghĩa thì thầy cô gánh, đầu óc lơ mơ thả lỏng như mớ mây trắng vẩn vơ trên vòm trời xanh ngắt, tới lui thong thả giữa mấy lọn nắng vàng hoe, hồn phơi phới như đám lúa mạ tươi mơn mởn... vậy đó mà khi không rồi... kiếm chuyện. Con gái người ta nuôi, chăn giữ như gìn vàng giữ ngọc, “ngoại hình” và “ nội thất” thiệt là trăm phần tương phản với mình... chẳng có tí ti gì tương đồng, vậy mà trời xui đất khiến sao không biết bỗng dưng thấy có gì ngồ ngộ trong đầu, trong lòng, trong tay trong chân tới nỗi lỡ ( hay rủi hay may ) mà gặp phải thì làm như có cái gì ngọ ngoạy trong đầu, trong tim, trong người... tới nỗi đâm ra luống cuống, tay chân như thừa thải, tim thì đập như nhảy điệu Be-bop. Vậy đó, biết sao mà nói cho hết. Thì thôi, bắt chước mấy ông thi sĩ phán đại theo kiểu làm-sao-giải-thích-được-tình-yêu-có-nghĩa-gì-đâu-mộtbuổi-chiều v.v... và v.v... Coi vậy mà ba cái vụ lùm xùm yêu-đương-hờn-giận đó lại có ép-phê hết biết. Hổng hiểu tại sao mà khi không rồi đâm ra cứ hay mơtheo-trăng-và-vơ-vẩn-cùng-mây. Thiệt tình, học hành chẳng biết giỏi dở ra sao chớ còn ba cái vụ trốn nhà hẹn hò lén lút đó vậy mà ít ra cũng có lợi hết biết. So đo thì rõ là chẳng ăn nhằm gì nhau giữa cây cỏ hoa lá mặt trăng mặt trời với ba cái vụ ái tình lắt nhắt thời mới nứt mắt. Vậy mà mỗi lần được ai đó hẹn hò, góc phố, công viên, bờ sông, bến nước... bất kể xó kẹt nào, là làm như ánh trăng đêm đó dậy lên màu ngà ngọc, là lọn nắng vàng chiều hè đó cứ lấp la lấp lánh như có gắn thêm mấy cái hột xoàn. Ôi bao nhiêu là ân nghĩa của thứ tình yêu thời miệng còn hôi sữa đã đắp đổi rồi nuôi dưởng cho hồn trẻ những thiết tha sông nước, những ân cần cây cỏ, những luyến lưu đất đai, những nồng nã tình người... Suy tới cặn cùng, có phải chính cõi trời đất đó đã un đúc ra từng cõi hồng nhan cho mình phiêu lãng. Vì vậy không yêu mến sao được. Từ đó, kể ra làm sao cho hết những lợi lộc của cái chuyện tập tành đôi lứa, những “ngún nguẩy” làm ngẩm ra ý nghĩa chữ “duyên dáng”, những “hờn mát” làm thấm thêm ý nghĩa chữ “dỗ dành”, những “nũng nịu” làm cảm rõ chữ “nồng nàn”, những “nhớ nhung” làm suy ra chữ “thiết tha”... v.v... và v.v... Những “bài học” ngữ vựng miễn phí cùng với những vui buồn nông nổi rất chân thành kiểu Paul et Virginie như hệ quả tất nhiên của thứ tình mới lớn đã vun bồi cho phì nhiêu một tấm lòng, chờ những mùa gặt hái mai sau...
Hổng chừng chính những bài bản thu hoạch được trong những cuộc tình tập sự đó, những điệu nghệ học hỏi rất hồn nhiên đó đã góp phần nào cho những được-mùa của những đoạn đời nối tiếp. Những mái tóc thề buông bỏ sau lưng ! Những vạt áo dài lính quính khi cơn gió vô tình ! Những sớm đưa sương mai mỏng dánh. Những chiều về nắng đón vàng hoe... Cả một cõi quê hương tụ về bằng xương bằng thịt, lượn lờ trước mắt. Để đêm về đâm ra thẩn thờ rồi sanh ra thơ thẩn. Dẫu thơ có thành vè đi nữa thì cũng đầy tình ý. Ít nữa cũng quen tay. Chẳng vậy mà vuột qua cái tuổi tình nhí nhố đó, vốn liếng cũng dầy thêm mấy thành công lực.
Vậy đó mà rồi, vuột tay cái mất tiêu... Những ai đó ?! Rồi quên phức luôn trong một xó tối nào của trí nhớ, vốn mỏng mảnh còn hơn tờ giấy pelure dành để viết thơ tình, một thuở ! Chẳng còn sót lại được một dấu mờ để gọi là kỷ niệm. Kể cả năm ba tấm hình đen trắng kiểu yêu-nhau-mới-tặng-ảnh-này, cở 4x6 có bốn cạnh răng cưa, đã trổ vàng như lá mùa thu héo... được “tàng trử” rồi quên khuấy giữa những trang sách quí để sau cùng rồi được chánh-phủ-lâm-thời-cáchmạng-miền-Nam-Việt-Nam hốt ráo đem bán tháo bán đổ cho quí bà bạn hàng gói thịt heo hồi “cách mạng” mới thành công ! Tuyệt bản !
Dẫu chỉ là chuyện... con nít, vốn chỉ thả theo dòng đời trôi xuôi mỗi lúc một lớn, theo cõi người mỗi lúc một đông, đâm ra dễ lạc bước rồi lạc lòng... Nghĩ lại rồi vẫn là bạc như vôi ăn trầu. Nhất là... đôi khi chính mình là thủ phạm đã bày ra mấy cái trò thương thương nhớ nhớ để rủ rê !
Vậy mà đã hết đâu ! Mãi cho tới lúc thân thế đã xấc bất xang bang, đời đã ba chìm bảy nổi, trên xứ lạ quạnh hiu, ngay khi lòng đã lạnh sau từng ấy trò dâu bể, vậy mà bỗng dưng rồi lại xảy ra những chuyện y như... tiểu thuyết. Trời đất xui chi mà bày trò oan trái. Người thân trần thế mà lòng y bồ tát. Chẳng có gì ràng buộc mà khít khao hơn cả ruột rà. Không một thề nguyền mà thủy chung như đá vọng phu. Của riêng tư còn quí hơn vòng vàng đem cho không mà biết chắc chẳng bao giờ được đáp trả. Trong khi đó, bản thân vốn đã tù túng, có vọng động cho mấy rồi cũng đành bó tay chịu trận khi đời đã trói quanh mấy vòng xích của bổn phận và trách nhiệm. Thứ dây lòi tói không có ổ khóa. Nghĩ lại rồi làm sao mà không thấy ngậm ngùi.
Lại nói ngậm ngùi cho ra vẻ... văn chương thi phú ! Chớ đúng ra phải nói là mắc cở. Mà thật ra có tra tự điển tìm cho hết chữ đồng nghĩa loại ... tủi hổ, hổ thẹn hay hổ ngươi... gì đó cũng không đủ để xóa tội. Dẫu chạy ra bờ Đông hải múc cạn nước biển có pha dầu của mấy chiếc tàu lạ để rửa cũng không sạch được cái bản mặt trơ trơ của kẻ giựt nợ... chuyên môn !
....................
... Kể từ cơn quốc nạn tháng tư năm đó, tới nay tròm trèm gần nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ là nửa phận người nếu nói theo kiểu trơn tru đời người là trăm tuổi. Trời ơi, người gì dẫu thân không cao bảy thước (tàu) thì cũng tròm trèm thước bảy (ta) mà hơn nửa đời toàn là chuyện giựt nợ không vậy nè. Thiệt là hết nói !
Than hết nói mà sao lại cứ muốn nói. Muốn quơ quào cho đỡ thấy thui thủi một mình. Nghĩ tới nghĩ lui rồi nghĩ quanh nghĩ quẩn, sực thấy cái chuyện nợ nần đâu phải chỉ mình mình. Lâu rồi, có lần tán thán cái chuyện nàng Kiều mười lăm năm lưu lạc, ông Chu Mạnh Trinh đã cẩn bút như sau: “Cho hay danh sĩ với giai nhân cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ” À thì ra ai cũng mang nợ, ngay cả danh sĩ với lại giai nhân toàn là hạng thượng thừa mà cũng không tránh khỏi cảnh nợ nần. Nợ gì thì không có kê ra. Nhưng mà nội cái chữ nợ thôi nghe ra cũng quen tai, đở tủi thân chút chút. Còn có trả hay không thì đã có ông Nguyễn Du lo.
Thừa cơ, lấn tới chuyện những bậc tiền bối khác theo kiểu thấy sang bắt quàng làm họ. Từ ông Tú làng Vị Xuyên vốn nghèo có tiếng, có lần lượm được đâu đó đồng tiền của ai đánh rớt đã kêu lên Muốn đem trả nợ đòi nhà lại ( chắc là đang phải cầm cố nhà cửa gì đó ! ). Vậy mà có lúc phán một câu nghe ngon ơ Ô hay công nợ âu là thế-Mà vẫn phong lưu suốt cả đời. Rõ là tay chơi thứ thiệt !
Rồi tới ông Nguyễn Công Trứ, người đã đi ngang qua đời còn để lại bóng mình hực hở, từ lúc hàn vi tới khi oai quyền vinh hiển cũng đã có lúc nợ nần ríu rít
Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu bấy lâu nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hóa phải vay
Rồi ông phóng tới hai câu luận nghe mà đã tai
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
À há ... đồng cảnh ?
Ậy, nhưng nhìn lại mình...
Nhưng nhìn lại mình sao thấy sang đàng cho đã rồi càng lúc càng thấy quả là mặt dạn mày dày. Tính kiếm chỗ dựa hơi cho đỡ phần... mắc cở. Mà so bì rồi lại thấy càng quanh co lại càng... ngụy biện. Nợ như quí bậc trưởng thượng kể trên nghĩ ra cũng đáng nợ. Thứ nợ của bậc phong lưu tài tử vốn thuộc loại ăn trước trả sau, sớm muộn gì cũng còn dịp để trả, lắm khi còn trả cả vốn lẫn lời.
Còn đằng này, mang nợ rồi bỏ quê lưu lạc xứ người mà đường về đã tắc nghẽn ngay từ một bước xuống ghe thì kể như không muốn giựt cũng đành phải giựt. Thực ra, làm người có hay ho gì mà giựt giọc. Chẳng qua rồi như một thứ bi kịch làm người. Thử nghĩ, từ bỏ xứ làm kẻ tha hương, ai không muốn có một lần trở lại. Nhưng thử hỏi lý do trở lại có giải tỏa được những khúc mắc của cái lý do bỏ đi. Hay chỉ là vô tình thỏa hiệp với những ngụy trá đã gần như thành nếp của những người cầm quyền ở đó. Về rồi, có khi nào tự hỏi, sao hồi đó bỏ đi !
Nên từ đó, nợ cứ dần lân... Xứ người, đất nước mênh mông, quanh đi quẩn lại cái gì cũng lạ. Vừa đặt chân tới bến, hồn lưu lạc còn lao đao chưa kịp tỉnh, thì hết chủ nợ này tới chủ nợ khác đã nhào tới gọi mời. Chủ xe mời xe. Chủ nhà mời nhà. Cứ như vậy mà nợ cũ chưa lành sẹo, nợ mới đã thương tích đầy mình. Dù vậy, mớ nợ mới này rồi ra cũng dễ tính. Mà tính hổng nổi thì ra ở “ấp”, đón xe buýt dọc đường...
Còn món nợ trần ai từ một nơi mưa nắng hai mùa, đã chắt chiu trong lòng từ một ngày mới lớn, đã trìu trĩu trong hồn từ một ngày biết mình thôi đã lỡ. Thứ nợ mà ai nấy đều coi là vinh dự dù có phải trả suốt một đời cũng thấy đáng. Thứ nợ bao gồm mọi thứ nợ. Thứ nợ người ta hay gọi là NỢ NƯỚC TÌNH NHÀ.
Biết vậy mà rồi như một loài rong rêu bị bứt rễ, vật vờ theo con nước, đã một lần bị dạt bến xa bờ rồi xa hoài, xa mãi, xa miết tới... cũng đành !
Ờ, biết nói sao ngoài hai tiếng... cũng đành !
Cao Vị khanh


-một lần kể lại để rồi thôi
TÔ THÙY YÊN
CAO VỊ KHANH
Ta về - một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Ờ, thì lần nữa theo Tô Thùy Yên, TA VỀ, dẫu không đi cùng bước nhưng trước sau có khác gì nhau khi cùng chung kiếp nạn từ sau cơn hồng thủy đó... dẫu mươi năm đầu, kể từ một ngày cuối tháng 4 năm 1975 ông đã bị tù đày trong những trại giam được ngụy danh là trại học-tập-cải-tạo được dựng lên khắp nơi từ rừng rú đến đầm lầy như từng búng máu phun ra tung tóe trên thân xác quê mẹ, ngay cả khi súng đạn cũng đã đành im tiếng.
Ờ thì về theo Tô Thùy Yên, sau mười-năm-mặt-sạm-soi-khe-nước. Nhưng rồi về đâu sau cơn bức tử của quê hương !
Mà thôi, làm sao biết sẽ về đâu, khi lòng ta đã đường cùng từ sau lần lịch sử nổi cơn điên...
Lại nữa, Ta về ...Về ? Có về hẵn là đã có đi.
Đi ? Bốn phương tám hướng, đi đâu ? Câu hỏi bỗng nghe ra như mai mỉa ! Còn chỗ nào để đi trong thời của những-kẻ-giết-người. Lối đi duy nhất cho mấy trăm ngàn con dân đất Việt buổi đó là những trại-giam-không-bản-án mọc lên khắp nơi như cỏ dại. Cùng lúc với những cuộc truy lùng bức bách đến tận hang cùn ngỏ cụt bất kể ngày đêm, là những lời kêu gọi hòa-đồng-hòa-giải-dân tộc ra rả trên những chiếc loa phóng thanh treo khắp đầu trên xóm dưới. Gần nửa thế kỷ qua đi, dẫu trí óc có cùn nhụt đến nỗi nào đi nữa, người còn may mắn sống sót cũng không thể quên được những tuyên ngôn rổng tuếch, những thông báo láo khoét dối trá đến cực cùng... để lừa bịp xô đẩy quân nhân công chức của chế độ cũ vào tù cũng như lường gạt hai mươi mấy triệu người miền Nam còn đang bàng hoàng chưa kịp tỉnh sau cơn ác mộng... Thực chứng sống chết còn nguyên đó.
Khi chế độ đã là cùm gông, chính trị như cái rọ úp chụp lên phận người, bít chịt đến nghẹt thở thì làm sao mà biết đi đâu về đâu, một khi đã bó thân trong vòng rào của lòng thù hận, tị hiềm... đến tuyệt mức nhỏ nhen. Trong nhà tù lớn như thiên la địa võng, có hay không một ngỏ ngách đi-về ? Trong tình cảnh cá chậu chim lồng, thật ra giam kín đằng sau chấn song hay thả ra giữa những cặp mắt cú vọ của đám ác nhân thì cũng chịu cùng chung một ác ý. Khác nhau chăng là ở mức độ của những đòn thù.
Như vậy, có cần phải hỏi đi đâu, rồi về đâu ?!
Hay rốt ráo... hỏi cũng chỉ là một cách tự đánh tráo trong thời đại dối trá.
Tựa đề dẫu có gợi chút băn khoăn mà thật ra lời xác quyết về chủ thể đã làm câu hỏi trở thành vô ích. Lời đáp trả đã tiềm ẩn ngay trong đó. “Ta”, Ta về, đại danh từ ở ngôi thứ nhất, kiểu tự xưng đã ngầm chứa trong đó niềm tự hào, sự khinh mạn... của người trở về sau mười-năm-chết-dấp trong địa ngục trần gian mà lũ cai tù là loài quỷ dữ. Nghe ra không, qua đó, tiếng cười gằn, khinh bạc ! Có phải đó chính là lời xác nhận... Ta-vẫn-là-Ta. Sau hết, cùm gông, đói khát, nắng lửa đốt da, sương móc lóc thịt, tay trần đào đất, vai trần vác đá, những thùng conex biệt giam bít bùng, nước độc vàng da, bệnh hoạn không thuốc men, gạo mốc cơm thiêu, cây cỏ ếch nhái đắp đổi cho qua bữa đói khát, bao cát mót từng mảnh mục làm vải che thân, trăm lần “tự thú”, ngàn lần “tự kiểm”... hằng trăm hằng ngàn kiểu đày đọa... vừa để tra tấn vừa để triệt hạ nhân phẩm người tù, mọi kiểu mọi cách mà bọn vô nhân đã bươi móc trong cái đầu vốn dĩ đặc sệt của họ để hành tội kẻ bại trận cho đã cho bưa thứ thù hằn bệnh hoạn.
Có điều, trái với lệ thường...
Những người đi tù buổi ấy...
Ngày đi... vào tù rồi ngày về... từ cõi ngục tù, rốt lại, Ta vẫn là Ta. Cái Ta kimcương-bất-hoại. Cái Ta lừng lững giữa tầng tầng khổ nhục. Ôi ! Còn gì cảm khái cho bằng ! Ta về một bóng trên đường lớn ! Đi rồi Về, mười năm, lòng vòng một vòng tròn kín.
Về đâu chính là tự lòng ta đó thôi.
Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang
Trọn bài có 31 khổ 4 câu theo thể thơ 7 chữ, với hai câu mào đầu tách riêng ra hẳn chẳng phải là vô cớ. Chuyện đi-về của người tù chính trị ở đây đã vượt ra khỏi cái khung chật hẹp của chuyện tù tội. Y như một bản tuyên ngôn dõng dạc của kẻ sĩ giữa cuộc trầm luân mà mọi thứ ý thức hệ dẫu cuồng tín và hiểm độc đến đâu, mà mọi dã tâm đày đọa thân xác tới độ nào đi nữa... cũng đành thúc thủ. Người, sau rốt, vẫn nguyên vẹn là Người. Bi hùng như một bản cáo trạng. Và bi tráng như một bài ca Chính khí của người về ngược hướng.
(Chắc cần thêm một cái nháy mắt hả hê, đồng lỏa với sự tinh quái tế vi qua 14 chữ tách riêng mở đầu cho bài thơ dài 868 chữ. Tại sao lại phải thêm thắt riêng cho nằm lẻ loi vậy khi mỗi khổ thơ sẽ là 4 câu như thói thường. Ậy, có lý do riêng đó chớ. Thấy ra chưa, Ta về ... là do tiếngbiển-lời-rừng thúc giục, ta về là do mùa xuân rủ rê chớ chẳng có một quyền lực nào khác can thiệp kể cả cái đám quản giáo, quản huấn, vệ binh với súng dài súng ngắn cùng với đám lảnh tụ chớp bu trong cung cấm Ba đình... Dẫu cho chúng cứ huênh hoang là... thả tù ! Mà dẫu thiệt tình cho tù có được thả đi nữa mà người tù thả ra có chịu nhận vậy đâu. Thấy chưa, thấy cái lắt léo của thăm thẳm thơ chưa. Như một cách phủ nhận thứ cường quyền đang vây khổn suốt cả một dãy quê hương khốn khổ, trong đó có người tù thi sĩ mới vừa được thả ra khỏi... tù đã tức thời trở lại ta vẫn là... ta –sau khi đã cố giữ cái-Ta-dễ-bể đó trong suốt mười năm tù ngục)
Ta về - một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Ta về, một bóng trên đường lớn. Hình ảnh bi tráng đến sững sờ. Ta về một bóng trên đường lớn ! Thử tưởng như phóng con mắt nhìn theo đường vẻ một viển cảnh xa huốt tới tận chân không. Trên con đường lớn vắng hoe chạy dài tới mút mắt đó, chung quanh không có ai, không còn ai, người tù lầm lũi đi với chiếc bóng của mình, chững chạc hay xiêu vẹo, vẫn toát ra, lặng lẽ, một niềm tự hào thầm kín. Đọc thơ sao thấy hả hê như há miệng nốc một ngụm đế Đường Xuồng vừa cay vừa nồng tới muốn bốc hơi cả hồn lẫn xác !
Mà sao rượu cạn rồi... lại lợn cợn chút gì như nửa đắng nửa cay !
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu.
Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ.
Người tù đó, người sĩ quan của quân lực VNCH, ông thi sĩ Tô Thùy Yên, sau gần bốn ngàn ngày đêm bị biệt đày khổ sai ở một chỗ mà có lần ông Nguyễn Chí Thiện, tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục, đã tóm tắt gọn bâng chỉ bằng 15 chữ mà cực kỳ hùng biện chẳng kém gì những bản cáo trạng dài thậm thượt, vạch trần tội ác của người cộng sản: từ-vượn-lên-người-mất-mấy-triệu-năm, từ-ngườixuống-vượn-mất-bao-năm ?- Dẫu vậy, khi ra tù mặc cho mọi thứ thâm ý hiểm độc của đám cầm quyền mới, ngoại trừ cái thân xác tiêu hao đến mềm-phế-phủ, người lính sa cơ đó, người thi sĩ lỡ vận đó, ông vẫn là ông-cũng như hằng hằng người tù vô danh khác- mặc tình bao nhiêu thủ đoạn quỷ quyệt vừa để triệt tiêu nhân phẩm người tù, vừa để hủy diệt hào khí của những người đã một thời đứng đầu sóng ngọn gió. Hãy nghĩ đến những người đàn ông, sinh ra và lớn lên ở miền Nam thuở đó, trong lứa tuổi 30, 40. Và tình cảnh oan khuất, dở khóc dở cười của họ, những năm tháng đó ! Trẻ hơn thì kể ra cũng chỉ mới váng vất hơi lửa đạn. Lớn hơn nữa thì đã quá dạn dày. Lớp người không còn non nhưng cũng chưa quá cỗi. Những người tròng vào mình bộ quân phục trên dưới hai mươi năm, suốt binh nghiệp ở đơn vị tác chiến, đối mặt ngày đêm với cái chết chực chờ. Đôi mươi năm lửa đạn có làm thui chột tính người? Không. Trăm lần không. Lịch sử cuộc nội chiến kéo dài hơn hai mươi năm đã minh chứng điều đó. Những người đó, bỗng không rồi có một lúc bỗng sững sờ nghe lệnh bỏ súng, đầu hàng. Thử nghĩ lại cái lệnh đột ngột đó, cái giây phút chết sững đó, ngay lúc đó, họ nghĩ gì, khi trong tay còn bao nhiêu sinh mạng của những người đồng đội, của những kẻ thuộc quyền, những đứa em ngày đêm đã gởi gắm sinh mạng cho họ qua bao nhiêu lần sống chết có nhau. Lại nữa, trong suốt quảng đời chinh chiến chắc ai cũng có một niềm hãnh diện nào đó, dù thầm kín, khi dang thân mình giữa cuộc tử sinh để giữ cho quê hương được sống còn trước những cơn cuồng sát, từ hơn hai mươi mấy năm qua.
Vậy rồi, trả súng, quay về hẵn không ai là không thoáng có một chút ước mơ... một thoáng nghĩ tới cuộc đoàn tụ tất nhiên với cha mẹ già đã mỏi mòn khấn nguyện, với người vợ đêm ngày thắc thỏm, với mấy đứa con thơ thiếu cha, với những người tình đã ứ thừa thương nhớ...
Có ai kịp nghĩ tới cái kết cuộc tuyệt mức bi thảm và vô lý của những trại giam đang chực hờ mở rộng cửa chờ xua họ vào cõi... địa ngục. Hãy nghĩ lại, cái giờ phút ngỡ ngàng khi biết mọi sự đã không như là họ... ngỡ. Hãy nghĩ lại, cái giờ phút mọi gian xảo để lộ ra hết mọi giả trá của một thứ hòa bình giả tạo...
Hãy nghĩ lại, tự dưng, họ trở thành những người tù khổ sai...
Hãy nghĩ lại những chiếc xe hàng phủ bạt bít bùng chạy thâu đêm, những chuyến xe lửa dài thậm thượt chạy suốt từ Nam ra Bắc, chất dồn đống những nạn nhân của một cuộc tráo trở vĩ đại như lịch sử chưa từng.
Hãy nghĩ lại...
Hãy nghĩ lại...
Thả lòng theo TA VỀ, dẫu thơ không vui mà đọc rồi lòng sao khinh khoái. Có ngả đầu bái phục bao nhiêu lần vẫn thấy dường như không đủ. Ôi rõ là bậc vươngtôn-miền-trí-tuệ. Trọn bài, hai chữ TA VỀ được lập đi lập lại 16 lần – không kể tựa đề, làm thoáng nhìn cứ ngỡ là một bài hịch với dụng ý như... gằn giọng để xác định một quyết tâm trong một tuyên cáo tuyến bố chi đó. Nhưng lạ, đọc lên rồi lại chỉ nghe ra như một lời tâm tình, rạch ròi chửng chạc mà lại thân mật gần gũi. Âm thanh không vổ đập mà lại ve vuốt hồn người. Chữ nghĩa cao kỳ mà không kiểu cách. Thứ chữ mang hơi hướm ngữ âm miền Nam, âm điệu nồng nã, trân trọng mà không khách sáo, sang cả mà vẫn gần gũi... Tuyệt hơn nữa là chữ dùng đa số với thanh “bằng”, có vọng âm “trầm” nghe ra như trần tình mà không hề than thở. Nhịp thơ rắn rỏi, gọn bâng mà để lại dư âm như lớp lớp sóng đồng tâm lay động mặt hồ ngoài kia, mỗi lúc một lan xa, lan xa... mà ở đây, xa tận tới nghe-đau-mềm-phế-phủ ! Những câu thơ phảng phất thứ thi vị hồn hậu mà thâm thúy, làm người đọc cảm thấy gần gũi, thân thiết dù nghĩa lý thì ôi thôi sâu hun hút. Xin được hảnh diện lây, dân Nam kỳ lục tỉnh vốn mang tiếng ăn nói nôm na, bộc trực ... kể cả quê mùa.
Thử nhớ lại với Tô Thùy Yên, cái thời-quỷ-ám. Như tiền đề của một chuyến trở về...
NỖI ĐỢI-
.............
Kẻ mới tới bày tòa giữa chợ,
Giải người ra, sỉ mạ ba đời,
Cho đeo bảng, dong đi khắp phố,
Bắn bỏ bên đường, cấm nhận thây.
Chỉa súng đuổi người ra khỏi đất,
Đày đi biền biệt miệt thiên thu.
Đuổi cả người chết ra khỏi mộ,
Cày nghĩa trang, trả vói thâm thù.
Quan lại sánh tày bão châu chấu
Ập xuống đồng, nghiến ngấu của dân...
Nhơn nháo chẳng cần che lấy mặt,
Mấy đời mới gặp dịp nên quan.
Những năm đó, làng ta đói kém.
Lúa gặt về, nhà nước trưng thâu.
Dân cùng ăn đến cả nhau đẻ,
Bán tình thâm mà mua gạo châu.
Con tố cha cầu được cất nhắc.
Cháu giết bà cướp nửa chỉ vàng.
Thiên hạ cùng xanh mặt trắng mắt
Nhớn nhác dòm quanh, lén cả than...
.........
Trăm họ lần lượt bỏ xứ trốn,
Biển thì hung hãn, thuyển mong manh.
Ta nghe kể lại: xác lên bãi
Nằm dài dài như lúc chiến tranh.
.........
Ngửa mặt khóc cười ba tiếng lớn,
Giận thân sao đã khứng ra đời,
Bỏ đi, khinh bạc nghiêng trời đất,
Gặp đá bên đường, cúi hổ ngươi.
..........
Cát bụi sao quên mình cát bụi,
Đành hanh nhau tàn khốc máu xương.
Mấy mươi năm chiến tranh, tù rạc,
Cười rộ vô thường một tiếng suông.
Đời động. Đồng rừng rêm tiếng mõ.
Ai người rao giảng điển long hoa ?
Láng giềng bị bắt lúc trời tối.
Lật bật rồi cũng đến lượt ta...
................
Có nhớ lại gì không, qua 36 câu thơ như dao khắc đá đó, cả một cuộc thảm sát mới, không bằng súng đạn-mã tấu-dao găm, mà lại cũng không kém phần tàn độc, nhằm hủy diệt một lý tưởng nhân bản đã thành nếp của nửa phần dân tộc sống ở bờ nam Bến hải.
Dẫu quên quên nhớ nhớ cũng là chuyện thường tình của người thiên hạ. Nhưng có những điều làm sao quên !
Ứ đọng trong tâm khảm người tù chính trị đằng đẵng suốt mười năm như tầng tầng trầm tích, cộng thêm những đòn thù hiểm ác từng phút từng giây mãi cho tới lúc được thả ra... cũng vô lý như khi bị bắt đi.
Dõi theo chân người về, sau suốt mười năm tù đày vừa rúc rỉa thân xác, vừa đục dũa nảo cân, thân phận người tù chẳng khác gì con sâu cái kiến bởi những kẻ vốn vẫn rêu rao là đi giải-phóng-dân-tộc, ông thấy gì ? Sông nước bơ vơ, cỏ cây phờ phạc, phố xá im lìm, xóm làng ngơ ngác... Và nhất là lòng người, những tấm lòng đã một thời xóm giềng, những thân sơ đã một thời núm ruột, bỗng có lúc trở thành e dè, nghi ngại lẫn nhau dưới sức ép của một chế độ công-an-trị. Phố xá làng mạc như co rúm lại trước những mũi súng chực hờ và những tia nhìn gườm gườm như mắt rình mồi của loài chó sói.
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.
Người về từ sau cơn địa chấn kinh hoàng đã làm sụp đổ tan hoang hết mọi niềm tin vốn từ khởi thủy đã là nền tảng của một xả hội nhân hòa, để từ đó đã dựng lên một quốc gia văn hiến. Còn gì nữa đâu. Quê cũ. Đám người từ rừng rú đổ ra đã biến xóm làng thành rừng rú. Ông đã cầm lòng mà xác nhận như một sự thể đã rồi. Mọi cửa ngỏ đã bít kín. Rồi ra, quanh ông chỉ là cái nhà tù lớn, nhốt người thêm lần nữa...
Chỉ có thế. Trời câm đất nín.
Đời im lìm đóng váng xanh xao.
- (11 chữ đủ tả cái bộ mặt đặc cứng, ù lì mà trong ruột thì lộn lạo hết mức của xả hội miền Nam VN sau năm 75 như mặt hồ đóng váng lợn cợn và xanh úng rong rêu . Nhất ông, ông Tô !) -
Trở về sau mươi năm vật đổi sao dời để người vắng mặt bấy lâu thấy rõ hơn chuyện đổi thay đến tận cùng dâu bể. Tốt thành xấu. Sai thành đúng. Mọi nấc thang giá trị nhân bản bị đạp đổ ngang xương. Thay vào đó, con người chỉ còn là một thứ công cụ sản xuất nhằm để phục vụ cho một chế độ phi nhân. Trong tình cảnh đó, thử hỏi người trở về làm sao không thấy lạc lõng. Hổng chừng thêm một chút chua chát... phải chi hồi đó đừng bỏ súng, sống chết chỉ một lần ! Và tuyệt vọng. Kiểu như ông Trần Tế Xương có lần một-mình-đứng-giữa-quãngchơ-vơ, ông Tô chắc cũng đã quặn lòng đau mấy lượt... Nhưng rồi, dẫu vậy, dẫu đã mất hết nhưng với khí tiết của một kẻ sĩ đã được nuôi dạy ngay từ tiếng mẹ ầu ơ, sau cùng, người thi sĩ của mùa quốc nạn đã vượt lên khỏi mọi bạc đãi của lịch sử, và từ đó, như một xiển dương thầm lặng về giá trị của con người, vẫn giữ vững Cái Ta, cái của Riêng Ta, đứng ngoài và đứng trên hết mọi chuyển động của không-thời gian, của lịch sử, của tội ác. Chính từ đó mà giữa hoang tàn đổ nát của lòng người và đất nước, kẻ sĩ làm thơ vẫn giữ lại được cho riêng mình một khoảnh trời đất cũ, có yêu thương là bản vị của đời sống, có lòng nhân ái là thước đo của văn minh, có huyền thoại một mẹ trăm con là bản sắc của dân tộc. Và một hồn thơ như được trui rèn trong khổ dịch càng trở nên bi tráng. Thơ như con đường hồi sinh của kẻ oan tình, biết mình đúng, tin chắc vào Lẽ Phải. Không cao giọng mà sao thấy ra cái vẻ dửng dưng, khinh mạn của người về từ hỏa ngục. Mặc kệ những trù dập, bức bách của đám cầm quyền mới bám riết theo như ruồi bu theo miếng bánh ngọt, mọi ác tâm rồi như lớp bụi hờ bám vai người qua trần thế. Con đường thơ mở ra bát ngát. Mỗi vần thơ như mỗi tiếng chuông cứu khổ, độ người qua cửa bể trầm luân.
Ta về qua những truông cùng phá,
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may.
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.
Chỉ có thế. Trời câm đất nín.
Đời im lìm đóng váng xanh xao.
Mười năm, thế giới già trông thấy.
Đất bạc màu đi, đất bạc màu...
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.
Ai đứng trông vời mây nước đó,
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.
Một đời được mấy điều mong ước ?
Núi lở sông bồi đã lắm khi...
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động.
Mười năm, cổ lục đã ai ghi ?
Núi lở sông bồi đã lắm khi... đọc lên như nghe một tiếng cười khảy trước những vọng động của kẻ vô tâm.
Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Cám ơn hoa đã vì ta nở. Có thật là hoa nở vì ta. Sực nghĩ tới Lão Đam. Câu thơ như một xác nhận tuyệt vời của sự đồng cảm, một sự liên đới chằng chịt giữa ta và vạn vật, của ta trong vạn vật và vạn vật ở trong ta. Thật ra hoa tới mùa thì nở. Hoa nở rồi tàn. Có điều chắc chắn là mùa sau hoa lại nở. Như một lời hẹn thủy chung. Vấn đề là ta có nhận ra được không, cái vòng luân lưu bất diệt đó để tìm ra lối thoát cho cái vòng tù hảm đang vây kín đời ta. Một đóa hoa dại dọc đường giữa một dặm trường nắng cháy, người qua đường có thấy được nét tươi mát của hoa-nở-vì-ta để dổ lòng cháy nắng ? Và nhìn ra trong đó sự độ lượng của thiên nhiên trong cuộc tuần hoàn vô thủy vô chung. Cám ơn hoa đã vì ta nở. Nhận ra tuổi mãn khai của bông hoa chính là ngã trọn mình vào lòng thiên nhiên mà sống. Mà cũng từ đó, đâm chồi những hy vọng. Rồi ra, cái đẹp, cái thiện... vẫn còn đó và sẽ còn đó dẫu bao nhiêu dùi vập. Nhận thức được điều đó là sự hòa đồng tuyệt diệu của ta và vật, là nhịp cầu cho sự cứu rỗi. Hình tượng bônghoa-nở còn như là một hứa hẹn cho một khai mở nào đó. Mọi thứ rào chắn rồi cũng chẳng cản được chân người. Những chiếc ghe con bắt đầu bỏ bến... ra khơi... Bằng mọi cách dẫu có phải đi tìm cái sống trong cái chết, người quanh quanh vẫn lìa xứ ra đi. Bao nhiêu người tới bến ? Bao nhiêu người bỏ xác dọc đường ? Mà dẫu có là bao nhiêu cũng là một con số quá đổi oan khiên cho một dân tộc vốn tự hào là đã sinh ra từ một-mẹ-trăm con !
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa,
Làng ta, ngựa đá đã qua sông,
Người đi như cá theo con nước,
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.
Ta về như lá rơi về cội.
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta.
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,
Người thức nghe buồn tận cõi xa.
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.
Tội tình chi lắm nữa, người ơi !
Trong buổi chạng vạng của niềm tin, người với thơ, như đôi bạn tâm giao dắt díu nhau tìm về chốn cũ, dẫu đã quá độ tang thương và phải lặn ngụp trong thứ không khí nghi kỵ đang phủ trùm làng xóm, sau hết vẫn gặp lại đâu đó, hồn xưa một thuở...
Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.
Mười năm, ta vẫn cứ là ta.
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
...................
Ta về như tiếng kêu đồng vọng.
Rau mác lên bờ đã trổ bông.
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.
Đằng sau những phản trắc lồ lộ, những ép bức đến nghẹt thở, vẫn còn đó... những thủy chung như kết quả của một xả hội lấy lễ giáo làm đầu, từ đã mấy ngàn năm, dẫu bỗng không bị phủ nhận rồi gán cho hai chữ phản động để vứt bỏ. Trong tình cảnh đó, người ở lại dở khóc dở cười mà phải cắn răng chịu đựng để hy vọng một cuộc trùng phùng với người đi biệt dạng. Cái kiểu trông chờ mà không chắc có ngày về, có phải cũng là một thứ cực hình không hơn không kém. Vâng, đâu phải chỉ người đi đày mới đầy oan khuất, người ở lại cũng hứng chịu oan khuất không thôi. Cuộc đổi đời tàn khốc đó có phân biệt ai đâu. Không tù gông thì cũng phải gánh chịu bao nhiêu oan ức. Từ những lệnh lạc ngây ngô đến những ép uổng vô cớ, những thiếu thốn trăm bề, từ miếng gạo trộn bo bo tới con mắt láo liên dò la, bưới móc, những đồng bạc mồ hôi-và-nước-mắt bỗng một sớm một chiều hóa thành tờ giấy lộn, viên thuốc cảm, thước vải thô, mồ mả đào xới tan hoang, những điệu nhạc Tàu như xoáy điếc lổ tai ra rả ngày đêm qua những chiếc loa treo khắp hang cùng ngỏ hẻm, những cày cuốc nhét vào tay vốn quen mùi giấy bút. Kể cả cái đám con nít choi choi mới lớn, trai gái bất kể vừa tới tuổi giữa bậc trung học mà trước đó đã lở đầu thai vào gia đình có cha là ngụyquân-ngụy-quyền cũng bị đuổi học làm như chữ nghĩa cũng bè đảng như ai. Biết bao nhiêu oan trái người ở lại cắn răng gánh chịu để trông... để đợi... để chờ... Những người đàn bà, những người mẹ, người vợ, người tình... bỗng chốc mất đi núm ruột, mất nguồn yêu thương, mất nơi nương tựa... Hòa bình rồi mà mẹ nhớ con mòn mỏi, vợ trông chồng chẳng khác đá vọng phu... dù người đàn ông của họ vẫn còn đâu đó, giữa mạng lưới nhà tù mù mù như lưới nhện. Thử tưởng đến những người đàn bà miền Nam thuở đó, mừng chưa kịp chuyện trùng phùng sau cơn lửa đạn thì đã phải trần thân gánh lấy nợ đời mà người cha người chồng người tình của họ đã bỏ lại đó để... đi tù ở những nơi không ai biết, ngày về chẳng ai hay. Những người đàn bà khốn khổ của miền Nam buổi đó, những phụ nữ tay yếu chân mềm... bỗng chốc phải dang thân ra đứng đầu ngọn sóng để nuôi bầy con có cha mà bỗng chốc mồ côi ! Người thì tay cuốc tay len đào đào xới xới mấy miệt đất chai ruộng phèn gọi là đi-kinh-tế-mới, người thì tay nách xách mang ra mưa nắng chợ trời ... vừa nuôi con nuôi cả chồng đang đi trả món nợ chẳng biết ai vay ! Thử tưởng đến những người đàn bà miền Nam trong cuộc đổi đời năm ấy. Thử tưởng đến người vợ miền Nam sau khi được phép thăm nuôi, cụ bị gạo muối trần ai... lặn lội đến được trại giam thì tin chồng đã chết... vì đói. Thử tưởng đến người mẹ miền Nam đem gởi đứa con mới lên 10 tuổi cho người dưng dắt đi vượt biển. Ruột có đứt trăm khúc chắc chưa đau bằng tấm lòng mẩu tử... Còn bao nhiêu oán khúc phải kể ra. Mà kể ra làm sao cho đủ.
Này cha già mẹ yếu. Thử nghĩ coi sanh con hẳn ai cũng đặt vào đó bao nhiêu là kỳ vọng. Giờ, đón con về với một thân xác tàn phế khi cửa nhà đã mỗi lúc một quạnh hiu. Những bậc sanh thành đó, họ nghĩ gì khi dang tay ra... Người về đau đớn một, bậc cha mẹ còn đau đớn tới bao nhiêu ! Tình cảnh hẵn không khác gì đứa con đi làm ăn xa, nay thất bát quay về quê cũ, dẫu có mừng mừng tủi tủi nhưng làm sao giấu được nỗi bẽ bàng. Mà còn hơn vậy nữa, nỗi đau này thực tế và cụ thể hơn nhiều lắm. Họ không kịp nghĩ tới lý tưởng hay gì khác, tình cảnh này còn đau lòng hơn gấp bội khi máu huyết của họ giờ trở lại như những bộ xương khô. Họ đã đau như chính thịt da của họ bị cắt xé...
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.
Mười năm, con đã già như vậy.
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu...
Từng đoạn ngắn bốn câu, như một bản liệt kê những tai ương đã chia đều cho từng người một. Ẩn mật và thiết tha gói ghém từng lời tạ ơn kín đáo cho từng nỗi đợi chờ đã tưởng là vô vọng.
Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em.
Đau khổ riêng gì nơi gió cát...
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm.
Trở về sau khi vắng mặt hết một phần mười của đời người, dẫu không tận mắt nhưng người về làm sao không thấy được cam khổ của người ở lại. Đau thương còn sờ sờ ra đó. Sự giao cảm giữa người đi và người ở lại là bằng chứng của những tấm lòng đôn hậu vốn quen sống trong một xả hội thuần lương. Nhất là đã tin chắc vào nguyên lý tột cùng. Cái tốt, cái đẹp, cái ân, cái nghĩa, cái thủy chung... vẫn lẩn quẩn đâu đây, dẫu trần gian có đang là địa ngục. Nhất là, những đức tính vừa kể vốn là phẩm chất để phân biệt con người và thú vật. Phủ nhận những điều đó có phải là đang tự hủy diệt. Người ta sinh ra đâu phải để dối trá, đâu phải để cưởng bức, đâu phải để giết người, đâu phải để bày trò tàn khốc tru di đồng loại. Người ta sinh ra để nối tiếp dòng đời miên viễn, như sông con đổ nước về sông cái, để cùng nhau chảy miết ra biển lớn. Để rồi trở ngược lại từ đầu, tiếp tục cuộc tuần lưu vô hạn.
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa.
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà !
Tình xưa như tuổi già không ngủ,
Bước chạm khua từng nỗi xót xa.
Thử tưởng đến cuộc trùng phùng của người chờ từ vô vọng và người về từ vô phương. Sự nối kết lại một cuộc chia lìa, bi ̣tách đôi bởi một lực cản ráo cạn nhân tình có thể coi như biểu hiện của chân lý, rồi thì cái thiện thắng cái ác, để tiếp tục dòng sống vô thủy vô chung. Đó có thể coi là nguyên lý tối thượng cho sự hiện hữu của chúng sinh. Ngày nào cái ác đại-thắng (!) ngày đó sẽ là sự hủy diệt chung cùng của nhân loại ! Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn, Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà. Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở ? Mười năm, cây có nhớ người xa ? ( Lời thăm hỏi ân cần đến từng cọng cỏ ngọn cây nghe ra tưởng chừng như kiểu cách. Mà thật ra đó chính là biểu tượng của sự hồn hậu, khoáng đạt, tốt bụng... được kế thừa từ truyền thống dân tộc vốn lấy nhân nghĩa làm đầu, từ đã mấy ngàn năm. Vụt cái muốn phá bỏ nền luân lý cổ truyền đó tới ráo cùng thì rồi lấy gì mà đối đãi giữa người với người. Bốn mươi tám năm sau, nhìn ngó trở lại ở bên kia bờ đại dương, có thực chứng gì không ? )
Rồi ra, còn đó, dẫu chút hơi tàn vẫn là ân sủng của trời đất. Còn đó, cái Ta với mọi thứ của riêng ta, vẫn là thứ vinh quang rốt ráo của kiếp người, sau khi trải qua bao nhiêu vùi dập mà hổng chừng đến sắt thép cũng bị bẻ cong. Người tù, với thịt da xương cốt mềm hơn sỏi đá vẫn lặng lẽ tồn sinh. Với kinh nghiệm của khổ ải, sau bao nhiêu trần ai, có phải niềm tin vào lẻ tuần hoàn càng thêm rõ rệt. Nhận thức ra điều đó có phải là dịp để hóa giải những trớ trêu của định mệnh, và tìm cách thuận thảo với những oái ăm của thân phận làm người. Có phải sau khổ nạn dù làm lở dở cuộc tồn sinh, người thi sĩ với cõi thơ vô biên đã tìm ra sự thỏa hiệp cần thiết để thâm cảm và khoan dung, ngay cả với trò dâu bể. Có phải đó là cách thế giữ mình giữa cuồn cuộn những tai ương. Và cũng từ đó, để xác minh cho thứ vinh-dự-lầm-than đã có lần biểu-dương đến cùng-tận.(*) Rồi ra cái Ta vẫn muôn thuở, bất kể ngoài Ta đời có nổi hung đến nỗi thừa cơ cho chó- nhảy-bàn-độc làm lộn lạo cả kiếp người. Có phải nhờ vậy, khi tâm đã định mà thơ trở lại giữa điêu tàn bằng những bước thênh thang như đời chưa từng dâu bể.
Điều đó có phải còn là bằng chứng về sự thất bại của chế độ gông cùm đang cố tình giam giữ hồn tính của cả một phần dân tộc. Thoát được ra khỏi cái lồng kín của sự thiển cận, hẹp hòi đến ti tiện... giữ cho mình không sa đọa vào thứ thiênđường-mù đang ngày đêm ra rả tuyên truyền chính là cuộc chiến thắng thầm lặng của lương tri với tội ác. Lòng người về mở toang ra với thế giới mênh mông của trời đất, vẫn nguyên si từ một thuở hồng hoang, như đứa con trở về ngôinhà-của-mẹ.
Trở lại sau mười năm giam cầm, dù thể xác có hư hao mà tinh thần vẫn không hề suy xuyển- cùng với hàng trăm ngàn bạn đồng tù vô danh khác, phải kể là một tuyên dương thầm lặng của ý thức nhân quyền. Tự chủ. Tự do. Chỉ có Ta làm chủ được ta. Bằng một cách nào đó, cộng với cái nhìn vô thường tự tâm vô ngã, có phải là lối thoát của tinh thần ra khỏi cái ám ảnh của chín tầng địa ngục mà đám cai tù vô học, vô nhân thừa lệnh đám cầm quyền vô thần vô hậu đã bày ra vừa để hành hạ xác thân vừa để tẩy nảo những kẻ sa cơ thất thế. Bài thơ như một chứng tích hùng hồn cho sự thất bại của lũ người cuồng tín. Trở về là vứt bỏ mọi trói buộc từ xiềng xích bằng sắt thép tới xiềng xích bằng kiểu lý luận tròng tréo của thứ chủ nghĩa sát nhân, giữ y nguyên tánh của con người vốn đã được thủy chung gìn giữ ở Miền Nam ngay cả khi phải cố giữ cái sống khi kẻ thù đem gieo rắc cái chết ở đó suốt hơn hai mươi mấy năm dài.
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui.
Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng.
Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi.
Bé ơi, này những vui buồn cũ,
Hãy sống, đương đầu với lãng quên.
Con dế vẫn là con dế ấy,
Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen.
Hình ảnh “con dế” có phải là biểu trưng của một cõi đời đã mất vốn êm ấm trong vòng tay thương yêu của cha mẹ, trong bảo bọc của một xả hội công bằng với một nền giáo dục dân tộc-nhân bản-khai phóng mà tuổi trẻ miền Nam đã thừa hưởng. Có phải cũng từ đó đã vượt lên trên mọi biện biệt với cái tâm xích-tử. Ta về như lá rơi về cội. Để người “ về ” cảm thấy như chưa có lần đã... “ đi ” !
Ta về khai giải bùa thiêng yểm.
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi !
Hãy kể lại mười năm mộng dữ.
Một lần kể lại để rồi thôi.
Một lần kể lại để rồi thôi.
Có thể vậy không ? Hay để trấn an cho chính mình khi chữ nghĩa cứ cuồn cuộn như sóng biển ngày gió lớn. Và cuộc đời, cuộc đời thì như con sông trăm nhánh, nước khi lớn khi ròng, có bao giờ ngừng lại. Chỉ có con người là sẽ có lúc lặng tiếng, im hơi. Bởi vậy còn biết bao điều chưa nói kịp khi mà bất-tận-nỗi-đời-hunghãn-đó. (*)
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua.
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,
Đành không trải hết được lòng ta.
Đành không trải hết được lòng ta ! Quả là một tiếng kêu thống thiết. Sự thú nhận tính cách bất toàn và hữu hạn của đời người như một thất bại tự thân của cuộc hiện sinh quả là lời báo trước cho những kẻ tập tểnh vào đời. Hay cũng là lời an ủi cho cả một thế hệ đã... đầu-thai-nhầm-thế-kỷ.
Mà thật vậy, làm sao, làm sao nói ra cho hết, làm sao kể ra cho đủ dẫu lòng người đã vói tới mấp mé bên rìa cuộc biến thiên của Vô thủy Vô chung. Dù chữ nghĩa đã như xé rách hết mọi lớp vỏ để vét cho ráo cạn mọi nỗi niềm. Người làm thơ đã vậy. Còn người đọc thơ, có mạo muội quá không ? Hay là đọc thơ rồi nín bặt, rồi chảy nước mắt như Trần Tử Ngang trên đài U Châu, một lần nào đó !
Thật vậy, ba cái thứ chuyện lấm lem máu me xương cốt thì thiệt tình làm sao tả ra cho hết được, thứ thương tích lút sâu trong tận cùng tâm thức... Máu trên da thịt còn lau khô rồi băng bó cho lành. Còn thứ máu-me-vô-hình mà lênh láng trong các trại tù nằm lẫn lút trên dãy Hoàng Liên Sơn ở ngoài Bắc hay Suối Máu trong Nam, ( v.v... và v.v...) đã ăn luồn tới hun hút trong đầu, trong tim, trong từng giọt mồ hôi chảy xuôi như suối, trong từng giọt nước mắt nuốt ngược vào lòng thì lấy gì mà nói, mà tả ra cho hết được, tầng tầng oan khuất đó. Chữ nghĩa tới một mức nào rồi cũng phải đành bất lực.
Ta về như lá rơi về cội.
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Đọc thơ Tô Thùy Yên có giải oan được chút nào cho những vết thương không chịu lành đó không. Câu hỏi bật ra như viên sỏi ném vào vực sâu không đáy. Làm sao có tiếng dội giữa mịt mùng ! Mà tội gì phải hỏi thêm. Chỉ biết lòng người vốn độ lượng.
Thì, cũng đành... thôi vậy !
Ông Tô Thùy Yên làm thơ không ít. Thể cách từ tân thời tới cổ điển. Mà thôi sá chi mớ hình thức khi mới cũ gì cũng trên tay thiên hạ. Bất chợt nhớ thêm mấy câu thơ trong bài Góa Phụ.
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn
Tiếng kêu đá lỡ long thiên cổ
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.
Chữ nghĩa quả là khốc liệt. Xác chữ thì cũ mà hồn chữ thì mới, hình ảnh thì quen mà góc nhìn lại lạ, âm điệu cổ điển mà tiếng vọng dội rền tới tận cõi quên, cứ làm bật dậy những xác đời đã tẩn liệm trong quan quách của thời gian.
Làm thơ như ông Tô quả là thốn-tâm-thiên-cổ. Thơ mới đã mấy ai chữ nghĩa như ông. Nghe nói ông rất khó với mình. Thơ làm có khi xóa tới xóa lui làm sực nghĩ tới người đục tượng cầm dao khắc đá. Chảy máu tay là chuyện thường.
Bởi vậy không lạ khi đọc thơ ông, từng chữ từng nghĩa cứ như xoáy, như ngoáy, như khoét làm rát buốt đến tận tâm can.
Rồi lại nhớ tới đời xưa, lời bàn của Mộng Liên Đường chủ nhân cảm thơ Nguyễn Du tới độ thấy lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trường tân thanh cũng phải. (**)Ý là Truyện Kiều dài 3254 câu lục bát, có những câu thơ ... ơi là thơ. Và có những câu cứ như là những cái gạch-nối mấy câu... thơ.
Thơ của Tô Thùy Yên có nên gọi là Đoạn Trường Tân Thanh bản 2 chăng ? Có nhận ra được với ông hết tận cùng cái tang chế của một thời đoạn trường mới chăng ? Hỏi mà dường như câu trả lời đã hiện ra trước câu hỏi. Từ bây giờ. Và còn mãi mai sau.
Lịch sử đang tiếp tục quay đều cái vòng quay của nó, có khi dang tay ra cố hết sức kéo ngược lại mà chẳng được bao giờ.
Dẫu vậy, có ai bắt quên khi chứng tích còn sờ sờ ra đó.
Thì thôi, bắt chước ông Tô Thùy Yên :
Một lần kể lại để rồi thôi.
Dù
Người thức nghe buồn tận cõi xa.
Người thức nghe buồn tận cõi xa !
Cao Vị khanh
(*) Biểu dương-hãy biểu dương cùng tận
Vinh dự lầm than của kiếp người -TTY-
(**) Bài tựa Truyện Kiều viết năm 1820 của Mộng Liên Đường Chủ Nhân -
ĐỌC THÊM
Trích một đoạn phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh về thời ngục tù cộng sản sau năm 1975
Nguyễn Mạnh Trinh:
- Khi bị đối phương cầm tù, tâm trạng thực của anh ra sao? Có giống như trong những bài thơ mà sau này anh đã viết ra không?
Tô Thùy Yên :
-Tôi nghĩ lại là đại để trong tù và tâm trạng trong thơ của tôi không khác nhau. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975 khi đã vào tù rồi, tôi luôn luôn tự nhắc nhở mỗi một điều là hãy coi mình như đã chết và đây chính là phần posthumor life của mình Đời ta sáng mượn ánh tàn dư/ đến từ một hành tinh đã tắt nghỉ… Tất cả mọi nỗ lực nhiều khi vượt sức bình sinh của mình trong thế giới đày đọa đó là phải làm thế nào gìn vàng giữ ngọc, đương đầu với mọi kỹ thuật thâm độc nhằm hủy diệt nhân cách như là cái phần duy nhất còn lại của những người bại trận. Kẻ có liêm sỉ không vỗ ngực mình là người anh hùng trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy mà chỉ có thể hài lòng là mình đã chẳng gục mặt trước bạo quyền để phải nhục nhã về sau với bạn hữu.
___________________





Rồi tết qua đi, sầu ở lại
Quê nhà xa huốt một đường bay
Rượu xuân ai ướp mùi quan ải
Mà thấm xa thêm những dặm dài !
Bốn câu hai mươi tám chữ, cụt ngủn. Lỡ có muốn thêm cũng chẳng biết thêm gì. Mà có thiếu gì không, mấy câu gọi là thơ, buổi chiều mùng-ba năm đầu tiên ăntết ở xứ người.
Một năm trước đó, ngay bửa ba-mươi-tết, tôi bồng đứa con gái đầu lòng lên năm, đeo xe đò từ một tỉnh ở phía cực tây, về thăm cha mẹ ở một làng quê giữa hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Luôn thể để báo tin một chuyến đi xa. Xa lắm, không biết có tới nơi tới chốn. Mà cũng chẳng biết ... rồi sẽ có một ngày về. Gia đình đông con, bốn trai năm gái. Nhưng lần ấy, ba anh em trai còn đâu đó trong các trại tù heo hút mấy miệt rừng núi Lào Kai, Yên Bái ... Mấy chị em gái cũng bận đi nuôi chồng trong các trại lán lẩn lút giữa một miền Nam thân quen bỗng sớm chiều trở thành lạ lẫm.
Chỉ còn tôi và đứa cháu gái ngu ngơ hớn hở vì được về thăm nội dù từ khi lọt lòng chưa một lần được nội ẳm bồng.
Đêm ba mươi. Ba tôi thắp ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ tổ tiên cho tôi lạy từ biệt đất nước ông bà. Ngôi nhà gạch xinh xắn có giàn bông giấy tím ở tỉnh bị cướp trên tay, đổi thành căn nhà lá vách tre đứng chênh vênh trên doi đất vói ra vàm kinh Bình Phụng. Đêm cuối năm, trăng sao trốn biệt. Đêm trừ tịch, gió rền rĩ lẫy hờn. Đêm sinh ly, sóng vổ bờ như vổ vào chính lòng tôi, từng điệu oán.
Lễ xong, tôi xoay qua, mếu máo quỳ lạy sống ba má tôi, lần đầu mà nghĩ là lần cuối. Con gái thấy lạ cười ngặt nghẽo trên tay bà nội.
Sáng hôm sau, bồng con quày trở lại nơi mai mốt sẽ khởi đầu cho chuyến đi vô định.
Mùng chín tết năm đó, tôi rời Việt Nam.
Một năm sau, tôi ăn tết ở một nơi không có bàn thờ ông bà, không cha không mẹ, không anh chị em, không hoa mai cũng chẳng mứt gừng mứt bí... Chung quanh tôi, tuyết trắng, trắng đến mênh mông như một cõi lòng đã lạnh. Trái đất quay, quay theo chiều quay nghiệt ngã. Xuân ở quê nhà, quê người đã quá nửa chừng đông.
Giữa đêm, trời đổ tuyết. Từng nhúm tuyết mịn bân mà nhẹ hửng như bông gòn thổi bay xối xả, nhuộm trắng cả đêm đen. Gió réo, tuyết loay hoay xoay chiều, lắm khi luống cuống như lạc nẻo, quẩy đập vào nhau vật vã như tiếng kêu khổ của mùa. Đêm gượng sáng mà có ngó ra thử tìm hướng cố hương cũng chỉ thấy mù thêm hai con mắt vốn đã thất lạc, từ khi. Nhìn tuyết trắng trời mà cảm thán tới muốn sửa thơ Nguyễn Bính tiếc Huyền Trân. Giờ đây chín vạn bông trời nở / Riêng có lòng ta khép lại thôi. Ông ta tả hoa lá mùa xuân rực rỡ ở đâu không biết. Chớ ở đây, cõi tôi gá thân chỉ có trắng một trời bông tuyết nở ! Lòng người xa xứ, có khép lại, cũng đành.
................................ ............................
Vậy mà rồi hơn bốn mươi năm. Bốn mươi năm biệt xứ, không về lại một lần. Tang cha, tang mẹ, trắng xé lòng, mỗi lượt. Ở xa, tôi không đi chùa đi miểu. Mỗi lượt, tôi, mình tôi, chẳng đạo chúa, trốn vô ngôi nhà thờ nhỏ ở góc phố vắng. Trưa im im, lặng ngắt, đèn thờ không sáng nổi mặt tượng. Không gian nhốt kín, cả đến gió thu cũng bị chận lại bên ngoài. Mình tôi, riêng lẻ mình tôi, thu mình trong một góc khuất, nhìn cái trống không giữa những vòm cong thánh đường. Tôi ngồi ở đó, bất động. Rồi thấy lại tôi chín mười tuổi chạy nhảy thênh thang giữa tấm lòng trải rộng đến mênh mông của cha mẹ. Thấy lại tôi trưởng thành vẫn y nguyên một nỗi cưu mang như khi còn đòi bồng ẵm. Thấy lại tôi với lời tự hứa báo hiếu ngày mới ra trường. Thấy lại tôi bỏ cha bỏ mẹ ngay đúng lúc tuổi già xế bóng ... Thấy lại tôi với tội nghiệt tôi ...
Tôi ngồi ở đó, khóc, lặng lẽ mãi đến khi chiều xuống.
Rồi ra về với huyệt mộ chôn kín trong lòng.
Hôm sau, đã ba chân bốn cẳng chạy theo miếng ăn, giữa xứ người rộn rã mà quạnh quẽ tiếng hỏi câu chào.
Mươi năm sau, nghe người về, rủ rê. Sao lòng tôi lạnh tanh. Tôi không yêu quê tôi sao. Không ! Tôi yêu quê tôi lắm chớ. Ở đó còn mồ mã ông bà dù đã lạn. Còn bao nhiêu mồ mã vô danh khác dù đã tan thành cát bụi để tựu hình mảnh đất hình chữ S nằm nghênh ngang một cõi bờ Đông Hải, gần suốt hai mươi thế kỷ. Còn riêng trong một góc nhỏ, hai nấm mộ lạnh tanh. Nơi đó, tôi đã lớn lên, ngoài sự chăm lo đùm bọc của mẹ cha, còn nguyên cả một chiếc nôi đồ sộ mà tổ tiên tôi ... đã chụm tay kết thành bằng mồ hôi, máu, nước mắt và cả một tinh thần nhân bản tuyệt vời. Quê hương tôi đã nuôi tôi lớn lên bằng cơm gạo, cá mắm, thịt thà ... kết tụ từ đất đai sông nước mà người trước tôi đã gầy dựng, giữ gìn. Quê hương tôi đã dạy tôi sự nhẫn nại cùng cực của một dân tộc đã bị đày đọa gần suốt hai ngàn năm dưới sự thống trị của đám giặc phương bắc mà vẫn còn nguyên lành bản chất như nhánh tre già, qua bao nhiêu bão dữ vẫn dẻo dai vươn mình. Quê hương tôi đã cho tôi cả một kho ca dao mà từng câu lục bát ngọt ngào đến độ mẹ ru con thành tiếng ầu ơ. Quê hương tôi đã cho tôi nghìn trùng lời hay ý đẹp trong mỗi câu mỗi chữ mà ngôn từ cấu tứ đẹp như gấm như hoa, của ba ngàn hai trăm năm mươi bốn câu lục bát kể chuyện đoạn trường Thúy Kiều, ba trăm năm mươi sáu câu song thất lục bát than thở nỗi buồn Cung Oán, bốn trăm lẻ tám câu kể lể nỗi chờ mong Chinh Phụ ... Những bài hát nói mà âm tiết nghe reo vui như tiếng cười khúc khích khi đời chưa dâu bể. Những câu thơ 7 chữ 8 chữ ... của những người làm Thơ Mới mà chữ nghĩa được nhã luyện đến thành văn vẻ, được chuốc lọc để trở nên óng ánh như trăng sao ... Quê hương tôi đã dạy tôi ăn ở lễ nghĩa trong gia đình, ân cần ngoài xả hội như chính tấm lòng của kẻ sĩ Nguyễn Trải, ngay khi ở phương tây người ta còn thiêu sống nhau vì ba cái trò ngụy tín. Còn bao nhiêu nữa làm sao kể hết. Làm sao tôi quên. Làm sao tôi không nhớ.
Vậy rồi tới khi bỏ xứ mà đi, coi như phủi sạch nợ nần. Làm sao lòng không lấn cấn.
Xứ người, lạ từng cọng cỏ ngọn cây. Lạ tới tiếng hỏi câu chào. Lắm khi buồn ngẩn buồn ngơ. Dẫu có an thân sao vẫn cứ thấy mình tạm bợ.
Mà biểu về, chẳng lẻ lại cúi gập mặt mà về để khỏi nhìn thấy những thay đổi não lòng. Ở đó, những thằng trọc phú quyền thế ! Ở đó những người nghèo mạt hạng không chút đỡ đần ! Và cả một tinh thần nhân nghĩa từ ngàn đời bị dày đạp chẳng làm xao xuyến được một cái nhíu mày !
.......................... ..............................
Rồi tết qua đi, sầu ở lại ! ...
Lại thêm một cái tết quê người. Mươi năm đầu, còn nguyên một hy vọng, kềm lòng giữ chí như ngày ra đi. Vẫn mơ một ngày về lại cố hương, thắp nén nhang, quỳ xin tội với vong linh người khuất mặt. Rồi dấn mình vào cuộc trùng hưng. Nhưng rồi, từng năm qua, từng cơn mơ bị giựt dậy phũ phàng ...
Tôi đã làm gì đời tôi. Ngoài miếng ăn, từng bữa ... Và quê hương vẫn rền rĩ giọng hờn !
Vậy rồi bốn mươi năm đã qua. Qua ngọt xớt như mới hôm qua hôm kia. Thời gian lẳng lặng thoát đi như sao xẹt.
Tôi còn ở đây, bên này biển lớn, giữa bãi bờ trắng toát ...
Mấy ngày qua, chiếc độc bình cũ được cắm thêm nhánh mai giả, phủi hoài mà bụi vẫn thâm đen. Săm soi rồi thấy mũi lòng. Hoa giả vô tình mà cũng tàn tạ. Nói gì tới người ...
Năm này sang năm khác, thói thường rồi phải quen. Quen với sự dư thừa cũng như sự thiếu thốn.
Bốn mươi năm rồi. Đủ để quen bao nhiêu thứ lạ mà sao vẫn không quen với cái thói lãng quên. Quen với ngọn thông xanh sừng sững sao không quen với cái trống trải vì vắng bóng bụi tre già. Đã nhẳn mặt với đường lộ phẳng phiu sao còn thắt thỏm hoài lối về làng trầy trật, ngang qua bến nước với chiếc cầu tre lắt lẻo .
...................... .........................
Bốn mươi năm rồi, sao còn lấn cấn với ba cái chuyện phải quên. Làm như quá khứ giành giựt hoài với hiện tại, bốn mươi năm rồi vẫn không chịu buông tay ! Cái thói quen hay tục lệ mà mỗi năm tết đến là ai nấy dù bôn ba đâu đó cũng lo thu xếp về quê, mừng tuổi mẹ cha, vung đắp mồ mã, cúng vái ông bà ... làm như nhiểm trong máu huyết hay sao. Vậy mà rồi, bỗng dưng, bít hết mọi đường về !
Bốn mươi cái tết xa quê. Lẽ ra đâu còn lạ cái lạnh cóng người của mùa xuân vọng tưởng. Lẽ ra mọi ấm ức phải dìm sâu, chôn kín dưới mấy tầng huyệt thời gian. Vậy mà cứ mỗi lần nghe nhắc tết, lòng sao lại băng hăng bó hó như lỡ thiếu sót một điều gì. Chút lễ vật, trái cây, nhang đèn ... đã có đó, tàm tạm. Làm sao đòi hỏi hơn nữa, chỗ đất trời lạ lẫm.
Mà dẫu có thiếu rồi cũng có làm sao. Kiểu ăn nhờ ở đậu. Được chừng một hai bữa. Rồi tết nhứt cũng qua. Ai nấy trở lại với nhịp sống mới đã thành nếp. Sao riêng mình, cứ mãi chút băn khoăn ...
Tết tha hương rồi thoáng qua như bóng mây váng vất ...
Còn lại không là chút khói hương lẫn lẫn trong gian nhà kín cửa. Chút khói hương quến lại như chút quà tết ai đó bỏ quên. Khổ nỗi, của bỏ quên mà sao gợi đầy mùi nhớ. Những thề nguyền !
Có phải vẫn mãi là nỗi ân hận của một kẻ trốn chạy, bỏ cuộc ... giữa chừng ! Có phải vẫn mãi là nỗi chua cay của một kẻ bị giựt dậy giữa cơn trường mộng ! Có phải vẫn mãi là sự hổ thẹn của một kẻ đã thất hứa dẫu thệ nguyền chưa bao giờ được khắc đá đề tên !
Trong giờ khắc linh thiêng của một năm, sao lại nhớ, nhớ như mới hôm qua hôm kia, nhớ như từng chữ từng lời đã đục đẽo vào tim ...
Tết qua rồi, nhang đèn đã lạnh. Sao lời thư năm nào, tháng nào, ngày nào đó ... vẫn lắt lay trong trí nảo đã gần như mòn nhẵn
“ Ở xa, con ăn tết ra sao ? Tết nhứt ba không chờ quà cáp. Ba chờ tụi con gởi về tin vui chung cho hết thảy mọi người ’’
Mấy dòng chữ mực xanh, nét sắc như dao khắc ... vẫn còn như từng mũi nhọn.
Vậy đó tưởng quên mà vẫn nhớ. Mười năm một giấc mộng không thành. Người chờ cho hết đời cô quạnh. Ta đứng bên trời, lệ chảy nhanh.
Rồi tết qua đi, sầu ở lại !
Cao Vị Khanh



Cho đến khi giựt mình nhìn lại, cả bọn không ai còn trẻ. Cho dù tuổi tác chưa đến đổi quằn vai nhưng sức trì của một quá khứ oan khuất vẫn trìu trĩu sau lưng như một lực quán tính khó cưỡng. Cuộc chiến mà chúng ta đã sống trọn một tuổi thanh niên đã kéo dài quá sự cần thiết để tỏ ra cho hết cái vô nghĩa của nó. Rồi cái kết cuộc lãng nhách chỉ làm bẽ bàng thêm cho một sự dấn thân đã bị bội phản từ đầu. Thân xác chúng ta có tàn phế sau những trận pháo tung tóe, nhưng chính hồn chúng ta thì đã tử thương từ khi tiếng súng im hơi. Chính trong những trại tù (cải tạo !?) núp giấu giữa rừng thiêng nước độc, đã bày ra một cuộc thảm sát mới, thầm lặng nhưng không kém phần cuồng nộ, để tiêu diệt hồn tính con người. Bằng mọi cách, từ rào kẽm gai đến phên nứa tướt nhọn, từ đày đọa khổ sai đến bỏ đói kiệt lực, cùm gông đến biệt giam, trói thúc ké đến bò lết… từ con người đến con vật người…
Năm bảy năm, mười mươi năm…
Thoát ra, mọi người còn cái xác xơ vơ xửng vửng, hồn thì vật vờ như lỡ nếm cháo lú qua sông Nại Hà dù đã bịt miệng bịt mũi. Thoát ra, mạnh ai nấy chạy. Chạy chết. Qua sông. Qua rừng. Qua biển… Chừng đứng lại, giữa một chỗ lạ lẫm đến ngỡ ngàng, cả bọn dù chưa già thì cũng đã cỗi, cỗi như chính cái dòng lịch sử bầm dập đã chảy ròng rã và đục khoét đêm ngày lên đời sống chúng ta.
Bằng cách nào thì sự sống sót qua cuộc sinh tử đó cũng có cái giá của nó.
Hơn 30 năm tranh sống với cái chết giữa đường tơ kẽ tóc, thêm năm mười năm cùng kiệt trong các trại tù ngụy danh hay vật vờ giữa một xả hội đảo điên, còn lại gì nếu không là một sự chán chường tột độ và nghi ngờ hết mức về những giá trị được gọi là nhân bản. Súng đạn thì giết người ngọt lịm mà lửa phần thư thì đốt người âm ỉ. Giàn hỏa thiêu sách vở là một cuộc tru di chậm nhưng chắc. Và mục đích của nó tồi tệ hơn bất cứ một hành vi man rợ nào. Lửa đốt từng trang sách là lửa đốt từng nếp văn hóa đã có thời rực rỡ, giữa lòng ta. Nhiều năm sau, khi đã lang thang mòn mõi trên xứ người, vậy mà lớp tro than cũ vẫn cứ còn âm ỉ… Nhật Tiến đã có lần viết « Trận đánh cuối cùng của một kẻ sĩ » kể lại cuộc chiến vô vọng của một kẻ thất thế muốn giành giữ lại mớ gia tài sách báo của một thời…
Dĩ nhiên sách vở cũng chỉ là những trang giấy, không đốt thì cũng có lúc mối mục ruỗng mòn. Chữ viết cũng chỉ là những dấu ký âm có lúc cũng sẽ phai lợt theo ngày tháng. Cái đáng nói chính là ý hướng phụng vụ trong hành động sáng tạo của bao người đã hiến mình cho một lý tưởng nghệ thuật hay khoa học được ghi chép lại trên những trang giấy, qua những hàng chữ, những đêm những ngày, những tháng những năm, những cặm cụi, những nghiền ngẫm hết một đời, những suy tư qua nhiều kiếp… chắt lọc, tích lũy, lưu truyền. Ðiều đáng nói nữa là cái dòng sống chính thống, chân chất và hồn hậu của một dân tộc đã được nuôi dưởng ở phần đất bên nầy, phía Nam vĩ tuyến 17, cái mạch nối liền lạc của tinh thần nhân văn của một dân tộc dù đã lắm bôn ba… thể hiện trong tầng tầng sách vở của miền Nam bỗng chốc bị đem ra phóng hỏa. Lửa cháy từ giàn hỏa cháy lan cả phận người. Ðể từ đó, cả nước là một cuộc hỏa thiêu toàn diện…
Nhiều năm sau nữa, lũ chúng ta-dù đã yên thân hay vẫn đang cày cục trên xứ người, bỗng có lúc rồi ngồi... ngơ ngẩn. Những câu thơ đã một thời ưa thích vụt nhớ vụt quên. Những trang sách đã một thời gối đầu không còn tìm đâu thấy nữa…Trên đất khách mênh mông, chúng ta như một giống người không có quá khứ, không có cả chiếc bóng để tự vỗ về mình. Chúng ta trần truồng dù quần áo đã thôi chắp vá, chúng ta trơ trọi dù phố xá cứ đông nghẹt người qua, chúng ta ngu ngơ dù quanh ta tràn ngập sách báo phim ảnh với đủ mọi thứ ngôn từ. Mà điều quan trọng nhất còn là nỗi não nề về một sự đảo lộn giá trị đến cùng cực, đã và đang được áp đặt trên cái quê hương khốn khổ mình đã bỏ đi. Cái đen thành trắng. Cái tốt thành xấu. Kể cả thứ chữ viết và tiếng nói mẹ đẻ đã được (bị) trong-sáng-hóa đến mức tối hù.
rong cơn chao đảo của niềm tin, mỗi người trong chúng ta không ai không thấy một sự hụt hẩng nào đó trong lòng, ngay giữa một cuộc sống mới chẳng những không thiếu một thứ gì mà còn gần như có đến thừa mứa...
Có lẽ một trong những thú vui mà ai nấy không quên được, từ cái thuở trấn đóng tiền đồn trên một đỉnh núi ngập mây, hay dạy học ở một tỉnh lẻ, những thứ ba thứ năm hay thứ bảy, đón chuyến xe liên lạc lên từ hậu cứ hay chuyến xe liên tỉnh từ Sài-gòn về, lòng như có chút gì nôn nao khi chờ người ta bóc dở những gói báo, những thùng sách…còn thơm y nguyên mùi giấy mực. Nhưng dù mua sớm hay mua trễ, sau đó, chính trong góc khuất của một quán vắng, hay trong góc kín của một giao thông hào, có khi bên cạnh một tách cà-phê đặc sệt hay chỉ là một hơi thuốc lá mỏng như sương, một mình, chỉ một mình, chúng ta đã sống những giây phút lâng lâng của một gặp gỡ thân tình bậc nhất. Khi bàn tay xòe ra vuốt sơ qua mặt bìa láng lẩy hay thô nhám, có khi là hình chụp một bức tranh hay chỉ là bảng liệt kê tên tác giả, khi ngón tay cọ lên góc giấy còn thẳng băng chưa có một dấu gấp, ngón tay ta sao cứ gượng nhẹ y như đang vuốt má một người tình, sợ giấy mực đau y như ngại làm đau đôi gò má mỏng tanh li ti những đường gân máu. Có cái gì đó trinh nguyên làm ta trân trọng. Có cái gì đó thăm thẳm làm ta ngại ngần. Cái gì như cái đau đáu của trang giấy chờ mãi phút-linhkhông-về, cái gì như cái thắc thỏm của ngòi bút ngần ngừ để lỡ một thoáng ý qua nhanh, cái gì như cái bóng gảy gập của người viết đang làm chuyện đẻ-đau chập chùng trên tay ta, giữa những trang chữ…
Sau những năm 60 với Hiện Ðại của Nguyên Sa đem về hơi sương của sông Seine, Sáng Tạo của Mai Thảo, Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, rồi Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh với thuở trồng lan bên suối Ðam Mê, Tân Phong, Ðông Phương … là những năm 70 với Văn, Bách Khoa, Khởi Hành… Nghệ Thuật, Vấn Ðề, Thế Kỷ Hai Mươi, Thời Tập… chưa kể những tuần báo, nguyệt san hay bán nguyệt san có tính cách đại chúng như Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Ðàn, Phụ Nữ Ngày Mai, Kịch Ảnh, Ðiện Ảnh, Thời Nay, Phổ Thông… chưa kể những Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc… mua hết không chừa. Cạnh đó, trên những giá kệ trong những quán nhỏ dọc đường hay trong những tiệm sách bề thề bên hè đại lộ, là ôi thôi sách báo ê hề như trăm hoa đua nở. Những thơ, những văn, những truyện dài truyện ngắn, những nghiên cứu khảo luận, những bút chiến phê bình... Mơ mộng ở đó, vui buồn ở đó, mà nghĩ ngợi học hỏi cũng ở đó. Ðọc ở đó để thấy sự lãng mạn tuyệt vời của một phần dân tộc đang bị đày đọa giữa cuộc chiến tương tàn, để thấy niềm hy vọng lấp ló trong những chùm hoa nở trên sợi kẽm gai, để thấy trong cùng khổ con người vẫn vươn lên như đám mạ non vươn lên từ một đêm tối. Ðọc ở đó để thấy những cánh huyết hoa nở ra từ những bãi máu.
Thử nghĩ đến những người thắp ngọn điện câu leo lét mà viết. Thử nghĩ đến những người che poncho đốt ngọn đèn cầy mà viết. Những cô học trò chưa hết tuổi hồn nhiên. Những anh sinh viên mộng vói tới trời. Những bậc học giả ngày đêm nghiền ngẫm. Những văn thi sĩ chưa bao giờ đong gạo bằng văn thơ rút ruột của mình... Ðủ hết. Mọi kiểu mọi cách. Người viết tha hồ viết, lặng lẽ hay huênh hoang. Người đọc tha hồ đọc, chấp nhận hay khích bác. Có điều phải nhận rằng dù thích hay không thích, không ai có thể phủ nhận cái đẹp đã thành tựu trong văn chương ở miền Nam buổi đó. Câu văn có trau chuốt hay không cũng đã sáng sủa, trôi chảy, biểu lộ sự trưởng thành của một thể loại chỉ mới vừa sinh ra từ đầu thế kỷ. Ngay cả cái kho ngữ vựng Hán-Việt cũng đã rạch ròi, trong sáng và phổ quát không kém gì mớ vốn liếng nôm na. Thơ buổi đó bay lượn trên đầu súng, tung hê thỏa thích. Văn buổi đó luồn lỏi giữa những đường bay của bom đạn sát nhân mà vẫn đằm thắm tình người, đủ sức khai triển đến nơi đến chốn những khái niệm trừu tượng và siêu hình, bằng một văn phong trong sáng, hợp lý và hoàn chỉnh.
Chẳng bằng với cái loại chữ nghĩa hổ lốn đổ xô vào miền Nam sau khi bị giải phóng, rồi được “du nhập” sang đây bằng mọi cách mọi kiểu. Từ những chuyến qua lại rập rình của những khúc-ruột-ngàn-dặm ... rồi nghị quyết 36 ... rồi giao lưu văn hóa ... Lắm khi cũng để cợt đùa mà rồi vô thức bị tiêm nhiễm lúc nào không hay...
Ðành rằng ngôn ngữ cũng có đời sống hẵn hoi (chẳng vậy mà có những loại chữ đã thành tử ngữ), nghĩa là cũng trải qua một quá trình sinh tử, có sinh có hũy, có sự tiến hóa hay thoái trào như mọi chủng loại khác. Nhưng tiến hóa phải có nghĩa là tiến từ thấp lên cao, từ tối tới sáng, từ dở tới hay chớ sao lại có sự tiến hóa ngược đời ? Cái tiếng gọi “nhà bảo sanh” thì ngay cho đến đứa nhỏ học lớp năm cũng hiểu được, thì nhân danh một sự trong-sáng-hóa ( ? ! ) nào mà đổi thành “nhà đẻ” cho đành. Đó chỉ là một thí dụ cỏn con chớ nếu kể ra hết hổng chừng không đủ chỗ mà còn gây tác hại cho mấy cái mạch máu đang hì hục lưu thông! Cũng như cái lối viết với câu cú trục trặc, trắc tréo, trặc trẹo… nhan nhản trong sách báo cũng như trong giấy tờ, hồ sơ, công văn, nghị quyết, thông cáo... của nhà cầm quyền cộng sản ở miền Nam Việt Nam sau năm 75, ở cái thời người ta gọi là thời-giải-phóng.(*) Tưởng chạy thoát là thoát luôn nạn chữ sau nạn nước, ngờ đâu rồi y như ba cái loài bệnh dịch, lây tràn không biên giới, đến lúc không ai trong chúng ta không khổ tâm, khó chịu, mắc cở... khi ở quê người còn phải tiếp tục chịu đựng cái lối “ngây ngô hóa” mớ tiếng Việt đáng thương của chúng ta. Cái hay sao không bắt chước, bắt chước chi cái dở cho đành !
Giữa bối cảnh bát nháo của chợ người chợ đời, dẫu trong sự lặng lẽ đến cô đơn, có một lúc nào đó, những người đã bỏ nước ra đi, bỏ lại gì thì bỏ mà vẫn giữ rịt theo mình mớ chữ nghĩa đã chắt chiu ngay từ lúc hồn trẻ còn đu đưa theo hai tiếng ầu ơ, cảm thấy bứt rứt, chữ nghĩa bám theo hồn người bắt đầu rục rịch kêu đòi... Bất kề lưu lạc đâu đâu nơi xứ người, may mắn trong một văn phòng có máy lạnh hay cắm đầu cắm cổ dùi đục trong một xưởng máy nóng hực, giữa một trời xuân bát ngát mùi nhựa thông hay xì xụp giữa bãi tuyết lạnh tanh, nói tiếng Tây tiếng Mỹ lưu loát hay vừa nói vừa múa tay dậm chưn, trong đầu của họ vẫn lấp ló mớ chữ nghĩa thân yêu, mớ bằng trắc ngọt lịm của lục bát dổ em hay những câu văn nhẹ nhàng mà chắc nịch ý nghĩa... Họ nhớ không thôi. Và như vậy, như có một thúc hối vô hình, họ bắt đầu làm thơ viết văn trở lại bằng chữ mẹ đẻ từ ngay trong vô thức, khi chưa có điều kiện để ngồi lại một góc bàn viết. Họ viết... viết... dù lắm khi cũng chẳng biết để làm gì.
Khởi đầu là một đôi câu thơ làm bên giàn máy bê bết dầu mở, rồi quên lửng trong tiếng động ì ầm, cũng có khi là một vài đoạn viết rời, bỏ kẹt trong hốc tủ được lục ra, phủi bụi… Thì ra suốt mươi năm im lặng vẫn là một nỗi thống thiết không nguôi với mớ chữ nghĩa đã có lần là lẽ sống. Trên góc khuất một tờ báo địa phương rặt mùi quảng cáo, một đặc san nhân dịp hợp mặt đồng hương ... cho tới lúc hè nhau in ấn một tập báo văn chương, hay gom góp chút dư thừa èo uột để xuất bản một quyển sách ... những người Việt lưu vong, ở đâu đó trên khắp cùng mặt đất vẫn luôn ôm ấp, luôn hoài niệm về một nền văn chương đã bị bức tử. Và lặng lẽ nối lại dòng sinh hoạt đã phải bỏ dở, từ khi.
Từ đó, dòng thơ văn cũ của miền Nam như bừng sống lại. Từ đó, bằng mọi phương tiện, từ những tờ báo in trên giấy cho đến khi bay vọt lên mây, từ những tập giấy mỏng tanh đến những bộ hợp tuyển dày như tự điển, mọi thể thơ từ cổ điển đến tân thời, mọi thể loại từ truyện ngắn truyện dài đến biên khào... có giá bán cốt để trừ tiền ấn phí hay chỉ in-để-tặng-không... mọi kiểu mọi cách tiếp tục xuất hiện như những lời nhắc nhở, thúc hối, khuyến khích, … anh viết, chị viết, tôi viết… Bỗng chốc rồi một cơn hứng khởi mới… Bỗng chốc rồi con tim mệt mỏi bắt lại cái nhịp thúc hối của lục bát, cái nhịp sắc mắc của bảy chữ... Bỗng chốc rồi thơ ở đâu ùa về, văn ở đâu đổ tới, người ta sống lại nỗi say mê của một thời tuổi trẻ, thở lại cái hơi ngất ngưởng của chữ nghĩa trên đầu ngọn bút những năm 60, 70… Mùi giấy mực từ một quá khứ thổi về làm căng lại lồng ngực… Rồi là những đêm những ngày miệt mài viết, xóa, viết, xóa… Trong giờ ăn giữa hai suất khuân vác đục đẻo, viết ngoài bãi đậu xe, trong góc bếp một căn chung cư hẹp té ... bất kể ở đâu đâu, trên tay lái một chiếc xe giao hàng ngừng ở ngả tư đèn đỏ, lúc nửa khuya vì một ánh trăng lẻ loi chợt rớt trên đầu giường... Họ viết, viết ngay cả khi không biết viết để làm gì... Chẳng vậy mà bỗng chốc giữa cuộc sống xô bồ, nồng nực mùi hương lạ, chúng ta tìm lại được mấy chút hương xưa.
Dẫu mang nhiều tâm ý vẫn là một cuộc chơi. Ðã chơi thì có kể gì thành bại. Cái đáng nói là sau hết, đâu đây, vẫn còn đó… những con mắt xanh thấp thỏm. Từ biệt xứ, không hẹn mà đây đó đã vọng lại những tiếng gọi thầm lặng, rủ rê nhau tiếp tục cái công việc đã bị bỏ dở từ cơn trường hận tháng tư-bảy lăm. Suốt những năm lao đao làm quen với mùa màng cây cỏ lối xóm láng giềng lạ hoắc, người Việt tha hương ở mọi nơi vẫn không ngừng gióng tiếng gọi đàn của bầy chim thất lạc. Từ đó những vần thơ thê thiết, những câu văn bay bướm hay dõng dạc đã không ngừng xác nhận sự có mặt của một dòng văn chương bị hủy diệt tức tưởi ở ngay trên chính quê hương mình. Từ đó, trên khắp cùng mặt đất, những người Việt quấn quít với hồn vía quê mẹ đã và vẫn không ngừng lên tiếng để nuôi dưởng nếp sinh hoạt nhân văn đã có hồi rực rỡ. Cơm gạo có thể thay thế bằng bánh mì, bơ, sửa... Nhưng văn chương làm sao thay thế dẫu với những kiệt tác được viết bằng tiếng nước người. Vốn liếng ngoại ngữ có thể giúp người ta hiểu ý người sáng tạo bằng chữ nước người. Nhưng để cảm, để rung động, để hòa cùng nhịp tim, để nhập chung dòng cảm xúc dường như còn đòi hỏi cùng chung cả một chiếc nôi văn hóa đồng dạng tự đã ngàn đời. Ấy chỉ là văn xuôi. Còn thơ ? Hẵn còn khó hơn bội phần. Chẳng vậy mà người ta hay nói ... “dịch” là “phàn” !
Những người mài miệt làm cái công việc viết lách ở một nơi không phải quê mình, kể ra họ đã góp phần không nhỏ cho chuyện an cư của đám người lưu lạc. Không có họ, đất khách sẽ mênh mông và kiếp lưu vong sẽ lạc loài biết mấy. Lớp đã thành danh từ trước cơn hồng thủy, bỏ nước ra đi đã không quên mang theo mớ hành trang chữ nghĩa, đến lúc trải lòng ra, nối tiếp lại cái thiên chức đã bị cướp giựt một cách ngang xương... Rồi như ngọn sóng triều lên, lan sang cả những người chưa từng cầm bút nhưng ẩn ức vì một quá khứ vàng son cũng hè nhau lên tiếng... Rồi là đám trẻ tập tểnh nối bước cha anh. Dẫu còn phải chen chúc với chữ nghĩa nơi họ phải hội nhập vì cuộc sống, vẫn cố lội ngược dòng để không bỏ mai một mớ chữ nghĩa mà cha mẹ đã móm môi khi vừa mới lọt lòng. Văn thơ chữ Việt, suốt cuộc đổi đời tàn khốc, vẫn tiếp tục bay lượn ở một chỗ không phải là chỗ của mình.
..........................
Vậy mà rồi cũng mấy chục năm qua đi. Mấy chục năm. Tròm trèm nửa thế kỷ. Nói nghe gọn bâng như một tiếng chắc lưởi. Mà thật ra, thời gian dù có thun dản tới đâu cũng vẫn có tác dụng hủy hoại vô chừng. Được cái là suốt cuộc tha hương, ai nấy xa quê mà tường chừng còn gần lắm. Gần vì hằng buổi vẫn nghe quanh quanh thứ tiếng nói với sáu dấu giọng lên xuống trầm bổng tự nhiên, vẫn thấy quanh quanh những câu văn dài ngắn bất kể mà dấu phẩy dấu chấm, cấu trúc văn phạm còn đúng y thứ ngữ pháp đã thành nếp từ cái thuở ... ông Bảo Đại còn làm trùm. Nghĩa là từ cái thời ông HCM còn xin xuống tàu Pháp làm bồi. Bởi đó, đời lưu lạc đỡ buồn biết mấy !
Nhưng mà, vấn đề không ngừng ở đó. Vấn đề là sẽ tới một lúc, thứ chữ Việt hoa lệ đó sẽ trở thành tử ngữ. Vì tuổi tác của lớp người viết lách và số độc giả đã đồng hành cùng họ. Số người rời khỏi nước từ năm 1975 ngay trong lứa tuổi hoa niên-những người đã thấm nhuần thứ văn chương nền nếp đó- tính tới nay hẵn cũng đã tròm trèm tới tuổi cỗ-lai-hy. Lớp độc giả trung kiên đó rồi sẽ như lá mùa thu rụng. Lớp trẻ đôi mươi lớn lên bên nầy đại dương dù có muốn kéo níu hẵn cũng sẽ nao lòng trước sự thưa thớt mỗi ngày một tỏ lộ. Viết mà không ai đọc thì làm sao mà viết. Viết mà dẫu có người muốn đọc ở bên kia biển lớn nhưng vì đã bị cách ly bằng mấy bức-tường-lửa thành ra đã trật trịa cách thức suy nghĩ cũng như cú pháp hành văn, nhất là đã sai lệch cảm quan nghệ thuật thì làm sao tìm được sự cảm thông, dẫu ở đó vẫn còn những tấm lòng thao thức. Nhưng thao thức rồi sao hay chỉ để làm khổ chính mình- nhất là phần lớn cũng đã mấp mé bên lề sinh tử, trong khi đại đa số già trẻ lớn bé đã hồ như chấp nhận dù có là khiên cưỡng, những trái cựa tới độ phi lý. Nhất là lớp trẻ sinh sau đẻ muộn, lớn lên cùng với sự nạo vét óc nảo đến tận cùng mọi thứ được gọi là lương tri. Buồn thay. Trong khi ở bên nầy đại dương, người xa quê cố gắng gìn giữ nết văn hóa diểm lệ đó thì bên kia đại dương, nơi quê cũ đám cầm quyền vẫn ra sức hủy diệt mọi thành tựu văn học của lớp người đi trước mà đã có lần họ gọi là văn hóa phản động... Mà nhất là đã cố tình làm thay đổi hẵn lối suy nghĩ nhân bản truyền thống bằng một thứ chủ nghĩa quái đản dựa trên duy vật sử quan, đấu tranh giai cấp với lối giáo dục nhồi sọ một chiều, đưa đến kết quả là tiêu hủy cả hồn tính dân tộc đã được nuôi dưởng từ thuở 18 đời vua Hùng dẫu có là huyền sử. Từ đó, lật ngược hẵn mọi cách thức đánh giá tốt xấu. Và cũng từ đó làm sai biệt hẵn mọi nấc thang giá trị. Còn làm sao tìm được những tấm lòng đồng điệu !
Hơn 40 năm qua, tất nhiên ở đó có quá nhiều thay đổi. Nhà lầu có cao hơn, cầu cống đường lộ có phẳng phiu hơn... Mà chữ nghĩa thì “lồi lõm lở loét” còn hơn đường xá thời buổi bị mấy ông du kích đắp mô gài mìn lúc còn giặc giã. Thử đọc một đoạn ngắn trong bài viết của ông Ngô Nhân Dụng mới vừa đăng trên Diễn Đàn Thế Kỷ hôm 23 tháng 9 năm 2022, ngay bon lúc nhà-nước đang lên “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt! ̣ ̣( sic) “Theo ký giả Sen Nguyen, trên the South China Morning Post ở Hồng Kông ngày10 tháng Chín, 2022, một ông phó thủ tướng tên là Phạm Quang Hiêu (Hiếu, Hiệu, hoặc Hiểu, …), nói đã có một “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt! Trong khi chờ đợi “kế hoạch 8 năm” được thi triển, bà con di cư tị nạn muốn nếm thử một chút ít “tiếng Việt Cộng” có thể tìm đọc ngay trên báo Nhân Dân, là Báo Nhân Dân ngày 19 tháng 9 năm 2022, có một bản tin về “tai nạn giao thông nghiêm trọng” hôm trước. Một chiếc “ô-tô tải” do một anh tên Triều lái đã tông vào một “xe mô-tô” do một anh khác lái chở theo một Việt kiều từ Mỹ về chơi.
Thay vì viết anh Triều “lái” chiếc xe, “Tiếng nói của Đảng, Nhà nước ...” đã viết rằng chiếc xe do anh “điều khiển lưu thông.” Người lái chiếc mô-tô cũng được mô tả là “điều khiển” chiếc xe gắn máy. Sau đó, chiếc ô-tô tải bị lật nhưng lại đụng vào một chiếc xe đạp do một “học sinh lớp 10 điều khiển.” Không nói “Lái xe,” xe hơi, xe bình bịch hay xe đạp, phải nói “điều khiển.” Thêm một chữ nữa: “va chạm.” Báo Nhân Dân viết tiếp, “Sau khi va chạm vào mô-tô,” chiếc xe tải “tiếp tục va chạm” vào chiếc xe đạp, chúng tôi in chữ nghiêng. Thông thường người Việt dùng hai chữ “va chạm” để tả hai vật hay hai người đụng chạm hoặc va nhau, một cách nhẹ nhàng. Nhưng trong báo Nhân Dân các “va chạm” đó làm chết hai người! Trên cùng trang nhất tờ báo này, thấy “vụ việc một du khách nước ngoài va chạm với đoàn xe lửa Lào Cai-Hà Nội,” may mắn thoát chết! Nhưng “Đoàn tàu … va chạm với du khách” đã “phải dừng lại giải quyết sự cố, tuyến đường … ùn tắc.” Tốt nhất, bà con ở nước ngoài, dù gặp cảnh “sự cố ùn tắc” cũng nên tránh không “va chạm” với chữ nghĩa của các ông cộng sản. Hai chữ “sự cố” cũng như chữ “sự kiện” được dùng tự do, thả dàn trên báo đài trong nước. Một tờ báo viết về cô ca sĩ: “Bà mẹ một con … trẻ trung, xinh đẹp như thiếu nữ đôi mươi tại sự kiện.” Tại “sự kiện?” Những “sự kiện” đó là cái gì!
Một bài khác viết về Nữ hoàng Elizabeth II, nói bà thích một nhãn hiệu đồng hồ nổi tiếng, bà “thường xuyên được bắt gặp đeo thương hiệu đồng hồ … đến các sự kiện xa hoa, … bà thậm chí còn cho mượn đồ của mình khi đi sự kiện.” Bà nữ hoàng “đi sự kiện.” Tức là bà đến dự một lễ lạc. Bà lại “được bắt gặp” đeo đồng hồ! Đây là những cách nói tiếng Việt mới lạ chưa từng thấy. Người ta dùng chữ“sự kiện” để dịch nguyên văn chữ “event” trong tiếng Anh, vì lười, không muốn tìm những tiếng Việt chính xác hơn!
Chữ “Event” hay “sự kiện” nói về nhiều thứ khác nhau. Có thể viết “sự kiện” thay vì lễ hội, tập họp, một buổi trình diễn, trưng bày nghệ thuật, một tổ chức, hội thảo, một trận đấu thể thao, một trường hợp, hoàn cảnh, nghi lễ, sự việc, vân vân. Những chữ sự cố, hay biến cố, nói về một chuyện đã xảy ra, chữ “cố” với ý nghĩa là đã xong rồi, cũng được thay thế bằng chữ “sự kiện.”
Nếu ông Phạm Quang Hiêu muốn viện trợ ngôn ngữ cho đồng bào ở nước ngoài, ông có thể gửi những chuyến máy bay chở 1,000 thùng chữ “điều khiển,” 1,000 thùng chữ “va chạm,” 15,000 thùng những chữ “điều khiển,” “sự kiện,” “sự cố,” vân vân, tặng cho bà con người Việt sống ở Paris, Los Angeles hoặc Melbourne. Họ sẽ mở mắt ra, thấy không cần dùng những chữ cổ lỗ như “lái xe,” “buổi họp” hay “bữa tiệc” nữa.
Nhưng báo Nhân Dân còn có thể cung cấp nhiều hơn những chữ lẻ tẻ như “sự kiện,” “va chạm” hoặc điều khiển.” Ông Hiêu có thể gói tặng bà con những đoạn văn dài đầy chữ nghĩa. Mời quý vị đọc thử mấy câu dưới đây (xin ngưng đọc ngay, nếu cảm thấy khó thở, chóng mặt, hoặc buồn nôn).
Đây là văn chương báo Nhân Dân: viết về “Công nghiệp văn hóa.”
“Công nghiệp văn hóa tạo ra nhiều cơ hội học tập mới cho người lao động, góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí giữa các vùng miền, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân nói chung. ... Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng. Di sản văn hóa trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào phong phú cho nhiều ngành công nghiệp như âm nhạc, điện ảnh, trò chơi điện tử, từ đó giúp thiết lập lợi thế cạnh tranh, sự độc đáo và nhận diện thương hiệu cho những ngành này ở thị trường trong nước, cũng như thị trường khu vực và thế giới.”
Cảm tưởng đầu tiên là nó “Rất khó tiêu!”
Đọc hết cả đoạn trên cũng chưa hiểu “Công nghiệp văn hóa” là những thứ gì. “Thu hẹp khoảng cách về trình độ dân trí” là thế nào? “Hệ thống các sản phẩm và dịch vụ văn hóa” nghĩa là gì? Di sản văn hóa cung cấp “nguyên liệu đầu vào”… “cho nhiều ngành công nghiệp!” Nghe như kể chuyện một nhà máy xay lúa!
Đây là một căn bệnh thâm căn cố đế trong các chế độ cộng sản: Ăn to, nói lớn. Khoe khoang chữ nghĩa. Hô khẩu hiệu! Xác định lập trường! Không khác gì nhà giàu hợm hĩnh khoe của. Căn bệnh này không chỉ xuất hiện trên báo chí mà đã lan truyền trong cuộc sống hàng ngày của tất cả mọi người. Bên bờ hồ Hoàn Kiếm quý vị có thể thấy hai tấm bảng treo trên một cửa ra vào, viết giống hệt nhau, một cái treo ngoài đường, một cái ở trước cửa bên trong. Tấm bảng xanh lá cây viết bốn hàng chữ trắng, tất cả viết hoa, như thế này: CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ XÍ NGHIỆP MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ SỐ 2 NHÀ VỆ SINH CÔNG CỘNG – TOILET
ĐỊA CHỈ: SỐ 8 LÊ THÁI TỔ, HOÀN KIẾM, HÀ NỘI – ĐT : 043.8288072 – 043.9288508
Tất cả tấm bảng 41 chữ và số, cuối cùng, chỉ có một chữ mọi người cần biết, là “Toilet!” Người đi đường, các du khách chỉ cần đọc chữ “Toilet” hay “Toa Lét” là hiểu ngay! Không hiểu tại sao người ta phải đọc 25 chữ VIẾT HOA lòng thòng rồi mới được thấy chữ “Toilet!” Cũng không hiểu tại sao phải ghi cả địa chỉ cái toa lét này? Người di tìm toa lét có ai chọn một địa chỉ trước, đúng địa chỉ mới vào, hay không? Lại còn số điện thoại nữa! Có cần gọi điện thoại xin hẹn trước, giữ chỗ, mới được dùng toa lét hay không?
Người Việt Nam sống ở nước ngoài chắc không ai muốn dùng tiếng Việt theo đường lối nhiêu khê của Đảng! ”
Gì đi nữa thì cũng xin lỗi đã làm ai đó cười-ra-nước-mắt khi lỡ phải đọc thứ tiếng Việt-sau-khi-được-giải-phóng và đương thẳng đường tiến-lên-xả-hội-chủ-nghĩa. Từ chủ nước đến tôi tớ, kể cả đám bàn dân thiên hạ, sau mấy chục năm bị nhồi nhét đến no ứ thứ chủ nghĩa phi nhân đó, cứ mở miệng ra hay viết lách gì đó là ôi thôi chữ nghĩa cứ như bị trúng đạn AK, thịt thà xương xóc gì cũng tung tóe, lặt lìa lặt lọi. Danh từ, động từ, túc từ, nghĩa đen, nghĩa bóng, chữ tàu, chữ ta... gì gì cũng lộn tùng phèo như một đống thịt bầy nhầy... lỡ nhin thấy mà muốn ứa nước mắt. Ô hô ! Ai tai !
Rồi mốt mai đây, lỡ đầu thai trở lại làm dân nước Việt, hổng lẻ lớ ngớ như người-nước-ngoài vì sống trên quê hương mình mà cứ ú a ú ớ nhìn không ra chữ nghĩa quê mình.
Rồi hổng lẻ lại ... vượt biên lần nữa !
Thiệt là tình !!!
Buồn ơi, chào mi !!!
Cao Vị khanh
(*) cho tới giờ phút này, thứ tiếng Việt quái gở đó dường như đã trở thành thứ ngôn ngữ chính thức ở đó !!!!!!!!!!!!
________________________________


Không biết tại sao tự dưng có lúc cả ba người đều ngừng nói. Ngọn nến đặt ở giữa bàn cũng thôi lắt lay làm mấy cái bóng trên tường im sựng lại.
Không khí nhủn ra, bứt rứt. Chỉ còn tiếng nhạc vặn nhỏ làm như thủ thỉ bên tai mà lại nghe xa như đến từ một cõi nào khác. Cái cõi đã mất trong tầm mắt mà lại còn nguyên trong trí tưởng chỉ vì bản nhạc là một sérénade đã có thời chia chung nhau một ý thích.
Bữa tiệc đang hào hứng. Mấy món ăn khéo nấu ngon miệng. Rượu chát cất giữ lâu năm quến khách không thua gì mùi nhân tình mới bén. Chủ luôn miệng mời mọc. Khách thân từ ba mươi năm trước, xa liền một lúc hơn hai mươi năm rồi bỗng dưng khi không mà gặp lại. Cho nên làm sao mà không chuyện trò hỏi han cho hả. Có biết bao nhiêu điều cần biết. Căn vặn đến không kịp trả lời. Vậy mà bỗng nhiên ngưng ngang sau câu hỏi của người chồng. Sao mày không cưới vợ. Câu hỏi bất chợt buột ra theo đà câu chuyện làm người khách bỗng buồn ngang xương. Cùng lúc nhạc chuyển sang mấy bản độc tấu trung hồ cầm. Âm thanh của mấy sợi giây tơ cọ nhau đến rát dạ. Có từng nỗi xót đau trong mỗi phiếm đàn. Anh ta nuốt vội ngụm rượu đang uống nửa chừng, đặt ly xuống rồi chắp hai tay chống càm nhìn vói ngang vai người đàn bà bức tranh của Modigliani vẻ mặt con gái với cái cổ cao như cổ hạc. Màu tươi mà dáng vẻ lại buồn. Một giây. Người thiếu phụ ngồi đối diện đang gắp cho chồng miếng chả chiên làm như có một chút bối rối, thoáng nhanh, chắc không ai biết ngoài nàng. Nàng cẩn thận để miếng cá vào chén, rồi buông đủa đứng lên làm như phải đi vào bếp. Mà thật sự nàng cũng không biết vào bếp để làm gì nữa. Nàng chỉ đứng dậy, đi vài bước như phải làm một cái gì vậy thôi. Ngoài bàn, đã nghe tiếng cười rất ấm của khách. Thì mày biết rồi tao đã thề sẽ ở vậy nuôi con suốt đời mà. Cái thằng lúc nào cũng giỡn. Tao hỏi thiệt chớ còn bà N. bà B. đâu hết rồi. Ai mà bằng mày đào hoa chi số, đàn bà con gái đeo như đĩa. Sao để cho rớt đâu hết mà hai chục năm rồi vẫn độc thân tại chỗ vậy. Nói vậy chớ đâu phải vậy mậy. Thương là một chuyện mà lấy nhau lại là chuyện khác... Hai người đàn ông, bạn cũ đã có thời như một cặp bài trùng, đun đẩy qua lại những câu nói đùa vô thưởng vô phạt. Người đàn bà vào đến bếp đứng trước tủ lạnh, mở cửa nhìn vào trong mà không biết mình tìm gì. Có một cái gì đó lộn xộn trong lòng như đống đồ ăn sắp đứng sắp nằm đầy nhóc trong tủ. Nàng đưa tay xốc xốc mớ trái cây chẳng mắc mớ gì giữa bữa ăn. Rồi như thấy mình vắng mặt không đúng lúc, nàng lên tiếng nói vọng ra . Anh M. ảnh có chịu cho ai lấy ảnh đâu. Ảnh né còn nhanh hơn chim cắt nữa đó. Ngoài phòng ăn hai người bạn cười lớn. Trong này, bỗng dưng người đàn bà khựng mình, nín thinh. Phải vậy không ? Phải ảnh né nhanh hơn chim cắt không. Không đâu nàng thấy mất vui. Có một cái gì đó, nặng như đá bỗng rớt ngay lồng ngực đè mất một nhịp thở. Phải vậy không, phải tại ảnh không ? Nàng bỏ ra nhìn hai người đàn ông cụng ly. Màu rượu đỏ bầm như màu áo huyết dụ nàng đang mặc. A. dang tay kéo vợ sát vào mình, đưa ly rượu. Uống chút đi em. Mừng thằng độc thân hai thế kỷ. M ngó ly rượu rồi ngước lên nhìn ngay vào mắt nàng. Tia nhìn dài như quấn lấy đuôi mắt đã chớm mỏi. Phải rồi mời bà uống mừng tánh lỳ lợm của tôi. Người đàn bà nhắp vội hớp rượu, lớp son môi rịn ướt trông ngon như nửa miếng mận hồng đào. Tự nhiên hai cặp mắt rời nhau, lẫn tránh mà không giấu kịp một chút nấn níu vừa dấy lên, chộn rộn đến không ngờ. Mà có phải mới mẻ gì đâu. Hơn hai mươi năm rồi. Sao trái tim nhớ dai vậy. Người chồng thì vô tình cứ huyên thuyên chuyện trời trăng mây nước. Người vợ càng lúc càng như con sâu nhỏ, chỉ muốn rút mình quấn kín trong chiếc kén kỷ niệm. Người khách thì đã buồn mà cứ giả bộ làm vui. Bữa tiệc hội ngộ kéo dài nhùn nhằng không chịu tàn. Mọi người còn quấn quýt với mớ hình ảnh ố vàng thất lạc lâu ngày mới lục lại được. Nó nhắc họ nhớ tới người này cảnh nọ, khi thì đông đủ chùm nhum tại một góc sân trường, lúc giận hờn thui thủi ở một góc phố khuất sau hàng me già sụ, giữa một thị trấn ven biển hay có những cơn giông đầu hạ. Hồi đó cả bọn có hết thảy năm người. Ba cậu hai cô. Con gái mười bảy mười tám mỏng mảnh như lá cỏ. Đẹp trong veo như mấy hạt sương sớm. Còn mấy đứa con trai thì cứ lính qua lính quýnh, chộn rộn như mấy con chim trống gù mái. Mặc kệ cuộc sống của người lớn phiền toái ở chung quanh, mặc kệ chiến tranh gầm gừ hù dọa, cả bọn vui nông nổi như bầy sẻ buổi sáng. Mà cũng ngộ, ở cái thị trấn đầy lời ong tiếng ve đó mà có một bọn trai gái được dịp kết bạn khắn khít thì phải kể là hiếm có. Phải nói là hồi đó học trò trai gái rất khó quen nhau. Vậy mà không biết mấy ông thầy năm đó nổi hứng thế nào mà lại bỏ về quê ăn tết sớm để đám học trò khác lớp côi cút không người hướng dẩn họp lại tự động tổ chức tiệc tất niên rầm rộ. Mấy anh trai lớn sức vóc lo chạy vòng ngoài. Con gái thì lo bếp núc. Rồi lại còn tập ca tập hát. Hết dợt Ly rượu mừng thì tới Nếu xuân này vắng anh. Mấy anh đàn mấy em hát. Nhạc vui nhạc buồn gì cũng bè nhau mà hát. Vậy mà vui đáo để. Vui nhất là sau cái tết đó, cả bọn quến nhau như hoa với bướm. Rồi cũng không biết lọc lừa ra sao mà thành nhóm riêng năm đứa. M. A. và S., ba đứa con trai tốt số, tướng tá dễ coi, học hành cũng tạm được. Còn hai cô gái, T. và Ch. vẫn nổi tiếng là hoa khôi của mấy ngôi trường tỉnh. Học hành chơi đùa gì cũng thành nhóm, xúm xa xúm xít như một chùm mận sai trái. Ở trong trường rồi ra luôn ngoài phố. Hồi đó, trời biển phố xá gì cũng gom lại có một căn gác nhỏ, khuất sau mấy hàng dương lả ngọn, nơi cả bọn hay tụ lại những ngày nghỉ học. Đàn ca, trửng giỡn, chọc ghẹo ... vui không kể hết. Ngôi nhà có căn gác lẻ ở cuối xóm biển, ngó thẳng ra một góc vịnh xanh lơ, đứng biệt lập nên mặc tình mà vui đùa, hát hò chẳng ai dòm ngó. Ở đó, những đêm rằm, cả bọn tụ lại nấu chè đậu xanh, bày ra lan can bắt chước thói lãng mạn của mấy nghệ sĩ thưởng trăng. M. ôm đàn guitar gảy tới gảy lui mấy đoạn Romance mới vừa học lóm được. Rồi có khi Ch. bắt chước Hồng Vân ngâm thơ Hàn Mặc Tử. Giọng Ch. nghe hay lắm. Vừa non vừa trữ tình. Có khi ngâm xong lại khóc thút thít. Cả bọn xúm nhau lại dỗ. Chút sau đã lại cười toe toét. Rồi cũng hết cả nồi chè đậu. Căn gác đi về rộn ràng tới nỗi có lúc cả đám gọi là “ lồng chim”. Tên gọi như một cõi bình yên ai mơ đâu trong vô thức. Ai nấy tưởng như đời cứ mãi là cái lồng chim nhỏ xíu và hiền lành đó. Nhưng rồi cả bọn mỗi ngày mỗi lớn lên một chút để thấy cái lồng đó nhỏ lại một chút. Cho đến một lúc căn gác nhỏ không còn đủ sức chứa những gió bão trong lòng người nữa. Năm cuối trung học S. bỏ đi mất biệt. Bạn bè bàn tán S. bị dụ dỗ theo phía bên kia vì gia đình vốn ở trong vùng xôi đậu. Cả bọn ở lại buồn xo. Mới được đâu chừng nửa năm đã nghe tin S. chết, xác đeo vắt vẻo trên rào kẻm gai của một đồn binh ở Miệt Thứ. Cả đám như bị mất hồn. Không biết thương hay giận. Chỉ thấy bàng hoàng như mất một cái gì không đáng mất. Có điều sau vụ đó mọi người thay đổi nhiều lắm. Cuộc sống làm như mất hết vẻ trơn tru dễ chịu. Nó rút ngắn lại thời hoa mộng của họ, đột ngột thảy họ vào cái thế giới rối beng của người lớn. Họ chưng hửng khám phá ra cái trường đời nhiễu nhương ở bên ngoài trường học. Và nhất là nỗi cô đơn của lớp trẻ già trước tuổi. Khám phá đó kéo họ xích lại gần nhau hơn. Nhưng là một gần gũi không còn vô tư nữa. Không còn mối liên hệ trong sáng, sòng phẳng và suông sẻ như cái thời tiết gom lại chỉ có hai mùa mưa nắng. Nó trở thành gút mắc, rối rắm, khó hiểu như chính niềm bí ẩn của con tim, cái con tim nghịch ngợm đi xúi họ yêu thương ngược ngạo. Dĩ nhiên đâu có ai sắp đặt được gì đâu. A. thằng con nhà giàu, học hành giỏi dắn đem lòng yêu thương Ch., Ch. không yêu lại mà đi yêu M., cái đứa lang bang nhất. Mà M. có yêu lại Ch. hay không thì không biết, chỉ thấy đối với ai hắn cũng ân cần như chỉ có hắn là người tình chăm chỉ nhất. Còn lại có T. là hiền như ni cô, lúc nào cũng lo nhường nhịn, chăm sóc hết thảy mọi người. Cái mối tình tay ba nhùng nhằng rồi cũng chẳng đi tới đâu ngoài cái chuyện cắn đắng, hờn mát, tốn thêm tiền mua giấy pelure xanh, pelure tím. Có đôi khi, pha thêm chút nước mắt ngắn dài. Nhưng mà thuở đó, những năm sáu mươi bảy mươi ở tỉnh nhỏ, học trò yêu nhau chỉ để lấy tiếng, chớ họ vẫn còn lành lắm. Lành đến nỗi cầm tay nhau còn chưa dám chớ đừng nói đến nọ kia. Tuy nhiên mấy cái chuyện lục đục cũng làm cho cả bọn tốn nhiều thì giờ, T. cứ phải đóng vai bà Tùng Long đi gở rối tơ lòng cho hết người này đến người khác. Vậy rồi trong khi cuộc chạy đuổi nhau chưa kịp đến mức ăn thua thì A. được cha mẹ lo cho đi Thụy Sĩ du học ngay khi chiến cuộc đang nổ lớn. Trong khi còn đang lo thủ tục xuất ngoại, A. đòi cha mẹ đến dạm hỏi Ch. với lời hứa sẽ lo cho cả Ch. đi theo. Bởi vậy mà dưới áp lực gia đình và chắc cũng có phần giận lẫy, Ch. cứ xỏ tay đeo nhẩn đính hôn mà lòng thì cứ băn khoăn với hình bóng của M. Giữa bữa tiệc rình rang, Ch. ứa nước mắt khi nghe M. lăng xăng chúc tụng. Chuyện tưởng vậy là yên, mối tình non dại coi như nhưn nhị làm duyên cho tuổi học trò. Rồi sẽ quên thôi. A. đi xa, còn lại ba đứa bạn cũ kéo lên Sài gòn vào đại học. Ai dè chính trong giai đoạn xa nhà đi ở trọ này, do sự qua lại giúp đỡ lẩn nhau, Ch. mới biết rằng M. cũng yêu mình nhưng lại bậm gan làm mặt lạnh tại vì tánh khí kiêu kỳ. Căn dặn mới biết anh chàng như gà con háu đá, nghe A. than thở bèn lên mặt anh hùng. Biết vậy, Ch. lại càng yêu M. nhiều hơn nữa. Khổ nỗi, vừa yêu M. Ch. vừa tiếp tục nhận thư của A. từ Thụy Sĩ gởi về, thư nào cũng sụt sùi thương nhớ. Tội nghiệp cho Ch., trái tim thì nhỏ xíu mà chuyện đời thì gay cấn còn hơn tuồng cải lương. Nàng khổ sở không thua gì mấy cô đào thương bi lụy bị dằn co bên nghĩa bên tình. M. cũng vậy. Không gặp thì nhớ mà lại gần thì bị mặc cảm phạm tội. Mới đôi mươi mà tình như thuốc độc. Hẹn hò thì vui mà chừng về thì ray rứt, hội họp bạn bè thì cứ phải giả bộ ngó lơ. Khó nhất là mỗi khi mọi người chọc ghẹo nhắc nhở đến người bạn ở xa, cả hai lại cứ phải đẩy đưa cho qua chuyện mà trong bụng thì rối như tơ vò. Mà thói đời cũng khổ, tình càng cay thì yêu thương càng mặn. Đã có lần khi nhận được giấy tờ xuắt ngoại, Ch. bỏ về nhà khóc lóc với mẹ cha đòi từ hôn. Nhưng mà đâu phải dễ, chuyện hôn nhân do người lớn cam kết chớ đâu phải chuyện con nít mà muốn thay đổi lúc nào cũng được. Vả lại ai mà không muốn cho con cái được sung sướng nhất là được sang ở tuốt bên tây khỏi còn lo giặc giã. Bởi vậy mà cả nhà bu lại khuyên dỗ ỉ ôi tới hết lời, thiếu điều mẹ nàng đòi tự vận mới yên. Đêm ba mươi tết năm đó, Ch. trốn nhà đến gặp M. tại căn gác cũ. Hai người ôm nhau khóc mùi mẩn. Gió từ biển thổi luồn qua phố xá đẩy mấy hàng dương lật lá kêu đau. Trong nhà, Ch. tủi thân muốn làm liều. Nàng đòi M. đi mua thuốc chuộc. M. rối trí tết nhứt đâu có tiệm nào mở cửa. Đến một lúc bí lối, Ch. nghĩ đến chuyện hiến thân cho người tình. Con gái gan lắm, cứ sợ lỡ mất nhau rồi sẽ hối tiếc như cô Kiều. Nàng ôm M. mê đắm, áo bà ba trệch nút, tóc mai ướt rịn lẩy bẩy theo hơi thở gấp. Đến chừng đó M. lại thấy hoảng. Bóng dáng cụ Khổng không biết ở đâu mà hiện về đứng ngay đầu giường. Thêm nữa, M. thấy thương Ch. quá đỗi, thương hơn cả thương mình, cứ sợ mai kia mốt nọ Ch. khó ăn khó nói với chồng. Bề gì cũng chỗ thân tình ai mà nỡ muối mặt làm vậy cho được. M. sực tỉnh đưa tay gài lại nút áo cho Ch., vỗ về nàng như em nhỏ. Gần đến giao thừa, M. đưa Ch. về ngang qua trường cũ. Hai người không ai mở miệng, lòng im như mấy lá cỏ ngậm sương.
Ra giêng, Ch. lên máy bay đi Thụy Sĩ. M. có đưa theo tới phi trường. Nhưng nửa chừng thì bỏ về. Vậy mà lại hay. Bởi vì M. biết chắc lát nữa Ch. sẽ khóc. Mà không chừng M. cũng sẽ khóc theo. Chẳng thà về khóc một mình, ở đâu cũng được miễn không ai biết. Buổi tối đó, trong một góc quán ở cuối đường Hiền Vương, M. ngồi gọi bia uống tới khuya. Càng uống, nước mắt càng chảy ra trộn lộn với bọt bia đến chát ngắt. Chừng say, cứ thấy Ch. về cười nói chơi vơi.
Gần năm sau thì T. bỏ đi tu như đã nguyện từ khi mẹ bị bạo bệnh. Còn lại một mình giữa thành phố với thỉnh thoảng những lá thư xa kể chuyện xứ người không đủ làm vui, M. sống lủi thủi ở Sài gòn buồn lắm. Có đôi khi muốn về quê lại không dám sợ thấy kỷ niệm mà buồn thêm. Rồi theo hạn tuổi động viên, M. bị gọi đi Thủ Đức. Suốt thời gian ở quân trường, có mấy lần nhận thư riêng của Ch. nhắc gần nhắc xa chuyện cũ, M. nín luôn. Năm 71, A. và Ch. theo đoàn sinh viên du học về thăm quê thì M. kẹt chuyện lính tráng. Hành quân liên miên đâu tận miền đông, có được nhắn mà không phép về. Cuối năm sau nữa, A. tốt nghiệp cùng lúc Ch. sinh con gái đầu lòng mắt sâu như mắt mẹ. Hình chụp hai mẹ con ngồi trước lò sưởi có A. đứng dựa bên, hạnh phúc đầy vun trên cặp má đỏ hồng. Tấm hình đó M. còn giữ suốt mấy năm đầu đi tù cải tạo cho đến khi bị chuyển trại nhiều lần quá rồi mất luôn. Cũng như rồi mất luôn liên lạc với gần hết ruột rà thân thíết. M. đi tù suốt năm năm. Chừng về cha mẹ chết hết không kịp thấy mặt ai, phải bỏ theo người quen ra Phú Quốc làm than. Thỉnh thoảng theo ghe vào đất liền ghé chùa hỏi thăm T. tin tức bạn bè cũng không biết ai còn ai mất. Cuộc đổi đời dữ dội quá đến nỗi mạnh ai nấy lo thân, bạn kề bên còn tứ tán nói gì đến bạn đi quá xa. Vậy rồi quá khứ coi như xóa bỏ. Mọi người như đầu thai kiếp khác, sạch trơn kỷ niệm. Mãi gần cuối năm 81, M. mới vượt biên được nhờ T. móc nối với đám chủ ghe hay đi lễ chùa. Bữa cuối, T. ngồi khâu đôi khoen vàng giữ từ thời con gái lộn giấu trong bâu áo, gói thêm cái khăn bông cũ cho M. căn dặn đừng quên quấn cổ khi ra biển lỡ trời trở gió. Nàng nói mà không nhìn lên. Sao bỗng nhiên M. cảm thấy có điều gì lấn cấn trong giọng nói ra điệu thản nhiên. Một chút vậy thôi rồi M. không dám nghĩ tiếp nữa. Cả hai đứng thật lâu ngoài hiên chùa đến khi cây ngọc lan nở khuya thơm ngát, tấm áo vạt hò rộng thùng thình mà như không giấu hết được một điều muốn giấu. Trước khi khuất bóng vào hậu liêu T. còn ngoái lại dặn M. rán tìm A. và Ch. để có khi còn nhờ vả. Nói vậy chớ dễ gì gặp lại ai. Bứt khỏi cái nôi rồi thì cứ như bóng chim tăm cá vậy thôi. Lâu lâu nhận được thư T. nhắc nhở, thúc hối làm như trái đất này nhỏ như cái chợ chồm hổm bên nhà, hể ra đường hú mấy tiếng là tụ lại hết. Vả lại sao M. thấy có gì bất tiện. Gặp lại để làm chi khi hồn xác mọi người chắc gì còn nguyên được như xưa. M. cũng có nghe kể đôi ba chuyện ngỡ ngàng về những người đi trước với đi sau lắm khi cũng không suông sẻ gì cho lắm, tự nhiên rồi thành ra nhiều giới lắm điều. Thôi thì phần ai nấy chịu, cho yên. Có đôi khi buồn buồn, M. nghĩ vậy mà hay hơn. Cho nên dù có nghe phong phanh vợ chồng A. dọn sang sống ở Mỹ, đâu miệt Cali, mà chưa bao giờ M. có ý kiếm tìm. Cứ nghĩ tới cảnh mỗi người mỗi phận, gặp nhau rồi khó ăn khó nói, thêm phiền. Hết thư này rồi thư khác. M. cứ nấn ná, hẹn lần hẹn lữa với T. Lật bật rồi ngày tháng qua tưởng như chẳng còn gì để nấn nuối. Mãi cho đến gần đây, M. nhận được thư T. cho hay mắc bệnh lao, sức đã yếu lắm. Bỗng dưng M. thấy xót ruột như đã làm điều gì không phải với T. Chẳng phải có lần chính M. đã hứa sẽ tìm gom lại những thân tình cũ cho đỡ hao hớt tấm lòng đôn hậu đó sao. Còn đang lần khần thì năm ngoái A. và Ch. đi du lịch ra vùng biển phía đông bắc. Chừng xuống tàu đi xem cá voi thì gặp M. đang làm thủy thủ trên tàu. Đầu thu, biển động nhẹ cũng đủ làm Ch. ngầy ngật không được tỉnh táo để biết vui hay buồn. Nàng ngồi dã dượi trong khoang, nhìn ra ngoài thấy hai người bạn trai cũ nói năng chỉ chỏ huyên thuyên rồi ngủ quên vì ngấm thuốc say sóng. Khi cặp bến, nghe chồng khẩn khoản mời M. sang chơi, Ch. đã thấy bồn chồn nhưng mệt lắm phải rời tàu leo vội lên xe buýt chỉ vừa kịp thắc mắc sao thấy M. gầy quá, như chiếc bóng gãy ngang. Thốt nhiên Ch. ngoái nhìn mình trên cửa kiến. Một ý nghĩ gì đó thoáng qua bỗng làm nàng thấy nao nao.
Sau nửa năm cả bọn gặp lại nhau ở nhà A. Khu nhà mới sáng hực dưới nắng Cali. Bông trúc đào đương mùa nở đầy cả góc phố. Lúc nãy khi xuống taxi, M. bỗng nhớ mấy câu thơ phổ nhạc của người thi sĩ tự vận khi còn rất trẻ có nhắc đến mấy bông trúc đào rơi lạc nhà ai mà thấy ngẩn ngơ. Ngó hoa rụng dưới chân còn nguyên cánh đỏ sao bỗng nhiên M. muốn quay về. Nhưng rồi vợ chồng bạn đã vồn vã ngoắc kêu trước cửa. M. lỡ bộ đành theo vào nhà. Ăn cơm uống rượu, chuyện trò suốt mấy tiếng đồng hồ mà lòng cứ lưng lửng bởi vì mọi người ngồi đối diện nhau mà sao thấy xa lắc xa lơ. Nhắc chuyện ai đâu thì ra rả mà kể tới chuyện mình thì cứ ngoắc ngéo lẫn quanh. A. thì cạn sớt như tự bao giờ, nói cười ha hả, đùa bạn rồi ghẹo vợ. Có lúc còn đòi góp tiền cho M. về Việt Nam cưới quách T. cho yên bề.
Bà T. Bả tu làm chi để cho lẻ bạn. Tao biết bả thương mày lắm. Tại mày lung tung quá bả sợ chớ gì. Có lần bả còn hăm với tao ...
Đến chừng Ch. gắt lên mới thôi. M. sượng sùng, im lặng ngó bàn ăn còn ngổn ngang chén dĩa tự dưng thấy bất an. Chút tình bạn cũ nồng nã tự nãy giờ làm như nguội đi một chút. Có một cái gì đó khi không nổi lên chắn ngang làm e dè một câu nói đùa, làm đứt ngang nửa chừng một câu muốn hỏi. Ai nấy như bỗng thấy rụt rè, dò dẫm như sợ làm sút cái gút mới nối lại được. Mà khổ nỗi mấy mối cột lăng nhăng hồi trước tưởng vậy mà có tháo ra hết được đâu. Nó vắt lơ lửng đâu đó mà hể có dịp là quấn siết lại, đau nhói. Người con gái đã có thời yêu say đắm bỗng chập chờn hồi sinh trong lòng người đàn bà chiều nay. Nàng ngồi đó, trước mặt chồng và người tình cũ, đã có lúc thật sự thấy lao đao. Khuôn mặt cũ lâu lắm nàng chỉ nhớ mơ hồ còn y nguyên vết sẹo dưới đuôi con mắt trái, cái miệng cười nhếch mép rất bất cần đời bây giờ lẫn thêm vẻ khinh bạc. Và hơn hết, mái tóc hồi xưa mịn bao nhiêu bây giờ ngó khô như nắm rạ cũng như làn da khét nắng mốc sương bỗng làm nàng bồi hồi như chính mình gây ra nông nổi. Câu nói đùa lúc nãy như đổ tội cho người khác làm nàng thấy chạnh lòng. Khi hai người xa nhau, hai người còn yêu nhau lắm. Áp lực của gia đình hay áp lực của chính lòng nàng đã chọn lựa. Hình ảnh cùa một tương lai bảo đảm hay hình ảnh của ngày tháng lêu bêu đã làm sự so sánh giùm nàng. Nàng không muốn suy nghĩ nữa mà đột nhiên chỉ muốn khóc. Khóc thành tiếng. Khóc rõ to cho đã nư những hờn tủi từ bao lâu đã bị dìm khuất dưới mấy lượt tiềm thức. Mặt người chồng trắng trẻo, phởn phơ da thịt. Mặt người tình khô nám, cằn cỗi. Rồi mặt bạn bè xưa, kẻ chết, người thất lạc từ mấy hồi kể lể bỗng hiện về chập chùng ngồi quanh bàn tiệc, cùng nàng. Ngọn nến thắp làm duyên giữa bàn soi mói từng mặt người, leo lét. Người thân, người sơ nhưng ai nấy đều mang chung một vẻ chịu đựng, nhẫn nhục đến tội nghiệp. Đến một lúc tất cả như gom lại lấp ló sau mấy lớp nhăn trên khuôn mặt người tình cũ. Trong loáng thoáng hoang mang sao Ch. muốn được một lần hôn lên từng nếp nhăn đó như hôn lên chính nỗi đau đớn, niềm cay đắng mà bạn bè nàng, anh em nàng đã chịu đựng suốt cuộc bể dâu đó. Nàng bỏ nước đi đã lâu quá, nàng không có ở đó làm sao biết được thế nào, chuyện trần ai. Ch. cảm thấy có một nỗi ân hận nào lạ lắm như mấy vết rạn trên một món đồ cỗ cứ lan ra hoài mà không cầm lại được. Cũng giống như trái tim nàng vậy thôi, đã có dấu nứt, bề gì cũng phải vở ra một lần cho xong. Hai người đàn ông ngồi trước mặt như hai hình nhân trù ếm chẻ hai tình nàng ra mà giành giựt. Nàng ở giữa long đong, lòng lao đao như bèo giạt. Dĩ nhiên còn có chọn lựa nào đâu, nhưng dễ gì sòng phẳng cho đành. Nàng có bớt thương chồng đâu, hai mươi mấy năm tình nghĩa chớ có vừa giỏi gì, vậy mà sao nàng vẫn muốn ngã đầu một lần lên vai người tình cũ mà khóc. Nước mắt này đề giải oan cho mối tình chết yểu của hai người. Mấy hớp rượu chát làm căng hai gò má, hơi rượu rướm cay quanh viền mắt, con tim chuếnh choáng nhìn ra hai mặt người nhập nhòe như một. Dẫu sao cũng cho tôi được chia xẻ một chút, nỗi đau muôn vàn đó. Nữ tính mênh mông trong lòng người đàn bà bất chợt trổi dậy dổ nàng ngó lại chỗ thiệt thòi. Ch. hơi chồm người tới, môi run. Vừa lúc A. lên tiếng, giọng mơn man như kéo vợ về phía mình. Sao vậy em, sao mặt mày xanh lét vậy. Bộ trúng gió hả ? Nói rồi cười mơn vừa đưa tay xoa xoa vai vợ. Ch. giựt mình như cắn phạm trái cấm, đưa mắt ngó A. rồi ngó M. như muốn phân trần. Mà đâu có ai để ý. Cả hai còn đang bận bịu với ly rượu mạnh A. vừa mới rót. Phải có cognac mới kết đẹp bữa nay nhen mậy. A. nói rồi đưa ly lên, giọng bắt đầu lè nhè. Chất rượu mạnh màu hổ phách, sóng sánh theo bàn tay lắc lắc của A. Hai người đàn ông bưng ly uống ực một hơi như dẫu sao cũng bằng lòng lắm cuộc tái ngộ này. Bề gì cũng may tụi mình còn gặp lại. Tao tưởng đã ngàn thu vĩnh biệt rồi chớ. T. ở bển sẽ mừng lắm biết tụi mình nhậu nhẹt bữa nay. M. nói một hơi như cố tình làm cho đêm vui trở lại. Nhưng có được đâu. Bởi vì Ch. thấy rõ trong mắt nhìn của M. như giấu đầy bụi nước. Lớp bụi ẩm hao hao sương khói cũ vừa dấy lên đã lây mờ sang cả mắt Ch. Chỉ có A. là không thấy vì đã lảo đảo bỏ vào phòng ngủ sau khi vỗ vỗ vai M. như thể xin lỗi. Còn lại đó, hai người tình cũ ngồi đối diện qua chiếc bàn rộng thênh thang. Ch. muốn đứng dậy dọn dẹp nhưng không biết nghĩ sao mà ngồi lại. M. muốn bỏ ra ngoài đốt điếu thuốc nhưng rồi cũng không nhúc nhích. Có một cái gì đó như dán dính họ xuống ghế, một chút hơi hướm của hè Lê Lợi, của hành lang Eden, của tàng lá me Tự Do hai đứa che nhau đụt mưa mà cứ sợ người ta bắt gặp ... Còn nữa, xa hơn một chút, còn hơi hướm của bực thạch ngồi ven góc biển, của ngôi trường trung học trống gió làm vạt áo dài cứ lính quýnh qua sân, còn căn gác như cái lồng nhỏ xíu của bầy chim chưa xổ cánh, còn đêm giao thừa toan tính trao thân, còn tiếng khóc tiếng cười của một thời mới lớn ... Giữa hai người, cách một góc bàn mà sát đầy kỷ niệm. Giữa hai người là một khoảng trống trắc trở mà thật ra chỉ bằng một vói tay. Cái vói tay ngắn ngủn trong lòng mà ngoài mặt thì xa lắm, xa đến không có tay nào vói tới. Hai người ngồi lại đó, hồn loay hoay vơ chụp những hình không bóng ảo, cũng đành. Sau cùng, Ch. lên tiếng, giọng lạ như không phải của nàng. Sao anh không ở lại đây đêm nay. Anh A. đã dọn sẵn phòng cho anh. Về khách sạn có một mình. Tự nhiên M. muốn nói một câu hờn mát mà không hiểu sao lại xoay ra từ chối thật điềm đạm. Về đằng ấy để sáng ra phi trường sớm cho tiện. Như vầy đã quá đủ. Thấy A. thành công, Ch. hạnh phúc tôi mừng lắm. Dẫu sao thư cho T. tôi đã có thêm điều vui để kể. Bọn mình ít nữa cũng còn vớt vát được chút gì sau lần mất mát qua lớn ...
Đêm đó khi Ch. tiễn M. ra cổng, hai người đều biết không chừng là lần cuối. Cả hai không ai muốn xô nhau vào chỗ không phải. Hồi nãy, trong lặng thinh hai người đã nói với nhau hết mọi điều cần nói. Kẻ cả nụ hôn muộn màng, rất muộn màng mà người cho và người nhận chưa ai hay biết cũng đã in dấu lại trong nắm tay siết chặt trước khi quay lưng. Không ai chịu làm kẻ phản bội với một quá khứ còn đẹp nguyên si. Cho nên không ai hẹn ngày gặp lại.
Lên taxi đi rồi, chừng vòng ngang bờ biển, M. đòi ngừng rồi xuống thả bộ dọc theo bãi vắng. Gió đêm trở lạnh. M. kéo cao cổ áo, đốt điếu thuốc ngó lung ra xa. Trời biển gì cũng tối mịt. Tiếng sóng kêu rì rầm, đều đặn như không biết nãn. Bỗng dưng M. nghĩ tới S. đã chết, tới A. đang ngủ, tới T. bên ấy mới thức sửa soạn tụng thời kinh sớm, nhất là tới Ch. giờ này chắc còn thao thức. Bỗng thấy cuộc đời giống hệt mấy lượn sóng đêm cứ vỗ hoài vỗ hủy lên bờ mà vẫn thấy dập dềnh như đứng yên một chỗ. Cũng như hết thảy mọi người, bạn bè xưa cũ đó, cứ tưởng đã xa như trời xa biển mà sao còn đó, còn gần hơn cả tấc gang.
Người ta có xa lạc gì đâu !
Cao Vị khanh
Rồi, hai mươi mấy năm sau ...
_________________________________________


Chiều tháng tư về qua sông Cổ Chiên
Gió quậy tư bề sóng nhọn hoắc
Thuyền quay như lá cuối mùa rơi
Người qua sông muộn tay ghìm chặt
Vực trống chìm sâu đến rụng rời
Nước chảy hung hăng lở sạt bờ
Tưởng ngàn vó ngựa sải qua mau
Người về từ cõi đầy xương sọ
Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau
Nước vẫn tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn
Ngó lục bình trôi tưởng rã hàng
Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ?
Mà cứ trông chừng một bóng sang
Thuở nhỏ qua sông ý đã liều
Thách trời, kiêu ngạo cả hư vô
Hai mươi năm lẻ về vội vã
Nước mất, đường quê rặt bóng mồ
Gió đẩy thuyền đi, hận quá giang
Cồn xa bỗng lạnh rợn âm quen
Chiêng trống thời xưa gào xung trận
Trách kẻ đời nay để phận hèn
CAO VỊ KHANH _____________

Khi về rồi, tôi mới phát giác ra một điều kỳ diệu. Tôi yêu em nhiều hơn tôi tưởng. Tôi mà bản chất kiêu ngạo và phóng đãng từ khi còn rất trẻ, lại bỏ dạ yêu em nhiều hơn cả tôi yêu tôi. Vậy sao.
Tôi yêu một người đàn bà trẻ hơn tôi cả một vòng quay của lịch số. Tôi yêu một người đàn bà non dại hơn tôi cả một trang lịch sử tang thương. Và yêu nhiều hơn cả cái thói quen hư hỏng của tôi, coi yêu thương trai gái là một thứ trò đùa, giỡn hớt với lề thói của xả hội.
Vậy sao. Tôi mà tình yêu được coi là những vòng nguyệt quế để khoác lên những chiến tích trên tình trường.
Vậy mà lần này, tình yêu em đã cải hóa lòng tôi. Sao lạ vậy em. Làm sao tôi giải thích được. Ờ có những điều kỳ diệu mà lặn lội gần suốt một đời tôi có lần nào vấp phải đâu em.
Buổi sáng đó, mùa thu chỉ mới chớm vàng đâu đây, ở bên này một khung cửa hẹp, tôi nhìn thấy em lên xe ra phi trường. Vóc em nhỏ nhắn, nhẫn nhịn. Có một thoáng tôi thấy em nhìn lên. Em nhìn lên, nhưng tôi biết em chỉ thấy một màn cửa lay động. Làm sao thấy nhau khi sương đêm chưa kịp tan. Và lòng người quanh em rào cản. Vậy rồi, chiếc bus chở du khách chạy khuất sau một ngã rẽ. Tôi đứng sững. Và mơ hồ, một giọt nước mắt ứa nhanh.
Vậy rồi, em xa tôi. Em xa tôi như tự đã bao giờ. Em xa tôi như cái vận số đã xô tôi ra khỏi quê hương mình, nơi chốn mà tôi yêu thương biết mấy.
Khi về rồi, ở bên nây một lằn ranh sông nước, tôi mới khám phá ra một điều lạ thường. Trái tim già cỗi của tôi sao bỗng dưng đập lại nhịp rộn ràng y như thời mới lớn, y như lần đầu xáo động trước những cợt đùa của thứ tình cảm còn rất mong manh. Không, hơn vậy nữa. Tim tôi trẻ lại mà hồn tôi chín muồi thêm bao nhiêu đằm thắm của ân tình em mang đến. Nó ngọt ngào như môi hôn vụn trộm, nó nhẹ tênh như ve vuốt mơ hồ mà mặn mà như giọt nước mắt em rơi đêm đầu tiên gặp lại. Cái cảm giác sương khói cặn lại lòng tôi như những lời vỗ về thầm lặng, thấm vào tim tôi rồi len qua bao nhiêu ngỏ ngách của thể xác và tâm trí như để nuôi nấng một sức sống sắp tàn. Tôi nhớ em. Ôi tôi nhớ em.
Vậy đó em. Thứ tình yêu muộn màng em hiến tặng đã khiến tôi từ một kẻ đã tự nép mình đứng bên lề cuộc sống bỗng dưng rộn lên những kêu đòi trở lại. Khổ cho tôi, tội cho em, tôi còn có cái quyền lực đó đâu em.
Vậy sao mình cứ lại thiết tha, gượng nhẹ từng sợi tơ đã mắc míu đâu tự một thuở nào. Thuở nào em hả ?
Có phải từ hơn ba mươi năm trước, sau cơn thất tán bể dâu. Em chạy chết. Tôi chạy chết. Qua sông qua núi. Qua trời qua biển. Qua bao nhiêu tang thương. Chạy chết như không còn đâu là đất sống. Và em và tôi, như những nhúm bọt bèo trôi dạt, lặng chìm không để sót chút tăm hơi. Cơ duyên nào cho chúng ta tìm lại nhau, mơ hồ như những tín hiệu truyền qua sóng điện. Chút thăm hỏi vu vơ. Mấy lời chia sớt mưa nắng. Khi biết tôi đã lập gia đình, tự dưng rồi im bặt. Mấy giây ? Mấy phút ? Rồi tiếng nói vui trở lại không kềm giữ. Em yên tâm. Vậy thôi. Rồi bắt quàng qua những quen biết cũ. Từ đó, ở hai đầu một lục địa mênh mông, nhắc nhở một viên thuốc cảm khi trái gió trở trời, kể lể một kỷ niệm mơ hồ về một thời có hoa có bướm ... Trong cái cõi không gian mịt mùng đó, ở đâu đó, trước khi gặp lại, từ nhiều năm trước, em thiếu nữ trở thành thiếu phụ giữa bao nhiêu sầu tủi. Vậy mà rồi vẫn chung thủy cùng tôi những nhắn hỏi, đều đặn như thời tiết đổi mùa, hết hạ sang thu ... Dòng đời mịt mù xoay không trở lại. Em xa xôi vẫn mãi một giọng nói thiết tha, hiền hòa gởi gắm những hỏi han, nhắc nhở ... nhất là những vỗ về an ủi cho những nhục nhằn tôi đã gánh chịu từ cuộc đổi đời năm ấy. Em đâu đó, bất kể sớm hôm mưa nắng, vẫn nguyên cái giọng ân cần và đều đặn, có một chút người lạ và một chút người thân. Phải từ đó không em. Ờ, mà dường như không hẵn vậy.
Dường như còn lâu hơn vậy nữa. Xa hơn cái trí nhớ đã bắt đầu mòn mõi của tôi. Xa đâu từ thời em còn là cô học trò mới lớn, cõi lòng chỉ mới vừa xao xác những thoáng nghĩ vu vơ. Vậy đó mà tôi quen em do một tình cờ trái oan của định mệnh. Em tan trường về, làm rơi một tờ giấy trắng, bay vất vơ rồi tắp vào chân tôi khi tình cờ tôi có việc đi ngang. Cúi lượm tôi thoáng nhìn mấy hàng chữ .... trải vách quế gió vàng hiu hắt, mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, à ... Cung Oán Ngâm Khúc, tác phẩm cổ văn mà tôi rất thích khi còn ở trung học. Khi tới gần để trao trả, tôi nhìn thấy đôi mắt mở lớn đen nhánh và đôi má ửng hồng dưới nắng tháng năm. Chiếc áo dài trắng bằng vải nội hóa thả lỏng, chưa thắt thỏm đường eo. Tự nhiên tôi gợi chuyện. Em trả lời vụn vặt. Vừa rụt rè vừa tinh quái. Thơ gì khó học muốn chết. Mà ông thầy quốc văn ổng khó quá trời. Tui chép vô giấy để vừa đi vừa học. Có muốn dễ học hông tui chỉ cho. Làm sao. Về đốt thành tro rồi uống tuốt vô bụng. Cái nguýt mắt dài còn hơn mấy lượn sóng ngày trở gió. Quanh em những chiếc áo dài trắng chập chờn như đàn bướm ghẹo. Thêm vài câu qua lại nắng mưa rồi em rẽ vào cổng nhà có chiếc hồ sen nho nhỏ. Tôi đi thẳng mà còn kịp thấy được cái ngoái đầu nhìn lại của em khi vừa khuất sau hàng cửa lá sách sơn xanh. Thêm đôi ba lần chào hỏi kín đáo trên đường tan trường khi tôi cố tình rẽ ngang thay vì đi thẳng tới sở. Việc làm mới, hai mươi ba tuổi bỏ Sài-gòn về tỉnh, tôi lao đao với những lề thói mới của tỉnh nhỏ trong khi lòng còn vướng bận hoài với những phung phá thời đại học. Tự một góc kín của lòng, tôi hục hặc với chính tôi vì nếp sống lặng lờ của tỉnh lẻ. Vậy rồi ngày một ngày hai, thêm một cợt đùa của định mệnh, em là bạn học của cô con gái chủ nhà tôi ở trọ. Tôi có dịp gần em hơn qua những lần hỏi han bài vở. Cô con gái chủ nhà nhờ tôi sửa hộ một bài sinh ngữ rồi kéo em nhập chung cho có bạn. Từ đó tôi trở thành một thứ gia sư kèm-trẻ nửa mùa . Do vậy, tôi có dịp giải tiếp cho em một phương trình đại số, nhắc nhở em một lỗi chính tả, đôi khi còn lạc nẻo vô mấy ngõ phố Sài-gòn với những ngày làm sinh viên không-sách-vở-cầm-tay ... Tôi kể em nghe quảng đời đại học, những hành lang hút gió, những giảng đường rộng thênh thang, những đêm cà-phê thuốc lá nghe Khánh Ly đi chân trần hát nhạc Trịnh Công Sơn, những đêm chắt mót từng đồng theo bè bạn la cà ở mấy cái vũ trường có rượu có nhạc và có cả những cô ca-ve chạy bàn như chạy giặc ... kể cả những chuyện phim Tây phim Nhựt vừa coi vừa ngủ gật trong bóng tối rạp ci-né Lê Lợi ... Tôi kể em nghe cả những chuyện tình sáng nắng chiều mưa tôi đa mang những ngày xa nhà học đòi lữ thứ. Đôi mắt thông minh, linh hoạt lấp lánh một niềm tin cậy kỳ lạ, em làm tôi lắm khi nổi hứng lang bang luôn tới mấy câu thơ tiền chiến, vói luôn tới những văn phẩm cổ điển tuyệt vời của văn học nước mình mà quên phức tôi là một người thầy giáo ... giả. Những lời tôi nói, dĩ nhiên không thiếu phần trang trọng và thành khẩn, nhưng tôi có phải là thầy dạy học của em đâu. Vậy mà sao, những lời đó, gần hai mươi mấy năm sau, khi liên lạc lại được lần đầu qua điện thoại, có khi em bỗng nhắc. Em bồi hồi. Tôi bồi hồi. Điều gì đã làm chúng ta dưng không như sống lại cả một đoạn đời đã cũ. Giọng ấm, bình dị, nghe thân mật như chưa từng vẫn đục bởi gió bụi của thời gian. Bỗng dưng, rồi không đâu tôi thấy lại hết những ngày ở đó. Những ngày em con gái, mộng cao, chăm chỉ học hành, theo tôi han hỏi chuyện trời cao đất rộng. Em nhắc lại một lời hứa tôi đã lỡ quên, một chuyện phim tôi kể nửa chừng, một bài thơ tôi làm lở dỡ ... ngay cả chuyện em tìm đến thăm tôi quá trễ, khi chuyến xe tù đã đưa tôi vào trại cải tạo. Em nói em có mang theo một chiếc áo lạnh mua gấp ngoài chợ trời. Rồi chiếc áo đó em mặc ấm trong những ngày vượt biên lênh đênh trên biển. Tôi nghe và lòng tôi nhói đau. Rồi thôi. Rồi sau đó, em sống đời em, tôi đời tôi.
Xứ người em học hành thành đạt, dựng xây lại cái tương lai đã bị dùi vập ở quê hương. Rồi em lập gia đình. Rồi tan vở. Rồi em có bạn mới. Ở xa, đôi ba tháng, ngày tư ngày tết, em gọi thăm hỏi. Đôi khi em kể tôi nghe nếp sống thường nhật của em, chuyện nhà cửa, việc làm, chuyện sức khỏe, chuyện những quen biết vu vơ thời mới lớn. Vẫn cái tiếng nói vui và ấm, thân mật và ân cần với hết tấm lòng nhân hậu. Lâu lâu lại tìm mua vài ba quyển sách mới gởi sang dặn tôi đọc trong những giờ giải lao. Thỉnh thoảng đọc đâu vài ba câu thơ cỗ lại kêu tôi giảng tiếp. Tôi không nghề không nghiệp ở xứ lạ, cày cục tìm miếng ăn hằng ngày. Vậy rồi sao, đôi khi giữa cơn chạng vạng của niềm tin, tiếng em gọi bỗng làm tôi vui lại. Vui lại rồi thôi. Em sống đời em, tôi đời tôi.
Hai mươi lăm năm qua, ba chục năm rồi qua. Vẫn những ân cần thăm hỏi, nhắc nhở, dặn dò, khuyến khích ... Vẫn tiếng nói xa, lắm khi nghe ra vỗ về đến se thắt lòng tôi. Có lần còn hỏi xin tôi những bài thơ làm trong tù. Rồi gom lại muốn đem in thành sách. Tôi hỏi bộ em muốn làm tôi bất tử. Em không trả lời mà sao bên kia đầu giây tôi nghe tiếng gì như tiếng nấc cố dìm. Cả đời tôi, tôi có giữ gìn bao giờ ba cái thơ văn tôi đã cặm cụi viết lách rồi bỏ quên đâu đó. Sao em, ờ sao em lại để tâm ?
Vậy đó, vậy đó. Ngày qua ngày. Tháng qua tháng. Năm qua năm. Mối giao cảm lung linh và mơ hồ như khói sóng. Chẳng có gì rõ ràng. Không mảy may xác nhận. Vậy sao hoài những tiếng chuông điện thoại reo vang, những khuya sớm, những giờ phút không ai ngờ nhất.
Cho đến tháng mười năm ngoái. Tôi tới Paris khi hay tin người bạn thân duy nhất đã tới giai đoạn cuối cùng của căn bệnh quái ác. Tin dồn dập xô đẩy tôi không kịp chuẩn bị, lấy chuyến bay đêm, hừng sáng tôi xách chiếc túi nhỏ lần tới một khách sạn ở quận 13 cùng lúc với một đoàn khách du lịch cũng vừa đổ tới. Trong cái không khí chộn rộn lăng xăng của phòng khách hẹp té, chúng ta bỗng nhìn ra nhau. Chúng ta bỗng nhìn ra nhau sau hơn ba mươi năm không thấy lại. Em đó sao, cô học trò tôi đã giải thích giùm một định đề khó hiểu. Cô gái mới lớn tôi đã đưa đẩy vào một thế giới viễn mơ. Vẫn cái dáng dấp trầm lặng tới độ nhẫn nhịn. Vẫn cặp mắt sáng, tinh quái mà hiền lành. Và cái giọng nói ngọt ngào như muốn làm vừa lòng với hết thảy ai ai. Em thêm mớ tuổi đời nhưng không giấu được cái vẻ liếng thoắng kín đáo của ngày xưa. Có một chút sững sờ. Và một tiếng kêu hớt hải. Rồi chúng ta bước vội tới gần nhau mặc kệ cái đám đông xô bồ chen chúc. Mũi tôi như nghẽn. Mắt em mơ hồ chút bụi sương. Rồi là những câu thăm hỏi xả giao. Em đi du lịch với người đàn ông đã san sẻ với em nửa phần đời sau và đứa con gái duy nhất. Rồi thôi. Em đi với bên đó và đoàn khách du lịch. Tôi tới cùng với bạn tôi, mảng cuối của một cuộc đời.
Ba ngày sau. Người bạn tôi mất. Tang lễ đơn giản như ước muốn của người chết. Tôi còn lại, bơ vơ giữa một kinh thành hoa lệ, nơi mà tôi đã nhiều lần mơ ước từ tuổi còn học trò. Đêm thứ tư, còn ba ngày nữa tôi sẽ rời Paris trở lại cái thành phố buồn hiu, nơi tôi đã sống chôn mình trong quên lãng từ mấy mươi năm nay, tôi ngồi uống rượu một mình nơi quầy cuối phòng khách. Đoàn du lịch về tới. Em ghé lại chào hỏi và để lại một mẩu giấy khăn ăn xếp gọn. Em nhắn tôi giờ giấc và địa chỉ của thánh đường Sacré Coeur.
Buổi sáng hôm đó, tôi lặng lẽ rời phòng từ sớm, lấy métro đến trạm Anvers rồi ghé vô quán còn vắng khách. Ngày mùa thu, Paris dậy muộn. Trên hè phố đã thấy lác đác lá thu rơi. Siết chặt chiếc khăn quàng cổ, tôi gọi tách cà phê đầu ngày, rồi ngồi ngó mông lung ra đường. Điếu thuốc vừa tan làn khói chót thì em tới. Chiếc taxi vụt chạy, em ngó quanh vừa khi tôi tới bên. Áo choàng đen và khăn cổ xanh lơ, em buông mình dựa vào tôi, hai vòng tay cùng siết chặt, nước mắt em bật ra cùng với tiếng kêu “anh” thảng thốt.
Ba mươi mấy năm bỗng chốc ùa về, tôi đưa tay vuốt bờ tóc rối có những sợi úa màu thu đã muộn, em ngửa mặt, mùi J’adore của Dior thoang thoáng và chúng ta hôn nhau. Chiếc hôn đầu tiên của nụ tình nở muộn. Trễ nhau hai phần ba đời mình mà lẻ ra đã đúng độ ngay từ lúc còn ở bên kia một đại dương ngăn ngắt.
Ngày hôm đó, chúng ta đi bên nhau, đi suốt một dãy quá khứ buồn rầu dù lòng ai cũng thấy hớn hở. Phố xá trước mặt, và người qua lại chỉ còn như một phụ cảnh mờ, chúng ta đi bên nhau, chân nhẹ hẩng và lòng nặng trĩu, trôi nỗi bềnh bồng giữa hiện tại xa và quá khứ gần. Gió sớm gai gai lạnh, tôi choàng tay qua vai kéo sát em vào người, chúng ta đi như để mặc cho hai đôi chân tự ý đẩy đưa ngang qua thánh đường Sacré-Coeur, rồi vòng xuống phố Montmartre. Tẻ qua khoảng đường có những người vẽ và bán tranh, em hỏi tôi có còn nhớ mấy câu thơ của Nguyên Sa tôi đã đọc cho em nghe ngày nào. Paris có gì lạ không em. Tôi nói tôi đâu có quên. Em đọc lầm thầm, tiếng nhỏ. Mai anh về em có còn ngoan. Rồi ngước nhìn tôi. Đôi mắt có hàng trăm lời xác nhận. Chỉ tiếc anh không về kịp. Ai đó đã nói thầm. Tôi đưa em lần theo lối đi lấp lửng những chiếc lá rụng từ đêm qua, lòng thắc thỏm những hình ảnh ố vàng, giờ bỗng dưng rựng sáng giữa hồn nhau. Anh biết không, sao em chưa bao giờ quên những câu anh nói, từ một lời diễn giải đến một câu đùa cợt, từng chữ từng lời dù hoa mỹ hay nôm na. Lời anh nói cứ lẩn quẩn bên em, quấn quýt trong đầu em ban ngày, ban đêm, từ theo ba má bước chân xuống ghe, từ khi biết rồi không còn bao giờ mình gặp lại nhau nữa. Em nói và nước mắt em ứa ra. Tôi úp mặt hôn vào gò má em, và nghe môi mình mằn mặn. Tôi nói gì với em đây. Có lời nào để tôi phân trần. Có lời nào đủ lấp cái khoảng cách đã lỡ để lạc loài nhau.
Chúng ta dìu nhau đi lang thang không chủ đích. Y như hai đám mây theo gió đẩy đưa tạt ngang qua thành phố. Mắt nhìn quanh mà mắt chỉ thấy nhau. Mình đi giữa một Paris đang trở giấc vào thu mà lòng cứ trở lại một góc tỉnh nhỏ xưa đã xa tăm tắp. Bởi vậy, quanh quanh bắt đầu kẻ qua người lại mà chúng ta có để ý gì đâu dù tiệm buôn đang rục rịch mở cửa, quán xá bắt đầu kê lại bàn ghế ngoài hàng ba và những tách cà-phê được dọn ra, bốc khói Chúng ta đi trên đường phố lạ mà làm như chỉ ngắm tìm lại những hình ảnh thân quen. Những buổi sáng buổi chiều trong một góc vườn nhỏ có mặt hồ im đựng bóng hoa sen. Có bóng mát cây mận hồng đào và hàng rào bông bụp em hay ngắt cắm lên chiếc bàn học kê dưới gốc một cây mai đã cỗi. Những buổi trưa im vắng, tôi tạt ngang, em chờ với tập vở, đôi mắt long lanh và niềm tin lóng lánh. Có khi là một ly chanh đường. Có khi là một chén chè đậu xanh thơm ngát. Buổi trưa tỉnh nhỏ êm như ru. Và tôi ru em bềnh bồng theo những đẩy đưa của tình tự dân tộc. Ngoài những bài toán hóc búa em đem từ trường về. Hoặc những cách chia động từ rắc rối của bài tập Pháp văn. Ờ, những buổi học giữa trời, vang tiếng ve kêu và đôi khi có tiếng vổ cánh của một con cò trắng lẻ bạn. Ờ những buổi học mấy ngày sau tết, có lần gió thổi tung những cánh mai vàng rụng đầy lên trang chữ, bám vào mái tóc em thắt bím trông ngộ như một cảnh đào nguyên. Những hình ảnh đâu đâu bỗng trở về lấp ló. Tưởng đã quên lâu, sao sống lại, bây giờ.
Chúng ta đi giữa đời thực như hai kẻ mộng du. Qua hàng phố, nhà thờ, lâu đài, công viên ... ngã tư, ngã năm, ngã sáu rộn rịp xe cộ mà có lúc tưởng chừng đang qua vội những lề đường đầy cỏ dại chen chúc những bụi hoa mắc cở, dưới bóng mát những tàng lá me lay lắt, hay băng qua chiếc cầu đúc bắt sát mặt sông có con nước lặng lờ xuôi ra cửa biển, và những bầy hải âu vừa bay vừa kêu hớt hải. Con đường lớn dẩn vào thành phố có em ngày hai buổi đến trường. Và tôi, tôi như một khách xa, đến đi không hay báo trước. Tại vậy mà nên nỗi.
Rồi bỗng em kéo tay tôi, dừng lại trước một sạp báo hỏi mua tấm bản đồ thành phố. Rồi ngón tay thon dò theo con đường đang đi, lần tới một địa điểm quen tên. À xóm St-Germain-des-Prés, bên tả ngạn sông Seine. Mình đi tới đó đi anh. Trời ơi, em còn nhớ. Em nhớ những huyênh hoang ngày tôi tuổi đôi mươi. Em nhớ cái mộng đời tôi lở dở. Em nhắc lại y nguyên lời tôi kể em nghe khu xóm nức tiếng một thời của Paris văn chương triết lý và nghệ thuật. Em nhớ cái ước mơ của tôi đã nói với em một lần. Được có ngày lang thang qua những nhà hàng, tiệm rượu, hộp đêm, hầm tối mù mù khói thuốc và xập xình tiếng nhạc ... có J.P. Sartre với chủ thuyết hiện sinh, có Simone de Beauvoir kêu đòi cho sự có mặt của phái tính thứ hai, có Jacques Prévert với thơ lề đường, có tiếng kèn đồng huyển hoặc của Boris Vian, có Julliette Créco giọng dẻo nhẹo như quến đặc nhựa thuốc lá đốt liền tay...
Ngang qua tiệm Les deux magots em đòi ghé lại. Bàn ghế bày biện vẫn y nguyên như những bức hình tôi đã thấy. Tôi gọi hai tách cà-phê, nhắp từng ngụm nhỏ. Bên kia bàn, hơi khói thơm ngát rịn mướt trên vành son môi tô khéo. Em ngước nhìn tôi, con mắt xa xăm. Có phải nơi này anh nói Ernest Hemingway đã viết Le soleil se lève aussi ... Và trước nữa chàng lãng tử Rimbeaud của anh đã làm thơ Le bateau ivre. Em ơi, hơn ba mươi mấy năm trời sao em còn nhớ. Sao em vẫn chưa quên. Tôi nhìn xuống màu cà-phê đen thẳm, thấy mắt mình như có chút khói cay. Trời ơi sao em nhớ từng chút một những say mê từ thuở tôi còn trai trẻ mà những khi rảnh rỗi tôi hay kể em nghe. Sáng nay em nói dối với mọi người để được cùng anh đi với giấc mơ anh. Dứt câu, em lấy cặp kính đen đeo lên mắt nhưng làm sao em giấu được tôi. Qua Mỹ như mọi người với mọi khó khăn, chính mấy câu khích lệ của anh đã thúc đẩy em đeo xe bus lội tuyết tiếp tục theo đại học trong sự thiếu thốn thường trực. Bốn năm em đi học là bốn năm em hy vọng, ngày gặp lại anh, em không làm anh thất vọng. Rồi em đổ đạt. Và anh, anh thì vẫn biệt tăm. Cặp mắt em giấu sau cặp kính đen. Nhưng giọng nói em làm sao giấu được. Em chắp hai tay che miệng và tôi nghe tiếng em nấc nghẹn. Hai vai em rung rung. Ngực em tức tưởi dù cố nén. Giọt nước mắt nào để sót chen qua gọng kính, loang ướt một dòng trên gò má phải. Tôi chồm người qua bàn, nắm hai bàn tay em trong hai bàn tay tôi. Sau cùng cả hai đều khóc. Tôi kềm giọng. Cho đến lần cuối gặp nhau tháng ba năm đó, anh có ngờ ngợ một điều gì đó nơi em. Nhưng em nhớ coi, lúc đó em mười bảy, thùy mị mà lại quá kín đáo, chúng ta lại ở hai vị trí nghịch thường. Tỉnh nhỏ, lòng người ... Rồi hết giặc giã, chưa kịp mừng anh đã đi tù, gia đình thất tán, mất hết mọi liên lạc ...
Tôi sẽ nói gì thêm. Mọi lời nói đều là những phân trần vô nghĩa khi người ta đã lỡ trệch ra khỏi một toan tính với định mệnh. Lực ly tâm sẽ càng lúc càng bắn đi xa. Mỗi lúc rồi mỗi thêm xa. Tôi lập lại câu nói đã lập đi lập lại mấy lần từ khi liên lạc lại. Khi ra tù, hơn bốn năm sau, anh bị đuổi về nguyên quán. Ở quê, ba má anh cũng bị cướp nhà phải trở về làng làm ruộng khi đã gần bảy mươi. Nhà có bốn anh em trai, ba người anh còn chưa biết sống chết ra sao trong các trại tù ngoài Bắc, duy nhất chỉ còn anh ... Điều đó có cần không khi người ta đã nghe đi nghe lại bao nhiêu lần. Có điều nếu không nói vậy, tôi sẽ nói gì đây. Cái sự thật cũ càng đến độ làm xót xa chính người nói.
Nói xong tôi thấy mình như tên hề mới vừa lau xong lớp phấn son nhễ nhãi. Mặt trời lên cao rọi xuyên qua hàng cửa mở, rải lên tóc em lớp bụi nắng óng ánh như sao. Tách cà-phê trở nguội, đắng nghét. Em đứng lên, quyết chắc. Khoác vội túi xách tay, tay cầm tấm bản đồ xếp tư, tay níu tôi đi nhanh ra cửa. Rồi như vậy, mỗi bước lần dò chúng ta đi về phía khu Latin. Gió từ mạn sông Seine thổi ngược lên mùi hơi nước pha sương. Ghé lại mấy quán sách cũ dọc bờ sông, nhìn ngắm rờ rẩm những pho sách cũ lòng tôi nổi lên một niềm ân hận không đâu. Bỗng nhiên tôi nhớ đến những quyển sách tôi đã mua, đã nghiền ngẫm, đã giữ gìn phút chốc biến thành tro than những ngày tang thương đó. Thấy tôi ra chiều thờ thẩn, em vuốt nhẹ lên bàn tay buông thỏng của tôi rồi đọc nhỏ câu thơ của Vũ Hoàng Chương. Chúng ta mất hết chỉ còn nhau. Tôi quay lại nhìn em. Và thấy lại hết những mất mát của đời tôi như tụ đọng lại trong mắt em. Cặp mắt nhìn tôi gần mà như xa hun hút. Ôi tình tôi.
Vậy rồi chúng ta đi gần lại khu công viên nổi tiếng. Em kéo tôi đi nhanh hơn. Mùa thu rớt nhanh sạm mặt khi nắng chiều rơi chút vụn tàn trên hàng cây dẩn đến vườn Luxembourg. Không ngó tôi, em đọc lầm thầm mấy câu văn của Anatole France mà lần nào tôi đã đọc cho em nghe. Tiếng còn tiếng mất lẫn trong hơi gió nhẹ ....
... Tôi sẽ nói với bạn điều mà hằng năm làm cho tôi nhớ lại, đó là bầu trời mùa thu vần vũ, những bửa ăn tối dưới ánh sáng ngọn đèn và những chiếc lá bắt đầu vàng trên hàng cây lay động ...
Tim tôi thắt lại. Tôi siết chặt vai em, miệng mấp máy những chữ tôi còn nhớ.
Trời ơi, dễ chừng đã hơn ba mươi mấy năm qua, câu văn dịch mùa tựu trường năm ấy. Em lên mười bảy tuổi. Tôi tâm sự với em. Nhìn tuổi em và bạn bè mấy ngày nay sắm sửa sách vở, tự nhiên tui thấy nao nao. Biết chừng nào tui sống lại cái thời hồn nhiên đã qua em hả. Rồi tôi đọc lại cho em nghe câu văn mà tôi thích nhất. Tôi nói tôi thích còn hơn bài tựu trường nổi tiếng của Thanh Tịnh. Cũng chính lần đó, tôi đã ngỏ lời khen em và chắc lòng tin em sẽ thành công mai sau. Anh thấy lại chưa anh cậu bé học trò của anh đó. Em nói mà không nhìn tôi. Em nói mà như cố soi tìm lại những gì đã mất. Anh còn nhớ bữa em khóc vì giải trật một bài đại số. Anh giễu em mít ướt làm em khóc mùi mẫn. Rồi anh đền em bằng chuyện phim Les dimanches de Ville-d’Avray. Chuyện phim buồn quá làm nghe xong em lại khóc ồ lên làm anh luống cuống sợ trong nhà hiểu lầm. Anh nhớ hông. Em cười nửa nụ mà lòng tôi chết điếng. Mà anh biết hông, nhờ anh mà em học giỏi, mà em thi đậu hạng cao. Nhất là anh tạo cho em một thứ mỹ cảm để thích văn thơ nghệ thuật ... Em nói một hơi rồi nín bặt. Tôi nghe lòng mình tan tác như đám lá rụng mỗi lần gió thổi tốc cả xiêm y. Tôi nói sao hơn nữa khi mọi sự đều có nguyên do. Hai người đi chậm bước khi ngày sắp sửa bỏ đi. Bước chậm như cố kềm thời gian lại. Nhưng làm sao được ! Làm sao kéo lại giờ khắc, mùa màng, thời tiết ... khi tóc xưa cài bướm giờ đã cắt ngắn pha sương, cậu bé tung tăng mang cặp vở chỉ là chiếc bóng tiếc nuối của một hiện thực tỉnh thức vốn đã dập vùi thế sự.
Tôi ôm ngang thắt lưng em dìu đi những bước thơ thẩn. Lòng cảm động khi tận mắt nhìn thấy một cảnh tượng trước đây chỉ có trong mơ. Ngang qua bức tượng L’acteur Grec, em dừng lại ngắm nghía, thích thú khi tình cờ có một con chim đậu ghé trên đầu vai. Khách du ngoạn kéo qua lại từng nhóm, những đứa bé con chạy nhảy vui như hội. Tôi đưa tay vén mấy sợi tóc rối rớt trên đuôi mắt em và thấy chiều xuống trên mấy dấu chân chim đã mỏi. Bóng tối len dần vào từng bờ cây vạt cỏ. Chiều xuống. Ngày của chúng ta sắp hết. Em phải về trước khi đoàn du lịch trở về. Em nấn níu nhìn tôi như hốt hoảng. Em ơi em, tôi làm gì đây. Tôi làm được gì đây khi đời tôi như con nắng chiều thu, đã và không còn sức để chặn ngang bóng tối của mùa đông sắp sửa. Khi đời tôi đã phôi pha từ những năm tháng tù đày, từ những lê lết cày cục để nuôi lớn bầy con bỏ xứ và cha mẹ già quạnh quẽ ở quê nhà.
Tôi nắm tay em đi dần ra cổng, gọi taxi để trở lại khách sạn. Xe chạy quanh quanh qua đường phố. Thấp thoáng Paris lên đèn. Trên xe, cả hai ngồi yên như hai pho tượng. Gần tới, em ra dấu ngừng xe. Còn lại hai dốc phố. Chúng ta xuống xe đi nép vào bờ tường đá. Gió chiều thổi thốc mớ lá rụng bám vào mỗi bước chân đi. Thinh im. Rẽ ngoặt qua lối chót, cái nóc của khách sạn lấp ló sau mấy chòm cây thưa lá.
Con đường lót đá từ trăm năm cũ, xộc xệch dưới gót giày nhọn làm lắm lúc em phải dựa hẵn vào tôi. Vẫn mùi nước hoa sớm thoang thoáng lẫn thêm mùi da thịt đàn bà nồng giấc xế chiều có lúc làm tôi ngầy ngật. Tôi muốn ôm em, ghịt sát vào tôi khi qua một góc hẽm vắng. Cơn mê nào chợt dậy, lay động nỗi ham muốn gần kề. Em dịu hoặc trong tay tôi. Cặp mắt thoáng vẻ ngập ngừng rồi quyết đoán. Em nhóng lên ngửa mặt. Tôi tựa em vào vách đá, áp môi mình lên môi em, lưỡi quyện vào nhau, quấn quíu. Và chúng ta hôn nhau hối hả. Hối hả. Bỗng chốc trăm ngàn hờn tủi, bỗng chốc muôn vàn tiếc thương đổ về kêu rêu, trách móc, thở than ... Và tôi và em và nụ hôn nóng sốt và chút lệ ứa nhanh. Và tôi và em và mấy chục năm đằng đẵng và oan nghiệt. Và ... oan nghiệt.
Tôi hôn em bao lâu. Chúng ta hôn nhau bao lâu. Có ai đếm được niềm đam mê bốc cháy đâu em. Có ai đo được hơi thở mình ngắn dài khi tình yêu trở thành mạch sống, háo hức, kêu đòi, buông thả ... khi hai con mắt em lim dim chấp chới, khi ngực em áp sát ngực tôi như tỏ lộ điều son sắt, rồi tôi cảm được hai chân em muốn khụyu xuống. Và tôi, tôi ...
Chúng ta buông nhau ra. Buông nhau ra khi cơn mê lên đến cực điểm. Buông nhau ra khi hai vòng tay đã khít lại như một. Và khoảng cách của hai thân xác đã gần như vô nghĩa. Và chúng ta buông nhau ra. Bỏ nhau ra.
Em đi trước. Áo chùng đen. Tôi đứng lại, tựa vào vách tường, lòng đá tảng. Tôi móc điếu thuốc gắn vội lên môi, châm lửa. Mới đi được mấy bước bỗng em ngoái lại. Hai con mắt, ơi em, hai con mắt. Tôi ném vội điếu thuốc, chạy tới. Và em khóc. Nước mắt nhạt nhòa. Chúng ta ôm chầm lấy nhau. Và môi tôi ngậm lấy môi em. Và nước mắt tôi hòa lấy nước mắt em. Và bóng tối chìm chúng ta vào quá khứ.
Sớm hôm sau, em ra phi trường. Tôi còn ngày cuối ở lại Paris. Cả ngày tôi lẩn quẩn trong phòng. Tính giờ bay, tính giờ em về tới bển. Xế ngày, tôi xách chai rượu quí người bạn xưa đã dặn dò tặng lại, xuống nhà hàng, chọn chiếc bàn nhỏ khuất trong góc, nhờ khui và rót rượu uống một mình. Bạn bỏ đi. Rượu cay nồng từng ngụm. Em bỏ về. Rượu đắng chát từng giọt. Tôi uống từng ngụm nhỏ. Rượu thấm vào hiện tại tôi. Rượu ngấm vào quá khứ tôi. Rượu ngập chìm tôi trong nuối tiếc muộn màng. Đến một lúc sao quanh tôi chỉ còn lại những đôi mắt em. Đôi mắt hiền như đóa từ bi. Không chút oán trách. Không mảy may kêu đòi. Nhưng em ơi, làm sao tôi không thấy, từ đôi mắt em, sự chịu đựng ẩn nhẫn đến chạnh lòng. Em đã lặng thinh ra về, yên phận. Vậy rồi sao nước mắt tôi ứa ra, lặng lẽ. Lặng lẽ từ đêm qua khi bóng em khuất sau cổng khách sạn. Lặng lẽ từ sớm mai khi từ trên lầu cao tôi nhìn thấy em bước lên xe đi khuất. Lặng lẽ xế chiều nay khi tôi châm đầy thêm tấm lòng tôi đã cạn bằng chất nước cay sóng sánh ánh vàng. Tôi ngửa cổ nốc từng ngụm như nuốt ngược vào người từng ấy giọt lệ tình em. Em không đòi nhưng tim tôi thắc thỏm. Làm sao tôi không biết sức nặng trì trì của ngày tháng vô vọng, khi em chưa là thiếu phụ. Thời gian thì vô tình và đời sống cũng vô tình. Em lẻ loi, quay quắt giữa xứ người. Vây quanh em chực hờ bao nhiêu là cạm bẩy. Tội tình em một thân một mình, ai đỡ đần những khi đời làm giông bão. Vậy mà em, đã vừa lo thân vừa còn lo chờ lo đợi. Chờ đợi một người tình chưa hứa được nhau một tiếng hẹn hò. Năm này qua năm khác. Rồi đến lúc mọi chuyện cũng phải xuôi theo cái chiều thuận của giòng đời. Có ai lội ngược giòng đời được mãi đâu em.
Thì thôi em, tội tình nhau, cũng đành gánh chịu. Chỉ cầu xin em được vuông tròn. Tôi thầm thì một mình khi đêm đã gần sáng. Về phòng thu xếp rồi tôi gọi xe ra phi trường.
Paris mờ mờ trong sương sớm. Gió luồng qua phố vắng nghe như tiếng mùa hú gọi. Những tàng cây run rẩy rải lá đầy đường. Tôi khép chặt vạt áo choàng mà nghe hơi thu lạnh xuống đầy vai. Tự dưng, tôi nghĩ mình như một tên tội phạm đang trốn chạy dù chẳng có ai rượt đuổi. Chỉ là tôi trốn chạy ... tôi !
Khi máy bay lượn cánh lần chót, nhìn xuống tôi thấy Paris nhợt nhạt như một cơn mơ.
.................
Đến chừng về rồi tôi mới biết tôi yêu em, tôi yêu em nhiều hơn tôi tưởng.
Cao Vị khanh

Năm 1958, ông Nguyễn Mạnh Côn xuất bản tập sách “ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ”. Đó là một cuốn sách giá trị tuyệt đối về mọi mặt. Kẻ hậu ... hậu bối về mọi mặt như tôi chẳng có ý gì dám mó mé tới cạnh bên. Chẳng qua tôi khoái cái tựa. Thường khi viết sử, từ đời xưa đời xửa ở bên Tàu, nghĩa là khi còn mấy ông tự nhận con trời ( thiên tử ) làm vua làm chúa làm cha thiên hạ, oai quyền tột đỉnh nghĩa là muốn làm gì thì làm, vậy mà người ta cũng đã đặt ra chức sử quan. Ông-quan-viết-sử ăn bổng lộc chuyên môn ghi chép chuyện nước non, từng ngày từng giờ từng phút từng giây. Nghĩa là không được bỏ sót một chi tiết, một biến cố nào đã xảy ra trong triều ngoài nội. Nhất là có-sao-viết-vậy-người-ơi! Có lẽ gọi là chép-sử sẽ rõ nghĩa hơn chăng. Viết có nghĩa chủ động, dễ lạc bút. Chép nghĩa là ghi chép, có gì nói nấy không thêm bớt, không sửa chữa, một là một, hai là hai, không có on-đơ gì hê ́̉t. Khác nhau như chụp ảnh và vẽ tranh. Sự
thật của lịch sử là điều cấm kỵ, tối thượng, không được tô son thoa phấn mà cũng chẳng được bôi tro trét trấu. Muốn được vậy, người chép sử phải có đủ mọi đức tính, từ trung thực đến liêm sĩ, kể cả sự can trường, uy-vũ-bất-năng khuất. Ngay cả trong bộ Kinh Xuân Thu mà Khổng Tử đã san định, ổng cũng đã đòi như vậy.
Thế mà ông Nguyễn lại đem tâm tình mà viết lịch sử ! Tâm tình là cái thứ lộn xộn nhất của con người. Nay vui mai buồn mốt giận bữa kia hờn. Thứ tình cảm bộp chộp đó dễ làm sai lạc mọi nhận định. Vậy mà ông Nguyễn đòi viết lịch sử bằng tâm tình có mâu thuẩn lắm không. Thật ra dụng ý của ông u uẩn và thâm thúy hơn nhiều khi đem-tâm-tình viết về thời kỳ hổn mang đó. Ba chữ “Đem tâm tình” cốt để xác định sự thành tâm, để bảo đảm sự chính trực của mình khi đặt bút viết lại những dòng hận sử, với ước vọng soi lại đường đi cho tuổi trẻ sau khi đã lạc bước vì những tuyên truyền đường mật của loại chính trị lọc lừa. Cái tựa với lối chơi chữ thượng thừa đó đã dựng lại một giai đoạn đen tối của lịch sử Việt Nam cận đại, và làm sáng mắt cho không ít tuổi trẻ còn mù mờ vì sự quỉ quyệt của người cộng sản. Vậy mà rồi, đâu lại vào đó. Người tin, người không tin để cho lịch sử trớ trêu, kẻ nuốt hận chui đầu vào rọ, kẻ quính quáng nhào ra khơi bán mạng cho sóng gió vô tình !!!
Cái chuyện tôi bắt chước ông ở đây chẳng qua vì lòng ngưỡng mộ của một kẻ đến sau biết ơn người đến trước nên chẳng ngại ... bắt chước ... cái tựa. Dẫu vậy, vẫn phải cúi đầu xin lỗi bậc trưởng thượng. Bởi vì chữ ông Nguyễn viết là máu xương là cốt tủy của một đời người thao thức vì vận mệnh của dân tộc. Còn thứ tôi viết chỉ là chuyện càm ràm qua ngày đoạn tháng. Lựa cái tựa như vậy cốt để nói rằng ... dốt mà hay nói chữ. Thiệt vậy, tôi vốn là một kẻ dốt nhạc mà lại bỗng nổi hứng muốn viết về nhạc, thành ra, nói về nhạc mà nói bằng ... tâm tình chớ không bằng ... nhạc lý như mấy ông maestro vẫn thường hay múa đủa mà sửa méo sửa tròn mấy dàn giàn nhạc giao hưởng. Nhạc tôi muốn nghe, muốn kể lể là thứ nhạc đã có một lúc bị xử ức oan tình. Rằng thì là nhạc Boléro, nhạc máy nước, kể cả ... nhạc-sến. Có một thời tiếng Việt của chúng ta sung mãn lắm. Ngoài cái kho ngữ vựng đã dùng lâu dùng quen mà ai cũng rành, đã được ghi chép hẵn hoi vô tự điển với lời giải thích rạch ròi, hằng khi vẫn phát sinh những tiếng, những chữ mới hoặc những chữ cũ với nghĩa mới có khi chỉ nhằm để chỉ trích hay giễu cợt một hiện tượng xả hội nào đó ... Riết rồi thành quen, nhập tâm và xài mát tay lúc nào không biết. Giã sử chữ ... “sến”. Nếu không lầm, dường như danh từ marie-sến đã sanh ra và phổ biến đâu từ những thiên phóng sự với giọng văn khinh bạc trên những tờ báo hằng ngày xuất bản ở Sài Gòn, để ám chỉ những người đi ở mướn, ở đợ, giữ em, tối tối xách thùng thiếc biến chế từ thùng dầu lửa 20 lít, ra mấy cái phông-ten nước ở đầu đường, chờ chực để hứng rồi gánh nước-máy về cho chủ. Ẩn ý nhằm chê bai trình độ học thức cũng như thứ “mỹ cảm” bình dân, ít học ... Đến một lúc, chữ “sến” tách riêng ra trở thành một tính từ độc lập, hàm ý nhà-quê, dở ẹt, thấp kém ... được phát biểu với giọng điệu khinh thị, khích bác, chế giễu ... Vậy rồi, cho đến một lúc, dường như vào những năm 90, bỗng nghe lõm bõm đâu đó trên môi mép của quí vị tự cho mình có thẩm quyền về âm nhạc, một danh từ mới : nhạc-sến. Nhạc-sến, hình dung như một cái bĩu môi khi nói về một bản nhạc cũ đã có thời phổ biến rộng rãi ở nửa phần đất phía Nam và sau này vẫn tiếp tục phổ biến ở đó, luôn cả nửa phần đất phía Bắc bất kể có bị cấm lên cấm xuống tới nỗi riết rồi ai cũng biết ... cũng mê !
Đã không rành nhạc lý, từ mấy nốt “đô” “rế” “mì” ... đến cung thứ rồi cung trưởng, rồi trường canh, từ điệu Tango rồi Rumba, Cha-cha-cha ... nói gì đến cái thứ nhạc cổ điển mà ai nấy đều tấm tắc khen hay dẫu có khi hai tai cứ loạn xà ngầu vì mớ âm thanh phát ra loạn cào cào của hằng chục thứ nhạc khí phát ra cùng một lúc ! Dẫu vậy, dẫu vậy tôi cũng sẽ viết về nhạc, nhạc-sến, với tâm tình của một người thích, khoái đến độ lắm khi muốn chảy nước mắt vì nhạc-sến. Ờ mà sến, hay máy nước, hay boléro hay nhạc vàng hay ... hay gì đi nữa miễn là khoái tai, vừa ý, thỏa lòng thì sến hay không sến cũng có sá gì đâu. Mà cái vụ khoái nhạc-sến này cũng phải nói cho rõ, không phải do bẩm sinh cũng không phải bị tẩy nảo. Mà là do nhu cầu thiết yếu của thời học đòi làm người lớn. Từ khi ... lỡ-yêu-rồi-làm-sao-quên-được ...-NẾU ANH ĐỪNG HẸN-LÊ DINH Thử nghĩ coi, ngay lúc tuổi vừa mới lớn ở cái xứ Việt miền Nam đó, những năm năm mươi mấy sáu mươi, lỡ có muốn tỏ lòng ái mộ ai đó mà cứ moi ra mấy cái Symphonie no 9 của Beethoven hay Concerto no 1 của Chopin mà tán tỉnh thì chắc chắn là có màn thất bát dài dài ... Thuở đó, đầu trên xóm dưới, trong làng ngoài tỉnh, bằng cấp cả xấp hay chỉ mới bập bẹ ba chữ i tờ gì cũng vậy ... chỉ có lắp ba lắp bắp theo ông Trúc Phương Ai cho tôi tình yêu của ngày thơ ngày mộng / Tôi xin dâng vòng tay mở rộng / Và đón người đi vào tim tôi / Bằng môi trên bờ môi ... là mới hy vọng có thể mở được đường-vào-tình-yêu –AI CHO TÔI TÌNH YÊU-TRÚC PHƯƠNG. Mà chắc cũng không phải chỉ mình tôi tin như vậy. Còn tin hay không là quyền của bá tánh. Có điều, chuyện đờn-ca-hát-xướng ở miền Nam thuở trước không đúng hẵn cũng hao hao như vậy. Nếu không vậy, làm sao nhà xuất bản Tinh Hoa in nhạc với tờ giấy xếp đôi có trang bìa là hình vẽ của họa sĩ Duy Liêm, mấy cái phòng trà, mấy chỗ sang lậu băng ca-sét, chưa kể quí vị được trời cho cái giọng thiên phú ... làm sao sống nỗi một cách vinh quang trong một xứ sở mà tiếng đạn bay mìn nổ nghe riết đã muốn lãng tai ! Nói như vậy để thấy cả một nền âm nhạc mà người ta gọi là nhạc-sến cho đành đó, là cả một gia-tài-của-mẹ-TRỊNH CÔNG SƠN. Chớ có phải chơi đâu.
Thử nghĩ coi, nghệ thuật để làm gì nếu không phải là để đáp ứng cho khát vọng đi tìm “cái đẹp” của nhân sinh. Dẫu có chọn cho mình một đường hướng nào đi nữa, nghệ thuật mà không có người thưởng thức thì chỉ có đem vô mấy trại cải tạo của việt-cộng mà làm trò tẩy nảo. Ngay cả chủ trương nghệ thuật vị nghệ
thuật đi nữa, rốt lại, vẽ, làm thơ, viết nhạc ... mà không có ai trố mắt nhìn, vểnh tai nghe, chong mắt đọc thì cũng y như kiểu ... nói chuyện với đầu gối. Vậy thôi. Như vậy, nhạc mà làm mê mẩn cả mấy thế hệ người nghe thì nếu không gọi là nghệ thuật thì gọi là gì cho phải đây ?! Vã lại, y như mọi ngành nghệ thuật khác,
nhạc như thơ cũng cần sự cảm thông bằng trực giác trước khi bỏ lên bàn mổ. Hãy thử bắt chước Xuân-Diệu-thời-tiền-chiến ... ai đem phân chất một mùi hương / hay bản cầm ca tôi chỉ thương / chỉ lặng truồi theo dòng cảm xúc / như thuyền ngư phủ lạc trong sương. Được chăng ?
Bởi vậy, nói gì thì nói đem mớ ca nhạc một thời đó ra giễu cợt, dè biểu chẳng qua chỉ là chuyện tự dối lòng của mẫu người tự cao tự đại, thiếu thành thật ngay cả với chính mình. Nê u không, có thể là một cách thức phản-tuyên-truyền của đám cầm quyền cộng sản, muốn cấm đoán, muốn tiêu hủy mà bất lực trước sự thưởng thức dù có khi phải lén lút của đại đa số người hâm mộ, ở ngoài cũng như còn kẹt ở trong nước. Y kiểu mấy mụ đàn bà xấu tánh, ham muốn hay cấm đoán hoài mà không được bèn quay qua nói xấu cho ... hả giận !
Trở lại với dòng nhạc của một thời đã qua, đang qua, và sẽ còn qua nữa ... Ai sao không biết, còn tôi, sau khi dong ruổi ba đồng bảy đổi trong cái thế giới âm nhạc tây tàu, xưa nay, cũ mới ... new age, kể cả ráp riết v.v... cuối đường lạng quạng xin được quày đầu trở về với dòng nhạc mà số phận đa đoan chẳng kém vì người làm ra nó và người yêu thích nó. Thứ nhạc mà người ta phán cho là nhạc-sến !
Nếu nhớ không lầm thì cái “gu” cũ-người-mới-ta này đã lậm thêm vào người đâu chừng đôi mươi năm nay, nhất là từ khi sẩy bước xuống ghe tìm đường bôn tẩu khỏi cái chế độ quỷ quái ma đầu ma cô ma mị ... Số là sau khi bôn tẩu trên dặm nghìn sóng nước, được đặt chân lên đất lạ rồi được đặc ân cho làm người ra giống người, được ăn thêm bơ sửa, bánh mì, pizza ... no nứt bụng rồi có lúc bỗng quay ra thèm đến chảy nước miếng cái mùi mằn mặn tanh tanh của nước mắm pha chút dấm chút tỏi, dầm chút ớt chút tiêu ... Khổ nỗi, thời đó người cùng giống rồng-tiên (!) bỏ ổ còn quá ít ỏi nên lắm khi cũng đành tìm quên với nước tương xì-dầu của mấy chú con trời ở China town. Vậy rồi nhờ vận rủi may, người bỏ xứ trốn tự-do-hạnh-phúc-độc-lập của bác-và-đảng càng lúc càng đông nên nước mắm và hương vị quê hương càng lúc càng bay mùi thơm phức trên xứ người. Có nước mắm, phở tái chín nạm gầu gân sách ... tạm lấp đầy cái bao tử
tha hương rồi là nổi chứng nhớ thương mấy cái vụ đờn ca xướng hát của một thời Sài-gòn đèn xanh đèn đỏ. Nhất là những hôm giáp tết xứ người. Trời mùa đông lạnh cóng, hoa mai hoa đào đâu không thấy, chỉ thấy tuyết bay mù mắt, phủ trắng cây cỏ núi đồi phố xá, phủ trắng cả tấm lòng của những kẻ mất quê hương. Chiều ba mươi, nấu mâm cơm cúng vái ông bà, dọn ra bàn chưa kịp thắp mấy nén nhang là trong lòng đâu như ai đã dạo sẵn mấy nốt hò xự xang xê cống líu rồi bắt giọng mà ngân nga để sửa soạn xuống xề. Cứ mỗi lần thấy bông ô môi nở hồng trong gió sớm, mỗi lần nghe tiếng quết bánh phồng vội vã đón xuân sang, cứ mỗi lần có dịp về Vĩnh Long ngang làng Tân Ngải chợ Trường An ... – TUYỆT TÌNH CA-HÀ TRIỀU HOA PHƯƠNG . Ngay lúc đó, mà đâu đó lại bồi thêm mấy câu tân nhạc của Trịnh Lâm Ngân nữa thì thôi khỏi nói. Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương / Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về / Nay én bay đầy trước ngõ / Mà tin con vẫn xa ngàn xa- XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ-TRỊNH LÂM NGÂN
Con mắt đâu ai xát muối mà cứ cay cay, đầu mũi muốn rục rịch mà cứ ráng kềm sợ con nít nó cười. Dẫu vậy, cái đầu lại cứ quay mòng mòng với bao nhiêu hình ảnh cũ dẫu đã xa mút ... mù xa. Cái thuở trời miền Nam nắng vàng như nghệ, đêm châu thổ nồng ẩm như hơ, những cơn mưa mùa vụt chạc, những con kinh dậy phèn, những lạch nước úng bùn, những bến đò thắc thẻo người sang, những chái liếp hở hang, những cội tre xơ xác, những chùm lá me tíu tít, những gốc phượng đỏ hè, những mái trường lợp thiếc, những chiếc áo dài trắng lắt lay, những chợ chiều hiu hắt, những xề bánh khọt lề đường, những xe nước mía ngã tư, những con đường liên tỉnh mấp mô, những con đường mòn lẫn lút ... Và những mặt người. Ờ, những mặt người quen kẻ lạ, những thân thuộc đã sinh ly, những ruột rà đã tử biệt ngay khi vừa mới quay lưng chưa kịp nhìn lại một lần ... ghe đã tách bến ! Sài-gòn, Vĩnh-long, Rạch-giá, Mỹ-tho, Cần-thơ, Cà-mau ... chỉ là những tên gọi hay vốn là thịt da máu huyết chảy luồn tận trong tim, đóng chốt trong nảo từ hồi nào không biết.
Lâu rồi, tưởng đã quên luôn. Vậy mà ... vẫn nhớ !
Y như ông Thế Uyên có lần đã viết, ̣đại khái như là nghe nhạc là sống lại kỷ niệm, rõ ràng, với tôi, lắm khi nghe lại những bản nhạc của một thời muốn-quên mà-cứ-nhớ đó, là sống lại y khuôn một thời quá vãng, thuở còn loi choi giữa tuổi con nít và người lớn, học đòi mơ mộng giữa thực tại và trăng sao, giữa những nề nếp rành rọt như một bài học-thuộc-lòng. Song song với cái tuổi lưng chừng đó là cả một thế giới âm thanh, dù phải chen lấn với tiếng đạn réo mìn gầm, vẫn đủ sức đem lại cả một trời mơ mộng với hoa với bướm. Y như một thứ nhạc đệm cho cảnh cũ tình xưa. Tình nào nhạc nấy. Đến lúc mọi kỷ niệm đã mù mịt, thì những nốt nhạc cũ đó trở thành dấu chỉ cho một bước tìm về. Quê cũ. Nẻo cũ. Nhà cũ. Trường cũ. Tình cũ ... Ôi, biết bao ân tình ân nghĩa đã bị lấp liếm đằng sau bao nhiêu dâu bể ! Bao nhiêu dấu vết đã mờ mà cái trí nhớ còm cõi càng lúc càng lệch lạc ! Còn lại chăng, những dòng nhạc cũ như một nhắc nhở, dẫn đường cho những hồi ức về một cõi đời đã xa ... xa đâu đến tận ngoài tầm nhớ !
Nghĩ coi, một lần nào, một lần nào trong hơn mười bốn ngàn đêm sống lạc trên xứ người, bỗng vọng lại tiếng ai hát, lẫn lẫn trong điệu nhạc rumba ... đường xưa lối cũ, có me tôi tóc rưng rưng trong hôn hoàng .. Rồi đổi sang điệp khúc ... khi tôi về nghẹn ngào trong nắng / tưởng mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về / nào ngờ mẹ tôi ra đi bên kia cuộc đời / không lời từ ly cuối cùng trước khi phân kỳ – ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ-HOÀNG THI THƠ. Ngay lúc đó, nghe mà lòng không nhúc nhích thì chắc nếu không phải là Tây thì cũng là Tàu!
Nhiều, nhiều lắm, làm sao kể ra cho xiết. Thứ ân tình, ân nghĩa đã nuôi dưỡng hồn người bằng âm điệu ngọt ngào, đỡ đần cho những lời lẽ quen thuộc, cùng với tám nốt nhạc nương theo năm dấu giọng đã nằm lòng ngay từ buổi mới bập bẹ mấy tiếng mẹ cha. Tai nghe vậy mà lòng trơ trơ sao nở ?!
Đành quên sao anh, những con đường mùa trăng ấy, thao thức đêm trường nghe từng bước em đi / Đành quên sao anh, đáy mắt hiền trong xóm vắng, nắng thu vàng nhìn ngơ ngẩn bóng người đi -ĐÀNH QUÊN SAO-HOÀNG THI THƠ
Từ khởi thủy, khi còn gọi là âm nhạc cải cách, đến khi bỏ chạy tuốt vô trong Nam sau năm 54, trải suốt mấy chục năm trời nương theo dòng sinh mệnh của dân tộc, thứ âm nhạc đó đã nói giùm cho chúng ta hết mọi nỗi niềm, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ kỷ niệm đến viễn mơ ..., từ một rung động nhẹ như tơ trời đến một xúc cảm mạnh như gió bão, từ một vọng tưởng đến một hoài niệm v.v ... và v. v... chuyện tình riêng, chuyện nước non ... nhất là từ khi cả một dân tộc vô tội bị lùa vào làm mồi cho lửa đạn vì tham vọng của một số người cuồng tín. Chính từ đó phát sinh thêm một loại nhạc mà người ta gọi là Nhạc Lính. Ở một xứ sở mà lính tráng chiếm gần 1/20 dân số, chuyện đó cũng chẳng có gì khó hiểu. Có điều qua cái kho nhạc lính đó, người ta khám phá ra một sự thật. Trong khi những cán binh ngoài Bắc được nhồi sọ sùng sục một mối căm thù đồng chủng ngay từ lúc mới biết đọc biết viết, người lính miền Nam, dù vẫn phải gánh trên vai cả một núi nợ nước non vẫn là những con người bình thường, rất đỗi bình thường với hết mọi thứ yêu thương hờn giận ... Dù cho đó có thể là một phần nguyên nhân của cuộc bại trận tức tưởi. Nhưng biết sao hơn, làm người với đủ đầy nhân tính ! Thử nghe lại vài câu hát của Trần Thiện Thanh.
Từ khi anh thôi học, từ khi anh khoác áo treilli / Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây / Ngại chăng dêm di hành và thường khi dừng bước giữa hoang vu / Một thằng ước ao để một thằng khát khao, còn mình thì nằm đếm sao
... Đồn anh bên sông cạn / Và hoàng hôn ướt đẫm đáy sông thưa / Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ- THƯ TÌNH CỦA LÍNH.
Còn gì dễ thương mà xác thực hơn nữa. Những người trẻ tuổi, mười tám đôi mươi từ giữa những năm 50 đến giữa những năm 70, ở miền Nam Việt Nam, đã phải dang thân chống giữ xóm làng bằng xương máu của chính mình nhưng chưa bao giờ đánh mất nhân tính. Họ vẫn mơ mộng, vẫn cắn răng chiến đấu và
vẫn giữ trọn lòng nhân ái. Chẳng bù với những người đối đầu với họ !
Xét về phương diện nhạc lý, có thể có người cho là dễ dãi, là nghèo nàn ... tuy nhiên thử sống lại thời buổi chiến tranh đó, khi mà mọi thứ đều gần như bị giới hạn bởi điều kiện ... chiến tranh, ai sẽ làm hơn được nữa. Chúng ta sống thuở đó trong điều kiện sống thu hẹp, bởi mọi thứ lý do. Một bản nhạc được trình diễn nhiều lắm với một ban nhạc năm bảy người với dàn trống, một hai tay kèn, vài tay đàn giây ... đã là lý tưởng. Dương cầm là phải chui tuốt vô trong mấy cái phòng trà tiệm nhảy. Còn ngoài ra, nhiều khi một cây tây-ban-cầm đã quá đủ. Những buổi sinh hoạt ngoài trời, trong một lớp học, giữa một giảng đường, trên một bãi cỏ cạnh cổng một quân trường ... âm nhạc thời chiến không thể đòi hỏi hơn nữa. Vậy mà, dường như cái loại nhạc ... sến đó đã làm đủ phận mình, xoa dịu được những nỗi lòng sầu muộn vì ngăn cách hay hớn hở khi sum vầy. Loại nhạc ... sến đó đã thay người ta cười, khóc ... theo vận nước, thay người ta buồn bã lúc tình xa, rộn rã khi đón người về, khóc giùm ta cho một người nằm xuống, mơ giùm ta một ngày trả súng về xây lại quê hương ... Nói sao cho hết những diệu kỳ của sự phối hợp giữa những nốt nhạc với chữ nghĩa của một thời. Thử một thí dụ vài ba chữ với vài ba nốt nhạc của người mà thiên hạ phong là Ông Vua Boléro, nhạc sĩ Trúc Phương. Trong một bài hát rất được ưa thích thời đó, thời của những trại lính, những quân trường, những trận mạc ... Bài 24 giờ phép.
Từ xa tôi về phép hai mươi bốn giờ / Tìm người thương trong người thương / Chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà / Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ / Và người yêu đứng chờ ngoài đầu ngỏ bao giờ
Cửa tâm tư là mắt nên khi đối mặt / Chuyện buồn dương gian lẩn mất / Ðưa ta đi về nguyên thủy loài người / Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay.
Phải công nhận người ta phong vương cho ông cũng là phải. Ông đặt nhạc đã êm tai dù lắm khi lắt léo âm điệu, đảo nghịch cung bậc đến não nùng. Ông xài chữ còn thuộc loại bậc thầy. Người con trai đi lính chỉ có được 24 giờ phép về thăm vợ trẻ, (hay người tình) mà đã mất hết 8 tiếng đồng hồ đi lại. Thời gian không ai thúc mà cũng tự nhiên thành gấp rút. Gặp nhau rồi vội vội vàng vàng. Khổ nỗi, bao nhiêu thương nhớ, bao nhiêu thiết tha, bao nhiêu tức tưởi ... nói sao cho kịp, nói làm sao cho hết. Trong điều kiện không gian chật chội thời gian hấp tấp đó, ông giải quyết cái một. Lời yêu khi muốn ngỏ vụng về / Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay. Nói năng lắp ba lắp bắp, mà càng gấp gáp người ta càng lập bập ... Hay nhất là để cho hai bàn tay mười ngón nói thay giùm ! Ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay. Nhất ông, ông nhạc sĩ Trúc Phương ! Vừa gọn gàng mà sát nghĩa mà tượng hình mà ...
Những dẫn dụ như vậy nhiều lắm, những người nhạc sĩ tài ba một thời ở đất nước tôi. Kể ra làm sao cho hết ! Chỉ tiếc là ông trời ổng tính sao mà làm cho ngược đời ráo trọi.
Nghe lại những bản nhạc thịnh hành thuở đó, và còn thịnh hành gần nửa thế kỷ sau, ở bên ngoài đất nước, hay chính ngay trong lòng đất nước đã mất, mới thắy ảnh hưởng của dòng nhạc nhân ái đó như thế nào. Không hay sao còn làm rung động mãi tới bây giờ ở cả hai phe vốn đã một thời thù địch. Không hay sao cứ như con phượng hoàng sống dậy từ lửa đỏ. Thứ lửa đỏ mà đám người cuồng tín đã đốt phừng lên sau năm 75 cốt để tiêu hủy hết mọi thứ gọi là ... đồi trụy, phản động. Vậy mà không ! Không ! Hơn bốn mươi năm sau, cái mớ phản động đó vẫn còn ... động đậy. Mà động mạnh nữa chớ. Hồi trước chỉ hát trong nhà, trong phòng, trong rạp ... bây giờ thì hát cả ngoài đường, trên hè phố, giữa chợ cá đồng cá biển ... Hổng tin lên You tube mà coi, ở cái xứ gọi là CHXHCN Việt Nam bây giờ, người ta đẩy cả thùng loa ra phố xá mà ca hát những bản nhạc bị cấm đoán một thời. Nói vậy cũng không có nghĩa tất cả đều là tuyệt phẩm. Nhưng thử nghĩ coi ngó một bãi cỏ vào xuân thấy xanh mướt, vậy mà vẫn có lẫn lộn những cọng cỏ dại đó đây. Ông trời ổng còn không cản nỗi nói chi cái đám nhốn nháo nơi cõi hồng trần. Vã lại có xấu mới thấu cái đẹp. Đó cũng là cái thói trớ trêu của tạo hóa. Sao đem gom-đủa-cả-nắm cho đành !!!
Lại nữa, còn nghe kể lại chuyện xưa, có một lúc nào đó, ở ngoài Bắc, ngay cái ổ của chế độ tồi tệ nhất lịch sử, vào những năm 50-60 có người còn bị nhốt lên nhốt xuống chỉ vì cái tội mê nhạc, loại nhạc mà những kể cầm quyền gọi là Nhạc Vàng (*). Dụng ý chắc là để phân biệt với loại nhạc đỏ ... viết bằng máu ! Nhưng
kể ra gọi là vàng thì cũng đúng. Đó là thứ vàng thiệt vàng ròng. Nhắc lại vậy không có ý lẫn lộn giữa dòng nhạc gọi là tiền chiến với nhạc ở miền Nam sau năm 1954, nhưng ít hay nhiều cả hai đều có chung một nguồn cảm hứng, xuất phát từ những rung động chân thành của tình người, tình nước vốn được nuôi dưỡng trong lòng một nền văn hóa đã ngàn năm nhân bản. Trái hẵn với lối sắt máu của một thứ chủ nghĩa ngoại lai, được nhập cảng bằng máu, nước mắt, xiềng xích với tù đày. Và đẻ ra thứ âm nhạc quái thai kiểu Cô gái vót chông, Cô gái SG đi tải đạn, Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân ... mà đâu đó ít lâu sau bỗng tắt tiếng im hơi vì ... chẳng còn ai muốn nghe.
Kể lể lăng nhăng cho vui rồi lại thấy buồn buồn. Thiệt y như chuyện ... hồng nhan bạc mệnh. Hết bị đày ải ... rồi phỉ nhổ, đủ thứ trò phụ rẫy mà sao vẫn một dạ thủy chung hết lòng mua vui cho thiên hạ. Hổng tin, cỡ này, thời buổi đại dịch, nếu có dịp chui xuống mấy cái hầm nhà của đám người Việt bỏ nước lưu vong, ở mọi nơi trên mặt đất mênh mông này, sẽ thấy không ít nhà nào nhà nấy đều có “sân khấu” dựng quanh một giàn máy gọi là ca-ra-ô-kê, mà vốn liếng trình diễn chính là mớ nhạc Việt xưa ... được (bị) gọi là ... nhạc sến đó. Kể ra cũng đỡ buồn cho cái đám lỡ làng ngay thời buổi cấm cung, có chút phương tiện để thả hồn thoát ra khỏi bốn vách nhà mà không sợ bị “lây nhiễm” !
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, tròm trèm hai phần ba đời người, những người chết đã chết, những người còn sống lưu lạc xứ người hay vật vờ nơi đất mẹ, mọi thứ giá trị ít hay nhiều đã được sàn lọc. Cái mất đi có lý do của sự tiêu hủy. Cái còn lại cũng có lý do của sự tồn tại.
Ai gọi nhạc-sến thì cứ gọi. Còn tôi, tôi nghe nhạc với tâm tình của tôi. Âm nhạc không chỉ tính bằng nốt thăng nốt giáng. Âm nhạc còn tính bằng sự rung động của những tấm lòng mộ điệu.
CaoVị Khanh
(*) TRÍCH RFA-ĐÀI Á CHÂU TỰ DO
Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, bạn bè gọi tôi là Lộc Vàng vì ngày xưa tôi mê nhạc vàng, tôi hay hát nhạc vàng.
Nhạc vàng là dòng nhạc từ trước 1954, khi đất nước Việt Nam là một nước, thì những nhạc sĩ sáng tác những nốt nhạc những lời văn quí như vàng cho nên người ta gọi đó là nhạc vàng . Đấy là dòng nhạc trữ tình của Việt Nam, thí dụ như những tác phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Văn Tý, Đặng Thế Phong, Châu Kỳ, và cả Phạm Duy nữa... mà người ta gọi là nền tân nhạc cũng là đúng.
Tù tội vì trót yêu nhạc vàng
Năm 1965, ba cậu thanh niên cùng mê nhạc vàng là Thành, Toán Xồm và Lộc Vàng gặp nhau:
Anh Toán nhiều tuổi hơn tôi, sinh năm 1932, còn anh Thành sinh năm 1944, hơn tôi một tuổi. Ba anh em đều thích đàn thích hát, tập trung với nhau thành một tốp 3 người đóng cửa hát ở trong nhà. Toàn hát nhạc tiền chiến ngày xưa thôi, bạn bè ai thích nghe thì đến. Cứ đóng cửa hát với bnhau, hát dấm hát dúi, hát không cho hàng xóm nghe. Bọn tôi thậm chí một bao thuốc lá một ấm trà có thể ngồi hát thâu đêm suốt sáng được.
-Nghệ sĩ Lộc Vàng
Bởi duyên nợ ba sinh với nhạc vàng, ông Lộc Vàng kể tiếp, năm 1968 cả 3 anh em Toán Xồm, Thành, Lộc Vàng bị bắt và bị nhốt tại Hòa Lò. Cho đến năm 1971 mới được mang ra xét xử tại tòa án thành phố Hà Nội:
Họ bảo bọn tôi phản động, tuyên truyền văn hóa trụy lạc của chủ nghĩa đế quốc, chống lại chính sách của nhà nước, phá hoại nền văn hóa của chủ nghĩa xã hội.
Ngưởi ta cũng nghi là bọn tôi ăn lương ở trong miền Nam, tung tiền cho bọn tôi ăn chơi.
Kết quả, ông Toán Xồm bị kêu án 15 năm tù cộng 5 năm mất quyền công dân, ông Lộc Vàng 10 năm tù cộng 4 năm mất quyền công dân, ông Thành 5 năm tù và 3 năm mất quyền công dân.
_____________________________________

Đã có lần viết về nhạc Trầm Tử Thiêng. Lần đó không biết sao mà bị rúng động quá mạng, tôi đã không dìm được những dư ba trong lòng sau khi bất chợt nghe được bài hát Tưởng Niệm nên đã bất chấp sự dốt nát của mình về âm nhạc, đêm về cắm cúi viết về bài nhạc đó, gần tới rựng sáng, sau một ngày vật vã chạy vạy kiếm ăn. Chẳng nhớ đã nốc bao nhiêu ng̣ụm cà-phê đen, đốt cháy bao nhiêu điếu thuốc lá thành khói ... độc. Đại khái như vầy...
“ ... Tôi nghe bài hát Tường Niệm của Trầm Tử Thiêng lần đầu tiên khi đang lái xe một mình trên xa lộ ở phía tây thành phố. Con đường len qua một khoảng rừng thưa, chùi xuống một thung lũng xanh mù rồi chồ̀m lên một dốc cao đúng lúc mặt trời đang lặn xuống ngay trước mặt, rải xuống trần thứ nắng quái làm hực lên giữa lòng ta cái lộng lẫy của sự thế tàn phai. Đường vắng, ngấm men rượu bạn bè, hứng chí phóng gần trăm hai trăm ba cây số một giờ. Xe hạ kiếng, gió thổi ngược thốc tháo vô mặt mũi, thổi bay tóc tai hối hả, thổi luồn vô áo thả nút ngực bung căng buồng phổi. Mắt chú mục con đường thẳng băng trước mặt, tay lái run run dù đã ghìm chặt, tim đập giựt ngược, hơi rượu bốc lên, chân ga trì xuống, trăm ba ... trăm tư ... sàn xe run run ... tay lái run run ... chiếc xe như ngựa sút chuồng ... một-xe-trong-cõi-hồng-trần-như-bay...
... thoáng chốc tôi như bay...
... thoáng chốc, miệng hư vô hả toác hoác...
đầu óc thả lỏng như ngựa sút cương. Và một thoáng nghĩ như tia chớp, giả sử bây giờ buông tay... cái miệng hư vô táp táp... rồi phụp một cái. Hết. Ngon ơ !
... ngay lúc đó, tôi nghe từ cái máy CD mở lớn hết cở vọng ra tiếng hát ... ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới .. giọng nam đục, khàn ... ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi ... Bài hát đến với tôi đúng nơi, đúng lúc khi chiều vừa chạng vạng, cái thời khắc đặc biệt nhùn nhằng giữa sống và chết, giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối, mặt trời với thứ ánh nắng huyển hoặc, không vàng không cam không đỏ không tím mà lại có vàng có cam có đỏ có tím, ở phía chân trời ... y như thứ màu vàng cam nóng hổi mà làm lạnh ngắt lòng người trong tranh của Van Gogh ”
Bài hát có cả thảy 12 câu, kể cả điệp khúc, được viết đâu từ năm 1972, theo điệu Boston, nhịp ¾, “ ton” thứ, đã được hát đi hát lại không biết bao nhiêu lần, từ sân khấu đến ngoài đường phố, từ những mấp máy môi miệng cho vui - dù đúng ra bài hát không vui chút nào - cho đến những ca sĩ chuyên nghiệp mà thật ra không chuyên nghiệp chút nào khi vô tình hay cố ý đổi một chữ tuyệt vời của tác giả, trờ tới thành chợt tới trong câu thứ nhất ! Ô hô ! Ai tai ! (*)
Bài viết đã trên dưới mười mười lăm năm. Từ đó tôi đã nghe đi nghe lại Tưởng Niệm không biết bao nhiêu lần. Có khi ngay sau hớp cà-phê và ngụm khói đầu ngày. Có khi giữa đêm khuya lơ khuya lắc khi phố người đã ngủ yên. Có khi sau một bữa tiệc cưới. Có khi sau một đám tang ma ... Gì thì gì, cứ sau mỗi bận nghe Tưởng Niệm là tôi lại thấy xốn xang. Y như có điều gì vừa vuột khỏi hồn tôi. Y như tôi vừa mất thêm lần nữa một phần đời tôi đã mất. Quê hương. Gia đình. Tuổi trẻ. Tình yêu. Hạnh phúc. Đau khổ ... Mọi thứ mọi điều, dù đã xa biền biệt lại lộn ngược về, trong tôi, để lại mất thêm lần nữa. Từ đó, nỗi buồn -không tên- không tăng thêm cấp số cộng, mà tăng thêm cấp số nhân. Từ đó ... mà lại cứ nghe hoài Tưởng Niệm của Trầm Tử Thiêng. Nghe có lạ không. Cũng là lạ. Nhưng mà ... ta-cũng-nòi-tình-thương-người-đồng-điệu !
Tôi không là nhạc sĩ, càng không phải là người phê bình âm nhạc, nhưng có cần không để nghe và nói về -nói thêm nữa- một bài hát ... mà thiên hạ cũng đã nhắc nhở nhiều hơn một lần.
Đã có ai trong khi lặn lội suốt dọc đời mình, một lần nào đó nghiêng tai nghe lại cuộc đời, ẩn dụ quá sức là độc đáo. Đời người nói chung hay đời ta nói riêng có phải là một bản trường ca hay một đoản khúc, có khi nhịp sống hối hả có khi lặng lờ, có khi dồn dập như điệu nhảy samba hay lướt thướt như bước slow dịu hoặc ... gì thì gì, đã có ai, một lần nào đó, buổi sáng buổi trưa buổi chiều buổi tối, chịu ngồi lại, nơi một góc khuất, để hồi tưởng lại chuyện mới hôm qua hay hôm kìa, chuyện tháng trước hay năm ngoái ... để suy ngẫm, để tiếc nuối hay để vui để buồn ... hay... chẳng để làm gì hết ! Cuộc sống, dòng đời, kiếp người ... đi, trôi, chảy, tuột ... dù nhanh dù chậm ... vẫn chỉ có một chiều như một con nước đổ dốc. Chỉ có xuôi theo mà chẳng quày ngược lại bao giờ. Người ta bị cuốn theo như chiếc lá bị cuốn theo chiều gió, một buổi cuối thu. Vậy rồi, đến lúc giựt mình, ngoảnh lại ...
Ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới
Ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi
Ông Trầm Tử Thiêng có lúc đã làm chuyện đó. Ông nghiêng tai nghe lại cuộc đời. Giả sử nếu mượn được hình ảnh một bầy đàn đang đun đẩy nhau một cách vô thức để lũ lượt kéo đi theo một sức hút vô hình nào đó, bỗng có lúc bất chợt khựng lại – cũng vô thức như khi lũ lượt đùn đẩy nhau đi – khựng lại để vểnh tai nghe ngóng mà chẳng biết nghe ngóng cái gì !... Hình ảnh đó có bi thiết quá không khi đem so sánh với dòng nhạc mở đầu của bài Tưởng Niệm. Thiệt ra là không. Không, nên nghe lời mở đầu mà giựt mình như khải ngộ ! Nhất là khi tiếng hát dứt, tiếng nhạc ngưng, tiếng vọng âm trầm trầm quấn quíu nhau như sợi khói tàn hương khi nhang đèn chợt tắt, bỏ lại cõi trống mù mù càng làm lộ ra cái vẻ tàn tạ của sự thế oái ăm mỗi khi đời trở chứng. - Sol sol sol sol rề sol rề rê mi rề rề la sol sí - ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời thì hãi hùng hoàng hôn trờ tới. Đô đô đô đô sì đô si si lá rề rê si la la - ta nghiêng vai soi lại tình người thì bóng chiều chìm xuống đôi môi -
Một cách nói khác, người nhạc sĩ ở độ tuổi mới vừa chín tới, trên dưới 30, dẫu đang đi xuôi theo dòng đời một cách thuận thảo,-hay hục hặc !?- có một lúc nào đó, chợt nhiên khựng lại, quày ngó lại ngày tháng mình đã sống, đã vui, đã buồn, đã cười, đã khóc, đã yêu thương, đã hờn giận, đã ... và đã ... Và ông thấy gì, ông thấy hình ảnh một bóng hoàng hôn đang trờ .. tới. Rồi lại một bóng chiều đang chìm xuống. Hoàng hôn, bóng chiều là những ẩn dụ mà trong thơ văn người ta vẫn thường dùng để biểu hiện cho đoạn cuối của một sự thế đang tới hồi kết cuộc. Kiểu như cho bóng chiều rụng xuống tàng cây hay rơi trên mái nhà tranh có hiu hiu vài sợi khói. Cũng chẳng có gì là lạ. Lắm khi lại tạo cảm gíác êm đềm nữa là khác. Đằng này, ở đây, lại gây ấn tượng mạnh vì bởi hai chữ “hãi hùng”, như thứ phản ứng hốt hoảng trước một phát giác đột ngột, cực tả tâm trạng rối loạn của người trong cuộc. Hoàng hôn ở đây không còn biểu thị cho khoảng thời gian vật lý mà là biểu hiện cho cảnh tàn tạ của đời người do sự tự hủy của chính mình. Từ đó làm liên tưởng đến bức tranh Le Cri của Edvard Munch vẽ mặt người bịt tai, hai con mắt mở trao tráo như hai lỗ hủng không đáy và miệng thì há hốc mà tiếng thét vô thanh, đằng sau lưng đỏ hực lên một mặt trời chiều sắp tắt. Bức tranh được coi là biểu tượng cho cơn khủng hoảng ý thức về cuộc hiện sinh vô nghĩa của con người, những năm đầu thế kỷ 20. Sự liên tưởng làm tiếng nhạc lời ca không còn trừu tượng nữa. Bỗng dưng, mọi chuyện như có thật !
Rồi chắc để cho hồn người dịu xuống, bớt bi kịch mà thêm đôi phần lãng mạn, tác giả lại xếp cho cái đoạn cuối ngày đó, lần này, chìm-xuống trên một đôi môi vốn dĩ là cửa ngỏ của mọi sự giao tiếp. Vui buồn giận hờn yêu ghét ... gì cũng thoát ra từ hai vành môi đó. Chính trên đôi môi nào đó đã một lần thì thầm hai tiếng yêu đương. Chính trên đôi môi nào đó đã có lần làm môi giới cho sự phối hợp âm dương. Phải không ? Vậy mà lần này cũng chính từ đôi môi đó, người ta đón nhận sự tan vở. Thử tưởng đến một nụ cười nở gượng khi mọi sự đang tới hồi kết thúc. Sự tương phản của hai biểu tượng làm câu hát nghe ra như một lời thú nhận đau đớn về sự buông xuôi tức tưởi của người trong cuộc trước sự thế chẳng đặng đừng. Câu nhạc cao thấp chỉ quá một bát độ chút xíu mà vặn vẹo hồn người, ép người nghe tới chỗ đối diện với chính phận mình -nghe và nhận cho ra sự thật lấp liếm đằng sau những ma mị của tuồng ảo hóa. Để ... thấy mình quả tình bèo bọt. Nhạc và lời như ngón tay ngắt véo mấy tầng ý thức, gọi dậy hồn mê muội. Hai mươi tám nốt nhạc cộng với hai mươi tám chữ tròng tréo nhau để lại âm vang rền rĩ suốt cả hiện thân.
Thói thường, người ta sống như một cái gì tự nhiên nhất. Như hạt giống gieo xuống đất thì nẩy mầm, như hoa búp rồi thì hoa nở. Dẫu người ta vẫn biết hoa nở rồi hoa sẽ tàn. Nhưng có mấy ai ngay khi hoa mãn khai lại đem lòng nghĩ đến lúc hoa tàn phai. Người ta còn mãi bận bịu với thứ hạnh phúc chụp bắt được. Người ta còn bận sống, thở, ăn, ngủ, làm tình ... như là sẽ thở, ăn, ngủ, làm tình ... mãi mãi. Điều ông phát giác ở đây không có gì tầm thường hơn nhưng chính cái tầm thường đó là một khải ngộ cực kỳ hiếm hoi. Hiếm hoi và nghịch thường với phát giác của nhà sư Mãn Giác đời Lý – mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai – là một phác giác của hy vọng, của niềm tin, của hạnh phúc ... Còn phát gíác, mà thật sự có phải là một phát giác, của người nhạc sĩ ở đây chính thị chỉ là sự xác nhận một sự thật nhãn tiền mà ai cũng cố tình quên lãng, cái kết cuộc y khuôn mà con người ai cũng sẽ gánh chịu như nhau kể từ khi mang-tiếng-khóc-bưng-đầu-mà-ra.
Mấy nốt nhạc chuyển âm lắt léo dù không cách nhau quá nhiều âm vực, nghe như tiếng thở đứt hơi của một kỳ trăn trối, nếu không là vọng âm từ một cõi đời đã quá hạn. Những chữ những lời rồi ra chỉ là sự thú nhận bất lực của phần số con người trước cơn bạo hành của số phận. Mỗi câu là sự kết hợp của những nghịch đảo, khéo tới độ làm đau đớn người nghe.
Đang mân mê cho đời nở hoa /chợt bàng hoàng đến kỳ trăn trối
Đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy / bỗng ngỡ ngàng hụt mất trên tay
Đang-Thì-Chợt-Bỗng ! Cả bốn chữ đều biểu hiện cho thời-điểm-hiện-tại ( temps présent ) để ám chỉ sự trùng hợp của hai sự việc đối nghịch xảy ra cùng một lúc. Đúng lúc. Ngay bon. Cùng thời. Hình dung cuộc đời như một cái cân, bên tám lượng thì bên kia phải nửa cân. Cho bằng. Cho đều. Vui một, buồn một. Vui hai, buồn hai. Làm như cuộc đời lúc nào cũng rình rập, so đo ... để bù đắp hay trả đủa cho xứng với những vọng động của con người. Buồn. Vui. Khổ đau. Hạnh phúc. Rồi có phải chỉ là hai mặt phải-trái thiệt-giả của cùng một thực thể. Hay chỉ là những giả tưởng mà thế nhân đã quay theo mòng mòng suốt một đời, phù thế.
Cái lắt léo của những phận người ... thấu thị là ở chỗ biết vậy mà không tránh khỏi, biết vậy mà cứ vướng mắc như bầy dơi mù lòa. Rồi người ta buồn m&