top of page
hmpg.jpg
TL_blinkingsquareblock.gif
Titlej (1).jpg

BIÊN KHẢO - THƠ - VĂN

Phan Thượng Hải

California_________________________

BBT: BS Phan Thượng Hải (CHS PTG 61-64) cùng với người em là LS Winston Phan Đào Nguyên là con của 1 công chức cao cấp của tòa án Cần Thơ, cũng là nhà thơ nổi tiếng của đất Cần Thơ thập niên 40, 50: Thi Sĩ LÃNG BA Phan Văn Bộ

_____________________________________________________________________________

BÀI THƠ "THIẾT THIỆT" TRONG VIỆT SỬ

Bs Phan Thượng Hải biên soạn

Trước 1975 bài thơ này được dạy là của ông Trần Văn Kỷ, quan Trung Thơ lệnh của Bắc bình Vương Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) can việc xích mích giữa 2 anh em ông Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.  Sau 1975, thì sách mới lại viết của Nguyễn Hàm Ninh trong chuyện vua Tự Đức và anh là Hồng Bảo với bài thơ có đổi khác một chút.  Theo tác giả bài nầy được viết để nói lên những điều mà sử gia ngày nay không nói và nhớ đến Thầy Phạm Minh Đức của trường Phan Thanh Giản, một giáo sư Sử Địa đáng kính mến. (LTS)

 

Trong Việt sử có một bài thơ lịch sử được ít người biết và để ý đến. Không những là một bài thơ ứng khẩu với nội dung sâu sắc trong hình thức đơn giản mà bài thơ nầy còn làm nên lịch sử. Đó là bài thơ "Thiết Thiệt" (Cắn Lưỡi). Theo thiển ý, bài thơ nầy cũng đặc sắc như bài thơ "bảy bước" của Tào Thực và bài thơ tả Dương Quí Phi của Lý Bạch.

 

Bài thơ "Thiết Thiệt" (Cắn Lưỡi)

 

*

Theo Chính sử của nhà Nguyễn, một hôm vua Tự Đức kể với quần thần tại điện Văn Minh là đêm qua ông nằm mơ thấy “răng mình cắn lưỡi của mình”. Quan Hàn Lâm viện Trước Tác là Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) liền dâng bài thơ:

 

THIẾT THIỆT

Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh

Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh

Bất tư cộng hưởng trân cam vị

Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình

(Nguyễn Hàm Ninh)

CẮN LƯỠI

Lúc ta sinh ra ngươi chưa sinh

Ngươi sinh ra sau ta làm anh

Không biết cùng hưởng trân cam vị

Sao nỡ tương vong cốt nhục tình

(Phỏng dịch)

 

Biết ý ông nầy muốn can mình đã ngược đãi anh mình là Hồng Bảo, vua Tự Đức cho người phạt đánh roi ông Nguyễn Hàm Ninh, mỗi chữ đánh một roi! Dù có bài thơ can gián nầy, Hoàng tử Hồng Bảo vẫn bị giam và chết trong ngục vào năm sau (1854).

 

*

Ngoại sử của nhà Tây Sơn lại kể một câu chuyện khác xảy ra trước đó:

    Có một lúc (năm 1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ bất bình đem quân từ Phú Xuân (Huế) về đánh anh mình là Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc và vây ông nầy ở thành Qui Nhơn. Ông Nguyễn Nhạc phải đứng trên thành mà khóc rằng “nỡ nào nồi da nấu thịt” (Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn) làm ông Nguyễn Huệ cảm động và rút quân.      Tuy nhiên sự thật là không phải vậy. Trong khi vây thành Qui Nhơn, ông Nguyễn Huệ đang ăn trong doanh trại thì “răng mình cắn lưỡi mình”. Ông lấy làm lạ, không biết là điềm gì nên hỏi quan Trung Thư Lệnh là Trần Văn Kỷ thì ông Trần Văn Kỷ liền đọc bài thơ:

 

THIẾT THIỆT

Ngã ký sinh tiền nhĩ vị sinh

Nhĩ ưng vi đệ ngã vi huynh

Lý ưng cộng hưởng trân cam vị

Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình

(Trần Văn Kỷ)

CẮN LƯỠI

Ta sinh ra trước ngươi chưa sinh

Ngươi chịu làm em ta làm anh  

Lý ưng cộng hưởng trân cam vị

Sao nỡ tương vong cốt nhục tình.

(Phỏng dịch)

 

Ông Nguyễn Huệ hiểu ý, liền giải vây và rút quân. Ông Nguyễn Nhạc phải nhường đất Quảng Nam cho ông Nguyễn Huệ chỉ còn giữ Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên mà thôi.

Ngày nay nhiều Sử gia cho là ông Nguyễn Hàm Ninh đã mượn một ít từ ông Trần Văn Kỷ?

 

Từ bài thơ "Thiết Thiệt", hậu sinh để ý tới 2 nhân vật trong Việt sử. Đó là Hoàng tử Hồng Bảo (của nhà Nguyễn) và ông Trần Văn Kỷ (của nhà Tây Sơn).

 

Trần Văn Kỷ

Hùng tài của vua Quang Trung Nguyễn Huệ là nhờ một nhân tài luôn luôn bên cạnh làm tham mưu cho nhà Vua. Đó là quan Trung Thư Lệnh tên là Trần Văn Kỷ (?-1801).

 

Ông Trần Văn Kỷ người làng Vân Trình, Phú Xuân (nay thuộc Phong Điền, Thừa Thiên), đậu Giải Nguyên của nhà Hậu Lê vào năm 1777 ở Phú Xuân (Chúa Trịnh chiếm Phú Xuân của chúa Nguyễn năm 1774 và đây là khoa thi Hương của nhà Hậu Lê tổ chức đầu tiên ở Nam Hà). Ông ra Bắc Hà thi Hội nên quen biết nhiều sĩ phu Bắc Hà. Khi ông Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân thì trọng dụng ông Trần Văn Kỷ luôn luôn cho hầu cận bên mình. Ông Trần Văn Kỷ tiến cử ông Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích…kể cả La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cho ông Nguyễn Huệ. Ông còn giảng hòa anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn (bằng bài thơ Thiết Thiệt?).

 

Ông Trần Văn Kỷ và tướng Trần Quang Diệu được vua Quang Trung phong làm Phụ Chính phó thác con mình là Cảnh Thịnh khi vua mất. Nhưng Thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu vua Cảnh Thịnh) chuyên quyền giáng ông Trần Văn Kỷ làm Lính coi trạm ngựa ở Mỹ Xuyên, Thừa Thiên. Ông phò Vũ Văn Dũng đảo chánh Bùi Đắc Tuyên (1795) được phục chức Phụ Chính nhưng quyền lực trong tay Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu.

 

Sau khi Phú Xuân thất thủ (1801) và vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Hà, ông Trần Văn Kỷ giả dạng thường dân ẩn ở quê hương mình là làng Vân Trình. Vua Gia Long bắt ông chết theo cách “tam ban triều điển” tức là uống thuốc độc hay thắt cổ hay dùng gươm tự tử nhưng ông cãi lệnh nhẩy xuống sông (Hương) tự tử. Vua Gia Long tức giận xử “tru di tam tộc” làm 53 người khác (trong gia tộc) phải bị xử tử hay bỏ trốn hoặc cải họ.

 

Hoàng tử Hồng Bảo

 

*

Trước khi mất, vua Thiệu Trị trăn trối với các Đại thần là Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp lập Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm làm vua thay vì là Trưởng Hoàng tử Hồng Bảo.

Đây là di chúc của vua Thiệu Trị (theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên):

       Trong các con ta, Hồng Bảo tuy lớn nhưng vì thứ xuất ngu độn ít học chỉ ham chơi không thể nối nghiệp lớn được. Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm thông mẫn ham học rất giống ta, đáng ngôi vua. Hôm qua ta đã phê vào di chiếu để trong long đồng. Các ngươi phải tôn kính, đừng trái mạng ta.

 

Sau đó Hoàng tử Hồng Bảo (1825-1854) mưu tranh ngôi:

      Năm 1848, Ông dụ các người theo đạo Gia tô (Công Giáo) nhưng không được các giáo sĩ người ngoại quốc ủng hộ.

      Năm 1851, Ông tính trốn sang Tân Gia Ba để xin cầu viện nhưng bị bắt lại, rồi cũng được vua Tự Đức tha.

      Năm 1853, Ông lại lập đảng cho sang Xiêm la xin giúp. Khi những người nầy trở về có tuyển mộ và đem theo một nhà sư. Vì không được đối đãi chu đáo trong khi đi đường, nhà sư nầy tố cáo với quan. Hồng Bảo bị bắt tù ở Huế, bị kết án xử lăng trì (bị giết bằng cách cắt chân tay và thẻo từng miếng thịt cho đến chết). Nhưng vua Tự Đức ân xá, đổi thành tù chung thân và giam trong một nhà ngục riêng.

 

Hoàng tử Hồng Bảo chết vì treo cổ một thời gian sau ở trong ngục (1854). Chính sử viết là tự tử. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chỉ ghi: Hồng Bảo bị bắt, ban cho tam ban triều điển thì ông chọn uống thuốc độc mà chết. Tam Ban Triều Điển là tội nhân được chọn 3 cách chết: gươm, dây thắt cổ hay thuốc độc.

 

*

Câu chuyện Trưởng Hoàng tử Hồng Bảo và vua Tự Đức có liên quan tới ông Trương Đăng Quế, đại thần thân tín nhất của vua Thiệu Trị: ông Trương Đăng Quế âm mưu lập vua Tự Đức và giết Hoàng tử Hồng Bảo.

Đây là những giả thuyết:

     Vợ của ông Trương Đăng Quế và Hoàng hậu Từ Dũ của vua Thiệu Trị sanh con trai cùng ngày. Ông Trương Đăng Quế mới đem con vào cung tráo với con thật sự của vua Thiệu Trị. Đứa trẻ nầy là Hoàng tử Hồng Nhậm (vua Tự Đức trong tương lai). Do đó Trương Đăng Quế âm mưu giả chiếu lập Hoàng tử Hồng Nhậm.

     Và như vậy có thể ông Trương Đăng Quế cho người thắt cổ Hồng Bảo trong ngục. Tất cả đều là những giả thuyết hoang đường khó tin được. Có thuyết lại còn cho rằng Hoàng hậu Từ Dũ tư thông với ông Trương Đăng Quế mà sinh ra Hoàng tử Hồng Nhậm!

 

*

Con của Hồng Bảo không được giữ họ Ưng như Đế Hệ Thi mà phải đổi thành họ Đinh (họ mẹ). Năm 1866, Đoàn (Hữu) Trưng, rể của Tùng Thiện Vương (em vua Thiệu Trị) phò con trưởng của Hồng Bảo là Đinh Đạo đánh vào Tử Cấm Thành ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Sử gia Phạm Văn Sơn gọi là "Giặc Chày Vôi". Cả gia đình Hồng Bảo gồm 3 người con trai, người vợ (mẹ của Đinh Đạo) và 2 đứa con của Đinh Đạo (1 trai và 1 gái) bị tội xử giảo (treo cổ). Sử chép: "Đứa con trai của Đinh Đạo mới 3 tuổi bị thắt cổ đến 2 lần vẫn chưa chết, khi bỏ vào quan tài đóng lại mà còn khóc oe oe".

 

*

Theo vua cha Thiệu Trị thì Hoàng tử Hồng Bảo là người "ngu độn ít học" nên không truyền ngôi. Tuy nhiên một sự kiện đã chứng minh ngược lại.

Sách "Thi ca trào phúng đất Thần Kinh" có ghi lại câu chuyện giữa vua Tự Đức (Hồng Nhậm) và An Phong Công (Hồng Bảo).

Vua Tự Đức có ra đề thi là "Vô Đề" với những sự bắt buộc như sau:

      Tám chữ đầu của tám câu phải là: "Phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, họa".

      Trong mỗi câu thơ lại phải có một chữ số theo thứ tự: "Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát".

Với sự hạn chế nầy, triều thần thần và hoàng gia đều không ai làm được bài thơ chỉ trừ có Hồng Bảo.

 

VÔ ĐỀ

Phong đạm vân khinh nhất diệp châu

Hoa cù ẩn ước nhị tầng lâu

Tuyết ngưng địa thượng tam đông lãnh

Nguyệt đáo thiên trung tứ bích sầu

Cầm vận ngũ huyền ca nhã hứng

Kỳ vi lục cuộc thức doanh thâu

Thi thành thất bộ chung hoài cổ (*)

Họa nhập Tiêu Tương bát cảnh đồ. (*)

(An Phong Công Hồng Bảo)

 

Người dịch bài thơ cũng đặc sắc:

 

VÔ ĐỀ

Gió nhẹ mây êm một lá thuyền

Lầu hai lấp ló khóm hoa hiên

Ba đông tuyết phủ dồn hơi lạnh

Bốn vách trăng soi gợi nỗi phiền

Đàn gảy năm dây ca hát thú

Cờ vây sáu cuộc đổi thay phiên

Thơ xong bảy bước xui hoài cổ (*)

Bút họa Tiêu Tương tám cảnh tiên. (*)

(Quỳ Ưu Nguyễn Đôn Dư dịch)

 

(*) Chú thích

      Câu 7 nhắc lại Tào Thực 7 bước thành bài thơ.

      Câu 8 nói tới 8 bức họa tuyệt đẹp của Tống Địch.

 

Tám bức họa của Tống Địch vẽ là:

      1. Bình sa lạc nhạn (bãi cát nhạn sa)

      2. Viễn phố phàm quy (bến xa buồn về)

      3. Sơn thị tình lam (trời quang mây tạnh nơi núi và chợ)

      4. Giang thiên mộ vân (trời mước mây chiều)

      5. Động Đình thu nguyệt (trăng thu ở hồ Động Đình)

      6. Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm ở sông Tiêu Tương)

      7. Yên tự vãn chung (khói chùa và tiếng chuông chiều)

      8. Ngư thôn tịch chiếu (xóm chày bóng ngã)

 

Vua Tự Đức ra đề tài nhưng chính nhà vua cũng không làm được, cũng như các thi sĩ trong Bạch Vân thi xã và thi hào Cao Bá Quát! Người làm bài thơ nầy chứng tỏ chữ nghĩa và kiến thức sâu rộng.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Thơ Văn phần Đọc Thơ (Lịch Sử).

 

Tài Liệu Tham Khảo:

       Thơ và Sử Việt - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

      Văn Đàn Bảo Giám (Trần Trung Viên)

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

MẸ GIÀ

Tự cường đến tuổi chín mươi ba

Tội nghiệp mẹ tôi mắc bệnh già 

Thân thể yếu đau thôi tập võ

Tâm thần quên lẫn khó kêu ca

Tròn tình mẫu tử dày công khó

Trọn đạo nhân duyên ẩn chốn xa

Sinh ký tử quy hồi tổ quốc

Con già hồi tưởng nhớ thương bà.

(Phan Thượng Hải)

5/9/21 

Mother's Day

_____________________________

KHÁM PHÁ MỚI VỀ CHINH PHỤ NGÂM

 

                                  Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Hậu thế ngày nay có những khám phá mới về thi phẩm Chinh Phụ Ngâm liên quan đến dịch giả cũng như ảnh hưởng của Đường thi trên tác giả. 


 

A. Dịch giả của Chinh Phụ Ngâm

 

Chinh Phụ Ngâm từ xưa đến giờ luôn được biết có tác giả bản Hán ngữ là ông Đặng Trần Côn và dịch giả chuyển sang Việt ngữ (diễn Nôm) là bà Đoàn Thị Điểm. 

 

Vào đầu thế kỷ 20, đã có một bài thơ của ông Phan Huy Ích chứng minh là ông có dịch Chinh Phụ Ngâm.

 

TÂN DIỄN "CHINH PHỤ NGÂM KHÚC" THÀNH NGẪU THUẬT

 

Nhân Mục tiên sinh “Chinh phụ ngâm”
Cao tình dật điệu bá từ lâm                    (Từ điệu cao kỳ đã truyền bá ở chốn từ lâm)
Cận lai khoái trá tương truyền tụng       (Ai cũng truyền tụng lấy làm khoái trá lắm)
Đa hữu thôi xao vi diễn âm                    (Đã có nhiều người đã diễn Nôm)
Vận luật hạt cùng văn mạch tuý             (Theo luật vận thì không được tinh túy trong mạch văn)
Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm (Phải theo thiên chương hiệp với nhạc thanh)
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc    (Nay nhân buổi nhàn đã dịch ra thành khúc mới)
Tự tín suy minh tác giả tâm.                    (Tự tin là suy minh được tâm tư của tác giả).

(Phan Huy Ích)

 

(*) Chú thích: Nhân Mục tiên sinh lả Đặng Trần Côn, người làng Nhân Mục.


 

Theo ông Đông Châu, trên Nam Phong tạp chí số 106, một con cháu họ Phan là ông Phan Huy Chiêm dựa theo ghi chép trong gia phả họ Phan gửi thư cho ông rằng bài thơ này được Phan Huy Ích làm khi hoàn thành diễn Nôm tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.
Bài này được một số học giả dùng làm căn cứ chứng minh bản dịch vốn được cho là của Đoàn Thị Điểm là do Phan Huy Ích diễn Nôm. 

 

Tuy nhiên, thực tế bài này chỉ thể hiện Phan Huy Ích có diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc, nhưng chưa chứng minh được bản dịch đó là bản được lưu truyền rộng rãi, nhất là có câu:

 

Đa hữu thôi xao vi diễn âm

 

Do đó các học giả vẫn giữ ý kiến cho rằng bà Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản dịch phổ thông được dùng từ trước tới nay trong giáo dục văn chương. 

 

Hiện nay theo Wikipedia, 

Chinh Phụ Ngâm có tất cả 7 bản dịch và phỏng dịch bằng các thể thơ Lục bát (3 bản) hoặc Song thất Lục bát (4 bản) và có tất cả 6 dịch giả: Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Nguyễn Khản, Bạch Liên am Nguyễn (?) và 2 tác giả khuyết danh.

Bản dịch thành công nhất và phổ thông từ xưa đến giờ theo thể Song thất Lục Bát.  Dịch giả của bản này được các học giả cho là bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748) ngay từ đầu nhưng gần đây có xu hướng nghiêng về ông Phan Huy Ích (1751-1822).


 

B. Ảnh hưởng từ Đường thi của bản Hán ngữ

 

Ông Đặng Trần Côn chịu ảnh hưởng rất nặng từ Đường thi.  Bản Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng Hán ngữ của ông có nhiều Đoạn rất giống như nhiều bài Đường thi của thi nhân Trung Quốc nhất là Lý Bạch tuy rằng trong thời của ông Đặng Trần Côn thì có thể coi đó là một vinh dự (honor) hay là một phong trào "ước lệ" (conventional) của thi nhân.  Thi nhân cổ điển đều dùng điển cố hay mượn 1, 2 câu thơ của tiền nhân nhưng không có quá đáng như ông Đặng Trần Côn viết Chinh Phụ Ngâm.  

Đây là một số Đoạn như vậy được tìm thấy.  

Với xu hướng như trên, có thể có nhiều Đoạn khác cũng có cùng đặc tính như vậy nhưng những bài Đường thi tương quan chưa được tìm ra. 


 

1) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Tái Hạ Khúc 6" của Lý Bạch

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 5-12)

 

Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

Chín tầng gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Nước thanh bình ba trăm năm cũ

Áo nhung trao quan vũ từ đây

Sứ trời sớm giục đường mây

Phép công là trọng niềm tây sá nào.


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt

Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân

Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch

Bán dạ phi hịch truyền tướng quân

Thanh bình tam bách niên thiên hạ

Tòng thử nhung y thuộc vũ thần

Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát

Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt.


 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 6" của Lý Bạch:

 

TÁI HẠ KHÚC 6

Phong hỏa động sa mạc

Liên chiếu Cam Tuyền vân (*)

Hán hoàng án kiếm khởi

Hoàn triệu Lý Tướng quân (*)

Binh khí thiên thượng hợp

Cổ thanh lũng để văn

Hoành hành phụ dũng khí

Nhất chiến tĩnh yêu phân.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 6

Lửa báo nguy động rung sa mạc

Núi Cam Tuyền sáng át cả mây

Hán hoàng chống kiếm nơi tay

Truyền vời tướng Lý địng ngày xuất chinh

Khí thế quân trào dâng cao ngất

Trống khua vang tới khắp lũng ngoài

Xông pha ngang dọc hùng oai

Chỉ trong một trận hết loài quái yêu.

(Nguyên Minh dịch)

 

(*) Chú thích:

Cam Tuyền: núi có cung vua, thường đốt lửa để báo giặc tới.

Lý tướng quân: là Lý Quảng, một đại tướng của nhà Hán.


 

2) Ảnh hưởng từ 2 bài Đường thi của Lý Bạch là "Kết Miệt Tử" và "Tái Hạ Khúc 3":

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 17-24):

 

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

Xếp bút nghiêng theo việc đao cung

Thành liền mong tiến bệ rồng

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Lương nhân nhị thập Ngô Môn hào

Đầu bút nghiên hề sự cung đao

Dục bả liên thành hiến minh thánh

Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu

Trượng phu thiên lý chí mã cách

Thái sơn nhất trích khinh hồng mao.

Tiện từ khuê khổn tòng chinh chiến

Thu phong minh tiên xuất Vị kiều.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Kết Miệt Tử" của Lý Bạch:

 

KẾT MIỆT TỬ (*)

Yên nam tráng sĩ Ngô Môn hào (*)

Trung trúc trí duyên ngư ẩn đao (*)

Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh

Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Kết Miệt Tử":

 

GẢ ĐAN BÍ TẤT

Ngô Môn có bậc anh hào

Lòng đàn bụng cá dấu dao tung hoành

Đền ơn vua, quyết dâng mình

Một gieo núi Thái, nhẹ tênh lông hồng.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích:

Yên Nam tráng sĩ: là Cao Tiệm Ly, người ở miền nam nước Yên

Ngô Môn hào kiệt: là Chuyên Chư, người nước Ngô

Kết miệt tử: gả đan bí tất (vớ), chỉ người quyết báo ơn.  Do câu trong sách Hán thư: "Vương sinh sai Trương Thích Chi đan bí tất rồi tha cho đi".

Trúc: tên một loại nhạc khí ngày xưa.  Cao Tiệm Ly dấu dao trong đàn trúc để ám sát Tần Thủy Hoàng.

Duyên đao: dao không sắc bén

Ngư ẩn đao: Chuyên Chư dấu dao trong bụng cá để hành thích Vương Liêu của nước Ngô.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 3" của Lý Bạch:

 

TÁI HẠ KHÚC 3

Tuấn mã như phong kiều

Minh tiên xuất Vị kiều (*)

Loan cung từ Hán nguyệt

Sáp vũ phá thiên kiêu

Trận giải tinh mang tận

Doanh không hải vụ tiêu

Công thành họa Lân các (*)

Độc hữu Hoắc Phiêu Diêu. (*)

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 3":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 3

Ngựa hay như gió phi nhanh

Roi kêu cầu Vị từ thành phóng ra

Giương cung, trăng Hán lìa xa

Lắp tên, phá nát chẳng tha giặc trời

Trận tan, tắt hết sao rồi

Trại không, mù biển đã trôi đi dần

Công thành, hình vẽ gác Lân

Hoắc Phiêu Diêu, chỉ ghi phần tướng quân.

(Anh Nguyên dịch)

 

(*) Chú thích:

Vị kiều: tên cái cầu, nơi nhà Đường chống giữ rợ Đột Khuyết.

Hoắc Phiêu Diêu: tên tướng nhà Hán lập nhiều chiến công được tạc tượng ghi công ở Kỳ Lân các.

Lân các: là Kỳ Lân Các.


 

3) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Tái Hạ Khúc 1" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 33-40):

 

Lòng thiếp tợ bóng trăng theo dõi

Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt

Quân tâm vạn lý Thiên sơn tiền

Trịch ly bôi hề vũ Long tuyền

Hoàn chinh sáo hề chỉ hổ huyệt

Vân tùng Giới Tử liệp Lâu Lan

Tiểu hướng Man Khê đàm Mã Viện

Quân phi trang phục hồng như hà

Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 1" của Lý Bạch.

 

TÁI HẠ KHÚC 1

Ngũ nguyệt Thiên sơn tuyết (*)

Vô hoa chỉ hữu hàn

Địch trung văn "chiết liễu"

Xuân sắc vị tằng khan

Hiểu chiến tùy kim cổ

Tiêu miên bão ngọc an

Nguyện tương yêu hạ kiếm

Trực vị trảm Lâu Lan. (*)

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 1":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 1

Tháng năm tuyết Thiên san

Không hoa, chỉ lạnh tràn

Nghe sáo vang "chiết liễu"

Chưa từng ngắm xuân sang

Sáng đi theo trống trận

Đêm gối yên sa tràng

Nguyện đem kiếm bên lưng

Chém ngay chúa Lâu Lan.

(Trần Trọng San dịch)

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 1

Tháng năm núi Thiên san còn tuyết

Không thấy hoa, chỉ tuyệt lạnh lùng

Sáo đưa "chiết liễu" mông lung

Nét xuân muôn thuở chẳng từng qua đây

Sáng giao chiến động mây chiêng trống

Tối gối đầu yên ngọc ngủ an

Nguyện dùng bảo kiếm lưng ngang

Chém ngay đầu giặc Lâu Lan rửa hờn.

(Nguyễn Phước Hậu dịch)

 

(*) Chú thích:

Thiên Sơn: tên núi ở Tân Cương

Chiết liễu: tên khúc nhạc biệt ly; Chiết liễu = bẻ cành liểu.

Lâu Lan: đời Hán Chiêu Đế, Tướng Phó Giới Tử chém vua nước Lâu Lan.  Nước Lâu Lan ở Tây Vực (Tân Cương bây giờ).


 

4) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Quan San Nguyệt" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 33-34 và câu 73-76)

 

Lòng thiếp tợ bóng trăng theo dõi

Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san

......... 

 

Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại

Mai Hồ về Thanh Hải dòm qua

Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt

Quân tâm vạn lý Thiên sơn tiền

...........

 

Kim trêu Hán hạ Bạch Đăng thành

Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc

Thanh Hải khúc, thanh sơn cao phục đê

Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Quan San Nguyệt" của Lý Bạch:

 

QUAN SAN NGUYỆT

Minh nguyệt xuất Thiên san (*)

Thương mang vân hải gian

Trường phong kỷ vạn lý

Xuy độ Ngọc Môn quan

Hán hạ Bạch Đăng đạo (*)

Hồ khuy Thanh Hải loan (*)

Do lai chinh chiến địa

Kỷ kiến hữu nhân hoàn

Thú khách vọng biên sắc

Tư quy đa khổ nhan

Cao lâu đang thử dạ

Thán tức vị ưng nhàn.

(Lý Bạch)


 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Quan San Nguyệt":

 

TRĂNG NƠI QUAN ẢI, NÚI NON

Trăng sáng ló Thiên san

Giữa biển mây mênh mang

Gió lan xa vạn dặm

Thổi đến Ngọc Môn quan

Bạch Đăng quân Hán xuống

Thanh Hải giặc Hồ tràn

Xưa nay nơi chiến địa

Không thấy ai về làng

Lính thú trêng biên sắc

Nhớ quê khổ muôn vàn

Trên lầu cao đêm tối

Chắc không ngơi thở than.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích: 

Thiên Sơn: tên núi ở Tân Cương

Bạch Đăng: tên thành nơi Hán Cao Tổ bị rợ Hung Nô bao vây

Thanh Hải: tên đất ở phía Tây tỉnh Cam Túc.


 

5) Ảnh hưởng từ 2 bài Đường thi "Hoài Thủy Biệt Hữu" của Trịnh Cốc và "Xuân Tứ" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Câu 57-64 và câu 273-280)

 

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một mầu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

..........................................

..........................................

Trông bến Nam bãi che mặt nước

Cỏ biếc um, dâu ướt màu xanh

Nhà thôn mấy xóm chông chênh

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

Trông đường bắc đôi chòm quán khách

Rườm rà cây xanh ngắt núi non

Lúa thành thoi thóp bên cồn

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.

 

Bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

 

Lang cố thiếp hề Hàm Dương

Thiếp cố hề Tiêu Tương

Tiêu Tương yên cách Hàm Dương thụ

Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang

Tương cố bất tương kiến

Thanh thanh mạch thượng tang

Mạch thượng tang, mạch thượng tang

Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường?

.................................

..................................

Vọng quân hà sở kiến, giang biên mãn bạch tần

Yên thảo phi thanh lũ, Tần tang nhiễm lục vân

Nam lai tỉnh ấp bán phong trần

Lạc nhật bình sa nhạn nhấy quần.

Vọng quân hà sở kiến, dịch lộ đoản trường đình

Vân gian Ngô thụ bích, thiên tế Thục sơn thanh

Bắc lai hòa thử bán hoang thành

Vi vũ giang lâu địch nhất thanh.


 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Hoài Thủy Biệt Hửu" của Trịnh Cốc:

 

HOÀI THỦY BIỆT HỮU

Dương Tử giang dương liễu xuân

Dương hoa sầu sát độ giang nhân

Sổ thanh phong địch ly đình vãn

Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.

(Trịnh Cốc)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Hoài Thủy Biệt Hữu":

 

TỪ BIỆT BẠN BÊN SÔNG HOÀI THỦY

Đầu bến sông Dương xanh liễu dương

Hoa dương buồn giết khách sang ngang

Sáo vang mấy tiếng đình chiều tối

Bạn đến Tiêu Tương tôi tới Tần.

(Trần Trọng San dịch)

 

Hoài thủy: tên sông ở tỉnh An Huy và tỉnh Giang Tô

Dương tử giang: người Tây phương thường gọi sông Trường Giang là Dương tử giang.
Tiêu Tương: tên sông ở huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam.

Tần: tên nước ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay, kinh đô là Hàm Dương.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Xuân Tứ" của Lý Bạch:

 

XUÂN TỨ

Yên thảo như bích ty

Tần tang du lục chi

Đương quân hoài qui nhật

Thị thiếp đoạn trường thì

Xuân phong bất tương thức

Hà sự nhập la vi.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Xuân Tứ":

 

XUÂN TỨ

Cỏ Yên dường sợi tơ xanh

Dâu Tần cũng nảy những cành le te

Đương khi chàng muốn về quê

Chính là khi thiếp đang tê tấm lòng

Gió xuân đâu có quen cùng

Cớ chi lại cứ vào trong màn là.

(Trần Trọng Kim dịch)



 

6) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch:

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 141-148):

 

Tin thường lại người không thấy lại

Hoa dương tàn đã trải rêu xanh

Rêu xanh mấy lớp chung quanh 

Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ

Thư thường tới người chưa thấy tới

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương

Bóng dương mấy buổi xuyên ngang

Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.

 

Nguyên bản Hán ngữ Chinh Phụ Ngâm của của Đặng Trần Côn:

 

Tích niên ký tín khuyển quân hồi

Kim niên ký tín khuyển quân lai

Tín lai nhân vị lai

Dương hoa linh lạc ửy thương đài

Thương đài thương đài hựu thương đài

Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi

Tích niên ký thư đính thiếp kỳ

Kim niên hồi thư đính thiếp qui

Sa song tịch mịch chuyển tà huy

Tà huy tà huy hựu tà huy

Thập ước giai kỳ cửu độ vi.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch:

 

CỬU BIỆT LY

Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia

Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa

Hướng hữu cẩm tự thư (*)

Khai cam sử nhân ta

Thử trường đoạn, bỉ tâm tuyệt

Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết

Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết

Khứ niên ký thư báo Dương Đài (*)

Kim niên ký thư trùng tương thôi

Đông phong hề Đông phong

Vị ngã xuy hành vân sứ tây lai

Đãi lai cảnh bất lai

Lạc hoa tịch tịch ủy thanh đài.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Cửu Biệt Ly":

 

LÂU NGÀY XA CÁCH

Chàng đi mấy xuân chưa về nhà

Cửa ngọc năm lần đào nở hoa

Huống còn tờ thư gấm

Mở phong mà xót xa

Đến nỗi lòng nầy đau tựa cắt

Tóc xanh biếng chải làn mây thắt

Buồn như gió lộng tóc tơi bời

Năm ngoái gửi thư đến Dương Đài

Năm nay gửi thư lại giục ai

Gió Đông hề! gió Đông

Vì ta thổi mây tới miền Tây

Chờ đợi mãi sao mà chẳng tới?

Hoa rơi lặng lẽ lớp rêu đầy.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích:

Cẩm tự: đời Tần, Đậu Thao đi trấn thủ Tương Dương, đem theo người thiếp yêu.  Vợ là Tô thị làm hơn 200 bài thơ dệt lên bức gấm gửi cho chồng.  Đậu Thao xem chữ gấm (cẩm tự), cảm động liền cho xe đón về Tương Dương.  "Đề chữ gấm phong thôi lại mở" (Chinh Phụ Ngâm).

Dương Đài: tên núi ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.  "Tìm chàng thủa Dương Đài chốn cũ" (Chinh Phụ Ngâm).

 

Bài thơ "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch còn ảnh hưởng tới Đặng Trần Côn trong những câu thơ Hán ngữ khác:

 

                                                                       (Đoàn Thị Điểm dịch)

Cẩm tự đề thi phong cánh triển          Đề chữ gấm phong thôi lại mở

Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi          Gieo bói tiền tin dở còn ngờ

 

                                                                        (Đoàn Thị Điểm dịch)

Tầm quân hề Dương Đài lộ                Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ

Hội quân hề Tương Giang tân            Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa


 

7) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Trường Tương Tư" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 203-212):

 

Sắc trời đằng đẵng bấy niên

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa

Hương gượng đốt hồn đà mê mãi

Gương gượng soi lệ lại chứa chan

Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng (trùng)

Lòng gửi gió Đông có tiện

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

Non Yên đâu chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Sầu như hải

Khắc như niên 

Cưỡng viện cầm, chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ

Cưỡng cổ sắt, khúc trung sầu yết uyên ương huyền

Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền

Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên

Yên Nhiên vị dị truyền

Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Trường Tương Tư" của Lý Bạch:

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Nhật sắc dục tận hoa hàm yên

Nguyệt minh như tố sầu bất miên

Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ

Thục cầm dục tấu uyên ương huyền

Thử khúc hữu ý vô nhân truyền

Nguyện tùy xuân phong kỷ Yên Nhiên

Ức quân điều điều cách thanh thiên

Tích thời hoành hoa mục

Kim tác lưu lệ tuyền

Bất tín thiếp trường đoạn

Quy lai khán thủ minh kính tiền.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Trường Tương Tư":

 

NHỚ NHAU HOÀI

Hoa lồng khói biếc lặn tà dương

Trăng trong như lụa lòng buồn thương

Đàn Triệu vừa ngơi trụ Phượng hoàng

Đàn Thục toan gẩy dây uyên ương

Khúc nầy có ý không ai truyền

Mong gởi gió xuân đến Yên Nhiên

Xa cách trời xanh, nhớ khó quên

Ngày xưa mắt gợn sóng

Nay thành suối lệ phiền

Đoạn trường ai chẳng tin lòng thiếp

Hãy về mà ngắm bóng gương in.

(Trần Trọng San dịch)

 

NHỚ NHAU HOÀI

Bóng tà dương hoa lồng khói biếc

Trăng như tơ sầu giấc không yên

Đàn Triệu vừa dứt tiếng huyền

Thục cầm lại gởi khúc uyên ương liền

Ý nhạc hay, thất truyền xin gởi

Nhờ gió xuân đưa tới Yên Nhiên

Cao xanh ngăn cách khó quên

Làm em càng nhớ chàng nơi phương trời

Mắt ngày xưa lả lơi gợn sóng

Nay suối tuôn lệ nóng nhớ chàng

Vì ai đòi đoạn tâm can

Về đây đối bóng xin chàng hãy tin.

(Cao Nguyên dịch)

 

Triệu sắt: vì người nước Triệu giỏi đàn sắt nên thường gọi đàn nầy là "Triệu sắt".  Sắt là loại đàn có 25 dây.

Thục cầm: Tư Mã Tương Như người nước Thục giỏi gẩy đàn cầm, nên đàn nầy thường được gọi là Thục cầm.  Cầm là loại đàn có 7 dây.

Yên Nhiên: tên núi ở Mông Cổ ngày nay.  Đời Đông Hán, Tướng Đậu Hiến đánh thắng Thiền Vu (vua Hung Nô), lên núi nầy khắc chữ trên đá ghi chiến công của mình.

 

Chiến công của Đậu Hiến ở Yên Nhiên cũng ảnh hưởng đến những câu thơ Hán ngữ của Đặng Trần Côn:

 

                                                                       (Đoàn Thị Điểm dịch) 

Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt            Bóng cờ xí giã ngoài quan ải

Khải ca tướng sĩ bối biên phong        Tiếng khải ca trở lại thần kinh

Lặc công hề Yên Nhiên thạch            Non Yên tạc đá đề danh

                                                                       Triều thiên vào trước cung đình dâng công. 


 

8) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Khuê Oán" của Vương Xương Linh.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Câu 45-48 và câu 296-300)

 

Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương

Quân đưa chàng ruổi lên đường

Liễu dương biết thiếp đoạn trường nầy chăng.

...................

..................

Lòng nầy hóa đá cũng nên

E không ngại ngọc mà lên trông lầu

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong

Chẳng hay muôn dặm ruổi giong

Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

 

Tiền quân bắc Tế Liễu

Hậu kỵ tây Tràng Dương

Kỵ quân tương ủng quân lâm tái

Dương liễu na tri thiếp đoạn trường

.................

..................

Hữu tâm thành hóa thạch

Vô lệ khả đăng lâu

Hồi thủ trường đê dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

Bất thức ly gia thiên lý ngoại

Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Khuê Oán" của Vương Xương Linh:

 

KHUÊ OÁN

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhựt ngưng trang thướng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(Vương Xương Linh)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Khuê Oán":

 

KHUÊ OÁN

Phòng khuê nàng chửa biết buồn

Ngày xuân điểm phấn tô son lên lầu

Chợt trông dương liễu xanh mầu

Xui chồng tìm cái phong hầu mà chi?

(Trần Trọng San dịch)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài liệu tham khảo

1) Thơ và Sử Việt - Phan Huy Ích (Bs Phan Thượng Hải) phanthuonghai.com

2) Đoàn Thị Điểm và Chinh Phụ Ngâm (Bs Phan Thượng hải) phanthuonghai.com

3) Điển Cố Từ Thơ (Bs Phan Thượng Hải) phanthuonghai.com

4) Google Wikipedia 

CHỒNG RỬA CHÉN

Rửa chén lành nghề việc của tôi

Mỗi ngày hai bữa cứ làm thôi

Rửa cho sạch bách luôn dao thớt

Rửa đến sạch trơn cả chảo nồi

Liệt lão thất phu nên hữu trách (*)

Tề gia nội trợ hết bồi hồi

Xướng tùy thoải mái đời đơn giản

Vợ nấu mình ăn đủ sướng rồi.

(Phan Thượng Hải)

11/5/19

 

(*) Có câu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách".

 

TB.

Hỏi một đàn anh bậc Thầy: "tại sao (Anh) không để Chị rửa?".  Trả lời: "(Tại) Bả, con mắt không thấy rõ nên rửa dơ, (do đó) "moi" rửa (phứt) cho rồi".

TL_Easter.jpg

* Lễ Phục Sinh

 

ĐÓN PHỤC SINH

Hướng thiện tâm tình đón Phục Sinh

Từ trong nhẫn nhục có quang vinh

Đức tin hướng vọng về thiên giới

Lời nguyện cầu xin tự thánh kinh

Rửa tội nhân loài là ý Chúa

Dùng cây thập tự hiến thân mình

Giê-su hằng sống gìn Tân Ước

Phán xét từng người lúc tử sinh.

(Phan Thượng Hải)

3/27/18

 

MỪNG LỄ PHỤC SINH

Thế giới đón mừng lễ Phục Sinh

Làm Người từng trải nghĩa hy sinh

Thiện tâm đưa lối về thiên quốc (*)

Khiêm ái dẫn đường hướng tái sinh

Cầu nguyện chân thành qua khốn khổ

Đức tin bền vững giúp tồn sinh

Giê-su tín ngưỡng truyền hy vọng

Ơn phước nhân loài có phục sinh.

(Phan Thượng Hải)

4/10/20 

Good Friday 2020

 

(*) Chú thích: Thiên quốc = Nước trời = Kingdom of heaven.

 

* Lễ Phục Sinh và Hoa Đào

 

XUÂN ĐÀO PHỤC SINH

Đào thắm duyên xuân lễ Phục Sinh (*)

Tự nhiên thiên tạo ý hòa minh

Tin mừng cứu thế niềm hy vọng

Hoa nở giao mùa cảnh đẹp xinh

Thời tiết an lành tâm tỉnh thức

Nhân loài từ thiện tiếng cầu kinh

Xuân đào tái hiện phô thanh sắc

Cảm giác lòng người phước phục sinh.

(Phan Thượng Hải)

4/2/21

 

(*) Chú thích: Có loại hoa đào (như anh đào) nở vào đầu tháng tư ngay trước lễ Phục Sinh.

 

* Lễ Phục Sinh và Lễ Giáng Sinh

  

KỶ NIỆM GIÁNG SINH 

Kỷ niệm Giáng Sinh đón Phục Sinh

Từ trong đêm tối vọng thiên đình

Chúc mừng nồng ấm, nhân loài tốt

Lễ lộc tưng bừng, thế giới xinh

Giản dị bình dân, gìn bác ái

Xa hoa nghi thức, giữ chân tình

Đợi nghe gà gáy luôn canh thức

Như thánh Phê-rô, Chúa bất bình. (*)

(Phan Thượng Hải)

12/13/14 

 

(*) Chú thích: Chuyện thánh Phê-rô ba lần chối Chúa trước khi gà gáy (Phúc Âm) 

__________________

  CĂN BẢN GIÁC NGỘ VÀ THIỀN ĐỊNH CỦA THIỀN TÔNG

 

                                       Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


 

Từ nhiều thế kỷ cho đến ngày nay, Giác ngộ theo Giáo lý và Thiền định từ Tu Thiền định thường theo giáo huấn của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông.  Bài viết này trình bày phần căn bản về Giác ngộ và Thiền định của Thiền Tông.

 

Dàn bài

Đại cương (trang 1)

Tâm Giác Ngộ

Giáo lý Giác ngộ (trang 2)

Đoạn Hoặc và Từ Bi (trang 6)

Tâm Thiền Định

Thiền Định (trang 9)

Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán (trang 9)


 

I. ĐẠI CƯƠNG 

 

Cứu cánh chính của Phật Giáo là giải thoát Khổ (suffering), đó là giải thoát Tâm không phiền não (buồn rầu) trong một sinh kiếp mà có được Tâm An (tranquil mind). 

 

Tâm An (= Niết bàn hữu dư) trong một sinh kiếp có được từ Tâm Giác ngộ hoặc Tâm Thiền định:

Tâm Giác ngộ giáo lý (giác ngộ) = sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành giáo lý giác ngộ này trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Tâm Thiền định đạt được từ Tu Thiền Định, không cần Giác ngộ. 

 

Phật Giáo còn tin rằng Con người có Tâm Giác ngộ, gọi là La Hán (Phật Giáo Nguyên Thủy) hay là Phật (Phật Giáo Đại Thừa) thì sau khi hết sinh kiếp (chết = tử) sẽ không phải tái sinh luân hồi trong tam giới (= Niết bàn vô dư).  Phật Giáo Đại Thừa còn cho rằng có những cõi riêng cho Phật ở gọi là Phật độ hay Tịnh độ, khác với Tam giới (3 thế giới) của chúng sanh là cõi Ta Bà.  (Độ = thổ = land).  

Như vậy, Giác Ngộ còn giúp cho không tái sinh còn Thiền Định cũng giúp cho Tâm An nhưng không giúp cho Con người tránh khỏi tái sinh luân hồi.

 

Ngoài Giác ngộ và Thiền định, còn có một ngành thứ 3 của Phật Giáo là Trì giới của "Tâm và Thân" từ Phật Giáo Nguyên Thủy.  Trì Giới không có đem lại Tâm An (tranquil mind) cũng như không giúp cho tránh khỏi tái sinh luân hồi.  Từ ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo tin rằng Con người Trì giới, không phạm tất cả 10 Ác Nghiệp, là để khi tái sinh theo lục đạo thì không phải tái sinh theo khổ đạo vào những cõi "khổ" như cõi địa ngục, cõi của ngạ quỷ hay cõi của thú vật.  Sanh mạng ở trong những cõi này thì hoàn toàn chịu khổ và không bao giờ tu hành để thoát khỏi tái sinh luân hồi được. Trì Giới giúp Con người tái sinh trong cõi Trời (Thiên) hay cõi Con người. 

Khi không phải tái sinh nhờ Tâm Giác ngộ không có Khổ Nghiệp thì Con người cần gì phải tránh Ác Nghiệp bằng cách Trì Giới để tránh tái sinh theo khổ đạo vào cõi địa ngục, cõi của ngạ quỷ và cõi của thú vật.  Do đó Con người có Tâm Giác ngộ thì khỏi phải Trì Giới và hơn nữa, Từ Bi của Giác Ngộ đã được dùng để thay thế Trì Giới. 


 

II. TÂM GIÁC NGỘ

 

A. Giáo lý Giác Ngộ

 

a) Đại cương

 

*

Phật Pháp là Pháp trong Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) bắt đầu bằng Đạo Đế.

Đạo Đế của Tứ Diệu Đế gồm có 3 ngành từ Phật Giáo Nguyên Thủy:

Giác ngộ (dựa trên triết lý và Khổ Nghiệp).

Thiền Định và Tu Thiền Định (không dựa trên triết lý hay Nghiệp).

Trì Giới (không dựa trên triết lý nhưng dựa trên Ác Nghiệp).

 

Trong tất cả Nghiệp, Phật Pháp chỉ dựa trên Khổ Nghiệp cho giáo lý Giác ngộ và dựa trên Ác Nghiệp cho Trì Giới.  

 

Giác Ngộ là Tâm Giác ngộ theo giáo lý (giác ngộ): sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành giáo lý giác ngộ này trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Sự sáng suốt trong nhận thức giáo lý giác ngộ này gọi là sự sáng suốt toàn hảo (= trí tuệ toàn hảo) theo ngôn từ của Phật Giáo và Phạn ngữ gọi là Prajna-paramita mà dịch âm là Bát Nhã Ba La Mật Đa

     Bát nhã = Prajna = trí tuệ, trí huệ = wisdom.  

     Ba La Mật Đa = Paramita = sự toàn hảo = perfection

 

*

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa chính là Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế của Tứ Diệu Đế.

 

Giáo lý giác ngộ của Phật Giáo lần lượt trải qua từ nhiều giai đoạn trong lịch sử Phật Giáo: 

Giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy từ triết lý Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca.

Giáo lý của Phật Giáo Đại Thừa:

Từ Trung Quán Phái của Ấn Độ và Không Tông của Trung Quốc dựa trên triết lý Không (Sunyà) của kinh Bát Nhã.

Từ Duy Thức Du Già Hành Phái của Ấn Độ và Nhiếp Luận Tông.

Từ chi phái cuối cùng của Duy Thức Phái truyền sang Trung Quốc là Tánh Tông.

Cuối cùng là từ Thiền Tông, tổng hợp và dung hòa 3 triết lý của Không Tông, Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông của Phật Giáo Đại Thừa.

 

Giáo lý Giác ngộ của các giáo tông khác rất phức tạp và khó hiểu và khó áp dụng trong thực tế:

Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông từ Trung Quán Phái.

Pháp Tướng Tông của Duy Thức Du Già Hành Phái.

 

Tất cả các giáo lý Giác ngộ đều đi đến kết luận cuối cùng là Đoạn Hoặc hay Từ Bi hay cả hai Đoạn Hoặc và Từ Bi.  

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Nguyên Thủy là Thập Nhị Nhân Duyên  chỉ dẫn đến Đoạn Hoặc mà thôi. 

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông dẫn đến Đoạn Hoặc và Từ Bi. 

 

Các giáo tông chánh khác nữa chỉ chú trọng đến tôn thờ và tín ngưỡng như Tịnh Độ Tông thuộc Đại Thừa Hiển Giáo và Mật Tông và Chơn Ngôn Tông thuộc Đại Thừa Mật Giáo.

Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng có giáo lý giống Thiền Tông nhưng có tôn thờ tín ngưỡng giống Mật Giáo.

 

*

Giáo lý Giác ngộ (giáo lý để Giác ngộ):

Khổ là Tâm phiền não.  Không Khổ là Tâm An (tranquil). {Khổ Đế của Tứ Diệu Đế}

Năng lực tạo ra Khổ là Khổ Nghiệp.  (Nghiệp = Karma).  Đó là Mê hoặc (Hoặc) gồm có Tham dục, Sân và Mạn.{Tập Đế của Tứ Diệu Đố}

Đoạn diệt Khổ Nghiệp là Đoạn Hoặc.  Không có Khổ Nghiệp là Từ Bi. {Diệt Đế của Tứ Diệu Đế}

Do đó,

Tâm không giác ngộ (= vô minh, si) là Mê hoặc.

Tâm Giác ngộ của Thiền Tông là Đoạn Hoặc (đoạn diệt Mê hoặc) và Từ Bi.

 

Đoạn Hoặc = Đoạn diệt Mê hoặc.  Có 3 Hoặc là Tham dục, Sân và Mạn.

Mê hoặc = Hoặc = Defilement(s) = klesa, agantukaklesa, klesha.  Nghĩa đen của Defilement (Klesa, klesha) là ô uế, dơ bẩn, không trong sạch.

 

Trong tất cả các Nghiệp; Phật Giáo chỉ dùng Khổ Nghiệp cho Giác ngộ và dùng (10) Ác Nghiệp cho Trì Giới.

Ngày nay, Giác ngộ là phần chính của triết lý Phật Giáo.  Tu Thiền Định và Thiền Định không còn là sự bắt buộc và Trì Giới đã được thay thế bởi Từ Bi của Giác ngộ. 


 

b) Chi tiết 

 

Giáo lý Giác ngộ của Thiền Tông tổng hợp và dung hòa của Trung Quán Phái (Không Tông) và Duy Thức Du Già Phái (Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông).

 

*

Theo Không Tông từ Trung Quán Phái:

Sự vật là có nhưng vô ngã (without nature), được diễn tả trong kinh Bát Nhã là "không có tự tánh" (= Tánh Không), cho nên vô thường (impermanent).  Vì Sự vật vô ngã và vô thường cho nên Sự vật thì tương đối (relative), không tuyệt đối (not absolute).

Tâm không giác ngộ (= vô minh, si = ignorance) thì bám chặt và ràng buộc vào Sự vật tương đối do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật.  Mê hoặc (= Hoặc) gồm có Tham dục, Sân và Mạn.

Tâm Giác ngộ thì không bám chặt và ràng buộc và không chướng ngại (= tự do) với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không bám chặt vào Sự vật.  Đoạn Hoặc là đoạn diệt Tham dục, Sân và Mạn.

 

Ngã = nature.  Vô Ngã = without nature = không có tự tánh = Tánh Không (Sunyata).

Không bám chặt và ràng buộc = vô sở đắc, vô sở trụ = non-attached.

Không chướng ngại = vô ngại = without hindrance. 

 

*

Theo Nhiếp Luận Tông từ Duy Thức Du Già Hành Phái:

Tâm là Tâm thức (có 8 Thức).  

Tâm thức của Con người thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật khi Tâm thức hoạt động đối với Sự vật.  Sự vật bên ngoài của Tâm là không có và không có thực vì do Tâm thức của Con người tạo ra. (Thức = Consciousness).

Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật.

Tâm Giác ngộ, Tâm thức Giác ngộ, là không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật mà không bám chặt và ràng buộc vào Sự vật. (Nhiếp Luận Tông và Duy Thức Phái giải thích sâu xa hơn Không Tông và Trung Quán Phái)

 

Ngã = ta, "cái ta" = self, ego.  

Vô ngã = nonself = phi ngã = no ego or without ego.

Chấp ngã = cầm giữ hay bắt lấy cho mình = attachment to self.  Người chấp ngã là muốn sở hữu sự vật là của mình.

Tự ngã = từ mình hay bởi vì mình mà ra = idea of self.  Người tự ngã là muốn làm chủ, muốn điều khiển mọi sự vật theo tình ý của mình.

 

*

Theo Tánh Tông từ Duy Thức Phái:

Tâm (Mind) gồm có Tâm thức (Conscious Mind) và Bản tâm (Nature Mind).  

Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài của Tâm.  

Bản tâm thì "không nhị nguyên" đối với Sự vật nên dung hòa và từ "dung hòa" mà không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật bên ngoài (của Tâm của Con người).  Nhị nguyên (Duality) là phân biệt giữa "ngã" (ta) và "không phải là "ngã" (không phải là ta). Đó là Bản tâm Từ Bi (từ "dung hòa").  Do đó Bản tâm thì vô ngã (= không chấp ngã, không tự ngã và không nhị nguyên). 

Tâm Giác ngộ hay vô minh thực tế là Tâm thức Giác ngộ hay vô minh.  Bản tâm luôn luôn Giác ngộ và Bản tâm có từ bẩm sinh trong mỗi Con người.

Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) là không tuân theo hay không đồng nhất với Bản tâm nên Tâm thức "nhị nguyên" tức là chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm thức mê hoặc vào Sự vật vì không đồng nhất với Bản tâm.

Tâm thức Giác ngộ là tuân theo hay đồng nhất với Bản tâm nên Tâm thức không Nhị nguyên (giống như Bản tâm) tức là dung hòa mà không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức Từ bi đối với Sự vật do đó Đoạn Hoặc đối với Sự vật.  Từ bi là dung hòa với Sự vật và Đoạn hoặc là không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật.

 

Dung hòa = in harmony, harmonious = vô ngại.  Nghĩa của vô ngại của Tánh Tông khác với nghĩa của vô ngại của Không Tông.  Dung hòa với Sự vật là Từ Bi với Sự vật.

 

Bản tâm còn có nhiều danh hiệu khác: Phật tánh, Chân như, Như Lai tạng, Phật thân, Pháp thân, Thực tánh, Tự tánh, Bản lai diện mục ...  (Như lai = Phật).   

Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông dùng từ ngữ "gia trung hửu bảo" với ngụ ý là Phật tánh hay Bản tâm..

Trong câu tục ngữ Việt "Bụt nhà không thiêng, cầu Thích Ca ngoài đường", "Bụt nhà" ngụ ý là Phật tánh.

Phật Tánh (Buddha Nature = Buddhatà = Buddha-svabhàva)

 

*

Theo Thiền Tông

Sự vật là có và tương đối giống như Không Tông (và Trung Quán).

Tâm gồm có Tâm thức (hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài Tâm) và Bản tâm như Duy Thức Tánh Tông.  Tâm không có tạo ra Sự vật như Duy Thức do đó Sự vật không là ảo và không là giả.

Tâm thức Giác ngộ có 2 giai đoạn:

Trước hết là Tâm thức của Con người phải Đoạn Hoặc đối với Sự vật bên ngoài.

Từ đó Tâm thức mới đồng nhất được với Bản tâm Từ bi mà Từ bi và không Mê hoặc.

 

Không Tông và Nhiếp Luận Tông chủ trương Đoạn Hoặc.  Tánh Tông chủ trương Từ bi (thì tự động sẽ Đoạn Hoặc).  Thiền Tông chủ trương Đoạn Hoặc rồi mới Tử bi.


 

Theo Thiền Tông, Tâm thức là hoạt động của tâm:

Tâm thức hoạt động từ hiện tượng của sự vật từ cảm giác (sensation), tri giác (perception) cho đến cuối cùng là nhận thức (cognition) để có ý thức (consciousness).

Tâm thức hoạt động về hiện tượng của sự vật là tư tưởng hay tư duy (thought) gồm có lý trí và tình cảm (affection, sentiment).  Lý trí gồm có suy nghĩ (thinking) và suy luận (reason).  Từ ý thức hiểu biết về sự vật tâm thức mới có tư tưởng về sự vật, đó là ý kiến (view, idea).

 

Thiền Tông nhấn mạnh rằng: 

Sự vật bên ngoài của Tâm của một Con người bao gồm sinh mạng khác, con người khác và kể cả Thân của Con người đó.  Tâm của mình cũng phải "đoạn hoặc và từ bi" đối với Thân của mình.

Đoạn Hoặc và Từ Bi chỉ thuộc về Tình cảm trong Tâm thức của Con người mà thôi.  Tâm thức của Con người tự do trong các hoạt động khác của Tâm thức như cảm giác (sensation), tri giác (perception), nhận thức (cognition), lý trí và kể cả những hoạt động khác của tình cảm.

Tâm thức của Con người không "sở trụ" hay "sở đắc" (không bám giữ chặt và ràng buộc) vào Sự vật nhưng Tâm thức của Con người Giác ngộ vẫn "động" chứ không có "tịnh" (not moving).  Con người vẫn có tình cảm chứ không hoàn toàn vô tình. 

Đoạn diệt Tham dục (= Tham) nhưng không có đoạn diệt Dục (= Muốn).  Tâm của Con người "muốn" nhưng không có "tham" trong cái "muốn" của mình.

Từ Bi chỉ đặt căn bản trên Khổ Nghiệp (trong tất cả các Nghiệp) chứ không có đặt căn bản trên Thiện Nghiệp.

Từ Bi chỉ áp dụng trong cuộc sống liên quan (= nhân duyên) hằng ngày của mỗi Con người.  Con người không bắt buộc phải tình nguyện "cứu nhân độ thế" cho nhiều người không có liên quan đến mình hay cho tất cả mọi người.

Thiền Tông phân biệt Sự vật vô ngã (= Pháp Vô Ngã) của Không Tông và Bản tâm vô ngã (= Nhân Vô Ngã) của Tâm con người của Tánh Tông là Pháp Vô Ngã và Nhân Vô Ngã (theo kinh Lăng Già).  (Pháp = hiện tượng của sự vật.  Nhân = Con người)


 

B. Đoạn Hoặc và Từ Bi

 

Thiền Tông dạy rõ ràng và thực tế về Đoạn Hoặc và Từ Bi.

 

In Essentials of Buddhism, professor Kogen Mizuno writes:

In the state of nonself, there can be no self-centered greed, unreasonable fear of others, hate, flattery, boasting, insult, anger, jealousy, or envy.  

A person who has realized the nature of nonself can not bring harm to others, since actions is taken only after correctly considering both its immediate and its wider-ranging effects.  This is expressed as loving kindness and pity for all beings.  There is no conflict between self and others.  

As the result, the state of nonself as been defined as the state of mind of an enlightened person.

 

(Dịch)

Trong trạng thái vô ngã, không thể có tham lam ích kỷ, sợ hãi vô lý đối với người khác, thù ghét, nịnh bợ, khoe khoang tự phụ, lăng nhục, phẫn nộ giận dữ, ghen ghét hay ganh tỵ.

Một con người thức ngộ tự tánh của vô ngã không thể làm hại những người khác, vì hành động chỉ được thực hiện sau khi nghĩ tới cả hai hậu quả tức thời và rộng rãi.  Đó được biểu lộ như lòng tử tế và thương xót cho tất cả chúng sanh.  Không có xung đột giữa mình và những người khác.

Như vậy, trạng thái vô ngã được định nghĩa như là trạng thái của tâm giác ngộ.


 

a) Đoạn Hoặc 

 

Đoạn hoặc đối với tất cả mọi sự vật bên ngoài tâm của ta (all beings and all things) kể cả những sinh mạng hay sinh vật khác (all sentient beings), nhân mạng hay con người khác (human beings) và thân ta (trong sinh lão bệnh tử).


 

Đoạn Hoặc (Đoạn diệt mê Hoặc) là:

Đoạn diệt Sân:

không phẫn nộ giận dữ (anger) 

không thù ghét (hate)

không lăng nhục (insult) những người khác

không tổn hại (causing injury) những người khác

không độc ác (cruelty)

Đoạn diệt Mạn: 

không khoe khoang tự phụ (boasting) 

không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

không nịnh bợ (flatterery) 

không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

Đoạn diệt Tham Dục:

không tham lam ích kỷ (self-centered greed) 


 

* Tham Dục

 

Đoạn diệt Tham dục = không tham lam ích kỷ (self-centered greed): 

= không "tham dục" (tham muốn) riêng cho mình 

= có "dục" (muốn hay ham muốn) nhưng không "tham" cái "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình

= không "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình; một cách vô độ hay quá khao khát mãnh liệt không cưỡng lại được hay trói buộc ham muốn (= dục) lâu dài vào một đối tượng.

 

Tham dục = Tham muốn = Craving or Strong Desire = Tham Ái, Ái.

Tham, Tham lam = Greed

Tham dục = Tham, Tham lam

Dục = Muốn, Ham muốn = Desire

 

* Sân

 

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Sân hay Giận (Anger) theo nghĩa đen là không vừa lòng (displeasure) và ghét (revulsion) một đối tượng (mà mình) không thích (dislike).

Từ Sân (hay Giận) còn phải Đoạn diệt những điều nặng hơn:

Phẫn hay Giận dữ (Wrath) , thường có võ lực (violence).  Phẫn gần đồng nghĩa với Tức giận (Indignation) hay Nỗi giận (Temper).

Hận tức là Oán giận, Căm hờn (Enmity), thường do thù nghịch.

Hại (Causing injury) làm tổn hại (sinh vật khác).

"Độc" (Cruelty) là độc ác, hung dữ, tàn bạo, dã man.

 

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Sân =

không phẫn nộ giận dữ (anger) 

không thù ghét (hate)

không lăng nhục (insult) những người khác

không tổn hại (causing injury) những người khác

không độc ác (cruelty)


 

* Mạn

 

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Mạn = Kiêu ngạo (Pride = Màna)

Mạn khác với Kiêu (Arrogance = Mada).

Mạn là tự kỷ coi mình hơn sanh mạng khác hay coi sanh mạng khác dưới hơn mình.  Mạn cần có sanh mạng khác để so sánh.  Mạn = Kiêu Ngạo (kiêu căng và ngạo mạn).

Kiêu là tự kỷ coi mình là tối cao hơn hết (superior), không cần so sánh với chúng sanh.  Kiêu = Kiêu Hãnh.

Dĩ nhiên là nếu đoạn diệt Mạn thì cũng phải đoạn diệt Kiêu.

 

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Mạn = 

không khoe khoang tự phụ (boasting) 

không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

không nịnh bợ (flattery) 

không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

 

Thiền tông có Đoạn hoặc (đoạn diệt tham dục, sân và mạn) giống như Phật Giáo Nguyên thủy nhưng dùng Từ bi để thay thế Trì giới của Phật Giáo Nguyên thủy.  

Đoạn diệt tham dục là điều rất tế nhị trong đoạn diệt mê hoặc nên cần có từ bi làm căn bản. 


 

b) Từ Bi

 

Từ bi đối với sinh vật khác, người khác (và kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử).

 

Từ bi là:

hiền lành (= Từ) với người và sinh vật khác, tức là nhẫn nhịn (forebearance) và không có xung đột (no conflict), do đó không làm hại người, sinh vật khác và thân mình.

thương (= Bi) người khác và sinh vật khác, bằng thể hiện lòng tử tế (loving kindness) và lòng thương xót (pity), do đó giúp đỡ người, sinh vật khác và thân mình.

 

Người có tâm thức giác ngộ chính là Phật.  Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát.  Như vật ý nghĩa của "đại từ bi" (great compassion) của Bồ tát khác với ý nghĩa của "từ bi" (compassion) của tâm thức giác ngộ.  Đại từ bi của bậc Bồ tát là hóa độ chúng sanh cũng giác ngộ như mình.

Phật là đọc tắt của Phật Đà.  Phật Đà là dịch âm từ Buddha của Phạn ngữ.  Anh ngữ vẫn dùng từ ngữ Buddha.  Buddha có nghĩa là "người giác ngộ" (= giác giả = awakened one). 


 

II. TÂM THIỀN ĐỊNH

 

A. Thiền Định 

 

Tâm An có được từ Tâm Giác ngộ hoặc Tâm Thiền định:

Tâm Giác ngộ giáo lý (giác ngộ): sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Tâm Thiền định đạt được từ Tu Thiền Định, không cần Giác ngộ. 

Một ngành thứ 3 của Phật Giáo là Trì giới của "Tâm và Thân" từ Phật Giáo Nguyên Thủy không có đem lại Tâm An.

 

Từ Phật Giáo Nguyên Thủy cho tới Thiền tông, với phương pháp Tu Thiền định, Tâm (Tâm thức) của hành giả lần lượt vượt qua 4 trạng thái gọi là Tứ Thiền hay Tứ Thiền Na.

 

Tứ Thiền = Tứ Thiền Na (4 Dhyàna) = Tứ Định của Vô Sắc Giới 

1. Định Sơ Thiền (1st Jhàna): sung sướng (lạc = pleasure) và vui mừng (hỉ = delight), tâm thoát khỏi nhục dục (sensuous desire) và ác độc (evil). 

2. Định Nhị Thiền (2nd Jhàna): vẫn vui mừng và sung sướng, thoát khỏi suy luận (discursion) và tìm hiểu (investigation).

3. Định Tam Thiền (3rd Jhàna): sung sướng nhưng bình tỉnh (equanimity), lìa khỏi vui mừng và than thở

4. Định Tứ Thiền (4th Jhàna): an (tranquil), lìa khỏi sung sướng và đau khổ.

 

Tâm Thiền Định của Phật Giáo để có được Tâm an là Tâm (Tâm thức) đạt đến bậc Định Tứ Thiền.  Thường được gọi là Chánh Định của Bát Chánh Đạo (Phật Giáo Nguyên Thủy) và Thiền Định Ba La Mật Đa của Lục Độ hay Thập Độ (Phật Giáo Đại Thừa).  

 

Tại sao Tu Thiền Định đạt được Tứ Thiền (4 Dhyàna) thì không giải thích được nhưng có xảy ra.  Điều này có từ Ấn Độ Giáo rồi Phật Thích Ca đem Tu Thiền Định vào Phật Giáo và rất thịnh hành trong Thiền Tông cho đến ngày nay.

 

Phật Giáo còn tin rằng Con người có Tâm Giác ngộ, gọi là La Hán (Phật Giáo Nguyên Thủy) hay là Phật (Phật Giáo Đại Thừa) thì sau khi hết sinh kiếp (chết = tử) sẽ không phải tái sinh luân hồi trong tam giới.  Phật Giáo Đại Thừa còn cho rằng có những cõi riêng cho Phật ở gọi là Phật độ hay Tịnh độ, khác với Tam giới (3 thế giới) của chúng sanh là cõi Ta Bà.  (Độ = thổ = land).

Như vậy, Giác Ngộ còn giúp cho không tái sinh còn Thiền Định cũng giúp cho Tâm An nhưng không giúp cho Con người tránh khỏi tái sinh luân hồi.


 

B. Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán 

 

*

Phật Giáo Nguyên thủy có phương cách tự tu để đạt được cứu cánh là Tu Thiền (hay Tham Thiền).  Tu Thiền phải thực hiện trong không gian yên lặng theo một tư thế đặc biệt của thân mình (thường là tọa thiền).  Phương pháp Tu Thiền, nhất là Tu Thiền định đã có từ trước, trong Ấn Độ Giáo.

Tham Thiền thường được hiểu là Tu Thiền đúng theo phương pháp của Phật Giáo. 

 

Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên Thủy có 2 phương cách Tu Thiền chính là Tu Thiền quán và Tu Thiền định.

Tu Thiền quán (Insight meditation) là phương cách tự mình thực hành tập trung và suy nghĩ trong yên lặng về chủ đề hay đối tượng là giáo lý đạt giác ngộ ghi trong kinh luận của Phật Giáo, cụ thể là những trợ đạo phẩm của Phật Giáo Nguyên thủy hay những công án của Thiền tông để cho tâm của thiền gia sáng suốt giáo lý mà đạt được tâm giác ngộ.  Khi tâm giác ngộ thì an không phiền não tức là giải thoát Khổ.  (Quán = sáng suốt, thông minh).

Tu Thiền định (Meditation for concentration) thường là phương cách tự mình thực hành tập trung vào chủ đề hay đối tượng (như hơi thở) để cho tâm an tĩnh.  Tu Thiền định không cần dùng chủ đề và đối tượng là giáo lý đạt giác ngộ và dĩ nhiên không cần đạt giác ngộ nhưng tâm cũng sẽ được an.  Khi tâm an (tranquil, calm) thì không phiền não, tức là thoát Khổ.  (Định = tập trung)

 

Tu Thiền = Tham Thiền = Meditational Practices = Meditation

Tu Thiền Định = Meditational Practices (or Meditation) for Concentration.  

Định  = Tập trung = Concentration = Samàdhi.

Trạng thái an tịnh = Tịnh = Tranquil, Calm = Samatha

Tu Thiền Quán = Meditational Practices for Insight or Insight Meditation 

Quán = Sáng suốt (Thông minh) = Insight = Vipasyanà.   

Meditation = Suy nghĩ tập trung trong yên lặng = Tĩnh Lự (Tĩnh = yên lặng; Lự  = suy nghĩ)

Contemplation = Suy nghĩ tập trung trong yên lặng = Trầm tư mặc tưởng.

pth_toathien.jpg

*

Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán là 2 phương cách Tự Tu khác nhau: Tu Thiền Định để đạt Tâm Thiền Định và Tu Thiền Quán để đạt Tâm Giác Ngộ. 

 

Tu Thiền Quán là phương pháp tự tu học để Tâm Giác ngộ sáng suốt trong nhận thức và thi hành giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo.  Tuy nhiên với phương pháp và phương tiện giáo khoa hiện đại, Tu Thiền Quán trở thành lỗi thời và không hữu hiệu bằng.

 

Theo kinh nghiệm của Phật Giáo, Tu Thiền Định đạt được 4 bậc Tứ Thiền (Tứ Thiền na) của Tâm của Con người và bậc thứ tư của Tứ Thiền na là Định Tứ Thiền chính là Tâm Thiền định của Phật Giáo.  

Thành quả Tâm Thiền Định của Tu Thiền Định thì không giải thích được bằng lý trí vì không phải là triết lý như giáo lý Giác ngộ nhưng có xảy ra.  Ngoài ra, Tu Thiền Định còn có nhiều thành quả khác ngoài Tứ Thiền (4 Dhyana). 

 

Nhận xét thêm về Tu Thiền Định:

Tu Thiền Định không phải là dễ vì phải tùy theo căn cơ của người tu: có người tu mãi mà không đạt tới Định Tứ Thiền.  Có người chỉ đạt tới Định Sơ Thiền hoặc Định Nhị Thiền cảm thấy sung sướng và vui mừng thì cho là quá hay và không tiến hơn nữa cho tới cứu cánh là Định Tứ Thiền.

Tu Thiền Định chiếm nhiều thì giờ và phải tu hằng ngày mới giữ được Tâm trong 4 Thiền na. 

Nhiều người chỉ Tu Thiền Định mà không hề biết Tứ Thiền Na cũng như không hiểu biết Tâm Thiền Định là gì; tức là Tu Thiền Định mà không biết mình đạt được cái gì. 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Phật Giáo.

 

Bài viết này là phần sơ đẳng và căn bản về Giáo lý Phật Giáo đã được trình bày đầy đủ trong 4 bài dưới đây (cũng trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Phật Giáo)

1. Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

2. Tứ Diệu Đế và Đạo Đế của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

3. Thiền Định và Tu Thiền Định của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

4. Trì Giới của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

DANH HIỆU "QUAN THẾ ÂM"

 

                                           (Bs Phan Thượng Hải) 

 

*

Tôn thờ chư Phật và chư Bồ Tát của Phật Giáo vì tín ngưỡng và sùng bái của Phật tử nhưng cũng bắt nguồn từ Giáo lý Phật Giáo.  

Phật Giáo là một tôn giáo nên gồm có Tôn thờ và Giáo lý.  

         Tôn thờ chính là sự thờ phượng Phật, Bồ Tát và vị tương đương khác.  

         Giáo lý là Triết lý được giáo huấn dạy dỗ.  

Giáo lý giúp Chúng sanh, hay đơn giản hơn giúp Con Người (Nhân mạng), tự tu hành thành bậc Giác ngộ hay thành Bồ Tát và Phật để diệt hết Khổ của Sinh Tử, đạt Niết Bàn và thoát khỏi Luân Hồi Sinh Tử.  Sự Tự Tu hành để đạt giác ngộ nầy rất khó khăn.

Giáo lý Phật Giáo giúp diệt hết Khổ của Sinh Tử nhưng không giúp tránh và thoát Bệnh Khổ và Nạn Khổ.

Con Người cần sự giúp đỡ từ nguồn gốc khác:

         Hóa Độ của Phật hay Bồ Tát gián tiếp giúp cho Tu hành theo Giáo lý được thành công đạt được Giác ngộ.

         Cứu Độ của Phật hay Bồ Tát trực tiếp cứu khỏi Nạn Khổ và Bệnh Khổ trong Kiếp nầy và cứu khỏi Tái sinh những Kiếp sau trong Luân hồi mà không phải Giác ngộ hay thành Phật hay Bồ Tát.

Từ Cứu độ và Hóa độ sinh ra Tôn thờ Phật và Bồ Tát để trợ giúp cho Tín ngưỡng và sùng bái với Cầu nguyện và Hy vọng được giúp đỡ.  Ngoài ra đôi khi Tôn thờ cũng xuất phát từ lòng kính mến và thán phục.

 

*

Avalokitesvara (Avalokiteshvara) là vị Bồ Tát được tôn thờ nhiều nhất của Phật Giáo Đại Thừa ở Ấn Độ và các vùng phụ cận trước khi được truyền vào Trung Quốc.

Ba kinh chánh của Đại Thừa lúc sơ khởi là kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm và kinh Bát Nhã đều nói đến ngài.  

         Ava = khắp mọi nơi

         Lokita = nhìn, thấy được (khắp nơi)

         Isvara = vị chúa tể, bậc có quyền hành động tự do, thế tôn

         Loka = thế gian.  

 

Danh hiệu của ngài có khi là Lokesvara.

Lokesvara được dịch nghĩa là Thế Tự Tại Vương.

 

 

*

Danh tự Avalokitesvara được dùng ở Trung Quốc và đầu tiên được dịch nghĩa là Quan Tự Tại (hay Quán Tự Tại) trong kinh Bát Nhã:

         “Quan” (= Quán) là khảo xét khắp trong thế giới (thế gian) 

         “Tự Tại” là bao giờ cũng tự kỷ thường tại để trừ khổ não cho chúng sanh. 

 

Từ kinh Bát Nhã, Quan Tự Tại (Quán Tự Tại) là Bồ Tát Hóa độ.  Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa viết:

         Khi Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có ngũ uẩn và thấy Ngũ uẩn không có Tự tánh (Sùnyatà) trong chúng.

 

Sau đó Cưu Ma La Thập dùng từ ngữ Quan Thế Âm (hay Quán Thế Âm) để dịch tên Phạn ngữ là Avalokitesvara.  Danh hiệu Quan Thế Âm (Quán Thế Âm) thể hiện Bồ Tát Cứu độ của ngài từ câu kinh Pháp Hoa (mượn lời của Phật) mô tả Quan Thế Âm:

         “Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.  Dĩ thị danh Quan Thế Âm.”

 

Câu kinh trên có nghĩa là vị Bồ Tát nầy khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì "tầm thanh" để cứu khổ.  Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát một lòng xưng danh ngài thì ngay khi đó Quan Thế Âm Bồ Tát tức thì quan sát âm thanh ấy và khiến cho họ đều được giải thoát.