top of page
hmpg.jpg
TL_blinkingsquareblock.gif
Titlej (1).jpg

BIÊN KHẢO - THƠ - VĂN

BS Phan Thượng Hải

California__________ 

BBT: BS Phan Thượng Hải (CHS PTG 61-64) cùng với người em là LS Winston Phan Đào Nguyên là con của 1 công chức cao cấp của tòa án Cần Thơ, cũng là nhà thơ nổi tiếng của đất Cần Thơ thập niên 40, 50: Thi Sĩ LÃNG BA Phan Văn Bộ

____________________________________

PTH_BacCT.png

BẮC MIỀN TÂY


Từ đầu thế kỷ 21, có những chiếc Cầu được xây dựng để qua sông thay thế cho những bến Bắc
và những chiếc Bắc (chiếc Phà) thời xưa.


Điều nầy tuy tiện lợi nhưng cũng tạo nên niềm nhung nhớ cho người xưa cũ.


Đây là danh sách những cây cầu thay thế cho bến Bắc:
   1. Mỹ Thuận: cầu đầu tiên
   2. Rạch Miễu
   3. Hàm Luông
   4. Cần Thơ
   5. Cổ Chiên
   6. Cao Lãnh
   7. Vàm Cống
   8. Mỹ Lợi: bắt qua sông Vàm Cỏ nối Cần Đước và Gò Công.
   9. Năm Căn


BẮC MIỀN TÂY (Nguyên bản)
Nay còn đâu những Bắc Miền Tây
Để lại tình xưa những nhớ đầy
Mỹ Thuận rộn ràng thời trẻ dại
Cần Thơ êm ái tuổi thơ ngây
Thay nhiều bến cũ đà hoang phế
Với lắm cầu treo mới dựng xây
Vàm Cống băng qua, nhìn Rạch Miễu
Thương về quá khứ chạnh niềm tây.

(Phan Thượng Hải)
1/24/20


BẾN BẮC CẦN THƠ (Họa) 
Xuôi về thủ phủ của miền Tây
Nhớ Bắc Cần Thơ kỷ niệm đầy 
Kẻ hẹn trên boong, lòng phấn chấn 
Người chờ dưới phố, mắt thơ ngây
Bến xưa theo thế đà nên đóng 
Cầu mới xu thời đã được xây 
Mười mấy năm trôi, chừ khác lạ 
Giữa dòng hoài cảm một niềm tây.

(Phan Kim Thành)
12/12/21 


NHỚ BẮC MỸ THUẬN (Họa)
Qua cầu Mỹ Thuận xuống miền Tây 
Bến bắc ngày xưa, nỗi nhớ đầy 
Xe cộ nối đuôi dài phát ngán
Hàng rong mời mọc riết thành ngây 
Đầy rồi! phà chạy, ôi chao khoẻ 

Mát quá! gió lùa, mắt hết xây... (*)
Thuở ấy đòi ba mua gói cốm 
Giờ thì bóng cả đã về tây. 

(Phan Huệ Lan)
12/7/21
(*) Chú thích: Xây = xây xẩm.

(Bắc và Bến bắc Cần Thơ thuở xưa)

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn
Tài liệu (trong phanthuonghai.com)
Thơ Phan Thượng Hải – Cảnh Vật Việt Nam (Bs Phan Thượng Hải)
Hệ Thống Thủy Đạo Đồng Bằng Sông Cửu Long (Bs Phan Thượng Hải)

_________________________

CON RẮN TRONG TRUYỆN TÀU

                (Bs Phan Thượng Hải)

 

Có những chuyện Con Rắn trong Truyện Tàu có liên quan đến kiến thức văn hóa.

 

A. Truyện “Bạch Xà Thanh Xà”

 

a) Truyện Bạch Xà Thanh Xà

 

Truyện “Bạch Xà Thanh Xà” có trong danh sách Truyện Tàu của nhà xuất bản Tín Đức Thi Xã thời Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Kỳ.  Thật ra nguyên bản Hán ngữ là Bạch Xà Truyện, 1 trong 4 truyện Tứ Đại Dân Gian Truyền Thuyết của Trung Hoa.

 

Truyện kể 2 con Rắn (cái), Bạch Xà (rắn trắng) và Thanh Xà (rắn xanh) tu ngàn năm thành Người nhưng cũng phải nhờ uống tiên đan ăn trộm của một Hòa thượng là Pháp Hải.  Bạch Xà làm người tên là Bạch Tố Trinh lấy chồng là một người thường, thư sinh Hứa Tiên, để trả ơn vì kiếp trước đã cứu mạng.  Hòa thượng Pháp Hải muốn trả thù Bạch Xà đã ăn trộm tiên đan của mình nên dụ Hứa Tiên cho Bạch Tố Trinh uống hùng hoàng để hiện lại hình rắn.  Hứa Tiên hoảng kinh nên chết.  Bạch Xà phải lên thiên đình trộm thuốc linh chi của Tây Vương Mẫu để cứu sống Hứa Tiên.

Pháp Hải lại bắt nhốt Hứa Tiên tại chùa Kim Sơn.  Bạch Xà và Thanh Xà chiến tranh với Pháp Hải dâng nước biển làm hại sinh linh.  Sau khi cứu được Hứa Tiên, Bạch Xà bị Pháp Hải giam ở Lôi Phong tháp.

Sau đó con của Bạch Xà và Hứa Tiên thi đậu Trạng Nguyên và cứu mẹ ra khỏi tháp.  Gia đình lại được đoàn tụ. 

 

Truyện “Bạch Xà và Thanh Xà” ảnh hưởng Đạo Giáo của Trung Quốc với phép tắc biến hóa.  Truyện cũng như nhiều Truyện Tàu của Nam Kỳ ảnh hưởng từ Đạo Giáo như Tây Du Ký, Phong Thần, Đông Du Bát Tiên…  

 

b) Từ Đạo Gia đến Đạo Giáo

 

Đạo Giáo (Lão Giáo) là một tôn giáo của Trung Quốc khác với Đạo Gia là một trường phái triết học (xuất phát từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử), mặc dù nó xuất phát từ Đạo Gia và Lão Tử.

 

* Lịch Sử Đạo Giáo (Lão Giáo) từ Đạo Gia

 

Đạo Gia (cùng với Nho Gia trong Lục Gia) là một học phái triết học trong cuối thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc ở Trung Quốc xuất hiện từ triết gia là Lão Tử với sách Đạo Đức Kinh của ông.  Đạo Gia trước tiên có tên là Đạo Đức Gia dựa trên Đạo Đức Kinh rồi được gọi tắt thành Đạo Gia.  Theo Đạo Đức Kinh, Đạo là cái bởi đó mọi vật sinh ra.  Khi sinh ra, riêng mỗi vật đều nhận từ cái phổ biến một phần từ Đạo gọi là Đức, do đó Đức có nghĩa là "tiềm thể" hay "đức tính" của riêng mỗi vật.  Từ ngữ "Đạo Đức" từ Đạo Đức Kinh của Đạo Gia có nghĩa hoàn toàn khác với từ ngữ "Đạo Đức" (hay Luân Lý) của Nho Gia và Nho Giáo.  

 

Lão Tử và những triết gia của Đạo Gia chủ trương xuất thế không liên quan đến chính trị, ngoại giao và quân sự như những triết gia khác của Nho Gia (và những Gia khác trong Lục Gia).  Họ chính là những Ẩn sĩ lánh xã hội con người mà sống với thiên nhiên trong rừng núi vắng vẻ.  Lần lần, theo truyền thuyết, những Ẩn sĩ này tu mà trường sanh không chết và thành Tiên như trường hợp của Quỷ Cốc Tiên sanh trong thời Chiến Quốc.  Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc (221 tr CN) rồi đến nhà Hán cai trị Trung Quốc (từ thế kỷ thứ 3 tr CN), lịch sử có ghi rằng một khai quốc công thần của nhà Hán là Trương Lương có gặp một ông Tiên là Huỳnh Thạch Công khi còn trẻ rồi sau khi thành công ông từ quan tại triều đình mà đi tu Tiên với một ông Tiên là Xích Tòng Tử. 

 

Nhà Hán (từ thế kỷ thứ 3 tr CN) dùng triết lý của Nho Gia, gọi là Nho Giáo, cho chế độ quân chủ.  Các Nho Sĩ thi đậu và làm quan trong guồng máy hành chánh của vua nhà Hán.  Trong khi đó trong dân gian có xuất hiện những Đạo Sĩ.  

Đạo Sĩ dùng phương thuật, tế lễ, bùa chú, kinh kệ, thờ cúng, trị bệnh... như là những phép lạ thần thông và đưa ra những giáo lý về sinh mạng siêu hình như Tiên, Thần, Rồng (Long), Ma, Quỷ, Yêu... cũng như về thế giới siêu hình như Thiên Giới (có Thiên Đình), Địa Ngục... để dùng cho sự tôn thờ tín ngưỡng.  Từ những Đạo Sĩ này có Đạo Giáo và Đạo Sĩ nổi tiếng được biết đầu tiên trong lịch sử vào cuối đời nhà Hán là Trương Đạo Lăng, cháu 8 đời của Trương Lương.  

Đạo Giáo của các Đạo Sĩ lấy Tiên và Tu Tiên làm tôn chỉ căn bản, tôn Lão Tử là Tiên và là giáo chủ (gọi là Thái Thượng Lão Quân), và giáo pháp tu thành Tiên dựa trên Đạo Đức Kinh của Đạo Gia (từ triết gia Lão Tử sống vào thời Xuân Thu!).  Do đó nó có tên là Đạo Giáo hay Lão Giáo.

 

Từ đó cho đến khi Trung Quốc tiếp xúc với khoa học của Tây Phương vào thế kỷ 19; Đạo Giáo (Lão Giáo) là tín ngưỡng tôn thờ thịnh hành nhất trong xã hội của người Trung Hoa dưới chính thể quân chủ, song song với một tôn giáo khác là Phật Giáo.  Đạo Giáo cũng có tôn thờ một số Phật và Bồ Tát của Phật Giáo. 

Thực tế, trong thời quân chủ từ đời nhà Hán (thế kỷ thứ 3 tr CN) cho đến đầu thế kỷ 20 trước thời Dân Quốc (hơn 2000 năm); triết lý nhân sinh quan hữu hình của người Trung Hoa dựa theo Nho Giáo và tín ngưỡng tôn thờ siêu hình của người Trung Hoa dựa theo Đạo Giáo (Lão Giáo).  Tuy nhiên từ sự du nhập của khoa học Tây phương; Đạo Giáo trở thành "mê tín dị đoan"?

 

B. Câu chuyện “Tôn Thúc Ngao gặp Rắn”

 

Đoạn viết về “Tôn Thúc Ngao gặp Rắn” trong Truyện Tàu “Đông Châu Liệt Quốc” có nhiều ý nghĩa.

 

Đông Châu Liệt Quốc (bản dịch của Nguyễn Hoài Nam, nhà xuất bản Tín Đức Thư Xã) viết:

 

Một hôm Sở Trang Vương cùng Ngu Khâu bàn việc chính trị, đêm đã khuya mới trở về cung.  Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Sở Trang Vương:

- Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà đại vương về chậm như vậy?

Sở Trang Vương nói:

- Ta cùng với Ngu Khâu bàn việc, thành ra khuya quá mà không biết.

Phàn Cơ nói:

- Ngu Khâu là người thế nào?

Sở Trang Vương nói:

- Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta.

Phàn Cơ nói:

- Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất đã là người hiền?

Sở Trang Vương nói:

- Tại sao nàng biết Ngu Khâu không phải là người hiền?

Phàn Cơ nói:

- Ngu Khâu mỗi lần cùng với đại vương bàn việc chính trị thường đến đêm khuya mà đã lâu nay chưa thấy Ngu Khâu tiến cử người nào cả; thế định đem cái trí thức một mình mà khiến cho bao nhiêu người tài giỏi không được tiến dùng, sao gọi là người hiền.

 

Sở Trang Vương khen phải.  Ngày hôm sau đem lời của Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe.  Ngu Khâu thưa:

- Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều ấy, để nay tôi xin xét xem.

Ngu Khâu liền hỏi khắp các quan triều thần, xem có ai biết người hiền thì nói.  Đấu Sinh nói với Ngu Khâu:

- Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi là Vĩ Ngao là người hiền.  Vĩ Ngao vì tránh cái nạn Đấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch, người thật có tài làm tướng quốc.

Ngu Khâu vào tâu với Sở Trang Vương.  Sở Trang Vương nói:

- Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường, nếu nhà ngươi không nói, có lẽ ta quên đi mất!

Sở Trang Vương sai Ngu Khâu cùng với Đấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao. 

 

Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc, bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao.  Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn sang ở Mộng Trạch, làm ruộng kiếm ăn.  Một hôm Tôn Thúc Ngao vác cày đi ra đồng, thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu, giật mình kinh sợ mà nói:

- Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành, ai trông thấy cũng tất phải chết.  Vậy thì ta khó mà sống được!

Tôn Thúc Ngao lại nghĩ thầm trong lòng: Nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này có ai trông thấy lại thêm nguy hiểm cho người ta, chi bằng một mình ta đành chịu mà thôi.  Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy mới giơ cái cày đánh chết con rắn, chôn ở bờ ruộng, rồi trở về nhà khóc với Bà mẹ.  Mẹ hỏi cớ làm sao.  Tôn Thúc Ngao thưa:

- Con nghe ai mà trông thấy con rắn hai đầu thì tất phải chết, nay con trông thấy, con lo rằng con không sống mà nuôi mẹ được.

Bà mẹ nói:

- Bây giờ con rắn ở đâu?

Tôn Thúc Ngao nói:

- Con sợ người khác lại trông thấy nó nữa nên đã giết chết mà chôn đi rồi.

Bà mẹ nói:

- Người ta hễ có một niềm thiện trong lòng thì trời tất phù hộ cho.  Nay con trông thấy con rắn hai đầu, sợ di lụy đến người khác, giết mà chôn đi thế là còn hơn một niềm thiện nhiều lắm.  Con tất không chết mà lại được phước nữa.

Mấy hôm sau bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang Vương đến triệu Tôn Thúc Ngao.  Bà mẹ mới cười mà nói:

- Đấy là vì việc con chôn rắn mà được phước đó!

 

Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo bọn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở.  Sở Trang Vương cùng Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt một ngày, lấy làm bằng lòng lắm, mới nói với Tôn Thúc Ngao rằng:

- Các quan triều thần nước Sở ta ngày nay không ai có kiến thức bằng nhà ngươi cả.

Nói xong liền cho Tôn Thúc Ngao làm Lịnh Doãn.

Tôn Thúc Ngao chối từ mà nói:

- Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, đại vương đã vội giao quyền chính cho, e rằng người không phục.  Vậy tôi xin theo sau các quan đại phu.

Sở Trang Vương nói:

- Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

 

Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không được mới nhận làm chức Lịnh Doãn.  Tôn Thúc Ngao chỉnh đốn chính trị nước Sở, lập ra quân pháp, cho Ngu Khâu coi đạo Trung quân, Công tử Anh Tề coi đạo Tả quân, Công tử Trắc coi đạo Hữu quân, Khuất Đãng coi đạo Tả quảng, Dưỡng Do Cơ coi đạo Hữu quảng; hiệu lệnh rất nghiêm, nhân dân được yên ổn; lại đắp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng.  Dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức. Triều thần thấy Sở Trang Vương tin dùng Tôn Thúc Ngao thì lúc đầu không phục nhưng đến lúc thấy Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị hẳn hoi rành mạch, mới tấm tắc khen rằng:

- Nước Sở có phước được người hiền chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa làm Lịnh doãn khiến nước Sở được cường thịnh, nay có Tôn Thúc Ngao, khác nào như Tử Văn sống lại. 

 

Chú thích:

Thời Xuân Thu và Chiến Quốc thường dùng từ ngữ “Người Hiền” (Hiền Nhân) ngụ ý là người có tài đức trong việc giúp vua trị nước.  Chức quan Lịnh Doãn (Lệnh Doãn) của nước Sở như quan Tướng Quốc của các nước khác, quan đứng đầu trong triều đình (sau này là Tể tướng, Thừa tướng trong thời Quân chủ và Thủ tướng trong thời Cộng Hòa). 

Ý kiến của Phàn Cơ rất hay về “Hiền Nhân”: phải biết và làm cho có hiệu quả (như Tôn Thúc Ngao) chứ không chỉ nói và bàn mà thôi (như Ngu Khâu).

Ý kiến của bà mẹ của Tôn Thúc Ngao rất hay về “Thiện Nhân”: có bản tánh Thiện mà làm điều Thiện. Đây là căn bản "Tánh Bản Thiện" của Mạnh Tử trong Nho Giáo và cũng là Bản Tâm hay Phật Tánh của Phật Giáo Đại Thừa. 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài viết này là Trích đoạn trong bài “Con Rắn Trong Văn Hóa” (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com

_____________________________

CON RẮN TRONG NGÀNH Y VÀ NGÀNH DƯỢC

 

                                    Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Con Rắn được dùng trong biểu tượng của ngành Y và ngành Dược.

 

A. Biểu tượng của Ngành Y học  

 

*

Cây Gậy của Asclepius và The Caduceus, cả hai đều là biểu tượng liên hệ đến Ngành Y học nhưng chúng có nguồn gốc và ý nghĩa khác nhau.

- Cây Gậy của Asclepius (Rod of Asclepius)

Biểu hiệu của vị Thần Y học của Hy Lạp, Asclepius, Cây Gậy của Asclepius thường là hình cây gậy biểu hiệu (staff) với một con rắn quấn quanh nó.  Cây Gậy của Asclepius đã được dùng làm đại diện cho Y học (Medicine) từ năm 800 sau CN.  Hầu hết các Y học gia dùng nó như là biểu tượng của Y học. 

- Caduceus

Cây Gậy biểu hiệu của Hermes, vị Thần sứ giả của Hy Lạp, Caduceus thường có hình 2 con rắn quấn quanh cây gậy và hai cánh ở trên đầu.  Caduceus đã được dùng (một cách sai lầm từ căn bản) làm biểu tượng cho Y học được hơn một thế kỷ, mặc dù liên quan với Hermes, và vị thần này cũng liên quan đến những tên trộm.  Caduceus cũng liên hệ với thương mại.  

(Caduceus cũng có nghĩa là cây Gậy)


 

 

 

 

 

Từ sau 1850, Cục Quân Y của Lục Quân Hoa Kỳ và Cục Quân Y Hải Quân Hoa Kỳ dùng Caduceus trong khi đó Cục Quân Y của Không Quân Hoa Kỳ dùng Cây Gậy của Asclepius.

Hiệp Hội Y Học Hoa Kỳ (AMA) đã dùng Cây Gậy của Asclepius hơn một thế kỷ, và logo đương thời của nó từ 2005.  Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cũng dùng Cây Gậy của Asclepius.  

 

*

Asclepius là con của Thần Apollo và giữ vai trò của Apollo như là vị thần chữa lành bệnh trong các đền thờ Hy Lạp và La Mã (Greco-Roman pantheon).

 

Asclepius rất giỏi về Y học đến nỗi ông được Thần Artemis (em của Apollo) yêu cầu chữa cho Hippolytus, con của Theseus và Hippolyta, được sống lại.  Asclepius thành công trong việc này và khi thần Hades (Diêm vương) biết tin này thì kêu nài với thần Zeus (chúa tể của tất cả các vị Thần) là Asclepius đã cướp lấy những linh hồn người chết đáng lẽ phải xuống địa ngục của Hades.  

Thần Zeus dùng sét đánh chết Asclepius để chấm dứt việc này, mà giúp cho Hades.  Apollo rất tức giận nên ông giết những Cyclops (thiên lôi) giữ việc sét đánh.  Zeus tức giận nên trả đũa lại bằng cách bắt Apollo phải làm tôi tớ cho vua Admetus của Thessay trong một năm.  

Sau khi Apollo trở về núi Olympus, Zeus hồi sinh những Cyclops và Asclepius, biến Asclepius thành một vị thần. Theo người La Mã, Apollo yêu cầu Asclepius được cho vào một trong những vì sao, và được Zeus chấp nhận, nên Asclepius trở thành Thần của chùm sao Ophiucus, mang hình con rắn (serpent-bearer).

 

Asclepius được kể trong thi phẩm nổi danh của Homer, Iliad, là một y sĩ tài ba và là cha của 2 y sĩ người Hy Lạp.  Tuy nhiên “nhà chữa lành bệnh” (the healer) sau đó trở thành một anh hùng của thế giới cổ đại và sau đó trở thành một vị Thần.

 

Đạo tôn thờ (cult) Asclepius bắt đầu ở Thessaly nhưng trở thành phổ thông trong quần chúng của Hy Lạp cổ đại.  Tương truyền ông có khuynh hướng chữa lành người bệnh trong khi họ đang ngủ, do đó người ta thường ngủ trong những đền thờ Asclepius.  Người La Mã cũng tôn thờ vị Thần này như người Hy Lạp. 

Nhiều đền thờ được xây khắp Hy Lạp dâng hiến cho Asclepius.  Những người bị bệnh đến và ngủ đêm tại đền thờ Asclepius (Asclepion), và Asclepius hiện ra trong giấc chiêm bao của người bệnh (nam hoặc nữ) và cho biết cách chữa lành bệnh của họ.  Rồi khi họ thức dậy sẽ nói với các y sĩ của đền thờ phương thuốc chữa của Asclepius để được các y sĩ áp dụng.  Một điều đặc biệt là có những đàn rắn không có nọc độc, gọi là những con rắn của Asclepius (Asculapian snakes), bò trườn vòng quanh đền thờ để giúp cho sự lành bệnh.

 

*

Asclepius tự tạo nên một quyền lực chữa lành bệnh ngoài sức tưởng tượng cho nên cây gậy (rod) của ông trở thành nổi tiếng trong ngành y tế (health care).

 

Đây là câu chuyện tả lại huyền thoại chữa bệnh của Asclepius có liên quan đến cây gậy và con rắn. 

Asclepius được mời chữa một người tên là Glaucus.  Trong khi đang chữa bệnh, một con rắn trườn dọc lên theo cây gậy của ông, và Asclepius liền giết nó chết.  Một con rắn khác lại trườn ngang qua với thuốc (herb) trong miệng của nó.  Asclepius liền để thuốc này vào miệng con rắn chết và con rắn này sống lại.  Từ câu chuyện này chứng minh rằng Asclepius đã học được cách làm sống lại từ cái chết.  Dùng con rắn làm biểu tượng cho chữa lành bệnh thì có vẻ nghịch lý (paradoxical), vì trong thời gian đó bị rắn cắn là bảng án tử hình.  Nhưng Asclepius khám phá mới có thể chữa lành cả vết thương bị rắn cắn, và sau đó được coi như Thần của Ngành Y học (god of medicine). 

Con rắn trong thần thoại Hy Lạp là biểu tượng liên hệ với tái sinh (rebirth) và trẻ lại (rejuvenation).

{Asclepius = Asklepios (theo tiếng Hy Lạp)}

 

 

 

Có ba lý thuyết chính giải thích tại sao Cây Gậy của Asclepius có một con rắn quấn chung quanh nó.

Thứ nhất là con rắn biểu tượng rắn cắn, đó là một bệnh nặng nhất trong thời cổ đại (antiquity) và rất khó chữa lành.  Tuy nhiên, Asclepius có quyền lực chữ lành mọi bệnh kể cả bệnh bị rắn cắn (snake bite).

Thứ hai được gọi là “lý thuyết con trùng” (worm theory), dựa trên cách dùng để lấy con ký sinh trùng (parasitic worms) ra khỏi thân của người bệnh được tìm thấy ở trong Ebers Papyrus, một sách tài liệu y học của người Ai Cập xưa vào khoảng giữa thiên kỷ thứ nhì trước Công nguyên.

Để trị bệnh nhiễm trùng bởi một loại ký sinh trùng, một y sĩ cắt một vết ở ngoài da của bệnh nhân, ngay trước con đường đi của con trùng.  Đang khi con trùng bò ra khỏi vết cắt này, y sĩ dùng một que cây nhỏ (stick) để cho con trùng quấn vào đó mà kéo ra khỏi thân bệnh nhân.  Hình con ký sinh trùng quấn vào que cây này giống như Cây Gậy của Asclepius, một con rắn quấn quanh một que gậy.

  

Thật ra đó là cách chữa một bệnh của con ký sinh trùng Guinea, có tên là “Dracunculiasis”.

Dracunculiasis:

Nguyên gốc tiếng La tinh: draco (dragon = con rồng) + -cule (diminutive = nhỏ) + -iasis (condition of = tình trạng của).  Có nghĩa là “Tình trạng của Con Rồng nhỏ”.

 

Lý thuyết thứ ba dựa căn bản trên Kinh Thánh.  Trong Cựu Ước, Chúa Trời đã gửi một con rắn đến trừng phạt những người Do Thái nào dám chống lại ngài và Moses.  Khi những người này đã ăn năn, Chúa ra lệnh cho Moses dựng một cọc với một con rắn bằng đồng trên đó để cho tất cả những ai nhìn lên nó không bị chết vì bị rắn cắn.

 

B. Biểu Tượng của Ngành Dược Học

 

Biểu tượng của Ngành Dược Học có hình một Con Rắn quấn quanh một cái Chén.

 

Cái chén trong biểu tượng của ngành Dược là đại diện cho chén thuốc của nữ thần sức khỏe Hygieia. Nàng là một trong 5 người con của Asclepius và có nhiệm vụ gìn giữ đền thờ của cha mình. Tượng đài của Hygieia trong đền thờ có cầm một chiếc chén lớn và có một con rắn đang quấn quanh, hướng đầu xuống uống nước trong chén.  Dĩ nhiên, con Rắn là có liên quan đến Asclepius (như trong Ngành Y Học). 

Tương truyền, trong cái chén đó có chứa đựng những chất dịch được chiết xuất từ các loại cây cỏ. 

Cùng với hình ảnh con rắn quấn xung quanh, biểu tượng này nhanh chóng được Pháp công nhận vào năm 1796 và được hiệp hội Dược học Paris in lên đồng xu đúc.

Khi Pháp xâm chiếm các thuộc địa, nền Y Dược phương Tây này cũng được phổ biến. Do đó, Việt Nam cũng thừa nhận biểu tượng ngành Dược này. Các tiệm thuốc sử dụng bảng hiệu có in hình con rắn và cái ly như muốn thể hiện rằng nơi này có thể mua thuốc chữa bệnh.

Như vậy thường có câu “Rắn quấn gậy ngành y, rắn quấn ly ngành dược”!

 

Những biểu tượng khác của Ngành Dược Học:

Hình Chữ Thập Xanh

Hình ảnh quả Địa Cầu

Cối và Chày

Con Rắn quấn quanh cây trượng

Hai Con Rắn quấn quanh cây trượng

Con Rắn quấn quanh cây cọ

Chữ A cách điệu màu đỏ.

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết là trích đoạn của bài “Con Rắn Trong Văn Hóa” (Bs Phan Thượng Hải) đăng lần đầu trong phanthuonghai.com

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền 

______________________________________

  CHUYỆN THẦN THOẠI VỀ MẶT TRĂNG

 

                                         Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Những chuyện thần thoại về Trăng (Mặt Trăng) đều do Con người ở thế gian trên địa cầu đặt ra chứ không hề có thật.  Người Việt chúng ta thường biết những câu chuyện thần thoại tưởng tượng dựa trên Đạo Giáo từ người Trung Hoa.  

 

Trăng, Mặt Trăng {Tiếng Nôm} = Nguyệt {Hán ngữ}.

 

Con người ở thế gian (= Người Trung Hoa) nhìn lên Trăng (Mặt Trăng) thì thấy giống như hay có hình thể: 

      Cây Quế: có những vùng tranh tối tranh sáng gọi là Quế phách.

      Con Thiềm thừ (= Con Cóc có 3 chân): có những hố thiên thạch trên bề mặt của Mặt Trăng giống như hoa văn (= chữ Tàu) trên thân con Thiềm thừ.

      Con Thỏ: nhất là vào đêm Rằm.

PTH_mattrang_2.JPG

Từ những nhận thức này và tiền sử Trung Quốc về Hậu Nghệ bắn Mặt Trời, người Trung Hoa sáng tạo ra những câu chuyện thần thoại về Mặt Trăng (Trăng).  

 

Cung Quảng Hàn, Cung Quảng

 

Chuyện đầu tiên bắt đầu từ Hậu Nghệ tạo ra vợ của Hậu Nghệ là Hằng Nga.  

 

Theo Tiền Sử của Trung Quốc, triều đại của nhà Hạ là triều đại đầu tiên.  Vua Hạ Vũ lập ra triều đại nhà Hạ truyền ngôi cho con là vua Khải và Khải truyền cho Thái Khang đều cai trị người Hạ (sau này gọi là người Hoa Hạ).  Thủ lãnh của người Di là Hậu Nghệ đuổi Thái Khang đi và lập em của Thái Khang là Trọng Khang làm vua.  Sau khi Trọng Khang chết, Hậu Nghệ chiếm ngôi vua cai trị người Hạ và người Di.  Hậu Nghệ là một người xạ thủ giỏi thường đi săn bắn không lo triều chính nên Hậu Nghệ bị người thân tín là Hàn Tróc giết đi và cướp ngôi.  Sau này cháu nội của Trọng Khang là Thiếu Khang đánh bại Hàn Tróc và chiếm lại ngôi vua cho nhà Hạ.  Triều đại nhà Hạ từ Thái Khang cho đến Thiếu Khang trải qua 100 năm hỗn chiến mới khôi phục lại được. Lịch sử gọi là Thời "Thiếu Khang trung hưng".  Từ vua Thiếu Khang truyền qua nhiều đời vua cho đến vua Kiệt mới mất thiên hạ về triều đại nhà Thương.  Triều đại Nhà Hạ ước lượng từ thế kỷ 21 tr CN cho đến thế kỷ 16 tr CN. 

 

Như vậy Hậu Nghệ là nhà thiện xạ.  Tương truyền rằng lúc đầu Thế gian (địa cầu) bị 10 Mặt Trời chiếu nên quá nóng bị thiêu đốt.  Hậu Nghệ mới bắn rơi 9 Mặt Trời chỉ còn lại 1 Mặt Trời nên Thế gian mới tồn tại được nhờ khí hậu ôn hòa hơn nhiều.

Từ chuyện Hậu Nghệ có liên quan đến Mặt Trời, Con người mới tạo ra chuyện "Hằng Nga bôn nguyệt" (Bôn = trốn chồng.  Bôn Nguyệt = trốn chồng tới ở Mặt Trăng) có liên quan đến Mặt Trăng.   

 

Chuyện "Hằng Nga bôn nguyệt"

Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ, người đã bắn rơi 9 cái mặt trời là 9 con quạ lửa thiêu đốt trần gian (nên chỉ còn 1 cái mặt trời cho tới bây giờ).  Do đó Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu tặng cho thuốc trường sanh bất tử.  Hằng Nga lén trộm thuốc của chồng uống vào nên thân hình nhẹ nhõm bay lên trời và bay tuốt đến Mặt Trăng lạnh lẽo.  Hằng Nga làm chủ (hay được Ngọc Hoàng Thượng Đế cho) cung Quảng Hàn và có con Thỏ ngọc (= Ngọc Thố) giả thuốc trường sinh.  

 

Quảng = rộng lớn.  Hàn = lạnh lẽo.  Mặt Trăng rộng lớn và phải "lạnh" (= hàn) để đối lại với Mặt Trăng "nóng" (= nhiệt).  Đó là lý do có tên "Quảng Hàn" được Con người đặt ra. 

 

Như vậy vì có chuyện Chồng (là Hậu Nghệ) có liên quan đến Mặt Trời nên có chuyện Vợ (là Hằng Nga) có liên quan đến Mặt Trăng.

 

Câu chuyện "Hằng Nga bôn nguyệt" cũng có thêm Con Thỏ (Thố) vì Trăng nhìn giống như Con Thỏ và câu chuyện dùng "thuốc tiên trường sinh" để gắn Con Thỏ vào: Con Thỏ là Thỏ giả thuốc.  "Hằng Nga ăn cắp thuốc thì Con Thỏ giả thuốc"?

Để câu chuyện có vẻ "quý phái", Hằng Nga là Tiên và ở "Cung" hay "Cung điện" và Thỏ phải là "Thỏ Ngọc" (= Ngọc Thố) hay "Thỏ Trắng" (Bạch Thố). 

 

Từ đó:

      Trăng (Mặt Trăng) còn được gọi là Cung Trăng (Nguyệt được gọi là Nguyệt Cung hay Nguyệt Điện).

      Cung Quảng Hàn (= Cung Quảng) = cung Trăng = Nguyệt cung.  Ngụ ý là Mặt Trăng. 

      Hằng Nga còn được thi văn gọi là Thường Nga hay Chị Hằng.  Mặt Trăng cũng được gọi là Gương Nga, Bóng Nga như trong Truyện Kiều. 

      Thỏ hay Ngọc Thố (hay Bạch Thố) cũng đồng nghĩa với Mặt Trăng.  

 

Thơ nước Việt có ghi:

 

HẰNG NGA NGUYỆT

Từ ngày gặp được thuốc đan sa
Chiếm
Quảng Hàn cung làm cửa nhà
Lầu ngọc cao hòa thế giới
Mày ngài rạng khắp sơn hà.
Năm hồ những lấy làm song viết
Bốn bể đều thìn thấy nết na
Thượng đế tuy hay nghiêm cấm đoán
Có đêm lởm thởm đến phòng ta.

(Thi nhân đời Hồng Đức)

 

VẤN NGUYỆT 

Trải mấy thu nay vẫn hãy còn
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
Hỏi con
Bạch Thố đà bao tuổi?
Hỏi chị
Hằng Nga đã mấy con?
Đêm tối cớ sao soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng mấy nước non?

(Hồ Xuân Hương)

 

Cung Quế

 

Vì có Trăng nhìn giống như cây Quế nên có chuyện Ngô Cương đốn Cây Quế do Con người đặt ra.  Thật ra có 3 câu chuyện. 

1. Có Ngô Cương ở Mặt Trăng bị Ngọc Hoàng phạt là có phận sự phải đốn cây Quế ở cung Quảng Hàn.  Ngô Cương lười biếng, mỗi ngày chỉ đốn có một nửa.  Qua đến ngày sau thì cây Quế lại mọc lại như cũ.  Do đó Ngô Cương cứ đốn hoài mà cây Quế vẫn còn hoài và Ngô Cương phải cứ đốn hoài mỗi ngày.  

2. Có chuyện khác cho rằng cây Quế rất cao và to, Ngô Cương không thể nào đốn hết trong một ngày và ngày hôm sau cây Quế lại mọc lại như cũ.  Cây Quế này thường được tả là cây Quế màu đỏ và cao 500 trượng.

3. Một câu chuyện khác kể rõ hơn: Ngô Cương là người đất Tây Hà đời nhà Hán, học phép Tiên nhưng vì phạm lầm lỗi nên bị thiên đình phạt làm công việc chặt cây Quế ở cung Trăng; Ngô Cương chém được nhát nào thì nhát búa lại liền ngay lát đó chứ cây Quế không bị đứt.

 

Con người lại đặt thêm chuyện để gắn liền Ngô Cương với Hằng Nga:

Ngô Cương là thiên binh (= lính trời) gát ở Nam Thiên môn tình cờ gặp Hằng Nga vì thế trốn làm việc tới cung Quảng Hàn chơi một ngày. Ngọc Hoàng phạt phải làm lính ở cung Quảng Hàn luôn.  

 

Cung Thiềm

 

Vì Trăng nhìn giống như con Thiềm thừ (= Cóc ba chân) nên có Con người gọi Nguyệt Cung (= Cung Trăng) là Thiềm Cung và giới thiệu từ ngữ này nhờ Ngô Cương.  Đó là Chuyện hay Thành ngữ "Thiềm cung chiết quế".  Theo đó, Ngô Cương ban cành Quế cho ai ở trần gian thì người đó thi đậu, danh đề bảng vàng hoặc đặc biệt hơn nữa là đậu Trạng nguyên!

Có thuyết khác cho rằng: Hằng Nga ban đầu vốn xinh đẹp nhưng sau khi bay lên Mặt Trăng thì bị Trời phạt nên biến thành con Thiềm thừ xấu xí.

 

Như vậy "Chuyện Ngô Cương" của người Trung Hoa có 2 phần: liên quan tới Hằng Nga và liên quan với con Thiềm thừ.

Chuyện Cung Quảng và Hằng Nga cũng có liên quan đến con Thiềm thừ.

 

Thơ nước Việt có ghi: 

 

CÂY QUẾ TRONG TRĂNG

Ấy chẳng thiềm cung đan quế vay?
Thế gian ít kẻ biết mùi cay
Thu thanh bóng tỏ mười phần sáng
Hồ sạch hương đong mấy hộc đầy
Củi hát tư mùa
Ngô dõi búa (*)
Thuốc đâm một chén
thỏ vung chày
Từ khi mình nhẹ nên bay cánh
Chiếm được ngôi cao bốn bể hay.

(Thi nhân đời Hồng Đức)

 

(*) Chú thích: Ngô là Ngô Cương.


 

Cuội và Cây Đa

 

Sang Nước Việt, Ngô Cương được người Việt biến thành "Cuội, Chú Cuội hay Thằng Cuội" và Cây Quế thành ra Cây Đa.  Hình như theo người Việt thì Cuội chỉ ngồi dưới gốc cây Đa chứ không phải đốn cây Đa.

 

Thơ nước Việt có ghi:   

 

MUỐN LÀM THẰNG CUỘ

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)


 

Cung Nghê

 

Trăng còn có tên là Nghê Cung hay Cung Nghê là do sự tích của Đường Minh Hoàng lên Cung Trăng.  Có 2 tài liệu về sự tích này.

 

Theo truyền thuyết (sách Dị Văn Lục), nhân một đêm Trung Thu đang ngắm trăng vua Đường Minh Hoàng muốn lên cung Trăng chơi (Đường Minh Hoàng du nguyệt điện).  Đạo sĩ La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện) là người có phép Tiên mới biến một dãi lụa trắng thành một chiếc cầu đưa nhà vua lên cung Trăng.  Tại Nguyệt điện, Đường Minh Hoàng thấy các tiên nữ múa hát cảm thấy say mê mà quên về nhưng nhà Đạo sĩ La Công Viễn nhắc nên vua mới trở về trần thế.

Nhờ ghi nhớ nên Đường Minh Hoàng chế ra khúc "Nghê thường vũ y" để tập cung nữ múa hát.  Rồi cứ mỗi đêm Trung Thu sau đó Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ xiêm y rực rỡ uyển chuyển múa hát khúc Ngê thường để tưởng như đang sống ở cung Trăng (Nguyệt điện).

Truyền thuyết này có tính cách thần thoại.  

 

Sách Đường Thư chép:

Đường Minh Hoàng lên chơi nguyệt điện thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim xiêm y ngũ sắc múa hát bài "Tây Thiên điệu khúc", đến khi trở về trần chỉ còn nhớ mang máng.  Nhằm lúc có Tiết độ sứ đất Tây Lương là Trương Kính Thuật từ đó trở về triều đem 1 khúc hát Bà La Môn đến hiến cho Đường Minh Hoàng.  Vua mới truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê Thường Vũ Y".

Tài liệu này có phần đúng với thực tế hơn.

       Nghê là "cầu vồng" (tiếng miền Nam là "cái móng") do ánh nắng xuyên qua hơi nước trong mây mà phản chiếu thành bảy màu.  Sách Trung Hoa ngày xưa chỉ nhận định được có năm màu (ngũ sắc).

      Thường là "xiêm" để che hạ thân của người.

      Nghê Thường có nghĩa là xiêm có năm màu.

      Vũ Y là áo dệt bằng lông chim; hay có thể hiểu là kiểu áo theo hình cánh chim.

Ta có thể tưởng tượng rằng Nghê Thường vũ y là những vũ nữ mặc áo hình cánh chim còn quần thì phất phới ngũ sắc.

Tây Lương là ở phía cực Tây Bắc của Trung Quốc lúc bấy giờ giáp giới với Tây Vực (vùng Tân Cương bây giờ).  Tây Vực là con đường "Tơ lụa" (Silk road) mà người Trung Quốc sang Ấn Độ và các nước Trung Á.  Bà La Môn là người Ấn Độ.  Như vậy khúc hát Bà La Môn, tiền thân của khúc Nghê Thường Vũ Y, là của người Ấn Độ.

 

Thơ nước Việt có ghi:

 

VỊNH HẰNG NGA

Hỡi chị Hằng Nga náu Quảng Hàn
Bốn mùa trăng gió mấy giang san
Áo tiên tuy nhuộm màu Vương Mẫu
Hương tục còn nồng lửa Hậu Lang
Mắt phượng nhớ say mùi ngọc thố

Cung Nghê sao thẹn khúc cầm loan
Nẻo không duyên nợ người cùng thế
Xin chớ dầm mình nước hợp hoan.

(Hồ Xuân Hương)

*

Từ những Chuyện như trên có những từ ngữ dùng cho Trăng (Mặt Trăng) hay Nguyệt.

{Hán ngữ} - {Việt ngữ}

Nguyệt  (Trăng, Mặt Trăng, Gương Trăng)

Nguyệt Cung  (Cung Trăng)

Nguyệt Điện

Quảng Hàn Cung, Quảng Cung (Cung Quảng Hàn, Cung Quảng)

Quế Cung   (Cung Quế)

Thiềm Cung   (Cung Thiềm)

Nghê Cung     (Cung Nghê)

Thố, Ngọc Thố, Bạch Thố  (Thỏ, Thỏ Ngọc, Thỏ Trắng

Hằng Nga, Thường Nga  (Chị Hằng)     Gương Nga, Bóng Nga

Chiếc Bích và Vành Cung

 

Thơ của Hồ Xuân Hương có 2 câu nhắc thêm sự tích liên quan tới Mặt Trăng:

 

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

 

Chiếc bích = chiếc ngọc bích hình tròn có lỗ ở giữa.  Mặt Trăng "Tròn" (trong những Ngày Rằm) còn được gọi là Bích Nguyệt.

Đường cong của Mặt Trăng thường được ví như tráng sĩ giương cây cung.  Do đó Nguyệt Cung hay Cung Trăng là từ "Cung Quảng Hàn" nhưng từ ngữ "Cung" có thể cũng có từ sự tích này. 

 

Đây là nguyên văn bài thơ có 2 câu thơ như trên:

 

HỎI TRĂNG 

Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng
quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in
chiếc bích khuôn còn méo
Ngoài khép đôi
cung cánh vẫn khòm
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc
Ngứa gan
thằng Cuội đứng lom khom
Hỡi người
bẻ quế rằng ai đó
Đó có
Hằng Nga ghé mắt dòm.

(Hồ Xuân Hương)

 

 Như vậy, Con người ở thế gian nhìn lên Mặt Trăng (Trăng) thì còn thấy giống như hình thể:

       1. Chiếc bích (= chiếc ngọc bích hình tròn có lỗ ở giữa) nhất là trong những Ngày Rằm.  Mặt Trăng "Tròn" (trong những Ngày Rằm) còn được gọi là Bích Nguyệt.

       2. Vành cung của cây cung đang được xạ thủ giương lên. 

Tổng kết

 

Đây là bài thơ kết luận những danh tánh của Trăng (Mặt Trăng) từ những câu chuyện thần thoại của người Trung Hoa và người Việt.

 

TRĂNG 

Mặt Trăng thần thoại thú văn chương

Chiếc bích Trăng rằm Ngọc thố trương

Cung Quế liên quan hình Quế phách

Cung Nghê liên hệ vũ Nghê thường

Cung Thiềm con cóc ngồi ba cẳng

Cung Quảng Hằng Nga ẩn một phương

Trăng khuyết vành cung phô Nguyệt ảnh 

Cây Đa thằng Cuội gợi niềm thương. 

(Phan Thượng Hải)

10/2/23 

 

*

Theo tôn thờ của Đạo Giáo, trên Trăng còn có thêm một Tiên nữ khác là Tố Nga, ngoài Hẳng Nga và Trăng là một tinh tú của Thái Âm Tinh Quân.

 

Tây Du Ký của Đạo Giáo Trung Hoa viết:

Khi ấy Hộ Quốc Thiên vương nghe kêu, liền dẫn Tứ Ngươn soái (Bàng Ngươn soái, Lưu Ngươn soái, Tuân Ngươn soái, Tất Ngươn soái) đem binh cản lại.  Con tinh đi tới không đặng, tức mình trở lại đánh liều mạng với Hành Giả.  Tôn Hành Giả coi lại thấy đoản côn của con yêu, một đầu lớn một đầu nhỏ, coi như cái chày đâm thuốc.  Con tinh nghiến răng trẹo trẹo mà nói rằng: "Ngươi không biết binh khí của ta, hãy nghe cho rõ, vốn nó bằng ngọc, ở tại thiềm cung, quết thuốc trường sanh; không biết mấy ngàn năm mà kể, có sợ chi thiết bảng của ngươi, đánh nhằm một chày thì hồn về chín suối".  

Còn Tôn Hành Giả ráng sức bình sanh, đánh con yêu ấy trở tay không kịp, nó và đánh và thối lui cho tới trời tối.  Xảy nghe trên mây có tiếng kêu lớn: "Đại Thánh khoan đánh đã".  Tôn Hành Giả ngó ngoái lên, thấy Thái Âm Tinh Quân (là Nguyệt Quang Hoàng hậu, Bà Trăng) đi với Hằng Nga Tiên nữ, đã bay xuống trước mặt.  Thái Âm Tinh Quân nói: "Con yêu đánh với ngươi đó, là con Ngọc Thố của ta, nó thuở nay ở tại cung Quảng Hàn đâm thuốc huyền sương là trường sanh dược.  Bởi nó ăn cắp chìa khóa mở cửa cung mà trốn, đã một năm nay.  Ta đánh tay biết bữa nay nó bị nạn mà chết, nên xuống đây cứu nó.  Xin Đại Thánh vị mặt ta, tha nó làm ơn".  Tôn hành Giả nói rằng: "Bởi bà không rõ, ngỡ nó là hiền, chớ nó xuống phàm bắt Công chúa nước Thiên Trúc mà hưởng phú quí, nay nó gieo cầu nhằm thầy tôi, quyết chấm làm phò mã, thiệt là hai ba án không thể thứ tay".  Thái Âm Tinh Quân nói: "Đại Thánh không rõ chớ Công chúa không phải người phàm, nguyên trước là Tố Nga ở tại cung Quảng Hàn; cách 20 năm trước có đánh Ngọc Thố một vã.  Sau lại sanh tâm muốn việc trần tục, mới lén xuống đầu thai làm Công chúa nước Thiên Trúc.  Còn Ngọc Thố oán Tố Nga vã nó một cái, nên sau lén xuống báo cừu, mới bắt Tố Nga quăng ra ngoài đồng cho bỏ ghét, rồi hiện hình ở thế trong cung, tội ấy đáng giết.  Song sanh sự chấm Đường tăng làm phò mã, tội ấy không dung.  Tuy vậy mà chưa động chạm tới Đường tăng, xin Đại Thánh vị tình ta mà tha tội cho nó, ta sẽ đem nó về cung Quảng Hàn.

Thái Âm Tinh Quân liền chỉ con yêu mà nạt rằng: "Sao ngươi chưa hiện nguyên hình, còn đợi chừng nào nữa".  Con yêu ấy liền nhào xuống, hiện nguyên hình là con thỏ ngọc, lông trắng như sương.  Thái Âm Tinh Quân lấy dây cột cổ nó mà dắt.

 

Như vậy Cung Quảng Hàn của Trăng có Thái Âm Tinh Quân là chủ; có 2 Tiên nữ là Hằng Nga và Tố Nga; và có Ngọc Thố (con Thỏ ngọc) có lông màu trắng với phận sự giả thuốc trường sanh.   


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài này đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Tôn Giáo và Triết Học. 

 

Tài liệu tham khảo:

1) Google Wikipedia

2) Google Thi Viện Net

3) Tây Du Ký


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

  THƠ VÀ SỬ VIỆT - ANH HÙNG VIỄN DU

 

                                        Bs Phan Thượng Hải biên soạn


Thơ và Sử Việt có ghi lại 2 vị anh hùng viễn du vì đất nước.  Đó là ông Bùi Viện và ông Nguyễn Quang Diêu.


Bùi Viện

 

Vua Tự Đức và triều đình lại dùng ông Bùi Viện (1839-1878) đi sang Mỹ để xin cầu viện.  Ông Bùi Viện là người Nam Định, đậu Cử Nhân năm 1868, nguyên là một người giỏi về hải quân.  Ông vừa xây dựng xong cảng Hải Phòng và lập Tuần Dương Quân gồm có 200 chiến thuyền và 2000 (hải) quân.

 

Theo "Đất Việt Trời Nam" của Thái Văn Kiểm, ông Bùi Viện được vua Tự Đức cử ra ngoại quốc để tìm các cường quốc khác cầu cứu.  

Năm 1873, ông Bùi Viện đi tàu tới Hương Cảng giao du với các yếu nhân Trung Quốc.  Ông sáng suốt thấy là chỉ có nước Hoa Kỳ là có thể nhờ được và không hy vọng vào các nước Âu Châu (đều có chính sách thuộc địa).  

PTH_BuiVien_Grant.JPG

Được sự chỉ dẫn và giúp đỡ của Lãnh sự Hoa Kỳ tại Hương Cảng (Hongkong), ông Bùi Viện đáp tàu đi Hoành Tân (Yokohama) rồi vượt Thái Bình Dương sang Cựu Kim Sơn (San Francisco).  Từ Cựu Kim Sơn theo đường xe lửa, ông tới thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington DC).  Sau một thời gian chờ đợi, ông Bùi Viện gặp được Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Ulysse S. Grant.  Tổng thống Grant từ chối không giúp được (về quân sự hay ngoại giao) vì ông Bùi Viện không có quốc thư chính thức của nước Việt Nam.  Ông Bùi Viện đành theo đường cũ trở về nước Việt.  

 

Khi trở về qua Hoành Tân, ông gặp người bạn cũ là quan Lãnh sự Hoa Kỳ tại Hương Cảng năm trước.  Ông có làm thơ từ giả xướng họa với mẹ của ông nầy vì bà là một người gốc Tàu.

 

(Xướng)

Ly chước Hoành Tân cửu nguyệt thu        Tháng chín Hoành Tân nhấp chén chơi

Nam vân hồi thủ chính du du                     Trời Nam ngoảnh lại dạ khôn nguôi

Ba đào mộng tỉnh sinh tân hứng                 Ba đào hứng mới tan hồn mộng

Thủy thổ hoài thâm ức cựu du                    Đất nước tình xưa tít dậm khơi

Ca vũ tăng đài kim hải quốc                        Lầu các coi chừng nay đổi mới

Phồn hoa nhân vật cổ bồng châu                 Bồng hồ riêng thú đã bao đời

Vi hoan tự tích hoàn vi biệt                         Vui vầy ngại nỗi khi chia rẽ

Tiên lữ hà niên cộng phiếm chu.                 Thuyền đó bây giờ lại thả bơi.

(Bùi Viện)                                                    (Phan Trần Chúc dịch)

 

(Họa)

Hoành kiều liễu sắc tiệm ly thu                   Sắc liễu cầu Hoành sắp hết thu (*)

Ác thủ phân trình vạn lý du                         Cầm tay chia ngả dậm xa sầu

Cựu ước Hoa thành ưng viễn phỏng            Hoa thành ước cũ nên thăm hỏi (*)

Kỳ phùng tiên đảo cánh huề du.                  Tiên đảo tình nay hết bạn bầu

Nguyệt lương khách ý phi tam nhật.            Ý khách vẩn vơ từ mấy độ

Hồ hải quân tâm hữu tứ châu.                      Lòng người man mác đã bao lâu

Liệu đắc minh triêu tương ức xứ                  Sáng mai nhớ chỗ xa nhau nhỉ

Trùng dương vân thủy các cô chu.               Riêng lá thuyền con vượt bể sâu.

(Mẹ của quan Lãnh sự)                                 (Phan Trần Chúc dịch)

 

(*) Chú thích:

Cầu Hoành là cầu ở Hoành Tân (Yokohama) của Nhật Bản. 

Hoa thành là Hoa Thịnh Đốn (Washington DC), thủ đô của Hoa Kỳ.


 

Có thuyết cho rằng ông Bùi Viện đi lần thứ nhì (cuối năm 1875) với quốc thư chính thức của vua Tự Đức và triều đình nhưng bấy giờ Mỹ lại thân với Pháp nên lại bị từ chối nên ông phải trở về nước (1877). 

 

Ông Bùi Viện cư tang mẹ và qua đời vào năm 1878.  Vua Tự Đức có lời khen

Trẫm ư tử, vị hữu thân ân nghĩa.  Tử nãi vị quốc an, nãi bảo gia an.  Thâm đồ viễn lự, quỷ thần đương diệc giám chi.

Dịch: 

Trẫm với người chưa có ân nghĩa gì.  Mà (người) đã coi việc nước như việc nhà.  Thân không quản xa xôi lo lắng, quỷ thần ắt cũng chứng giám cho vậy.

 

Năm 1873 là năm ông Jules Verne xuất bản “80 ngày vòng quanh thế giới”.  Ông Bùi Viện vừa đi vừa về thì cũng “vòng quanh thế giới” rồi, nhứt là băng qua Thái Bình Dương và đi xuyên qua nước Mỹ từ Tây sang Đông.  Và có thể ông Bùi Viện đã có tới 2 chuyến đi (1873 và 1875).

 

Qua những biến cố lịch sử, vua Tự Đức tự thán trước tình thế của đất nước

 

ĐÊM ĐÔNG TRÊN SÔNG HƯƠNG

Dạo cảnh đêm đông gió rét vừa

Sông Hương làn sóng gợn lưa thưa

Thuyền êm gió thoảng sao vừa sáng

Ai thấu tâm can của vị vua

Xã tắc lòng ta đau khổ mãi

Ví chăng tìm được kẻ tài ba

Tay chèo lái giỏi con thuyền vững

Thanh thản qua sông ắt dễ mà.

(Vua Tự Đức / Ưng Bình Thúc Giạ Thị dịch)


 

Nguyễn Quang Diêu

 

Phong trào Đông Du của ông Phan Bội Châu rất được người Nam Kỳ hưởng ứng vì năm 1904, ông Phan Bội Châu có đến Nam Kỳ vận động trước khi xuất dương sang Nhật.  

 

Ông Nguyễn Thần Hiến (1857-1914) là người Hà Tiên nhưng sống ở Cần Thơ.  Ông đem hết tài sản trong nhà ra ủng hộ (20,000 đồng lúc đó vào khoảng mất trăm cây vàng bây giờ) lập “Quỹ Khuyến Du Học Hội".  Bị Pháp tìm bắt, ông phải trốn sang Xiêm (1908) rồi đến năm 1910 sang Tàu gia nhập VN Quang Phục Hội làm Trưởng Chi bộ Nam Kỳ.  Ông Nguyễn Thần Hiến bị bắt ở Hương Cảng (1913) giải về Hà Nội (1914) sắp phải đày đi French Guiana (Nam Mỹ) nhưng ông tuyệt thực và chết trong tù Hỏa Lò ở Hà Nội (1914).  

Bạn tù là ông Nguyễn Quang Diêu có bài thơ tiếc:

 

NGUYỄN THẦN HIẾN

Bấy lâu bay bổng cánh chim hồng

Lạc lối giờ ra phải máy cung

Chín suối có thiêng hồn tổ quốc

Trăm năm còn tạc gánh tang bồng

Đổi dời nghĩ gớm câu dâu bể

Thổ lộ cùng ai chuyện núi sông

Thôi để làm gương cho sắp bé

Ngàn năm trong nước dấu anh hùng.

(Nguyễn Quang Diêu)

 

Ông Nguyễn Quang Diêu (1880-1936) là người Cao Lãnh.  Năm 1913, ông cùng một số người Nam Kỳ sang Hương Cảng để gia nhập cách mạng theo ông Phan Bội Châu và ông Nguyễn Thần Hiến nhưng chẳng may bị Pháp bắt cùng lúc với ông Nguyễn Thần Hiến ở Hương Cảng và giải về Hà Nội.  

PTH_NgQDieu.JPG

Sau đó ông Nguyễn Quang Diêu bị đày đi French Guiana (1914).  Bị giải lên tàu ở Hà Nội, ông và các bạn tù Việt Nam qua Ấn Độ Dương, kênh Suez và Địa Trung Hải tới Marseille.  Sau 1 thời gian ngắn bị tạm giam ở Marseille, ông Nguyễn Quang Diêu và các bạn lại bị giải lên tàu xuyên qua Đại Tây Dương tới French Guiana (1914). 

Năm 1917, ông Nguyễn Quang Diêu cùng 2 bạn là ông Đinh Hữu Thuật và ông Lý Liễu vượt ngục trốn sang Trinidad (Trung Mỹ).  Papillon Henri Charrière phải mất 11 năm mới trốn khỏi French Guiana (1941) trong khi đó ông Nguyễn Quang Diêu chỉ cần 3 năm.

Sau 3 năm sống ở Trinidad, vào năm 1920, ông Nguyễn Quang Diêu lên Washington DC đi tàu của lái buôn Trung Quốc vượt biển tới Hương Cảng (Hongkong).  Chuyến đi nầy qua kênh đào Panama và Thái Bình Dương.  

Từ khi bị bắt ở Hương Cảng (1913) cho tới khi trở lại Hương Cảng (1920) ông Nguyễn Quang Diêu đã đi vòng quanh thế giới, và chắc chắn là người Việt đầu tiên hoàn thành công trình nầy.  Jules Verne tả chuyện đi vòng quanh thế giới trong 80 ngày nhưng ông Nguyễn Quang Diêu đi mất 8 năm và đi ngược đường với câu chuyện của Jules Verne. 

 

Từ Hương Cảng (1920), ông Nguyễn Quang Diêu tới Quảng Châu tìm ông Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại hầu Cường Để nhưng chỉ gặp được ông Nguyễn Hải Thần.  Do đó, ông tới sống ở Tứ Xuyên.  Năm 1926, ông Nguyễn Quang Diêu trốn về Nam Kỳ, đổi tên là Trần Văn Vẹn, tiếp tục đi khắp nơi bí mật hoạt động chống Pháp cho đến khi mất vì bệnh ở Tân An (1936).  

 

Cuộc đời hy sinh vì cách mạng của ông Nguyễn Quang Diêu là một thiên hùng ca.  Ông lại là một thi sĩ đại tài đã để lại những bài thơ tuyệt tác.

 

Tinh thần ái quốc trước khi sang Trung Quốc:

 

TỰ THUẬT

Nghĩ mình mang lấy tiếng nam nhi

Cái nợ cung dâu gánh nặng trì

Tuổi tác đã vừa ba chục chẵn

Công danh chưa có ít nhiều chi!

Rừng cao yến đổ yên nhờ chỗ

Gió thuận hồng mong gặp gỡ khi

Xem khắp thế tình rồi nghĩ nghị

Muốn noi Thánh trước cỡi bè đi. (*)

(Nguyễn Quang Diêu) 1910

 

(*) Chú thích: 

Tương truyền Tổ Thiền Tông là Bồ Đề Đạt Ma cỡi bè đi đường biển từ Ấn Độ tới Trung Quốc.  (Chuyện nầy được truyền bá ở Nam Kỳ trong thời Pháp Thuộc).

 

Khi xuất dương đi Trung Quốc theo cách mạng không kịp giã từ vợ, ông viết bài thơ nhờ bạn chuyển cho vợ:

 

GIÃ VỢ ĐI LÀM CÁCH MẠNG

Sông cũng khi khô, đá cũng mòn

Cùng ai tạc một tấm lòng son

Trăm năm ngồi đứng trong trời đất

Một kiếp thề ghi với nước non

Hương hỏa trước mong duyên mãi mãi (*)

Tang bồng nay há nợ con con (*)

Ai ơi ! hãy nếm mùi ly biệt

Có nếm rồi ra mới biết ngon!

(Nguyễn Quang Diêu) 1913

 

(*) Chú thích

Hương hỏa: do câu "Tam sinh hương hỏa", dùng để chỉ việc nhơn duyên có con cháu nối dõi.  Sách Quỳnh Ngọc Chú chép: có người con trai tên là Tỉnh Lang chiêm bao thấy đi chơi non Bồng, gặp một nhà sư tụng niệm, trước mặt có hương thắp khói bay (Hương hỏa) nên hỏi; nhà sư trả lời "khi cắm hương khấn nguyện, hương còn cháy mà đã sinh ra 3 kiếp người rồi (Tam sinh).

Tang bồng: (Cái cung bằng) cây dâu, (cái tên bằng) cỏ bồng.  Nói đủ câu là "Tang bồng hồ thỉ".  Tục lệ người Tàu xưa khi sanh con trai thì dùng cung bằng cây dâu và tên bằng cỏ bồng mà bắn ra 4 phương và trên trời dưới đất để cầu cho đứa bé lớn lên được thỏa chí khí dọc ngang khắp sông hồ.   


 

Những bài thơ lúc bị tù đày:

 

TẾT TÂY TRONG ĐỀ LAO

Vừa khỏi Du dê đến Tết Tây (*)

Gớm ghê máy tạo lẹ làng xây

Nom ra thành phố cây cờ phất

Ngảnh lại non sông nước mắt đầy

Vui sướng thiếu gì ai nấy đó

Đắng cay chỉ có lũ mình đây!

Rau xanh vài dĩa cơm vài bát

Cũng gọi là vui cái tiệc nầy.

(Nguyễn Quang Diêu) 1914

 

(*) Chú thích:

Tết Tây đầu năm 1914 ở nhà ngục Hỏa lò, Hà Nội.  Du dê = (tháng) Juillet, ý nói ngày lễ Độc lập của Pháp (14 Juillet)


 

BỊ GIAM Ở MARSEILLE CẢM TÁC

Chẳng biết rằng mình có tội chi

Tội chi nào có, có nao gì!

Phép thần công lý đành không hiệu

Luật nước văn minh gẫm cũng kỳ

Nếm mật nằm gai đành tạm lúc

Sổ lồng tháo cũi hẳn chờ khi

Làm sao cũng chẳng làm sao vậy

Thương nước gan ông nó đã lỳ.

(Nguyễn Quang Diêu) 1914

 

CẢM TÁC KHI ĐI ĐÀY ĐẾN CAI DANH (*)

Bấy chầy mong mỏi xứ Cai Danh

Phong cảnh xem qua bắt động tình

Bể rộng mênh mông dòng nước biếc

Nội bằng mờ mịt mạn rừng xanh

Dã man thảm hại cho người đó

Tân khổ nài bao cái lũ mình!

Tuyệt chủng rõ ràng gương dưới mắt

Trông người, ta lại ngẫm mà kinh.

(Nguyễn Quang Diêu) 1914

 

(*) Chú thích: 

Guiana có 3 phần: thuộc Pháp, Anh và Hà Lan.  Ông Nguyễn Quang Diêu bị đày ở Guiana thuộc Pháp.  Thị trấn của Guyenne (French Guiana) là Cayenne, đọc âm tiếng Việt thành ra Cai Danh.

 

Tương truyền bài dưới đây (gồm 10 bài theo thể Liên Hườn) làm ở Quảng Châu sau khi từ Guiana trở về (1920) và ông Nguyễn Hải Thần có họa lại nhưng bài họa bị thất lạc không tìm được.


 

SẦU NON NƯỚC

 

Hỏi tôi buồn những sự gì đây

Mượn rượu làm khuây cũng chẳng khuây?

Mắt mãi chứa chan cơ hội trước

Lòng hằng chua xót nước non nầy

Hồn khôn vấn vít thân còn dở

Phách dại mơ màng kiếp sống say (1)

Bĩ thái then trời đâu dễ chắc (2)

Lẽ nào có rủi lại không may.

 

Không may sá quản chút thân này

Thượng Đế ngồi cao lẽ cũng hay!

Đường lắm chông gai chơn ngại bước

Trời chưa mưa gió cánh không bay

Tấm lòng hồ thỉ còn mong mãi (3)

Món nợ san hà muốn trả ngay

Vẫn tính vẫy vùng cho phỉ chí

Ngặt vì còn thiếu cả chân tay.

 

Chân tay thiếu cả liệu sao mà

Biết ngỏ cùng ai tâm sự ta?

Tủi phận vẩn vơ hùm lạc núi

Xót thân dật bạ chó không nhà (4)

Bệnh nghèo vắng thấy tay trừ quỉ

Cơn ngặt ầm nghe tiếng nhát ma!

Mùi có nếm rồi, rồi mới biết

Càng cay đắng lắm chí càng già.

 

Chí càng già dặn lúc truân chuyên

Có đẩy xô gì chẳng đổ nghiêng

Dầu tớ chạy nam dầu chạy bắc

Mặc ai rằng nghịch mặc rằng điên!

Rừng nhiều beo hạm tay không súng

Đường lắm tàu xe túi chẳng tiền

Mưa nắng chi chi đâu dám nại

Ấy là trách nhiệm giống Rồng Tiên.

 

Giống Rồng Tiên trước kém gì ai

Mày mặt giờ ra thẹn với đời

Toan cắp Thái Sơn sang bể cả 

Rắp đem tinh vệ lấp miền khơi (5)

Vai hằng gánh nặng thù non nước

Lòng mãi vương mang nghĩa đất trời

Thành bại lẽ thường đâu sá quản

Gọi là trả chút nợ làm trai.

 

Làm trai nay gặp hội tân trào

Ngồi đấy khoanh tay nỡ bụng nào!

Ách thảm nặng quằn vai nghĩa liệt

Lửa thù đốt cháy ruột anh hào

Trông về non nước lòng thêm bận

Đoái lại mày râu tuổi đã cao

Thời đại thế mà dân tộc thế

Không cùng khóc ngất lại cười nhào. (6)

 

Cười nhào những đứa giả văn minh

Mượn lối thương dân tính lợi mình

Gạt chúng khua rầm mồm nhiệt huyết

Dối đời lơ láo mắt vô tình

Bộ tuồng công đức trông ra dáng

Cái lốt nô nhan lộ cả hình (7)

Huyết tánh con người ai lại chẳng

Dại gì không tưởng đến sanh linh.

 

Sanh linh rủi gặp lúc phong trần (8)

Nước chẳng ra gì lựa đến thân!

Ngoài cuộc điên ba trông vắng bặt (9)

Trong vòng nô lệ đứng chần ngần

Sóng tràn chán mắt làng phi cựu (10)

Sấm nổ ầm tai tiếng cách tân (11)

Ai cũng anh em Hồng Lạc cả

Ai ơi phải biết phận làm dân!

 

Phận làm dân tộc nước Nam ta

Hơn bốn nghìn năm nối nghiệp nhà

Mở rộng gian san cho cháu chắt

Hao bao huyết hãn của ông bà (12)

Máu thù nô lệ sôi lòng trẻ

Cuộc biến tang thương chán mắt già (13)

Tình cảnh thế nầy không thể chịu

Bút linh đành mượn đánh đàn ma.

 

Đàn ma hút cả máu dân gầy

Bảy tám mươi năm trải đến rày

Mưa gió Mỹ Âu mòi đã trổ

Anh em Hồng Lạc giấc còn say!

Biển trần chưa định thân chìm nổi (14)

Cuộc biến còn nhiều lúc rủi may

Nỗi nước nỗi nhà còn lắm nỗi

Hỏi tôi buồn những sự gì đây?

 

(Nguyễn Quang Diêu) 1920

 

Chú thích:

(1) Sống say: do câu "Túy sinh mộng tử" (Sống giữa cơn say, chết trong chiêm bao, trong mộng mị)

(2) Bĩ thái = suy và thịnh.  Then trời: ý nói "cơ trời", có khi "máy trời"

(3) Hồ thỉ: từ câu "Tang bồng hồ thỉ", sự tích như "Tang bồng".

(4) Dật bạ = trôi nổi lông bông tạm bợ không chắc vào đâu.  Tiếng thông dụng ở Nam kỳ vào thời đó.  Đó là chữ đôi: Dật = thất lạc; Bạ đi đôi với Dật, không có nghĩa gì hết.

(5) Tân trào = Trào lưu mới

(5) Tinh vệ: tên một loại chim nhỏ ở ngoài biển.  Tục truyền con gái vua Viêm Đế vì chết chìm nên căm tức hóa thành chim ngậm đá để lấp biển.  Nghĩa bóng: người có một mối thù thâm sâu, quyết trả cho được.

(6) Cười nhào = cười dữ lắm đến lộn nhào người ra

(7) Nô nhan = mặt (người) đày tớ.  Do câu "Nô nhan tỳ tất" (Mặt đày tớ, gối con hầu).  Ngụ ý khinh khi.

(8) Sanh linh = con người

(9) Điên ba = sóng dữ.  Có bản chép "phong ba" (sóng gió)

(10) Cách  cựu = trái với "cựu"; không thủ cựu (=không giữ cái cũ)

(11) Cách tân = làm ra cho mới

(12) Huyết hãn = máu và mồ hôi

(13) Tang thương: do câu "Thương hải biến vi tang điền" (Bể xanh hóa thành ruộng dâu); ý nói cuộc thay đổi lớn.  Từ ngữ "Bể dâu" cũng cùng một nghĩa.

(14) Biển trần = cõi trần thế rộng như biển cả


 

Năm 1926, ông Nguyễn Quang Diêu đến viếng mộ của ông Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương và có làm nhiều bài thơ, nay chí còn truyền lại 1 bài:

 

HOÀNG HOA CƯƠNG (*)

Mồ bảy mươi hai liệt sĩ đây

Hoàng Hoa Cương hẹn đã bao ngày

Liễn nêu dũng cảm đời roi dấu

Bia tạc anh hùng địch khiếp oai

Ngắm cảnh riêng mừng non nước đấy

Trông gương như đốt ruột gan nầy

Kèn khi khởi nghĩa dường nghe giục

Gánh nợ quê hương nặng lại đầy

(Nguyễn Quang Diêu) 1926

 

(*) Chú thích:

Hoàng Hoa Cương (ngọn đồi Hoàng Hoa) là nơi dành chôn 72 liệt sĩ Quốc Dân đảng Trung Hoa tử trận trong cuộc khởi nghĩa ở Quảng Châu ngày 29-3-1911 (trước cách mạng Tân Hợi tháng 10, 1911).  Sau khi Liệt sĩ Phạm Hồng Thái chết ở sông Tây giang, Quảng Châu; Tổng đốc Hồ Hán Dân cho cải táng từ chân đồi Bạch Vân về Hoàng Hoa Cương (tháng 3, 1925).


 

Những bài thơ sau khi về nước cho đến khi qua đời (1926-1936).  Ông Nguyễn Quang Diêu phải hoạt động bí mật, trốn tránh chính quyền thuộc địa:

 

KHÔNG NHÀ KHÔNG NƯỚC

Chẳng phải tiên cũng chẳng phải thần

Không nhà  không nước khổng ra thân

Trời cao lồng lộng ê da óc

Đất rộng mênh mông sợ sẩy chân

Tím ruột bầm gan nhìn võ trụ

Châu mày sốt mắt ngó đay cân

Thôi liều nhắm mắt đưa chơn vậy

Một kiếp phù sinh dễ mấy lần.

(Nguyễn Quang Diêu)

 

THƯƠNG ... TRÁCH

Thương ai ai nỡ chẳng thương mình

Tưởng lúc gian truân chán thế tình

Nhớ đến thề lòng non với nước

Trông sao bền dạ sắt cùng đinh

Đợi cơn mây kịt trời dông dữ

Chờ hội trời nghiêng đất hết chinh

Than phận thuyền con mà bể cả

Trách vì chưa phỉ chí bình sinh.

(Nguyễn Quang Diêu)

 

KHÔNG NHÀ

Thiên hạ bao nhiêu bợm chẳng nhà

Hỏi coi ai có cảnh như ta ?

Phôi pha tình tứ thơ và rượu

Chầu chực hôm mai chó với gà

Thấy khách toan mời e khách lạ

Trông trời muốn hỏi ngại trời xa

Thôi ôm cầm đợi tri âm đã

Sẽ ngỏ cùng nhau chuyện ruột rà.

(Nguyễn Quang Diêu)

 

NƯƠNG MÌNH CỬA PHẬT

Trải nếm mùi trần chán đắng chua

Tương rau đạm bạc bữa cơm chùa

Răng lòng cửa Phật cơn sa sút

Nóng ruột đường đời nỗi được thua

Tủi kiếp trầm luân làn sóng dập

Tỉnh hồn đọa lạc tiếng chuông khua !

Co tay tính lại mười năm lẻ

Trải lắm mùi trần chán đắng chua ?

(Nguyễn Quang Diêu)

 

PHẬN BÈO

Liều lĩnh gì hơn cái phận bèo

Mặc dầu sóng gió nổi phêu phêu

Ngảnh tai phiêu bạc chầm theo nước

Gởi dấu đông tây cứ chực dèo (*)

Tầm khách tha hương đoàn tụ mãi

Báo phương ngư phủ thảm sầu đeo

Trông vời bể cả bườn men tớt

Liều lĩnh gì hơn cái phận bèo !

(Nguyễn Quang Diêu)

 

(*) Chú thích: Chực dèo = chờ mòi = chờ đợi và coi mòi.  Từ ngữ miền Nam lúc bấy giờ.


 

Chí khí của ông Nguyễn Quang Diêu không thay đổi:

 

NGÀY TẾT THẤY CỜ CẢM TÁC

Dọc ngang cờ Pháp với cờ Tàu

Ủa lá cờ ta hẳn ở đâu?

Trông thế lực người sôi máu sắt

Nghĩ danh giá nước thẹn mày râu

Non sông vì nợ xưng Hồng Lạc

Mặt mũi nào còn ngó Mỹ Âu

Vinh nhục chung nhau ai cũng thế

Thương nhau ta phải liệu sao nhau?

(Nguyễn Quang Diêu)


 

So với ông Phan Bội Châu cũng vào lúc cuối đời:

 

CÂY CỜ

Ai ơi xin thử ngó cây cờ

Một lá kia kìa dáng phất phơ

Cao thấp quyền về tay kẻ múa

Trắng vàng màu lựa mặt người ưa

Trên cao mấy cửa chiêu bài hão

Xoay đủ tứ bề ngọn gió đưa

Rồi cũng về tay ai nấy phất

Xôn xao dưới bóng bọn vây hùa.

(Phan Bội Châu)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này là trích đoạn trong 2 bài đăng trong phanthuonghai.com mục Lịch Sử và Thơ Văn phần Thời Pháp Thuộc

Thơ và Sử Việt - Thời Pháp Thuộc (Thế kỷ 19) (Bs Phan Thượng Hải)

Thơ và Sử Việt - Thời Pháp Thuộc (Thế kỷ 20) (Bs Phan Thượng Hải)

Xin gửi bài đọc nhân dịp Rằm Tháng Bảy.

Từ sự tích của Vu Lan đến Trung Nguyên; và ý nghĩa thay đổi từ Ấn Độ đến Trung Quốc cũng như thay đổi theo thời gian từ xưa đến nay! 

Sống phải theo thời chứ không thì là "lạc hậu"?

Hải _________________

 

 

SỰ TÍCH TẾT TRUNG NGUYÊN VÀ LỄ VU LAN 

(Bs Phan Thượng Hải biên soạn)  

 

Tết Trung Nguyên đúng vào ngày Rằm tháng bảy.  Sự tích bắt đầu từ kinh Vu Lan Bồn của Phật Giáo và ngày Tự Tứ của Phật Giáo Ấn Độ là ngày Rằm tháng bảy của Trung Quốc.

 

* Mục Kiền Liên (Moggallàna) và kinh Vu Lan Bồn 

 

Kinh Vu Lan Bồn viết:

Một thời, Đức Phật trú tại khu vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc.  Trưởng giả Đại Mục Kiền Liên chứng đắc sáu thứ Thần thông dùng đạo nhãn quán sát khắp thế giới, thấy người mẹ đã qua đời của mình bị đọa trong loài Ngạ quỷ, không được ăn uống nên thân hình chỉ còn da bọc xương.  Tôn giả Mục Kiền Liên thấy vậy vô cùng xót thương buồn bã, liền lấy bát đựng đầy cơm và vận dụng thần thông đem hiến dâng cho mẹ.  Bà mẹ vừa nhận được bát cơm , liền dùng tay trái che đậy, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã hóa thành than hồng nên không thể ăn được.  Tôn giả Mục Kiền Liên lớn tiếng than khóc trở về bạch với đức Phật, thuật lại đầy đủ mọi sự việc như vậy.

Đức Phật bảo:

         Thân mẫu của ông tội chướng sâu dày.  Tuy lòng hiếu thảo của ông vang động trời đất nhưng cũng không ai có thể làm gì được.  Nay ông phải nhờ oai lực của Tăng chúng ở mười phương thì mới có thể thoát được.

         Này Mục Kiền Liên!  Ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của mười phương Tăng chúng, nên vì cha mẹ 7 đời, cha mẹ hiện tại và những người đang ở trong vòng khổ nạn luân hồi mà sắm sửa đầy đủ cơm nước thức ăn và giường nằm đầy đủ để dâng chúng đại đức Tăng chúng khắp mười phương.  Vì giới pháp thanh tịnh đầy đủ nên đạo đức của Tăng chúng sâu rộng mênh mông.  Nếu có người dâng cúng Tăng chúng Tự tứ như vậy thì tất cả cha mẹ bà con quyến thuộc trong đời hiện tại đã quá vãng sẽ được siêu sinh trong 3 đường khổ liền được đầy đủ áo cơm.  Nếu cha mẹ lục thân quyến thuộc còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu trăm tuổi, còn cha mẹ già quá khứ 7 đời thì được sinh lên cõi Trời Tự Tại hóa sinh trong cõi Trời, hoa lệ chói sáng, hưởng vô lượng phước lạc.

Bấy giờ Đức Phật bảo Tăng chúng mười phương hoặc ở nơi Tăng chúng hoặc ở chùa tháp phải chú nguyện như vậy rồi sau mới thọ thực (ăn).

Khi ấy Tôn giả Mục Kiền Liên cùng với chư vị Đại sĩ Bồ tát đều rất hoan hỷ, tiếng than khóc bi thương của ngài Mục Kiền Liên cũng tan biến.  Thân mẫu của ngài cũng trong ngày ấy được thoát khổ trong loài Ngạ quỉ.

Khi ấy ngài Mục Kiền Liên lại bạch:

         Bạch Thế tôn!  Thân mẫu của con đã được siêu thoát, đó là nhờ năng lực công đức Tam Bảo, trong đó có uy lực của Tăng chúng.  Nếu đời vị lai, tất cả đệ tử của Đức Phật muốn hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ thì kinh Vu Lan Bồn nầy có thể cứu độ cha mẹ hiện tại cho đến cha mẹ 7 đời chăng?

Đức Phật nói:

         Nầy Mục Kiền Liên! Điều mà Như Lai muốn nói, Tôn giả đã hỏi.

         Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, quốc vương, vương tử, đại thần, tể tướng, tam công, bách quan cùng cả thảy dân chúng muốn thực hành đức từ hiếu, trước nên vì cha mẹ hiện tiền, kế đó cha mẹ 7 đời trong quá khứ là cứ đến Rằm tháng Bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng tự tứ, nên sắp đặt đủ các loại trái cây thức ăn nước uống vào bồn Vu Lan để dâng cúng chư Tăng ở mười phương.  Ngày chư Tăng Tự tứ câu nguyện cha mẹ hiện còn sống lâu trăm tuổi, không bệnh tật.  Cha mẹ trong 7 đời quá khứ thoát khỏi khổ đau trong loài Ngạ quỉ, được sinh trong cõi Trời, người phước lạc an vui.

         Thiện nam tín nữ là đệ tử của Đức Như Lai phải nên thực hành chữ hiếu, trong mỗi niệm thường thương tưởng đến cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ 7 đời trong quá khứ.  Hằng năm đến ngày Rằm tháng Bảy, đem lòng từ hiếu thương tưởng song thân cha mẹ hiện tiền, cha mẹ 7 đời quá khứ, sắm sửa bồn Vu Lan, hiến cúng Phật đà, dâng cúng Tăng chúng để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Nếu là đệ tử của Đức Phật thì phải tuân giữ điều ấy.

Lúc ấy, Tôn giả Mục Kiền Liên cùng với chúng đệ tử nghe Phật giảng dạy đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.  

 

Vu Lan Bồn Kinh (Ullambana sùtra) được Trúc Pháp Hộ dịch ra Hán ngữ và từ đó chuyển âm sang Việt ngữ.  Vu Lan Bồn Kinh dịch đầy đủ ra Hán ngữ là "Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh".

Trúc Pháp Hộ là tên Hán ngữ của nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ) tên là Dharmaraksa (239-316).

"Vu Lan Bồn" là dịch âm từ Phạn ngữ "Ullambana".  Ullambana có nghĩa đen là "Cứu đảo huyền".  "Đảo huyền" là "treo ngược".  "Cứu đảo huyền" (Ullambana) có nghĩa là cứu những ai bị treo ngược (bị khốn khổ).  Trúc Pháp Hộ dùng nghĩa đen của "Vu Lan bồn" là "bồn Vu Lan" trong kinh là không đúng.   (Bồn = basin).

 

Kinh Vu Lan Bồn như trên đã kể lại câu chuyện Moggallàna (Mục Kiền Liên) cứu giúp Mẹ mình đang khốn Khổ trong cõi Ngạ quỉ nhờ lời dạy của Phật Thích Ca.  Tuy nhiên ý nghĩa của Kinh Vu Lan Bồn còn rộng hơn.

Theo kinh Vu Lan Bồn, dâng cúng ăn ở cho Tăng chúng trong ngày Tự tứ (ngày Rằm tháng 7, ngày 15 tháng 7) thì nhờ Đạo Đức (morality) "sâu rộng mênh mông" của Tăng chúng (monks and nuns) mà Cha Mẹ và thân quyến của mình được những phước:

         Cha mẹ và thân quyến đã chết bị siêu sinh trong 3 đường Khổ (3 Khổ đạo) liền được đầy đủ áo cơm.  (3 Khổ Đạo trong Lục Đạo Luân Hồi là: Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sinh).

         Cha mẹ và thân quyến đang sống sẽ được hưởng phước lạc mạnh khoẻ sống lâu trăm tuổi.

         Cha mẹ và thân quyến trong quá khứ 7 đời sẽ được tái sinh lên cõi Trời.

Tất cả cũng là thể hiện của lòng Hiếu của Phật tử. 

 

Nhưng tại sao lại dâng cúng vào ngày Tự tứ (ngày Rằm tháng 7, 15 tháng 7)?  Ngày Tự tứ là ngày gì?  Ngày Tự tứ là ngày cuối của 3 tháng Vũ Kỳ An Cư của Tăng Già.  Nó có lịch sử từ Luật Tạng của Phật Giáo Nguyên Thủy:

         Vũ Kỳ An Cư (Residence during the rainy season Reyreat = Varsavasana): Vì mỗi năm cứ vào mùa mưa (Vũ Kỳ), nước lũ dâng lên tràn ngập cả đường lối làm sự đi lại giáo hóa, truyền đạo và khất thực không thuận tiện, hơn nữa lại là mùa côn trùng sinh ra đầy đường, đi lại sợ tổn hại tới sinh mạng các loài côn trùng nên Phật Thích Ca cùng các Đệ tử phải tụ họp tại một nơi nào thuận tiện để chuyên việc tu hành trong 3 tháng mưa nầy (từ ngày 16-4 cho tới 15-7)

         Ngày Lễ Tự Tứ (Pavàranà): Trong 3 tháng tu trì của Vũ Kỳ An Cư, nếu đại chúng có ai phạm vào tội lỗi mà đại chúng ngờ vực thì được tự do cử tội trong ngày lễ Tự Tứ (ngày 15-7, ngày cuối cùng của Vũ Kỳ An Cư).

 

* Lễ Vu Lan và Tết Trung Nguyên 

 

Nhân sự tích nầy nên có hội lễ Vu Lan trong nhân gian vào ngày Rằm (15) tháng 7 hằng năm.

Lễ Vu Lan bắt đầu ở Trung Quốc từ thời Lương Võ Đế (464-549), một vị vua rất sùng Phật Giáo.  Ngày Rằm (15) tháng Bảy gọi là ngày (Tết) Trung Nguyên có mở hội Vu Lan (Vu Lan Bồn) ở khắp chùa chiền tu viện và trong toàn dân chúng kỷ niệm sự tích Mục Kiền Liên cứu Mẹ nói riêng và thể hiện lòng hiếu thảo của Chúng sanh nói chung.  Dân chúng làm đúng như trong Kinh Vu Lan Bồn đã dạy: cúng dường thực phẩm cho Tăng chúng.  Tuy nhiên còn có mở thêm hội Hoa đăng (cúng rước đèn hoa) và bá tánh còn cúng thêm (trên bàn thờ) cho "Cô Hồn" (tức là Quỉ đói = Ngạ quỉ).

Phong tục nầy được truyền sang các nước khác của Bắc Tông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam... 

 

Chuyện Mục Kiền Liên (Moggallàna) cứu mẹ được người Tàu viết thành nhiều tuồng hát và tiểu thuyết diễn tả Mục Kiền Liên xuống Địa ngục cứu mẹ, đơn giản tên Mục Kiền Liên thành Mục Liên và đặt tên cho mẹ của ngài là Thanh Đề.  Đó là những chuyện mang tựa đề: Mục Liên Cứu Mẫu Biến Văn, Mục Liên Cứu Mẫu Bản Quyển, Mục Liên Tam Thế Bản Quyển...  Theo truyện Tàu, tuy được cứu thoát nhưng bà Thanh Đề phải tái sinh làm một con chó đen ở thành Vương Xá (Rajagrha) và Mục Liên phải trổ thần thông một lần nữa cứu bà Thanh Đề tái sinh thành người.  Dĩ nhiên cõi Địa ngục trong những truyện nầy khác cõi Ngạ quỉ trong kinh Vu Lan Bồn.

Theo Phật Giáo từ Nguyên Thủy, cõi Địa ngục và cõi Ngạ quỉ là 2 cõi khác nhau! 

 

* Từ những sự tích trên, Phật tử ngày nay có cảm  nghĩ về lễ Vu Lan và rằm Trung Nguyên:

 

VU LAN

Tự lòng hiếu thảo có người hiền

Sự tích Vu Lan dạy trước tiên

Thân mẹ xấu xa hồn giải thoát

Tâm con thương xót dạ bình yên

Chúng sanh quả nghiệp thêm đau khổ

Phật Giáo từ bi hết muộn phiền

Trăng sáng Trung Nguyên soi chánh đạo 

Thiện lương bản tánh bước an nhiên.

(Phan Thượng Hải)

9/4/17

 

VU LAN NHỚ SONG THÂN

Tuổi già thấm hiểu nghĩa thần hôn (*)

Rất tiếc ngày nay chẳng bảo tồn

Báo trả công cha chưa trọn vẹn 

Đáp ₫ền nghĩa mẹ chửa vuông tròn

Chở che con cái khi thơ dại

Dạy dỗ nên người lúc lớn khôn

Mỗi tiết Vu Lan về lại nhớ

Song thân khuất bóng, tánh hòa ôn.

(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)

6/11/21

 

(*) Chú thích: "Nghĩa thần hôn" = thần hôn là sớm chiều, ý nó́i nghĩa con cái sớm chiều săn sóc cha mẹ.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài văn này là trích đoạn của bài "Sự Tích Những Ngày Lễ Tết Trong Niên Lịch" (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com 

Hai bài thơ có trong bài "Thơ Phan Thượng Hải - Tôn Giáo" (Bs Phan Thượng Hải). 

Thất Tịch - Đêm Mùng 7 Tháng 7

Theo sách Tục Tề Hài Ký, ở bờ phía Đông (tức là phía tả) sông Thiên Hà (còn gọi là Ngân Hà) có Chức Nữ, tức là sao Nữ là cháu gọi Ngọc Hoàng Thượng Đế bằng ông nội, đêm ngày dệt cửi chăm chỉ quá, không có lúc nào nhàn rỗi để rửa mặt quấn tóc điểm trang.  Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy động lòng thương cảnh cô độc bèn gả Chức Nữ cho Ngưu Lang (tức là sao Ngưu) ở bờ sông phía Tây (tức là phía hữu) sông Thiên Hà, là một chàng chăn trâu ngoan ngoãn.

Từ khi lấy và về ở với chồng (là Ngưu Lang) đâm ra lười biếng bỏ cả việc canh cửi.  Ngọc Hoàng nổi giận lại bắt Chức Nữ về ở bờ phía Đông trở lại và mỗi năm chỉ cho vợ chồng xum họp với nhau trong một đêm là đêm mồng 7 tháng 7 (Thất Tịch).

Đêm ấy có ô thước (chim thước đen, một giống quạ có đuôi dài) đậu nối cánh vào nhau thành một cái cầu bằng cánh chim, bắc qua sông Thiên Hà (Ngân Hà), để vợ chồng Ngưu Lang và Chức Nữ qua sông đi lại với nhau.  Ngưu ta đọc trại là Ngâu.  Đêm (hoặc ngày) mồng 7 tháng 7 thường có mưa rào, ta gọi là Mưa Ngâu, tức là mưa do vợ chồng Ngâu gặp nhau mừng tủi khóc mà nhỏ lệ thành mưa.

 

Trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu:

         Sinh ly đòi rất thì Ngâu

         Một năm còn thấy mặt nhau một lần.

 

Do điển tích này, nói đến việc lấy vợ lấy chồng, ta thường nói "(nối) cầu ô thước", là cái cầu bằng chim thước để vợ chồng Ngâu qua sông Thiên Hà (Ngân Hà). 

 

Thật ra sao Nữ và sao Ngưu là 2 vì sao trong Nhị Thập Bát Tú (28 vì sao).  

Thiên Văn học của Trung Hoa và Âu Tây đều có nói đến nhóm 28 vì sao này.  28 vị sao nầy (mỗi vì sao ứng với một con vật) cũng giống với những vì sao của Thiên Văn học Âu Mỹ.

Nhị Thập Bát Tú gồm có:

 

         1. Giác Mộc Giao: sao Giác (Spica).  Giao=Cá Sấu

         2. Càng Kim Long: sao Càng (Virgo).  Long=con Rồng

         3. Đê Thổ Lạc: sao Đê (Libra).  Lạc=con Lạc Đà

         4. Phòng Nhật Thố: sao Phòng (Libra).  Thố=con Thỏ

         5. Tâm Nguyệt Hồ: sao Hồ (Antares).  Hồ=con Chồn Cáo

         6. Vĩ Hỏa Hổ: sao Vĩ (Scorpius).  Hổ=con Cọp

         7. Cơ Thủy Báo: sao Cơ (Sagittarius).  Báo=con Beo

         8. Đẩu Mộc Giải: sao Đẩu (Sagittarius).  Giải=con Cua

         9. Ngưu Kim Ngưu: sao Ngưu (Capricormus).  Ngưu=con Trâu

         10. Nữ Thổ Bức: sao Nữ (Aquarius).  Bức=con Dơi

         11. Hư Nhật Thử: sao Hư (Aquarius).  Thử=con Chuột

         12. Nguy Nguyệt Yến: sao Nguy (Aquarius/Pegasus).  Yến=con Én (Nhạn) 

         13. Thất Hỏa Trư: sao Thất (Pegasus).  Trư=con Heo

         14. Bích Thủy Dư: sao Bích (Algenib).  Dư=con Cừu (Trừu)

         15. Khuê Mộc Lang: sao Khuê (Andromeda).  Lang=con Chó Sói xám

         16. Lâu Kim Cẩu: sao Lâu (Aries).  Cẩu=con Chó

         17. Vị Thổ Trĩ: sao Vị (Aries).  Trĩ=con Chim Trĩ

         18. Mão Nhật Kê: sao Mão (Pleiades).  Kê=con Gà

         19. Tất Nguyệt Ô: sao Tất (Taurus).  Ô=con Quạ

         20. Chủy Hỏa Hầu: sao Chủy (Orion).  Hầu=con Khỉ

         21. Sâm Thủy Viên: sao Sâm (Orion).  Viên=con Vượn

         22. Tỉnh Mộc Hãn (Ngạn): sao Tỉnh (Gemini).  Hãn (Ngạn) = con Bò

         23. Quỷ Kim Dương: sao Quỷ (Cancer).  Dương=con Dê

         24. Liễu Thổ Chương: sao Liễu (Hydra).  Chương=con Cheo (=Mouse-Deer)

         25. Tinh Nhật Mã: sao Tinh (Alphard).  Mã=con Ngựa

         26. Trương Nguyệt Lộc: sao Trương (Crater).  Lộc=con Hưu/Nai

         27. Dực Hỏa Xà: sao Dực (Corvus).  Xà=con Rắn

         28. Chẩn Thủy Dẫn: sao Chẩn (Corvus).  Dẫn=con Giun/Trùng

 

Sao Ngưu (= Ngưu Kim Ngưu) và sao Nữ (= Nữ Thổ Bức) thuộc Nhị Thập Bát Tú.

 

Bs Phan Thượng Hải biên soạn 

 

Tài liệu tham khảo:

      1) Điển Hay Tích Lạ (Nguyễn Tử Quang)

      2) Tầm Nguyên Tự Điển (Lê Văn Hoè)

      3) Wikipedia Google 

 

Bài này là 1 trích đoạn từ bài "Sự Tích Những Ngày Lễ Tết trong Niên Lịch" (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com 

 "NHƯ THỊ" TRONG PHẬT GIÁO 

  Bs Phan Thượng Hải biên soạn 

 

*

"Như Thị" có nghĩa là gì? 

Như thị (Hán ngữ) = Như vậy, như thế (Việt ngữ).

 

Nguồn gốc của "Như Thị" từ trong Kinh của Phật Giáo.

Một Công án của Thiền Tông trích từ Thiền Luận của Suzuki (trang 117, quyển Trung):

         Tuệ Trung hỏi: “Công việc của Thầy là gì?”

         Sư trả lời: “Tôi giảng kinh Kim Cương”

         Hỏi: “Thầy nói cho hay 2 chữ đầu tiên của Kinh là gì?”

         Trả lời: “Như Thị”

         Hỏi “Thế là nghĩa gì?”

         Nhà Sư không đáp. 

 

Như vậy, "Như Thị" là 2 chữ đầu tiên của Kinh (Kinh của Phật Giáo).  

Do đó ngày nay thường dùng từ ngữ "Pháp Như Thị".

 

Nguồn gốc của "Như Thị" trong Kinh của Phật Giáo (Pháp Như Thị) từ Tôn giả A Nan Đà (Ànanda).  Nguyên văn là "Như Thị Ngã Văn".

Ngã Văn = Tôi nghe.  Ngã = Tôi. Văn = Nghe.

Như Thị Ngã Văn = Tôi nghe như vậy, Tôi nghe như thế, Tôi nghe như thế nầy.  

 

*

Thật ra nguồn gốc đều từ Tôn giả Ànanda (A Nan Đà, A Nan). 

 

Phật Thích Ca sáng lập Phật Giáo.  Ngài giảng dạy truyền khẩu Giáo lý của Phật Giáo gọi là Pháp (Doctrine) hay Phật Pháp và mở Tăng Già.  Tăng Già là cộng đồng của những người xuất gia gồm Tăng (và Ni).

Tăng Già = Sangha = Communities of Budhist monks and nuns. 

"Phật, Pháp, Tăng" là Tam Bảo của Phật Giáo.

 

Pháp hay Phật Pháp bắt đầu có từ Tôn giả Ànanda (A Nan Đà, A Nan), một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca. 

 

Trong thời gian của Phật Thích Ca tại thế (khoảng trên 40 năm), giáo lý Phật Giáo Nguyên Thủy chỉ đơn giản gồm có Pháp (Dharma) và Luật (Vinaya).  

         Pháp gồm những lời giảng dạy của Đức Phật hay các Đệ tử của ngài (xuất gia hay không xuất gia) hoặc đôi khi của những vị Thần của Ấn Độ Giáo như Đại Phạm Thiên (Brahmà) và Đế Thích (Indra) đã được Đức Phật nghe và chấp nhận. 

         Luật là những Điều luật (Rules) và Qui lệ (Regulations) hằng ngày của Tăng Già do Phật Thích Ca lập ra và giảng dạy.

Pháp và Luật sau nầy được viết thành Kinh Tạng (Sùtra-pitaka) và Luật Tạng (Vinaya-pitaka) của Tam Tạng (Tripitaka).

 

Ngay sau khi Phật Thích Ca nhập diệt ở Kusinara, Đệ tử cao quí nhất của ngài là Tôn giả MahaKàsyapa (Ma Ha Ca Diếp) triệu tập một Hội đồng (Council) gồm các Đệ tử chánh trong Tăng Già.  Mục đích của Hội đồng là làm chắc chắn tất cả những giáo điều của Phật Thích Ca, giảng dạy trong khi tại thế được thống nhất và chính thức truyền bá cho những thế hệ về sau.

Trong suốt 3 tháng của mùa mưa (vũ kỳ), 500 Đệ tử đã thành đạo, gọi là La Hán, họp ở hang Thất Diệp (The cave of the seven leaves) thuộc ngoại ô Ràjagrha (Vương Xá), kinh đô của vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà), cách Kusinara nhiều ngày đi bộ (về hướng Đông Bắc).  Đó là kỳ Kết Tập lần thứ nhất, còn gọi là Kết Tập Vương Xá hay Kết Tập (của) 500 La Hán.

 

Theo Hán ngữ, từ ngữ "Kết Tập" đồng nghĩa với "Hội Đồng" (Council).  Tuy nhiên theo tiếng Phạn gọi là "Samgìti", còn có nghĩa là "cùng tụng (hát hay đọc) với nhau".  (Tụng= Recitation, to Recite).  Mặc dù đã có chữ viết (văn tự) dùng trong thương mại vào thời đó, truyền thống cổ điển của Ấn Độ chỉ truyền khẩu những gì liên quan tới Tôn giáo chứ không muốn ghi lại bằng chữ viết.  Như vậy trong kỳ Kết Tập lần thứ nhất nầy, 500 La Hán tụng lại những gì họ biết và ghi nhớ về Pháp và Luật để chắc chắn là không có những khác biệt cũng như để chứng thật cái gì là từ Phật Thích Ca và cái gì là không phải (từ Phật Thích Ca). 

 

Tôn giả MahaKàsyapa (Ma Ha Ca Diếp) chủ tọa của kỳ Kết Tập lần thứ nhất nầy.  Hai đại Đệ tử khác của Phật Thích Ca là Tôn giả Ànanda (A Nan Đà) và Tôn giả Upàli (Ưu Bà Li) lần lượt khởi tụng Pháp (Dharma) và Luật (Vinaya).

         Tôn giả Ànanda, một người em chú bác của Phật Thích Ca, từng là người hầu cận (thị giả) của Đức Phật trong hơn 25 năm cho tới khi Đức Phật nhập diệt.  Tôn giả Ànanda đã còn nghe và ghi nhớ tất cả giáo huấn của Phật Thích Ca và những Đệ tử khác trước khi làm thị giả cho Đức Phật.  Do đó Ànanda khởi tụng những giảng dạy trong kỳ Kết Tập.  Tôn giả Ànanda nổi tiếng là Đệ tử "Đa Văn Đệ Nhất", đệ tử hiểu biết giáo điều nhiều nhất.  Không có công lao của Ànanda, những giảng dạy của Phật Thích Ca khó có thể kết hợp lại được trong kỳ Kết Tập nầy.  Pháp (Dharma) của Phật Thích Ca được bắt đầu truyền khẩu cho hậu thế từ Tôn giả Ànanda.

         Tôn giả Upàli trước khi xuất gia là nô lệ của thị tộc Sàkya (Thích Ca).  Ngài nhập Tăng Già và được Phật Thích Ca cho coi giữ Giới Luật trong Tăng Già.  Upàli nổi tiếng là Đệ tử "Giới Luật Đệ Nhất".  Upàli khởi tụng Giới Luật (precepts) và Qui Định (regulations) trong kỳ Kết Tập nầy.  Luật (Vinaya) của Phật Thích Ca dùng cho Tăng Già bắt đầu truyền khẩu cho hậu thế từ Tôn giả Upàli.

Tiếp theo đó, Pháp (từ Ànanda) và Luật (từ Upàli) được 500 La Hán ghi nhớ và hợp tụng trong kỳ Kết Tập lần thứ nhất; và từ đó truyền khẩu cho những thế hệ sau bằng Tụng (Recitation).

 

Về sau Pháp (Dharma) và Luật (Vinaya) được viết thành Kinh Tạng (Dharma-pitaka) và Luật Tạng (Vinaya-pitaka) ngay trước khi hay cùng thời với khi bắt đầu có các Bộ Phái và Luận Tạng (Abhidharma-pitaka) của các Bộ Phái.  Các Bộ Phái thành hình vào khoảng năm 350 tr CN, khoảng 100 năm sau kỳ Kết Tập lần thứ nhất.  Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng gọi chung là Tam Tạng (Tri-pitaka) của Phật Giáo Nguyên Thủy. 

 

Như vậy, từ 500 La Hán và Tăng Già tiếp tục "tụng" theo đúng như vậy, truyền khẩu cho tới khoảng hơn 100 năm sau thì Pháp mới viết thành kinh điển giáo lý (scripture) gọi là Kinh Tạng.  Mỗi phần của Kinh Tạng khởi đầu bằng câu "Như Thị Ngã Văn".  "Như Thị" dịch nghĩa là "như thế nầy" hay "như vậy".  "Ngã Văn" dịch nghĩa là "tôi được nghe".  "Như Thị Ngã Văn" dịch nghĩa là "Tôi nghe như vậy, Tôi nghe như thế nầy".  Tôi (Ngã) ở đây là "Ànanda" (A Nan Đà).

 

*

Như vậy, Pháp hay Phật Pháp gồm những Kinh và Luận.

Thiền Tông Công Án trích từ Thiền Luận của Suzuki (trang 82, quyển Hạ) về "Đọc Kinh"

         Tăng hỏi: “Tại sao sư không chịu cho đọc kinh, coi như là những lời phụ thuộc ?”

         Sư Huệ Hải đáp: “Như con vẹt học tiếng người mà lại không hiểu ý nghĩa.  Kinh truyền ý Phật, nếu không lãnh hội ý Phật thì việc tụng đọc chỉ là học nói, do đó (ta) không chịu cho đọc kinh”

         Hỏi: “Ngoài ngôn ngữ văn tự còn phương tiện nào để diễn ý nữa chăng ?”

         Đáp: “Những lời ông vừa nói lại cũng là học nói mà thôi”

         Hỏi: “Cũng là như nhau sao Sư lại thiên lệch chống đối ?”

         Đáp: “Trong Kinh có nói rõ rằng: Những gì ta nói đều là nghĩa chứ không phải chỉ có văn; còn những gì mà chúng sinh nói chỉ là văn chứ không có nghĩa.  Ai hỏi ý sẽ vượt lên những văn tự hời hợt, ai ngộ Lý sẽ vượt qua những văn tự.  Giáo pháp siêu việt (trên) ngôn ngữ văn tự, tại sao lại tìm tòi trong những số câu ?  Bởi vậy kẻ phát Bồ Đề thì được ý mà quên lời, ngộ Lý mà ảo giáo, như người được cá thì quên nơm”. 

 

Công án này chỉ dẫn rõ ràng, rõ hơn là từ ngữ "Kinh Vô Tự"! 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài liệu tham khảo:

    1) Thiền Luận (Suzuki, bản dịch của Tuệ Sỹ)

    2) Lịch sử và Kinh điển Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

    3) Thập Đại Đệ Tử của Phật Thích Ca (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

_____________________

THIỀN ĐỊNH 

                           (Bs Phan Thượng Hải biên soạn) 

 

Hành giả Tu Thiền định sẽ đạt được Thiền Định, hay đúng hơn là "Tâm Thiền Định".  

Tâm Thiền Định (hay Thiền Định) là trạng thái của Tâm có 8 bậc gọi chung là Bát Định.  Bốn bậc đầu còn gọi là Tứ Thiền (hay Tứ Thiền Na).  Phật Giáo chỉ cần hành giả (practitioner) đạt đến bậc thứ 4, bậc cuối cùng của Tứ Thiền thì Tâm An (= Niết bàn hữu dư).  (An, an tịnh = Tranquil, Calm).

 

Phật Thích Ca đã học Tu Thiền Định và đạt được Thiền Định từ Ấn Độ Giáo (Hinduism) và đem vào Phật Giáo.  Trước khi Ngài nhập diệt, Ngài đã Tu Thiền Định và đạt được đến Cửu Định (bậc Thiền Định thứ 9), trên Bát Định.  

 

Niết Bàn kinh thứ 16 của Trường Bộ Kinh (Digha-Nikàya) trong Kinh Tạng của Phật Giáo Nguyên Thủy kể lại sự tích nhập diệt của Phật Thích Ca.  Đây là nguyên văn với Bản dịch của Thượng tọa Thích Minh Châu.

 

Rồi Đức Thế tôn cùng đại chúng tỳ kheo đi đến bờ bên kia sông Hirannavati tại Kusinàrà và dừng lại ở rừng Sàlà của dòng họ Mallà.  Ànanda trải chỗ nằm.  Đức Thế tôn nằm về phía hông bên phải đầu về hướng bắc giữa 2 cây Sàlà song thụ như dáng nằm của con sư tử, hai chân để trên nhau; chánh niệm và tỉnh giác.  Sau khi giảng dạy, Đức Thế tôn nói: "Này các tỳ kheo, nay ta khuyên dạy các ngươi: Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường biến hoại, hãy tinh tấn chớ có phóng dật".  Đó là lời cuối cùng của Đức Phật.

         (1) Rồi Đức Thế tôn nhập Định Sơ Thiền, xuất Định Sơ Thiền; nhập Định Nhị Thiền, xuất Định Nhị Thiền; ngài nhập Định Tam Thiền, xuất Định Tam Thiền; ngài nhập Định Tứ Thiền, xuất Định Tứ Thiền.  Ngài nhập Định Không Vô Biên Xứ, xuất Định Không Vô Biên Xứ; ngài nhập Định Thức Vô Biên Xứ, xuất Định Thức Vô Biên Xứ; ngài nhập Định Vô Sở Hữu Xứ, xuất Định Vô Sở Hữu Xứ; ngài nhập Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, xuất Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.  Ngài nhập Diệt Tưởng Định.

         Khi ấy Đại đức Ànanda nói với Đại đức Anuruddha (A Na Luật): "Thưa Tôn giả, Thế tôn đã nhập diệt".  Đại đức Anuruddha nói: "Này Hiền giả Ànanda, Thế tôn chưa diệt độ, ngài mới nhập Diệt Tưởng Định".

         (2) Rồi Đức Thế tôn xuất Diệt Tưởng Định; ngài nhập Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, xuất Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ; ngài nhập Định Vô Sở Hữu Xứ, xuất Định Vô Sở Hữu Xứ; ngài nhập Định Thức Vô Biên Xứ, xuất Định Thức Vô Biên Xứ; ngài nhập Định Không Vô Biên Xứ, xuất Định Không Vô Biên Xứ.  Ngài nhập Định Tứ Thiền, xuất Định Tứ Thiền; ngài nhập Định Tam Thiền, xuất Định Tam Thiền; ngài nhập Định Nhị Thiền, xuất Định Nhị Thiền; ngài nhập Định Sơ Thiền, xuất Định Sơ Thiền.  

         (3) Ngài nhập Định Nhị Thiền, xuất Định Nhị Thiền; ngài nhập Định Tam Thiền, xuất Định Tam Thiền; ngài nhập Định Tứ Thiền, xuất Định Tứ Thiền.  Ngài lập tức diệt độ.

         Khi Đức Thế tôn diệt độ (chết), cùng với sự diệt độ, đại địa chấn động khủng khiếp, râu tóc dựng ngược (?), sấm trời vang động.

 

Đây là chi tiết về Thiền Định.

Dàn bài

         a) Tứ Thiền (Tứ Thiền Na) 

         b) Bát Định

         c) Thành quả của Tứ Thiền và Bát Định

 

a) Tứ Thiền (Tứ Thiền Na)

 

Tâm An có được từ Tâm Giác ngộ hoặc Tâm Thiền định:

         Tâm Giác ngộ giáo lý (giác ngộ): sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, ngôn ngữ, hành động và sinh hoạt.

         Tâm Thiền định đạt được từ Tu Thiền Định, không cần Giác ngộ. 

(Một ngành thứ 3 của Phật Giáo là Trì giới của "Tâm và Thân" từ Phật Giáo Nguyên Thủy không có đem lại Tâm An).

 

Từ Phật Giáo Nguyên Thủy cho tới Thiền tông, với phương pháp Tu Thiền định, Tâm (Tâm thức) của hành giả lần lượt vượt qua 4 trạng thái gọi là Tứ Thiền hay Tứ Thiền Na.

 

Tứ Thiền = Tứ Thiền Na (4 Dhyàna) = Tứ Định của Sắc Giới 

         1. Định Sơ Thiền (1st Dhyàna): sung sướng (lạc = pleasure) và vui mừng (hỉ = delight), tâm thoát khỏi nhục dục (sensuous desire) và ác độc (evil). 

         2. Định Nhị Thiền (2nd Dhyàna): vẫn vui mừng và sung sướng, thoát khỏi suy luận (discursion) và tìm hiểu (investigation).

         3. Định Tam Thiền (3rd Dhyàna): sung sướng nhưng bình tỉnh (equanimity), lìa khỏi vui mừng và than thở

         4. Định Tứ Thiền (4th Dhyàna): an (tranquil), lìa khỏi sung sướng và đau khổ.

 

Dhyàna (Phạn ngữ, Anh ngữ) = Thiền, Thiền Na (Hán Việt ngữ) = Jhàna.

 

Tâm Thiền Định của Phật Giáo để có được Tâm an là Tâm (Tâm thức) đạt đến bậc Định Tứ Thiền.  Thường được gọi là Chánh Định của Bát Chánh Đạo (Phật Giáo Nguyên Thủy) và Thiền Định Ba La Mật Đa của Lục Độ hay Thập Độ (Phật Giáo Đại Thừa). 

 

Lời dạy của Phật Thích Ca về Chánh Định (= Tứ Thiền):

         Và này các Tỳ kheo, thế nào là Chánh Định? Ở đây, này các Tỳ kheo

                  Tỳ kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú "Định Sơ Thiền", một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ

                  Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú "Định Nhị Thiền", một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm

                  Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thú mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú "Định Tam Thiền"

                  Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thụ trước, chứng và trú "Định Tứ Thiền", không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

         Này các Tỳ kheo, đây gọi là Chánh Định.  

 

Tâm Thiền Định hay Tứ Thiền (Tứ Thiền Na) đạt được từ Tu Thiền Định.

Tại sao Tu Thiền Định đạt được Tứ Thiền (4 Dhyàna) thì không giải thích được nhưng có xảy ra. Điều này có từ Ấn Độ Giáo rồi Phật Thích Ca đem Tu Thiền Định vào Phật Giáo và thịnh hành trong Thiền Tông cho đến ngày nay.

 

Phật Giáo còn tin rằng Con người có Tâm Giác ngộ, gọi là La Hán (Phật Giáo Nguyên Thủy) hay là Phật (Phật Giáo Đại Thừa) thì sau khi hết sinh kiếp (chết = tử) sẽ không phải tái sinh luân hồi trong tam giới.  Phật Giáo Đại Thừa còn cho rằng có những cõi riêng cho Phật ở gọi là Phật độ hay Tịnh độ, khác với Tam giới (3 thế giới) của chúng sanh là cõi Ta Bà.  (Độ = thổ = land).

Như vậy, Giác Ngộ còn giúp cho không tái sinh còn Thiền Định cũng giúp cho Tâm An nhưng không giúp cho Con người tránh khỏi tái sinh luân hồi.

 

 

b) Bát Định

 

Ngoài Tứ Thiền (hay Tứ Thiền Na) như kể trên gọi là Tứ Định của Sắc Giới; Tu Thiền Định còn đạt thêm 4 bậc cao hơn gọi là Tứ Định của Vô Sắc Giới.  Tứ Định của Sắc Giới (Tứ Thiền) và Tứ Định của Vô Sắc Giới gọi chung là Bát Định.

 

* Tứ Định của Vô Sắc Giới

 

Khi Tâm đạt tới Tâm An hay Tâm An tịnh (calm, tranquil) qua Tứ Thiền hay Tứ Định của Sắc Giới tức là sẵn sàng tiến tới Tứ Định của Vô Sắc Giới gồm có 4 bậc hay giai đoạn để Tâm "An" hơn nữa, tới Tâm An bình (peaceful).  Tại điểm nầy thì không còn nghĩ (tư tưởng) tới vật chất, tới thân thể hay chung quanh mình nữa.

         Thật ra tên của 4 bậc Tứ Định của Vô Sắc Giới có nguồn gốc thần thoại từ Ấn Độ Giáo: Tên của mỗi bậc đặt theo tên của một cõi trong Vô Sắc Giới (của Tam Giới = 3 world) và thiền gia đạt đến bậc mang tên của cõi nào thì sẽ tái sinh vào cõi đó của Vô Sắc Giới.  Đó là quan niệm của Ấn Độ Giáo và 4 cõi (realm) của Vô Sắc Giới lần lượt là: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

         Theo Phật Giáo, Tứ Định của Vô Sắc Giới rất khó hiểu kể cả trên lý thuyết, chỉ có Phật Thích Ca mới đạt tới mà thôi, vì Phật Thích Ca đã tu theo Ấn Độ Giáo trước khi ngày sáng lập Phật Giáo và Phật Giáo Nguyên Thủy và ngài đem Thiền Định và Tu Thiền Định vào Phật Giáo.  Tên của Bát Định có nguồn gốc từ Ấn Độ Giáo. Bỏ qua nguồn gốc thần thoại tái sinh của Vô Sắc Giới từ Ấn Độ Giáo, Phật Thích Ca và Phật Giáo định nghĩa Tứ Định của Vô Sắc Giới trên căn bản tâm thức. 

 

Tứ Định của Vô Sắc Giới (4 formless Concentration = 4 formless Samàpatti)

         Định Không Vô Biên Xứ (Samàpatti of the realm of the infiniti of space = Àkà-sànantyàyatana): Thiền gia vượt qua Tứ Thiền Định của Sắc Giới, và với sự đoạn diệt tất cả những đối tượng vật chất và tư tưởng không còn tùy thuộc ý thức (no conscious thought).  Tức là: không có vật chất, không có khái niệm về vật chất và không có tư tưởng thiện ác.

         Định Thức Vô Biên Xứ (Samàpatti of the realm of infinity of consciousness = vijnà-nànantyàyatana): Thiền gia chỉ tập trung riêng về cái không biên giới của ý thức.  Tức là: không có tư tưởng về không gian bên ngoài mà chỉ tập trung về không biên giới của ý thức.

         Định Vô Sở Hữu Xứ (Samàpatti of the realm of nothingness): Thiền gia chỉ tập trung riêng về hư không (nothingness).  Tức là: không có tư tưởng về ý thức mà chỉ tập trung về hư không (nothingness) hay Không (Emptiness).

         Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Samàpatti of neither perception nor nonperception = Naivasamjnànàsamjnàyatana): Thiền gia ở trạng thái Phi Tưởng (không có tư tưởng) và Phi Phi Tưởng (không có phi tưởng).  Tức là: không có tư tưởng, trong trạng thái hoàn toàn yên bình, có nhận thức nhưng không có tư tưởng (thought).

 

 

Muốn hiểu rõ Tứ Định của Vô Sắc Giới, ta phải mượn giáo lý của phái Đại thừa là Duy Thức Tánh tông về Tâm.  

Tánh tông phân biệt Tâm của con người gồm có Tâm thức và Bản Tâm. Theo Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy, Tâm của sanh mạng hay con người chỉ là Tâm thức (Conscious mind); Khác với Đại Thừa Tánh Tông và Thiền Tông, Phật Giáo Nguyên Thủy không nói tới Bản Tâm (Nature mind).  

Theo Tánh tông, Tâm thức là hoạt động của tâm đối với đối tượng là thế giới sự vật hiện tượng bên ngoài.  Tâm thức gồm có:

         Tâm thức hoạt động từ hiện tượng của sự vật: từ cảm giác (sensation), tri giác (perception) cho đến cuối cùng là nhận thức (cognition) để có ý thức (consciousness).

         Tâm thức hoạt động về hiện tượng của sự vật tư tưởng hay tư duy (thought) gồm có lý trí và tình cảm (affection, sentiment).  Lý trí gồm có suy nghĩ (thinking) và suy luận (reason).  Từ ý thức hiểu biết về sự vật tâm thức mới có tư tưởng về sự vật, đó là ý kiến (view, idea).

 

Từ đó, Tứ Định của Vô Sắc Giới được giải thích như sau:

         Bậc thứ nhất (Định Không Vô Biên Xứ): Ý kiến của thiền gia vượt qua khỏi vật chất (Sắc) của không gian bằng cách tập trung vào sự vô biên của không gian (= vô biên xứ = infinity of space).  Nhờ đó thiền gia không còn tư tưởng (để phân biệt) thiện ác. 

         Bậc thứ nhì (Định Thức Vô Biên Xứ): Tư tưởng của thiền gia vượt qua khỏi không gian bên ngoài bằng cách tập trung vào sự vô biên của ý thức (= thức vô biên xứ = infinity of consciousness).

         Bậc thứ ba (Định Vô Sở Hữu Xứ): Tư tưởng của tâm thức của thiền gia chỉ tập trung vào hư không (nothingness or emptiness) vì không còn dựa trên ý thức.

         Bậc thứ tư (Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ): Không còn tư tưởng mặc dầu vẫn còn ý thức.  Tuy nhiên mặc dù có hay không có nhận thức hay ý thức thì cũng hoàn toàn không có tư tưởng hay ý kiến.  Do đó gọi là "phi tưởng phi phi tưởng".  Đó là bậc cao nhất.

 

Ý thức = Hoạt động của Tâm thức từ Sự vật.

Tư tưởng = Hoạt động của Tâm thức về Sự vật.  Tư tưởng hay Tư duy gồm có Lý trí và Tình cảm.

 

*

Bát Định (= Tứ Thiền hay Tứ Định của Sắc Giới và Tứ Định của Vô Sắc Giới) đạt được từ Tu Thiền Định.

Tại sao Tu Thiền Định đạt được Bát Định thì không giải thích được nhưng có xảy ra.  Điều này có từ Ấn Độ Giáo rồi Phật Thích Ca đem Tu Thiền Định vào Phật Giáo và thịnh hành trong Thiền Tông cho đến ngày nay.

 

Tu Thiền định = Meditation for concentration

Thiền định = Dhyàna (= Meditation) = Dhyàna

Thiền định Ba la mật đa = Perfection of meditation = Dhyàna paramita

Chánh Định = Right Concentration = Samyag-Samàdhi

Bát Định = 8 Samàpattis (= 8 Concentrations) = 8 Samàpatti

Tứ Thiền (= Tứ Thiền na) = 4 Dhyànas (= 4 Meditational states) = 4 Dhyàna

Tứ Định của Sắc Giới = 4 Formed Concentrations = 4 Rùpya-samàpatti

Tứ Định của Vô Sắc Giới = 4 Formless Concentrations = 4 Àrùpya-samàpatti 

Cửu Định = 9th Samàpatti (9th Concentration) = Nirodha-samàpatti 

Định Sơ Thiền = 1st Dhyàna = Pathamajjhàna

Định Nhị Thiền = 2nd Dhyàna = Dutiyajhàna

Định Tam Thiền = 3rd Dhyàna = Tatiyajhàna

Định Tứ Thiền = 4th Dhyàna = Cathujjhàna

Tịnh = an tịnh, an tĩnh, tịch tĩnh = tranquil, calm = Samatha

Dhyàna = Jhàna = Thiền, Thiền Na (Hán Việt ngữ).

 

 

c) Thành Quả của Tứ Thiền và Bát Định

 

*

Bát Định của Phật Thích Ca là tâm an tịnh hoặc an bình mà không phiền não (không Khổ).  Tâm (hay Tâm thức) không Phiền não từ Thiền định:

         Tâm hay Tâm thức (gồm có nhận thức và tư tưởng) đến bậc Định Tứ Thiền (bậc cao nhất của Tứ Thiền) thì Tâm An hay an tịnh (tranquil, calm) mà không phiền não nhưng vẫn còn đối tượng là thế giới sự vật bên ngoài.

         Tâm hay Tâm thức đến bậc cuối cùng của Tứ Định của Vô Sắc Giới (hay Bát Định) thì còn nhận thức hay ý thức nhưng đoạn diệt tư tưởng đối với thế giới sự vật bên ngoài.  Như vậy, Tâm an bình (peaceful) và hoàn toàn không phiền não (vì không còn tư tưởng nữa).

 

Tương truyền rằng trước khi nhập diệt, Phật Thích Ca Tu Thiền Định vượt quá Bát Định đến bậc Cửu Định. 

Cửu định hay Diệt Tưởng Định của Phật Thích Ca khi nhập diệt (trên cả Bát Định) chính là trạng thái không còn nhận thức hay ý thức nữa.  Tâm thức hoàn toàn không có ý thức và tư tưởng về sự vật nữa.

 

*

Tuy nhiên Thiền Định hay Tâm Thiền Định của Phật Giáo chỉ cần để có được Tâm an hay an tịnh (tranquil) là Tâm đạt đến bậc Định Tứ Thiền, bậc cuối của của Tứ Thiền (Tứ Định của Sắc Giới) là đủ rồi.  Thường được gọi là Chánh Định của Bát Chánh Đạo (Phật Giáo Nguyên Thủy) và Thiền Định Ba La Mật Đa của Lục Độ hay Thập Độ (Phật Giáo Đại Thừa).  

Thiền Định của Phật Giáo không cần đến Tứ Định của Vô Sắc Giới và Cửu Định.  Trong lịch sử chỉ có Phật Thích Ca đạt được Bát Định và Cửu Định như câu chuyện trước khi ngài nhập diệt.

 

Sau này, Thiền Mặc Chiếu của chi phái Tào Động của Thiền Tông đạt được bậc cuối cùng của Bát Định (từ Tu Thiền Định bí truyền của phái Tào Động?) để Tâm của Con người đoạn diệt tư tưởng đối với Sự vật nên không còn chấp ngã và tự ngã cho nên Tâm Giác ngộ!  Phái Tào Động dựa trên quan niệm của Duy Thức Phái cho rằng Tư tưởng (từ Mạt Na thức) là chấp ngã và tự ngã.  Mục đích đạt đến Bát Định của Thiền Mặc Chiếu là Giác ngộ chứ không phải là Thiền Định.

 

Sở dĩ Phật Giáo nhất là Thiền Tông không muốn người Tu Thiền Định đạt đến bậc cuối cùng của Bát Định là nhiều lý do:

         Tu Thiền Định để đạt đến Định Tứ Thiền là đã khó khăn lắm rồi.

         Tâm An hay An tịnh (tranquil) là đủ, không cần phải hơn nữa đến mức An bình (peaceful) mà phải đoạn diệt tất cả Tư tưởng.  Lục tổ Huệ Năng của Thiền Tông hoàn toàn chống lại Đoạn diệt Tư tưởng (trong Pháp Bảo Đàn Kinh trang 88-89).

         Thiền Tông chú trọng đến Giác ngộ nhiều hơn là Thiền Định vì Giác Ngộ là chủ yếu của Thiền Tông chứ không phải là Thiền Định.  Hơn nữa, Bát Định của Thiền Mặc Chiếu chỉ giúp cho Đoạn Hoặc chứ không tạo ra Từ Bi (phần chính yếu của Giác ngộ).

Đối với Phật Giáo, đạt tới Định Tứ Thiền, bậc cuối cùng của Tứ Thiền (Tứ Thiền Na) hay Tứ Định của Sắc Giới, là Thiền Định rồi, không cần đến Tứ Định của Vô Sắc Giới.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này là trích đoạn từ 2 bài đăng trong phanthuonghai.com

         1) Hành Hương và Huyền Thoại Phật Thích Ca (Bs Phan Thượng Hải)

         2) Căn Bản Phật Pháp - Giác Ngộ và Thiền Định của Thiền Tông (Bs Phan Thượng Hải)

pth_CanThoKyNiem_BenNK.jpg

CẦN THƠ KỶ NIỆM (Nguyên bản)

Bắc qua sông Hậu đến Cần Thơ 

Kỷ niệm êm đềm thú tuổi thơ

Từ những học đường gìn lễ giáo

Tự bao phố xá đẹp tình thơ

Trường Phan Thanh Giản, buồn thương tiếc

Giang cảng Ninh Kiều, nhớ thẩn thơ

Đại lộ Hòa Bình, cầu Cái Khế ... 

Chung cùng Tham Tướng kết hồn thơ.

(Phan Thượng Hải)

7/28/23 

 

CẦN THƠ HOÀI NIỆM (Họa)

Nhớ mãi Cần Thơ lúc tuổi thơ 

Dân tình thong thả, thả hồn thơ 

Cà phê Bưu Điện ngồi thơ thẩn 

Đại lộ Hòa Bình đạp thẩn thơ 

Chợ Cổ người đông vui tấp nập (*)

Ninh Kiều nước lớn đẹp nên thơ 

Xem hình ảnh cũ càng hoài niệm 

Thuở ấy sao mà nó rất thơ!

(Phan Kim Thành)

7/29/23

 

(*) Chợ Cổ: Tên gọi chợ Cần Thơ đầu tiên (ở nam của bến Ninh Kiều), khi sau này có nhiều chợ mới mở ra ở chỗ khác trong thành phố (lúc thành phố Cần Thơ đã mở rộng ra). 

 

XỨ CẦN THƠ

Một thời thơ ấu: xứ Cần thơ 

Từ giã ra đi, lúc tuổi … khờ 

Đến ở Sài thành lo học vấn 

Dọn về Chợ Quán vẫn nằm mơ

Nhớ ngôi nhà cũ lòng lưu luyến  

Nhớ buổi trường tan dạ ngẩn ngơ

Mấy chục năm qua, nhiều biến đổi 

Thủy chung mãi đẹp, mãi nên thơ.

(Phan Huệ Lan) 

7/29/23 

3 tác giả Thơ Xướng họa trên nguyên quán Cần Thơ, con cháu của Thi Sĩ Lãng Ba Phan Văn Bộ

__________________________

  ĐỊA DANH THÀNH PHỐ CẦN THƠ và TỈNH HẬU GIANG

 

   Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


 

Thành phố Cần Thơ

Quận Bình Thủy, Quận Cái Răng, Quận Ninh Kiều, Quận Ô Môn và Quận Thốt Nốt.

Huyện Cờ Đỏ: Thị trấn Cờ Đỏ

Huyện Thới Lai: Thị trấn Thới Lai.  (Lúc trước là phần đất của huyện Cờ Đỏ)   

Huyện Phong Điền: Thị trấn Phong Điền

Huyện Vĩnh Thạnh:  Thị trấn Vĩnh Thạnh và Thị trấn Thạnh An

 

Tỉnh Hậu Giang

Thành phố Vị Thanh 

Huyện Châu Thành: Thị trấn Ngã Sáu và Thị trấn Mái Dầm

Huyện Châu Thành A: Thị trấn Một Ngàn

Huyện Long Mỹ: Thị xã Long Mỹ và Thị trấn Trà Lồng

Huyện Phụng Hiệp: Thị xã Ngã Bảy

Huyện Vị Thủy: lúc trước là phần đất của Huyện Long Mỹ.  Thị trấn Nàng Mau. 

 

Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang là địa phận của tỉnh Phong Dinh và tỉnh Chương Thiện thời VNCH.


Ca Dao:

 

Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh

Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ

 

Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú

Xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu

 

Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ

Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ

(*) Thủ Đức nói lái là thức đủ.  Cơ thần nói lái là Cần Thơ.

 

Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú

Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu

Quản chi nắng sớm mưa chiều

Lên doi xuống vịnh cũng chèo theo em

 

Đất Châu Thành anh ở (*)

Xứ Cần Thơ anh trở lộn về

Bấy lâu sông cạn biển kề

Phân chia mai trúc dầm dề giọt châu

(*) Ý nói ở Sài Gòn

 

Đèn nào cao bằng đèn chợ Mỹ

Lộ nào kỹ bằng lộ Cần Thơ

Em thương anh lững thững lờ thờ

Giả như Tôn Các ngồi chờ Bạch Viên

 

Tàu số một chạy lên Vàm Tấn (*)

Tàu số hai chạy xuống Cần Thơ

Tuổi ba mươi em cũng ở vậy mà chờ

Lỡ duyên chịu lỡ cũng chờ được anh.

(*) Vàm Tấn là vàm Đại Ngãi thuộc Sóc Trăng.


 

Cần Thơ:  

      là vùng đất Chân Lạp khi xưa có tên là Prek Rusey nghĩa là Sông Tre.  Prek=sông, rạch và Rusey=cây tre.  Tên nầy không có liên quan gì với tên Cần Thơ.

      là dịch âm từ tên tiếng Miên là Srôk Kìn Tho có nghĩa là Xứ Cá Sặc Rằn.  Cá nầy lúc trước có nhiều ở vùng nầy.        Cần Thơ là đọc trại từ Kìn Tho.  

      Có thuyết cho rằng có tên Cần Thơ là vì ngày xưa ở đây có trồng và bán nhiều "rau cần và rau thơm" nên có người "lẩn thẩn" gọi là "xứ Cần Thơ".

 

Cần Thơ có tên cũ là Phong Dinh vào thời VNCH (tỉnh Phong Dinh).  

Cần Thơ cũng được gọi là Tây Đô.  Từ ngữ Tây Đô có được là từ Học giả Phạm Quỳnh.  Trong ký sự "Một Tháng Nam Kỳ" viết trên Nam Phong tạp chí năm 1919, ông Phạm Quỳnh khen tặng Cần Thơ là "Thủ đô miền Tây".

 

Quận Ninh Kiều là trung tâm của Thành phố Cần Thơ có Bến Ninh Kiều.  Tên Ninh Kiều đầu tiên đặt cho bến Ninh Kiều rồi từ đó mới đặt tên cho Quận Ninh Kiều.

Dự án thành lập Bến nầy được Tỉnh trưởng lúc bấy giờ thời VNCH là ông Đỗ Văn Chước đệ trình lên chính quyền Ngô Đình Diệm và xin đặt tên là Ninh Kiều để kỷ niệm trận đánh chiến thắng quân Minh của Lê Lợi ngày 13-9-1426 tại Ninh Kiều.  Bến Ninh Kiều được Bộ trưởng Nội Vụ đương thời là Lâm Lễ Trinh cắt băng khánh thành ngày 4-8-1958.  Ông Lâm Lễ Trinh là người Cái Răng, Cần Thơ.  Lúc đó con đường dọc theo sông Cần Thơ mang tên là (đường) Lê Lợi.  Do đó cái tên của bến phải có liên quan tới Lê Lợi.  Tên Ninh Kiều vừa hợp với lịch sử của Lê Lợi vừa hợp cho bến sông (bến của sông Cần Thơ).

 

Quận Ninh Kiều còn có cầu Tham Tướng lấy theo tên của quan Tham Tướng của Nguyễn Vương Phúc Ánh là Mạc Tử Sanh, con trai của quan Trấn Thủ Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ.  Mạc Tử Sanh tử trận tại đây trong chiến tranh với Tây Sơn.  Quận Ninh Kiều cũng có rạch, cầu và chợ Cái Khế.  Từ bến bắc Cần Thơ qua cầu Vị Thanh rồi cầu Cái Khế là vào trung tâm Thành phố Cần Thơ.

 

Bắc (Phà) Cần Thơ: bờ bên tỉnh Vĩnh Long thuộc Thị trấn Cái Vồn (huyện Bình Minh) và bờ bên Tp Cần Thơ thuộc phường Cái Khế, quận Ninh Kiều.  Khoảng cách giữa 2 bến tàu là 1840m.  Bắc được thay thế bằng cầu Cần Thơ, khánh thành năm 2010.

pth_CTMap.JPG

Thơ:

 

TÂY ĐÔ (*)

Noi theo hoạn lộ, ngẫu nhiên vào

Vào cảnh Phong Dinh, thích biết bao! (*)

Bến Bắc trang hoàng nhiều thục nữ

Thành Tây lịch sự lắm thân hào

Mặt tiền vui vẻ đoàn xe chạy

Sông Hậu mênh mang lượng sóng xao

Tao ngộ rừng hàn, quen mặc khách

Rượu bầu thơ túi mặc tiêu dao.

(Lãng Ba Phan Văn Bộ) 

 

(*) Tây Đô và tỉnh Phong Dinh là tên gọi của Cần Thơ vào thời VNCH.

 

BẾN NINH KIỀU 

Chước hay sáng lập bến Ninh Kiều (*)

Kiều diễm bao nhiêu thú bấy nhiêu

Lộ rộng lầu cao xe ngựa lắm

Sông xinh bờ đẹp cỏ hoa nhiều

Du dương nhạc cổ, người thêm thích

Rực rỡ đèn màu, cảnh dễ yêu

Man mác nước trôi, thuyền đủng đỉnh

Trăng chờ gió đón mặc tiêu diêu.

(Lãng Ba Phan Văn Bộ) 

 

(*) Bến Ninh Kiều ở Cần Thơ lúc mới thành lập dưới thời ô. Tỉnh trưởng tên là Chước.  Chữ Chước ở đây có 2 nghĩa (danh từ riêng và danh từ chung).

Bài thơ nầy đọc trong tiệc khánh thành bến Ninh Kiều ở dinh Tỉnh trưởng Cần Thơ.

 

CẦN THƠ KỶ NIỆM

Cái gì kỷ niệm xứ Cần Thơ?

Cái bến Ninh Kiều đẹp mộng mơ

Cái Tắc xe đi đường tẽ lối

Cái Răng ghe nhóm chợ gần bờ

Cái Vồn qua bắc, tàu xuôi ngược

Cái Khế ngang sông, nước lặng lờ

Cái Sắn theo kinh, người giữ đạo

Cái tình luyến nhớ thuở còn thơ.

(Phan Thượng Hải)

1/21/19

 

Ca Dao:

 

Bánh canh cọng vắn cọng dài

Bánh tằm xe cọng dài cọng vắn

Xứ Cần Thơ gạo trắng nước trong

Ai về xứ bạc thong dong cuộc đời

 

Cần Thơ gạo trắng nước trong

Ai đi đến đó thời không muốn về

 

Cần Thơ gạo trắng nước trong

Đậm tình non nước gợi lòng khách du

 

Nước biếc non xanh 

Người bạn lành khó kiếm

Đây em cũng hiếm

Chẳng (Chưa) lựa đặng chỗ nào

Mảng lo buôn bán ra vào Cần Thơ

 

Phong Dinh đẹp lắm ai ơi 

Bậu về bên đó cho tôi cùng về

 

Quận Bình Thủy ở làng Long Tuyền.  Hai địa danh nầy hay đi đôi với nhau.

Long Tuyền là rạch chảy vào sông Cần Thơ.  Gọi là Long Tuyền vì ở đúng "long mạch" theo phong thủy.  Hình cái đầu vàm Long Tuyền giống như miệng con rồng và rạch Long Tuyền giống như thân con rồng.  Năm 1852, quan Khâm sai Huỳnh Mẫn Đạt đi tới đây thì gặp sóng gió lớn nên thuyền ẩn vào rạch nầy được thoát nạn.  Từ đó Huỳnh Mẫn Đạt đặt tên là Bình Thủy (=nước yên lặng, không sóng gió).  Vào đầu thế kỷ 20, thường được gọi là làng Long Tuyền còn chợ và đình Bình Thủy.

 

Quận Ô Môn có tên Ô Môn là vì nơi đây trước kia là một vũng có cây môn nước.  Ô Môn là vũng hay bàu có cây môn nước.  Ô là vũng hay bàu.  Ngọn=dòng nước nhỏ ở đầu sông rạch.  Nổng=Gò.  

Quận Ô Môn có Kênh Ô Môn, dài 14 km được đào năm 1894-1895.  Nó được gọi là kênh Bà Đầm vì trong khi đào kênh thì Đốc công Pháp có đem theo vợ con sống trên cái nhà bè coi công nhân làm việc.  Vợ ông Tây thường được gọi là bà Đầm.  

Kênh Ô Môn nối tiếp theo có Kênh Thị Đội chảy về hướng tỉnh Kiên Giang.

pth_kenhOMon.JPG

Huyện Phong Điền lấy tên theo huyện Phong Điền gần kinh đô Huế vì từ lúc đầu di dân người Phong Điền (Huế) vào ở đây lấy tên nầy để ghi nhớ gốc gác của mình.
Huyện Cờ Đỏ có tên như vậy là vì hồi thời Pháp thuộc ở đây là 1 đồn điền lớn nhứt có cắm cờ màu đỏ (để phân biệt với màu cờ của những đồn điền khác). Huyện có nhiều kênh: kênh Thị Đội, kênh Thốt Nốt, kênh Đứng...
Thốt Nốt là dịch âm từ tiếng Miên Thnot có nghĩa Cây Dừa đường (Borassus flabellifer). Nơi đây lúc trước có trồng nhiều cây loại nầy. Thốt Nốt là đọc trại từ Thnot.

Huyện Thốt Nốt có kênh Thốt Nốt thông với kênh Ô Môn bằng Kênh Đứng. Kênh Thốt Nốt hợp với Kênh Thị Đội ở tỉnh Kiên Giang.
Cái Sắn là vùng dọc theo 2 bên bờ kênh Rạch Sỏi và lộ 80 từ sông Hậu Giang qua huyện Vĩnh Thạnh (thuộc Cần Thơ) và Thị trấn Thạnh An tới huyện Tân Hiệp (thuộc tỉnh Kiên Giang) và Thị trấn Tân Hiệp. Kênh Rạch Sỏi ở khúc này gọi là kênh hay "sông" Cái Sắn. Nằm 2 bên bkênh Cái Sắn và quốc lộ 80 (như tủy sống và cột sống) trong khoảng 12km có nhiều kênh đào ngắn như những cái xương sườn dài 1, 2km.
Cái Sắn có những người di cư đạo Công Giáo từ Bắc vào định cư ở đây vào năm 1956. Như vậy Cái Sắn ở phía Bắc Thành phố Cần Thơ, nằm trong 3 tỉnh: Cần Thơ-Hậu Giang, Kiên Giang và An Giang. Cái Sắn không hề là một địa danh hành chánh nhưng trên giấy tờ là thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Thốt Nốt.

 

Ca Dao:
Anh đây lên thác xuống ghềnh
Đá mòn sông cạn quyết chung tình với em


Bình Thủy lưu linh đáo lại Long Tuyền
Cảm thương ông Cử bỏ thiềng An Giang. (*)


(*) Ông Cử là ông Ngô Văn Định và ông Phạm Hữu Danh mộ nghĩa binh chống Pháp đánh đồn Săng Đá (ở Cần Thơ) đều bị giặc giết. Thiềng là Thành (đọc trại âm)


Ô Môn lúa tốt đầy đồng
Vàm Nhon, Ba Mít, đượm nồng ý thơ
Anh về Tân Thới bơ vơ
Ba Se em ở bao giờ thăm anh. (*)
(*) Ba Se là thuộc Cờ đỏ


Chiều chiều ra đứng cửa sau
Ngó về Thị Đội ruột đau như dần


Kênh Xáng mới đào, tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại bớ điệu chung tình


Con nhạn bay cao khó bắn
Con cá dưới ao quỳnh khó câu.


Trường Long nước trong con gái đẹp
Rạch Ông Hào cảnh lịch người xinh. (*)


(*) Rạch Ông Hào và làng Trường Long ở quận Phong Điền. Rạch lấy theo tên 1 người dân cố cựu ở đây (là ông tên Hào).


Chợ Thốt Nốt lập đài khán võ
Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông
Thấy em buôn bán anh chẳng vừa lòng
Để anh làm mướn kiếm từng đồng nuôi em

Cái Răng là dịch âm từ tiếng Miên là Kran có nghĩa là "Cà Ràn". Cà Ràn là một loại bếp lò có 3 chấu. Nơi đây khi xưa có bán loại bếp nầy. Cái Răng là đọc trại từ Kran và "Cà Ràn".
Huyện Châu Thành A có Cái Tắc thường gọi là Ngã Ba Cái Tắc vì nó nằm ngay quốc lộ 1 có ngã ba tẽ ra lộ 61 đi Vị Thanh (và Long Mỹ).


Châu thành dùng như một danh từ chung để chỉ: phố phường, thành thị, nơi dân cư đông đúc khu vực chính của một xứ hay một tỉnh vùng đất bao quanh ở cạnh, ở cạnh thành phố, thị xã, đơn vị hành chánh cấp huyện.
 

Sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ vào năm 1867, Pháp chia 6 tỉnh Nam Kỳ ra 24 Hạt Tham Biện (Arondissement). Viên quan cai trị là Tham Biện (Inspecteur, sau là Administrateur). Lỵ sở của Hạt gọi là "Châu Thành" có chức vụ như "Trung tâm hành chánh" của Hạt. Bắt đầu từ năm 1912, địa danh Châu Thành chánh thức được đặt tên cho nhiều đơn vị hành chánh cấp quận ở các tỉnh Nam Kỳ. Nam Kỳ có tất cả 11 huyện Châu Thành.


Thị xã Vị Thanh thành lập từ Khu trù mật Vị Thanh thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Thị xã Vị Thanh có kênh Xà No chảy qua. Kênh Xà No dài 34km nối từ Vàm Xáng của sông Cần Thơ (1 nhánh của sông Hậu Giang) tới rạch Cái Tư (1 nhánh sông Cái Lớn của tỉnh Kiên Giang).
Xà No:
   là dịch âm từ tên của người Pháp chỉ huy đào kênh nầy tên là Saint Tanoir. Xà No là đọc trại từ Tanoir.
   (theo Sơn Nam) là dịch âm từ tiếng Miên Srok Snor có nghĩa là "Xóm có cây điên điển". Xà No là đọc trại từ Snor. Kênh đào qua vùng có nhiều cây điên điển?


Ca Dao:
Có ai qua chợ Lê Bình (*)
Xin cho tôi gởi chút tình nước non
(*) Là chợ Cái Răng (ở phường Lê Bình)


Cái Răng Ba Láng Vàm Xáng Phong Điền
Anh có thương thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.


Cái Răng Ba Láng Vàm Xáng Phong Điền (*)
Anh thương em thì đừng cho bạc cho tiền
Cho nhơn cho nghĩa kẻo xóm giềng cười chê


Cái Răng Ba Láng Vàm Xáng Xà No (*)
Anh thương em thì mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh
(*) Sông Ba Láng ở huyện Châu Thành A

Chợ Cái Răng xứ hào hoa
Phố lầu hai dãy xinh đà hóa xinh
Có trường hát cất rộng thênh
Để khi hứng cảnh thích tình hát ca.


Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ
Gái nào mủ mỉ bằng gái Hà Tiên

pth_haugiangmap.JPG

Thị xã Ngã Bảy (huyện Phụng Hiệp) cách Thành phố Cần Thơ 30 km. Gọi là Ngã Bảy vì đây là ngã bảy tụ họp của 7 con kênh.
Người Pháp lần lượt đào những kênh nầy vào đầu thế kỷ 20:
Năm 1901, đào kênh Mương Lộ dài 20 km nối liền Sóc Trăng và Phụng Hiệp. Gọi là "mương lộ" vì đất đào mương đưa lên đắp đường chạy song song
Năm 1908, đào mở rộng rạch Xẻo Vông chạy thẳng về sông Ba Láng nối với Cần Thơ.
Năm 1908, đào kênh Cái Côn dài 16 km nối liền Phụng Hiệp với sông Hậu Giang. Kênh rộng cả trăm thước nên được gọi là sông Cái Côn.
Khi tới gần mang cá của cầu Phụng Hiệp, kênh Cái Côn xẻ một nhánh nhỏ về huyện Kế Sách (tỉnh Sóc Trăng) gọi là kênh Mang Cá.

Năm 1914, đào kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp từ Cà Mau qua Bạc Liêu tới Phụng Hiệp nối với kênh Cái Côn dài 140 km. Từ Cà Mau lên tới đây, theo kênh Cái Côn tới sông Hậu Giang rồi qua Trà Ôn đi về Sài Gòn. Thật ra kênh đào từ Phụng Hiệp qua tỉnh Bạc Liêu (qua 3 huyện Giá Rai, Phước Long và Hồng Dân) và nối với rạch Quản Lợi của tỉnh Cà Mau. Rạch mang tên theo ông Hương quản tên Lợi ở vùng nầy. Hương Quản là một chức quan trong làng. Ngày xưa sách Pháp không bỏ dấu hỏi nên có tên là Kênh Quan Lộ-Phụng Hiệp.
Năm 1914, đào kênh Lái Hiếu dài 25 km từ Phụng Hiệp vào Long Mỹ (thuộc tỉnh Hậu Giang) nối với sông Cái Lớn của tỉnh Kiên Giang, xuyên qua vùng đất hoang vu toàn là lau sậy. Kênh mang tên của một lái buôn tên là Hiếu.
Năm 1914, đào kênh Xẻo Môn sâu vào cánh đồng thuộc xã Hòa Mỹ (huyện Phụng Hiệp). Môn là cây môn nước có ở đây.

pth_CTY_nga7.JPG

Thơ:


ĐI TÀU QUA NGÃ BẢY (PHỤNG HIỆP)
Đèn trơ lửa đóm nháng ngời ngời
Nhen nhúm đòi nơi chẳng thấy người
Leo lét trăng soi muôn nệm cỏ
Mịt mù sương tỏa mấy nhà trôi
Trông sao nghĩ nỗi hồi lưu lạc
Nghe nước riêng buồn lúc lộng khơi
Châu võ đêm nay may có gặp
Bốn dân nghèo khó đặng ăn chơi.

(Bá Du Lê Đình Diễm)


Ca Dao:
Sông Ngã Bảy chảy về bảy ngả
Thuyền tới đây về ngả nào đây
Buồn không theo kịp chim bay
Xa nhau biết hẹn ngày nào gặp nhau.

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền


Bài viết này là trích đoạn trong bài "Địa Danh Miền Hậu Giang"; (Bs Phan Thượng Hải) đăng
trong
phanthuonghai.com mục Lịch Sử và Thơ Văn phần Địa Lý Nước Việt.

pth_noibuonhoaphuong.JPG

    NHẠC PHẨM MÙA HÈ của TÂN NHẠC MIỀN NAM

    (Bs Phan Thượng Hải)

 

A. Cảnh Tình Mùa Hè

 

Khúc Ca Mùa Hè - Điệu Fox Trot - 1950.

         Về đây ta lắng nghe muôn cung đàn.  Đường tơ tha thiết vương hương nồng nàn

(Canh Thân)

 

Hè Về - Điệu Moderato.

         Trời hồng hồng sáng trong trong.  Ngàn phượng nắng rung ngoài song

(Hùng Lân)

 

 Nhạt Nắng - Điệu very Slow; Điệu Slow Surf - 1958.

         Tôi thương miền quê nhớ hoàng hôn trên đất xưa.  Nghe tiếng tiêu mơ màng chiều hè

(Lời: Y Vân - Nhạc: Xuân Lôi)

 

Nắng Hạ - Điệu Slow Rock.

         Bên nhau nắng hạ rộn ràng.  Cho nhau thoáng rượu nồng nàn

(Nguyễn Trung Cang)

 

 B. Tình Yêu trong Mùa Hè

 

Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè - Điệu Boston.

         Rồi nắng hạ tàn phai.  Cơn mê tình ái.  Rã rời lạc lối

(Phạm Mạnh Cương)

 

Đưa Em Vào Hạ - Điệu Ballade - 1968.

         Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi ngày.  Qua miền xa mà nghe rừng thiêng gọi lá

(Trầm Tử Thiêng)

 

Hạ Trắng - Điệu Lente Expressivo; Điệu Slow Rock.

         Gọi nắng! Trên vai em gầy.  Đường xa áo bay.  Nắng qua mắt buồn.  Lòng hoa bướm say

(Trịnh Công Sơn)

 

Hoa Vàng Mấy Độ - Điệu Boston.

         Em đến bên đời hoa vàng một đóa.  Một thoáng hương bay bên trời phố Hạ

(Trịnh Công Sơn)

 

 

C. Tình Học Trò trong Mùa Hè 

 

Lưu Bút Ngày Xanh - Điệu Bolero - 1964.

         Lòng xao xuyến mỗi khi hoa phượng rơi.  Nhắc lại câu chuyện buồn

(Thanh Sơn)

 

Nỗi Buồn Hoa Phượng - Điệu Habanera - 1966.

         Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn.  Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương

(Thanh Sơn và Lê Dinh)

 

Thương Ca Mùa Hạ - Điệu Tango Habanera - 1967 - Đức Minh hát đầu tiên.

         Hè về rồi đây tâm hồn xuyến xao.  Nhắc đến biệt ly thương cảm nỗi sầu

(Thanh Sơn và Bảo Thu)

 

 Mùa Hoa Giã Biệt - Điệu Bolero - 1966

         Mùa phượng vỹ gieo chi từ sầu biệt ly.  Nhìn hoa nắng rơi rơi nghe lòng chơi vơi

(Thy Linh Trương Hoàng Xuân) 

_____________

THƠ VÀ SỬ VIỆT - TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
 

Bs Phan Thượng Hải biên soạn
 

Được thành lập từ năm 1932 trong thời Pháp Thuộc, Tự Lực Văn Đoàn đã có công sáng tạo phong trào Thơ Mới. Thi nhân và văn nhân của Tự Lực Văn Đoàn cũng có liên quan đến lịch sử chính trị ở Miền Bắc và Miền Nam sau năm 1945.


Bố cục
     Tự Lực Văn Đoàn (trang 1)
     Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới (trang 2)
     Thi Nhân Miền Bắc từ Tự Lực Văn Đoàn (trang 15)
     Văn Nhân Miền Nam từ Tự Lực Văn Đoàn (trang 30)

 

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN


Tự Lực Văn Đoàn (1932-1942) được thành lập bởi ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam với 2 tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay và xuất bản nhiều sách. Nó chính thức có 4 Văn sĩ là Khái Hưng với 3 anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam và 3 Thi sĩ là Thế Lữ, Tú Mỡ và Xuân Diệu.

Những sách nổi tiếng của Tự Lực Văn Đoàn:
Tiểu thuyết của Nhất Linh: Đoạn Tuyệt (1934), Lạnh Lùng (1936) và Đôi Bạn (1937)
Tiểu thuyết của Khái Hưng: Hồn Bướm Mơ Tiên (1933), Nửa Chừng Xuân (1934) và Thừa Tự (1937)
Tiểu thuyết của Hoàng Đạo: Con Đường Sáng (1940)
Tập Truyện ngắn của Thạch Lam: Gió Đầu Mùa (1937)
Tập Thơ của Thế Lữ: Mấy Vần Thơ (1935)Tập Thơ của Tú Mỡ: Dòng Nước Ngược (1943)
Tập Thơ của Xuân Diệu: Thơ Thơ (1938)
Ngoài 7 người nồng cốt (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mỡ và Xuân Diệu); Tự Lực Văn Đoàn có nhiều cộng tác viên khác:

Văn sĩ: Trần Tiêu (em Khái Hưng), Thanh Tịnh, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Phạm Cao Củng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách...
Thi sĩ: Huy Cận, Đinh Hùng, Tản Đà...
Họa sĩ: Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân...


Tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn
Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.
Người trong Văn đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực văn đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách.
Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.


Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

 

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ THƠ MỚI


a) Đại Cương về Thơ Mới
Danh từ "Thơ Mới" bắt đầu xuất hiện cùng lúc với phong trào "Thi Nhân Tiền Chiến". Vào đầuthập niên 1930s cho đến lúc bắt đằu cuộc chiến tranh 1945-1954 (thời kỳ Tiền Chiến), có xuất hiện nhiều thi nhân làm những Bài Thơ Mới và sáng tạo để áp dụng thêm những Thể Thơ Mới.
Do đó đề tài Thơ Mới gồm có Bài Thơ Mới và Thể Thơ Mới. Thơ Mới luôn dùng chữ Quốc ngữ.
Một Bài Thơ trong lịch sử thi văn nước Việt có 3 loại:
        Bài Thơ Cổ Điển
        Bài Thơ Mới Có Vần
        Bài Thơ Mới Không Có Vần
* Bài Thơ Cổ Điển (Luôn Có Vần)
Thi nhân nước Việt sau khi dành độc lập nhất từ thời nhà Lý (thế kỷ thứ 10) đã có làm Thơ Cổ Điển với những Bài Thơ Cổ Điển dùng chữ Hán và chữ Nôm theo những Thể Thơ Cổ Điển.
Đường Luật Bát Cú (Bát Cú = 8 câu)
Đường Luật Tứ Tuyệt (Tứ Tuyệt = 4 câu)
Cổ Phong Tràng Thiên: Liên Tục hay gồm nhiều đoạn Tứ Cú
Lục Bát Đoản Thiên hoặc Tràng Thiên
Song Thất Lục Bát Đoản Thiên hoặc Tràng Thiên
(Bài Thơ Đoản Thiên có từ 8 câu trở xuống. Bài Thơ Tràng Thiên có nhiều hơn 8 câu).
Một Bài Thơ Cổ Điển chỉ dùng một Thể Thơ Cổ Điển mà thôi. Một Bài Thơ Cổ Điển Tràng Thiên thì luôn luôn liên tục.
Từ thế kỷ thứ 19, thi nhân của Thơ Cổ Điển dùng chữ Quốc ngữ.
* Bài Thơ Mới Có Vần
Thi nhân nước Việt dùng chữ Quốc ngữ (nhất là từ đầu thập niên 1930s) bắt đầu sáng tạo thêm những Thể Thơ Mới và làm những Bài Thơ Mới.
Những Thể Thơ Mới được sắp loại tùy theo cách gieo Vần:
Thể Thơ Mới Vần Liên Tiếp
Thể Thơ Mới Vần Ôm
Thể Thơ Mới Vần Gián Cách
Thể Thơ Mới Vần Hỗn Tạp
Thể Thơ Mới không có gì là sáng tạo mà chỉ bắt chước những Thể Thơ của Âu châu.
Vần trong các Thể Thơ Mới có những đặc tính:
Có nhiều Vần Trắc cũng như Vần Bằng
Có nhiều Vần Lơi cũng như Vần Chánh
Có thể có Lạc Vận
Một Bài Thơ Mới Có Vần Tràng Thiên có thể:
gồm những câu liên tục
gồm những đoạn tứ cú (4 câu)
Một Bài Thơ Mới Có Vần có thể:
chỉ áp dụng một Thể Thơ Mới hay Cổ Điển cho toàn bài thơ.
áp dụng nhiều Thể Thơ Mới hoặc Cổ Điển cho bài thơ (mỗi Đoạn của Bài Thơ có Thể Thơ khác nhau).
Câu thơ của Bài Thơ Mới Có Vần dùng Thể Thơ Mới có theo Luật Bằng Trắc gọi là Luật Đổi Thanh. Các thi sĩ giỏi của Thơ Mới đều dùng Luật Đổi Thanh mặc dù luật nầy không bắt buộc cho thi nhân phải dùng như luật Bằng Trắc của những Thể Thơ Cổ Điển và Bài Thơ Cổ Điển.

 

b) Thơ Mới và Tự Lực Văn Đoàn
Tự Lực Văn Đoàn dẫn đầu phong trào Thơ Mới bắt đầu từ đầu thập niên 1930s. Các thi nhâncủa Tự Lực Văn Đoàn áp dụng tất cả mọi Thể thơ Mới (với Luật Đổi Thanh) và mọi Thể thơ Cổ điển kể cả Thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú.
Theo "thái tây", đề tài của tất cả thi nhân Tự Lực Văn Đoàn (dẫn đầu là Xuân Diệu và Huy Cận) là tình yêu và tình thương nhớ, với tính cách sầu buồn, lãng mạn nhưng cũng đầy lý tưởng.
Thế Lữ và nhất là Tú Mỡ còn có nhiều đề tài rộng rãi hơn về nhân sinh trong xã hội đương thời Pháp thuộc cũng như cảnh vật.
Tú Mỡ dùng thể Thơ Cổ điển để chọc ghẹo các thi nhân và văn nhân theo "thái tây" dùng chữ Quốc ngữ nhưng họ vẫn còn ảnh hưởng đạo Khổng và còn có tính cách trưởng giả. Đặc biệt là Tú Mỡ nhắm vảo Tản Đà và Nam Phong tạp chí...
Đây là Thơ về 2 ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh:
Nước Nam có hai người tài
Thứ nhất xừ Ĩnh thứ hai xừ Uỳnh
Một xừ béo núng rung rinh
Một xừ lều dều như hình cò hương
Không vốn liếng chẳng ruộng nương
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu.
(Báo Phong Hóa) 22-7-32


Các thi nhân của Tự Lực Văn Đoàn trong thời Pháp Thuộc đã để lại nhiều bài thơ tuyệt tác và tạo ảnh hưởng sâu đậm đến những thi nhân Thơ Mới sau nầy trong sáng tác những đề tài tình yêu.
* Thơ Tình
YÊU
Yêu, là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chẳng được yêu?
Cho rất nhiều, song chẳng nhận bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu là chết ở trong lòng một ít
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vướn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.
(Xuân Diệu)


MỘT TÌNH YÊU
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất,
Đem cho em kèm với một lá thư.
Em không lấy là tình anh đã mất
Tình đã cho không lấy lại bao giờ
Thực thì mỏng như suốt đời mộng ảo,
Tình thì buồn như tất cả chia li,
Xếp khuôn giấy để hoài trong túi áo,
Mãi trăm lần mới gấp lại đưa đi.
Em xé như lòng non cùng giấy mới
Mây dần trôi hôm ấy phủ sơn khê
Thôi thôi nhé! Hoa đã sầu dưới đất
Cười trên cành sao được nữa em ơi!
Anh chỉ còn một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất đi rồi!
(Xuân Diệu)


CHIỀU
Hôm nay, trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương.
Phất phơ hồn của bông hường,
Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.
Nghe chừng gió nhớ qua sông,
E bên lau lách thuyền không vắng bờ.
- Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn...
(Xuân Diệu)


TRÀNG GIANG
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy giòng
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sầu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê rờn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận)
NGẬM NGÙI
Nắng chia nửa bãi; chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
(Huy Cận)


CÂY ĐÀN MUÔN ĐIỆU
Tôi là người bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi:
Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc, câu cười,
Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng,
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng.
Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than,
Cảnh thương tâm, ghê gớm, hay dịu đàng.
Cảnh rực rỡ, ái ân hay dữ dội.
Anh dù bảo: tính tình tôi hay đổi,
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa: nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ,
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối, hay ngây thơ,
Cũng như vẻ Đẹp cao siêu, hùng tráng
Của non nước, của thi văn, tư tưởng.
Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân;
Ánh tưng bừng linh hoạt nắng trời xuân;
Vẻ sầu muộn âm thầm ngày mưa gió;
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
Nét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay;
Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy;
Thú sán lạn mơ hồ trong ảo mộng;
Chí hăng hái đua ganh đời náo động:
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê.
Tôi sẵn lòng đau vì tiếng ai bi,
Và tôi cảm khái bởi những lời hăng hái.
Tôi ngợi ca với tiếng lòng phấn khởi,
Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng,
Tôi véo von theo tiếng sáo lưng chừng,
Tôi yên ủi với tiếng chuông huyền diệu,
Với Nàng Thơ, tôi có đàn muôn điệu;
Với Nàng Thơ, tôi có bút muôn màu;
Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm mầu;
Lấy Thanh Sắc trần gian làm tài liệu.
(Thế Lữ)


NHỚ RỪNG
Gậm một khối căm hờn trong củi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khing lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẵm,
Nay sa cơ, bị nhọc nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả, cây già,
Tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài,
Trong chốn thảo hoa, không tên, không tuổi
Nào những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặn ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy riêng ta vùng bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm bầu uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẽ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi chẳng mong còn thấy lại bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng kiêu hãnh của ta ơi!
(Thế Lữ)


MƯỜI THƯƠNG
Một thương tóc lệch đường ngôi,
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san.
Ba thương hôm sớm điểm trang,
Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau.
Năm thương lược Huế cài đầu,
Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên.
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền,
Tám thương động tí nữ quyền giở ra.
Chín thương cô vẫn ở nhà,
Mười thương... thôi để mình ta thương mình...
(Tú Mỡ)


TƯƠNG TƯ
Vì ai nên nỗi nhớ cùng thương
Một mối tơ tình dạ vấn vương
Sáu khắc mơ màng hình bạn ngọc
Năm canh nhớ tưởng bóng người vàng
Ruột tằm chín khúc vò tơ rối
Giấc điệp năm canh diễn khắc trường
Muốn nhắn cùng ai, ai nhắn hộ
Mòn đuôi con mắt giải sông Tương.
(Tú Mỡ)


Le Sonnet d'Arvers, paru en 1833 dans le recueil poétique “Mes heures perdues” de Felix Arvers,
est l'un des sonnets les plus populaires du XIXe siècle.
LE SONNET
« Mon âme a son secret, ma vie a son mystère:
Un amour éternel en un moment conçu.
Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.
Hélas! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.
Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas;
À l'austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle:
« Quelle est donc cette femme? » et ne comprendra pas. »
(Felix Arvers)


TÌNH TUYỆT VỌNG
Lòng ta chôn một khối tình,
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu,
Mà người gieo thảm như hầu không hay.
Hỡi ơi, người đó ta đây,
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân?
Dẫu ta đi trọn đường trần,
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi?
Người dù ngọc nói hoa cười,
Nhìn ta như thể nhìn người không quen.
Đường đời lặng lẽ bước tiên,
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình.
Một niềm tiết liệt đoan trinh,
Xem thơ nào biết có mình ở trong.
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng:
"Người đâu ta ở mấy dòng thơ đây?"
(Khái Hưng Trần Khánh Giư dịch)


* Thơ về Nhân sinh trong xã hội Pháp Thuộc
TRỤY LẠC
Rượu ân ái đắm ngây lòng chán nản
Rót tràn đi, rót nữa, tình nhân ơi!
Ta lắng nghe gió thoảng ở bên tai
Có phải chăng vẫn réo lời thống khổ?
Cứ rót nữa! Bao giờ mê quá độ
Vơ tóc em lau cặp mắt đờ say
Rồi trông ra màu khói thuốc mù bay
Ta chỉ thấy những màu tươi sặc sỡ.
Ồ những tấm thân nõn nà nghiêng ngửa!
Những tràng cười khoái lạc, giọng dòn tan!
Những điệu lẳng lơ, khiêu khích, nồng nàn!
Những khúc hát lả lơi hay uỷ mị!
Hỡi gái giang hồ! Bạn tình ô uế!
Biết chăng em, đó là thú mê tơi,
Để cho ta không thiết đến ngày mai.
Đời ta nữa. - Ngày mai là lúc tỉnh.
Cũng như em, tâm hồn ta đã lạnh
Tự lâu rồi, từ cái thuở xa xăm
Mà ánh sáng chim ca, mà bóng gió âm thầm.
Hay nét hoa tươi hay màu lá rụng
Cũng đủ khiến cho lòng ta rung động.
- Ta ngây thơ như cô gái đương xuân,
Nhưng đến nay, cô ấy trải phong trần
Đã dày dạn, thấy đời thô rõ quá!
Lòng đã tắt không còn tin tưởng nữa,
Thì quên đi, quên hết để say sưa,
Để mê ly trong thú ái ân vờ
Để trốn tránh những ngày giờ trống trải.
Em ơi, ta không dám để lòng ta nhớ lại
Vì đôi phen trong những lúc điên cuồng
Mảnh hồn thơ còn thoi thóp giữa đêm suông
Bắt ta tiếc quãng đời trong trắng mãi.
(Thế Lữ)


BÚT SẮT CƯỚI BÚT LÔNG
Anh sắt mà cưới chị Lông
Mối manh ai mách? Tơ hồng nào se?
Khi xưa mới cưới nhau về
Chồng yêu vồn vã, vợ e sượng sùng
Đông Tây buổi mới lạ lùng
Bởi chưng ngôn ngữ bất đồng chán nhau
Sì sồ anh nói làu làu
Ngẩn ngơ chị cứ lắc đầu rằng "không"...!
Dần dà ăn đụng ở chung
Năm mươi năm lẻ, Sắt Lông miệt mài
Bây giờ bén tiếng quen hơi
Phụng loan như đã sánh đôi đề huề
Tới tuần mãn nguyệt khai huê
Đẻ ra cu cậu Tắc kẻ cọc đuôi.
(Tú Mỡ
)

BỐN CÁI MONG CỦA THẦY PHÁN
Làm nghề thầy ký với thầy thông
Sống ở trên đời có bốn mong:
Mong tháng chóng qua, tiền chóng lĩnh
Mong giờ mau hết, việc mau xong
Mề đay mong được dăm mười chiếc
Lương bổng mong tăng sáu bẩy đồng
Hãy tạm thời nay mong thế thế
Còn bao mong nữa xếp bên lòng.
(Tú Mỡ)


KHUYÊN AI KÉN VỢ
Lấy vợ khuyên ai kén vợ hiền
Kén người đức hạnh, bậc chân chuyên
Tốt duyên gặp được người như nguyện
Giá nọ nhà vàng đúc cũng nên
Lấy vợ khuyên ai kén vợ xoàng
Cần chi giàu có với quan sang
Quí hồ nội trợ tề gia giỏi
Cái cảnh gia đình mới vẻ vang
Lấy vợ khuyên ai cốt chữ tình
Xin dừng vụ lợi với ham danh
Mấy người tiểu kỷ vì danh lợi
Khó trọn cùng nhau nghĩa tử sinh
Lấy vợ không nên kén vợ giàu
E rằng ỷ của lại khinh nhau
Hổ thay ! Cái tiếng nhờ lưng vợ !
Tiếng ấy anh hùng há chịu đâu !
Lấy vợ không nên lấy ả đầu
Hoa tàn, nhị rữa, tiết còn đâu
Chỉ quen nghề nghiệp nhà son phấn
Chẳng trách phương ngôn đã có câu (*)
Lấy vợ không nên lấy vợ nhiều
Một bà thôi cũng đủ thương yêu
Ai về nhắn nhủ phường tham thịt
Cả lẻ làm chi, tổ ỷ eo…!
(Tú Mỡ)
(*) Chú thích: Phương ngôn rằng: “Lấy quan, quan cách, lấy khách, khách về Tàu, lấy nhà giàu,
nhà giàu hết của”.


* Thơ Xướng Họa giữa Tú Mỡ và Tản Đà
GỬI ĐÙA BÁC TÚ MỠ
(Xướng)
Tôi, bác, sao mà bác Tú ơi,
Cùng tên, ta lại ở đôi nơi!
Khói mây non Tản tôi gầy lắm
Bơ sữa thành Long bác béo hoài
Cốt có rượu thơ người sống nổi
Quản chi mưa gió cuộc đời trôi
Thơ này Hiếu gửi đăng “Phong hoá”
Hiếu có thanh nhàn thử hoạ chơi.
(Tản Đà)


(Họa)
Kể chi xa cách, bạn thơ ơi,
Lời gửi thăm nhau miễn tới nơi.
Đủ mỡ, tôi không phì nộn lắm,
Tăng sương! Bác chớ quở quang hoài!
Rượu chè, tiên vẫn say sưa khướt?
Thơ phú người thuê, viết lách trôi?
Nghe nói Hiếu gầy hay Hiếu ốm?
Hôm nào thư thả Hiếu lên chơi.
(Tú Mỡ)
(*) Chú thích: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu có cùng tên Hiếu.


TẢN ĐÀ CỐC TỬ
(Xướng)
Nghe đồn bác Hiếu, Tản Đà
Mở hàng lý số tỉnh Hà nay mai
Chừng bác thấy lắm ngài “Lốc Cốc”
Chỉ chuyên môn nói róc ăn tiền
Tán hưu tán vượn huyên thiên
Nói thánh nói tướng như tiên như thần
Nghề bẽm mép kiếm ăn cũng dễ
Chẳng khổ như cái nghệ làm văn
Lao tâm trí, tổn tinh thần
Nhà thơ vắt óc tìm vần gọt câu
Lắm lúc bí gan rầu ruột thắt
Thức đêm thâu mỏi mắt phờ râu !
Nhọc nhằn ai biết công đâu
Để cho thiên hạ giải sầu mua vui
Nghề thơ chẳng đủ nuôi thi sĩ
Nên bạn tôi phải nghĩ đường xoay
Nhà Nho chữ tốt văn hay
Thời khoa lý số hẳn tay cũng tái
Vả xưa đã dùi mài Kinh Dịch
Báo An Nam chú thích tinh tường
Ngày nay đoán việc âm dương
Hẳn không bổ phượu như phường ba hoa
Nào hãy đến Tản Đà Cốc Tử
Quẻ Càn Khôn hỏi thử xem sao
Xem tài thầy thấp hay cao
Mười câu họa có câu nào sai chằng ?
Dù thầy có tán trăng tán cuội
Nghe nhà thơ lời nói văn hoa
Nhất khi rượu đã khề khà
Tán đâu ra đấy đậm đà có duyên
Thời khách mất đồng tiền đặt quẻ
Cũng vui tai và sẽ vừa lòng
Nhưng xin thầy chớ “nói ngông”.
(Tú Mỡ)


TẢN ĐÀ CỐC TỬ
(Họa)
Nghe ai bỉ báng Tản Đà
Báo chương lên tiếng tỉnh Hà mỉa mai
Ừ ! Tớ vẫn học tài Quỷ Cốc
Nhưng chẳng hay nói róc lấy tiền
Thiên hương chưa bén duyên thiên
Rượu thơ còn vẫn chén tiên câu thần
Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ
Rẻ rúng thay là nghệ làm văn !
Thâu đêm hao tổn tinh thần
Đèn xanh chiếc bóng xoay vần từng câu
Nào ai biết gan sầu ruột thắt
Thế mà sao mỏi mắt cùn râu
Nỗi niềm thực thế vì đâu ?
Quá thương cất chén gượng sầu, làm vui
Đấng tạo hóa còn nuôi thi sĩ
Các thánh sư phải nghĩ đường xoay
Dẫu rằng lý số không hay
Chu Công, Khổng Tử ứng tay nên tài
Từ thuở nhỏ dùi mài Kinh Dịch
Báo An Nam nghĩa thích đã tường
Việc đời hai chữ “Âm Dương”
Tiếc thay mất giá tại phường ba hoa
Trời mới bảo Tản Đà tiểu tử
Vạch Kiền Khôn xét thử tại sao ?
Trổ tài thần thánh tuyệt cao
Mà cho thiên hạ xem vào phải chăng
Mặc những kẻ tán trăng tán cuội
Sá chi ai lời nói ba hoa
Giang sơn đương lúc khề khà
Nghe thơ Tú Mở đậm đà có duyên
Riêng với bác miễn tiền đặt quẻ
Đoán thật hay bác sẽ ghê lòng
Tuổi già nay tớ không ngông!
(Tản Đà)


THI NHÂN MIỀN BẮC TỪ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN


Trong 8 người chánh của Tự Lực Văn Đoàn, cuộc đời chính trị theo giòng lịch sử của những thi
sĩ hoàn toàn trái ngược với các văn sĩ.
Ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bôn ba rồi phải tự tử chết, ông Hoàng Đạo NguyễnTường Long (1907-1948) và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân (1910-1942) bị bệnh chết sớm cònông Khái Hưng Trần Khánh Giư bị thủ tiêu (1947). Ông Thạch Lam là cha vợ của Trung tướngNgô Quang Trưởng (của VNCH).
Trong khi các văn sĩ thì hoặc là “nghịch gió” hay “lặng gió”, các thi sĩ cũ của Tự LựcVăn Đoàn rất thành công “cuốn theo chiều gió”. Đó là trường hợp của Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ và Thế Lữ.


a) Thế Lữ và Tú Mỡ

Thế Lữ (1907-1989) tên thật là Nguyễn Đình Lễ rồi đổi là Nguyễn Thứ Lễ. Còn có hiệu là Lê Ta tức là “Lê Ngã” (Ngã là tiếng Hán, Ta là tiếng Nôm) tức là “lê” ngã “lễ”! Ông sinh và chết ở Hà Nội. Ông có tham gia kháng chiến, chuyên về kịch. Sau 1945, ông Thế Lữ ở lại ngoài Bắc chỉ chuyên về Kịch Nghệ mà thôi chứ không làm một bài thơ nào nữa.

Ông Thế Lữ lấy vợ lúc 17 tuổi. Người vợ đầu (lớn hơn ông 2 tuổi) dắt 3 đứa con nhỏ di cư vào Nam. Ông ở lại với đức con cả và lấy vợ thứ nhì là một “Nghệ sĩ Nhân Dân”.

Tú Mỡ (1900-1976) tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh và chết ở Hà Nội. Tú Mỡ là bạn đời của Thế Lữ, vẫn tiếp tục viết thi văn sau 1954 ở ngoài Bắc. Con rể là nhà văn Doãn Quốc Sỹ di cư vào Nam. Dòng thơ của ông có thay đổi sau năm 1945. Trong kháng chiến 1945-54, Tú Mỡ làm thơ ủng hộ kháng chiến ở Miền Bắc và chống Pháp.

 

CÂU CHUYỆN "TƯỚNG ĐI ỈA"

Tết ta chơi tam cúc,

Lỡ khi tướng phải chui,

Ta thường nói đùa vui:

“A ha! Tướng đi... ỉa!”

Nhưng ai có rõ nghĩa

Câu ấy ở đâu ra?

Đây xin kể nôm na

Điển tích này cũng mới:

Tháng mười một năm ngoái,

Tướng Alếchxăngđờri (*)

Nướng tét ở biên thuỳ

Hai tiểu đoàn chủ lực.

Thực dân bèn cách chức,

Lôi anh khác lên thay.

Đờlatua tướng này (*)

Nghe đồn tay cũng đảm

Cầm quân vừa một tháng,

Quan tướng đã vô tình

Lại đem cúng “Việt minh”

Hai tiểu đoàn thiện chiến!

Thực dân đau chết điếng,

Chỉ những thua là thua!

Cách cổ Đờlatua, (*)

Cử Sài lang kế chức. (*)

Tướng bị chui hậm hực...

Hãng tin A.F.P.

Chữa khéo: “tướng phải về

Vì ngài mắc kiết lị”

Thực là câu chí lý!

Người Việt Nam chúng ta

Cũng bảo quả không ngoa:

“Tướng thua tướng đi... ỉa”

Ôi mớ đời mai mỉa!

Đánh chác bốn năm nay,

Bao tướng ta đổi thay,

Tình hình vẫn bi đát.

Nay ông tướng Đờlát (*)

Họ Đờ Tátxinhi (*)

Mới lên bài đã bi:

Đông Bắc và Vĩnh Phúc

Bảy tiểu đoàn ngã gục.

Canh bạc gặp hồi đen,

Cứ mất kết liền liền,

Rồi cũng đến kiết lị

Cắp đít về Tây... ị!

(Tú Mỡ)

17-01-1951

 

(*) Chú thích: Các Tướng của Pháp là Alexandrie, De Latour, Salan, De Lattre De Tassigny.

 

TAM KHÍ DE TASSIGNY

Nhớ xưa đời Tam Quốc

Chuyện tam khí Chu Du:

Đô đốc bên Đông Ngô

Bị Khổng Minh chọc tức,

Ba lần quá uất ức

Đến nỗi hộc máu tươi,

Lúc chết còn kêu trời:

"Sinh Du hà sinh Lượng!"

Uổng một đời danh tướng

Kể cũng đáng buồn thay

Chuyện kháng chiến ngày nay:

Ta đánh thực dân Pháp.

Tướng giặc tên De Lattre

Họ de Tassigny

Vừa chết, bệnh não gì?

Chẳng qua vì ức đó!

Trận Ninh Bình dạo nọ,

Có một mống con trai

Đã đóng lon quan hai

Bị quân ta khử mất,

Thế là một lần uất.

Rồi quan tướng trổ tài

Lập chiến lược "vòng đai"

Tưởng là ghê gớm lắm!

Té ra "vòng đai trắng"

Lại hoá "vòng đai hồng"

Quân ta đánh tứ tung,

Vòng đai đứt bùng bục

Thế là hai bận ức.

Sau đến trận Hoà Bình,

Quan tướng keo tinh binh

Chiếm đóng ngay thị xã.

Tưởng chiến công rực rỡ

Nào ngờ bị bao vây

Ròng rã ba tháng nay,

Sống dở và chết dở.

Quân vào cạm mất gở

Tướng lại chuồn về

Tây Càng nghĩ lại càng gay

Thế là ba bận ức.

Tức cha chả là tức!

Nghĩ nát ruột thối gan

Ốm rồi chết. Đời tàn!

Tiêu danh tiêu sự nghiệp.

Chẳng hay trước khi chết

Tướng có kêu sầu bi:

"Trời sinh Tassigny

Sao sinh Võ Nguyên Giáp!" (*)

(Tú Mỡ)

09-02-1052

(*) Chú thích: Tú Mỡ so sánh Tướng De Lattre De Tassigny, Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp như Châu Du và Võ Nguyên Giáp như Khổng Minh trong thời Tam Quốc.

Sau Hiệp định Genève (1954), Tú Mỡ làm thơ chống Miền Nam và chính phủ Ngô Đình Diệm.

TỨ ĐẠI CỦA BÀ LỚN

Vừa rồi thống Diệm mới phong cho

Thím nó (tức là vợ chú Nhu)

Cái tước "Cộng hòa bà lớn nhất"

Để dương danh giá của... bà to...

Một là cái bọng của bà to,

Phề phệ y như cái bọng bò

Vắt khố dân cày bà ních bẫm

Bao năm bèo bổ tức cùng tô.

Hai là cái mặt của bà to

Phèn phẹt y như mặt hổ phù

Bác thống cho ra làm đại diện

Còn trơ hơn thớt, cộp hơn mo.

Ba là cái miệng của bà to

Xoạc tận mang tai tựa miệng sò

Quàng quạc kêu gào xui phụ nữ

Bán mình đăng lính với đi phu.

Bốn là "nhân vị" của bà to,

Việc "ngoại giao" mần giúp bác Ngô,

Rất được vừa lòng quan chủ Mỹ

Ngày đêm khăng khít bợ cơ đồ.

Bác nó làm to, thím cũng to

Bốc nhau thối hoắc thật nhiều trò

Đúng như cửa miệng người ta mỉa

"Một đứa làm quan cả họ nhờ!"

(Tú Mỡ)

03-05-1957

(*) Chú thích: Bà Lớn đây là bà Ngô Đình Nhu. b) Xuân Diệu và Huy Cận

* Xuân Diệu
Xuân Diệu (1916-1985) tên thật là Ngô Xuân Diệu, sinh ở Bình Định (Qui Nhơn) và chết ở Hà Nội. Xuân Diệu tham gia kháng chiến với em rể là Huy Cận.
Xuân Diệu chỉ cưới vợ trong sáu tháng nhưng sau đó sống độc thân cho đến khi mất do đó ông bị nghi là người đồng tính luyến ái. Tiếng đồn rằng Xuân Diệu và Huy Cận là bạn tình với nhaunhư Verlaine và Rimbaud (2 thi hào đồng tình luyến ái với nhau ở Pháp).
Xuân Diệu có làm bài thơ về Verlaine và Rimbaud vô tình bộc lộ tình cảm của mình.


TÌNH TRAI
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quên
Những bước song song xéo dặm trường
Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương
Họ đi, tay yếu trong tay mạnh
Nghe hát ân tình giữa gió sương
Kể chi chuyện trước với ngày sau
Quên gió môi son với áo màu
Thây kệ thiên đường và địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau....
(Xuân Diệu)


Sau 1945, Xuân Diệu tiếp tục làm thơ nhưng không còn lãng mạn mà rất theo đúng chiều hướng chính trị của chế độ Miền Bắc.
Đây là 3 bài thơ ca tụng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông từ 1945 đến khi chủ tịch qua đời.


ẢNH CỤ HỒ
Cụ Hồ, ấy là Việt Nam sinh đẻ,
Nên nghìn xưa còn lại vẻ nhà nho,
Trải thế gian qua biết mấy địa đồ,
Môi bất hủ vẫn nụ cười nước Việt;
Vẫn cái trán non cao, vẫn mắt ngời nước biếc,
Vẫn chòm râu hoà nhã của phương Đông.
Dân sinh ra, nên nói tựa dân đồng,
Lời chuyện vẫn lại nôm na tục ngữ.
Áo màu xám vẫn giữ tro vạn thuở
Của nương dâu, bãi đậu hoặc vườn ngô.
Sống rau dưa, giày mũ vải thô sơ,
Đời giản dị cũng đượm màu hiền triết.
Cụ Hồ đã hoá làm sông núi,
Mỗi nét lông mày mỗi nét non.
Dân chúng tưởng mong Hồ Chủ Tịch
Nghe êm trong dạ, ấm trong hồn.
Cụ Hồ quen thuộc thân yêu quá.
Dân chúng thiêng liêng vẽ tự lòng,
Vẽ ảnh cụ Hồ không giống Cụ,
Vì xem Chủ Tịch tựa non sông.
Tha hồ thêm thắt theo yêu mến,
Miễn được dung nhan để ngắm gần,
Lòng tựa Nguyệt Nga trong chuyện cũ,
Lấy trong bức ảnh gửi niềm thân.
Trẻ con sớm giậy thoảng tơ vương,
Bác ở trong lòng, biết mấy thương!
Bô lão đêm nằm mơ lứa tuổi,
Thấy vui như nhớ một vừng dương.
Gánh rau, gánh củi, gánh hoa hương
Vắt giọt mồ hôi, đặt xuống đường,
Phe phẩy nón cời, ngồi nhớ Cụ:
- Nghĩ nhiều, tóc có ngả màu sương?
Cái cưa, cái đục, cài cày sâu
Nhớ mắt tinh anh, nhẹ bớt sầu.
Chiếc bút, chiếc gươm như chiếc súng
Nghe câu khuyên bảo tựa vào nhau.
Mai mai hoà điệu những đêm đêm,
Như tiếng sông tuôn, tiếng gió thầm,
Lòng của dân gian yêu Chủ Tịch
Hoá thành khúc nhạc toả muôn năm.
(Xuân Diệu)
1945


THƠ DÂNG BÁC HỒ
Mỗi lần tranh đấu gay go,
Chúng con đã được Bác Hồ đến thăm.
Chúng con dưới vực sai lầm,
Đang vươn mình, được Bác cầm tay lên,
Lời Cha rất mực dịu hiền,
Như là thấm nhẹ, mà xuyên vào lòng,
Con ngồi trước Bác mênh mông,
Tội nhiều, chưa dám thẳng trông Cha già.
Bác cười, vẫn đỏ nước da,
Nhưng trên trán rộng tóc đà bạc hơn.
Bác lo nghìn việc giang sơn,
Lo từng tấm áo bát cơm đồng bào;
Nghĩ từ khẩu súng, con dao,
Lại thêm Bác phải nghĩ vào chúng con.
Riêng con lầm lạc tâm hồn,
Người tuy trong Đảng, hồn còn ở xa.
Mỗi người, một lỗi xót xa,
Bốn trăm người, lỗi bao la nặng nề.
Trên đầu tóc Bác sương ghi,
Chắc đôi sợi đã bạc vì chúng con.
- Nghĩ thêm hối hận bồn chồn,
Nhưng lời Bác dạy sắt son vững bền:
"Thoát bùn, nở đoá hoa sen,
Bùn tanh mà vẫn lọc nên hương trời".
Mắt Cha nghìn thuở sáng tươi
Dìu cho con vượt qua đời tối tăm.
Hôm nay 19 tháng 5,
Lòng con vui sướng như trăm tiếng cười.
Lỗi lầm đã nói được vơi,
Hồn như nở lại dưới trời Chí Minh.
Ngày sinh nhật Bác quang vinh,
Là ngày sinh nhật hồn xanh muôn người.
(Xuân Diệu)
19-5-1953


KHÓC BÁC
Bây giờ mới khóc, Bác ơi!
Giật mình, hăm bốn hôm rồi đó sao?
Nhớ thương nào có nguôi nào,
Tháng ngày càng khắc Bác vào tim con.
Vẳng nghe giọng nói Bác luôn,
Bác đang cười chuyện, Bác còn vẫy tay...
Bây giờ là mới khóc đây,
Bác ơi, không phải lệ đầy bên trên,
Mà sâu giọt lệ dưới nền,
Cuốn từ gan ruột đưa lên tâm hồn.
Mến yêu, thương Bác không cùng,
Thương câu Bác dặn, thương lòng Bác thương.
Bác trong sáng quá, là gương;
Bác kiên cường, chính kim cương trong đời.
Bác hiền như hạt gạo thôi,
Chí: no thiên hạ, tình: nuôi đồng bào;
Bác là bóng cả cây cao
Gió đâu, chim tự xứ nào cũng che.
Bác gánh cả cuộc đời
Mà đôi vai chẳng chật
Đầu Bác ngẩng vòm trời
Lòng Bác ôm mặt đất.
Bác giản đơn như sự thật
Khi nói thích đùa vui
Bác sống như sự sống
Trí tâm luôn sáng ngời.
Bác ơi! Cháu một đời người,
Nhớ yêu Bác mãi đất trời ngàn năm.
(Xuân Diệu)
27-9-1969


Đây là bài thơ hiếm hoi tỏ tình lãng mạn theo thể Đường Luật làm lúc về già:
THƠ BÁT CÚ
Em tới em đi ngọn gió lành
Gió hương thương mến đến phòng anh
Bỗng oà gặp mặt bao thương nhớ
Rồi lại chia tay giữa vạn tình
Em ở nửa giờ thương mỗi nét
Em đi hai tháng ngóng từng canh
Anh như cây cối chờ xuân biếc
Hôm sớm trong mong ngọn gió lành.
(Xuân Diệu)


Khi chết Xuân Diệu được Tố Hữu làm bài thơ Đường Luật để tiễn đưa:
GỬI THEO ANH XUÂN DIỆU
Ôi, sống làm sao nếu chẳng yêu
Hoa chưa nở sáng đã tàn chiều
Bơ vơ đi giữa thời khôn dại
Giây phút vui qua lại khổ nhiều
Một tiếng thơ rơi ngàn lệ thắm
Vắng Anh, người bớt ấm bao nhiêu!
Thời gian ơi, nhớ chàng Xuân Diệu
Dào dạt tình dâng nhập thủy triều.
(Tố Hữu)
1985


Và Huy Cận cũng có bài thơ:
DIỆU ƠI, DIỆU ĐÃ VỀ YÊN TỊNH
Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh
Cận hãy còn đây trăm xốn xang,
Cận mới về thăm quê Nghệ Tĩnh
Gặp tuần trăng sáng ngẩn ngơ trăng.
Cận ra Thanh Hoá nằm bên biển
Biển lại dồn xao không phút ngưng.
Diệu đã đi xa về tới bến
Cận đang biển động sóng lừng dâng.
"Hồi kí song đôi" đang viết dở
Hai chương tuổi nhỏ chép xong rồi
Đời ta, trang khép, còn trang mở
Cận viết đầy trang, tay mới xuôi.
Biển lớn băng qua, ấy biển đời
Biển vào vũ trụ, ánh sao mời
Diệu dò thế giới bên kia trước
Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.
(Huy Cận)
Sầm Sơn sáng 27-7-1986


* Huy Cận
Huy Cận (1919-2005) tên thật là Cù Huy Cận, sinh ở Hà Tĩnh và chết ở Hà Nội, thọ 86 tuổi.
Con đường chính trị của Huy Cận bắt đầu khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (15-8-1945). Hồ Chí
Minh và Việt Minh về Hà Nội.
Hồ Chí Minh sai Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào Huế buộc vua Bảo Đại phải thoái vị. Ngày 25-8-45, vua Bảo Đại ban chiếu thoái vị, chấm dứt thời đại quân chủ của nước Việt Nam bằng câu nói nổi danh: “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”. Ngày 30-8-45, trên lầu Ngọ Môn trước mặt dân chúng, ông trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh và sau đó ông di hành ra Hà Nội (Thăng Long) nhận làm Cố Vấn cho Chính Phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh.
Thật ra Hồ Chí Minh lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 28-8 và ra mắt vào ngày 2-9-45. Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam thống nhất (3 kỳ), thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chính phủ gồm đa số là Việt Minh.
Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời VNDCCH (thành lập ngày 28-8-1945), đa số là Việt Minh
(VM):
Chủ Tịch và Bộ Trưởng Ngoại Giao: Hồ Chí Minh (VM)
Bộ Trưởng Nội Vụ: Võ Nguyên Giáp (kiêm Thứ Trưởng Quốc Phòng) (VM)
Bộ Trưởng Quốc Phòng: Chu Văn Tấn (VM)
Bộ Trưởng Tuyên Truyền: Trần Huy Liệu (VM)
Bộ Trưởng Tư Pháp: Vũ Trọng Khánh (VM)
Bộ Trưởng Y Tế: Bs Phạm Ngọc Thạch (VM)
Bộ Trưởng Lao Động: Lê Văn Hiến (VM)
Bộ Trưởng Tài Chính: Phạm Văn Đồng (VM)
Bộ Trưởng Thanh Niên: Dương Đức Hiền (Dân Chủ)
Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục: Vũ Đình Hoè (Dân Chủ)
Bộ Trưởng Kinh Tế: Nguyễn Mạnh Hà (không đảng phái)
Bộ Trưởng Giao Thông Công Chánh: Đào Trọng Kim (không đảng phái)
Bộ Trưởng Cứu Tế Xã Hội: Nguyễn Văn Tố (không đảng phái)
Ủy Viên Chính Phủ: Cù Huy Cận (VM)
Nguyễn Văn Xuân (không đảng phái?)


Sau đó Huy Cận từng làm Bộ Trưởng Bộ Canh Nông trong chính phủ của Hồ Chí Minh và là đảng viên Cộng Sản cao cấp trong kháng chiến (1946-54).
Sau 1954 Huy Cận tiếp tục làm thơ và chính trị, từng giữ những chức Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa và Bộ Trưởng đặc trách Văn Hóa Thông Tin trong chính phủ Bắc Việt.
Ông có 2 vợ và vợ đầu là em gái của Xuân Diệu (sinh ra Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ).
Từ 1945, Huy Cận làm thơ tuyên truyền cho chế độ Miền Bắc, từ kháng chiến chống Pháp cho đến chiến tranh giữa Miền Nam và Miền Bắc.


CA DAO KHÁNG CHIẾN: TĂNG GIA SẢN XUẤT
Cụ Hồ nói có sai đâu,
Tăng gia sản xuất làm giàu nước ta.
Trồng khoai trồng đậu trồng cà,
Tăng gia sản xuất, nuôi gà, nuôi heo.
Ruộng cấy lúa, bãi trồng ngô,
Đất đồi trồng sắn cũng no với đời.
Yêu anh em nhắn gửi lời
Ta no ta đánh tiệt nòi thực dân.
Vườn em tuy nhỏ anh ơi!
Cũng dăm gốc mía, cũng mười luống rau.
Bao giờ ta lại gặp nhau
Mía thời ngọt giọng, canh rau mát lòng.
(Huy Cận)
Việt Bắc, 1947


TẶNG ĐẢNG
Bốn nghìn năm nước mắt mồ hôi
Máu đỏ trộn với phù sa dựng nước.
Chân bấu đất, cha ông dần lấn bước
Mô đời thêm như những bãi tân bồi...
Đảng thân yêu, Đảng tiếp tục nghìn đời
Sống dũng cảm của cha ông đau khổ.
Đảng thức gọi những sông Hồng thắm đỏ
Làm lại địa dư cuộc sống con người.
Chúng tôi đi, khổ với khổ thành đôi,
Thành ba bốn, thành muôn nghìn sức lực.
Dân mất nước, ta quyết giành lại nước;
Đời chẳng ra chị, ta dựng lại đời.
Chúng tôi tiến lên, sắc tựa dao mài,
Tựa cây mùa xuân nổi chuyền nhựa mới,
Tựa dãy Trường Sơn núi liền với núi
Khâu liền khâu xương sống của tương lai.
Như bình minh mở quạt nắng làm ngày
Chúng tôi toả tám phương trời theo Đảng.
Nửa đất nước, nửa cuộc đời chưa sáng,
Chúng tôi đây tay mãi nối liền tay.
(Huy Cận)
12-1959


HÔM NAY CON VÀO ĐỘI
Hôm nay con vào đội
Lòng cha vui phấp phới
Tặng con ảnh Lê-nin
Huy hiệu Hồ Chí Minh
Ông Lê Nin trọn đời
Lo giải phóng thế giới
Cho người sống với người
Không còn là chó sói
Thuở nước còn nô lệ
Bác Hồ theo Lê-nin
Bác trèo non vượt bể
Khăn gói một lòng tin
Bác họp mặt anh em
Cùng khổ trong nhân loại
Trăm dân tộc vùng lên
Phá ngục xiềng từ đấy.
Năm mươi năm dầu dãi
Đời Bác chẳng còn riêng
Đời Bác, đời dân tộc
Một gắn bó thiêng liêng
Con ơi, không gì quý
Hơn độc lập, tự do
Được sống và chiến đấu
Trong thời đại Bác Hồ
Con, cháu ngoan của Bác
Mang hình Bác trong tim
Cuộc đời con có hướng
Như địa bàn có kim
Hôm nay con vào đội
Ngực non khăn đỏ chói
Tặng con ảnh Lê-nin
Huy hiệu Hồ Chí Minh
(Huy Cận)
Tháng 3-1967


HAI EM BÉ MIỀN NAM BẺ GÃY MỘT TRẬN CÀNG CỦA ĐỊCH
Một toán quân địch
Đói lả đói la
Định lùng du kích
Ập vào làng ta.
Làng vắng cả rồi
Dì cô chú bác
Chẳng có một người
Xáp thây lũ giặc.
Cơn đói cào ruột
Thất thểu thất thơ
Đứa quần muốn tuột
Đứa ngáp, mắt mờ.
- Càn gì thì càn.
Ăn no cái đã!
Lệnh thằng sĩ quan.
Cả bầy “dạ, dạ”
- Ai trong nhà kia?
Mượn cái nồi bự!
Mau! Không, súng lia
Chết đừng than thở!
- Cánh cửa liếp mở
Dạ, thưa các ông!
Nhà nghèo, nồi nhỏ,
Các ông tạm dùng!
Hai em bé ta
Nghe la đói tợn
Giấu tiệt nồi ba
Giấu luôn chảo lợn
Chúng dành chịu vậy,
Còn cách nào hơn
Lẩy ba lấy bẩy
Vần cái nồi con...
Quan ăn một lèo
Lính đói chờ meo
Nấu sau, nấu trước
Tranh nhau eo sèo!
Trưa rồi chiều xế
Mới nửa toán ăn.
Nhão khê chí choé,
Nói gì hành quân!
Cả lũ ăn xong
Trời vừa chạng vạng
- Thôi thế là tong
Trận càn chớp nhoáng!
Thằng sĩ quan nói
Vội xung phong... chuồn!
Khiếp mìn du kích
Trên đường hoàng hôn
(Huy Cận)
13-3-1964


Năm 1973, Huy Cận viết hai bài thơ tưởng nhớ Hồ Chí Minh trong bài viết nguyên văn như sau:
I. Hai chị em
Bà Thanh ra thăm Bác Hồ tại Bắc Bộ Phủ.
Chí đến thăm em là Chủ Tịch
Cho em thân thiết một bu gà.
Chị em băm bốn năm xa cách
Chuyện nước, tình quê: "Chị đó a?"


II. Bàn việc nước


Bác Hồ dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng đêm trước hôm Bác đi Paris hồi tháng 5-1946.
"Tôi đi, cụ chớ lo chi cả.
Quyền nước, lòng dân: cụ ở nhà"
Hai chén trà khuya sương nhẹ tỏa
Một câu "bất biến" dặn phòng xa.
(Huy Cận) 1973


Khi về già, Huy Cận ráng làm thơ cổ điển đa số là Tứ Tuyệt mà thôi và thơ rất thực tế và chính
huy, hết còn lãng mạn nhưng muốn dí dỏm như 2 bài thơ trên.


VĂN NHÂN MIỀN NAM TỪ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Ảnh hưởng văn học và văn hóa của Tự Lực Văn Đoàn rất phổ thông ở Miền Nam, kéo dài đến hết thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975). Các tác phẩm văn xuôi của Tự Lực Văn Đoàn có trong chương trình Việt Văn Trung học của Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1906-1963) là văn sĩ độc nhứt của Tự Lực Văn Đoàn còn sống sót sau hiệp định Genève và sống trong Nam.


* Trước Hiệp Định Genève (1954)

pth_NLvaNgHaiThan.JPG

Ông Nhất Linh bắt đầu làm chính trị năm 1939 khi ông lập Đại Việt Dân Chính Đảng. Năm1942, ông đóng cửa Tự Lực Văn Đoàn và sang Quảng Châu (năm 1942) để hoạt động chống Pháp với Việt Cách và Việt Quốc.
Trước khi Nhật đầu hàng, ở Trung Quốc có 2 phe cách mạng: Việt Minh (theo chủ nghĩa CộngSản, thực tế là Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế) đối đầu với liên minh Việt Quốc và Việt Cách (theochủ nghĩa Quốc Dân của Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch).
Việt Minh (gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) được Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 do đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo (Bí thư là Trường Chinh Đặng Xuân Khu).
Năm 1944, Việt Minh đã tổ chức quân đội ở Cao Bằng gọi là Việt Nam (Tuyên Truyền) Giải Phóng Quân, tiền thân của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
Tháng 5, 1945, Đại Việt Quốc Dân Đảng (của Trương Tử Anh), Đại Việt Dân Chính Đảng (của Nguyễn Tường Tam) liên minh dưới Việt Nam Quốc Dân Đảng gọi tắt là Việt Quốc (của Vũ Hồng Khanh). Việt Quốc lại liên minh với Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) của Nguyễn Hải Thần.
Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (15-8-1945), vua Bảo Đại thoái vị và chính phủ Trần Trọng Kim từ chức. Hồ Chí Minh về Hà Nội lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 28-8 và ra mắt vào ngày 2-9-45. Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam thống nhất (3 kỳ), thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chính phủ gồm đa số là Việt Minh.
Sau đó khi quân Trung Hoa Dân Quốc (của Tưởng Giới Thạch) thừa lệnh của Đồng Minh, sang giải giới quân Nhật ở vùng bắc vỹ tuyến 16 vào ngày 23-8-45 (bắc của Đà Nẳng), Việt Cách và Việt Quốc theo về nước buộc Hồ Chí Minh phải tái lập chính phủ.
Chính Phủ Liên Hiệp Lâm Thời thành lập vào ngày 1-1-46 gồm Việt Minh, Việt Cách và Việt Quốc:
Chủ tịch là Hồ Chí Minh (Việt Minh/VM), Phó Chủ tịch là ông Nguyễn Hải Thần (Việt Cách/VC) và Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc/VQ).
Ông Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái) làm Bộ Trưởng Nội Vụ.
Ủy Ban Kháng Chiến (như là Bộ Tư Lệnh của quân đội) gồm 9 người (có Trần Huy Liệu) với Võ Nguyên Giáp (Việt Minh) làm Chủ tịch và ông Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) làm Phó.
Chính phủ tổ chức Tổng Tuyển cử Quốc Hội toàn quốc (thực sự chỉ ở miền Bắc vỹ tuyến 16) vào ngày 6-1-46. Sau đó chính phủ đổi thành Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến (ngày 2-3-46).
Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến VNDCCH (thành lập ngày 2-3-1946)
Chủ Tịch: Hồ Chí Minh (VM)
Phó Chủ Tịch: Nguyễn Hải Thần (VC)
Bộ Trưởng Nội Vụ: Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái)
Bộ Trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Tường Tam (VQ)
Bộ Trưởng Quốc Phòng: Phan Anh (không đảng phái)
Bộ Trưởng Tư Pháp: Vũ Đình Hòe (Dân Chủ)
Bộ Trưởng Giáo Dục: Đặng Thái Mai (VM)
Bộ Trưởng Tài Chính: Lê Văn Hiến (VM)
Bộ Trưởng Giao Thông Công Chánh: Trần Đăng Khoa (Dân Chủ)
Bộ Trưởng Kinh Tế: Chu Bá Phượng (VQ)
Bộ Trưởng Xã Hội, Cứu Tế, Y Tế và Lao Động: Trương Đình Tri (VC)
Bộ Trưởng Canh Nông: Bồ Xuân Luật (VC) rồi Huỳnh Thiên Lộc (Dân Chủ)
Thứ Trưởng Nội Vụ: Hoàng Minh Giám (Xã Hội)
Thứ Trưởng Quốc Phòng: Tạ Quang Bửu (không đảng phái)
Tuy nhiên các đảng phái vẫn tìm cách hại lẫn nhau nhất là giữa Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Hai bên đều có quân đội riêng.
Sau khi chiếm miền Nam, Pháp muốn chiếm miền Bắc. Ngày 28-2-46, Trung Hoa Dân Quốc ký hiệp ước với Pháp sẽ rút ra khỏi và để cho Pháp giải giới Nhật ở bắc vỹ tuyến 16. Ngày 6-3-46 Pháp ký với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Đại diện là Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh) một Hiệp Định Sơ Bộ: VN đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc và sẽ rút đi từ từ trong vòng 5 năm đổi lại Pháp công nhận chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hoàn toàn độc lập.
Quân đội Trung Hoa rút về vào tháng 6-46 và quân Pháp vào Hà Nội và Hải Phòng. Việt Minh dùng Công An (dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Hoàn) đuổi đảng viên Việt Cách và Việt Quốc chạy qua Trung Quốc. Trần Quốc Hoàn vào ĐDCS Đảng năm 1934, từng ở tù Sơn La với Lê Đức Thọ, Hoàng Minh Chính, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng… Nhiều đảng viên của Việt Quốc và Việt Cách bị giết hay phải theo Việt Minh. Ông Nguyễn Hải Thần chạy về sống ở
Quảng Đông, có vợ Tàu và chết ở đây vào năm 1959. Ông Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh sau nầy chạy vào Nam còn ông Trương Tử Anh thì mất tích (chắc bị VM thủ tiêu). (Vềsau Việt Quốc và Việt Cách ủng hộ vua Bảo Đại ký hiệp ước Hạ Long).
Hồ Chí Minh lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào ngày 3-11-1946 gọi là Chính Phủ Hồ Chí Minh hay Việt Minh. Chính phủ nầy vẫn cho mình là cai trị nước Việt gồm 3 Kỳ nhưng thực sự lãnh thổ chỉ có miền Bắc (bắc vỹ tuyến 16).
Sau khi bị thua Việt Minh, ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1906-1963) vào năm 1947 gia nhập Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Liên Hiệp ủng hộ Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập Quốc Gia Việt Nam. Mặt Trận giải tán năm 1950. Ông Nhất Linh về ở Đà Lạt từ năm 1951.


* Sau Hiệp Định Genève (1954)


Năm 1958, ông Nhất Linh vào Sài Gòn cùng với cháu là Duy Lam xuất bản giai phẩm Văn HóaNgày Nay rất được hoan nghênh nhưng tự nhiên đình bản sau 11 số.
Năm 1960, ông Nhất Linh có dính líu trong cuộc đảo chánh hụt của Trung Tá Vương Văn Đông và Đại Tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11-11-60 nên bị chánh quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại gia. Cuộc đảo chánh thất bại vì Đại Tá Huỳnh Văn Cao đem Sư Đoàn 7 (ở Mỹ Tho) và Đại Tá Trần Thiện Khiêm đem Sư Đoàn 21 (ở Vĩnh Long Sa Đéc) về Sài Gòn cứu viện.
Trước ngày ra Tòa (8-7-63), đêm trước đó Nhất Linh uống thuốc ngủ tự tử.
Ngày 11-7-63, Tòa án Quân sự đặc biệt xử các nhân sĩ liên can tới vụ đảo chánh 11-11-60 gồm có Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Tường Tam, Đinh Xuân Quảng, Bùi Lượng... có tuyên 20 án cấm cố. Ngoài ra có 14 trường hợp Tòa tha bổng vì vô tội trong đó có ông Nguyễn Tường Tam!
Không đầy 3 tháng sau chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong cuộc đảo chánh 1-11-63. Bản án nầy bị tòa Thượng thẩm Sài Gòn hủy bỏ vào ngày 19-2-64.
Trong di chúc ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam có để lại lời văn cuối cùng: “Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả… (Tôi) tự hủy mình cũng như Thượng Tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do”

pth_TLVD1960.JPG

* Là người khai sáng và làm Trưởng Tự Lực Văn Đoàn, ông Nhất Linh có làm bài thơ độc nhất của ông nói tới Tự Lực Văn Đoàn:

 

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Tự Lực, vườn văn mới trội lên

Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên

Thương dăm lá cũ vèo rơi xuống

Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên

Mạch cũ, nhựa non rồn rập chẩy

Vườn hoa xuân mới điểm tô thêm

Người qua, sách học, đời thay đổi

Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền

 

(Nhất Linh)

2 giờ sáng, mồng 1 tết năm Quý Tỵ 1953

 

KẾT LUẬN

Nhìn lại lịch sử của Tự Lực Văn Đoàn, hậu sinh có làm bài thơ tiếp nối:

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Văn Đoàn kết hợp quyết vương lên

Tự Lực thành công tiếng dội rền

Văn hóa canh tân thêm tiến bộ

Văn thơ đổi mới dựng xây nền

Tài ba chuyển hướng, đời ly biệt

Chính trị theo chiều, vận rủi hên

Người thỏa công danh, người bạc mệnh

Hậu sinh ái mộ chẳng hề quên.

(Phan Thượng Hải)

7/16/19

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Thơ và Sử phần Cộng Hòa.

Tài liệu tham khảo:

1) Thơ và Sử Việt - Thời Pháp Thuộc Thế kỷ 20 (Bs Phan Thượng Hải - phanthuonghai.com)

2) Thơ và Sử Việt - Thời Độc Lập (Bs Phan Thượng Hải - phanthuonghai.com)

3) Thơ Mới (Bs Phan Thượng Hải - phanthuonghai.com)

4) Trang Thơ Thi Viện Net (Google) Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyề

THƠ VỀ CANADA VÀ USA

 

Ngày July 1 là Ngày Lễ Độc Lập của Canada.

Ngày July 4 là Ngày Lễ Độc Lập của Hoa Kỳ.

Đây là những bài thơ của những người Việt là công dân Mỹ và là du khách thăm Canada.

 

CANADA

 

CANADA
Đất lạnh tình nồng Canada
Cảm thông du khách đến từ xa

Đông Tây lãnh thổ cao dài rộng
Anh Pháp văn minh kết thái hòa
Lễ phép giữ lòng người tốt đẹp
Tự do thêm lối sống hào hoa
Riêng mình độc lập như tòng bách
Bình tỉnh trong lành một quốc gia.
(Phan Thượng Hải)
1/21/17

pth_thucanada.JPG

MÙA THU CANADA
Lá thu đổi sắc tựa đời ta
Khi hết màu xanh biết tuổi già
Lá đỏ hướng dương thời rạng rỡ
Lá vàng bay bướm thuở hào hoa
Thiên nhiên biến hóa nguồn thi vị
Nhân tạo u buồn tiếng hát ca
Đợi đến lá rơi trong giá lạnh
Bình tâm tận hưởng thú khang hòa.
(Phan Thượng Hải)
10/8/16

pth_rockymt.JPG

CANADA ROCKY MOUNTAIN
Phong cảnh kết thành vạn bức tranh
Trời cao đất rộng khí trong lành
Núi non trùng điệp mây lơ lửng
Thung lũng chìm sâu nước uốn quanh
Sơn đỉnh phủ che đầy tuyết trắng
Lâm viên san sát trải cây xanh
Suối tuôn hùng vỹ hồ yên tịnh
Ngoạn mục khai quan thú lữ hành.
(Phan Thượng Hải)
6/12/16

pth_ship.JPG

VỊNH ĐÁ BĂNG (Nguyên bản)


Con thuyền giảm tốc lững lờ trôi
Kìa! Vịnh Đá Băng đã đến rồi (*)
Dòng thác long lanh, tay chỉ trỏ
Mặt hồ nhẹ gợn, miệng tươi cười
Núi non trước mắt đan màu tuyết
Ống khói sau lưng nhả bóng hơi
Mượn buổi viễn du vùng giá lạnh 
Tạm quên nắng hạ để vui đời

(Hp-Trương Ngọc Thạch)
7/11/17


(*) Chú thích: Vịnh Đá Băng = Glacier Bay. Alaska cruise có đi qua Glacier bay.


ALASKA CRUISE (Họa)
Mênh mông trời biển nhẹ nhàng trôi
Alaska cruise chóng hết rồi!
Giải trí tâm hồn người thích thú
Vừa lòng ẩm thực miệng vui cười
Hưởng tình thân ái trong hòa khí
Ngoạn cảnh bao la giữa thoáng hơi
Một chuyến hàn ôn đầy hạnh phúc
Bảy ngày ngắn ngủi sống yêu đời.

(Phan Thượng Hải)
7/12/17

HOA KỲ


LỄ THANKSGIVING
Ra đi bỏ lại những phồn vinh
Tìm đất tự do sống thái bình
Nông nghiệp mở mang khi kiếm sống
Kinh doanh phát triển lúc mưu sinh
Quốc gia giàu mạnh nhờ dân chủ
Quốc tế hùng cường trải chiến chinh
Hiệp chủng kết tình nên lịch sử
Cùng vui mừng lễ Thanksgiving.
Mỗi năm đến lễ Thanksgiving
Cảm tạ Ơn Trên giúp đỡ mình (*)
Tỵ nạn miền Nam qua khốn khó
Công dân nước Mỹ sống thanh bình
Vẹn tình thông cảm toàn thân thuộc
Trọn đạo kiên trì nhất nghệ tinh

Hy vọng từ tâm nhìn thế sự
Thủ thường an phận đủ phồn vinh.
(Phan Thượng Hải)
11/22/18
Chú thích: Lễ Thanksgiving = Lễ Tạ Ơn.


WASHINGTON D.C. 
Thủ đô biểu tượng nước non nhà 
Thể hiện hùng hồn một quốc gia 
Lãnh tụ vinh danh toàn đất Mỹ 
Quân nhân táng mạng dưới Cờ Hoa 
Tự do xây đắp nền Dân Chủ 
Hiệp chủng tuân theo thể Cộng Hòa 
Kỳ cảnh viếng thăm ôn lịch sử (*)
Khơi lòng ái quốc đẹp lòng ta. 
(Phan Thượng Hải) 
4/23/15 
(*) Chú thích: Kỳ cảnh = Sightseeings.

Pth_DC.JPG

ĐI THĂM MT RUSHMORE (*)


(Nguyên bản)
Bốn vị anh hùng giúp quốc gia
Biểu dương lịch sử nước non nhà
Washington mở đường dân chủ
Jefferson khai lối cộng hòa
Từ A. Lincoln thành hiệp chủng
Đến Roosevelt đạt vinh hoa
Rushmore tạc tượng truyền nhân thế
Kỷ niệm thành hình nước Mỹ ta.

(Tự họa)
Qua tám tiểu bang của quốc gia (*)
Tốt thay địa lý đất quê nhà
Thiên nhiên rộng lớn miền wild west
Nhân tạo tiện nghi nước thái hòa
Xót dạ nghĩ về nguồn gốc Việt
Túc tâm thích ở xứ cờ hoa
Tương lai ngắn ngủi còn may mắn?
Mỹ quốc nương mình thỏa chí ta.
(Phan Thượng Hải)
7/4/16
(*) Chú thích:
Từ California qua 8 tiểu bang: California, 4 Corners States (Arizona,

PTH_route101.JPG

ROUTE 101
Bắc nam theo dọc Thái Bình Dương
Thắng cảnh thiên nhiên đẹp chuyến đường
Biển rộng trời xa tràn sóng nước
Non cao rừng rậm dạn phong sương
Phiêu lưu khám phá miền duyên hải
Ngoạn mục khai thông chốn viễn phương
Say ngắm Napa xem Redwood
Nhàn du thích thú biết quê hương.
(Phan Thượng Hải)
7/30/17

pth_lasvagas.JPG

LAS VEGAS 
Giữa vùng sa mạc Nevada 
Kiến trúc nguy nga chốn thái hòa 
Tấp nập sòng bài, nơi thử vận 
Trang hoàng khách sạn, chỗ xa hoa 
Quán hàng ngon miệng người ăn uống 
Nghệ thuật lừng danh tiếng hát ca 
Du khách đến chơi đều thích thú 
Mong tìm Cực Lạc cõi Ta Bà? 
(Phan Thượng Hải) 
4/23/17 

LITTLE SÀI GÒN (Nguyên bản)
Quận Cam có Little Sài Gòn

Trung tín người Nam mãi sắt son

Chính trị Cộng Hòa gìn độc lập
Tinh hoa văn hóa giữ vuông tròn
Tha hương, tâm chẳng quên nguồn gốc
Tỵ nạn, tình luôn nhớ nước non
Đất Mỹ tự do đời sống Việt
Không còn đất mẹ, nghĩa danh còn.

(Phan Thượng Hải)

2/26/17


LITTLE SAIGON (Họa)
Giữa xứ Cờ Hoa có Saigon
Giống nòi Hồng Lạc vẹn lòng son
Ngàn năm quốc túy luôn vun quén
Muôn thuở gia phong mãi giữ tròn
Truyền thống ghi tâm: nguồn với cội
Cộng đồng tạc dạ: nước cùng non
Bao nhiêu thế hệ lìa quê mẹ
Đất Việt trong tim mãi vẫn còn

(Hồ Mỹ Đức)
5/11/2017

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

____________________

    GIÁC NGỘ THEO PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA THIỀN TÔNG

     Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


Theo Phật Giáo, con người Giác ngộ là có Tâm Giác ngộ và Tâm Giác ngộ thì Tâm An (tranquil, calm) không phiền não (= không khổ, giải thoát khổ), đó là Niết bàn Hữu dư hay Niết bàn Diệu Tâm, cứu cánh của Phật Giáo.  
Tâm Giác ngộ là sáng suốt trong nhận thức và thi hành Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo.  Sự sáng suốt nầy, theo Phật Giáo Đại Thừa, là sự sáng suốt toàn hảo, thường được hiểu theo từ ngữ Phật Giáo là Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna paramita = perfection of wisdom = sự toàn hảo của trí tuệ).  Thông thường được gọi tắt một cách không đúng là "bát nhã" hay "trí tuệ, trí huệ" (wisdom).  Trong Tứ Diệu Đế của Phật Giáo; (nội dung của) giáo lý Giác ngộ gồm có Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế.  
Con người có Tâm Giác ngộ là Phật.  Phật là gọi tắt của Phật Đà, dịch âm từ tiếng Phạn Buddha, đồng nghĩa với Giác giả (= Người giác ngộ).  
Giác ngộ = Enlightenment, Awakening. 

Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy dựa trên Vô Thường của Sự vật, sáng tạo ra giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên là giáo lý Giác ngộ, cuối cùng dẫn đến Đoạn Hoặc (= đoạn diệt Mê hoặc).  Ngược lại, Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông và Kim Cang Thừa dựa trên Vô Ngã của Sự vật (= Pháp Vô Ngã) và Vô Ngã của Tâm Con người (= Nhân Vô Ngã) để sáng tạo ra Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa, cuối cùng dẫn đến Đoạn Hoặc và Từ Bi (Compassion = karuna).  Hoặc = Mê hoặc (Defilements = Klesa) = gồm có Tham (Tham dục), Sân và Mạn.  
Theo Phật Giáo Đại Thừa (kinh Hoa Nghiêm), Bồ Tát (Boddhisattva) là bậc Giác ngộ (Đại Tuệ = Great Wisdom = Maha-prajna), ra công hóa độ tha nhân (người khác) đạt Giác ngộ như mình.  Đó là công đức Đại Từ Bi (Great Compassion = Maha-karuna) của bậc Bồ Tát.  

Theo quá trình lịch sử của Phật Giáo, Đại Thừa lần lượt có những Tông Phái.
Ở Ấn Độ:
   Trung Quán Phái: nghiên cứu về Sự vật.
   Du Già Hành Phái và Duy Thức Phái: nghiên cứu về Tâm của Con người.
Ở Trung Quốc:
   Từ Trung Quán Phái có Không Tông, Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông.
   Từ Duy Thức Phái có Pháp Tướng Tông, Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông.
   Thiền Tông tổng hợp và dung hòa Không Tông, Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông.
Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông và Pháp Tướng Tông rất phức tạp và có tính cách quá "hàn lâm" (academic) nên rất khó hiểu cho hành giả thông thường.
Cuối cùng, Thiền Tông kết hợp Trung Quán Phái (Không Tông) và Duy Thức Phái (Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông) mà tạo thành giáo lý về Khổ Nghiệp và Đoạn Khổ Nghiệp phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa cho đến ngày nay.

Kinh Luận chánh của Giáo lý Giác ngộ (của Phật Giáo Đại Thừa) 
    - Không Tông từ Trung Quán Phái
   Bát Nhã Tâm Kinh
    - Nhiếp Luận Tông từ Duy Thức Du Già Hành Phái
   Giải Thâm Mật Kinh
   Du Già Sư Địa Luận của Di Lặc và Thành Duy Thức Luận của Sư Hộ Pháp
    - Tánh Tông từ Duy Thức Phái
   Pháp Hoa Kinh
   Như Lai Tạng Kinh
   Đại Niết Bàn Kinh 
   Thắng Man Kinh
    - Thiền Tông
   Lăng Già Kinh
   Pháp Bảo Đàn Kinh

A. Giáo lý Giác ngộ theo Triết lý thông thường

Giáo lý Giác ngộ của Thiền Tông tổng hợp và dung hòa của Trung Quán Phái (Không Tông) và Duy Thức Du Già Phái (Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông).

Dàn bài
   Không Tông 
   Nhiếp Luận Tông 
   Tánh Tông 
   Thiền Tông 

a) Không Tông (từ Trung Quán Phái)

*
Theo Không Tông từ Trung Quán Phái:
   Sự vật là có nhưng vô ngã (without nature), được diễn tả trong kinh Bát Nhã là "không có tự tánh" (= Tánh Không), cho nên vô thường (impermanent).  Vì Sự vật vô ngã và vô thường cho nên Sự vật thì tương đối (relative), không tuyệt đối (not absolute).  
   Tâm không giác ngộ (= vô minh, si = ignorance) thì bám chặt và ràng buộc vào Sự vật tương đối do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật.  Mê hoặc (= Hoặc) gồm có Tham dục, Sân và Mạn.  
   Tâm Giác ngộ thì không bám chặt và ràng buộc và không chướng ngại (= tự do) với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không bám chặt vào Sự vật.  Đoạn Hoặc là đoạn diệt Tham dục, Sân và Mạn.  

Ngã = nature.  Vô Ngã = without nature = không có tự tánh = Tánh Không (Sùnyatà).
Không bám chặt và ràng buộc = vô sở đắc, vô sở trụ = non-attached.
Không chướng ngại (= Tự do) = vô ngại = without hindrance.


Không Tông chuyên nghiên cứu về Sự vật.  
   Từ Phật Thích Ca, từ ngữ "Hiện tượng" ngụ ý là "Sự vật" vì Sự vật bên ngoài Tâm của Con người là đối tượng trình hiện trước Tâm của Con người qua giác quan.  
   Từ ngữ "Pháp" (Dharma) còn có nghĩa là Hiện tượng ngoài cái nghĩa thông thường là giáo lý (doctrine).  Vạn Pháp = Chư Pháp (All Dharmas) = tất cả mọi Hiện tượng (của Sự vật).
   Từ ngữ "Ngũ Uẩn" và "18 Giới" đồng nghĩa với Sự vật và Hiện tượng của Sự vật.

Sự vật thì vô ngã (hay tánh Không) nên phải vô thường.  Như vậy mọi sự vật hay hiện tượng thì tương đối (relative), gồm vô ngã và vô thường:
   . vô ngã (without nature) = không hoàn toàn, không thuần túy, không chuyên chế và không độc lập, và phải tương quan với những sự vật hiện hữu hay hiện tượng khác.
   . vô thường (impermanent) = không thường hằng (not permanent) = không tự sinh khởi; không cố định, phải thay đổi và biến hóa; không vĩnh cữu và phải hoại diệt. 

Ngụ ý của Phật Giáo: Sự vật "vô ngã" nên "vô thường", do đó Sự vật "tương đối" (relative), không tuyệt đối (absolute).  Phật Giáo (ngay cả từ Phật Thích Ca) không cho là cần thiết phải giảng nghĩa từ ngữ "vô ngã" của Sự vật, nhất là "ngã" là gì.  Kinh Bát Nhã chỉ diễn tả "vô ngã" của Sự vật là "sùnya" hay "sùnyatà" (không hay tánh không) và Trung Quán Phái dùng để nhấn mạnh ý nghĩa "tương đối" của Sự vật, thực dụng cho Phật Pháp.  


b) Nhiếp Luận Tông (từ Duy Thức Du Già Phái)

*
Theo Nhiếp Luận Tông từ Duy Thức Du Già Hành Phái:
   Tâm là Tâm thức (có 8 Thức).  Tâm của Không Tông và Trung Quán Phái đồng nghĩa với Tâm thức của Duy Thức Phái và Nhiếp Luận Tông. 
   Tâm thức của Con người thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật khi Tâm thức hoạt động đối với Sự vật.  Sự vật bên ngoài của Tâm là không có (= ảo) và không có thực (= giả) vì do Tâm thức của Con người tạo ra. (Thức = Consciousness).  
   Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật vì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật mà bám chặt và ràng buộc (= sở đắc = sở trụ) vào Sự vật.  
   Tâm Giác ngộ, hay Tâm thức Giác ngộ, là không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật mà không bám chặt và ràng buộc (= vô sở đắc = vô sở trụ) vào Sự vật.  (Nhiếp Luận Tông và Duy Thức Phái giải thích sâu xa hơn Không Tông và Trung Quán Phái).  

Ngã = ta, "cái ta" = self, ego.  
Vô ngã = nonself = phi ngã = no ego or without ego.
Chấp ngã = cầm giữ hay bắt lấy cho mình = attachment to self.  Người chấp ngã là muốn sở hữu sự vật là của mình.
Tự ngã = từ mình hay bởi vì mình mà ra = idea of self.  Người tự ngã là muốn làm chủ, muốn điều khiển mọi sự vật theo tình ý của mình.

*
Duy Thức Phái (truyền sang Trung Quốc là Nhiếp Luận Tông) nghiên cứu về Tâm của Con người.  
Tâm của Con người gọi là Tâm thức gồm có 8 Thức: 
   5 Thức đầu gọi là 5 Giác thức có cảm giác và tri giác từ Hiện tượng của Sự vật qua 5 giác quan.  
   Thức thứ 6 gọi là Ý Thức có nhận thức từ cảm giác và tri giác mà thành ý thức.
   Thức thứ 7 gọi là Tự Ý Thức hay Mạt Na Thức (Mano-vijnàna) có tư tưởng (tình cảm và lý trí) về Hiện tượng của Sự vật.
   Thức thứ 8 gọi là A Lại Da Thức chứa những Chủng tử tạo ra Sự vật và tạo ra Khổ Nghiệp.  Do đó Sự vật bên ngoài Tâm (Tâm thức) của Con người là không có (= ảo) và không thực (= giả) nên chỉ là Hiện tượng.  
Khi Tâm thức Giác ngộ (không chấp ngã và không tự ngã) thì A Lại Da Thức "trong sạch, không ô uế" và trở thành hay gọi là Chân như (Suchness, Thusness), không có Khổ Nghiệp.  Khi đó những chủng tử thì trong sạch.

A Lại Da Thức = Àlaya-vijnàna
   = Store-consciousness = Tàng Thức, Tạng Thức. 


c) Tánh Tông (từ Duy Thức Phái) 

*
Theo Tánh Tông từ Duy Thức Phái:
   Tâm (Mind) của Con người gồm có Tâm thức (Conscious Mind) và Bản tâm (Nature Mind).  Tánh Tông có thêm khái niệm "Bản tâm (còn gọi là Phật tánh)" trong Tâm của Con người, do đó được gọi là Tánh Tông.  
   Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài của Tâm và Tâm thức cũng có 8 Thức.  
   Bản tâm thì "không nhị nguyên" đối với Sự vật nên dung hòa và từ "dung hòa" mà không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật bên ngoài (của Tâm của Con người).  Nhị nguyên (Duality) là phân biệt giữa "ngã" (ta) và "không phải là "ngã" (không phải là ta). Đó là Bản tâm Từ Bi (từ "dung hòa" nên có từ bi).  Do đó Bản tâm thì vô ngã (= không chấp ngã, không tự ngã và không nhị nguyên). 
   Tâm Giác ngộ hoặc vô minh tùy theo Tâm thức Giác ngộ hoặc vô minh.  Bản tâm (hay Phật tánh) luôn luôn Giác ngộ và Bản tâm (hay Phật tánh) có từ bẩm sinh trong mỗi Con người.
   Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) là không tuân theo hay không đồng nhất với Bản tâm (hay Phật tánh) nên Tâm thức "nhị nguyên" tức là chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực mà bám chặt và ràng buộc vào Sự vật do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm thức mê hoặc vào Sự vật vì không đồng nhất với Bản tâm.  
   Tâm thức Giác ngộ là tuân theo hay đồng nhất với Bản tâm (hay Phật tánh) nên Tâm thức không Nhị nguyên (giống như Bản tâm) tức là dung hòa mà không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức Từ bi đối với Sự vật do đó Đoạn Hoặc đối với Sự vật.  Từ bi là dung hòa với Sự vật và Đoạn hoặc là không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật mà bám chặt vào Sự vật. 

Dung hòa = in harmony, harmonious = vô ngại.  Nghĩa của "vô ngại" (in harmony) của Tánh Tông khác với nghĩa của "vô ngại" (no hindrance) của Không Tông.  Dung hòa với Sự vật là Từ Bi với Sự vật.

*
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết về giáo lý Đại Cứu Cánh (và Bản Thể Đại Thủ Ấn) của Kim Cang Thừa, không khác Tánh Tông    của Đại Thừa:
   Tất cả mọi Hiện tượng thanh tịnh hay ô nhiễm đều trình hiện bởi Tâm Thức như là biểu hiện bằng tính chất tự nhiên thanh tịnh (của Bản Tâm) vì Bản Tâm là thanh tịnh bản nhiên từ khởi thủy..
   Ngay cả khi vẫn là chúng sanh và dù đã tạo vô số ý Nghiệp tốt hoặc xấu như tham, sân, si; Bản Tâm chính nó vẫn siêu việt (= ở trên) mọi ô nhiễm từ các phiền não nầy.  Nước có thể rất bẩn nhưng thể tính của nó vẫn là trong sạch (= thanh tịnh) và bản tánh của nước không bị ô nhiễm bởi bùn dơ.
   Tương tự, bất luận Hiện tượng phát sinh như là trò thiên diễn (= biểu tượng) của Tâm nầy, và bất luận lực dụng của nó (= hiện tượng phát sinh) đến mức nào thì tự Bản Tâm (căn nguyên của mọi tướng trạng của các kỹ xảo như vậy) từ vô thủy vẫn không bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm và vẫn không bị ảnh hưởng bởi cái thiện.
   Giác ngộ là khi ta "đồng nhất" được với Bản Tâm và nhận thức rõ ràng tất cả mọi Hiện tượng luân hồi sinh tử và Niết bàn (Vạn Pháp) đều lưu xuất từ Bản Tâm nầy.  Bản Tâm từ bi viên mãn và vi diệu vốn có sẵn (trong mỗi và mọi chúng sanh) nên Kinh có câu "Giác ngộ từ vô thủy".  
   Từ không bị ảnh hưởng bởi khái niệm quy ước, Tâm (Tâm Thức) đồng nhất với bản thể của mình (= Bản Tâm) và khẳng định chính xác rằng ý nghĩa của nó (= Bản Tâm) tương tục và thường hằng trong sự quân bình của Định Tuệ thì dù có sống trong thế tục chúng ta đã là Phật. 

Giáo lý của Kim Cang Thừa không khác Tánh Tông và Thiền Tông.

*
Tánh Tông dựa trên kinh Pháp Hoa mà có quan niệm về Phật tánh (hay Bản tâm), điều mà các Tông Phái của Phật Giáo Đại Thừa trước đó không nghĩ đến.

  
Trong Kinh Pháp Hoa của Phật Giáo Đại Thừa (viết vào khoảng năm 100-200 tr CN):
   (Phẩm 10): Mọi người có thể được giải thoát.  Tất cả chúng sanh có thể thành Phật, không những Tăng Ni mà còn cả Cư sĩ (Lay people), Thanh Văn, Bồ Tát và Sinh vật không phải là người (non human creature).
   (Phẩm 12): Phật Tánh thì phổ quát trong tất cả mọi người kể cả Devadatta cũng có căn cơ (potential) thành Phật.  
Chú thích:
   Devadatta là người đệ tử xấu, âm mưu ám sát Phật Thích Ca.  Theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì Devadatta phải xuống Địa ngục không thể giác ngộ được.  Kinh Pháp Hoa của Phật Giáo Đại Thừa thì nói ngược lại.

Bản tâm hay Phật tánh Giác ngộ có từ bẩm sinh nên mỗi Con người sinh ra đã Giác ngộ đó là điều khác với giáo lý Giác ngộ của Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy.  
   Theo Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca, mỗi Con người sinh ra thì Vô minh (không Giác ngộ).  Vô minh là khởi đầu của Thập Nhị Nhân Duyên. 
   Theo Bát Nhã Tâm kinh, Trung Quán Phái của Phật Giáo Đại Thừa phủ nhận giá trị tuyệt đối của (giáo lý) Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy.  
   Theo Tánh Tông của Đại Thừa Duy Thức Phái (cũng như Thiền Tông và Kim Cang Thừa sau này), Con người sinh ra với Giác ngộ vì đã có Bản tâm từ bi bẩm sinh (= Bản tâm Giác ngộ).

Bát Nhã Tâm kinh coi Thập Nhị Nhân Duyên bắt đầu từ Vô minh cho tới Lão Tử cũng là Sự vật thông thường "không có Tự tánh" tức là Tương đối và không có giá trị tuyệt đối.
Bát Nhã Tâm kinh viết:
   Trong Không (Sùnya), không có Minh, không có Vô Minh; không có Minh diệt, không có Vô Minh diệt; cho tới không có Tuổi Già (Lão) và Sự Chết (Tử), không có sự tận diệt của Tuổi Già và Sự Chết.     

Thật ra, Phật Giáo Nguyên thủy đã nói tới bản tâm trong Kinh Tạng và gọi nó là minh tâm hay Phật tánh.

Tăng Nhất Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) của Kinh Tạng viết: 
   Minh tâm bẩm sinh (innately luminous mind=prabhasvara citta) bị che dấu bởi phiền não mê hoặc (defilements = agantukaklesa).  
Đại Chúng bộ (Mahasàngika) gọi là tâm thức bản thể (substratum consciousness = Mulavijana) là căn bản của tâm thức (nature of consciousness).

Niết Bàn Kinh (Nirvana Sutra) của Kinh Tạng viết: 
   Chúng sanh có sở hữu một bản tánh thánh thiện (sacred nature) làm căn bản để chúng sanh thành Phật.  Đó là Phật tánh, thực tánh (true nature) phổ quát (universal) và ô uế (sullied) bởi trạng thái tâm lý hay nghiệp mà cá thể có thể vướng vào.

Tuy nhiên, Phật Giáo Nguyên thủy đã không đem bản tâm (hay Phật tánh) từ bi vào giáo lý trong Tập Đế (Thập nhị Nhân Duyên) và Diệt Đế của mình. 

*
Bản tâm và Phật tánh còn có nhiều danh hiệu khác của Phật Giáo Đại Thừa: Chân như, Như thực, Như Lai tạng, Như Lai, Phật thân, Pháp thân, Thực tánh, Tự tánh, Bản lai diện mục ...  (Như lai = Phật).   

Bản Tâm = Nature Mind
Phật Tánh = Buddha Nature = Buddhatà = Buddha-svabhàva
Chân Như = Thusness, Suchness = Tathatà.  Như Thực = Suchness of Truth
Như Lai tạng = Embryo of Tathàgata = Tathàgata-garbha.  Như Lai = Tathàgata
Phật Thân = Buddha body = Buddha-kayà.  Pháp Thân = Dharma body = Dharma-kayà
Thực Tánh = True Nature.  Tự Tánh = Intrinsic Nature = Svabhava

Theo Phạn ngữ, Chân như cũng gần giống Như lai.
   Chân Như = Tathatà 
   Như Lai = Tathàgata 
Như Lai tạng (The Tathàgata embryo = Tathàgata-garbha): 
   Tathàgata = Thus gone = Như Lai.  
   Garbha = Womb, Embryo = Tạng.  Garbha có nghĩa bóng là trung tâm (center) hay bản thể (essence).  
   Tathàgata Garbha = Containing a Tathàgata = Như Lai Tạng chứa (một) Như Lai.

Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông dùng từ ngữ "gia trung hửu bảo" với ngụ ý là Phật tánh hay Bản tâm.
Trong câu tục ngữ Việt "Bụt nhà không thiêng, cầu Thích Ca ngoài đường" (từ "Tự Điển Lược Giải" của Lê Văn Hoè), "Bụt nhà" ngụ ý là Phật tánh.

"Thiện căn" trong câu "Thiện căn ở tại lòng ta" (Truyện Kiều) của Nguyễn Du cũng chính là Bản tâm từ bi bẩm sinh trong mỗi người.
Nho Giáo của Mạnh Tử gọi là "Tánh Bản Thiện" và Tân Nho Giáo của Vương Dương Minh gọi là "Lương tri hay Trí Lương tri". 
Đó cũng là Thiện Tâm của Kitô Giáo (Christianity = Thiên Chúa Giáo).  "Bản tâm Từ bi" của Phật Giáo không khác "Thiện tâm Bác ái" của Kitô Giáo. 


d) Thiền Tông

*
Theo Thiền Tông về Sự vật:
   Giống như Không Tông (từ Trung Quán Phái), Sự vật là có nhưng vô ngã (without nature), được diễn tả trong kinh Bát Nhã là "không có tự tánh" (= Tánh Không), cho nên vô thường (impermanent).  Vì Sự vật vô ngã và vô thường cho nên Sự vật thì tương đối (relative), không tuyệt đối (not absolute).
   Thiền Tông nhấn mạnh rằng Sự vật ở bên ngoài Tâm của một Con người bao gồm sinh mạng khác, con người khác và cả Thân của Con người đó. 

Theo Thiền Tông về Tâm của Con người:
   Tâm (Mind) của Con người gồm có Tâm thức (Conscious Mind) và Bản tâm (Nature Mind).  
   Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài của Tâm và có chức năng của 7 Thức đầu, thay vì có 8 Thức như Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông. 
   Khác với Tánh Tông, Thiền Tông không công nhận sự hiện hữu của A Lại Da Thức; và coi Chân như (Suchness, Thusness) là đồng nghĩa với Bản tâm (Nature mind) hay Phật tánh (Buddha nature).  Do đó Thiền Tông không chấp nhận rằng Sự vật là không có (= ảo) và không có thực (= giả) như Tánh Tông và Nhiếp Luận Tông (từ Duy Thức Phái).
   Giống như Tánh Tông, Bản tâm thì "không nhị nguyên" đối với Sự vật nên dung hòa và từ "dung hòa" mà không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật bên ngoài (của Tâm của Con người).  Nhị nguyên (Duality) là phân biệt giữa "ngã" (ta) và "không phải là "ngã" (không phải là ta). Đó là Bản tâm Từ Bi (từ "dung hòa" nên có từ bi).  Do đó Bản tâm thì vô ngã (= không chấp ngã, không tự ngã và không nhị nguyên).  Tuy nhiên Thiền Tông khẳng định là Phật tánh (hay Bản tâm) không có ở thú vật mà chỉ có ở Con người.
   Tâm của Con người Giác ngộ hay vô minh là tùy theo Tâm thức Giác ngộ hay vô minh.  Bản tâm thì luôn luôn Giác ngộ và Bản tâm có từ bẩm sinh trong mỗi Con người.  
   Thiền Tông nhấn mạnh rằng Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật do đó Tâm thức thì "động" (moving) chứ không bắt buộc phải "tịnh" (not moving) cho dù Tâm thức Giác ngộ hay vô minh.  Tâm thức không bám chặt và ràng buộc (không sở trụ) vào Sự vật nhưng Tâm thức vẫn hoạt động.

Theo Thiền Tông, Phật tánh (= Bản tâm) chỉ có ở Con người (chứ không có ở Thú vật).
Công án của Thiền Tông viết:     
   Thiền sư Triệu Châu, một người Trung Hoa, được môn đệ hỏi rằng "Con chó có Phật Tánh hay không?".  
   Thiền sư Triệu Châu trả lời (nguyên văn Hán ngữ) là : "Vô" (Hán ngữ).

Hán ngữ "Vô" trong trường hợp này dùng để "phủ định", có thể dịch sang tiếng Nôm là "Không" (= No, None) nhưng Hán ngữ không có từ ngữ "Không" để phủ định trong trường hợp này mà phải dùng từ ngữ "Vô".
Hán ngữ "Vô" này chắc chắn không có thể là "Không" (Sunya) của kinh Bát Nhã và Không Tông như dự đoán của nhiều học giả trong quá khứ.

*
Theo Thiền Tông về Giác ngộ:
   Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật vì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật mà bám chặt và ràng buộc (= sở đắc = sở trụ) vào Sự vật.  Dĩ nhiên Tâm thức không giác ngộ là Tâm thức không tuân theo hay không đồng nhất với Bản tâm tức là Tâm thức thì "nhị nguyên".
   Tâm thức Giác ngộ (Tâm Giác ngộ) để được Tâm An mà không phiền não thì phải qua lần lượt 2 giai đoạn:
   Giai đoạn 1: Trước hết, Tâm thức Giác ngộ, là không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật.  Đó là Tâm thức đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật mà không bám chặt và ràng buộc (= vô sở đắc = vô sở trụ) vào Sự vật.  
   Giai đoạn 2: Sau đó, Tâm thức Giác ngộ là tuân theo hay đồng nhất với Bản tâm nên Tâm thức "không Nhị nguyên" (giống như Bản tâm) tức là dung hòa mà không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật.  Đó là Tâm thức Từ bi đối với Sự vật do đó Đoạn Hoặc đối với Sự vật.  Từ bi là dung hòa với Sự vật và Đoạn hoặc là không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật.  

Theo Thiền Tông, Tâm thức Giác ngộ có 2 giai đoạn liên tiếp nhau:
        Trước hết là Tâm thức của Con người phải Đoạn Hoặc đối với Sự vật bên ngoài.  {giống như Không Tông và Nhiếp Luận Tông}
        Từ đó Tâm thức mới đồng nhất được với Bản tâm Từ Bi mà Từ bi và không Mê hoặc.  {giống như Tánh Tông}

Pháp Bảo Đàn kinh viết:
   Huệ Năng hiểu ý nên canh ba vào thất (phòng của Tổ).  Ngũ tổ dùng cà sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết kinh (Bát Nhã) Kim Cang.  Khi đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ (đốn ngộ), vạn pháp chẳng lìa tự tánh.  
Huệ Năng liền bạch: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn chẳng lay động và tự tánh hay sanh vạn pháp”.  Tổ biết Huệ Năng đã ngộ nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bản tâm (thì) học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm thấy được bản tánh tức gọi là Trượng Phu, là Thiên Nhơn Sư, là Phật”.  


"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" có nghĩa là "Nên không bám chắc ở một chỗ mà sinh ra kỳ tâm". 
   "Ưng vô sở trụ" là Tâm của Con người không sở trụ vào Sự vật (= Giai đoạn 1 của Đoạn Khổ Nghiệp)
   "Nhi sinh kỳ tâm" là Tâm của Con người đồng nhất với Bản tâm kỳ diệu (= Giai đoạn 2 của Đoạn Khổ Nghiệp).
(Tự tánh = Phật tánh = Bản tâm)

Như vậy, Tâm Giác ngộ là Tâm Đoạn Hoặc và Từ Bi đối với Sự vật
   Không Tông và Nhiếp Luận Tông chủ trương Đoạn Hoặc.  Tánh Tông chủ trương Từ Bi (thì tự động sẽ Đoạn Hoặc).  Thiền Tông chủ trương Đoạn Hoặc rồi mới Từ Bi. Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy cũng dẫn tới chủ trương Đoạn Hoặc.
   Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Đại Thừa Trung Quán (theo kinh Bát Nhã) đều nghĩ rằng sau khi Tâm của Con người Đoạn Hoặc thì Tâm của Con người sẽ tự động sinh ra Từ Bi do đó không cần phải nêu ra.  Tuy nhiên Đại Thừa Thiền Tông cho rằng sở dĩ Tâm của Con người sinh ra Từ Bi sau khi Đoạn Hoặc là vì Tâm của Con người có sẵn Bản tâm (hay Phật tánh) Từ Bi ngay từ bẩm sinh.  

Đoạn diệt 3 tư hoặc thuộc về tình cảm là tham dục, sân và mạn giúp cho tu sĩ phát hiện ra tâm từ bi.  Kinh Tạng của Phật Giáo Nguyên thủy có nói đến từ bi (xuất hiện) sau khi đoạn hoặc qua lời của tôn giả Xá Lợi Phất (Sàriputta), một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca:
   Một hôm sa di Ràhula (con của Phật Thích Ca) đi khất thực với tôn giả Sàriputta ở Rajagaha (Vương Xá).  Một tên côn đồ (hooligan) liệng cát vào bình bát của Sàriputta và đánh đập Ràhula.  Sàriputta bảo Ràhula rằng: "Dù gặp bất cứ cách đối xử nào, chúng ta là tỳ kheo đừng bao giờ giận (sân), phải có lòng từ bi đối với chúng sanh.  Người tu hành tìm giác ngộ không tự kiêu, không tham dục và phải có sức mạnh chống lại cái tâm nóng giận (sân)".  Ràhula vâng lời, chỉ cười rồi bỏ đi cùng với Sàriputta.


B. Đoạn Hoặc và Từ Bi = Giác Ngộ 

Từ Giáo lý Giác ngộ, Giác Ngộ là Tâm của Con người Giác ngộ thực tế chỉ là Tâm thức Đoạn Hoặc và Từ Bi.

Dàn bài
   Chi tiết về Đoạn Hoặc và Từ Bi 
   Trọng điểm về Đoạn Hoặc và Từ Bi 
   Từ Bi và Đại Từ Bi 


a) Chi tiết về Đoạn Hoặc và Từ Bi

In Essentials of Buddhism, professor Kogen Mizuno writes:
   In the state of nonself, there can be no self-centered greed, unreasonable fear of others, hate, flattery, boasting, insult, anger, jealousy, or envy.  
   A person who has realized the nature of nonself can not bring harm to others, since actions is taken only after correctly considering both its immediate and its wider-ranging effects.  This is expressed as loving kindness and pity for all beings.  There is no conflict between self and others.  
   As the result, the state of nonself as been defined as the state of mind of an enlightened person.
(Dịch)
   Trong trạng thái vô ngã, không thể có tham lam ích kỷ, sợ hãi vô lý đối với người khác, thù ghét, nịnh bợ, khoe khoang tự phụ, lăng nhục, phẫn nộ giận dữ, ghen ghét hay ganh tỵ.
   Một con người thức ngộ tự tánh của vô ngã không thể làm hại những người khác, vì hành động chỉ được thực hiện sau khi nghĩ tới cả hai hậu quả tức thời và rộng rãi.  Đó được biểu lộ như lòng tử tế và thương xót cho tất cả chúng sanh.  Không có xung đột giữa mình và những người khác.
   Như vậy, trạng thái vô ngã được định nghĩa như là trạng thái của tâm giác ngộ.


* Đoạn Hoặc (= Đoạn diệt Mê hoặc)

Đoạn Hoặc đối với tất cả mọi sự vật bên ngoài tâm của ta (all beings and all things) kể cả những sinh mạng hay sinh vật khác (all sentient beings), nhân mạng hay con người khác (human beings) và thân ta (trong sinh lão bệnh tử).

Đoạn Hoặc (Đoạn diệt mê Hoặc) là đoạn diệt 3 Mê hoặc (Hoặc) gồm có Tham dục, Sân, Mạn:
   Đoạn diệt Sân:
       không phẫn nộ giận dữ (anger) 
       không thù ghét (hate)
       không lăng nhục (insult) những người khác
       không tổn hại (causing injury) những người khác
       không độc ác (cruelty)
   Đoạn diệt Mạn: 
       không khoe khoang tự phụ (boasting) 
       không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)
       không nịnh bợ (flattery) 
       không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 
   Đoạn diệt Tham Dục:
       không tham lam ích kỷ (self-centered greed) 

1. Tham Dục

Đoạn diệt Tham dục = không tham lam ích kỷ (self-centered greed): 
   = không "tham dục" (tham muốn) riêng cho mình 
   = có "dục" (muốn hay ham muốn) nhưng không "tham" cái "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình
   = không "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình; một cách vô độ hay quá khao khát mãnh liệt không cưỡng lại được hay trói buộc ham muốn (= dục) lâu dài vào một đối tượng.

Tham dục = Tham muốn = Craving or Strong Desire = Tham Ái, Ái.
Tham, Tham lam = Greed
Tham dục = Tham, Tham lam
Dục = Muốn, Ham muốn = Desire

2. Sân

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:
Sân hay Giận (Anger) theo nghĩa đen là không vừa lòng (displeasure) và ghét (revulsion) một đối tượng (mà mình) không thích (dislike).
Từ Sân (hay Giận) còn phải Đoạn diệt những điều nặng hơn:
   Phẫn hay Giận dữ (Wrath) , thường có võ lực (violence).  Phẫn gần đồng nghĩa với Tức giận (Indignation) hay Nỗi giận (Temper).
   Hận tức là Oán giận, Căm hờn (Enmity), thường do thù nghịch.
   Hại (Causing injury) làm tổn hại (sinh vật khác).
   "Độc" (Cruelty) là độc ác, hung dữ, tàn bạo, dã man.

- Theo Thiền tông:
Đoạn diệt Sân =
   không phẫn nộ giận dữ (anger) 
   không thù ghét (hate)
   không lăng nhục (insult) những người khác
   không tổn hại (causing injury) những người khác
   không độc ác (cruelty)


3. Mạn

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:
Mạn = Kiêu ngạo (Pride = Màna)
Mạn khác với Kiêu (Arrogance = Mada).
   Mạn là tự kỷ coi mình hơn sanh mạng khác hay coi sanh mạng khác dưới hơn mình.  Mạn cần có sanh mạng khác để so sánh.  Mạn = Kiêu Ngạo (kiêu căng và ngạo mạn).
   Kiêu là tự kỷ coi mình là tối cao hơn hết (superior), không cần so sánh với chúng sanh.  Kiêu = Kiêu Hãnh.
Dĩ nhiên là nếu đoạn diệt Mạn thì cũng phải đoạn diệt Kiêu.

- Theo Thiền tông:
Đoạn diệt Mạn = 
   không khoe khoang tự phụ (boasting) 
   không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)
   không nịnh bợ (flattery) 
   không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

Thiền tông có Đoạn hoặc (đoạn diệt tham dục, sân và mạn) giống như Phật Giáo Nguyên thủy nhưng dùng Từ bi để thay thế Trì giới của Phật Giáo Nguyên thủy.  
Đoạn diệt tham dục là điều rất tế nhị trong đoạn diệt mê hoặc nên cần có từ bi làm căn bản. 


* Từ Bi

Từ bi đối với sự vật bên ngoài nhất là sinh vật khác, người khác (và kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử).
Từ bi là:
   hiền lành (= Từ) với sự vật, tức là nhẫn nhịn (forebearance) và không có xung đột (no conflict), do đó không làm hại người, sinh vật khác và thân mình.
   thương (= Bi) với sự vật, bằng thể hiện lòng tử tế (loving kindness) và lòng thương xót (pity), do đó giúp đỡ người, sinh vật khác và thân mình.


b) Trọng điểm về Đoạn Hoặc và Từ Bi 

*
Từ giáo lý Giác ngộ, Tâm thức Giác ngộ là Tâm thức Đoạn Hoặc và Từ Bi
Đoạn Hoặc = Đoạn diệt Mê hoặc.  Có 3 Mê hoặc (Hoặc) là Tham dục (Tham muốn), Sân và Mạn.
Theo đúng từ ngữ, Đoạn diệt Tham dục (Tham muốn) chứ không Đoạn diệt Dục (= diệt dục).  
Đoạn diệt Tham dục = không tham lam ích kỷ (self-centered greed): 
   = không "tham dục" (tham muốn) riêng cho mình 
   = có "dục" (muốn hay ham muốn) nhưng không "tham" cái "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình
   = không "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình; một cách vô độ hay quá khao khát mãnh liệt không cưỡng lại được hay trói buộc ham muốn (= dục) lâu dài vào một đối tượng.

Đó là điều hợp lý vì nếu mọi người đều "không muốn" gì hết thì làm sao nhân loại có văn minh tiến bộ được. 
   
Dục = Muốn, ham = Desire
Tham dục = Tham muốn = Craving, Strong desire.
Tham = Greed = Tham dục.

THAM MUỐN
Sống đời có muốn chớ đừng tham
Tham muốn nghĩa là có ý tham
Muốn hợp theo tài nên lập chí
Muốn thành quá độ cứ còn tham
Muốn tâm sân mạn, tâm không chánh
Muốn dạ từ bi, dạ chẳng tham
Muốn được tồn sinh khi tuyệt vọng
Nguyện cầu, tận lực, há là tham?
(Phan Thượng Hải)
4/18/22

*
Theo Thiền Tông, Tâm thức là hoạt động của Tâm:
   Tâm thức hoạt động từ hiện tượng của sự vật từ cảm giác (sensation), tri giác (perception) cho đến cuối cùng là nhận thức (cognition) để có ý thức (consciousness).  
   Tâm thức hoạt động về hiện tượng của sự vật là tư tưởng hay tư duy (thought) gồm có lý trí và tình cảm (affection, sentiment).  Lý trí gồm có suy nghĩ (thinking) và suy luận (reason).  Từ ý thức hiểu biết về sự vật tâm thức mới có tư tưởng về sự vật, đó là ý kiến (view, idea).  

Pháp Bảo Đàn kinh viết về tâm thức (hoạt động của tâm) và sự vật:  
   Một ngày kia (Lục tổ Huệ Năng) ra chùa Pháp Tánh (ở Quảng Châu) gặp Pháp sư Ấn Tông.  Có hai vị tăng tranh luận về nghĩa “gió và phướn (một loại cờ)”; kẻ nói gió động người nói phướn động, tranh cãi không ngừng.  Huệ Năng chen vào nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm các ông động”.  Cả chúng (= mọi người) đều ngạc nhiên.

Do đó:
   Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật do đó Tâm thức thì "động" (moving) chứ không bắt buộc phải "tịnh" hay "tĩnh" (not moving) cho dù Tâm thức Giác ngộ hay vô minh.  Tâm thức không bám chặt và ràng buộc (không sở trụ) vào Sự vật nhưng Tâm thức của Con người vẫn luôn ở trạng thái hoạt động (= trạng thái "động") đối với Sự vật bên ngoài.  Từ ngữ "Tịnh" trong Tâm "An tịnh" có nghĩa là "trong sạch" (pure).
   Không có đoạn diệt tất cả Tư tưởng (gồm Tình cảm và Lý trí).  Thiền Tông không đồng ý với đoạn diệt tư tưởng như Duy Thức Phái; vì Duy Thức Phái cho rằng Tư tưởng (Mạt Na thức) là nguồn gốc của chấp ngã và tự ngã nên phải đoạn diệt.
   Đoạn Hoặc và Từ Bi chỉ thuộc về Tình cảm trong Tâm thức của Con người mà thôi.  Tâm thức của Con người tự do trong các hoạt động khác của Tâm thức như cảm giác (sensation), tri giác (perception), nhận thức (cognition), lý trí và kể cả những hoạt động khác của tình cảm.  Con người vẫn có Tình cảm chứ không Vô tình (và Diệt dục).

Pháp Bảo Đàn kinh viết (trang 88-89) về "Không đoạn diệt Tư tưởng":
Có vị Tăng đem bài Kệ của Ngọa Luân Thiền sư lập lại với Sư (Huệ Năng):

    Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng             Ngọa Luân có kỹ lưỡng
   Năng đoạn bá tư tưởng               Dứt được trăm tư tưởng
   Đối cảnh Tâm bất khởi                Đối cảnh Tâm chẳng khởi
   Bồ Đề nhựt nhựt trưởng              Bồ Đề ngày ngày (tăng) trưởng (*)
   (Ngọa Luân)                                 (Dịch)

Sư (Huệ Năng) nghe xong nói: “Bài Kệ nầy chưa rõ Tâm địa, nếu theo đó mà tu hành thì lại thêm trói buộc”.  
Do đó Sư khai thị một bài Kệ:

    Huệ Năng một kỹ lưỡng                 Huệ Năng không kỹ lưỡng
   Bất đoạn bá tư tưởng                    Chẳng dứt trăm tư tưởng
   Đối cảnh Tâm sổ khởi                    Đối cảnh Tâm cứ khởi
   Bồ Đề tác ma trưởng.                     Bồ Đề làm sao (tăng) trưởng. (*)
   (Huệ Năng)                                     (Dịch)

Chú thích: Bồ đề đồng nghĩa với giác ngộ.  Tư tưởng gồm có lý trí và tình cảm.

Một công án trong Thiền Luận (quyển Trung, trang 118) viết về "Vô tình":
   Một giảng sư kinh Hoa Nghiêm đến tìm Huệ Hải và hỏi: “Bẩm, Thầy tin rằng hết thảy các loài Vô Tình đều là Phật?”
   Đáp: “Không, tôi không tin vậy.  Nếu các loài vô tình đều là Phật, các loài đang sống khác nào đã chết.  Khỉ chết, chó chết còn hơn loài người đang sống.  Chúng ta đọc Kinh thấy nói Phật thân không khác Pháp thân (Dharmakàya) vốn do Giới (Sila), Định (Dhyàna) và Tuệ (Prajna) mà sinh; do các phước đức mà sinh.  Nếu các loài vô tình đều là Phật, thưa Đại Đức, ngay lúc nầy tốt hơn hãy chết đi mà thành Phật”.

Theo Bát Chánh Đáo hay Lục Độ của Đạo Đế, Tâm Giác ngộ không đoạn diệt Tư tưởng
Giác Ngộ trong Bát Chánh Đạo (hay Lục Độ):
    - Sáng suốt trong nhận thức giáo lý Giác Ngộ: Chánh Kiến (Right View) và Chánh Niệm (Right Mindfullness) 
   = Chánh Tuệ     
   = Tuệ Ba La Mật Đa = Bát Nhã Ba La Mật Đa của Lục Độ.
    - Sáng suốt trong thi hành giáo lý Giác ngộ trong đời sống (trong sinh kiếp)
   Qua tư tưởng hay tư duy*: Chánh Tư Duy (Right Thought) và Nhẫn Ba La Mật Đa của Lục Độ.
   Qua ngôn ngữ: Chánh Ngữ (Right Speech)
   Qua hành động: Chánh Nghiệp (Right Action)
   Qua sinh hoạt: Chánh Mệnh (Right Livelihood) và Bố Thí Ba La Mật Đa của Lục Độ.
     - Luôn luôn giữ sáng suốt trong nhận thức và thi hành Giáo lý Giác ngộ: ChánhTinh Tiến (Right Effort) = Tinh Tiến Ba La Mật Đa của Lục Độ.

Chánh Tư Duy + Chánh Ngữ + Chánh Nghiệp + Chánh Mệnh = Giới Ba La Mật Đa của Lục Độ.

*
Tâm thức (Tâm) của Con người "nhân duyên" đối với Sự vật bên ngoài của Tâm mà có Khổ Nghiệp cho nên Khổ (quả Khổ).  Tâm của Con người và Sự vật đều là Nhân và 2 Nhân "duyên" với nhau nên gọi là "nhân duyên".
Theo giáo lý Giác ngộ:
   Khổ Nghiệp từ nhân duyên (Nhân Duyên Khổ Nghiệp) = Hoặc (Mê hoặc) gồm Tham dục, Sân và Mạn.  Vô minh = có Khổ Nghiệp.  {Tập Đế}
   Đoạn diệt Khổ Nghiệp từ nhân duyên giữa Tâm thức của Con người và Sự vật bên ngoài của Tâm là Đoạn Hoặc và Từ Bi.  Từ Bi thì không có Khổ Nghiệp.  Giác ngộ = không có Khổ Nghiệp từ đoạn diệt.  {Diệt Đế} 

Sự vật bên ngoài Tâm của một Con người gồm cả Thân của con người đó. Như vậy Tâm của một Con người cũng Đoạn Hoặc và Từ Bi đối với Thân của mình. 

Do đó,  Tâm thức Giác ngộ không có Khổ Nghiệp là Đoạn Hoặc và Từ Bi:
   Đoạn Hoặc và nhất là Từ Bi chỉ đặt căn bản trên Khổ Nghiệp chứ không đặt căn bản trên Ác Nghiệp và Thiện Nghiệp và những loại Nghiệp khác.  Phật Pháp chỉ dùng Ác Nghiệp làm căn bản cho Trì Giới và không áp dụng Thiện Nghiệp.
   Đoạn Hoặc và Từ Bi theo "nhân duyên": Tâm thức chỉ Đoạn Hoặc và Từ Bi với Sự vật có "nhân duyên" tức là có liên quan.  Tâm thức của một Con người chỉ Đoạn Hoặc và Từ Bi đối với Sự vật (bao gồm sanh mạng) có liên quan với mình mà thôi.  Một Con người không bắt buộc phải tình nguyện "cứu nhân độ thế" cho nhiều người không có liên quan đến mình hay cho tất cả mọi người.

Thiền Luận quyển Hạ, trang 547 viết về Từ Bi chỉ dựa trên Bản tâm hay Phật tánh (Tự tánh) không Khổ Nghiệp chứ không vì Thiện Nghiệp và Từ Bi không cần phải là "cứu nhân độ thế" cho quảng đại quần chúng.

Lương Vũ Đế hỏi Đạt Ma (Tổ Bồ Đề Đạt Ma):
   “Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay, đã xây dựng biết bao nhiêu chùa chiền, sao chép     biết bao kinh điển và độ vô số tăng ni.  Ngài nghĩ công đức của Trẫm như thế nào?”.
Đạt Ma đáp (cộc lốc):
   “Tâu Bệ hạ, chẳng công đức gì hết”
Vũ Đế ngạc nhiên hỏi: 
   “Tại sao thế?”
Đạt Ma mới nói như vầy:
   “Đó chỉ là những việc làm hạ đẳng, chỉ khiến cho người ta thác sinh vào các cõi trời, rồi cũng sẽ trở lại trần gian nầy nữa.  Chúng vẫn còn mang những dấu vết của thế tục, như bóng theo hình.  Dù chúng có vẻ thực, thì cũng chỉ là những pháp phi hữu.  Đối với công đức chân thật (thì) đầy đủ trí tuệ thanh tịnh (= trong sạch), viên mãn vi diệu, và bản tính chân thật của nó vượt ngoài sở tri (= cái hiểu biết) của người.  Do vậy đừng tìm cầu nó trong các công trình thế gian”.

*
Giác Ngộ là Tâm của Con người Giác ngộ thực tế chỉ là Tâm thức Đoạn Hoặc và Từ Bi.
Tâm Giác ngộ (Tâm thức Giác ngộ) =
   Tâm thức nhận nhức đúng (chánh kiến), luôn để ý đúng (chánh niệm) và tuân giữ đúng (chánh tinh tiến) Đoạn Hoặc và Từ Bi {Kiến = Giải ngộ}
   và thi hảnh đúng Đoạn Hoặc và Từ Bi, đúng trong tư tưởng (chánh tư duy), đúng trong ngôn ngữ (chánh ngữ), đúng trong hành động (chánh nghiệp) và đúng trong sinh hoạt (chánh mệnh) trong kiếp sống hằng ngày. (Hành = Chứng ngộ}

Như vậy, một Con người Giác ngộ sống bình thường trong đời sống thế tục hằng ngày theo chí hướng tự do của mình với Tâm thức Đoạn Hoặc và Từ Bi mà không cần phải gia nhập Tăng già thành Tăng Ni.  Như vậy nhân loài mới sinh sản trong văn minh tiến bộ được nhờ các hoạt động khác của Tâm thức của Con người theo Tình cảm Đoạn Hoặc và Từ Bi. 
Tóm lại, Con người Giác ngộ là Hành Kiến Đoạn Hoặc và Từ Bi trong đời sống thế tục hằng ngày của mình. 

Thiền sư Yến Khê Quảng Văn (1189-1263) có bài kệ (trích từ Thiền Luận của Suzuki):
   
Đảm tử toàn kiên hà phụ         
Mục tiền qui lộ vô sa                      
Tâm tri ưng vô sở trụ                           
Tri sài lạc tại thùy gia                      

(Dịch)
Đôi vai chất đầy gánh nặng
Đường về trước mắt không hay
Dù biết “ưng vô sở trụ”
Biết rằng củi bán nhà ai

Một Công án từ Thiền Luận của Suzuki viết:

Tổ sư Lặc Đàm Hoài Trừng hỏi sư Linh Thao hiểu sao về (Tổ) Đạt Ma (từ) Tây lại, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật.  Linh Thao bày tỏ rằng không hiểu.
Lặc Đàm nói: “Trước khi xuất gia ông làm gì?”
Đáp: “Chăn trâu”
Lặc Đàm lại nói: “Chăn như thế nào?”
Đáp: “Sáng sớm cưỡi đi, chiều tối cưỡi về”
Lặc Đàm nói: “Ông thiệt ngu si quá đổi”

Sư Linh Thao đại ngộ và đọc bài Kệ:

Phóng khước ngưu tằng tiện xuất gia      Vứt bỏ giây chăn rồi xuất gia
Thế trừ tu phát trước cà sa                       Cạo râu cạo tóc khoác cà sa
Hữu nhân vấn ngã Tây lai ý                     Có ai hỏi ý từ Tây đến
Tru trượng hoành khiêu la lí la                Vác gậy quơ ngang la lí la
(Sư Linh Thao)                                         (Tuệ Sỹ dịch)


Giữa Hành và Kiến, Kiến là phần quan trọng: Giác ngộ là phải Hành (Chứng ngộ) theo Kiến (Giải ngộ).
Câu chuyện trong Pháp Bảo Đàn kinh cho thấy sư Thần Tú với bài kệ chỉ nói về Hành nhưng không nói về Kiến nên không được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát.  Sau đó sư Huệ Năng có bài kệ về Kiến mặc dù chưa hoàn chỉnh nên Tổ Hoằng Nhẫn dạy thêm cho hoàn chỉnh về Kiến và truyền y bát thành ra Lục tổ.

Đây là hai bài kệ của sư Thần Tú và Huệ Năng (trích từ Pháp Bảo Đàn kinh):

    Thân thị bồ đề thụ                             (Thân như cây bồ đề)
   Tâm như minh kính đài                     (Tâm như đài gương sáng)
   Thời thời cần phất thức                     (Luôn luôn cần lau phủi)
   Mạc (Vật) sử (xử) nhạ trần ai.           (Đừng để nhuốm bụi trần)  
   (Thần Tú)

    Bồ đề bản phi thụ                              (Bồ đề vốn không là cây)
   Minh kính diệc phi đài                      (Gương sáng cũng không đài gương) 
   Bản lai vô nhất vật                            (Xưa nay không một vật)
   Hà xứ nhạ trần ai.                             (Làm sao nhuốm bụi trần).
   (Huệ Năng)


Pháp Bảo Đàn Kinh viết tiếp:
   Hôm sau Ngũ tổ (đã đọc bài Kệ của Huệ Năng) đến chỗ giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá giã gạo, nói rằng: “Người cầu đạo cần phải như thế” và hỏi: “Gạo trắng chưa?”.  Huệ Năng đáp: “Trắng đã lâu, còn thiếu sàng thôi”.  Tổ lấy gậy gõ trên cối 3 cái rồi bỏ đi.
   Huệ Năng hiểu ý nên canh ba vào thất (phòng của Tổ).  Ngũ tổ dùng cà sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết kinh (Bát Nhã) Kim Cang.  Khi đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ (đốn ngộ), vạn pháp chẳng lìa tự tánh.  
Huệ Năng liền bạch: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn chẳng lay động và tự tánh hay sanh vạn pháp”.  Tổ biết Huệ Năng đã ngộ nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bản tâm (thì) học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm thấy được bản tánh tức gọi là Trượng Phu, là Thiên Nhơn Sư, là Phật”.  

"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" có nghĩa là "Nên không bám chắc ở một chỗ mà sinh ra kỳ tâm". 
   "Ưng vô sở trụ" là Tâm của Con người không sở trụ vào Sự vật (= Giai đoạn 1 của Đoạn Khổ Nghiệp)
   "Nhi sinh kỳ tâm" là Tâm của Con người đồng nhất với Bản tâm kỳ diệu (= Giai đoạn 2 của Đoạn Khổ Nghiệp).
(Tự tánh = Phật tánh = Bản tâm)


c) Từ Bi và Đại Từ Bi

Người có tâm thức giác ngộ chính là Phật.  
Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát.  Như vật ý nghĩa của "đại từ bi" (great compassion) của Bồ tát khác với ý nghĩa của "từ bi" (compassion) của tâm thức giác ngộ.  Đại từ bi của bậc Bồ tát là hóa độ Con người khác cũng giác ngộ như mình (= giác tha, tha là tha nhân, người khác).

Phật là đọc tắt của Phật Đà.  Phật Đà là dịch âm từ Buddha của Phạn ngữ.  Anh ngữ vẫn dùng từ ngữ Buddha.  Buddha có nghĩa là "người giác ngộ" (= giác giả = awakened one). 
Bồ Tát là đọc tắt của Bồ Đề Tát Đỏa (Đóa).  Bồ Đề Tát Đỏa là dịch âm từ Bodhisattva của Phạn ngữ.  Anh ngữ vẫn dùng từ ngữ Bodhisattva.  Bodhisattva có nghĩa là "giác hữu tình" (= giác ngộ người hay sanh mạng hữu tình).

Khác với Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Đại Thừa có quan niệm Bồ Tát (Bodhisattva) nên còn được gọi là Bồ Tát Thừa theo kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa. 
   Bồ Tát là bậc đã Giác ngộ (thành Phật) nhưng vì có Tâm Đại Từ Bi (còn gọi là Bồ Đề Tâm) nên lại ra tài Hóa độ Con người cũng Giác ngộ như mình.  Bồ Tát có thể là những sứ giả của Phật ở Tịnh Độ như A Di Đà Phật ở Tịnh Độ (có tên là Tây Phương Cực Lạc) có sứ giả là Quan Thế  m Bồ Tát theo Tịnh Độ Tông.  Bồ Tát có thể ở Tịnh Độ hay Ta Bà (có khi "hóa thân" thành Con người).  
   Từ quan niệm Hóa độ của Bồ Tát (và Phật) có thêm quan niệm Cứu độ của Bồ tát (và Phật), cũng từ Tâm Đại Từ Bi.  Cứu độ là dùng quyền lực siêu phàm của mình để cứu Con người thoát khỏi tai nạn hay bệnh tật trong kiếp đang sống.  Theo tôn thờ tín ngưỡng của Phật Giáo thì Bồ Tát và Phật có quyền lực này.  
   Riêng theo Tịnh Độ Tông, Cứu độ khác của A Di Đà Phật và các Bồ Tát của ngài là cứu độ Con người thường không phải tái sinh sau khi chết mà được về ở cõi Tịnh Độ của ngài tên là Tây Phương Cực Lạc (và sống với Phật ở đây mà không cần phải Giác ngộ thành Phật).  Muốn được như vậy, Con người chỉ thành tâm niệm tên của ngài là A Di Đà Phật (= niệm Nam mô A Di Đà Phật). Đó cũng là Đại Từ Bi của Phật A Di Đà và các Bồ tát của ngài. 
   Bồ Tát hóa độ hay cứu độ là thực hiện Đại Từ Bi (Great Compassion).  Đại Từ Bi của Bồ Tát (và Phật) có nghĩa khác với Từ Bi (compassion) của Con người (trong quan niệm Từ Bi và Đoạn Hoặc).


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Bài viết nầy gồm những trích đoạn trong bài "Căn Bản Phật Pháp - Giác Ngộ và Thiền Định của Thiền Tông" (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Phật Giáo. 

Phần Phật Giáo trong phanthuonghai.com gồm có những bài của cùng một tác giả (Bs Phan Thượng Hải):
   Bài đọc: Lịch Sử và Kinh Điển Phật Giáo
   Bài đọc: Hành Hương và Huyền Thoại Phật Thích Ca
   Bài đọc: Căn Bản Phật Pháp - Giác Ngộ và Thiền Định của Thiền Tông
   Bài đọc: Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo 
   Bài đọc: Tứ Diệu Đế và Đạo Đế của Phật Giáo 
   Bài đọc: Trì Giới của Phật Giáo 
   Bài đọc: Thiền Định và Tu Thiền Định của Phật Giáo 
   Bài đọc: Thế Giới và Vũ Trụ của Phật Giáo 
   Bài đọc: Tôn Thờ Phật và Bồ Tát của Phật Giáo
   Bài đọc: Phật Giáo Tây Tạng và Kim Cang Thừa
   Bài đọc: Di Tích Phật Giáo Borobudur
   Bài đọc: Thập Bát La Hán
   Bài đọc: Thập Đại Đệ Tử của Phật Thích Ca
   Bài đọc: Ăn Chay trong Phật Giáo

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

TL_happyFatherDay.png

NHỮNG BÀI THƠ NHÂN NGÀY LỄ CHA (FATHER'S DAY)

                                               Bs Phan Thượng Hải 

 

 

* Danh hiệu "Cha" 

 

CHA

Tiếng Nôm người Việt gọi là Cha

Gọi Cậu, căn nguyên tự Bắc Hà

Từ đám thằng cu lòng mến Bố

Từ đàn con trẻ dạ thương Ba

Là Thầy, me nó nên nhường tớ

Là Tía, má mầy phải nhịn ta

Hán tự chính danh là chữ Phụ

Không là linh mục, cũng là Cha!

(Phan Thượng Hải)

6/19/21

 

 

* Tâm tình của Con đối với Cha

 

CHA (Nguyên bản)

Nhớ mãi người cha mái tóc xanh

Có cha che chở sống an lành

Chơi đùa thân mật từ thơ ấu

Dạy dỗ nghiêm minh đến trưởng thành

Bỏ nước ra đi, lòng chẳng đặng

Lìa quê mất hết, dạ không đành

Trải qua năm tháng sầu xa xứ

Cha đã nằm yên dưới mộ xanh.

(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)

6/19/16

 

         CHA (Họa)

         Sớm phải lìa cha lúc tuổi xanh

         Nổi trôi cuộc sống khó yên lành

         Công cha dạy dỗ từ thơ dại

         Nghĩa mẹ chăm lo đến trưởng thành

         Bỏ xứ xa cha, tâm chẳng nỡ

         Rời quê cách mẹ, óc không đành

         Tự do tìm đến, ngày đêm gắng

         Gặp mẹ, mộ cha cỏ đã xanh.

         (Hp-Trương Ngọc Thạch)

         6/20/16

 

 

         CHA (Họa)

         Cha hiền mất sớm, lúc đầu xanh

         Hưởng phước nên Con được tốt lành

         Hiểu ý người xưa tu đức độ

         Thấy gương người trước gắng công thành

         Nhớ thương tự nhỏ tuy còn giữ

         Ly biệt từ lâu cũng phải đành

         Đoán biết giờ đây người quá cố

         Lãng ba thơ thẩn khắp trời xanh. (*)

         (Phan Thượng Hải)

         6/21/16

         

         (*) Chú thích: Bút hiệu của cha là Lãng Ba.  Lãng ba = sóng lãng mạn

 

 

Người Cha là lính chiến VNCH sau 75 đi học tập và qua đời sớm vì tai nạn, chưa được đi HO.

 

NHỚ BA TÔI

Sống ở đời ai cũng có cha

Cha tôi số khổ, cứ bôn ba

Chiến tranh đời lính, nhiều thương tích

Cuộc sống lao tù, phải trải qua

Ngày cố đạp xe, vì lũ nhóc (*)

Đêm rèn ngoại ngữ, mộng cờ hoa (*)

Họa không tính trước, người không biết

Bọn trẻ còn mơ, bố vắng nhà. (*)

(Phan Kim Thành)

6/22/16

 

(*) Chú thích:

         Chạy xe đạp ôm, nuôi con

         Ban đêm ông ấy tự học tiếng Anh, và dạy con cái. Tính chuyện đi Mỹ đổi đời.

         Chưa bao tôi nghĩ là ba tôi đã ra đi mãi mãi.

 

 

* Tâm tình Cha Con trong Ngày Từ Phụ (Father Day)

 

MỪNG NGÀY TỪ PHỤ (Nguyên bản)

Nhân ngày từ phụ đến hôm nay

Ước mọi người cha mấy chữ nầy:

Hạnh phúc tràn đầy không phải mộng

Sướng vui thỏa thích chẳng cần say

Các con quấn quýt mừng cha khoẻ

Bằng hữu xum vầy chúc bạn may

Trách nhiệm đôi vai xong một gánh

Mong cầu thọ lộc có từng giây.

(Hp-Trương Ngọc Thạch)

6/19/16

 

         NGÀY TỪ PHỤ (Họa)

         Gìn lòng từ phụ đến ngày nay

         Tự phụ làm cha chỉ thế nầy!

         Trọng nghĩa bao năm còn nghĩa nặng

         Thân tình lắm lúc có tình say

         Lễ nghi tô thắm câu thành bại

         Lễ giáo mệt nhoài kiếp rủi may

         Thêm đạo phu thê thêm chữ hiếu

         Nhân duyên chằng chịt quá nhiều giây?

         (Phan Thượng Hải)

         6/20/16

 

 

* Cha Mẹ phải có Nghĩa với Con và Con phải có Hiếu với Cha Mẹ.

 

HIẾU NGHĨA

“Gia trung hữu bảo” phải băn khoăn (*)

Hiếu Nghĩa chu toàn đạo khó khăn

Con cháu cận kề, đành phó mặc?

Mẹ cha già yếu, chẳng mần răng?

Sinh thành, dưỡng dục, tri nhân quả

Trách nhiệm, ân tình, tạo nghiệp căn

Duyên nợ trần ai sao tránh khỏi?

Bao giờ như Phật quá sông Hằng?

(Phan Thượng Hải)

6/25/12

 

(*) Chú thích: Từ bài thơ

         CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ               

         Cư trần lạc đạo thả tùy duyên      

         Cơ tắc xan hề khốn tắc miên         

         Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch   

         Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền     

         (Trần Nhân Tông)

 

Ở ĐỜI VUI ĐẠO

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi khỏi kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền. 

                              (Dịch)

 

 * Cha Mẹ và Con lúc Tuổi Già

 

CHA MẸ GIÀ

Cha mẹ thương con trọn một đời

Biết tròn tình nghĩa biết đầy vơi

Dại khôn, thành bại, tùy duyên nghiệp

Dưỡng dục, cưu mang, hiểu mệnh trời

Tuổi trẻ trưởng thành nên độc lập

Thân già tiện túc phải buông lơi

Tề gia từng trải bao cam khổ

Đến lúc đề huề sống thảnh thơi.

(Phan Thượng Hải)

10/8/14

 

 

CON GIÀ

Con già chăm sóc bố mẹ già

Gia phong tệ nạn tự Nho Gia

Tình thương mãi vấn vương con cái

Ơn nghĩa phải đền đáp mẹ cha

Vì hiếu thảo nhiều đành hiếu thuận

Sinh phiền nhiễu lắm chịu phiền hà

Lương tâm tội nghiệp tâm sầu khổ

Vững một niềm tin sẽ thoát qua?

(Phan Thượng Hải)

12/31/19

(*) Chú thích: Tình cảnh Con Già (gần 70 tuổi) phải săn sóc Mẹ Già (hơn 90 tuổi) bị Dementia. 

 

 

* Lòng Cha Mẹ trong những dịp đặc biệt

 

CON ĐÃ VỀ (Nguyên bản)

Dịch bớt, con nay đã trở về (*)

Ơn Trời vẫn khỏe, thật mừng ghê

Chăm người ốm bệnh, luôn gần gũi

Sống chỗ nguy cơ, mãi cận kề

Đón bão trước qua nhiều hệ lụy

Rồi ngày sau tới giảm nhiêu khê

Phiền ưu nín lặng…vui bùng vỡ

Cảm ngộ nhân sinh thấm mọi bề!

(Lý Đức Quỳnh)

10/16/21

 

(*) Chú thích: Dịch Covid-19

 

         CHỜ CON VỀ (Họa)

         Cho dẫu con đi có hẹn về

         Mẹ cha thương nhớ thấy buồn ghê

         Biết là hiện tại đành xa cách

         Mong có tương lai được ở kề

         Lẩn thẩn thân già qua tật bệnh

         Gian nan người trẻ tận sơn khê

         Tình nhà nợ nước tròn nhân nghĩa

         Thăm hỏi chờ trông thỏa một bề.

         (Phan Thượng Hải)

         10/18/21

 

 

NHẮN NHỦ CON TRONG NGÀY HÔN LỄ

Thành hôn rồi sẽ đến tề gia

Nhắn nhủ đôi lời, ý mẹ cha:

Đôi lứa trọn tình gìn đức độ

Vợ chồng đồng nghiệp xứng tài ba

Giàu nghèo chia sẻ luôn an lạc

Suy thịnh cùng chung mãi thuận hòa

Dưỡng dục, nêu gương; đà toại nguyện

Tương lai xin nhậm chức ông bà. (*) 

(Phan Thượng Hải) 

12/30/18

(*) Chú thích: Bài thơ làm để mến tặng ÔBBS NVC và BĐ. 

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI sưu tầm và biên soạn

 

Bài này là một trích đoạn trong bài "Thơ Phan Thượng Hải - Gia Đình và Học Đường" đăng trong phanthuonghai.com

 

 

 

 LÝ BẠCH VÀ THƠ ĐƯỜNG LUẬT THẤT NGÔN BÁT CÚ 

 

                                         Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

Lý Bạch là thi sĩ hàng đầu trong văn học sử Trung Hoa.  Tuy nhiên ông không có tài làm thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú.  Điều này thể hiện rõ từ giai thoại về ông ở Hoàng Hạc Lâu.  Sự nghiệp làm thơ của ông chỉ có 5 bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú (trong tất cả khoảng 330 bài thơ).  Lý Bạch có làm rất nhiều bài thơ Đường Luật khác, Ngũ Ngôn và Tứ Cú (Tứ Tuyệt) nhưng gặp khó khăn khi làm thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú vì ông không có tài "Đối".  Luật Đối theo thể Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú khó hơn các thể Đường Luật khác.  

 

* Lý Bạch tại Hoàng Hạc Lâu

 

Tương truyền Lý Bạch khi thăm Hoàng Hạc Lâu sau khi đọc bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú của Thôi Hiệu (chết năm 754) thì không làm được thơ mà chỉ đọc lên hai câu thơ:

 

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc   

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.

(Lý Bạch)   

 

Dịch nghĩa:

Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc = Trước mắt có cảnh (mà) đạo lý không thích hợp hay Trước mắt có cảnh (mà) nói không được (nên lời).

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu = Thôi Hiệu (đã) đề thơ ở trên đầu (của ta).

 

Đọc 2 câu thơ nầy ta khó lòng biết được ý của Lý Bạch là khen hay chê bài thơ của Thôi Hiệu, chỉ biết là ông không muốn làm thơ bởi vì:

vì "trước mắt có cảnh mà không nên lời vì đạo lý không thích hợp".

vì bài thơ của Thôi Hiệu đã "tại ngay trên đầu (của ông)"

 

* Lý Bạch và Thi nhân Nước Việt (tại Hoàng Hạc Lâu)

 

Tuy nhiên hành vi của Lý Bạch không qua mắt được các thi nhân nước Việt. 

Thi nhân nước Việt đến tại chỗ hay nhìn Hoàng Hạc Lâu từ xa đều có sáng tác thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú dễ dàng và có người mượn lời thơ để "cười" Lý Bạch bất tài.

 

Ngô Thì Vị (sứ thần của nhà Tây Sơn) đề thơ tại chỗ và nhắc tới Lý Bạch, chỉ trích "bút lực" của Lý Bạch.

 

ĐỀ HOÀNG HẠC LÂU

Hán thủy thành biên vân thụ thụ
Tiên nhân bất kiến, chỉ không lâu
Hà thời tiên tế lai hoàng hạc
Đề ý giang trung phó bạch âu
Lý bá vị ưng thâu bút lực
Thôi quân bất hợp tác tương sầu
Việt Nam sứ giả Ngô Thời Vị
Đấu đảm đề thi ký thử du.

(Ngô Thì Vị) 

1774-1821

 

Chú thích:

Lý bá là Lý Bạch, nhắc tới 2 câu thơ của Lý Bạch

Thôi quân là Thôi Hiệu, nhắc tới bài thơ của Thôi Hiệu

 

ĐỀ THƠ TẠI HOÀNG HẠC LÂU (Dịch)

Sông Hán bên thành rợp lá mây,
Người tiên không thấy, thấy lầu đây.
Hạc vàng đi mãi bao giờ lại?
Âu trắng dành riêng dãi nước đầy.
Lý bá cớ chi chùn bút vội?
Thôi quân sao lại nhớ quê ngay?
Sứ thần nước Việt: Ngô Thời Vị,
Chẳng sợ làm thơ viếng cảnh này.

(Nhất Uyên dịch)

 

Trịnh Hoài Đức (sứ thần của nhà Nguyễn) chỉ đối cảnh thành thi khi nhìn Hoàng Hạc Lâu từ xa nhưng cũng không quên Lý Bạch.  Ông cho rằng Lý Bạch đầu hàng chịu thua không làm nổi 1 bài thơ khi đến Hoàng Hạc Lâu như những thi nhân thông thường khác. 

 

ĐỀ HOÀNG HẠC LÂU

Vũ Xương chí bãi giá công xa

Hoàng Hạc giang lâu túng mục sơ

Miến Thủy yên hoa khai bộ trướng

Ngạc Châu văn vật tảo đình trừ

Bồ trương phố viễn phàm quy khách

Mai lạc hồ bình địch xuy ngư

Cuồng tứ dục canh Thôi Hiệu cú

Thanh Liên tiên lữ há hàng thư. (*)

(Trịnh Hoài Đức)

1765-1825

 

(*) Chú thích: Thanh Liên là (tên hiệu của) Lý Bạch; nhắc lại chuyện Lý Bạch chịu thua không làm được thơ. 

 

ĐỀ LẦU HOÀNG HẠC (Dịch)

Đưa xong quà tặng cưỡi xe chơi

Lầu Hạc bên sông thỏa mắt coi

Miến thủy khói hoa khai trướng mở

Ngạc Châu văn vật quét sân bày

Cây giương bến lạnh thuyền quay lái

Mai rụng hồ trong tiếng sáo chài

Thôi Hiệu thơ xưa cuồng muốn tiếp

Thanh Liên trước đã chịu hàng ai.

(Trương Việt Linh dịch)

 

Nguyễn Du (sứ thần của nhà Nguyễn) còn xử sự cao cường hơn Lý Bạch mặc dù không đề cập đến Lý Bạch trong thơ của mình như Ngô Thì Vị và Trịnh Hoài Đức.  Nguyễn Du bình một bài thơ hay nhất đã có từ trước rồi tự sáng tác ra một bài thơ có thêm ý tứ mới hơn của Thôi Hiệu.

Năm 1813, Nguyễn Du đi sứ sang Tàu cũng có ghé Hoàng Hạc Lâu.  Sau khi đọc những bài thơ đã có của những sứ thần nước Việt đến trước ông, Nguyễn Du chỉ khen bài thơ của Lê Quang Định (1803).

Nguyễn Du bình bài thơ này: 

 

Thôi Hiệu thi thành, hậu nhân đáo thử cánh đạo bất đắc. 

崔灝詩成,後人到此竟道不得.  

Thử cú tòng Trần Trung cấu xuất tân tứ, khả dĩ vịnh Hoàng Hạc hĩ. 

此句從陳中構出新思,可以詠黃鶴矣 

 

Dịch nghĩa:

Thôi Hiệu thi thành, hậu nhân đáo thử cánh đạo bất đắc = Thôi Hiệu làm thơ xong, người sau tới không viết được nữa. (Ý chỉ Lý Bạch). 

Thử cú tòng Trần Trung cấu xuất tân tứ, khả dĩ vịnh Hoàng Hạc hĩ = Những câu (thơ) này theo Trần Trung, tạo ra tứ mới lạ, xứng đáng thơ vịnh lầu Hoàng Hạc vậy. (*)

 

(*) Chú thích:

Trần Trung tức Trần Phu 陳孚, tự Cương Trung 剛中, có bài Ngạc chử vãn diểu 鄂渚晚眺 viết khi lên lầu Hoàng Hạc.

Thử cú = (những) câu (thơ) nầy là bài thơ của Lê Quang Định.
 

Đây là bài thơ mà Lê Quang Định làm khi ông đi sứ sang Tàu để xin đổi quốc hiệu là Việt Nam (1803).  

 

ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU

Hoàng Hạc lâu đầu tượng ngoại khoan
Hán Dương thành quách nhiễu tình lan
Lữ tiên túy hậu trùng lai diểu (*)
Thôi Hiệu thi thành tái họa nan
Trần mộng vị tinh thanh thảo bạn
Hương tâm mỗi ký bạch vân đoan
Hàn phi tích cổ viêm tưu viễn (*)
Nhân cảnh tao phùng hữu thử quan.

(Lê Quang Định)

1759-1813

 

(*) Chú thích:

Lữ tiên là tiên ông Lữ Đồng Tân, 1 trong Bát Tiên của Đạo Giáo.

Viêm tưu = xứ nóng, ám chỉ xứ ở miền nhiệt đới như Việt Nam.

 

LÀM KHI LÊN LẦU HOÀNG HẠC (Dịch)

Trước lầu cảnh tượng rộng thay
Hán Dương thành quách nước mây bốn bề
Say xong tiên Lữ không về
Hoạ thơ Thôi Hiệu phẩm đề, khó sao!
Mộng chưa tỉnh, cỏ xanh màu
Gửi theo mây trắng nỗi sầu quê hương
Chốn cổ tích xa viêm bang
Người may gặp dịp xem quang cảnh này.

(Hoài Anh dịch)

 

Cũng như tất cả những bài thơ làm sau bài thơ của Thôi Hiệu, bài thơ của Lê Quang Định không có khuyết điểm về hình thức như bài thơ của Thôi Hiệu.  Nội dung của bài thơ cũng bao gồm ý tứ giống như của Thôi Hiệu nhưng nó có 2 điều mới:

Nhắc đến tiên ông Lữ Đồng Tân trong huyền thoại Hoàng Hạc Lâu.

Nhấn mạnh là thơ của một người viễn xứ đến từ miền nhiệt đới.

 

Khác với Lý Bạch, sau khi khen bài thơ của Lê Quang Định, Nguyễn Du cũng có làm bài thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu.  

 

ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU

Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì
Do lưu tiên tích thử giang mi
Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng
Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu
Nhãn trung thảo thụ thượng y y
Trung tình vô hạn bằng thùy tố
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

(Nguyễn Du) 

1766-1820

 

Chú thích:

Lư Sinh đời Đường đến 1 quán trọ, nằm đợi chủ quán nấu nồi kê (hoàng-lương), ngủ quên, nằm mộng thấy lấy vợ, đẻ con, sinh cháu, giầu sang, vinh hoa, phút tỉnh dậy thấy mất cả (Hoàng Lương Mộng / Giấc Mộng Kê Vàng của Lư Sinh).  (theo TĐ Đào Duy Anh).

Lư Sinh có tượng thờ trong Hoàng Hạc lâu.

 

LÊN HOÀNG HẠC LÂU (Dịch)

Xa khuất thần tiên trải bấy lâu

Bến sông dấu cũ vẫn bên lầu

Xưa đi nay lại Lư còn mộng

Hạc vắng lầu hoang Hiệu mấy câu 

Ngoài gác nước mây vời vợi thẳm

Trong tầm cây cỏ vẫn xanh mầu

Ý tình chan chứa cùng ai ngỏ?

Trăng gió vô tình có biết đâu?!

(Hoàng Hoa Nguyễn Hoài Trung dịch) 

 

LÊN HOÀNG HẠC LÂU (Dịch)

Thần tiên đã đến tự bao giờ?
Còn lại dấu tiên trên bến mơ.
Giấc mộng Lư Sinh kim cổ vọng,
Vần thơ Thôi Hiệu hạc lầu trơ.
Ngoài hiên khói sóng bay mờ mịt,
Trước mắt cỏ cây vẫn thuở xưa.
Nỗi niềm có biết cùng ai tỏ.
Trăng thanh gió mát cũng thờ ơ!
(Nhất Uyên dịch)

 

Nhận xét:

Nguyễn Du cũng làm đúng theo ý tứ của Thôi Hiệu nhưng ông cũng nhấn mạnh tới Tiên trong huyền thoại Hoàng Hạc Lâu như Lê Quang Định.  Nguyễn Du còn mượn Lư Sinh với Hoàng Lương Mộng để nói thêm ý niệm thời gian trong nội dung.  (Lư Sinh cũng được thờ trong Hoàng Hạc Lâu).  Đó là những "tân tứ" trong bài thơ của Nguyễn Du.  

Nguyễn Du, cũng như Lê Quang Định, tả những chi tiết của một không gian tại Hoàng Hạc Lâu không khác Thôi Hiệu nhưng ông còn cố tình dùng chữ đôi "diểu diểu" và "y y" trong bài thơ để sánh với bài thơ của Thôi Hiệu đã có 2 chữ đôi là "lịch lịch" và "thê thê".

Nguyễn Du đã tự chứng tỏ thi tài của mình, trội hơn các thi nhân trước đã làm thơ vịnh khi đến Hoàng Hạc Lâu, nhất là thi nhân nước Việt.  Ông cũng chứng tỏ phong cách của mình trội hơn của Lý Bạch tại Hoàng Hạc Lâu.


 

* Lý Bạch và thơ Đường Luật

 

Sau khi đọc giai thoại của Lý Bạch tại Hoàng Hạc Lâu, hậu sinh tìm hiểu và tìm ra yếu điểm trong tài làm thơ của Lý Bạch.

 

Theo trang thơ của Google, 330 bài thơ để lại của Lý Bạch gồm có:

5 bài bát cú thất ngôn theo thể Đường Luật

50 bài bát cú ngũ ngôn theo thể Đường Luật; trong đó đa số theo biến thể là câu đầu không vần. 

còn lại đại đa số là thơ Cổ Phong và thơ Đường Luật tứ cú (ngũ ngôn hay thất ngôn).

 

Như vậy Lý Bạch rất hiếm khi làm thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú (chỉ có làm 5 bài trong số 330 bài thơ của ông).  Do đó ông từ chối làm thơ khi đến Hoàng Hạc Lâu đọc bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú của Thôi Hiệu.  Ba bài Thanh Bình Điệu của ông tả Dương Quý Phi là 3 bài tứ cú (có theo Đường Luật).  Cái khó và cũng là cái đặc sắc của thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú mà mọi thi nhân đều biết là Đối với câu dài 7 chữ (thất ngôn).  Do đó có thể yếu  điểm trong tài làm thơ của Lý Bạch là "Đối trong thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú".  

Đọc lại 50 bài thơ ngũ ngôn bát cú của ông mặc dù theo Đường Luật nhưng có một số bài đối không chỉnh mặc dù là với câu chỉ có 5 chữ (ngũ ngôn) và có nhiều bài không có vần ở câu đầu.  Những bài thơ này gần giống như thơ Cổ Phong. 

 

Trong văn học sử Trung Quốc, thi nhân Trung Hoa bắt đầu làm thơ "tự do" không theo luật lệ nào hết miễn là có vần ở cuối câu.  Đó là thể thơ Cổ Phong.  Đến thời của Đường Trung Tông và Võ Tắc Thiên, thể thơ theo Luật mới chính thức phổ biến từ triều đình của nhà Đường nên mới gọi là thể thơ Đường Luật.  Có 4 loại:

Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú

Đường Luật Ngũ Ngôn Bát Cú

Đường Luật Thất Ngôn Tứ Tuyệt (Tứ Cú)

Đường Luật Ngũ Ngôn (Tứ Cú) 

(Thơ Đường Luật khác Đường Thi.  Đường Thi là thơ làm trong thời nhà Đường, có thể là Cổ Phong hay Đường Luật).  

 

Thể thơ Đường Luật Bát Cú phải theo Luật Đối.  Thể thơ Đường Luật Tứ Tuyệt (Tứ Cú) không có luật Đối.  Phép Đối của câu 7 chữ (thất ngôn) thì khó và phức tạp hơn của câu 5 chữ (ngũ ngôn).  Do đó vì phép Đối của thể thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú rất khó và phức tạp nên Lý Bạch không làm nỗi.  Trong sự nghiệp thi văn của ông chỉ có 5 bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú mà thôi.  

 

* Lý Bạch từ Hoàng Hạc Lâu 

 

Trong số 5 bài thơ này, Lý Bạch ráng làm 2 bài để chữa thẹn hành vi của mình ở Hoàng Hạc Lâu.

Lý Bạch làm bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú tả Anh Vũ châu, đã có nói đến trong bài thơ của Thôi Hiệu: "Phương thảo thê thê Anh Vũ châu".

 

ANH VŨ CHÂU

Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy

Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh

Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ

Phương châu chi thụ hà thanh thanh

Yên khai lan diệp hương phong khởi

Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh

Thiên khách thử thời đồ cực mục

Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh.

(Lý Bạch)

 

Chú thích:

Anh vũ: là con chim két.

Anh Vũ Châu: tên bãi sông ở Hán Dương, Hồ Bắc.  Bên kia bờ sông Trường Giang là Hoàng Hạc lâu.

Ngô giang: khoảng sông Trường Giang ở đất Ngô.  Hán Dương thuộc đất Ngô.

Lũng Sơn: tên núi ở huyện Lũng Sơn, Thiểm Tây

 

Bài thơ nầy lại có một chữ thất luật: chữ "sơn" ở câu 3.

 

BÃI ANH VŨ (Dịch)

Ngày xưa anh vũ đến sông Ngô

Nên bãi mang tên tự bấy giờ

Anh vũ sang tây qua núi Lũng

Xanh xanh cây bãi ngát hương đưa

Gió lan thơm tỏa tan làn khói

Sóng gấm đào dâng sát cạnh bờ

Hờ hững kẻ đày buồn ngắm cảnh

Soi trên bãi nguyệt thấy bơ vơ.

(Trần Trọng San dịch)

 

Lý Bạch làm một bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú khác để tả Phụng Hoàng đài ở Kim Lăng.  Mọi người đều biết Lý Bạch làm bài thơ này để sánh mình như Thôi Hiệu làm bài thơ "Hoàng Hạc Lâu".

 

ĐĂNG KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI 

Phụng Hoàng đài thượng phụng hoàng du
Phụng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam Sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân Bạch Lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường An bất kiến sử nhân sầu.

(Lý Bạch) 

 

Chú thích:

Đời Tống Văn Đế của Nam Triều (thứ 16) có con chim ngũ sắc đậu trên núi mấy ngày.  Khi chim xoè cánh và cất tiếng kêu thì trăm loài chim khác múa theo.  Người ta gọi nó là chim Phụng Hoàng và Tống Văn Đế đặt tên núi nầy là núi Phụng Hoàng và cất một cái đài ở đó là Phụng Hoàng đài.  

Ngô cung do vua nước Ngô vào thời Tam Quốc là Tôn Quyền cất.  

Tam Sơn là tên núi ở Kim Lăng.  

Nhị Thủy là 2 con sông Tần Thủy và Hoài Thủy cùng một phát nguyên tự Tây Sơn, một con sông chảy vào thành và một con sông chảy quanh thành Kim Lăng.  

Kim Lăng là Nam Kinh ngày nay.  

Bạch Lộ là một bãi của sông Trường Giang cũng ở Kim Lăng.  

 

LÊN PHỤNG HOÀNG ĐÀI Ở KIM LĂNG 

Đài Phượng Hoàng cao, phượng đến chơi,
Phượng đi, đài vắng, dải sông trôi!
Cung Ngô hoa cỏ che đường lối,
Đời Tấn cân đai hoá núi đồi.
Ba ngọn thanh sơn, trời khuất nửa,
Một vùng Bạch Lộ nước chia đôi.
Chỉ vì mây nổi che vầng nhật,
Chẳng thấy Trường An não dạ người.

(Khương Hữu Dụng dịch) 

 

Bài thơ này có ý tứ nhập đề và kết luận không khác gì bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, nhất là câu cuối: "Trường An bất kiến sử nhân sầu".  (Trường An là kinh đô của nhà Đường lúc bấy giờ, nơi Lý Bạch đã làm quan). 

Lý Bạch không thoát ra khỏi cái "ước lệ" từ bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.

Lý Bạch đến Hoàng Hạc Lâu không làm được thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú để vịnh Hoàng Hạc Lâu và sau đó làm bài thơ vịnh Phụng Hoàng Đài để chửa thẹn nhưng ý tứ lại không khác bài thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.

 

Thi nhân Việt Nam hiện đại đến thăm Hoàng Hạc Lâu có họa thơ bài thơ của Hoàng Hạc Lâu (cũng dùng Hán ngữ) với ý tứ khác.

 

HOÀNG HẠC LÂU (Nguyên bản)                                   

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ                 

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu                

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản              

Bạch vân thiên tải không du du                    

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ           

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu               

Nhật mộ hương quan hà xứ thị                     

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.                

(Thôi Hiệu)

 

HOÀNG HẠC LÂU (Họa)

Thần tiên xuất thế thừa hoàng hạc (*)

Nhân loại lộc trần kiến mỹ lâu

Thắng cảnh nhãn tiền thi nhã hứng

Kỳ quan thiên hạ khách nhàn du

Thanh danh tự cổ truyền Tam Quốc (*)

Huyền thoại chí kim bá Ngũ Châu

Ngoạn mục cảm tình an lạc thú

Văn chương đắc đạo bất tri sầu.

(Phan Thượng Hải)

3/31/21

 

(*) Chú thích:

Thừa = cỡi, cưỡi.  Kiến = dựng lên - trông thấy.  

Hoàng Hạc Lâu có từ thời Tam Quốc.

 

Bài thơ này bằng Hán ngữ như bài thơ của Thôi Hiệu nhưng nhấn mạnh đến lịch sử thay vì là địa lý và có tâm tình khác.

Bài thơ ngụ ý khác với "sử nhân sầu" của Thôi Hiệu và "nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc" của Lý Bạch, nhất là 2 câu cuối và câu thứ ba.


 

* Lý Bạch và Đạo Cao Đài

 

Khi còn sống, Lý Bạch là thi nhân, thi sĩ, thi bá và thi hào.  Sau khi mất, Lý Bạch thành thi tiên theo Đạo Giáo (Lão Giáo) của người Trung Hoa và cuối cùng ông là thi thánh theo Đạo Cao Đài của người Việt ở Nam Kỳ.

Thi thánh Lý Bạch giáng cơ Đạo Cao Đài vào tiền bán thế kỷ một bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú theo biến thể Vĩ Tam Thanh (bằng Hán ngữ), một biến thể rất khó làm của thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú. 

 

Vĩ Tam Thanh (Vĩ = vỹ = đuôi, Tam = ba, Thanh = tiếng) = Lối thơ mà 3 tiếng cuối cùng của câu nào cũng phát âm giống nhau.  Như vậy, ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm (giống hệt nhau về âm vần nhưng khác thanh dấu).

 

LÝ BẠCH THIÊN TIÊN GIÁNG BÚT THI 

Lãn quan thế thái cạnh tranh hành

Sơn thủy nhàn du tỉnh tính tình

Lĩnh thụ sương hàm hoa quá quả

Cầm tuyền thủy khích thạch thành thanh

Mê đồ ta bỉ tiên tiền tiến

Phúc địa y thùy cánh cạnh tranh

Nhân thế dục cầu tri trí trị

Hồi đầu tảo táo thính kình khanh.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch của một Hiền tài của Đạo Cao Đài cũng theo thể Vĩ Tam Thanh.

 

(Dịch Thơ)

Buồn xem cõi thế cảnh tranh giành 

Non nước chơi qua tránh lạnh tanh

Cây núi sương pha hoa quá quả

Suối đàn nước, đá đánh thành thanh

Đường mê lắm kẻ đây đầy đấy

Cõi phúc nào ai tránh sánh danh

Cuộc thế muốn cho bình thịnh vĩnh

Quay đầu nghe sách thánh nhanh nhanh.

(Bùi Đắc Hùm)

30-8-2013

 

Nhờ Đạo Cao Đài, thi nhân Lý Bạch sau khi qua đời làm được một bài Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú (cũng bằng Hán ngữ) theo biến thể Vĩ Tam Thanh.

Tuy nhiên Lý Bạch không hề có một bài thơ Họa.  Họa thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú là một nghệ thuật của thể thơ này.  Sự nghiệp thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú của Lý Bạch lúc còn sống chỉ có 5 bài thơ và không có một bài thơ Họa nào hết.


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này đăng trong phanthuonghai.com mục Thơ Văn phần Đọc Thơ (Cổ Văn). 

 

Tài liệu tham khảo

1) Giai Thoại Thi Văn Hoàng Hạc Lâu (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Đạo Cao Đài và Đạo Hòa Hảo (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

3) Trang Thơ Lý Bạch - Google 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

HOÀNG HẠC LÂU HIỆN ĐẠI

PTH_HoangHacLau.JPG

Du khách viếng thăm Hoàng Hạc Lâu vào thế kỷ 21 có bài thơ:

 

THĂM HOÀNG HẠC LÂU HIỆN ĐẠI

Hoàng hạc nghe danh, có gặp đâu

Thế mà tái dựng lắm ngôi lầu

Thi nhân thử vận đề hoa tự

Du khách khai quan thượng mỹ lâu

Anh Vũ nơi nao, toàn phố xá

Hán Dương chốn đó, cách cây cầu

Khó lòng giả bộ theo Thôi Hiệu

Tức cảnh thành thơ, dạ chẳng sầu.

(Phan Thượng Hải)

5/3/2007

 

Bài thơ nầy hiện đại hóa cảnh tình du lịch thăm viếng Hoàng Hạc Lâu.


Nhìn lại lịch sử của Hoàng Hạc Lâu, tác giả nhận thấy không có ai họa bài thơ Hán ngữ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu nên mạn phép kính họa bằng một bài thơ Hán ngữ để kết luận:

 

HOÀNG HẠC LÂU (Nguyên bản)                                   

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ                 

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu                

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản              

Bạch vân thiên tái không du du                    

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ           

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu               

Nhật mộ hương quan hà xứ thị                     

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.                

(Thôi Hiệu)

 

HOÀNG HẠC LÂU (Họa)

Thần tiên xuất thế kỵ hoàng hạc

Nhân loại lụy trần tạo mỹ lâu

Thắng cảnh nhãn tiền thi nhã hứng

Kỳ quan thiên hạ khách nhàn du

Thanh danh tự cổ truyền Tam Quốc (*)

Huyền thoại chí kim bá Ngũ Châu

Ngoạn mục cảm tình an lạc thú

Văn chương đắc đạo bất tri sầu.

(Phan Thượng Hải)

3/31/21

 

(*) Hoàng Hạc Lâu được bắt đầu xây vào thời Tam Quốc. 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài này là đoạn cuối của bài "Giai Thoại Thi Văn Hoàng Hạc Lâu" (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com  

BÀI THƠ "THIẾT THIỆT" TRONG VIỆT SỬ

Bs Phan Thượng Hải biên soạn

Trước 1975 bài thơ này được dạy là của ông Trần Văn Kỷ, quan Trung Thơ lệnh của Bắc bình Vương Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) can việc xích mích giữa 2 anh em ông Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.  Sau 1975, thì sách mới lại viết của Nguyễn Hàm Ninh trong chuyện vua Tự Đức và anh là Hồng Bảo với bài thơ có đổi khác một chút.  Theo tác giả bài nầy được viết để nói lên những điều mà sử gia ngày nay không nói và nhớ đến Thầy Phạm Minh Đức của trường Phan Thanh Giản, một giáo sư Sử Địa đáng kính mến. (LTS)

 

Trong Việt sử có một bài thơ lịch sử được ít người biết và để ý đến. Không những là một bài thơ ứng khẩu với nội dung sâu sắc trong hình thức đơn giản mà bài thơ nầy còn làm nên lịch sử. Đó là bài thơ "Thiết Thiệt" (Cắn Lưỡi). Theo thiển ý, bài thơ nầy cũng đặc sắc như bài thơ "bảy bước" của Tào Thực và bài thơ tả Dương Quí Phi của Lý Bạch.

 

Bài thơ "Thiết Thiệt" (Cắn Lưỡi)

 

*

Theo Chính sử của nhà Nguyễn, một hôm vua Tự Đức kể với quần thần tại điện Văn Minh là đêm qua ông nằm mơ thấy “răng mình cắn lưỡi của mình”. Quan Hàn Lâm viện Trước Tác là Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) liền dâng bài thơ:

 

THIẾT THIỆT

Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh

Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh

Bất tư cộng hưởng trân cam vị

Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình

(Nguyễn Hàm Ninh)

CẮN LƯỠI

Lúc ta sinh ra ngươi chưa sinh

Ngươi sinh ra sau ta làm anh

Không biết cùng hưởng trân cam vị

Sao nỡ tương vong cốt nhục tình

(Phỏng dịch)

 

Biết ý ông nầy muốn can mình đã ngược đãi anh mình là Hồng Bảo, vua Tự Đức cho người phạt đánh roi ông Nguyễn Hàm Ninh, mỗi chữ đánh một roi! Dù có bài thơ can gián nầy, Hoàng tử Hồng Bảo vẫn bị giam và chết trong ngục vào năm sau (1854).

 

*

Ngoại sử của nhà Tây Sơn lại kể một câu chuyện khác xảy ra trước đó:

    Có một lúc (năm 1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ bất bình đem quân từ Phú Xuân (Huế) về đánh anh mình là Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc và vây ông nầy ở thành Qui Nhơn. Ông Nguyễn Nhạc phải đứng trên thành mà khóc rằng “nỡ nào nồi da nấu thịt” (Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn) làm ông Nguyễn Huệ cảm động và rút quân.      Tuy nhiên sự thật là không phải vậy. Trong khi vây thành Qui Nhơn, ông Nguyễn Huệ đang ăn trong doanh trại thì “răng mình cắn lưỡi mình”. Ông lấy làm lạ, không biết là điềm gì nên hỏi quan Trung Thư Lệnh là Trần Văn Kỷ thì ông Trần Văn Kỷ liền đọc bài thơ:

 

THIẾT THIỆT

Ngã ký sinh tiền nhĩ vị sinh

Nhĩ ưng vi đệ ngã vi huynh

Lý ưng cộng hưởng trân cam vị

Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình

(Trần Văn Kỷ)

CẮN LƯỠI

Ta sinh ra trước ngươi chưa sinh

Ngươi chịu làm em ta làm anh  

Lý ưng cộng hưởng trân cam vị

Sao nỡ tương vong cốt nhục tình.

(Phỏng dịch)

 

Ông Nguyễn Huệ hiểu ý, liền giải vây và rút quân. Ông Nguyễn Nhạc phải nhường đất Quảng Nam cho ông Nguyễn Huệ chỉ còn giữ Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên mà thôi.

Ngày nay nhiều Sử gia cho là ông Nguyễn Hàm Ninh đã mượn một ít từ ông Trần Văn Kỷ?

 

Từ bài thơ "Thiết Thiệt", hậu sinh để ý tới 2 nhân vật trong Việt sử. Đó là Hoàng tử Hồng Bảo (của nhà Nguyễn) và ông Trần Văn Kỷ (của nhà Tây Sơn).

 

Trần Văn Kỷ

Hùng tài của vua Quang Trung Nguyễn Huệ là nhờ một nhân tài luôn luôn bên cạnh làm tham mưu cho nhà Vua. Đó là quan Trung Thư Lệnh tên là Trần Văn Kỷ (?-1801).

 

Ông Trần Văn Kỷ người làng Vân Trình, Phú Xuân (nay thuộc Phong Điền, Thừa Thiên), đậu Giải Nguyên của nhà Hậu Lê vào năm 1777 ở Phú Xuân (Chúa Trịnh chiếm Phú Xuân của chúa Nguyễn năm 1774 và đây là khoa thi Hương của nhà Hậu Lê tổ chức đầu tiên ở Nam Hà). Ông ra Bắc Hà thi Hội nên quen biết nhiều sĩ phu Bắc Hà. Khi ông Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân thì trọng dụng ông Trần Văn Kỷ luôn luôn cho hầu cận bên mình. Ông Trần Văn Kỷ tiến cử ông Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích…kể cả La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cho ông Nguyễn Huệ. Ông còn giảng hòa anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn (bằng bài thơ Thiết Thiệt?).

 

Ông Trần Văn Kỷ và tướng Trần Quang Diệu được vua Quang Trung phong làm Phụ Chính phó thác con mình là Cảnh Thịnh khi vua mất. Nhưng Thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu vua Cảnh Thịnh) chuyên quyền giáng ông Trần Văn Kỷ làm Lính coi trạm ngựa ở Mỹ Xuyên, Thừa Thiên. Ông phò Vũ Văn Dũng đảo chánh Bùi Đắc Tuyên (1795) được phục chức Phụ Chính nhưng quyền lực trong tay Vũ Văn Dũng và Trần Quang Diệu.

 

Sau khi Phú Xuân thất thủ (1801) và vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Hà, ông Trần Văn Kỷ giả dạng thường dân ẩn ở quê hương mình là làng Vân Trình. Vua Gia Long bắt ông chết theo cách “tam ban triều điển” tức là uống thuốc độc hay thắt cổ hay dùng gươm tự tử nhưng ông cãi lệnh nhẩy xuống sông (Hương) tự tử. Vua Gia Long tức giận xử “tru di tam tộc” làm 53 người khác (trong gia tộc) phải bị xử tử hay bỏ trốn hoặc cải họ.

 

Hoàng tử Hồng Bảo

 

*

Trước khi mất, vua Thiệu Trị trăn trối với các Đại thần là Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp lập Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm làm vua thay vì là Trưởng Hoàng tử Hồng Bảo.

Đây là di chúc của vua Thiệu Trị (theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên):

       Trong các con ta, Hồng Bảo tuy lớn nhưng vì thứ xuất ngu độn ít học chỉ ham chơi không thể nối nghiệp lớn được. Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm thông mẫn ham học rất giống ta, đáng ngôi vua. Hôm qua ta đã phê vào di chiếu để trong long đồng. Các ngươi phải tôn kính, đừng trái mạng ta.

 

Sau đó Hoàng tử Hồng Bảo (1825-1854) mưu tranh ngôi:

      Năm 1848, Ông dụ các người theo đạo Gia tô (Công Giáo) nhưng không được các giáo sĩ người ngoại quốc ủng hộ.

      Năm 1851, Ông tính trốn sang Tân Gia Ba để xin cầu viện nhưng bị bắt lại, rồi cũng được vua Tự Đức tha.

      Năm 1853, Ông lại lập đảng cho sang Xiêm la xin giúp. Khi những người nầy trở về có tuyển mộ và đem theo một nhà sư. Vì không được đối đãi chu đáo trong khi đi đường, nhà sư nầy tố cáo với quan. Hồng Bảo bị bắt tù ở Huế, bị kết án xử lăng trì (bị giết bằng cách cắt chân tay và thẻo từng miếng thịt cho đến chết). Nhưng vua Tự Đức ân xá, đổi thành tù chung thân và giam trong một nhà ngục riêng.

 

Hoàng tử Hồng Bảo chết vì treo cổ một thời gian sau ở trong ngục (1854). Chính sử viết là tự tử. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim chỉ ghi: Hồng Bảo bị bắt, ban cho tam ban triều điển thì ông chọn uống thuốc độc mà chết. Tam Ban Triều Điển là tội nhân được chọn 3 cách chết: gươm, dây thắt cổ hay thuốc độc.

 

*

Câu chuyện Trưởng Hoàng tử Hồng Bảo và vua Tự Đức có liên quan tới ông Trương Đăng Quế, đại thần thân tín nhất của vua Thiệu Trị: ông Trương Đăng Quế âm mưu lập vua Tự Đức và giết Hoàng tử Hồng Bảo.

Đây là những giả thuyết:

     Vợ của ông Trương Đăng Quế và Hoàng hậu Từ Dũ của vua Thiệu Trị sanh con trai cùng ngày. Ông Trương Đăng Quế mới đem con vào cung tráo với con thật sự của vua Thiệu Trị. Đứa trẻ nầy là Hoàng tử Hồng Nhậm (vua Tự Đức trong tương lai). Do đó Trương Đăng Quế âm mưu giả chiếu lập Hoàng tử Hồng Nhậm.

     Và như vậy có thể ông Trương Đăng Quế cho người thắt cổ Hồng Bảo trong ngục. Tất cả đều là những giả thuyết hoang đường khó tin được. Có thuyết lại còn cho rằng Hoàng hậu Từ Dũ tư thông với ông Trương Đăng Quế mà sinh ra Hoàng tử Hồng Nhậm!

 

*

Con của Hồng Bảo không được giữ họ Ưng như Đế Hệ Thi mà phải đổi thành họ Đinh (họ mẹ). Năm 1866, Đoàn (Hữu) Trưng, rể của Tùng Thiện Vương (em vua Thiệu Trị) phò con trưởng của Hồng Bảo là Đinh Đạo đánh vào Tử Cấm Thành ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Sử gia Phạm Văn Sơn gọi là "Giặc Chày Vôi". Cả gia đình Hồng Bảo gồm 3 người con trai, người vợ (mẹ của Đinh Đạo) và 2 đứa con của Đinh Đạo (1 trai và 1 gái) bị tội xử giảo (treo cổ). Sử chép: "Đứa con trai của Đinh Đạo mới 3 tuổi bị thắt cổ đến 2 lần vẫn chưa chết, khi bỏ vào quan tài đóng lại mà còn khóc oe oe".

 

*

Theo vua cha Thiệu Trị thì Hoàng tử Hồng Bảo là người "ngu độn ít học" nên không truyền ngôi. Tuy nhiên một sự kiện đã chứng minh ngược lại.

Sách "Thi ca trào phúng đất Thần Kinh" có ghi lại câu chuyện giữa vua Tự Đức (Hồng Nhậm) và An Phong Công (Hồng Bảo).

Vua Tự Đức có ra đề thi là "Vô Đề" với những sự bắt buộc như sau:

      Tám chữ đầu của tám câu phải là: "Phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kỳ, thi, họa".

      Trong mỗi câu thơ lại phải có một chữ số theo thứ tự: "Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát".

Với sự hạn chế nầy, triều thần thần và hoàng gia đều không ai làm được bài thơ chỉ trừ có Hồng Bảo.

 

VÔ ĐỀ

Phong đạm vân khinh nhất diệp châu

Hoa cù ẩn ước nhị tầng lâu

Tuyết ngưng địa thượng tam đông lãnh

Nguyệt đáo thiên trung tứ bích sầu

Cầm vận ngũ huyền ca nhã hứng

Kỳ vi lục cuộc thức doanh thâu

Thi thành thất bộ chung hoài cổ (*)

Họa nhập Tiêu Tương bát cảnh đồ. (*)

(An Phong Công Hồng Bảo)

 

Người dịch bài thơ cũng đặc sắc:

 

VÔ ĐỀ

Gió nhẹ mây êm một lá thuyền

Lầu hai lấp ló khóm hoa hiên

Ba đông tuyết phủ dồn hơi lạnh

Bốn vách trăng soi gợi nỗi phiền

Đàn gảy năm dây ca hát thú

Cờ vây sáu cuộc đổi thay phiên

Thơ xong bảy bước xui hoài cổ (*)

Bút họa Tiêu Tương tám cảnh tiên. (*)

(Quỳ Ưu Nguyễn Đôn Dư dịch)

 

(*) Chú thích

      Câu 7 nhắc lại Tào Thực 7 bước thành bài thơ.

      Câu 8 nói tới 8 bức họa tuyệt đẹp của Tống Địch.

 

Tám bức họa của Tống Địch vẽ là:

      1. Bình sa lạc nhạn (bãi cát nhạn sa)

      2. Viễn phố phàm quy (bến xa buồn về)

      3. Sơn thị tình lam (trời quang mây tạnh nơi núi và chợ)

      4. Giang thiên mộ vân (trời mước mây chiều)

      5. Động Đình thu nguyệt (trăng thu ở hồ Động Đình)

      6. Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm ở sông Tiêu Tương)

      7. Yên tự vãn chung (khói chùa và tiếng chuông chiều)

      8. Ngư thôn tịch chiếu (xóm chày bóng ngã)

 

Vua Tự Đức ra đề tài nhưng chính nhà vua cũng không làm được, cũng như các thi sĩ trong Bạch Vân thi xã và thi hào Cao Bá Quát! Người làm bài thơ nầy chứng tỏ chữ nghĩa và kiến thức sâu rộng.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Thơ Văn phần Đọc Thơ (Lịch Sử).

 

Tài Liệu Tham Khảo:

       Thơ và Sử Việt - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

      Văn Đàn Bảo Giám (Trần Trung Viên)

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

MẸ GIÀ

Tự cường đến tuổi chín mươi ba

Tội nghiệp mẹ tôi mắc bệnh già 

Thân thể yếu đau thôi tập võ

Tâm thần quên lẫn khó kêu ca

Tròn tình mẫu tử dày công khó

Trọn đạo nhân duyên ẩn chốn xa

Sinh ký tử quy hồi tổ quốc

Con già hồi tưởng nhớ thương bà.

(Phan Thượng Hải)

5/9/21 

Mother's Day

_____________________________

KHÁM PHÁ MỚI VỀ CHINH PHỤ NGÂM

 

                                  Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Hậu thế ngày nay có những khám phá mới về thi phẩm Chinh Phụ Ngâm liên quan đến dịch giả cũng như ảnh hưởng của Đường thi trên tác giả. 


 

A. Dịch giả của Chinh Phụ Ngâm

 

Chinh Phụ Ngâm từ xưa đến giờ luôn được biết có tác giả bản Hán ngữ là ông Đặng Trần Côn và dịch giả chuyển sang Việt ngữ (diễn Nôm) là bà Đoàn Thị Điểm. 

 

Vào đầu thế kỷ 20, đã có một bài thơ của ông Phan Huy Ích chứng minh là ông có dịch Chinh Phụ Ngâm.

 

TÂN DIỄN "CHINH PHỤ NGÂM KHÚC" THÀNH NGẪU THUẬT

 

Nhân Mục tiên sinh “Chinh phụ ngâm”
Cao tình dật điệu bá từ lâm                    (Từ điệu cao kỳ đã truyền bá ở chốn từ lâm)
Cận lai khoái trá tương truyền tụng       (Ai cũng truyền tụng lấy làm khoái trá lắm)
Đa hữu thôi xao vi diễn âm                    (Đã có nhiều người đã diễn Nôm)
Vận luật hạt cùng văn mạch tuý             (Theo luật vận thì không được tinh túy trong mạch văn)
Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm (Phải theo thiên chương hiệp với nhạc thanh)
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc    (Nay nhân buổi nhàn đã dịch ra thành khúc mới)
Tự tín suy minh tác giả tâm.                    (Tự tin là suy minh được tâm tư của tác giả).

(Phan Huy Ích)

 

(*) Chú thích: Nhân Mục tiên sinh lả Đặng Trần Côn, người làng Nhân Mục.


 

Theo ông Đông Châu, trên Nam Phong tạp chí số 106, một con cháu họ Phan là ông Phan Huy Chiêm dựa theo ghi chép trong gia phả họ Phan gửi thư cho ông rằng bài thơ này được Phan Huy Ích làm khi hoàn thành diễn Nôm tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.
Bài này được một số học giả dùng làm căn cứ chứng minh bản dịch vốn được cho là của Đoàn Thị Điểm là do Phan Huy Ích diễn Nôm. 

 

Tuy nhiên, thực tế bài này chỉ thể hiện Phan Huy Ích có diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc, nhưng chưa chứng minh được bản dịch đó là bản được lưu truyền rộng rãi, nhất là có câu:

 

Đa hữu thôi xao vi diễn âm

 

Do đó các học giả vẫn giữ ý kiến cho rằng bà Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản dịch phổ thông được dùng từ trước tới nay trong giáo dục văn chương. 

 

Hiện nay theo Wikipedia, 

Chinh Phụ Ngâm có tất cả 7 bản dịch và phỏng dịch bằng các thể thơ Lục bát (3 bản) hoặc Song thất Lục bát (4 bản) và có tất cả 6 dịch giả: Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Nguyễn Khản, Bạch Liên am Nguyễn (?) và 2 tác giả khuyết danh.

Bản dịch thành công nhất và phổ thông từ xưa đến giờ theo thể Song thất Lục Bát.  Dịch giả của bản này được các học giả cho là bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748) ngay từ đầu nhưng gần đây có xu hướng nghiêng về ông Phan Huy Ích (1751-1822).


 

B. Ảnh hưởng từ Đường thi của bản Hán ngữ

 

Ông Đặng Trần Côn chịu ảnh hưởng rất nặng từ Đường thi.  Bản Chinh Phụ Ngâm Khúc bằng Hán ngữ của ông có nhiều Đoạn rất giống như nhiều bài Đường thi của thi nhân Trung Quốc nhất là Lý Bạch tuy rằng trong thời của ông Đặng Trần Côn thì có thể coi đó là một vinh dự (honor) hay là một phong trào "ước lệ" (conventional) của thi nhân.  Thi nhân cổ điển đều dùng điển cố hay mượn 1, 2 câu thơ của tiền nhân nhưng không có quá đáng như ông Đặng Trần Côn viết Chinh Phụ Ngâm.  

Đây là một số Đoạn như vậy được tìm thấy.  

Với xu hướng như trên, có thể có nhiều Đoạn khác cũng có cùng đặc tính như vậy nhưng những bài Đường thi tương quan chưa được tìm ra. 


 

1) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Tái Hạ Khúc 6" của Lý Bạch

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 5-12)

 

Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây

Chín tầng gươm báu trao tay

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Nước thanh bình ba trăm năm cũ

Áo nhung trao quan vũ từ đây

Sứ trời sớm giục đường mây

Phép công là trọng niềm tây sá nào.


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt

Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân

Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch

Bán dạ phi hịch truyền tướng quân

Thanh bình tam bách niên thiên hạ

Tòng thử nhung y thuộc vũ thần

Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát

Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt.


 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 6" của Lý Bạch:

 

TÁI HẠ KHÚC 6

Phong hỏa động sa mạc

Liên chiếu Cam Tuyền vân (*)

Hán hoàng án kiếm khởi

Hoàn triệu Lý Tướng quân (*)

Binh khí thiên thượng hợp

Cổ thanh lũng để văn

Hoành hành phụ dũng khí

Nhất chiến tĩnh yêu phân.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 6

Lửa báo nguy động rung sa mạc

Núi Cam Tuyền sáng át cả mây

Hán hoàng chống kiếm nơi tay

Truyền vời tướng Lý địng ngày xuất chinh

Khí thế quân trào dâng cao ngất

Trống khua vang tới khắp lũng ngoài

Xông pha ngang dọc hùng oai

Chỉ trong một trận hết loài quái yêu.

(Nguyên Minh dịch)

 

(*) Chú thích:

Cam Tuyền: núi có cung vua, thường đốt lửa để báo giặc tới.

Lý tướng quân: là Lý Quảng, một đại tướng của nhà Hán.


 

2) Ảnh hưởng từ 2 bài Đường thi của Lý Bạch là "Kết Miệt Tử" và "Tái Hạ Khúc 3":

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 17-24):

 

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

Xếp bút nghiêng theo việc đao cung

Thành liền mong tiến bệ rồng

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Lương nhân nhị thập Ngô Môn hào

Đầu bút nghiên hề sự cung đao

Dục bả liên thành hiến minh thánh

Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu

Trượng phu thiên lý chí mã cách

Thái sơn nhất trích khinh hồng mao.

Tiện từ khuê khổn tòng chinh chiến

Thu phong minh tiên xuất Vị kiều.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Kết Miệt Tử" của Lý Bạch:

 

KẾT MIỆT TỬ (*)

Yên nam tráng sĩ Ngô Môn hào (*)

Trung trúc trí duyên ngư ẩn đao (*)

Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh

Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Kết Miệt Tử":

 

GẢ ĐAN BÍ TẤT

Ngô Môn có bậc anh hào

Lòng đàn bụng cá dấu dao tung hoành

Đền ơn vua, quyết dâng mình

Một gieo núi Thái, nhẹ tênh lông hồng.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích:

Yên Nam tráng sĩ: là Cao Tiệm Ly, người ở miền nam nước Yên

Ngô Môn hào kiệt: là Chuyên Chư, người nước Ngô

Kết miệt tử: gả đan bí tất (vớ), chỉ người quyết báo ơn.  Do câu trong sách Hán thư: "Vương sinh sai Trương Thích Chi đan bí tất rồi tha cho đi".

Trúc: tên một loại nhạc khí ngày xưa.  Cao Tiệm Ly dấu dao trong đàn trúc để ám sát Tần Thủy Hoàng.

Duyên đao: dao không sắc bén

Ngư ẩn đao: Chuyên Chư dấu dao trong bụng cá để hành thích Vương Liêu của nước Ngô.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 3" của Lý Bạch:

 

TÁI HẠ KHÚC 3

Tuấn mã như phong kiều

Minh tiên xuất Vị kiều (*)

Loan cung từ Hán nguyệt

Sáp vũ phá thiên kiêu

Trận giải tinh mang tận

Doanh không hải vụ tiêu

Công thành họa Lân các (*)

Độc hữu Hoắc Phiêu Diêu. (*)

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 3":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 3

Ngựa hay như gió phi nhanh

Roi kêu cầu Vị từ thành phóng ra

Giương cung, trăng Hán lìa xa

Lắp tên, phá nát chẳng tha giặc trời

Trận tan, tắt hết sao rồi

Trại không, mù biển đã trôi đi dần

Công thành, hình vẽ gác Lân

Hoắc Phiêu Diêu, chỉ ghi phần tướng quân.

(Anh Nguyên dịch)

 

(*) Chú thích:

Vị kiều: tên cái cầu, nơi nhà Đường chống giữ rợ Đột Khuyết.

Hoắc Phiêu Diêu: tên tướng nhà Hán lập nhiều chiến công được tạc tượng ghi công ở Kỳ Lân các.

Lân các: là Kỳ Lân Các.


 

3) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Tái Hạ Khúc 1" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 33-40):

 

Lòng thiếp tợ bóng trăng theo dõi

Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo

Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử

Tới Man Khê bàn sự Phục Ba

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt

Quân tâm vạn lý Thiên sơn tiền

Trịch ly bôi hề vũ Long tuyền

Hoàn chinh sáo hề chỉ hổ huyệt

Vân tùng Giới Tử liệp Lâu Lan

Tiểu hướng Man Khê đàm Mã Viện

Quân phi trang phục hồng như hà

Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 1" của Lý Bạch.

 

TÁI HẠ KHÚC 1

Ngũ nguyệt Thiên sơn tuyết (*)

Vô hoa chỉ hữu hàn

Địch trung văn "chiết liễu"

Xuân sắc vị tằng khan

Hiểu chiến tùy kim cổ

Tiêu miên bão ngọc an

Nguyện tương yêu hạ kiếm

Trực vị trảm Lâu Lan. (*)

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Tái Hạ Khúc 1":

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 1

Tháng năm tuyết Thiên san

Không hoa, chỉ lạnh tràn

Nghe sáo vang "chiết liễu"

Chưa từng ngắm xuân sang

Sáng đi theo trống trận

Đêm gối yên sa tràng

Nguyện đem kiếm bên lưng

Chém ngay chúa Lâu Lan.

(Trần Trọng San dịch)

 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI 1

Tháng năm núi Thiên san còn tuyết

Không thấy hoa, chỉ tuyệt lạnh lùng

Sáo đưa "chiết liễu" mông lung

Nét xuân muôn thuở chẳng từng qua đây

Sáng giao chiến động mây chiêng trống

Tối gối đầu yên ngọc ngủ an

Nguyện dùng bảo kiếm lưng ngang

Chém ngay đầu giặc Lâu Lan rửa hờn.

(Nguyễn Phước Hậu dịch)

 

(*) Chú thích:

Thiên Sơn: tên núi ở Tân Cương

Chiết liễu: tên khúc nhạc biệt ly; Chiết liễu = bẻ cành liểu.

Lâu Lan: đời Hán Chiêu Đế, Tướng Phó Giới Tử chém vua nước Lâu Lan.  Nước Lâu Lan ở Tây Vực (Tân Cương bây giờ).


 

4) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Quan San Nguyệt" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 33-34 và câu 73-76)

 

Lòng thiếp tợ bóng trăng theo dõi

Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên san

......... 

 

Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại

Mai Hồ về Thanh Hải dòm qua

Hình khe thế núi gần xa

Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt

Quân tâm vạn lý Thiên sơn tiền

...........

 

Kim trêu Hán hạ Bạch Đăng thành

Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc

Thanh Hải khúc, thanh sơn cao phục đê

Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Quan San Nguyệt" của Lý Bạch:

 

QUAN SAN NGUYỆT

Minh nguyệt xuất Thiên san (*)

Thương mang vân hải gian

Trường phong kỷ vạn lý

Xuy độ Ngọc Môn quan

Hán hạ Bạch Đăng đạo (*)

Hồ khuy Thanh Hải loan (*)

Do lai chinh chiến địa

Kỷ kiến hữu nhân hoàn

Thú khách vọng biên sắc

Tư quy đa khổ nhan

Cao lâu đang thử dạ

Thán tức vị ưng nhàn.

(Lý Bạch)


 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Quan San Nguyệt":

 

TRĂNG NƠI QUAN ẢI, NÚI NON

Trăng sáng ló Thiên san

Giữa biển mây mênh mang

Gió lan xa vạn dặm

Thổi đến Ngọc Môn quan

Bạch Đăng quân Hán xuống

Thanh Hải giặc Hồ tràn

Xưa nay nơi chiến địa

Không thấy ai về làng

Lính thú trêng biên sắc

Nhớ quê khổ muôn vàn

Trên lầu cao đêm tối

Chắc không ngơi thở than.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích: 

Thiên Sơn: tên núi ở Tân Cương

Bạch Đăng: tên thành nơi Hán Cao Tổ bị rợ Hung Nô bao vây

Thanh Hải: tên đất ở phía Tây tỉnh Cam Túc.


 

5) Ảnh hưởng từ 2 bài Đường thi "Hoài Thủy Biệt Hữu" của Trịnh Cốc và "Xuân Tứ" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Câu 57-64 và câu 273-280)

 

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một mầu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

..........................................

..........................................

Trông bến Nam bãi che mặt nước

Cỏ biếc um, dâu ướt màu xanh

Nhà thôn mấy xóm chông chênh

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

Trông đường bắc đôi chòm quán khách

Rườm rà cây xanh ngắt núi non

Lúa thành thoi thóp bên cồn

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.

 

Bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

 

Lang cố thiếp hề Hàm Dương

Thiếp cố hề Tiêu Tương

Tiêu Tương yên cách Hàm Dương thụ

Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang

Tương cố bất tương kiến

Thanh thanh mạch thượng tang

Mạch thượng tang, mạch thượng tang

Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường?

.................................

..................................

Vọng quân hà sở kiến, giang biên mãn bạch tần

Yên thảo phi thanh lũ, Tần tang nhiễm lục vân

Nam lai tỉnh ấp bán phong trần

Lạc nhật bình sa nhạn nhấy quần.

Vọng quân hà sở kiến, dịch lộ đoản trường đình

Vân gian Ngô thụ bích, thiên tế Thục sơn thanh

Bắc lai hòa thử bán hoang thành

Vi vũ giang lâu địch nhất thanh.


 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Hoài Thủy Biệt Hửu" của Trịnh Cốc:

 

HOÀI THỦY BIỆT HỮU

Dương Tử giang dương liễu xuân

Dương hoa sầu sát độ giang nhân

Sổ thanh phong địch ly đình vãn

Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần.

(Trịnh Cốc)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Hoài Thủy Biệt Hữu":

 

TỪ BIỆT BẠN BÊN SÔNG HOÀI THỦY

Đầu bến sông Dương xanh liễu dương

Hoa dương buồn giết khách sang ngang

Sáo vang mấy tiếng đình chiều tối

Bạn đến Tiêu Tương tôi tới Tần.

(Trần Trọng San dịch)

 

Hoài thủy: tên sông ở tỉnh An Huy và tỉnh Giang Tô

Dương tử giang: người Tây phương thường gọi sông Trường Giang là Dương tử giang.
Tiêu Tương: tên sông ở huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam.

Tần: tên nước ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay, kinh đô là Hàm Dương.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Xuân Tứ" của Lý Bạch:

 

XUÂN TỨ

Yên thảo như bích ty

Tần tang du lục chi

Đương quân hoài qui nhật

Thị thiếp đoạn trường thì

Xuân phong bất tương thức

Hà sự nhập la vi.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Xuân Tứ":

 

XUÂN TỨ

Cỏ Yên dường sợi tơ xanh

Dâu Tần cũng nảy những cành le te

Đương khi chàng muốn về quê

Chính là khi thiếp đang tê tấm lòng

Gió xuân đâu có quen cùng

Cớ chi lại cứ vào trong màn là.

(Trần Trọng Kim dịch)



 

6) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch:

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 141-148):

 

Tin thường lại người không thấy lại

Hoa dương tàn đã trải rêu xanh

Rêu xanh mấy lớp chung quanh 

Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ

Thư thường tới người chưa thấy tới

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương

Bóng dương mấy buổi xuyên ngang

Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.

 

Nguyên bản Hán ngữ Chinh Phụ Ngâm của của Đặng Trần Côn:

 

Tích niên ký tín khuyển quân hồi

Kim niên ký tín khuyển quân lai

Tín lai nhân vị lai

Dương hoa linh lạc ửy thương đài

Thương đài thương đài hựu thương đài

Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi

Tích niên ký thư đính thiếp kỳ

Kim niên hồi thư đính thiếp qui

Sa song tịch mịch chuyển tà huy

Tà huy tà huy hựu tà huy

Thập ước giai kỳ cửu độ vi.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch:

 

CỬU BIỆT LY

Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia

Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa

Hướng hữu cẩm tự thư (*)

Khai cam sử nhân ta

Thử trường đoạn, bỉ tâm tuyệt

Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết

Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết

Khứ niên ký thư báo Dương Đài (*)

Kim niên ký thư trùng tương thôi

Đông phong hề Đông phong

Vị ngã xuy hành vân sứ tây lai

Đãi lai cảnh bất lai

Lạc hoa tịch tịch ủy thanh đài.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Cửu Biệt Ly":

 

LÂU NGÀY XA CÁCH

Chàng đi mấy xuân chưa về nhà

Cửa ngọc năm lần đào nở hoa

Huống còn tờ thư gấm

Mở phong mà xót xa

Đến nỗi lòng nầy đau tựa cắt

Tóc xanh biếng chải làn mây thắt

Buồn như gió lộng tóc tơi bời

Năm ngoái gửi thư đến Dương Đài

Năm nay gửi thư lại giục ai

Gió Đông hề! gió Đông

Vì ta thổi mây tới miền Tây

Chờ đợi mãi sao mà chẳng tới?

Hoa rơi lặng lẽ lớp rêu đầy.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích:

Cẩm tự: đời Tần, Đậu Thao đi trấn thủ Tương Dương, đem theo người thiếp yêu.  Vợ là Tô thị làm hơn 200 bài thơ dệt lên bức gấm gửi cho chồng.  Đậu Thao xem chữ gấm (cẩm tự), cảm động liền cho xe đón về Tương Dương.  "Đề chữ gấm phong thôi lại mở" (Chinh Phụ Ngâm).

Dương Đài: tên núi ở huyện Vu Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.  "Tìm chàng thủa Dương Đài chốn cũ" (Chinh Phụ Ngâm).

 

Bài thơ "Cửu Biệt Ly" của Lý Bạch còn ảnh hưởng tới Đặng Trần Côn trong những câu thơ Hán ngữ khác:

 

                                                                       (Đoàn Thị Điểm dịch)

Cẩm tự đề thi phong cánh triển          Đề chữ gấm phong thôi lại mở

Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi          Gieo bói tiền tin dở còn ngờ

 

                                                                        (Đoàn Thị Điểm dịch)

Tầm quân hề Dương Đài lộ                Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ

Hội quân hề Tương Giang tân            Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa


 

7) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Trường Tương Tư" của Lý Bạch.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (câu 203-212):

 

Sắc trời đằng đẵng bấy niên

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa

Hương gượng đốt hồn đà mê mãi

Gương gượng soi lệ lại chứa chan

Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng (trùng)

Lòng gửi gió Đông có tiện

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

Non Yên đâu chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

 

Sầu như hải

Khắc như niên 

Cưỡng viện cầm, chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ

Cưỡng cổ sắt, khúc trung sầu yết uyên ương huyền

Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền

Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên

Yên Nhiên vị dị truyền

Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên.

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Trường Tương Tư" của Lý Bạch:

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Nhật sắc dục tận hoa hàm yên

Nguyệt minh như tố sầu bất miên

Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ

Thục cầm dục tấu uyên ương huyền

Thử khúc hữu ý vô nhân truyền

Nguyện tùy xuân phong kỷ Yên Nhiên

Ức quân điều điều cách thanh thiên

Tích thời hoành hoa mục

Kim tác lưu lệ tuyền

Bất tín thiếp trường đoạn

Quy lai khán thủ minh kính tiền.

(Lý Bạch)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Trường Tương Tư":

 

NHỚ NHAU HOÀI

Hoa lồng khói biếc lặn tà dương

Trăng trong như lụa lòng buồn thương

Đàn Triệu vừa ngơi trụ Phượng hoàng

Đàn Thục toan gẩy dây uyên ương

Khúc nầy có ý không ai truyền

Mong gởi gió xuân đến Yên Nhiên

Xa cách trời xanh, nhớ khó quên

Ngày xưa mắt gợn sóng

Nay thành suối lệ phiền

Đoạn trường ai chẳng tin lòng thiếp

Hãy về mà ngắm bóng gương in.

(Trần Trọng San dịch)

 

NHỚ NHAU HOÀI

Bóng tà dương hoa lồng khói biếc

Trăng như tơ sầu giấc không yên

Đàn Triệu vừa dứt tiếng huyền

Thục cầm lại gởi khúc uyên ương liền

Ý nhạc hay, thất truyền xin gởi

Nhờ gió xuân đưa tới Yên Nhiên

Cao xanh ngăn cách khó quên

Làm em càng nhớ chàng nơi phương trời

Mắt ngày xưa lả lơi gợn sóng

Nay suối tuôn lệ nóng nhớ chàng

Vì ai đòi đoạn tâm can

Về đây đối bóng xin chàng hãy tin.

(Cao Nguyên dịch)

 

Triệu sắt: vì người nước Triệu giỏi đàn sắt nên thường gọi đàn nầy là "Triệu sắt".  Sắt là loại đàn có 25 dây.

Thục cầm: Tư Mã Tương Như người nước Thục giỏi gẩy đàn cầm, nên đàn nầy thường được gọi là Thục cầm.  Cầm là loại đàn có 7 dây.

Yên Nhiên: tên núi ở Mông Cổ ngày nay.  Đời Đông Hán, Tướng Đậu Hiến đánh thắng Thiền Vu (vua Hung Nô), lên núi nầy khắc chữ trên đá ghi chiến công của mình.

 

Chiến công của Đậu Hiến ở Yên Nhiên cũng ảnh hưởng đến những câu thơ Hán ngữ của Đặng Trần Côn:

 

                                                                       (Đoàn Thị Điểm dịch) 

Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt            Bóng cờ xí giã ngoài quan ải

Khải ca tướng sĩ bối biên phong        Tiếng khải ca trở lại thần kinh

Lặc công hề Yên Nhiên thạch            Non Yên tạc đá đề danh

                                                                       Triều thiên vào trước cung đình dâng công. 


 

8) Ảnh hưởng từ bài Đường thi "Khuê Oán" của Vương Xương Linh.

 

Bản dịch ra Việt ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (Câu 45-48 và câu 296-300)

 

Quân trước đã gần ngoài Doanh Liễu

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương

Quân đưa chàng ruổi lên đường

Liễu dương biết thiếp đoạn trường nầy chăng.

...................

..................

Lòng nầy hóa đá cũng nên

E không ngại ngọc mà lên trông lầu

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong

Chẳng hay muôn dặm ruổi giong

Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?


 

Nguyên bản Hán ngữ của Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn

 

Tiền quân bắc Tế Liễu

Hậu kỵ tây Tràng Dương

Kỵ quân tương ủng quân lâm tái

Dương liễu na tri thiếp đoạn trường

.................

..................

Hữu tâm thành hóa thạch

Vô lệ khả đăng lâu

Hồi thủ trường đê dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

Bất thức ly gia thiên lý ngoại

Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu

 

Nguyên bản Hán ngữ của bài thơ "Khuê Oán" của Vương Xương Linh:

 

KHUÊ OÁN

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhựt ngưng trang thướng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(Vương Xương Linh)

 

Bản dịch ra Việt ngữ của bài thơ "Khuê Oán":

 

KHUÊ OÁN

Phòng khuê nàng chửa biết buồn

Ngày xuân điểm phấn tô son lên lầu

Chợt trông dương liễu xanh mầu

Xui chồng tìm cái phong hầu mà chi?

(Trần Trọng San dịch)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài liệu tham khảo

1) Thơ và Sử Việt - Phan Huy Ích (Bs Phan Thượng Hải) phanthuonghai.com

2) Đoàn Thị Điểm và Chinh Phụ Ngâm (Bs Phan Thượng hải) phanthuonghai.com

3) Điển Cố Từ Thơ (Bs Phan Thượng Hải) phanthuonghai.com

4) Google Wikipedia 

CHỒNG RỬA CHÉN

Rửa chén lành nghề việc của tôi

Mỗi ngày hai bữa cứ làm thôi

Rửa cho sạch bách luôn dao thớt

Rửa đến sạch trơn cả chảo nồi

Liệt lão thất phu nên hữu trách (*)

Tề gia nội trợ hết bồi hồi

Xướng tùy thoải mái đời đơn giản

Vợ nấu mình ăn đủ sướng rồi.

(Phan Thượng Hải)

11/5/19

 

(*) Có câu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách".

 

TB.

Hỏi một đàn anh bậc Thầy: "tại sao (Anh) không để Chị rửa?".  Trả lời: "(Tại) Bả, con mắt không thấy rõ nên rửa dơ, (do đó) "moi" rửa (phứt) cho rồi".

TL_Easter.jpg

* Lễ Phục Sinh

 

ĐÓN PHỤC SINH

Hướng thiện tâm tình đón Phục Sinh

Từ trong nhẫn nhục có quang vinh

Đức tin hướng vọng về thiên giới

Lời nguyện cầu xin tự thánh kinh

Rửa tội nhân loài là ý Chúa

Dùng cây thập tự hiến thân mình

Giê-su hằng sống gìn Tân Ước

Phán xét từng người lúc tử sinh.

(Phan Thượng Hải)

3/27/18

 

MỪNG LỄ PHỤC SINH

Thế giới đón mừng lễ Phục Sinh

Làm Người từng trải nghĩa hy sinh

Thiện tâm đưa lối về thiên quốc (*)

Khiêm ái dẫn đường hướng tái sinh

Cầu nguyện chân thành qua khốn khổ

Đức tin bền vững giúp tồn sinh

Giê-su tín ngưỡng truyền hy vọng

Ơn phước nhân loài có phục sinh.

(Phan Thượng Hải)

4/10/20 

Good Friday 2020

 

(*) Chú thích: Thiên quốc = Nước trời = Kingdom of heaven.

 

* Lễ Phục Sinh và Hoa Đào

 

XUÂN ĐÀO PHỤC SINH

Đào thắm duyên xuân lễ Phục Sinh (*)

Tự nhiên thiên tạo ý hòa minh

Tin mừng cứu thế niềm hy vọng

Hoa nở giao mùa cảnh đẹp xinh

Thời tiết an lành tâm tỉnh thức

Nhân loài từ thiện tiếng cầu kinh

Xuân đào tái hiện phô thanh sắc

Cảm giác lòng người phước phục sinh.

(Phan Thượng Hải)

4/2/21

 

(*) Chú thích: Có loại hoa đào (như anh đào) nở vào đầu tháng tư ngay trước lễ Phục Sinh.

 

* Lễ Phục Sinh và Lễ Giáng Sinh

  

KỶ NIỆM GIÁNG SINH 

Kỷ niệm Giáng Sinh đón Phục Sinh

Từ trong đêm tối vọng thiên đình

Chúc mừng nồng ấm, nhân loài tốt

Lễ lộc tưng bừng, thế giới xinh

Giản dị bình dân, gìn bác ái

Xa hoa nghi thức, giữ chân tình

Đợi nghe gà gáy luôn canh thức

Như thánh Phê-rô, Chúa bất bình. (*)

(Phan Thượng Hải)

12/13/14 

 

(*) Chú thích: Chuyện thánh Phê-rô ba lần chối Chúa trước khi gà gáy (Phúc Âm) 

__________________

  CĂN BẢN GIÁC NGỘ VÀ THIỀN ĐỊNH CỦA THIỀN TÔNG

 

                                       Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


 

Từ nhiều thế kỷ cho đến ngày nay, Giác ngộ theo Giáo lý và Thiền định từ Tu Thiền định thường theo giáo huấn của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông.  Bài viết này trình bày phần căn bản về Giác ngộ và Thiền định của Thiền Tông.

 

Dàn bài

Đại cương (trang 1)

Tâm Giác Ngộ

Giáo lý Giác ngộ (trang 2)

Đoạn Hoặc và Từ Bi (trang 6)

Tâm Thiền Định

Thiền Định (trang 9)

Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán (trang 9)


 

I. ĐẠI CƯƠNG 

 

Cứu cánh chính của Phật Giáo là giải thoát Khổ (suffering), đó là giải thoát Tâm không phiền não (buồn rầu) trong một sinh kiếp mà có được Tâm An (tranquil mind). 

 

Tâm An (= Niết bàn hữu dư) trong một sinh kiếp có được từ Tâm Giác ngộ hoặc Tâm Thiền định:

Tâm Giác ngộ giáo lý (giác ngộ) = sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành giáo lý giác ngộ này trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Tâm Thiền định đạt được từ Tu Thiền Định, không cần Giác ngộ. 

 

Phật Giáo còn tin rằng Con người có Tâm Giác ngộ, gọi là La Hán (Phật Giáo Nguyên Thủy) hay là Phật (Phật Giáo Đại Thừa) thì sau khi hết sinh kiếp (chết = tử) sẽ không phải tái sinh luân hồi trong tam giới (= Niết bàn vô dư).  Phật Giáo Đại Thừa còn cho rằng có những cõi riêng cho Phật ở gọi là Phật độ hay Tịnh độ, khác với Tam giới (3 thế giới) của chúng sanh là cõi Ta Bà.  (Độ = thổ = land).  

Như vậy, Giác Ngộ còn giúp cho không tái sinh còn Thiền Định cũng giúp cho Tâm An nhưng không giúp cho Con người tránh khỏi tái sinh luân hồi.

 

Ngoài Giác ngộ và Thiền định, còn có một ngành thứ 3 của Phật Giáo là Trì giới của "Tâm và Thân" từ Phật Giáo Nguyên Thủy.  Trì Giới không có đem lại Tâm An (tranquil mind) cũng như không giúp cho tránh khỏi tái sinh luân hồi.  Từ ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo tin rằng Con người Trì giới, không phạm tất cả 10 Ác Nghiệp, là để khi tái sinh theo lục đạo thì không phải tái sinh theo khổ đạo vào những cõi "khổ" như cõi địa ngục, cõi của ngạ quỷ hay cõi của thú vật.  Sanh mạng ở trong những cõi này thì hoàn toàn chịu khổ và không bao giờ tu hành để thoát khỏi tái sinh luân hồi được. Trì Giới giúp Con người tái sinh trong cõi Trời (Thiên) hay cõi Con người. 

Khi không phải tái sinh nhờ Tâm Giác ngộ không có Khổ Nghiệp thì Con người cần gì phải tránh Ác Nghiệp bằng cách Trì Giới để tránh tái sinh theo khổ đạo vào cõi địa ngục, cõi của ngạ quỷ và cõi của thú vật.  Do đó Con người có Tâm Giác ngộ thì khỏi phải Trì Giới và hơn nữa, Từ Bi của Giác Ngộ đã được dùng để thay thế Trì Giới. 


 

II. TÂM GIÁC NGỘ

 

A. Giáo lý Giác Ngộ

 

a) Đại cương

 

*

Phật Pháp là Pháp trong Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) bắt đầu bằng Đạo Đế.

Đạo Đế của Tứ Diệu Đế gồm có 3 ngành từ Phật Giáo Nguyên Thủy:

Giác ngộ (dựa trên triết lý và Khổ Nghiệp).

Thiền Định và Tu Thiền Định (không dựa trên triết lý hay Nghiệp).

Trì Giới (không dựa trên triết lý nhưng dựa trên Ác Nghiệp).

 

Trong tất cả Nghiệp, Phật Pháp chỉ dựa trên Khổ Nghiệp cho giáo lý Giác ngộ và dựa trên Ác Nghiệp cho Trì Giới.  

 

Giác Ngộ là Tâm Giác ngộ theo giáo lý (giác ngộ): sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành giáo lý giác ngộ này trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Sự sáng suốt trong nhận thức giáo lý giác ngộ này gọi là sự sáng suốt toàn hảo (= trí tuệ toàn hảo) theo ngôn từ của Phật Giáo và Phạn ngữ gọi là Prajna-paramita mà dịch âm là Bát Nhã Ba La Mật Đa

     Bát nhã = Prajna = trí tuệ, trí huệ = wisdom.  

     Ba La Mật Đa = Paramita = sự toàn hảo = perfection

 

*

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa chính là Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế của Tứ Diệu Đế.

 

Giáo lý giác ngộ của Phật Giáo lần lượt trải qua từ nhiều giai đoạn trong lịch sử Phật Giáo: 

Giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy từ triết lý Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca.

Giáo lý của Phật Giáo Đại Thừa:

Từ Trung Quán Phái của Ấn Độ và Không Tông của Trung Quốc dựa trên triết lý Không (Sunyà) của kinh Bát Nhã.

Từ Duy Thức Du Già Hành Phái của Ấn Độ và Nhiếp Luận Tông.

Từ chi phái cuối cùng của Duy Thức Phái truyền sang Trung Quốc là Tánh Tông.

Cuối cùng là từ Thiền Tông, tổng hợp và dung hòa 3 triết lý của Không Tông, Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông của Phật Giáo Đại Thừa.

 

Giáo lý Giác ngộ của các giáo tông khác rất phức tạp và khó hiểu và khó áp dụng trong thực tế:

Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông từ Trung Quán Phái.

Pháp Tướng Tông của Duy Thức Du Già Hành Phái.

 

Tất cả các giáo lý Giác ngộ đều đi đến kết luận cuối cùng là Đoạn Hoặc hay Từ Bi hay cả hai Đoạn Hoặc và Từ Bi.  

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Nguyên Thủy là Thập Nhị Nhân Duyên  chỉ dẫn đến Đoạn Hoặc mà thôi. 

Giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông dẫn đến Đoạn Hoặc và Từ Bi. 

 

Các giáo tông chánh khác nữa chỉ chú trọng đến tôn thờ và tín ngưỡng như Tịnh Độ Tông thuộc Đại Thừa Hiển Giáo và Mật Tông và Chơn Ngôn Tông thuộc Đại Thừa Mật Giáo.

Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng có giáo lý giống Thiền Tông nhưng có tôn thờ tín ngưỡng giống Mật Giáo.

 

*

Giáo lý Giác ngộ (giáo lý để Giác ngộ):

Khổ là Tâm phiền não.  Không Khổ là Tâm An (tranquil). {Khổ Đế của Tứ Diệu Đế}

Năng lực tạo ra Khổ là Khổ Nghiệp.  (Nghiệp = Karma).  Đó là Mê hoặc (Hoặc) gồm có Tham dục, Sân và Mạn.{Tập Đế của Tứ Diệu Đố}

Đoạn diệt Khổ Nghiệp là Đoạn Hoặc.  Không có Khổ Nghiệp là Từ Bi. {Diệt Đế của Tứ Diệu Đế}

Do đó,

Tâm không giác ngộ (= vô minh, si) là Mê hoặc.

Tâm Giác ngộ của Thiền Tông là Đoạn Hoặc (đoạn diệt Mê hoặc) và Từ Bi.

 

Đoạn Hoặc = Đoạn diệt Mê hoặc.  Có 3 Hoặc là Tham dục, Sân và Mạn.

Mê hoặc = Hoặc = Defilement(s) = klesa, agantukaklesa, klesha.  Nghĩa đen của Defilement (Klesa, klesha) là ô uế, dơ bẩn, không trong sạch.

 

Trong tất cả các Nghiệp; Phật Giáo chỉ dùng Khổ Nghiệp cho Giác ngộ và dùng (10) Ác Nghiệp cho Trì Giới.

Ngày nay, Giác ngộ là phần chính của triết lý Phật Giáo.  Tu Thiền Định và Thiền Định không còn là sự bắt buộc và Trì Giới đã được thay thế bởi Từ Bi của Giác ngộ. 


 

b) Chi tiết 

 

Giáo lý Giác ngộ của Thiền Tông tổng hợp và dung hòa của Trung Quán Phái (Không Tông) và Duy Thức Du Già Phái (Nhiếp Luận Tông và Tánh Tông).

 

*

Theo Không Tông từ Trung Quán Phái:

Sự vật là có nhưng vô ngã (without nature), được diễn tả trong kinh Bát Nhã là "không có tự tánh" (= Tánh Không), cho nên vô thường (impermanent).  Vì Sự vật vô ngã và vô thường cho nên Sự vật thì tương đối (relative), không tuyệt đối (not absolute).

Tâm không giác ngộ (= vô minh, si = ignorance) thì bám chặt và ràng buộc vào Sự vật tương đối do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật.  Mê hoặc (= Hoặc) gồm có Tham dục, Sân và Mạn.

Tâm Giác ngộ thì không bám chặt và ràng buộc và không chướng ngại (= tự do) với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không bám chặt vào Sự vật.  Đoạn Hoặc là đoạn diệt Tham dục, Sân và Mạn.

 

Ngã = nature.  Vô Ngã = without nature = không có tự tánh = Tánh Không (Sunyata).

Không bám chặt và ràng buộc = vô sở đắc, vô sở trụ = non-attached.

Không chướng ngại = vô ngại = without hindrance. 

 

*

Theo Nhiếp Luận Tông từ Duy Thức Du Già Hành Phái:

Tâm là Tâm thức (có 8 Thức).  

Tâm thức của Con người thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật khi Tâm thức hoạt động đối với Sự vật.  Sự vật bên ngoài của Tâm là không có và không có thực vì do Tâm thức của Con người tạo ra. (Thức = Consciousness).

Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) thì chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm mê hoặc vào Sự vật.

Tâm Giác ngộ, Tâm thức Giác ngộ, là không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức đoạn diệt mê hoặc vào Sự vật (= Đoạn Hoặc) vì không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật mà không bám chặt và ràng buộc vào Sự vật. (Nhiếp Luận Tông và Duy Thức Phái giải thích sâu xa hơn Không Tông và Trung Quán Phái)

 

Ngã = ta, "cái ta" = self, ego.  

Vô ngã = nonself = phi ngã = no ego or without ego.

Chấp ngã = cầm giữ hay bắt lấy cho mình = attachment to self.  Người chấp ngã là muốn sở hữu sự vật là của mình.

Tự ngã = từ mình hay bởi vì mình mà ra = idea of self.  Người tự ngã là muốn làm chủ, muốn điều khiển mọi sự vật theo tình ý của mình.

 

*

Theo Tánh Tông từ Duy Thức Phái:

Tâm (Mind) gồm có Tâm thức (Conscious Mind) và Bản tâm (Nature Mind).  

Tâm thức là hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài của Tâm.  

Bản tâm thì "không nhị nguyên" đối với Sự vật nên dung hòa và từ "dung hòa" mà không chấp ngã và không tự ngã đối với Sự vật bên ngoài (của Tâm của Con người).  Nhị nguyên (Duality) là phân biệt giữa "ngã" (ta) và "không phải là "ngã" (không phải là ta). Đó là Bản tâm Từ Bi (từ "dung hòa").  Do đó Bản tâm thì vô ngã (= không chấp ngã, không tự ngã và không nhị nguyên). 

Tâm Giác ngộ hay vô minh thực tế là Tâm thức Giác ngộ hay vô minh.  Bản tâm luôn luôn Giác ngộ và Bản tâm có từ bẩm sinh trong mỗi Con người.

Tâm thức không giác ngộ (= vô minh) là không tuân theo hay không đồng nhất với Bản tâm nên Tâm thức "nhị nguyên" tức là chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật không có và không có thực do đó sinh ra Khổ, tức là Tâm phiền não.  Đó là Tâm thức mê hoặc vào Sự vật vì không đồng nhất với Bản tâm.

Tâm thức Giác ngộ là tuân theo hay đồng nhất với Bản tâm nên Tâm thức không Nhị nguyên (giống như Bản tâm) tức là dung hòa mà không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật thì Tâm An, mà không phiền não.  Đó là Tâm thức Từ bi đối với Sự vật do đó Đoạn Hoặc đối với Sự vật.  Từ bi là dung hòa với Sự vật và Đoạn hoặc là không chấp ngã và tự ngã đối với Sự vật.

 

Dung hòa = in harmony, harmonious = vô ngại.  Nghĩa của vô ngại của Tánh Tông khác với nghĩa của vô ngại của Không Tông.  Dung hòa với Sự vật là Từ Bi với Sự vật.

 

Bản tâm còn có nhiều danh hiệu khác: Phật tánh, Chân như, Như Lai tạng, Phật thân, Pháp thân, Thực tánh, Tự tánh, Bản lai diện mục ...  (Như lai = Phật).   

Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông dùng từ ngữ "gia trung hửu bảo" với ngụ ý là Phật tánh hay Bản tâm..

Trong câu tục ngữ Việt "Bụt nhà không thiêng, cầu Thích Ca ngoài đường", "Bụt nhà" ngụ ý là Phật tánh.

Phật Tánh (Buddha Nature = Buddhatà = Buddha-svabhàva)

 

*

Theo Thiền Tông

Sự vật là có và tương đối giống như Không Tông (và Trung Quán).

Tâm gồm có Tâm thức (hoạt động của Tâm đối với Sự vật bên ngoài Tâm) và Bản tâm như Duy Thức Tánh Tông.  Tâm không có tạo ra Sự vật như Duy Thức do đó Sự vật không là ảo và không là giả.

Tâm thức Giác ngộ có 2 giai đoạn:

Trước hết là Tâm thức của Con người phải Đoạn Hoặc đối với Sự vật bên ngoài.

Từ đó Tâm thức mới đồng nhất được với Bản tâm Từ bi mà Từ bi và không Mê hoặc.

 

Không Tông và Nhiếp Luận Tông chủ trương Đoạn Hoặc.  Tánh Tông chủ trương Từ bi (thì tự động sẽ Đoạn Hoặc).  Thiền Tông chủ trương Đoạn Hoặc rồi mới Tử bi.


 

Theo Thiền Tông, Tâm thức là hoạt động của tâm:

Tâm thức hoạt động từ hiện tượng của sự vật từ cảm giác (sensation), tri giác (perception) cho đến cuối cùng là nhận thức (cognition) để có ý thức (consciousness).

Tâm thức hoạt động về hiện tượng của sự vật là tư tưởng hay tư duy (thought) gồm có lý trí và tình cảm (affection, sentiment).  Lý trí gồm có suy nghĩ (thinking) và suy luận (reason).  Từ ý thức hiểu biết về sự vật tâm thức mới có tư tưởng về sự vật, đó là ý kiến (view, idea).

 

Thiền Tông nhấn mạnh rằng: 

Sự vật bên ngoài của Tâm của một Con người bao gồm sinh mạng khác, con người khác và kể cả Thân của Con người đó.  Tâm của mình cũng phải "đoạn hoặc và từ bi" đối với Thân của mình.

Đoạn Hoặc và Từ Bi chỉ thuộc về Tình cảm trong Tâm thức của Con người mà thôi.  Tâm thức của Con người tự do trong các hoạt động khác của Tâm thức như cảm giác (sensation), tri giác (perception), nhận thức (cognition), lý trí và kể cả những hoạt động khác của tình cảm.

Tâm thức của Con người không "sở trụ" hay "sở đắc" (không bám giữ chặt và ràng buộc) vào Sự vật nhưng Tâm thức của Con người Giác ngộ vẫn "động" chứ không có "tịnh" (not moving).  Con người vẫn có tình cảm chứ không hoàn toàn vô tình. 

Đoạn diệt Tham dục (= Tham) nhưng không có đoạn diệt Dục (= Muốn).  Tâm của Con người "muốn" nhưng không có "tham" trong cái "muốn" của mình.

Từ Bi chỉ đặt căn bản trên Khổ Nghiệp (trong tất cả các Nghiệp) chứ không có đặt căn bản trên Thiện Nghiệp.

Từ Bi chỉ áp dụng trong cuộc sống liên quan (= nhân duyên) hằng ngày của mỗi Con người.  Con người không bắt buộc phải tình nguyện "cứu nhân độ thế" cho nhiều người không có liên quan đến mình hay cho tất cả mọi người.

Thiền Tông phân biệt Sự vật vô ngã (= Pháp Vô Ngã) của Không Tông và Bản tâm vô ngã (= Nhân Vô Ngã) của Tâm con người của Tánh Tông là Pháp Vô Ngã và Nhân Vô Ngã (theo kinh Lăng Già).  (Pháp = hiện tượng của sự vật.  Nhân = Con người)


 

B. Đoạn Hoặc và Từ Bi

 

Thiền Tông dạy rõ ràng và thực tế về Đoạn Hoặc và Từ Bi.

 

In Essentials of Buddhism, professor Kogen Mizuno writes:

In the state of nonself, there can be no self-centered greed, unreasonable fear of others, hate, flattery, boasting, insult, anger, jealousy, or envy.  

A person who has realized the nature of nonself can not bring harm to others, since actions is taken only after correctly considering both its immediate and its wider-ranging effects.  This is expressed as loving kindness and pity for all beings.  There is no conflict between self and others.  

As the result, the state of nonself as been defined as the state of mind of an enlightened person.

 

(Dịch)

Trong trạng thái vô ngã, không thể có tham lam ích kỷ, sợ hãi vô lý đối với người khác, thù ghét, nịnh bợ, khoe khoang tự phụ, lăng nhục, phẫn nộ giận dữ, ghen ghét hay ganh tỵ.

Một con người thức ngộ tự tánh của vô ngã không thể làm hại những người khác, vì hành động chỉ được thực hiện sau khi nghĩ tới cả hai hậu quả tức thời và rộng rãi.  Đó được biểu lộ như lòng tử tế và thương xót cho tất cả chúng sanh.  Không có xung đột giữa mình và những người khác.

Như vậy, trạng thái vô ngã được định nghĩa như là trạng thái của tâm giác ngộ.


 

a) Đoạn Hoặc 

 

Đoạn hoặc đối với tất cả mọi sự vật bên ngoài tâm của ta (all beings and all things) kể cả những sinh mạng hay sinh vật khác (all sentient beings), nhân mạng hay con người khác (human beings) và thân ta (trong sinh lão bệnh tử).


 

Đoạn Hoặc (Đoạn diệt mê Hoặc) là:

Đoạn diệt Sân:

không phẫn nộ giận dữ (anger) 

không thù ghét (hate)

không lăng nhục (insult) những người khác

không tổn hại (causing injury) những người khác

không độc ác (cruelty)

Đoạn diệt Mạn: 

không khoe khoang tự phụ (boasting) 

không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

không nịnh bợ (flatterery) 

không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

Đoạn diệt Tham Dục:

không tham lam ích kỷ (self-centered greed) 


 

* Tham Dục

 

Đoạn diệt Tham dục = không tham lam ích kỷ (self-centered greed): 

= không "tham dục" (tham muốn) riêng cho mình 

= có "dục" (muốn hay ham muốn) nhưng không "tham" cái "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình

= không "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình; một cách vô độ hay quá khao khát mãnh liệt không cưỡng lại được hay trói buộc ham muốn (= dục) lâu dài vào một đối tượng.

 

Tham dục = Tham muốn = Craving or Strong Desire = Tham Ái, Ái.

Tham, Tham lam = Greed

Tham dục = Tham, Tham lam

Dục = Muốn, Ham muốn = Desire

 

* Sân

 

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Sân hay Giận (Anger) theo nghĩa đen là không vừa lòng (displeasure) và ghét (revulsion) một đối tượng (mà mình) không thích (dislike).

Từ Sân (hay Giận) còn phải Đoạn diệt những điều nặng hơn:

Phẫn hay Giận dữ (Wrath) , thường có võ lực (violence).  Phẫn gần đồng nghĩa với Tức giận (Indignation) hay Nỗi giận (Temper).

Hận tức là Oán giận, Căm hờn (Enmity), thường do thù nghịch.

Hại (Causing injury) làm tổn hại (sinh vật khác).

"Độc" (Cruelty) là độc ác, hung dữ, tàn bạo, dã man.

 

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Sân =

không phẫn nộ giận dữ (anger) 

không thù ghét (hate)

không lăng nhục (insult) những người khác

không tổn hại (causing injury) những người khác

không độc ác (cruelty)


 

* Mạn

 

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Mạn = Kiêu ngạo (Pride = Màna)

Mạn khác với Kiêu (Arrogance = Mada).

Mạn là tự kỷ coi mình hơn sanh mạng khác hay coi sanh mạng khác dưới hơn mình.  Mạn cần có sanh mạng khác để so sánh.  Mạn = Kiêu Ngạo (kiêu căng và ngạo mạn).

Kiêu là tự kỷ coi mình là tối cao hơn hết (superior), không cần so sánh với chúng sanh.  Kiêu = Kiêu Hãnh.

Dĩ nhiên là nếu đoạn diệt Mạn thì cũng phải đoạn diệt Kiêu.

 

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Mạn = 

không khoe khoang tự phụ (boasting) 

không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

không nịnh bợ (flattery) 

không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

 

Thiền tông có Đoạn hoặc (đoạn diệt tham dục, sân và mạn) giống như Phật Giáo Nguyên thủy nhưng dùng Từ bi để thay thế Trì giới của Phật Giáo Nguyên thủy.  

Đoạn diệt tham dục là điều rất tế nhị trong đoạn diệt mê hoặc nên cần có từ bi làm căn bản. 


 

b) Từ Bi

 

Từ bi đối với sinh vật khác, người khác (và kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử).

 

Từ bi là:

hiền lành (= Từ) với người và sinh vật khác, tức là nhẫn nhịn (forebearance) và không có xung đột (no conflict), do đó không làm hại người, sinh vật khác và thân mình.

thương (= Bi) người khác và sinh vật khác, bằng thể hiện lòng tử tế (loving kindness) và lòng thương xót (pity), do đó giúp đỡ người, sinh vật khác và thân mình.

 

Người có tâm thức giác ngộ chính là Phật.  Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát.  Như vật ý nghĩa của "đại từ bi" (great compassion) của Bồ tát khác với ý nghĩa của "từ bi" (compassion) của tâm thức giác ngộ.  Đại từ bi của bậc Bồ tát là hóa độ chúng sanh cũng giác ngộ như mình.

Phật là đọc tắt của Phật Đà.  Phật Đà là dịch âm từ Buddha của Phạn ngữ.  Anh ngữ vẫn dùng từ ngữ Buddha.  Buddha có nghĩa là "người giác ngộ" (= giác giả = awakened one). 


 

II. TÂM THIỀN ĐỊNH

 

A. Thiền Định 

 

Tâm An có được từ Tâm Giác ngộ hoặc Tâm Thiền định:

Tâm Giác ngộ giáo lý (giác ngộ): sáng suốt trong nhận thức được giáo lý giác ngộ này (Kiến = Kiến đạo = Giải ngộ) và sáng suốt trong thi hành trong đời sống hằng ngày (Hành = Tu hành đạo = Chứng ngộ) qua tư tưởng, lời nói, việc làm và sinh hoạt.

Tâm Thiền định đạt được từ Tu Thiền Định, không cần Giác ngộ. 

Một ngành thứ 3 của Phật Giáo là Trì giới của "Tâm và Thân" từ Phật Giáo Nguyên Thủy không có đem lại Tâm An.

 

Từ Phật Giáo Nguyên Thủy cho tới Thiền tông, với phương pháp Tu Thiền định, Tâm (Tâm thức) của hành giả lần lượt vượt qua 4 trạng thái gọi là Tứ Thiền hay Tứ Thiền Na.

 

Tứ Thiền = Tứ Thiền Na (4 Dhyàna) = Tứ Định của Vô Sắc Giới 

1. Định Sơ Thiền (1st Jhàna): sung sướng (lạc = pleasure) và vui mừng (hỉ = delight), tâm thoát khỏi nhục dục (sensuous desire) và ác độc (evil). 

2. Định Nhị Thiền (2nd Jhàna): vẫn vui mừng và sung sướng, thoát khỏi suy luận (discursion) và tìm hiểu (investigation).

3. Định Tam Thiền (3rd Jhàna): sung sướng nhưng bình tỉnh (equanimity), lìa khỏi vui mừng và than thở

4. Định Tứ Thiền (4th Jhàna): an (tranquil), lìa khỏi sung sướng và đau khổ.

 

Tâm Thiền Định của Phật Giáo để có được Tâm an là Tâm (Tâm thức) đạt đến bậc Định Tứ Thiền.  Thường được gọi là Chánh Định của Bát Chánh Đạo (Phật Giáo Nguyên Thủy) và Thiền Định Ba La Mật Đa của Lục Độ hay Thập Độ (Phật Giáo Đại Thừa).  

 

Tại sao Tu Thiền Định đạt được Tứ Thiền (4 Dhyàna) thì không giải thích được nhưng có xảy ra.  Điều này có từ Ấn Độ Giáo rồi Phật Thích Ca đem Tu Thiền Định vào Phật Giáo và rất thịnh hành trong Thiền Tông cho đến ngày nay.

 

Phật Giáo còn tin rằng Con người có Tâm Giác ngộ, gọi là La Hán (Phật Giáo Nguyên Thủy) hay là Phật (Phật Giáo Đại Thừa) thì sau khi hết sinh kiếp (chết = tử) sẽ không phải tái sinh luân hồi trong tam giới.  Phật Giáo Đại Thừa còn cho rằng có những cõi riêng cho Phật ở gọi là Phật độ hay Tịnh độ, khác với Tam giới (3 thế giới) của chúng sanh là cõi Ta Bà.  (Độ = thổ = land).

Như vậy, Giác Ngộ còn giúp cho không tái sinh còn Thiền Định cũng giúp cho Tâm An nhưng không giúp cho Con người tránh khỏi tái sinh luân hồi.


 

B. Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán 

 

*

Phật Giáo Nguyên thủy có phương cách tự tu để đạt được cứu cánh là Tu Thiền (hay Tham Thiền).  Tu Thiền phải thực hiện trong không gian yên lặng theo một tư thế đặc biệt của thân mình (thường là tọa thiền).  Phương pháp Tu Thiền, nhất là Tu Thiền định đã có từ trước, trong Ấn Độ Giáo.

Tham Thiền thường được hiểu là Tu Thiền đúng theo phương pháp của Phật Giáo. 

 

Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên Thủy có 2 phương cách Tu Thiền chính là Tu Thiền quán và Tu Thiền định.

Tu Thiền quán (Insight meditation) là phương cách tự mình thực hành tập trung và suy nghĩ trong yên lặng về chủ đề hay đối tượng là giáo lý đạt giác ngộ ghi trong kinh luận của Phật Giáo, cụ thể là những trợ đạo phẩm của Phật Giáo Nguyên thủy hay những công án của Thiền tông để cho tâm của thiền gia sáng suốt giáo lý mà đạt được tâm giác ngộ.  Khi tâm giác ngộ thì an không phiền não tức là giải thoát Khổ.  (Quán = sáng suốt, thông minh).

Tu Thiền định (Meditation for concentration) thường là phương cách tự mình thực hành tập trung vào chủ đề hay đối tượng (như hơi thở) để cho tâm an tĩnh.  Tu Thiền định không cần dùng chủ đề và đối tượng là giáo lý đạt giác ngộ và dĩ nhiên không cần đạt giác ngộ nhưng tâm cũng sẽ được an.  Khi tâm an (tranquil, calm) thì không phiền não, tức là thoát Khổ.  (Định = tập trung)

 

Tu Thiền = Tham Thiền = Meditational Practices = Meditation

Tu Thiền Định = Meditational Practices (or Meditation) for Concentration.  

Định  = Tập trung = Concentration = Samàdhi.

Trạng thái an tịnh = Tịnh = Tranquil, Calm = Samatha

Tu Thiền Quán = Meditational Practices for Insight or Insight Meditation 

Quán = Sáng suốt (Thông minh) = Insight = Vipasyanà.   

Meditation = Suy nghĩ tập trung trong yên lặng = Tĩnh Lự (Tĩnh = yên lặng; Lự  = suy nghĩ)

Contemplation = Suy nghĩ tập trung trong yên lặng = Trầm tư mặc tưởng.

pth_toathien.jpg

*

Tu Thiền Định và Tu Thiền Quán là 2 phương cách Tự Tu khác nhau: Tu Thiền Định để đạt Tâm Thiền Định và Tu Thiền Quán để đạt Tâm Giác Ngộ. 

 

Tu Thiền Quán là phương pháp tự tu học để Tâm Giác ngộ sáng suốt trong nhận thức và thi hành giáo lý Giác ngộ của Phật Giáo.  Tuy nhiên với phương pháp và phương tiện giáo khoa hiện đại, Tu Thiền Quán trở thành lỗi thời và không hữu hiệu bằng.

 

Theo kinh nghiệm của Phật Giáo, Tu Thiền Định đạt được 4 bậc Tứ Thiền (Tứ Thiền na) của Tâm của Con người và bậc thứ tư của Tứ Thiền na là Định Tứ Thiền chính là Tâm Thiền định của Phật Giáo.  

Thành quả Tâm Thiền Định của Tu Thiền Định thì không giải thích được bằng lý trí vì không phải là triết lý như giáo lý Giác ngộ nhưng có xảy ra.  Ngoài ra, Tu Thiền Định còn có nhiều thành quả khác ngoài Tứ Thiền (4 Dhyana). 

 

Nhận xét thêm về Tu Thiền Định:

Tu Thiền Định không phải là dễ vì phải tùy theo căn cơ của người tu: có người tu mãi mà không đạt tới Định Tứ Thiền.  Có người chỉ đạt tới Định Sơ Thiền hoặc Định Nhị Thiền cảm thấy sung sướng và vui mừng thì cho là quá hay và không tiến hơn nữa cho tới cứu cánh là Định Tứ Thiền.

Tu Thiền Định chiếm nhiều thì giờ và phải tu hằng ngày mới giữ được Tâm trong 4 Thiền na. 

Nhiều người chỉ Tu Thiền Định mà không hề biết Tứ Thiền Na cũng như không hiểu biết Tâm Thiền Định là gì; tức là Tu Thiền Định mà không biết mình đạt được cái gì. 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Phật Giáo.

 

Bài viết này là phần sơ đẳng và căn bản về Giáo lý Phật Giáo đã được trình bày đầy đủ trong 4 bài dưới đây (cũng trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Phật Giáo)

1. Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

2. Tứ Diệu Đế và Đạo Đế của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

3. Thiền Định và Tu Thiền Định của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)

4. Trì Giới của Phật Giáo (Bs Phan Thượng Hải)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

DANH HIỆU "QUAN THẾ ÂM"

 

                                           (Bs Phan Thượng Hải) 

 

*

Tôn thờ chư Phật và chư Bồ Tát của Phật Giáo vì tín ngưỡng và sùng bái của Phật tử nhưng cũng bắt nguồn từ Giáo lý Phật Giáo.  

Phật Giáo là một tôn giáo nên gồm có Tôn thờ và Giáo lý.  

         Tôn thờ chính là sự thờ phượng Phật, Bồ Tát và vị tương đương khác.  

         Giáo lý là Triết lý được giáo huấn dạy dỗ.  

Giáo lý giúp Chúng sanh, hay đơn giản hơn giúp Con Người (Nhân mạng), tự tu hành thành bậc Giác ngộ hay thành Bồ Tát và Phật để diệt hết Khổ của Sinh Tử, đạt Niết Bàn và thoát khỏi Luân Hồi Sinh Tử.  Sự Tự Tu hành để đạt giác ngộ nầy rất khó khăn.

Giáo lý Phật Giáo giúp diệt hết Khổ của Sinh Tử nhưng không giúp tránh và thoát Bệnh Khổ và Nạn Khổ.

Con Người cần sự giúp đỡ từ nguồn gốc khác:

         Hóa Độ của Phật hay Bồ Tát gián tiếp giúp cho Tu hành theo Giáo lý được thành công đạt được Giác ngộ.

         Cứu Độ của Phật hay Bồ Tát trực tiếp cứu khỏi Nạn Khổ và Bệnh Khổ trong Kiếp nầy và cứu khỏi Tái sinh những Kiếp sau trong Luân hồi mà không phải Giác ngộ hay thành Phật hay Bồ Tát.

Từ Cứu độ và Hóa độ sinh ra Tôn thờ Phật và Bồ Tát để trợ giúp cho Tín ngưỡng và sùng bái với Cầu nguyện và Hy vọng được giúp đỡ.  Ngoài ra đôi khi Tôn thờ cũng xuất phát từ lòng kính mến và thán phục.

 

*

Avalokitesvara (Avalokiteshvara) là vị Bồ Tát được tôn thờ nhiều nhất của Phật Giáo Đại Thừa ở Ấn Độ và các vùng phụ cận trước khi được truyền vào Trung Quốc.

Ba kinh chánh của Đại Thừa lúc sơ khởi là kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm và kinh Bát Nhã đều nói đến ngài.  

         Ava = khắp mọi nơi

         Lokita = nhìn, thấy được (khắp nơi)

         Isvara = vị chúa tể, bậc có quyền hành động tự do, thế tôn

         Loka = thế gian.  

 

Danh hiệu của ngài có khi là Lokesvara.

Lokesvara được dịch nghĩa là Thế Tự Tại Vương.

 

 

*

Danh tự Avalokitesvara được dùng ở Trung Quốc và đầu tiên được dịch nghĩa là Quan Tự Tại (hay Quán Tự Tại) trong kinh Bát Nhã:

         “Quan” (= Quán) là khảo xét khắp trong thế giới (thế gian) 

         “Tự Tại” là bao giờ cũng tự kỷ thường tại để trừ khổ não cho chúng sanh. 

 

Từ kinh Bát Nhã, Quan Tự Tại (Quán Tự Tại) là Bồ Tát Hóa độ.  Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa viết:

         Khi Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có ngũ uẩn và thấy Ngũ uẩn không có Tự tánh (Sùnyatà) trong chúng.

 

Sau đó Cưu Ma La Thập dùng từ ngữ Quan Thế Âm (hay Quán Thế Âm) để dịch tên Phạn ngữ là Avalokitesvara.  Danh hiệu Quan Thế Âm (Quán Thế Âm) thể hiện Bồ Tát Cứu độ của ngài từ câu kinh Pháp Hoa (mượn lời của Phật) mô tả Quan Thế Âm:

         “Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.  Dĩ thị danh Quan Thế Âm.”

 

Câu kinh trên có nghĩa là vị Bồ Tát nầy khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì "tầm thanh" để cứu khổ.  Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát một lòng xưng danh ngài thì ngay khi đó Quan Thế Âm Bồ Tát tức thì quan sát âm thanh ấy và khiến cho họ đều được giải thoát. 

(Phật Lục của Trần Trọng Kim). 

 

Do đó theo đoạn kinh trên của kinh Pháp Hoa,

         Quan viết theo Hoa văn hay Hán tự là 觀

                  = sự nhận biết, sự nhận thấy.

         Thế viết theo Hoa văn hay Hán tự là 世

                  = đời, cõi đời, đời người.

         Âm viết theo Hoa văn hay Hán tự là 音

                  = tiếng.

 

Hoa văn hay Hán tự 觀 thường đọc theo Hán Việt ngữ là Quan nhưng còn đọc là Quán (TĐ Hán Việt của Trần Trọng San và Trần Trọng Tuyên, trang 496).  Như vậy Quan Thế Âm còn đọc là Quán Thế Âm với cùng một nghĩa.

 

觀世音 = Quan Thế Âm = Quán Thế Âm.

 

 

Quan Thế Âm không những là Bồ Tát Cứu độ nhưng cũng là Bồ Tát Hóa độ.  Đây là lời của ngài trong Lăng Nghiêm Kinh: 

         “Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra đời danh hiệu là Quan Thế Âm Như Lai.  Ta đến trước Đức Phật nầy mà phát Bồ Đề Tâm.  Đức Phật dạy ta theo 3 phép Văn, Tư, Tu nghĩa là theo lời giảng dạy, suy nghĩ về đạo lý và tu hành mà vào Tam Ma Đề (Samadhi).  Đức Phật khen ta chóng chứng được viên thông Pháp môn và tức thì ở ngay đại hội thụ ký cho ta danh hiệu Quan Thế Âm”.

 

Lần lần danh hiệu Quan Thế Âm (Quán Thế Âm) hoàn toàn thay thế danh hiệu Quan Tự Tại (Quán Tự Tại).  Rồi Quan Thế Âm được gọi tắt là Quan Âm, một danh hiệu trở thành phổ thông không những ở Trung Quốc mà còn ở các nước lân cận như Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam.  Tương truyền vì kỵ chữ Thế trong tên Lý Thế Dân của vua Đường Thái Tông nên người Trung Quốc đơn giản danh hiệu Quan Thế Âm thành ra Quan Âm.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài này phần lớn là một Đoạn trong bài "Tôn Thờ Phật và Bồ Tát của Phật Giáo" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com

   Ý NGHĨA THỰC HÀNH CỦA KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 

                                              Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

*

Thiền tông áp dụng quan niệm về sự vật của Không tông trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh.

Sự vật bên ngoài tâm gồm luôn cả con người khác, sinh vật khác và thân của ta.

 

- Sự vật hiện hữu vì chúng tích tụ trong giác quan và tâm của ta.  Đó là Ngũ uẩn (5 "cái" tích tụ = 5 aggregations).

         Tất cả mọi sự vật hữu thể (thế giới vật chất) gọi là Sắc, tích tụ trong giác quan của ta gọi là Sắc uẩn.

         Tất cả mọi sự vật tâm thần (thế giới vô thể) gọi là Danh, tích tụ trong tâm của ta gồm có Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.  Thọ, Tưởng, Hành, Thức chính là hoạt động của tâm ta.

         Thọ (Thụ) = cảm giác (sensation).

         Tưởng = tri giác (perception).

         Hành = tất cả những hoạt động khác của tâm ngoài Thọ, Tưởng và Thức (other mental constituents).

         Thức = nhận thức (cognition).

 

- Sự vật là hiện tượng vì chúng là 6 đối tượng của 6 giác quan của ta và tâm thức của ta.  Đó là 18 Giới (theo từ ngữ Phật Giáo).

 

Ngay từ Phật Thích Ca của Phật Giáo Nguyên Thủy cho đến Thiền tông, sự vật hiện hữu đồng nghĩa với hiện tượng.  Tất cả mọi sự vật hiện hữu hay hiện tượng được thể hiện bằng từ ngữ "Ngũ uẩn" hay "18 giới".  Sự vật, gọi tắt của sự vật hiện hữu, là hiện tượng của tâm ta bao gồm luôn thân ta trong sinh lão bệnh tử.

 

Sự vật = being and/or thing.  

Tất cả mọi sự vật = all beings and things.

Sự vật hiện hữu = element of existence.  

Tất cả mọi sự vật hiện hữu = all elements of existence = Vạn hữu.

Hiện tượng = phenomenon = dharma = Pháp.  {Từ ngữ "Pháp" ở đây không có nghĩa là giáo lý (doctrine)}.

Tất cả mọi hiện tượng = all phenomena = all dharmas = Vạn pháp.

(Như vậy, vạn pháp đồng nghĩa với vạn hữu, theo Phật Giáo)

 

Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên Thủy có chia Vạn Pháp ra làm 2:

         Hữu Vi Pháp = mọi hiện tượng của sự vật tùy thuộc Nhân Duyên Nghiệp Quả.

         Vô Vi Pháp = hiện tượng của sự vật thoát khỏi Nhân Duyên Nghiệp Quả.

 

Hữu Vi Pháp = Conditioned Dharmas = Samskrta-dharma

Vô Vi Pháp = Unconditioned Dharmas = Asamskrta-dharma

 

*

Tất cả mọi sự vật hiện hữu (vạn hữu) hay tất cả mọi hiện tượng (vạn pháp) đều không có "ngã" (nature), đồng nghĩa với "vô ngã" của Phật Giáo bắt đầu từ Phật Giáo Nguyên Thủy. 

Không tông muốn cho rõ hơn nên gọi là "không có tự tánh" (without nature), đồng nghĩa với "tánh Không" (sùnyatà).  

Đó là lý thuyết Không (sùnya) của Không Tông.  Không (sùnya) của Không Tông chẳng có nghĩa là "hư không" (nothingness) hay "không có" (non-existence).

         

Without nature = vô ngã (của sự vật hay hiện tượng) = tánh Không = không có tự tánh

Nature = ngã = tự tánh 

 

Sự vật hiện hữu (sự vật) hay hiện tượng thì vô ngã (hay tánh Không) nên phải vô thường.  Như vậy mọi sự vật hay hiện tượng thì tương đối (relative), gồm vô ngã và vô thường:

         . vô ngã = không hoàn toàn, không thuần túy, không chuyên chế và không độc lập, và phải tương quan với những sự vật hiện hữu hay hiện tượng khác.

         . vô thường (impermanent) = không thường hằng (not permanent) = không tự sinh khởi; không cố định, phải thay đổi và biến hóa; không vĩnh cữu và phải hoại diệt. 

 

Bát Nhã Tâm kinh viết về lý thuyết Không như sau:  

         Khi Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có ngũ uẩn và thấy Ngũ uẩn không có Tự tánh (Sùnyatà) trong chúng.

         Này Xá Lợi Phất (Sariputra): sắc ở đây là Không, Không là sắc; sắc không khác Không, Không không khác sắc; sắc tức thị là Không, Không tức thị là sắc.  Thọ, tưởng, hành, thức (đều) cũng vậy.

         Này Xá Lợi Phất: Hết thảy các Pháp ở đây (= Vạn Pháp) được biểu thị là Không (Sùnya).  Chúng không sinh, không diệt, không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm

         Vì vậy này Xá Lợi Phất; trong Không (Sùnya),

                  không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; 

                  không nhãn giới cho tới không có ý thức giới; 

                  cho tới không có tuổi già (= lão) và sự chết (= tử), không có sự tận diệt của tuổi già và sự chết;....

 

Chú thích:

         Ngũ uẩn = Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

         18 Giới = Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tương đương với Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý; từ Nhãn giới tới Ý thức giới.

 

Tóm lại, theo Không tông, mọi sự vật hiện hữu (kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử):

         đều là hiện tượng (= đối tượng của giác quan và tâm ta), 

         và tương đối (= relative) vì chúng là vô ngã hay tánh không (without nature) và vô thường (impermanent).  Tương đối là ngược lại với tuyệt đối (tuyệt đối = absolute).

Giáo lý như trên của Không tông trong kinh Bát Nhã gọi là thuyết Không (Sùnya) và sau nầy Thiền tông trong kinh Lăng Già gọi là Pháp vô ngã.

 

*

Cứu cánh của Phật Giáo là hết khổ.  Cứu cánh của Phật Giáo Đại Thừa là tâm con người hết phiền não.

 

- Nguyên nhân của khổ (của phiền não) là tất cả mọi sự vật đều là hiện tượng đối với tâm ta và đều là tương đối (relative) vì chúng đều vô ngã hay không có tự tánh (without nature) và vô thường (impermanent).  Tâm của ta dính chặt và ràng buộc (sở đắc = attached) hay bám chặt (sở trụ) vào sự vật tức là bị chướng ngại (= hindrance) bởi sự vật tương đối (vô ngã và vô thường) và chỉ là hiện tượng; thì tâm ta sẽ phiền não (khổ).

Tất cả mọi sự vật hiện hữu là đối tượng của tâm ta bao gồm luôn cả mọi sinh vật khác, mọi người khác và kể cả thân ta. 

 

- Do đó tâm giác ngộ an định không phiền não là không bám chặt và ràng buộc (vô sở đắc = non-attached = vô sở trụ) vào sự vật tức là tự do, không chướng ngại (vô ngại = non hindrance) vào sự vật.  

(Không tông không có phân biệt tâm thành ra tâm thức và bản tâm và không biết đến bản tâm. "Tâm" của Không tông là đồng nghĩa với "tâm thức" của Tánh tông)

 

Bát Nhã Tâm kinh của Không tông viết về tâm giác ngộ (Bát Nhã Ba La Mật Đa) như sau:

         Trong Không (Sùnya), không có Trí, không có Đắc (= vô sở đắc) và không có Chứng bởi vì không có Đắc.  Trong Tâm của Bồ Tát an trụ trên Bát Nhã Ba La Mật Đa không có những Chướng ngại (= vô ngại); và bởi vì không có những Chướng ngại trong Tâm đó nên không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt tới Niết bàn.

         Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai do y (dựa) trên Bát Nhã Ba La Mật Đa mà chứng đắc Giác ngộ viên mãn tối thượng.

 

Với vô sở đắc và vô sở ngại, Phật Giáo Đại thừa diệt được Khổ thuộc về Hành Khổ (= Tâm phiền não vì nhân duyên).  

Tâm không bám chặt và ràng buộc vào Sự vật là Đoạn diệt 3 Mê hoặc trong tình cảm.  Ba Mê hoặc hay Hoặc (= Klesa, Klesha = Defilements) là Tham (Greed, Craving), Sân (Anger) và Mạn (Pride). 

 

Người có tâm giác ngộ chính là Phật.  Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát (Bodhisattva).  Bồ tát hóa độ trong Bát Nhã Tâm kinh nầy là Bodhisattva Avalokitesvara, được dịch là Quan Tự Tại Bồ tát hay Quan Thế Âm Bồ tát.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

_________________________

    BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 

                                     (Bs Phan Thượng Hải)

 

Bộ kinh Bát Nhã là bộ Kinh đầu tiên và căn bản của Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo Đại Thừa.  Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là trọng tâm của bộ Kinh Bát Nhã.

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh có 2 Bản, viết khác nhau ở câu đầu.

Chánh Bản bắt đầu là bản Hán ngữ rồi được được dịch sang Việt ngữ và thường được đọc trong các chùa chiền hiện nay.

Dị Bản là bản đã được dịch sang Việt ngữ có từ Nhật Bản vì nó đăng trong sách Thiền Luận của Suzuki và Sư Tuệ Sỹ dịch.  Bản của Thiền sư Nhất Hạnh cũng giống Bản B này.

 

Ngày nay nhiều bản dịch sang Việt ngữ từ Chánh Bản Hán ngữ đều có sai lầm về từ ngữ Không (Sùnya) trong câu "Ngũ uẩn giai Không" và đều dịch toàn bài có nhiều chỗ không sát nghĩa mà dịch giả chỉ dịch theo ý của mình.  Do đó tác giả phải dịch lại cho sát nghĩa và dùng Dị Bản Việt ngữ để giải thích cho rõ ý nghĩa của từ ngữ Không (Sùnya). 

 

a) Chính Bản và Dị Bản 

 

* Chính Bản Hán ngữ (chép từ Thư viện Hoa sen)

 

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không, độ nhất thiết Khổ ách.

Xá Lợi Tử! 

Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.  Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! 

Thị Chư Pháp Không Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Thị cố Không trung; 

vô Sắc, vô Thọ Tưởng Hành Thức; vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới;

vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão Tử diệc vô Lão Tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô Sở Đắc cố Bồ Đề Tát thùy y Bát Nhã Ba La Mật Đa; tâm vô quái Ngại, vô quái Ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết Bàn.

Tam thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị Đại thần chú thị Đại minh chú, thị Vô Thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú; năng trừ nhất thiết Khổ, chân thực bất hư.  

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.

 

* Dịch từng Câu của Chính Bản Hán ngữ sang Việt ngữ

 

1. Câu 1 (Hán ngữ):

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không, độ nhất thiết Khổ ách.

 

Thời = khi.

Hành thâm = thực hành thâm sâu, thi hành thâm sâu.

Chiếu kiến = soi sáng thấy.

Giai = đều (cả), khắp (cả).

Độ = cứu giúp, cứu độ.

Nhất thiết = Tất cả hết thảy.

Ách = tai nạn, khốn cùng.

 

Câu 1 (dịch sang Việt ngữ):

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách.

 

2. Câu 2 (Hán ngữ):

Xá Lợi Tử! 

Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.  Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị.

 

Xá Lợi Tử là 1 trong 10 Đại Đệ tử của Phật Thích Ca, tên là Xá Lợi Phất (Xá Lị Phất).

Dị = khác.  Bất = chẳng, không. Bất dị = chẳng khác, không khác.

Thị = là. Tức thị = ấy là.

Diệc = cũng. Phục = lại.  Diệc phục = lại cũng.

Như = giống, giống như. 

Diệc phục như thị = lại cũng là giống như thế. 

 

Câu 2 (dịch sang Việt ngữ):

Này Xá Lợi Tử,

Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.  Sắc ấy là Không, Không ấy là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức lại cũng là giống như thế.

 

3. Câu 3 (Hán ngữ):

Xá Lợi Tử! 

Thị Chư Pháp Không Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

 

Tướng (Hán ngữ) theo nghĩa thông thường có nghĩa là trạng mạo (appearance).  Tuy nhiên trong Phật Giáo Trung Hoa, Tướng (Hán ngữ) có nghĩa là đặc tánh (= character).  Thí dụ: Pháp Tướng Tông của sư Huyền Trang và sư Khuy Cơ được dịch là Dharma-Character Sect.

Không Tướng nên dịch là đặc tánh Không.  

 

Thị = là.  Bất = chẳng, không.

Cấu = cáu, ghét do bụi bậm quyện thành; ngụ ý "dơ bẩn".

Tịnh = trong sạch.

Nãi chí = cho tới.

 

Câu 3 (dịch sang Việt ngữ):

Này Xá Lợi Tử,

Với đặc tánh là Không, Chư Pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cáu ghét vì bụi bậm chẳng trong sạch, chẳng tăng chẳng giảm.

 

4. Câu 4 (Hán ngữ):

Thị cố Không trung; vô Sắc, vô Thọ Tưởng Hành Thức; vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới;

 

Cố = vì vậy cho nên. Thị cố = vì vậy cho nên là.

Trung = trong.  Không trung = trong Không.

Vô = không, chẳng có.  Nãi chí = cho tới.

 

Câu 4 (dịch sang Việt ngữ):

Vì vậy cho nên là trong Không, chẳng có Sắc, chẳng có Thọ Tưởng Hành Thức; chẳng có nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới cho tới chẳng ý thức giới;


 

5. Câu 5 (Hán ngữ):

(Thị cố Không trung); vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão Tử diệc vô Lão Tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc.

 

Vô = không, chẳng có.

Diệc = cũng.

Tận = hết.

Trí = đặt dựng lên.

Đắc = được có.

 

Câu 5 (dịch sang Việt ngữ):

(Vì vậy cho nên là trong Không); chẳng có Vô Minh cũng chẳng hết Vô Minh cho tới chẳng có Lão Tử cũng như chẳng hết Lão Tử; chẳng có Khổ Tập Diệt Đạo; chẳng đặt dựng lên cũng chẳng được có. 


 

6. Câu 6 (Hán ngữ):

Dĩ vô Sở Đắc cố Bồ Đề Tát thùy y Bát Nhã Ba La Mật Đa; tâm vô quái Ngại, vô quái Ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết Bàn.

 

Dĩ = nhân vì.

Cố = vì vậy cho nên.

Y = theo, dựa theo.  Thùy y = buông dựa theo.

Quái = một cách lạ lùng.

Vô hữu = không có, chẳng có.

Khủng = Khủng bố = sợ hãi.

Viễn = xa.  Ly = lìa ra.  Viễn ly = xa lìa.

Cứu cánh = kết quả cuối cùng.

 

Câu 6 (dịch sang Việt ngữ):

Nhân vì Vô Sở Đắc cho nên Bồ Tát buông dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm Vô Ngại một cách lạ lùng; vì Vô Ngại như vậy cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo; mà đạt cứu cánh Niết Bàn. 


 

7. Câu 7 (Hán ngữ):

Tam thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

 

Thế = đời.  Tam thế = ba đời.

Y = theo, dựa theo.  

Đắc = được có.

 

Câu 7 (dịch sang Việt ngữ):

Tam thế Chư Phật dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa vì vậy cho nên có được A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.


 

8. Câu 8 (Hán ngữ):

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị Đại thần chú thị Đại minh chú, thị Vô Thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú; năng trừ nhất thiết Khổ, chân thực bất hư.  

 

Cố = vì vậy cho nên.  Tri = biết.  

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa = vì biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cho nên.

Thị = là.

Năng = có thể làm được.  Năng trừ = có thể trừ được.

Nhất thiết = tất cả hết thảy.

Bất hư = chẳng giả (giả dối). Hư = giả.


 

Câu 8 (dịch sang Việt ngữ):

Vì vậy cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú; có thể chân thật chẳng giả dối trừ được hết thảy tất cả mọi Khổ ách


 

9. Câu 9 (Hán ngữ):

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.

 

Tức = tự đó.

Thuyết = nói rõ ra.

Viết = nói

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha (là câu Hán ngữ dịch âm của câu Phạn ngữ) = (dịch nghĩa) Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó.

 

Câu 9 (dịch sang Việt ngữ):

Vì vậy cho nên để nói rõ ra, tự đó Bát Nhã Ba La Mật Đa chú nói rõ ràng: "Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó).


 

* Chính Bản Việt ngữ và Chính Bản Hán ngữ 

 

Chính Bản Việt Ngữ:

 

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách.

Này Xá Lợi Tử,

Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.  Sắc ấy là Không, Không ấy là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức lại cũng là giống như thế.

 

Này Xá Lợi Tử,

Với đặc tánh là Không, Chư Pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cáu ghét vì bụi bậm chẳng trong sạch, chẳng tăng chẳng giảm.

Vì vậy cho nên là trong Không, 

chẳng có Sắc, chẳng có Thọ Tưởng Hành Thức; chẳng có nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới cho tới chẳng ý thức giới;

chẳng có Vô Minh cũng chẳng hết Vô Minh cho tới chẳng có Lão Tử cũng như chẳng hết Lão Tử; chẳng có Khổ Tập Diệt Đạo; chẳng đặt dựng lên cũng chẳng được có. 

 

Nhân vì Vô Sở Đắc cho nên Bồ Tát buông dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm Vô Ngại một cách lạ lùng; vì Vô Ngại như vậy cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo; mà đạt cứu cánh Niết Bàn. 

 

Tam thế Chư Phật dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa vì vậy cho nên có được A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Vì vậy cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú; có thể chân thật chẳng giả dối trừ được hết thảy tất cả mọi Khổ ách

Vì vậy cho nên để nói rõ ra, tự đó Bát Nhã Ba La Mật Đa chú nói rõ ràng: "Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó).


 

Chính Bản Hán ngữ:

 

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không, độ nhất thiết Khổ ách.

 

Xá Lợi Tử! 

Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc.  Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị.

 

Xá Lợi Tử! 

Thị Chư Pháp Không Tướng bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

Thị cố Không trung; 

vô Sắc, vô Thọ Tưởng Hành Thức; vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới;

vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão Tử diệc vô Lão Tử tận; vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc.

 

Dĩ vô Sở Đắc cố Bồ Đề Tát thùy y Bát Nhã Ba La Mật Đa; tâm vô quái Ngại, vô quái Ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết Bàn.

 

Tam thế Chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa thị Đại thần chú thị Đại minh chú, thị Vô Thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú; năng trừ nhất thiết Khổ, chân thực bất hư.  

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.


 

* Dị Bản Việt ngữ của Tuệ Sỹ và Chính Bản Việt ngữ 

 

Dị Bản Việt ngữ của Tuệ Sỹ = Bản B 

 

Khi Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có Ngũ Uẩn và thấy Ngũ Uẩn không có Tự Tánh trong chúng.

Này Xá Lợi Phất: 

Sắc ở đây là Không, Không là Sắc; Sắc không khác Không, Không không khác Sắc; Sắc tức thị là Không, Không tức thị là Sắc.  Thọ, Tưởng, Hành, Thức (đều) cũng vậy.

 

Này Xá Lợi Phất: 

Hết thảy các Pháp ở đây được biểu thị là Không (Sùnya).  Chúng không Sinh, không Diệt, không Cấu Nhiễm, không không Cấu Nhiễm; không tăng, không giảm

Vì vậy này Xá Lợi Phất, trong Không, 

không có Sắc, không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý; không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; không Nhãn giới cho tới không có Ý Thức Giới; 

không có Minh, không có Vô Minh; không có Minh diệt, không có Vô Minh diệt; cho tới không có Tuổi Già (Lão) và Sự Chết (Tử), không có sự tận diệt của Tuổi Già và Sự Chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí, không có Đắc và không có Chứng bởi vì không có Đắc.

 

Trong Tâm của Bồ Tát an trụ trên Bát Nhã Ba La Mật Đa không có những Chướng ngại; và bởi vì không có những Chướng ngại trong Tâm đó nên không có Sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt tới Niết Bàn.

 

Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai do y (= dựa) trên Bát Nhã Ba La Mật Đa mà chứng đắc Giác Ngộ viên mãn tối thượng.

Vì vậy nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần chú (Mantram), là Chú của Đại minh huệ (tuệ), là Thần chú cao tuyệt, Thần chú vô giá, có thể trừ diệt hết mọi Khổ đau; đó là Chân lý vì không sai lầm.

Đây là Thần chú được công bố trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa: gate, gate, pàragate, pàrasamgate, bodhi, svàha! (nầy bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, svàha!).


 

Chính Bản Việt Ngữ = Bản A 

 

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách.

Này Xá Lợi Tử,

Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.  Sắc ấy là Không, Không ấy là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức lại cũng là giống như thế.

 

Này Xá Lợi Tử,

Với đặc tánh là Không, Chư Pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cáu ghét vì bụi bậm chẳng trong sạch, chẳng tăng chẳng giảm.

 

Vì vậy cho nên là trong Không

chẳng có Sắc, chẳng có Thọ Tưởng Hành Thức; chẳng có nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới cho tới chẳng ý thức giới;

chẳng có Vô Minh cũng chẳng hết Vô Minh cho tới chẳng có Lão Tử cũng như chẳng hết Lão Tử; chẳng có Khổ Tập Diệt Đạo; chẳng đặt dựng lên cũng chẳng được có. 

 

Nhân vì Vô Sở Đắc cho nên Bồ Tát buông dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm Vô Ngại một cách lạ lùng; vì Vô Ngại như vậy cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo; mà đạt cứu cánh Niết Bàn. 

 

Tam thế Chư Phật dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa vì vậy cho nên có được A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Vì vậy cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú; có thể chân thật chẳng giả dối trừ được hết thảy tất cả mọi Khổ ách

Vì vậy cho nên để nói rõ ra, tự đó Bát Nhã Ba La Mật Đa chú nói rõ ràng: "Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó).

 

* Bổ túc Chính Bản Việt Ngữ từ Dị Bản Việt ngữ của Tuệ Sỹ

 

Tuy từ ngữ có khác chút đỉnh, nội dung ý nghĩa của Chính Bản Việt ngữ và Dị Bản Việt ngữ không khác nhau trừ Câu 1.

Câu 1 của Chính Bản Việt ngữ cần được hiểu rõ ràng nhất là từ ngữ Không.  Câu 1 của Dị Bản Việt ngữ tuy có khác nhưng nó giúp giải thích từ ngữ Không một cách rõ ràng.

 

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh (Chánh Bản) viết:

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách.

 

Ngũ Uẩn đều Không (Ngũ Uẩn giai Không) = Sự vật đều Không. 

Không (là danh từ) có tất cả 3 nghĩa khác nhau.

Không = trống rỗng, trống không; tuy là có và nhân duyên với nhau nhưng "không có ngã" (= vô ngã). 

Không = khhông có = Ảo.  Ảo là vì do Tâm của Con người tạo ra. 

Không = không thực = Giả.  Giả là vì do Tâm của Con người tạo ra hay là vì thay đổi theo thời gian (theo Thiên Thai Tông).

 

Không = sự trống rỗng hay trống không (Sùnya) = Emptiness, Void.

Không = sự không có = Non-existence = Ảo.  

Không = sự không thực hay hư không = Ingeuinity = Giả. 

 

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh (Dị Bản) viết:

Khi Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có Ngũ Uẩn và thấy Ngũ Uẩn không có Tự Tánh trong chúng.


Danh từ Không của kinh Bát Nhã và Trung Quán Phái (và Không Tông) có nghĩa là "trống rỗng, trống không" (Emptiness, Void) vì nó được giải thích từ bản B của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh.

Như vậy, Trung Quán Phái và Không Tông (theo kinh Bát Nhã), Sự vật đều Không tức là Sự vật đều "có" nhưng "không có Tự tánh".

 

Không (danh từ) = Sùnya = sự trống rỗng, sự trống không = emptiness, void.

Không có Tự tánh (= Tánh Không) = without nature.

 

Tự Tánh của Sự vật ngụ ý là "Ngã" của Sự vật.

Như vậy, Sự vật "không có Tự Tánh" có nghĩa là Sự vật thì vô ngã.


 

Phật Giáo Đại Thừa Trung Quán Phái (và Không Tông) thật ra chỉ lập lại và khai diễn giáo lý Tam Pháp Ấn của Phật Giáo Nguyên Thủy: "Hiện tượng thì vô ngã và vô thường (nên) Khổ".  Tuy nhiên nó được trình bày theo một cách khác mà thôi.

 

Kinh A Hàm (phẩm 18 của Tăng Nhất A Hàm) của Phật Giáo Nguyên thủy viết:

Cái gì là hiện tượng là vô thường

Cái gì là hiện tượng là Khổ

Cái gì là hiện tượng là vô ngã

Niết bàn là an tịnh vĩnh cửu.

 

Pháp Ấn = The Seals of the Law = Dharma-mudra / Dhamma-uddàna

Tam Pháp Ấn là 3 Đặc Tánh của mọi Hiện Tượng (Vạn Pháp) của mọi Sự vật (Vạn Hữu):

1. Vô Thường (Impermanance = Anitya / Anicca)

2. Vô Ngã (Devoid of Self, without nature = Anàtman / Anattà)

3. Khổ (Suffering = Duhkhà / Duhkhà)

 

Ngã hay Tự Ngã = Self, Nature = Àtman.  Vô Ngã = Nonself, without nature = Anàtman

Vô ngã (của Sự vật) = Without nature = không có Tự tánh = Tánh Không (Sùnyatà). 


 

Sự vật thì vô ngã (hay tánh Không) nên phải vô thường.  Như vậy mọi sự vật hay hiện tượng thì tương đối (relative), gồm vô ngã và vô thường:

. vô ngã (without nature) = không hoàn toàn, không thuần túy, không chuyên chế và không độc lập, và phải tương quan với những sự vật hiện hữu hay hiện tượng khác.

. vô thường (impermanent) = không thường hằng (not permanent) = không tự sinh khởi; không cố định, phải thay đổi và biến hóa; không vĩnh cữu và phải hoại diệt. 

 

Do đó, từ kinh Bát Nhã có Nhân Khổ Nghiệp (từ Sự vật).

Nhân Khổ Nghiệp (từ Sự vật)

= Sự vật thì "có" nhưng vô ngã (without nature) nên Sự vật tương đối (relative).

Vô ngã = Without nature = không có Tự tánh = Tánh Không.


 

* Bản Việt ngữ sau khi tổng hợp Chính Bản và Dị Bản

 

Tác giả đề nghị thêm 1 phần của Dị Bản ở câu đầu vào Chính Bản cho rõ nghĩa.

      soi thấy rằng có Ngũ Uẩn và thấy Ngũ Uẩn không có Tự Tánh trong chúng;

 

Đây là Bản Tổng Hợp:

 

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, soi thấy rằng có Ngũ Uẩn và thấy Ngũ Uẩn không có Tự Tánh trong chúng; cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách.

Này Xá Lợi Tử,

Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.  Sắc ấy là Không, Không ấy là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức lại cũng là giống như thế.

 

Này Xá Lợi Tử,

Với đặc tánh là Không, Chư Pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cáu ghét vì bụi bậm chẳng trong sạch, chẳng tăng chẳng giảm.

Vì vậy cho nên là trong Không

chẳng có Sắc, chẳng có Thọ Tưởng Hành Thức; chẳng có nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới cho tới chẳng ý thức giới;

chẳng có Vô Minh cũng chẳng hết Vô Minh cho tới chẳng có Lão Tử cũng như chẳng hết Lão Tử; chẳng có Khổ Tập Diệt Đạo; chẳng đặt dựng lên cũng chẳng được có. 

 

Nhân vì Vô Sở Đắc cho nên Bồ Tát buông dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm Vô Ngại một cách lạ lùng; vì Vô Ngại như vậy cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo; mà đạt cứu cánh Niết Bàn. 

 

Tam thế Chư Phật dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa vì vậy cho nên có được A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Vì vậy cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú; có thể chân thật chẳng giả dối trừ được hết thảy tất cả mọi Khổ ách

Vì vậy cho nên để nói rõ ra, tự đó Bát Nhã Ba La Mật Đa chú nói rõ ràng: "Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó).


 

b) Chú Giải Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

 

* Có 4 Giáo điều:

 

- Giáo điều 1: 

Tất cả mọi Sự vật (Ngũ Uẩn = Vạn Hữu) đều "có" nhưng đều "không có Tự Tánh" (= without nature). 

 

- Giáo điều 2: 

Vì "không có Tự Tánh" nên mọi Sự vật chỉ là mọi Hiện tượng (= Vạn Pháp).  Do đó Sự vật và Hiện tượng thì Tương đối, tức là không Tự Chủ (không tự vệ và không tự biến đổi) và không Tự Sở Hữu (không tự sinh và không tự diệt).

 

- Giáo điều 3: 

Giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và Tứ Diệu Đế của Phật Giáo Nguyên Thủy cũng là Hiện tượng "tương đối" vì cũng không có Tự tánh. 

 

- Giáo điều 4: 

Tâm Giác ngộ là tâm "vô sở đắc" và "vô ngại" vào Sự vật (là hiện tượng đối với Tâm).  Tâm Giác ngộ (= Bát Nhã Ba La Mật Đa) đạt tới Niết bàn (hết Khổ) và thành Phật.  

Vô Sở Đắc = không dính chặt và không ràng buộc (= Non-attached = Vô Sở Trụ).

Vô Ngại = không chướng ngại (= Non- hindrance), tức là tự do.

 

*

Giáo điều 1: 

Tất cả mọi Sự vật (Ngũ Uẩn = Vạn Hữu) đều "có" nhưng đều "không có Tự Tánh" (= without nature).

Giáo điều 1 thể hiện qua Câu 1 và Câu 2: 

Câu 1:

Khi Quan Tự Tại Bồ Tát thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi sáng thấy Ngũ Uẩn đều Không, cứu độ hết thảy tất cả Khổ ách. {theo bản A từ Hán ngữ}

Khi Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có Ngũ Uẩn và thấy Ngũ Uẩn không có Tự Tánh trong chúng. {theo bản B của Nhật Bản}

Câu 2:

Này Xá Lợi Tử, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc.  Sắc ấy là Không, Không ấy là Sắc; Thọ Tưởng Hành Thức lại cũng là giống như thế.

 

*

Giáo điều 2: 

Vì "không có Tự Tánh" nên mọi Sự vật chỉ là mọi Hiện tượng (= Vạn Pháp).  Do đó Sự vật và Hiện tượng thì Tương đối, tức là không Tự Chủ (không tự vệ và không tự biến đổi) và không Tự Sở Hữu (không tự sinh và không tự diệt).

Giáo điều 2 thể hiện qua Câu 3 và 4a.

Câu 3:

Này Xá Lợi Tử, Với đặc tánh là Không, Chư Pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cáu ghét vì bụi bậm chẳng trong sạch, chẳng tăng chẳng giảm.

Câu 4a:

Vì vậy cho nên là trong Không, chẳng có Sắc, chẳng có Thọ Tưởng Hành Thức; chẳng có nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, chẳng có sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng có nhãn giới cho tới chẳng ý thức giới;

 

*

Giáo điều 3: 

Giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và Tứ Diệu Đế của Phật Giáo Nguyên Thủy cũng là Hiện tượng "tương đối" vì cũng không có Tự tánh. 

Giáo điều 3 thể hiện qua Câu 4b.

Câu 4b:

(Vì vậy cho nên là trong Không), chẳng có Vô Minh cũng chẳng hết Vô Minh cho tới chẳng có Lão Tử cũng như chẳng hết Lão Tử; chẳng có Khổ Tập Diệt Đạo; chẳng đặt dựng lên cũng chẳng được có. 

 

*

Giáo điều 4: 

Tâm Giác ngộ là tâm "vô sở đắc" và "vô ngại" vào Sự vật (là hiện tượng đối với Tâm).  Tâm Giác ngộ (= Bát Nhã Ba La Mật Đa) đạt tới Niết bàn (hết Khổ) và thành Phật.  

Vô Sở Đắc = không dính chặt và không ràng buộc (= Non-attached = Vô Sở Trụ).

Vô Ngại = không chướng ngại (= Non- hindrance), tức là tự do.

 

Giáo điều 4 thể hiện qua Câu 5 và 6

Câu 5:

Nhân vì Vô Sở Đắc cho nên Bồ Tát buông dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm Vô Ngại một cách lạ lùng; vì Vô Ngại như vậy cho nên chẳng có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo; mà đạt cứu cánh Niết Bàn. 

Câu 6:

Tam thế Chư Phật dựa theo Bát Nhã Ba La Mật Đa vì vậy cho nên có được A Nậu Đa La Tam Niệu Bồ Đề.

Vì vậy cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú; có thể chân thật chẳng giả dối trừ được hết thảy tất cả mọi Khổ ách

Vì vậy cho nên để nói rõ ra, tự đó Bát Nhã Ba La Mật Đa chú nói rõ ràng: "Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó).

 

*

Giáo điều 1, 2 và 4 của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh chính là giáo lý về Khổ Nghiệp và Đoạn Khổ Nghiệp của Trung Quán Phái và Không Tông.

Giáo điều 3 của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh phủ nhận giá trị của giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy (Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca).


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài viết này là một Đoạn ngắn trong "Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo" (Bs Phan Thượng Hải).

_______________________ 

ĐỐI TRONG THƠ CHỮ QUỐC NGỮ
                               Bs Phan Thượng Hải biên soạn


Thơ Đường Luật Bát Cú (Thất Ngôn hay Ngũ Ngôn) có Đối: câu 3 Đối với câu 4 và câu 5 Đối
với câu 6. Phép Đối và cách Đối trong thơ chữ Quốc ngữ được học giả Dương Quảng Hàm và 2
thi sĩ Diên Hương và Quách Tấn nghiên cứu và trình bày rõ ràng.


* Đối trong thơ Đường luật


Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho Ý và Chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.
Đối Ý là tìm hai ý nghĩa cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
Đối Chữ thì vừa phải Đối Thanh vừa phải Đối Loại.
     Đối Thanh tức là Bằng đối với Trắc và Trắc đối với Bằng.
     Đối Loại là phải đặt một hay hai chữ cùng tự loại để đối nhau (như cùng Danh từ, Động
từ, Tỉnh từ, Giới từ…).


Thí dụ:
     Lom khom dưới núi tiều vài chú
     Lác đác bên sông rợ mấy nhà


Đối Thanh:
     Lom (B) khom (B) dưới (T) núi (T) tiều (B) vài (B) chú (T)
     Lác (T) đác (T) bên (B) sông (B) rợ (T) mấy (T) nhà (B)


Đối Loại Từ:
     "Lom khom" (tỉnh từ) đối với "Lác đác" (tỉnh từ).
     "Dưới" (liên từ) đối với "Bên" (liên từ).
     "Núi" (danh từ) đối với "Sông" (danh từ).
     "Tiều" (danh từ) đối với "Rợ" (danh từ).
     "Vài" (danh từ) đối với "Mấy" (danh từ).
     "Chú" (danh từ) đối với "Nhà" (danh từ).


Trong bài Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú hay Ngũ Ngôn Bát Cú: Câu 3 đối với câu 4, Câu 5 đối
với câu 6.
Thực tế chỉ cần Đối Chữ là bắt buộc. Vì luật bất luận nên chữ thứ 1 và 3 của hai câu không bắt
buộc Đối Thanh với nhau.


* Phép Đối Chữ


Đối Chữ thì vừa phải Đối Thanh vừa phải Đối Loại.
     Đối Thanh tức là Bằng đối với Trắc và Trắc đối với Bằng.
     
Đối Loại là phải đặt một hay hai chữ cùng tự loại để đối nhau (như cùng Danh từ, Động
từ, Tỉnh từ, Giới từ…).


Phép Đối có một vài kỹ thuật bất thành văn. Câu thơ Việt ngữ dùng chữ Quốc ngữ, nhất là
trong thơ Đường luật, có nhiều kỹ thuật tân tiến hơn là câu thơ Hán ngữ
. Những kỹ thuật
nầy khi áp dụng cho một câu thì câu đối cũng phải dùng kỹ thuật giống như vậy và đúng theo vị
trí như vậy trong câu.


(1)
Câu thơ có điệp ngữ (điệp thanh) trong câu thì câu đối cũng phải có điệp ngữ theo đúng thứ tự
như vậy (trong câu). Thí dụ:
     Đêm ngụ ngoại thành đêm não ruột
     Sớm về trang nội sớm yên thân


     Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng
     Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan


     Đàn nguyệt, nguyệt khêu điều dưới liễu
     Nhìn hoa, hoa xót chuyện trong dâu


     Tánh tuệ tu tâm, tâm giác ngộ
     Tăng già tu đạo, đạo tỳ kheo


     Xui người không quỉ gieo câu quỉ
     Khiến kẻ thông thần trải tứ thần

 

     Án sách vẫn còn án sách
     Nước non bạn với nước non nhà


     Còn bạc còn tiền còn đệ tử
     Hết cơm hết gạo hết ông tôi

     

      Mâm xôi ruồi đậu mâm xôi đậu
     Đĩa thịt kiến đĩa thịt bò

 

     Khôn mà hiểm độc là khôn dại
     Dại vốn hiền lành ấy dại khôn


(2)
Câu thơ có vần trong câu thì câu đối cũng phải có vần trong câu theo đúng thứ tự như vậy trong
câu. Thí dụ:


     Lom khom dưới núi tiều vài chú
     Lác đác bên sông rợ mấy nhà


"Khom" vần với "lom" thì "đác" vần với "lác".


     Đêm lạnh thiu, hiu hiu bấc thổi
     Ngày nồng nực, phực phực nồm bay


"Hiu" vần với "thiu" thì "phực" vần với "nực".
 

(3)
Câu thơ có chữ đôi gồm 2 chữ gìống nhau thì câu đối cũng phải có chữ đôi gồm 2 chữ giống
nhau đúng theo thứ tự trong câu. (Liên châu đối)
Thí dụ:
     Đêm lạnh thiu, hiu hiu bấc thổi
     Ngày nồng nực, phực phực nồm bay


"Hiu hiu" và "phực phực" là chữ đôi gồm 2 chữ giống nhau.


     Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
     Thương nhà mỏi miệng cái gia gia


     Thân túc ngư ông hoàn phiếm phiếm
     Thanh thu yến tử cố phi phi

 

     Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
     Phương thảo thê thê Anh Vũ châu


     Làu làu bóng rạng gương Hoàng Nguyễn
     Vọi vọi nền cao tiết Vũ Trương


     Người người thấp thỏm như hờn quỷ
     Nước nước phập phòng tựa ám ma

 

(4)
Câu thơ có chữ nói lái thì câu đối cũng phải có chữ nói lái đúng theo thứ tự trong câu.
Thí dụ:


     Nhắc bạn riêng thương tình nhạn bắc
     Trông đời thêm ngán cảnh trời đông


"Nhắc bạn" nói lái là "nhạn bắc" và "trông đời" nói lái là "trời đông".


Có bài dùng hai chữ sau nói lái hai chữ đầu cho cả bài thơ:


     NHẮN CÁC BẠN THƠ
     Thương chồng giữ đạo, đáng chồng thương
     Thường thấy từ xưa, chuyện thấy thường


     Chẳng biết sao cười, ai biết chẳng?
     Dường bao đáng ghét, trẻ bao dường!

 

     Nắng chan rõ mặt tình chan nắng
     Gương rạng soi lòng tiết rạng gương

 

     Nghĩa nặng trăm năm còn nặng nghĩa
     Hương diên ngàn dặm thắm Diên Hương.
     (Diên Hương) 1-5-1950


(5)
Câu thơ có 2 chữ đối trong câu thì câu đối cũng có 2 chữ đối trong câu đúng theo thứ tự trong
câu. (Cú trung đối = Tiểu đối)
Thí dụ:


     Viễn sơn tú thảo ngoại
     Lưu thủy lạc hoa trung

 

"Viễn sơn" đối với "tú thảo". "Lưu thủy" đối với "lạc hoa".


     Cô vân độc điểu xuyên quang mộ
     Vạn tỉnh thiên sơn hải khí thâm

 

"Cô vân" đối với "độc điểu". "Vạn tỉnh" đối với "thiên sơn".
 

(6)
Câu trên có Số thì câu dưới cũng như vậy, và đúng theo ngôi thứ trong câu.
Thí dụ:


     Ba ngàn thế giới thâu vào cánh
     Chín chục thiều quang liệng giữa trời

 

     Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ
     Bách niên Hồ địa mã vô thinh

 

Tuy nhiên có khi con số đại diện cho số nhiều, có thể Đối với từ ngữ dùng cho số ít mà không
cần phải là con số. Thí dụ:


     Cô vân độc điểu xuyên quang mộ
     Vạn tỉnh thiên sơn hải khí thâm


"Cô" đối với "Vạn" (= 10000) và "độc" đối với "thiên" (= 100)


(7)
Câu có danh từ riêng thì câu đối cũng phải có danh từ riêng với cùng thứ tự trong câu.
Thí dụ:


     Bến Nam Chức Nữ trông mòn mắt
     Phía Bắc Ngưu Lang nhớ bạc đầu


     Đàn nguyệt ngâm thơ khen giọng Đỗ
     Thưởng hoa nâng chén tựa giường Trần


     Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ
     Bách niên Hồ địa mã vô thinh


Tuy nhiên, luật nầy không cần phải tuyệt đối tôn trọng: câu đối có thể dùng danh từ chung nếu ý
nghĩa có đối nhau.
Thí dụ:


     Thương vợ chồng Ngưu duyên chểnh mảng
     Thương cha mẹ nhện phận long đong
     (Chúa Trịnh Sâm)

"Ngưu" có nghĩa là "Ngưu lang" nhưng cũng có nghĩa chung là "con trâu". Do đó câu đối dùng
"Nhện" là "con nhện" cũng được.

 

Hoặc là ngược lại, dùng danh từ riêng để đối danh từ chung.
Thí dụ:


Tổng Đốc vì thương người bạc mạng
Tiền Đường chưa chắc mồ. hồng nhan


(8)
Câu có những chữ có 2 nghĩa riêng và chung thì câu đối cũng phải có những chữ có 2 nghĩa
riêng và chung theo đúng thứ tự trong câu.
Thí dụ:


     Bài không đeo nữa xin dâng lại
     Đàn nỏ ai nghe khéo dấu hình

 

     Liệu thế không xong binh chẳng đặng
     Liêm đành giữ tiếng lễ đừng rinh


Những từ riêng để chỉ Bộ và Tên của các quan Thượng thơ nhưng cũng là từ chung (với nghĩa
khác):
     Bộ Lại - ông Nguyễn Hữu Bài
     Bộ Hình - ông Tôn Thất Đàn
     Bộ Binh - ông Phạm Liệu
     Bộ Lễ - ông Võ Liêm


Câu có từ ngữ chung có 2 nghĩa thì câu đối cũng phải có từ ngữ chung có 2 nghĩa theo đúng thứ
tự trong câu. (Tá đối)
Thí dụ:


     Một thớt cùm lim ngồi thế đế
     Hai vòng xiềng sắt bước thời vương


"Đế" và "vương" có 1 nghĩa khi là danh từ và cũng có 1 nghĩa khác khi là động từ.


     Rượu thấm hơi bầu khôn chẳng dại
     Cờ lăm nước dưới quên trên


     Non nước lỡ làng màu lịch sự
     Gió trăng chờn chợ mối nhân duyên


     Chẳng long lay đến lòng son sắt
     Chớ hổ ngươi vì miếng bạc đen
     (Phan Bội Châu)


"Làng", "chợ", "long" và "hổ" có nghĩa đen khi là danh từ nhưng có nghĩa khác trong "lỡ làng",
"chờn chợ", "long lay" và "hổ ngươi".
Tuy nhiên từ ngữ chung có 2 nghĩa cũng đối được với từ ngữ chung có 1 nghĩa.
Thí dụ:


     Thà tiêu xí quách Cu theo Cụ
     Biết sướng cuộc đời Cụ chỉ Cu


     Cu tưởng lão làng lên giọng Cụ

     Cụ ham già dịch tại thằng Cu


"Cu" có 2 nghĩa (là trẻ nhỏ và là dương vật) nhưng "Cụ" chỉ có 1 nghĩa.


(9)
Ở những vị trí không cần phải Đối Thanh, câu đối có thể dùng lại cùng một chữ. Đó là những
vị trí thứ nhứt và thứ ba trong câu 7 chữ (thất ngôn) hay 5 chữ (ngũ ngôn).
Thí dụ:


     Thương con cuốc nọ kêu mùa hạ
     Thương cái bèo kia dạt bể đông
     Thương vợ chồng Ngưu duyên chểnh mảng
     Thương cha mẹ nhện phận long đong
     (Chúa Trịnh Sâm)


     Chính nghĩa chủ quan sinh thiển cận
     Chính danh thiên vị tạo sân si

 

     Vì nghĩa vững lòng cam thọ tử
     Vì dân lập chí dẫu hy sanh


     Hiện tại thi nhân tình ý rộn
     Tương lai thi sĩ nghĩa danh xưng

 

     Tổ chức tương giao vui họp mặt
     Tỏ tình tương trợ thích đi đầu

 

     Bảo trì tương ái qua giông bão
     Bình đẳng tương thân lúc bể dâu

 

     Tánh tuệ tu tâm, tâm giác ngộ
     Tăng già tu đạo, đạo tỳ kheo

 

     Tình yêu phu phụ bao ngang trái
     Tình nghĩa phu thê lắm tiếc thương

 

(10)
Chữ cũng được dùng lại trong 2 câu đối nhau:


     Khứ tuế Kinh Nam mai tợ tuyết
     Kim niên Kế Bắc tuyết như mai


     Thăm chỗ đản sanh nơi tịch diệt
     Viếng nơi thành đạo chỗ hoằng dương


     Có ngã, có ta, tâm uất hận,
     Không ta, không ngã, dạ từ bi.


* Cách Đối Ý


Đối Ý là tìm hai ý nghĩa cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
Đối Ý nghĩa (nội dung) có 3 nguyên tắc:


- Bổ túc


Câu trên một mình không đủ nghĩa, phải có câu dưới giải thêm mới đầy đủ:
     Tổng Đốc vì thương người bạc mạng
     Tiền Đường chưa chắc mộ hồng nhan


- Tương quan


Mỗi câu đều đủ nghĩa, câu dưới có một mối liên lạc với câu trên mà không bổ túc cho nhau:
     Đôi hàng nước mắt đôi làn sóng
     Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan

 

- Tương phản


Mỗi câu cũng đủ nghĩa mà tư tưởng của câu dưới đối trái hẳn với tư tưởng câu trên, không liên
lạc nhau mà cũng không bổ túc cho nhau


     Cầu Thước thẹn cùng nàng Chức Nữ
     Cung Thiềm vui với ả Hằng Nga


Như vậy, Đối trong bài thơ giúp cho bài thơ cân xứng nhưng không chỉ có nghĩa là "tương
phản".


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền


Bài viết nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com trong mục Thơ Văn phần Làm Thơ Cổ
điển.
Tài liệu tham khảo:
1) Phép Làm Thơ (Diên An)
2) Thi Pháp Thơ Đường (Quách Tấn)
3) Việt Nam Văn Học Sử Yếu (Dương Quảng Hàm)


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

        THÁNH ĐIẠ CÔNG GIÁO
Những bài thơ làm khi ​viếng Lourdes, Fatima và La Vang

PTH_churches.jpg

Thánh Địa

 

Lourdes giúp cho người bệnh tật:

 

LỘ ĐỨC (Lourdes)

Lộ Đức vinh danh Maria

Giúp người Công Giáo đến từ xa

Tình thương bác ái, Ngài nâng đỡ

Phép lạ phi thường, Mẹ hiện ra

Lần chuổi, đọc kinh, xin nước thánh

Rước đèn, dâng lễ, thỏa lòng ta

Hành hương cầu nguyện đầy ơn phước

Sống trọn niềm tin mến Đức Bà.

(Phan Thượng Hải)

10/10/11

Fatima giúp cho Hòa Bình và Bác Ái của Nhân Loại:

 

FATIMA

Phép lạ nhiệm mầu Maria

Vững tin nhân loại sống an hòa

Từ nơi Đức Mẹ tin lành đến

Nhờ miệng nhi đồng tiếng vọng xa

Mừng được phúc âm ơn cứu rỗi

Hành hương thánh địa Fatima

Nắm tay quỳ gối cùng tâm nguyện

Mến Chúa yêu người mãi thiết tha. 

(Phan Thượng Hải)

10/11/11

La Vang

 

THÁNH ĐỊA LA VANG HIỆN ĐẠI (*)

Chiều Đông vắng lặng ghé La Vang

Phong cảnh dạo xem thấy ngỡ ngàng

Phế tích thánh đường còn hiện hữu 

Tượng hình Đức Mẹ đã tân trang 

Cội nguồn danh tánh đà thay đổi 

Địa điểm hành hương quá mở mang

Cảm thấy mất đi truyền thống cũ 

Tâm tư thắc mắc dạ bàng hoàng.

(Phan Thượng Hải)

2/3/20 

 

  

(*) Chú thích:

Tương truyền vào thời cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, giáo dân phải trốn vào một vùng hẻo lánh (ngày nay thuộc huyện Hài Lăng, Quảng Trị) thì có Đức Mẹ Maria hiện ra giúp đỡ như một phép lạ (năm 1798).  Đó là câu chuyện phép lạ La Vang.

Thánh địa La Vang có một Vương cung Thánh đường (Basilica) vào năm 1961.  Trong chiến tranh vào năm 1972, ngôi thánh đường bị phá hủy chỉ còn một cái lầu chuông mà thôi.

Tên "La Vang" theo giả thuyết từ xưa cho rằng vì là một nơi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau thì phải "la" lớn; mà la lớn thì phải "vang" tiếng.  Do đó có nơi nầy có tên là La Vang.  Hiện đại có một giả thuyết khác cho rằng chỗ nầy có tên theo nhiều cây Lá Vằng mọc ở đây.  Khi người Pháp đến thì viết theo chữ Pháp không bỏ dấu nên Lá Vằng thành La Vang.

Ngày nay du khách đến thăm sẽ thấy một ngôi Thánh đường mới cất và tượng Đức Mẹ mặc trang phục như một phụ nữ người Việt thuở xưa.  Du khách cũng thấy có 1 khu vườn nhỏ trồng cây Lá Vằng để làm chứng.  Cây Lá Vàng là loại cây có hạt đen ăn được và có dùng làm vị thuốc.


 

Bs Phan Thượng Hải

CHUYỆN TẾT VÀ THƠ TẾT                 
 
                                 
Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


Dù đã tha hương 40 năm, ký ức ngày Tết khi còn thơ ấu vẫn trở lại mỗi khi đón mừng năm mới. 
Những chuyện về Tết cũng như những bài thơ cũ tự nhiên sống lại. 


TẾT NĂM XƯA
Nhớ Tết năm xưa thú tuổi thơ
Khi đưa ông Táo ngóng trông chờ
Xem lân nhẩy múa thăm thành thị
Nghe pháo giao thừa tỉnh giấc mơ
Mừng tuổi lì xì trong quyến thuộc
Thắp hương ăn cỗ trước bàn thờ
Đi chùa, xông đất, lời cung chúc
Cờ bạc vui trò chuyện vẩn vơ...
(Phan Thượng Hải)
Nay đã 70 tuổi, tác giả cố gắng viết bài nầy như là một tài liệu lưu niệm để tâm tình viễn xứ hoài  hương không bao giờ phai nhạt

TẾT
Theo nhà văn Sơn Nam, Tết là nói trại từ Tiết mà ra. Một năm gồm 4 mùa 8 tiết, ngày đầu năm âm lịch thuộc về Tiết Nguyên Đán (ngày đầu tiên của năm mới). Ngày đầu năm rất quan trọng vì chẳng lẽ con người cứ sống qua thời gian mà chẳng biết lấy gì để đo lường thời gian. Thời xưa lấy năm âm lịch làm chuẩn dựa vào thời tiết mưa nắng hay xuân hạ thu đông để tính tuổi tác con người, để qui định thời điểm đóng thuế và đồng thời chọn thời điểm để gieo giống thu hoạch mùa màng nông nghiệp, tạo niềm hy vọng. Trong bốn mùa chỉ có mùa Xuân là tươi đẹp nhất, khí trời mát mẻ nên Vua chúa (từ thời Tam Hoàng) dùng ngày đầu mùa Xuân cho ngày Tết (ngày đầu năm mới).
Sinh hoạt Tết chia ra làm 3 giai đoạn. Giai đoạn trước Tết vào khoảng 2 Tuần trước Tết cho đến chiều ngày Tất Niên. Ngày Tất Niên là ngày cuối của năm cũ, là ngày 29 tháng Chạp hay 30 tháng Chạp (nếu là năm nhuần). Kế đến là 3 ngày đầu năm (Tân Niên) gồm có Mùng 1, 2 và 3.
Tết chấm dứt từ ngày Mùng 4 hay 5.
Giai đoạn trước Tết là giai đoạn sửa soạn và chưng diện. Nhà cửa dọn dẹp sạch sẻ và đàng hoàng; trang hoàng đặc biệt với Tranh, Câu Đối, Hoa, Cây Nêu và nhất là trang hoàng Bàn thờ tổ tiên (ông bà). Ngày đầu năm kiêng cử không quét nhà vì chẳng khác nào đưa của cải ra ngoài  đường. Dân chúng mua sắm quần áo mới và đẹp và chuẩn bị Đồ ăn Thức uống cho những ngàyTết. Đường phố cũng trang hoàng đẹp đẽ. Báo chí thì có Báo Xuân.
Chợ thành ra Chợ Tết bành trướng rất nhộn nhịp và có thêm Chợ Hoa.


 

CHỢ TẾT
Lấn chen, xe cộ lẫn người ta
Khó lẫn giàu sang, trẻ lẫn già
Bùi, ngọt, thơm, ngon, kìa bánh trái
Xanh, vàng, trắng, đỏ, nọ bông hoa
Đó bao giày nón bao xiêm áo
Đây những cá tôm những rượu trà
Ngày nhóm rần rần đêm cũng nhóm
Sắm mua đủ thứ, rước Xuân mà.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)

ÔNG TÁO

Ngày 23 tháng Chạp có Lễ cúng đưa Ông Táo về Trời để tấu trình chuyện dân gian với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Lễ cúng với Thịt, Cá, Bánh kẹo và Rượu nếp.

Ông Táo (Táo Quân) lãnh phận sự về Trời, báo cáo tình trạng sinh sống của gia đình. Tục truyền Ông Táo cỡi cá chép về Trời. Tuy nhiên từ thời VNCH, Ông Táo về Trời nhờ những thứ vàng mã gọi là "cờ bay ngựa chạy", phương tiện nhanh chóng nhất vào thời xưa. Dân gian lại còn sắm áo mão cho Ông Táo về Trời (qua vàng mã). Dân gian bày chuyện tiếu lâm bảo Ông Táo về Trời thiếu cái quần. Thời xưa quần không quan trọng cho lắm vì cái áo rộng và quá dài che phủ tận đầu gối. Thi đậu Trạng Nguyên chỉ được Vua ban áo mão chớ không có quần.
Cho tới ngày nay, sự tích "Ông Táo về Trời" dựa trên sự tích "Ông Táo".
Sự Tích Ông Táo (theo Đạo Lão) như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao vì giận nên đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi và sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Về sau Trọng Cao hối lỗi đi tìm vợ. Trong lúc đi tìm tiền bạc xài hết nên phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi thì hai người nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích nên Thị Nhi bảo Trọng Lang ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết cháy. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trđng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là Định Phúc Táo Quân nhưng mỗi người giữ một việc:
Phạm Lang làm Thổ Công, coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần.
Đến cuối năm vào ngày 23 tháng Chạp thì Táo Quân lại lên trời chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế để tâu những công việc hằng năm của mọi gia đình mà Thần đã có bổn phận trông nom suốt năm qua.
Thi sĩ Lê Uyên Sanh có bài thơ vào đầu Thế kỷ 20:
ĐƯA ÔNG TÁO VỀ TRỜI
Hoa quả trà thô tạm ít chung
Kỉnh đưa ngài lại chốn thiên cung
Nạn dân mắt thấy hòng ra sức
Ách nước lòng thương phải gắng công
Đói rách dân đen thường có đủ
Ấm no con đỏ phải chia đồng
Cao xa đâu thấu càng khôn đặng
Thế sự đau lòng phải cậy ông.
(Lê Uyên Sanh)

HOA TẾT
Chợ Tết bán Hoa rất rộn rịp. Thiên hạ mua chậu hoa về để chưng trong sân nhà và cành hoa để chưng trong nhà hay trên bàn thờ tổ tiên.
Đua chen Thu Cúc Xuân Đào

Lựu phun lửa Hạ, Mai chào gió Đông
(Bích Câu Kỳ Ngộ)

Tết ở cuối mùa Đông và đầu mùa Xuân nên hai hoa chánh trong ngày Tết là Hoa Mai và Hoa Đào (Peach Blossoms). Hoa Mai có 2 loại. Ở Miền Nam và Miền Trung có Apricot Blossoms (Mickey Mouse Blossoms) và ở Miền Bắc có Plum Blossoms.
Những Hoa khác (Other Flowers): Cúc (Chrysanthenum), Vạn Thọ (Marigold), Mồng Gà(Cockscomb), Pensée (Pansies), Thủy Tiên (Paperwhite), Bonsai, Hường (Rose), Huệ (Tuberose), Thược Dược (Dahlia)...
NGƯỜI ĐẸP HOA XINH
Xuân kề, thục nữ dạo hàng hoa
Lưỡng sắc đua phô vẻ mặn mà
Má phấn yêu kiều bên thược dược
Môi son diễm lệ giữa mồng gà
Tay ngà nựng cánh hường mơn mởn
Mắt ngọc trông cành huệ thướt tha
Quang cảnh huy hoàng như ngự uyển
Vào ngày Thượng Đế hội Tiên Nga?
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)
MÂM NGŨ QUẢ
Ngoài những cành hoa, bàn thờ còn có chưng trái cây (quả). Theo truyền thống có chưng mâm Ngũ Quả. Năm thứ quả trên lý thuyết được chọn theo quan niệm ngũ hành của người xưa, cũng có thể chọn sao cho trình bày trông đẹp mắt hoặc lựa chọn dựa trên sự thịnh vượng và may mắn cho gia quyến.
Mâm Ngũ Quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt,bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm Ngũ Quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu Xiêm, xoài, sung, với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài". Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối (chúi nhủi), cam (cam chịu), lê (lê lết), sầu riêng (sầu riêng tư), táo hay bom (bom đạn), lựu (lựu đạn)... và không chọn trái có vị đắng, cay.

 

THỰC PHẨM NGÀY TẾT
Có những món ăn hoàn toàn đặc biệt cho ngày Tết:
Bánh: Bánh Chưng*, Bánh Giầy, Bánh Tét*...
Mứt: Mứt Gừng, Mứt Bí, Mứt Dừa, Mứt Hạt sen...
Kẹo: Kẹo Dừa*, Kẹo Đậu phọng, Kẹo Thèo lèo, Kẹo Mè Xửng*...
Hạt: Hạt Dưa*...
Trái: Mâm Ngũ Quả; Dưa hấu đỏ ruột.
Thức Uống: đủ thứ Rượu và Trà; Nước Ngọt...
Món Ăn:
(Bắc) Gà luộc, Bóng bì, Canh măng, Chân giò có nấm hương, Miến nấu lòng gà, Xôi gấc, Thịt đông, Giò lụa, Nộm, Dưa hành*
(Trung) Thịt heo quay, Cá rô chiên, Canh khổ qua, Xôi, Tré (như Giò thủ nhưng có vị củ riềng, thịt chua và lỗ tai heo).
(Nam) Thịt kho nước dừa*, Nem, Bì, Dưa giá, Tôm khô, Củ kiệu*


Nói về món ăn ngày Tết, người Bắc di cư vào Nam (1954) có 2 câu đối trong Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh.
Câu Đối ở miền Bắc:
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Câu Đối sau khi di cư vào Sài Gòn (miền Nam):
Cột (điện) cao, xe nổ, tiêu tiền xanh
Củ kiệu, tôm khô, dưa hấu đỏ


BÁNH DẦY BÁNH CHƯNG
Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyềnngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm đượcthức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Lang Liêu (ngày nay còn gọi là TiếtLiêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu ngườichỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị Thầnđến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống conngười. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất.
Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành". Lang Liêutỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượnghình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử khác đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua HùngVương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Lang Liêu con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất. Nó trở thành truyền thống của người dân Việt.


CẢNH TẾT
Ai dám chê ta tết nhất nghèo
Nghèo mà lịch sự đố ai theo
Bánh chưng chất chặt chừng ba chiếc
Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu
Ai xuân ta cũng chơi xuân với
Chung đỉnh ơn vua ngày tháng nhiều
(Nguyễn Công Trứ)


CÂY NÊU
Cu kêu ba tiếng cu kêu
Cho mau đến Tết dựng Nêu ăn chè.
(Ca dao)
Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "Bữa Trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "Lên Nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ".
Cây Nêu là 1 cây tre cao khoảng 5, 6 m. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (cho ông Táo cỡi về Trời), giải cờ bằng vải điều màu đỏ, những chiếc khánh nhỏ (va chạm nhau kêu leng keng) ... Vào buổi tối, đèn lồng được treo trên cây Nêu để tổ tiên thấy đường về nhà ăn Tết với con cháu. Từ Giao Thừa có đốt pháo treo trên cây Nêu để xua đuổi ma quỉ.
Thực ra Cây Nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo Quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi.
Khi đứng giữa sân ngày Tết nhìn Cây Nêu, một Thi sĩ có làm bài thơ đăng trong Nam Phong tạp chí:
VUI TẾT TỨC CẢNH
Ta đã vui xuân gác nỗi buồn
Mong cho được gặp Tết luôn luôn
Kìa đàn chó giáy hương thơm ngát
Mà chiếc sân vôi pháo nổ dồn
Ví chẳng cành Nêu giồng trước ngõ
Còn đâu cá khánh chói nhà thôn
Ai đi nhắn lũ văn minh giả
Cố quốc còn đây gọi chút hồn.
(Mân Châu)


CÂU ĐỐI TẾT
Câu Đối Tết đã có từ lâu đời, đến ngày nay vẫn còn thịnh hành. Trước là viết bằng chữ Nho bây giờ là bằng chữ Quốc Ngữ.
Vế đối viết trên vải hay trên giấy, dán lên tường để chưng trong nhà. Tú Xương có bài thơ theo thể Hát nói được nhiều người biết.
DÁN CÂU ĐỐI TẾT
Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài
Huống chi mình đã đỗ Tú tài
Ngày Tết đến cũng phải một hai Câu Đối
Đối rằng;
Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài
Tối thế thượng chi phong lưu giang hồ khí cốt
Viết vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay
"Rằng hay thì thực là hay
Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài
Xưa nay em vẫn chịu ngài".
(Tú Tài Trần Tế Xương)


TẤT NIÊN
Ngày Tất Niên là ngày cuối của năm cũ: 29 tháng Chạp hoặc 30 tháng Chạp (nếu là năm nhuần).
Nhà nhà đều có Lễ cúng rước Ông Bà tổ tiên về ăn Tết vào buổi chiều. Thường là có cỗ linh đình toàn gia đình với nhiều món ăn và thức uống. Đến đúng Giao Thừa thì cúng nhẹ và bắt đầu đốt Pháo ở nhà và ngoài đường (tiễn năm cũ và rước năm mới). Từ đó Pháo đốt vui Chơi trong suốt những ngày Tân Niên.
Đêm của ngày Tất Niên cho đến sáng hôm sau gọi là "đêm Trừ Tịch". Trừ là đổi, bỏ đi. Tịch là đêm hay ban đêm. Do đó Trừ Tịch có nghĩa là Đêm đổi bỏ từ năm cũ sang năm mới. Nói cho gọn thì Trừ Tịch là Đêm cuối năm.
Đứng giữa đêm 29 (hay 30) và bắt đầu ngày Mùng 1 Tết gọi là Giao Thừa hay "đêm Giao Thừa".
Theo nghĩa đen thì Giao Thừa là "cũ giao lại, mới tiếp qua". Đúng giữa đêm Trừ Tịch (12 AM), "lúc năm cũ qua, năm mới" đến gọi là Giao Thừa.
GIAO THỪA
Xuân lại đông qua thấm thoát vừa
Nửa đêm nghi ngóp dậy Giao thừa
Đổi trao một phút nhanh ra chớp
Tiếp tục hai năm giáp cắn cưa
Ngoài xóm đì đoành tràng pháo nổ
Trong nhà nghi ngút khói nhan đưa
Cùng nhau hí hửng mừng năm mới
Thử hỏi nhau rằng đã mới chưa?
(Cử Nhơn Đỗ Giang)


NGUYÊN ĐÁN


TẾT NGUYÊN ĐÁN
Giao thừa pháo rộ báo xuân sang
Không khí vui tươi cảnh nhộn nhàng
Cờ xí rỡ ràng treo khắp xứ
Áo xiêm loè loẹt dạo đầy đàng
Bông hoa liễn đối chưng nhà cửa
Trà rượu bánh dưa đãi họ hàng
Lễ bái ông bà hương bát ngát
Địa cười lân múa chúc an khang.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)
Sau ngày Tất Niên là Tân Niên (Năm Mới).
Ngày đầu của Năm Mới, ngày mùng 1 tháng Giêng Âm Lịch, có nhiều tên gọi: Ngày Tết, Ngày Mùng Một Tết, Ngày Nguyên Đán hay Tết Nguyên Đán.
Ngày đầu tháng Giêng Âm Lịch được dùng làm ngày Tết từ Hán Vũ Đế (140 tr CN). Theo lịch xưa, tháng Giêng là tháng Dần.
Nguyên là bắt đầu; Đán là buổi sớm. Nguyên Đán thường có nghĩa là Nguyên Nhật, ngày đầu (của Năm). Ngày cuối Năm gọi là Chí Nhật và ngày đầu Năm là Nguyên Nhật.
Ba ngày đầu Năm (mùng 1, 2 và 3) là 3 ngày Tết với Lễ Tết và Ăn Chơi Tết.


CHÚC TẾT


Chúc Tết là việc đầu tiên và căn bản của Lễ Tết. Khi gặp nhau, mọi người đều chúc Tết lẫn nhau. Những câu Chúc Tết thông thường: "Sống lâu trăm tuổi", "An khang thịnh vượng", "Vạn sự như ý", "Sức khoẻ dồi dào", "Tiền vô như nước".
"Mừng Tuổi" tức là Chúc Tết người lớn hơn mình về tuổi tác hay chức vị hoặc vai lớn hơn trong quyến thuộc (ông bà, cha mẹ, họ hàng). Sau đó Người được Mừng Tuổi chúc lại và "Lì Xì" cho mình. Thông thường là Trẻ em mừng tuổi người trưởng thành và được Lì xì.


CHÚC TẾT
Xuân về Tết đến chúc nhiều nhiều
May được bao nhiêu đỡ bấy nhiêu
Phước Lộc Thọ trường, đời cực lạc
An khang thịnh vượng, sống tiêu diêu
Tuổi già bệnh tật không sanh chuyện
Đất nước toàn dân tốt đủ điều
Tri túc lễ nghi tròn lễ nghĩa
Tỏ lòng quí trọng mến thương nhiều.
(Phan Thượng Hải)
Lì Xì là một tên gọi của tục lệ mừng tuổi trẻ em trong dịp Tết Nguyên đán ở các nước Á Đông và Việt Nam, đó là lệ đặt tiền vào chiếc phong bì nhỏ có trang trí màu vàng son rực rỡ để mừng tuổi trẻ em. Trong phương ngữ miền Nam của tiếng Việt, tiền ấy được gọi là tiền Lì-Xì.
Theo Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, Lì Xì là từ chữ Tàu 利市 viết theo Pinyin là Lì Shì và đọc theo tiếng Quan Thoại là Lì Sì còn đọc theo theo tiếng Hán là Lợi Thị.
Lợi là Ích lợi hay Tiện lợi hoặc là Tiền lời. Thị là Chợ. Lợi Thị có nghĩa đen là Chợ có ích lợi, tiện lợi và có lời.
Tuy nhiên Nghiêm Toản lại cắt nghĩa Lì Xì (Lì Shì) có ba nghĩa "bóng" như sau (không giống nghĩa đen của nó):
- Số lời có được do mua bán mà ra.
- Tốt lành có lợi: Khi người phụ nữ lấy chồng về đến cửa, mọi người đi theo cũng như người nhà đều xin Lợi-thị (hoặc đồ vật, hoặc là tiền)
- Vận tốt, vận may: Sách "Bắc-mộng-tỏa-ngôn" rằng: "Khi Hạ-hầu Tư chưa gặp thời, còn luân lạc linh đinh, người ta gọi Tư là viên Tú-tài chẳng Lợi-Thị"
Do đó trong cả ba trường hợp, "Lợi-thị" hay "Lì-Xì", đều có nghĩa là được lợi, được tiền, được may mắn. Tác giả Hạo-nhiên khẳng định rằng tiền Lì-Xì, mừng tuổi, chính là thứ tiền đem lại cái hên, điều lành, điều tốt, cho trẻ em dịp đầu xuân.
Cũng có giả thuyết rằng chữ Lì-Xì đọc theo âm Quảng Đông được chấp nhận rộng rãi: Ở Trung Quốc có Phong Tục tặng phong bao bằng giấy đỏ trong đựng tiền (=Hồng Bao 紅包). Phong Tục nầy tiếng Quảng gọi là Lì Xì viết làm 3 cách với 3 nghĩa:
(1) 利事 (đọc theo tiếng Hán là Lợi Sự): Lợi là ích lợi, tiện lợi hay có lời. Sự là sự việc.
Lợi Thị có nghĩa là: sự việc ích lợi, tiện lợi và có lời.
(2) 利是 (đọc theo tiếng Hán là Lợi Thị): Lợi là ích lợi, tiện lợi hay có lời. Thị 是 có nghĩa là ấy là, như thế, phải (đúng). Lợi Thị có nghĩa là: đúng là hay ấy là ích lợi, tiện lợi và có lời (như thế). (Phải=đúng; phản nghĩa với Trái=sai).
(3) 利市 (đọc theo tiếng Hán là Lợi Thị): Lợi là ích lợi, tiện lợi hay có lời. Thị 市 là Chợ. Giống như nghĩa đen trong chữ "Lì Shì" của Ông Nghiêm Toản, Lợi Thị là Chợ ích lợi, tiện lợi và có lời.
Nghĩa thứ (1) và (2) thấy đúng với Lì Xì trong ngày Tết hơn cái Nghĩa thứ (3).
Tuy nhiên, ở Trung Quốc, Phong tục Lì Xì không chỉ có trong Tết Nguyên Đán mà còn trong nhiều dịp khác, cũng không chỉ dành cho trẻ em! (Muốn đút lót ai thì có Lì Xì!).


VIẾNG TẾT


Trong 3 ngày Tết mọi người thăm viếng lẫn nhau để Chúc Tết hay ăn chơi với nhau. Khi đithăm viếng thì có phong tục Xuất hành và Xông nhà hay xông đất.
Xuất hành là lần đầu tiên ra khỏi nhà trong ngày Tết để đi đâu thì phải chọn một hướng tương hợp tương sinh với mình với con giáp của năm để xuất hành cầu tài đón lộc. Ngoài việc chọn đúng hướng còn phải chọn đúng giờ để gặp sự may mắn và tránh việc rủi trong năm mới.
Người ta nhờ người hợp tuổi, hợp mệnh đến xông nhà, cầu mong sang năm lấy được vía tốt của người xông nhà hay còn gọi là Xông Đất. Người đến Xông nhà hay Xông đất là người đầu tiên đến Nhà hay Đất đó trong 3 ngày Tết. Có khi sau khi đi chùa hay thăm người khác, chủ nhà chọn giờ tốt hay hướng tốt trở về tự xông nhà hay xông đất của mình.
Tục lệ nầy được nhà văn Thạch Lam tả trong 2 câu đối:
Tối Ba Mươi, đuổi chú Nghèo đi, chú bất Nghĩa chú tìm đường chú cút
Sáng Mùng Một, mời ông Giàu lại, ông có Nhân ông mở cửa ông vào
(Thạch Lam)


LỄ CHÙA


Ngày nay cũng có đi Lễ Nhà Thờ nhưng Lễ Chùa đã có từ lâu. Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Vào ngày đầu năm, tại chốn linh thiêng, người ta tin rằng điều cầu khấn của mình có nhiều khả năng thành hiện thực.
Do đó Chùa và Nhà Thờ tấp nập trong ngày Tết.
NHÀ SƯ KHAI BÚT
Gió Xuân phe phẩy áo cà sa
Bát ngát hương nhan bệ Thích Ca
Lộc Phật tay nâng vài phẩm oản
Vẻ xuân mắt liếc một cành hoa
Chuông dồi mõ dục vui sư vãi
Pháo đốt nêu trừ cấm quỷ ma
Tín nữ có ngoan làm lễ Tết
Nhà chùa làm phúc khắp tư gia.
(Nguyễn Văn Chúc) Nam Phong tạp chí
Không ai biết chắc chắn phong tục Xin Xăm này có từ bao giờ và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc.
Xin Xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miễn Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam. Người xin thẻ dâng một lễ mọn rồi chọn lấy một quẻ thẻ bằng tre viết chữ Hán. Trên quẻ thẻ thường ghi một câu văn ngắn gọn rút từ điển tích Trung Hoa cổ. Căn cứ câu văn ấy, người xin thẻ có thể luận ra "tiền định" cuộc đời mình trong năm đó. Nếu không thông thạo Hán Văn, có thể thuê thầy đồ luận giải giúp. Ngày nay, người ta thường bỏ thẻ tre và thay vào đó bằng những tờ bướm in chữ quốc ngữ với lời giải được soạn sẵn.
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục Hái Lộc (còn gọi là Thỉnh Lộc).
Lộc là chồi cây non vừa nhú ra, tượng trưng cho sức sống dồi dào trong những ngày sắp tới, nhưng cũng đồng âm với lộc theo nghĩa tài lộc bỗng dưng đưa đến. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ.
Ngày nay đền chùa không có đủ lộc non cho hàng trăm nghìn người đến hái, nên đặt mua lộc (thường là chồi cây phát tài) đặt sẵn trên bàn ở sân hay cổng đền chùa. Khách đến thỉnh về và cứ tùy hỉ cúng chút ít tiền.


ĂN TẾT VÀ CHƠI TẾT
Ăn Tết là ăn uống vui vẻ và thịnh soạn tại gia hay tại cao lâu tửu quán trong 3 ngày Tân Niên.
Thường là nhiều người tụ họp ân uống.
(Câu Đối)
Bốn nghìn lần: Xuân Hạ Thu Đông, vạn vật lanh quanh vòng lẩn quẩn
Ba ngày Tết: Xôi Chè Rượu Thịt, tứ dân hì hục chén no nê


Chơi Tết gồm có: Cờ Bạc, Múa Lân, Đốt Pháo, Đá Gà, Văn Nghệ (Hát Cải Lương, Hát Bội, Hát Bóng...).
Trong khi Múa Lân có Ông Địa, đốt Pháo và múa Võ. Theo thông lệ, Lân tới múa trước cửa nhà hay cửa tiệm để trừ tà và đem phúc đức cho năm mới.


MÚA LÂN
Phất cờ, ông Địa trước, lân sau
Chiêng trống múa men bụi lấp đầu
Khi trợn khi phùng khi mọp sát
Lúc vùng lúc vẫy lúc lên cao
Ma tà trừ hộ, trừ chưa hử?
Hạnh phúc chúc cho, chúc được nào?
Nhờ pháo trợ oai nghe lốp bốp
Thích xem, đàn trẻ lấn chen nhau.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)


Pháo Tết bắt đầu đốt từ ngay Giao Thừa. Đặc biệt, nước Việt Nam chỉ có đốt Pháo trong ngàyTết. Trong Văn học sử có 2 bài thơ tiêu biểu về Pháo:
CÂY PHÁO
Xác không vốn những cậy tay người
Khôn khéo làm sao buộc chẳng rời
Kêu lắm lại càng tan tác lắm
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.
(Nguyễn Hữu Chỉnh)
CÂY PHÁO
Giấy xanh giấy trắng ở tay người
Bao nả công trình tạch cái thôi
Cao lắm lại càng xơ xác lắm
Cũng mang một tiếng ở trên đời.
(Nguyễn Khuyến)
Pháo Tết thường bị cấm vào thời chiến. Sau chiến tranh kháng Pháp và có hiệp định Genève (1954) thì Tết đầu năm 1955 được cho đốt pháo. Thi hứng từ Pháo Tết làm thành thơ:
PHÁO XUÂN ẤT MÙI (1955)
Trót chín xuân rồi vắng tiếng ai
Nay về lốp bốp nổ rền tai
Mùi xưa khét khét còn hăng hái
Sắc cũ hồng hồng vẫn đắm say
Làng mạc ít tiền thì chấm chút
Thị thành lắm bạc mới dằng dai
Lối chơi dẫu kém phần tao nhã
Triệu chứng dân mừng khỏi nạn tai.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)
Gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, tứ sắc, cờ tướng, cờ gánh, cờ nhảy, chắn, tổ tôm, lắc bầu cua,... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm...hoặc đốt các bộ bài trong lễ Tết.
Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay thời VNCH có câu kết về Ăn Chơi ngày Tết:
"Ăn Chơi Tết thì có Ăn Tiêu và Ăn Thua rồi Ăn Năn. Tuy nhiên có Kiêng: Ăn Chịu và Ăn Nằm".


VỀ QUÊ ĂN TẾT
Người Việt theo phong tục phải "về quê ăn Tết", dù đi làm xa cũng phải cố gắng về quê. Thân phụ của tôi làm việc ở Cần Thơ nhưng ngày Tết thường ráng đem vợ con về quê là Cao Lãnh.
Thường là ngày mùng 2 hay mùng 3, ông bao một chiếc xe chở cả gia đình về Cao Lãnh, sáng đi chiều về hay ngủ qua 1 đêm.
Đây là bài thơ cảm tác:
XUÂN NHỰT HỒI HƯƠNG
Xa cách mặc dù dám lảng xao
Tết về hội họp chỗ chôn nhau
Viếng mồ cha mẹ, tình thông cảm...
Gõ cửa bà con, nghĩa đổi trao...
Chơn giẵm quê xưa, vui biết mấy
Mặt mừng người cũ, thích làm sao!
Trong bầu không khí đầy thân mật
Chim Việt cành Nam đỡ khát khao. (*)
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)
(*) Hồ mã tê Bắc phong.
Việt điểu sào Nam chi.


Nếu không về quê ăn Tết được thì buồn. Những bài thơ cũ của Ba tôi vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa cũng mang tâm trạng giống như chúng ta tha hương lúc bây giờ.
TÂN XUÂN CẢM CỰU
Nhớ Tết năm nào ở xứ ta
Nhớ mừng cha mẹ, cúng ông bà
Nhớ lân giỡn pháo vui làng mạc
Nhớ liễn thăm nêu đẹp cửa nhà
Nhớ bỡn cô đò mang áo xuyến
Nhớ chào lão quán bịt khăn là
Nhớ bao bạn hữu bao chè chén
Nhớ mãi thời xuân tiếc tuổi già.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)


XUÂN NHỰT LỮ HOÀI
Sinh hoạt tha hương dẫu sự thường
Tết nầy xem tựa vắng mùi hương
Đò xưa cách mặt chưa quên lối
Bến mới lê chân vẫn lạ đường
Hơi rượu cúng cha nồng nỗi nhớ
Giọng thơ chúc mẹ nực niềm thương
Xuân về, lãnh đạm cùng xuân sắc
Đưa mắt xa trông, vạn dặm trường.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)
XUÂN DẠ LỮ HOÀI
Mấy độ xuân về vọng cố hương
Tưởng tơ, tơ tưởng, ngẩn ngơ dường
Đình thần miễu thánh hằng mơ mộng
Vong mẹ hồn cha mãi vấn vương
Chợ búa, mùi hương gây nỗi nhớ
Đồng quê, tiếng pháo gợi niềm thương
Người xưa cảnh cũ chừ đâu tá?
Đất khách năm canh luống đoạn trường.
(Lãng Ba Phan Văn Bộ)


Người Việt tha hương ở Mỹ cũng có tỏ nỗi lòng qua những vần thơ:
CHIỀU BA MƯƠI TẾT
Chiều ba mươi Tết cúng ông bà
Lặng lẽ ngôi nhà quạnh quẽ xa
Dưa giá thịt kho và bánh mứt
Nhang đèn bức ảnh với bình hoa
Tha hương xa vắng bao phong tục
Viễn xứ xa vời một quốc gia
Ngày Tết năm xưa thành kỷ niệm
Tân xuân cảm cựu tuổi thêm già.
(Phan Thượng Hải)


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền
Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Học Thức và Đời
Sốn

MÙA XUÂN TRONG TÂN NHẠC MIỀN NAM

 

                                  Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


 

A. Cảnh Tình Mùa Xuân

 

(1)

- Nhạc phẩm Xuân đầu tiên luôn được nhắc đến là Bến Xuân, nhạc và lời của Văn Cao.  Phạm Duy dùng nhạc của bản nhạc này mà đặt lời thành ra nhạc phẩm Bến Xuân thứ nhì.  Văn Cao lại đặt lời mới cho nhạc phẩm Bến Xuân thứ ba và đổi tựa đề mới là Đàn Chim Việt.

 

Bến Xuân 1 - Điệu Slow.

Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước.  Em đến tôi một lần.  Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân

(Văn Cao)

 

Bến Xuân 2 - Điệu Slow.

Nhà tôi nay vẫn còn ngơ ngác.  Em vắng tôi một chiều

(Nhạc: Văn Cao - Lời: Phạm Duy) 

 

Bến Xuân 3 / Đàn Chim Việt - Điệu Slow.

Về đây khi gió mùa thơm ngát.  Ôi lũ chim giang hồ.  Bao cánh đang cùng dật dờ trên khắp cố đô

(Văn Cao) 


 

- Nhạc Tiền chiến còn có những nhạc phẩm âm hưởng của Bến Xuân và của Văn Cao.

 

Bến Xuân Xanh - Điệu Valse - 1949.

Ngày xuân êm ấm.  Nắng xuân tưng bừng, hoa tô màu thắm, bướm bay quyến luyến

(Dương Thiệu Tước) 

 

Tiếng Sáo Thiên Thai - Điệu Tango Habanera; Điệu Rumba.

Xuân tươi.  Êm êm ánh xuân nồng.  Nâng niu sáo bên rừng

(Thơ: Thế Lữ - Nhạc: Văn Cao)

 

Đây là những nhạc phẩm tiền chiến có tiếng rất được thính giả của Tân Nhạc Miền Nam mến chuộng.


 

(2)

- Tân Nhạc Miền Nam đón chào Mùa Xuân đến hay trở về qua những nhạc phẩm phổ thông mô tả cảnh tình của Mùa Xuân. 

 

Xuân Đã Về - Điệu Ballade.

Xuân đã về, xuân đã về.  Kìa bao ánh xuân vàng tràn lan mênh mông

(Minh Kỳ) 

 

Đón Xuân - Điệu Fox Moderato; Điệu Pop.

Xuân đã đến rồi reo rắc ngàn hồn hoa xuống đời.  Vui trong bình minh

(Phạm Đình Chương) 

 

Mừng Nắng Xuân Về - Điệu Chachacha.

Nắng xuân về trên muôn hoa.  Nắng xuân về tươi thắm mọi nhà

(Thơ: Thanh Sơn - Nhạc: Huỳnh Anh) 

 

Gió Mùa Xuân Tới - Điệu Chachacha.

Gió mùa xuân tới, cánh hồng tươi thắm trong nắng vàng.  Muôn bướm tung bay mang sắc tươi phô cùng trời sáng

(Hoàng Trọng) 


Những Ngày Xưa Thân Ái - Điệu Bolero.

Những ngày xưa thân ái Anh gửi lại cho ai.  Gió mùa xuân êm đưa.  Mang hàng cau lưa thưa

(Phạm Thế Mỹ) 


- Hoa Xuân được nhấn mạnh trong Cảnh Tình của Mùa Xuân.

 

Hoa Xuân - Điệu Slow Rock - 1953.

Xuân vừa về trên bãi cỏ non.  Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn

(Phạm Duy) 

 

Trong các loại Hoa, Hoa Đào là Hoa của Mùa Xuân như câu "Đua chen Thu Cúc Xuân Đào" của Bích Câu Kỳ Ngộ.

 

Ai Lên Xứ Hoa Đào - Điệu Bolero.

Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi.  Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi.

(Hoàng Nguyên)

 

Bài Thơ Hoa Đào - Điệu Bolero.

Ngày nào dừng chân phiêu lãng.  Khách tới đây khi hoa đào vươn lối đi.

(Hoàng Nguyên)

 

Mùa Hoa Anh Đào - Điệu Rumba.

Mùa xuân sang có hoa anh đào.  Màu hoa tôi trót yêu từ lâu

(Thanh Sơn)


 

(3)

Nhạc cho Mùa Xuân luôn được các nhạc sĩ nhấn mạnh trong tựa đề của nhạc phẩm của mình.  Những nhạc phẩm này thường có những Điệu lạ.  

 

- Từ năm 1937, nhạc sĩ Lê Yên đã có điệu Paso Doble cho nhạc phẩm Xuân Hành Khúc.

 

Xuân Nghệ Sĩ Hành Khúc - Điệu Paso Doble - 1937.

Xuân tươi xuân vui xuân đẹp trong ý thơ đẹp trong tiếng ca

(Lê Yên) 


- Ba nhạc phẩm dưới đây có dùng những điệu nhạc lạ trong nền Tân Nhạc Miền Nam.

 

Nhạc Khúc Mừng Xuân - Điệu Samba.

Đàn chim tung bay trong cánh dưới ánh nắng hồng mừng xuân mới.  Ngàn hoa tươi khoe chim hót ríu rít trên cành chào xuân tới

(Phạm Mạnh Cương) 

 

Điệp Khúc Mùa Xuân - Điệu Rap.

Nắng lung linh hoa vàng.  Chờ tia nắng về trong ánh mùa sang

(Quốc Dũng)


Xuân Ca - Điệu Pop.

Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui.  Một đêm một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về

(Phạm Duy) 


- Có 2 nhạc phẩm với cùng một tựa đề Khúc Nhạc Ngày Xuân nhưng có 2 lịch sử khác nhau.  Khúc Nhạc Ngày Xuân của Nhật Bằng luôn được ưa chuộng và phổ thông cho đến ngày nay.  Tuy nhiên nhạc phẩm Khúc Nhạc Ngày Xuân của Văn Xứng đã chìm trong quên lãng và cho đến ngày nay thì không còn ai biết tác giả Văn Xứng là ai.

 

Khúc Nhạc Ngày Xuân - Điệu Valse.

Ngày trôi theo tháng giá mùa đông.  Vàng phai theo lá úa ngoài song.  Kìa chim oanh đã tới đầu sân

(Văn Xứng)

 

Khúc Nhạc Ngày Xuân - Điệu Slow-Fox - 1955.

Ngàn hoa thắm tươi hé môi mừng chào đón xuân.  Bày chim tung cánh bay trên muôn cành cùng hát vang

(Nhật Bằng) 


 

- Có nhạc phẩm chú trọng về Âm Nhạc nhiều hơn là Mùa Xuân trong nội dung.

 

Tiếng Dương Cầm - Điệu Andante Espressivo; Điệu Slow Ballade.

Nhớ hôm nào mùa xuân mới sang.  Muôn bầy chim ca hót vang

(Văn Phụng)


 

(4)

Cảm giác vui mừng hòa với Mùa Xuân cũng được nhấn mạnh trong nhiều nhạc phẩm khác.

 

Tâm Sự Ngày Xuân - Điệu Bolero - 1966.

Trong thế gian đang vui mừng đón xuân.  Chắc nàng xuân năm nay đẹp bội phần

(Hoài An)

 

Hạnh Phúc Đầu Xuân - Điệu Rumba Bolero.

Thấm thoát là đây một mùa xuân mới với ngàn cánh mai vàng.  Nụ cười trên môi

(Lê Dinh và Minh Kỳ)

 

Nụ Cười Sơn Cước - Điệu Valse.

Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi.  Mây mờ buông xuống núi đồi

(Tô Hải / Hoàng Phú) 

 

Vó Câu Muôn Dặm (+ lời: Văn Khôi) - Điệu Fox Trot (Country).

Một đoàn trai đi khi xuân tới.  Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi

(Văn Phụng)


 

(5)

Từ Mùa Xuân có thanh xuân và sự trẻ đẹp qua những nhạc phẩm:

 

Khúc Hát Thanh Xuân (nhạc ngoại quốc: When we were young, Johan Strauss) - Điệu Tempo di Valse - 1946 Hà Nội.

Ngày ấy khi xuân ra đời.  Một trời bình minh có lũ chim vui

(Phạm Duy) 

 

Xuân Và Tuổi Trẻ - Điệu Valse Moderato; Điệu Valse.

Ngày thắm tươi bên đời xuân mới.  Lòng đắm say bao nguồn vui sống

(Lời Việt: Thế Lữ - Lời Trung Hoa: Diệp Truyền Hoa - Nhạc: La Hối)

 

Gái Xuân - Điệu Habanera; Điệu Rumba.

Em như cô gái hãy còn xuân.  Trong trắng thân chưa lắm bụi trần

(Thơ: Nguyễn Bính - Nhạc: Từ Vũ) 


 

B. Tình Yêu trong Mùa Xuân

 

(1)

Tình yêu trong Mùa Xuân là một Tựa đề không thể thiếu và rất được ưa chuộng.

 

Tình Khúc Mùa Xuân - Điệu "dìu dặt"; Điệu Slow Rock.

Tình yêu đó cho em.  Tháng năm trên từng phím xuân lay.  Đôi môi xinh giòng tóc mây bay

(Ngô Thụy Miên và Huy Linh) 


Nhớ Một Chiều Xuân - Điệu Slow Tango - 1962 - Lệ Thanh hát đầu tiên.

Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người.  Chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ

(Nguyễn Văn Đông)

 

Đón Xuân Nầy Nhớ Xuân Xưa - Điệu Habanera - 1967.

Đón xuân nầy tôi nhớ xuân xưa.  Một chiều xuân em đã hẹn hò

(Châu Kỳ và Anh Châu) 

 

Nhớ Nhau Hoài - Điệu Ballade - 1957.

Em ở nơi nào, có còn mùa xuân không Em?  Rừng ngàn lá gió, từng đêm nhắc nhở thì thầm

(Anh Việt Thu và Thiên Hà) 

 

Người Về Bỗng Nhớ

Mùa xuân yêu em đồi núi thênh thang.  Hồ nước long lanh ngàn cánh vàng

(Trịnh Công Sơn)


Mộng Chiều Xuân - Điệu Tango - 1970.

Gió chiều thầm vương bao nhớ nhung.  Người yêu thoáng qua trong giấc mộng

(Ngọc Bích) 

 

Mộng Ban Đầu - Điệu Tango.

Quê Em miền thùy dương.  Lúa ngọt ngào hoa mới.  Gió mang mùa xuân tới

(Lời: Hồ Đình Phương - Nhạc: Hoàng Trọng)


Cô Láng Giềng - Điệu Rumba.

Hôm nay trời xuân bao tươi thắm.  Dừng bước phiêu lưu về thăm nhà

(Hoàng Quý)

 

Cô Lái Đò 

Xuân đã mang mong nhớ trở về.  Lòng cô lái ở bến sông kia

(Thơ: Nguyễn Bính - Nhạc: Nguyễn Đình Phúc)


 

(2)

Nhạc sĩ đi ngay vào "thực tế" của Tình Yêu qua các tựa đề của những nhạc phẩm.

 

Anh Cho Em Mùa Xuân - Điệu Tango Habanera - 1972.

Anh cho Em mùa xuân.  Nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ

(Nhạc: Nguyễn Hiền - Thơ: Kim Tuấn) 

 

Nếu Xuân Này Vắng Anh - Điệu Habanera; Boléro Raval - 1967 - Trúc Ly hát đầu tiên.

Xuân đã về anh có hay? Hoa bướm vui mùa sum vầy.  Nơi phương trời anh có nhớ.  Một người luôn nhắc tên anh

(Bảo Thu) 

 

Mùa Xuân Gửi Em - Điệu Bolero - 1965.

Nghe gió xuân hay rằng xuân đã về.  Gói tâm tình vào trong bao ý thơ

(Lê Dinh và Minh Kỳ) 

 

Em Có Bao Giờ Còn Nhớ Mùa Xuân - Điệu Slow Rock.

Em có bao giờ còn nhớ mùa xuân.  Nhớ tháng năm xưa của tuổi đợi chờ

(Ngô Thụy Miên)


Mùa Xuân Đầu Tiên - Điệu Bolero - 1966.

Bao nhiêu thương nhớ gom thật đầy, Anh trở về thăm Em.  Bao lần ngồi thâu đêm nghe mùa xuân vừa đến

(Tuấn Khanh) 


 

C. Mùa Xuân trong Thời Chiến 

 

- Trong thời Kháng chiến chống Pháp đã có đề tài này trong âm nhạc.

 

Chàng Đi Theo Nước - Điệu Tempo di Valse - 1954.

Chiều xuân ấy chàng bước chân đi.  Theo hồn nước duyên tình nhớ chi

(Hiếu Nghĩa)


- Từ bắt đầu thập niên 1960, Miền Nam lại lâm vào tình trạng chiến tranh.  Mùa Xuân trong chiến tranh bắt đầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến đề tài của nhạc sĩ.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là người đầu tiên sáng tác cho đề tài này vào đầu thập niên 1960.

 

Phiên Gác Đêm Xuân - Điệu Tango Habanera.

Đón Giao Thừa một phiên gác đêm.  Chào xuân đến súng xa vang rền

(Nguyễn Văn Đông)


 

- Tiếp theo là nhạc sĩ Trần Thiện Thanh với 3 nhạc phẩm vào những thập niên 1960 và 1970.

 

Đồn Vắng Chiều Xuân - Điệu Biguine Rock; Điệu Chachacha - 1964.

Đầu xuân năm đó anh ra đi.  Mùa xuân nầy đến anh chưa về

(Trần Thiện Thanh)

 

Phút Giao Mùa - Điệu Bolero - 1968.

Lại một mùa xuân nữa đến trong khói lửa chiến tranh.  Mùa xuân vẫn xanh như cuộc tình em với anh

(Anh Chương Thanh Trân = Trần Thiện Thanh)

 

Đám Cưới Đầu Xuân - Điệu Bolero; Điệu Chachacha - 1972.

Ngày xửa ngày xưa đôi ta chung nón đôi ta chung đường.  Lên sáu lên năm đôi ta cùng sách đôi ta cùng trường


 

- Hai nhạc sĩ Trần Trịnh và Nhật Ngân, ký chung bút hiệu là Trịnh Lâm Ngân, cũng có 3 nhạc phẩm trong cùng thời gian với Trần Thiện Thanh.

 

Mùa Xuân Của Mẹ - Điệu Ballade - 1969.

Mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi.  Giờ đây đời con đang còn lênh đênh

(Trịnh Lâm Ngân)

 

Xuân Này Con Không Về - Điệu Tango Habanera - 1969.

Con biết bây giờ mẹ chờ tin con.  Khi thấy mai đào nở vàng trên nương

(Trịnh Lâm Ngân) 

 

Thư Xuân Trên Rừng Cao - Điệu Ballade - 1971.

Mời anh mời chị mùa xuân lên đây thăm tôi.  Nơi xa xôi khuất nẻo thưa người

(Trịnh Lâm Ngân)


 

- Chiến tranh được nhấn mạnh trong nhạc phẩm.

 

Lời Đầu Năm Cho Con - Điệu Habanera - 1970 - Phương Đại hát đầu tiên.

Lời đầu năm ba viết cho con.  Chuyện quê hương khói lửa rã mòn

(Nguyên Thảo) 

 

Đầu Xuân Lính Chúc - Điệu Beguine Rock - 1967 - Trung Chỉnh hát đầu tiên.

Ngày đầu xuân chúc non nước thanh bình.  Ngày mồng hai chúc cho lứa đôi mình

(Hoài Linh và Tấn An)


 

D. Lễ Xuân

 

Lễ Xuân trong dịp Tết cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ của Miền Nam.

 

Câu Chuyện Đầu Năm - Điệu Tango Habanera.

Trên đường đi lễ xuân đầu năm.  Qua một năm ruột rối tơ tằm

(Hoài An)


Cánh Thiệp Đầu Xuân - Điệu Bolero.

Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng.  Xuân đến rồi đây nào ai biết không

(Lê Dinh và Minh Kỳ)

 

 Ly Rượu Mừng - Điệu Valse.

Ngày xuân nâng chén.  Ta chúc nơi nơi.  Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi

(Phạm Đình Chương) 


Đầu Xuân Lính Chúc - Điệu Beguine Rock - 1967 - Trung Chỉnh hát đầu tiên.

Ngày đầu xuân chúc non nước thanh bình.  Ngày mồng hai chúc cho lứa đôi mình

(Hoài Linh và Tấn An)



E. Một nhạc phẩm của Đoàn Chuẩn?

 

Đây là nhạc phẩm về Mùa Xuân gây nhiều tranh cãi lúc gần đây vì có 2 Lời cho nhạc phẩm:

- Lời thường được hát ở hải ngoại như là "nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn" nhưng thật ra thì không phải của Đoàn Chuẩn.

-  Lời thường được hát ở trong nước và chính thực là của Đoàn Chuẩn, sáng tác vào năm 1956, sau khi Hiệp định Genève 1954 chia hai đất nước.

 

Gửi Người Em Gái Miền Nam (Gửi Người Em Gái) - Điệu Slow

Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng.  Rừng đào phong kín khép mong manh đóa hoa lòng

(Đoàn Chuẩn)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài liệu tham khảo: 

Tân Nhạc Miền Nam (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com 

_______________________________

 

 

TRẦN BÁ LỘC VÀ DỊ NHƠN 

 

     Bs Phan Thượng Hải biên soạn

Kháng chiến Nam Kỳ bị thất bại vì có những "Việt Gian" tay sai giúp Pháp như Lãnh binh Huỳnh Công Tấn, Tổng đốc Đỗ Hữu Phương (Tổng Đốc Phương) và nhứt là Trần Bá Lộc (1845-1887).  

Trần Bá Lộc truy đuổi ông Thiên Hộ Dương phải chạy khỏi Đồng Tháp Mười và rồi ông bị hải tặc giết chết (1866); bắt sống ông Nguyễn Trung Trực ở Phú Quốc (1868); và bắt sống ông Thủ Khoa Quân ở Chợ Gạo, Mỹ Tho (1875).  

Về sau Trần Bá Lộc còn ra Trung Kỳ bắt ông Lê Thành Phương ở Phú Yên rồi hợp sức với Nguyễn Thân bắt ông Mai Xuân Thưởng và ông Bùi Điền ở Quảng Nam.  

Tất cả những vị anh hùng kháng Pháp nầy đều bị Pháp hành hình.

 

Trần Bá Lộc sinh ở Cù Lao Giêng, An Giang.  Cha là Tú Tài Trần Bá Phước theo đạo Thiên Chúa nên bị bắt an trí ở Bình Thuận.  

Emanuel Trần Bá Lộc cũng theo đạo, tình nguyện làm Cai “Lính Mã Tà” cho Pháp rồi được phong làm Tri Huyện Kiến Phong (nay là Cái Bè, Mỹ Tho).  Nhờ đó Trần Bá Lộc dùng quyền lực mua đất trở thành điền chủ giàu nhứt ở tỉnh Mỹ Tho.  

Sau khi phong trào kháng Pháp được dẹp yên, Trần Bá Lộc về ở Cái Bè mang danh “Hàm Tổng Đốc”, bạn của Toàn Quyền Paul Doumer, có lập một dinh thự rất lớn rồi khi bệnh chết thì ra lệnh “chôn đứng”.  Mồ của Trần Bá Lộc nay ở đất thánh sau nhà thờ Cái Bè.  Trần Bá Lộc có cho đào 1 con kinh dài 47 km rộng 10 m.

 

Trần Bá Phước sinh ra Trần Bá Lộc; Trần Bá Lộc sinh ra Trần Bá Thọ.  Trần Bá Thọ cũng làm nhiều điều “bất hảo” nên họ Trần mất hết tước vị và tài sản.  Về sau dân chúng ghét nên đốt dinh của Trần Bá Lộc.  Một thi sĩ ở Nam Kỳ là Dị Nhơn có bài thơ:

 

ĐỐT DINH TRẦN BÁ LỘC  

Dám đem xương máu của đồng bào

Mà cất cái dinh thiệt lớn lao

Khói tỏa cung A rằng chuyện cũ (*)

Lửa thiêu dinh Bá khác đâu nào? (*)

“Phỉ da” quân đối “sơn hà cổ”

“Báo oán” dân đồng “nhựt nguyệt cao”

Nước sạch Cái Bè trong léo lẻo

Làm gương cho sách để về sau.

(Dị Nhơn)

 

(*) Chú thích:

Cung A Phòng của Tần Thủy Hoàng bị Sở Bá Vương Hạng Võ đốt.

Dinh Bá là dinh Trần Bá Lộc

 

Nếu ở ngoài Bắc có Hồ Xuân Hương với thơ chữ Hán Nôm thì ở trong Nam 100 năm sau có Dị Nhơn với thơ chữ Quốc Ngữ cùng một điệu “Thanh và Tục”.  Hai người đều có tông tích bí mật.  Tuy nhiên hình như Dị Nhơn cũng là đàn bà.

 

VỊNH QUAN HOẠN

Chú min ơi hỡi chú min ơi

Tăn hẳn sự nầy thế thế thôi

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất?

Nâng túi càn khôn trả nợ đời.

(Hồ Xuân Hương)

 

DƯƠNG VẬT

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn

Ban đêm không mắt sáng hơn đèn

Đầu đội nón da loe chóp đỏ

Lưng đeo bị đạn rủ thao đen.

(Hồ Xuân Hương)

 

DƯƠNG VẬT

Ngóc đầu từng bước chốn cung son

Căm giận chuyện đời tiếng gọi “con”

Vương bá cậy tài nên vóc vạc

Quan dân nhờ sức đặng vuông tròn

Xông đồn lắm lúc đầu nào mẻ

Đột lũy ghe phen giáo chẳng mòn

Ở khách má đào ai cũng thế

Vẹn gìn chớ để thẹn sông non.

(Dị Nhơn)

 

ÂM VẬT

Tượng mắng người đồn gẫm quá thô

Đố ai cho khỏi đút đầu vô

Trong vòng khép lại nhiều vương tướng

Ngoài ngõ chung ra hiếm cống đồ

Ai dẫu có tình dành dựa thế

Người mà không lễ dễ gần mô

Giúp đời có thủa tuôn mây (mưa) móc

Cây cỏ nhờ hơi nắng chửa khô.

(Dị Nhơn)

 

CỤC CỨT

Đương khi chộn nhộn ló đầu ra

Thiên địa ai ai cũng gớm va

Ỷ thế dọc ngang nằm dích đốc

Rồi đây gặp lúc chó liền tha.

(Dị Nhơn)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền 

 

Bài này là 1 đoạn trích từ bài "Thơ và Sử Việt - Thời Kỳ Pháp Thuộc (Thế Kỷ 19)" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com mục Lịch Sử Và Thơ Văn phần Thời Pháp Thuộc.

 

 

PTH_Mainui.JPG

       THƠ XUÂN TẾT             
 

XUÂN Ý

 

Năm nay tớ được bảy mươi ba

Từng sống đã lâu tự thấy già

Khi biết yếu đau xin ý Chúa

Lúc nhìn thay đổi tận tình ta 

Văn chương đẹp dạ hồn thơ dệt 

Kỷ niệm động lòng dĩ vãng qua

Nghĩ lại đời mình hên sống sót

Chào Xuân đón Tết quẩn quanh nhà.

 

Sơn hà nhàn dật thú yên hà

Tự tại hoa viên thưởng thức hoa

Độc ẩm tửu bôi hoan tửu nhạc

Tương tư thi bút hứng thi ca

Tha hương sầu niệm hoài hương lý

Cố quốc u tình ái quốc gia 

Xuân đáo tân niên, niên lão ngộ 

Hòa đồng thân hữu chúc an hòa.

 

(Phan Thượng Hải)

12/22/22

* Đoạn 8 câu đầu dùng hầu hết là Tiếng Nôm. Đoạn 8 câu sau dùng toàn Hán ngữ, mỗi câu đều có điệp ngữ.

PTH_VHC_1.JPG

Ông Vũ Hoàng Chương (1916-1976), người Hưng Yên, là một thi sĩ tiền chiến nổi danh. Ông di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954. Thơ của ông Vũ Hoàng Chương đã làm nhân chứng cho lịch sử của Miền Nam cho đến khi ông qua đời, sau ngày 30-4-1975.

Thi Sĩ của Người Bắc Di Cư

Là người di cư từ Miền Bắc, thi sĩ Vũ Hoàng Chương nhớ người bạn thơ còn ở lại Miền Bắc là Ngân Giang nữ sĩ:

NỔI TRÔI
Đặt bút cùng ngâm khúc bể dâu
Nổi trôi từ đấy xót cho nhau
Một phen nhật nguyệt tranh ngôi sáng (*)
Hai ngả lòng thu dựng tháp sầu (*)
Tình cũng hoài thôi say chẳng nỡ
Xuân sang đó nhỉ mộng về đâu
Rằng hư rằng thực lời tâm huyết
Non vẫn cao hề nước vẫn sâu.
(Vũ Hoàng Chương)
Chú thích: Theo chiết tự của chữ Hán: chữ “nhật” và chữ “nguyệt” ghép lại là chữ “minh” (=sáng) còn chữ “tâm” (=lòng) và chữ “thu” ghép lại là chữ “sầu”.
Vì thương bạn là ông Phan Khôi trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở ngoài Bắc, ông có làm bài thơ tặng dưới đây bằng tiếng Hán Việt rồi tự mình dịch ra tiếng Việt:

LOẠN TRUNG HỮU BIỆT                             TRONG THỜI LOẠN XA BẠN
Đối diện tằng xưng thiên cãi văn                         Từng khen tuyệt tác ấy văn trời
Kim chiêu biệt hỹ, bút ưng phần!                        Tạm biệt từ đây bẻ bút thôi
Đông tây mộng quải tam canh nguyệt                Giấc mộng đông tây vầng nguyệt lửng
Nam bắc tình khiên vạn lý vân                              Tơ tình nam bắc đám mây trôi
Trọc tửu vô đăng sầu bất ngữ                                Tỉnh say một cuộc đành không bạn
Hoàng sam thanh nhãn ý hà vân                          Hào hiệp ngàn xưa dễ mấy người
Thu phong sạ khởi tiêu hồn cực                          Chợt nổi gió thu lòng héo hắt
Hổ khiếu viên đề hoảng hốt văn.                          Đâu đây hổ thét vượn than dài.
(Vũ Hoàng Chương)                                              (Vũ Hoàng Chương tự dịch)

Tâm hồn di cư của ông vẫn còn nhớ ngoài Bắc:

NHỚ BẮC

Phách dựng hồn lên đỉnh nhịp ba
Đàn chìm sâu tận đáy xương da
Chĩu mười năm mộng khoang thuyền khói
Nghiêng trái tim đèn nửa mặt hoa
Bến cát đìu hiu nghe gió lọt
Mành thưa nghẹn lệ vỡ hơi ca
Một cung bùn ngập tràn phương bắc
Lửa quỷ ai thiêu rụng ngón ngà.
(Vũ Hoàng Chương)1962

Ông Vũ Hoàng Chương là Thi sĩ phong phú nhứt trong lịch sử thi văn nước Việt. Tuy dùng chữ Quốc Ngữ nhưng ông làm thơ cả tiếng Hán lẫn tiếng Việt (Hán Nôm). Ông Vũ Hoàng Chương làm tất cả những thể thơ (mới và cũ) kể cả thể thơ Hát Nói và kể cả những phương cách của Thơ Đường (như Họa Vận, Liên Hoàn…).

NHỊP BẮC PHẢN
Lưu Lang có phải tiền thân?
Mặc cho bãi bể mấy lần nương dâu
Tầng rêu khe đá bụi ngầu
Vung tay gỡ thử mối sầuThiên Thai
Trùng du Nam Phố-Trùng Dương tiết
Cuộc truy hoan mài miệt trắng bao đêm
Những vì ai khoảnh khắc trái tim mềm
Đã nửa kiếp lăng tằng-ai đấy nhỉ?
Thị dã-bất tài minh chủ khí?
Phi hồ-đa bệnh cố nhân sơ!
Đắm hồn say trong tiếng túc tơ
Nhịp Bắc Phản đêm mưa càng thánh thót
Quanh ngọn lửa vẫn oanh chào yến hót
Mấy tang thương còn thú yêu hoa
Nhìn nhau-ta lại là ta.
(Vũ Hoàng Chương)

Đây mới chính thực là bài thơ thể Hát Nói cuối cùng của nước Việt?

Thi Sĩ của Phật Giáo

Ông Vũ Hoàng Chương là một người theo Phật Giáo.

HOA SEN
Kiều trang phơi phới gót thanh tao
Đưa đón thời duyên mặc lý đào
Nhụy một khuôn vàng gương náu bụi
Cánh ba tầng ngọc tháp vương cao
Lòng kia vẫn thẳng dù vương vít
Hương ấy càng xa lại ngạt ngào
Biết mặt gió xuân từ mấy độ
Mà hoa quân tử ý chưa trao.
(Vũ Hoàng Chương)

Tâm tình ông Vũ Hoàng Chương cũng giao động trong năm 1963 trước cuộc đấu tranh của Phật Giáo chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm. Đứng về phe với Phật Giáo, trong tập thơ “Lửa Từ Bi”, ngoài bài thơ mới “Lửa Từ Bi” hiến dâng cho Thượng Tọa Thích Quảng Đức, ông có làm những bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Tứ Tuyệt dưới đây vào những tuần lễ của tháng 10-1963:
TRỜI CAO PHẬT HIỆN
Trời lưu ly hiện Phật Kim Cương
Mây bạc thân vàng nét tỏ gương
Quạ lửa càng sôi cơn thịnh nộ
Càng in bóng ngọc xuống mười phương.
(Vũ Hoàng Chương) 10-10-63

DIỀU CHÁY LƯNG TRỜI
Vận nước dầu sôi trải nấu nung
Nhiệt tâm càng đỏ nén hương chung
Lá bên Ngô dẫu còn no gió
Gặp lửa Tử Bi cũng cháy bùng.
(Vũ Hoàng Chương) 17-10-63

LINH SƠN PHẬT KHÓC
Phật ngự tòa sen…khối xót thương
Vỡ ra thành lệ ngấn còn hương
Lung linh giọt ngọc từng giây phút
Tẩy sạch ngai vàng bóng Quỷ Vương.
(Vũ Hoàng Chương) 20-10-63

LỬA GỌI ĐỒNG THƯA
Ngọc lửa Từ Bi gọi cảm thông
Bảy lần sôi máu khắp non sông (*)
Đàn con Đức Mẹ quỳ, rơi lệ
Chuông thánh đường vang dội tiếng đồng.
(Vũ Hoàng Chương) 27-10-63

(*) Chú thích: Bài cuối cùng (Lửa Gọi Đồng Thưa) làm cùng ngày, ngay sau cuộc tự thiêu cuối cùng (lần thứ 7) của tăng ni Phật Giáo xảy ra ở trước nhà thờ Đức Bà: đó là ngày 27-10-63, ngày sư Thiện Mỹ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà (ở Sài Gòn).














Đây là lịch sử của 7 tăng ni đã tự thiêu:
Ngày 11-6-1963, Thượng Tọa Thích Quảng Đức (1897-1963), trụ trì chùa Quán Âm ở Phú Nhuận, tự thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng lúc 10 giờ sáng trong tư thế kiết già.
Ngày 3-8-1963, Sư Thanh Tuệ (18 tuổi) tự thiêu ở chùa Phước Duyên của huyện Hương Trà, Thừa Thiên.
Ngày 4-8-1963, Sư Nguyên Hương (23 tuổi) tự thiêu tại đài chiến sĩ ở Bình Thuận (Phan Thiết).
Ngày 15-8-1963, Ni Cô Diệu Quang (27 tuổi) tự thiêu ở huyện Ninh Hòa, Khánh Hoà (Nha Trang).
Ngày 16-8-1963, Sư Tiêu Diêu (71 tuổi) tự thiêu trước chùa Từ Đàm ở Thừa Thiên (Huế) Ngày 5-10-1963,
Sư Quảng Hương (37 tuổi), thuộc tỉnh hội Phật Giáo Ban Mê Thuột, tự thiêu ở chợ Bến Thành, Sài Gòn.
Ngày 27-10-1963, Sư Thiện Mỹ (23 tuổi) của chùa Vạn Thọ tự thiêu ở trước nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn.

Chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ sau cuộc đảo chánh 5 ngày sau đó (1-11-1963). Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết chết (2-11-1963).

Ngày 31-12-1963, các tổ chức Phật Giáo VNCH họp tại chùa Xá Lợi thành lập 1 Giáo hội độc nhất của Việt Nam Cộng Hỏa gồm cả Đại Thừa và Tiểu Thừa gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Tăng Thống, Thượng Tọa Thích Tâm Châu làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Thượng Tọa Thích Trí Quang làm Tổng Thư Ký Viện Tăng Thống.
Đây là tên của các tổ chức kể trên:
Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo: TT Thích Tâm Châu (1921-2015), người Ninh Bình (di cư vào Nam năm 1954).
Thiền Tịnh Đạo Tràng: TT Thích Minh Trực
Giáo hội Tăng Già Bắc Việt: TT Thích Tâm Giác
Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam: TT Thích Thanh Thái
Giáo hội Tăng Già Trung Phần: TT Thích Huyền Quang (1920-2008), người Bình Định
Giáo hội Tăng Già Nam Việt: TT Thích Thiện Hoa
Giáo hội Nguyên Thủy Việt Nam: TT Thích Pháp Tri
Giáo hội Theravada: Lục Cả Lâm Em
Hội Phật Học Nam Việt: Cư Sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Hội Phật Giáo Nguyên Thủy: Cư Sĩ Nguyễn Văn Hiếu
Hội Phật Giáo Trung Phần: TT Thích Trí Quang (1923-2019), người Quảng Bình
Hội Phật Giáo Việt Nam: Cư Sĩ Vũ Bảo Vinh
Đại diện Phật Tử Theravada: Cư Sĩ Sơn Thái Nguyên.
Lúc đó Sài Gòn có 2 ngôi chùa nổi danh là chùa Xá Lợi (của Cư sĩ Mai Thọ Truyền) và chùa Ấn Quang (của TT Thích Thiện Hòa và TT Thích Thiện Hoa). Sau đó Giáo hội PGVNTN chia thành 2 khối cho đến 1975: Khối “Việt Nam Quốc Tự/Vĩnh Nghiem” của TT Thích Tâm Châu (gồm 8 đoàn thể) và Khối “Ấn Quang” của TT Thích Trí Quang (gồm 3 đoàn thể). Chùa Việt Nam Quốc Tự (của TT Thích Tâm Châu và TT Thích Thiện Minh) cũng như chùa Vĩnh Nghiêm (của TT Thích Tâm Giác và TT Thích Thanh Kiểm) xây sau 1963.
Năm 1966, Phật Giáo ở miền Trung ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi chống lại Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (và Trung tướng Nguyễn Hữu Có). Ông Vũ Hoàng Chương cũng theo dõi và ủng hộ Phật Giáo ở Huế với 3 bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú liên hoàn thủ vỹ ngâm rất đặc biệt:

CHUÔNG CHÙA DIỆU ĐẾ
Huế đô sợi tóc buộc ngàn cân
Thành nội vang rền súng ngoại nhân
Sườn núi mở tung gan Phật tử
Lòng sông nghẹn uất máu lương dân
Nhưng chùa Diệu Đế còn cao vút
Thì bóng Ma Vương đã xóa dần
Mình chẳng giết mình ai giết nỗi
Ngàn thu văng vẳng tiếng chuông ngân.

Ngàn thu văng vẳng tiếng chuông ngân
Vàng gợi dư linh thuở Lý Trần
Ai đó cũng thương nòi xót giống
Mà sao nỡ lấy giả làm chân
Sóng sông ngửa mặt từng rung cảm
Vách núi nghiêng tai cũng thấm nhuần
Mình chẳng cứu mình ai cứu nỗi
Chuông khua mười góc bể trầm luân.

Chuông khua mười góc bể trầm luân
Đinh Lý hai triều cũng Phú Xuân
Rằng tự giết mình hay tự cứu
Tuy là nghiệp đấy cũng là thân
Gió lên đỉnh Ngự mây về gốc
Bụi lắng sông Hương nguyệt tới tuần
Bia đá mai đây lòng nặng chĩu
Huế đô sợi tóc buộc ngàn cân.
(Vũ Hoàng Chương) 26-6-66

Thi Sĩ của Lịch Sử *

Trong thời VNCH, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã làm nhiều thơ vịnh lịch sử.

KỶ DẬU HỒI THANH
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên               Đất xưa gà gáy mặt trời lên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền                   Giục nhớ Quang Trung hịch sấm truyền
Sơn vỹ sơn đầu hoa giải ngữ                           Hoa nở cánh chào ngang dọc núi
Hòa âm xuân thảo nhiễu bình nguyên.               Hòa âm cỏ ngát xuống bình nguyên
(Vũ Hoàng Chương)                                         (Vũ Hoàng Chương tự dịch)

VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Đồng trụ tan tành lớp phế hưng
Miếu Đồng Nhân vẫn khói hương lừng (*)
Thương chồng thương chị cùng đau đáu
Lo nước lo đời há dửng dưng
Liệt nữ cả hai còn sử chép
Lĩnh Nam riêng một có Vương xưng
Ngàn sau nhuệ khí con nòi Lạc
Mũi kiếm đầu voi đủ tượng trưng.
(Vũ Hoàng Chương)

(*) Chú thích: Đền Đồng Nhân thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thờ Hai Bà Trưng.

CHIẾN CÔNG ĐỜI TRẦN
Trang sử Đông A nhược thắng cường (*)
Đến nay càng đẹp ý treo gương
Hội Diên Hồng đó nền dân chủ
Sóng Bạch Đằng kia hịch đại vương
Giáo trỏ “Thôn Ngưu” trời đã nín (*)
Tay chàm “Sát Thát” giặc nào đương (*)
Khí thiêng Vạn Kiếp bừng mây khói
Lòng chợt hoa quỳ khắp bốn phương.
(Vũ Hoàng Chương)

(*) Chú thích: Đông A là (họ nhà) Trần. Theo Hán Tự, chữ Trần gồm có chữ Đông và một phần của chữ A. (Theo Việt Sử Toàn Thư / Phạm Văn Sơn)
Mượn ý chữ “thôn ngưu” trong bài thơ của Phạm Ngũ Lão. Thôn Ngưu = át, lấy, nuốt sao Ngưu trên trời.
Sát Thát = giết người Thát Đát (Tartar, giống người Mông Cổ). Quân Việt kháng Nguyên có thích trong cánh tay chữ “Sát Thát”.
* Sau Đệ Nhất Cộng Hoà của chính phủ Ngô Đình Diệm, nền Đệ Nhị Cộng Hòa thành hình cho đến năm 1975.

Vào Tết năm Mậu Thân (1968), Miền Bắc tổng tấn công vào thị thành miền Nam và chiến tranh trở thành khốc liệt. Đây là tâm tình thương cảm tiêu cực của thi sĩ đối với cuộc chiến Mậu Thân ở Huế:

HUẾ CẢM
Giường thấp giường cao ruồi nhặng bâu
Xuân sang đối diện Quỷ không đầu
Mơ rồng ấp trứng sông Hương tủi
Lắng vượn gào con đỉnh Ngự sầu
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
Miền Nam câu hỏi trăm năm trước
Ai trả lời cho Huế…bởi đâu.

Bởi đâu non nước ấy tan tành
Lửa đỏ mây đen thắt chặt vành
Nặng dẫu bằng non thân cũng gục
Rửa cho hết nước máu còn tanh
Kim Long quẫy đứt hơi sương gió
Bạnh Hổ gầm vang nhịp sắt đanh
Từng tiếng ngân dài chùa tháp Mụ
Hồi thanh rền rĩ súng liên thanh.

Súng liên hồi nổ…kịch ai dàn
Đã một trăm năm chẳng hạ màn
Lần lượt vai trò rơi ấn kiếm
Dằng dai sân khấu ngập bùn than
Sông theo Phật hẹn giòng vơi lệ
Núi chống Trời tin đã vững gan
Gió lọt bỗng dưng trên mặt giấy
La đà bóng trúc…Huế bình an.

Huế bình an chứ đẹp bao nhiêu
Chẳng thấy không gian đủ bốn chiều
Cành trúc gió đưa về gốc Lạc
Câu hò máy đẩy tới trời Nghiêu
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều
Phủ lấy cho càng cao giá ngọc
Thơ ai từng dệt tấm thương yêu.

Dệt tấm thương yêu nhớ ngược giòng
Chín thương mười nhớ đấy Châu Phong
Cố đô Sử chép nhiều tên gọi
Trực bắc Thơ dành một hướng mong
Nối lại thuở nay liền thuở trước
Nghe ra thành Phượng có thành Long
Cả Hoa Lư với Mê Linh nữa
Xác bướm đè muôn tảng đá ong.

Đá ong xây giữa mộng đêm vàng
Sầu Cố Đô lên vút tượng Nàng
Thành quách trải bao nơi lập quốc
Miếu đường thêm một chuyến cư tang
Ngọ Môn vỡ tiếng rên gò đống
Bảo Đỉnh sôi cơn giận xóm làng
Nửa giấc lạnh tanh rời vạc thuốc
Cửa Sài nghe đạn réo vang vang.

Đạn réo vang vang…lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơn mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu chợt não nề
Cũng đất Hương Bình đen cánh quạ
Hẳn mây Nùng Nhị trắng phương quê
Xác thân mòn mỏi cùng dâu bể
Còn chút hơi thơ gửi vọng về.

Gửi vọng về ngôi Sầu Cố Đô
Tan tành ngọc đá kể chi mô
Chiều Vân Lâu xuống hoài u bến
Gương Tĩnh Tâm soi vẹn nhớ hồ
Đối bóng vẫn mơ màng bóng hiện
Biết ai mà nhắn nhủ ai vô
Ôi bài Huế Cảm xuân dâng ý
Nghe có hơi thu họa dưới mồ.
(Vũ Hoàng Chương)
Sài Đô Xuân Mậu Thân

Đây là 8 bài thơ Đường Luật Liên Hoàn Liên Vận với 14 chữ tựa đề của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
Hoa hạ chi thành đăng hạ bút
Loạn trung Huế Cảm bệnh trung nhân

Thật ra tổn thất nhân mạng ở Huế rất nặng nề và thảm khốc. Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:
Câu chuyện về Huế chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng, khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
- Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
- Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
- Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể:
       1.173- số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968
       809- số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969
      428- số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969.
       300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969
      100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
      1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)

Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân của quân đội Miền Bắc nhằm vào các tỉnh thành của Miền Nam đã giết chết khoảng 14.300 thường dân Miền Nam (kể cả phụ nữ và trẻ con) và có hơn 24.000 người bị thương. 630.300 người dân Miền Nam mất nhà cửa phải sống tỵ nạn ở chỗ khác. Chính quyền Miền Bắc đã vi phạm thỏa hiệp hưu chiến cho 3 ngày Tết trong cuộc tấn công nầy.


















Người Miền Nam đã sống trong lúc đó có suy nghĩ khác hơn thi sĩ Vũ Hoàng Chương:

MẬU TUẤT NHỚ MẬU THÂN
Mậu Tuất đây rồi, nhớ Mậu Thân (*)
Miền Nam từ đấy nhuốm phong trần
Chiến trường khốc liệt, nhiều bom đạn
Tổ quốc điêu tàn, chẳng pháo lân
Ngày Tết thảm thương thân tử sĩ
Ngày Xuân thảm khổ kiếp thường dân
Âm mưu thôn tính từ phương Bắc
Bởi bọn tà gian đoạn nghĩa nhân.
(Phan Thượng Hải) 2/5/18

(*) Chú thích: Tết Mậu Thân 1968. Tết Mậu Tuất 2018.
* Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam bị Miền Bắc chiếm. Đầu Xuân năm 1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã có làm bài thơ Xuân nói về thời thế xã hội nhân sinh hỗn loạn lúc giao thời ở Miền Nam lúc bấy giờ và tỏ tình ý của mình.

VỊNH TRANH GÀ LỢN (Nguyên bản)
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.
(Vũ Hoàng Chương) Tết Bính Thìn 1976

VỊNH TRANH GÀ LỢN (Họa)
Vẽ cọp không xong chuyện phải đành
Vịnh tranh gà lợn, ngán đua tranh
Thảm hình thời thế, màu đen đỏ
Thảm họa trần ai, mắt trắng xanh (*)
“Gà chết” chôn theo đời đạo đức
“Lợn lòng” thay đổi dạ trung thành
Giữ riêng bút thép tròn chung thủy
Bảo thủ hoàng chương hữu ngọc thanh. (*)
(Phan Thượng Hải) 2014

(*) Chú thích: Từ câu thơ “Mắt xanh trắng đổi lầm bao khách tục” (Tản Đà)
Hoàng chương là tên của thi sĩ nhưng cũng có nghĩa là "văn chương hay đẹp".

Khoảng một năm sau ngày 30-4-1975; vào đầu tháng 4, 1976, nhà văn Thanh Nghị có tổ chức một "Đêm Họp Mặt Văn Nghệ" để bình bài thơ "Khóc Stalin" của Tố Hữu. Các thi nhân Miền Bắc có đến dự và có phát biểu cảm tưởng ca tụng bài thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh... Ông Vũ Hoàng Chương của Miền Nam cũng được Thanh Nghị mời đến dự và mời phát biểu.

Đây là một đoạn trong toàn phần phát biểu của Vũ Hoàng Chương về bài thơ và kỹ thuật làm thơ của Tố Hữu (theo người viết báo có bút hiệu là Sông Lô):

Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.
Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ‘đóng khung’ tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố-Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao.
Lời thẩm định của Thanh-Nghị thật xác đáng, tôi chịu. Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có nghiã là thơ phải thực.
Tố-Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không? Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ‘Đời đời nhớ Ông’ Tố-Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.
Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố-Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố-Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.


Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng thố lộ kỹ thuật làm thơ của mình trong buổi họp nầy. Ông nói:

Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. (Tôi) Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy. Tôi xin nhắc, sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca; vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.

Sau khi di cư vào Miền Nam (1954), Vũ Hoàng Chương thường làm thơ theo thể thơ cổ điển nhất là thơ Đường Luật. Ông vẫn dùng kỹ thuật làm thơ như ông đã nói: "đem mộng vào thực".

Khoảng 1 tuần lễ sau đó vào ngày 13 tháng 4 năm 1976, ông Vũ Hoàng Chương bị bắt vào khám Chí Hòa. Đến đầu tháng 9, 1976, vì bệnh nặng nên ông được thả về nhà và qua đời 5 ngày sau đó (6-9-76).

Thi sĩ có làm bài thơ lúc ở trong tù:
TRONG KHÁM CHÍ HÒA (Nguyên bản)
Thấm thoát vào đây tháng đã tròn
Lông hồng gieo xuống nhẹ như non
Một manh chiếu nát thân tơi tả
Nửa bát cơm hôi xác đã mòn
Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ
Đêm về giấc ngủ lại thương con
Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa
Hồ dễ gì phai được tấc son.
(Vũ Hoàng Chương) 1976

HOÀNG CHƯƠNG (Họa)
Hoàng chương công nghiệp đủ vuông tròn (*)
Thời thế đồng cam phận nước non
Phật đạo tu tâm, tâm vẫn vững
Văn thơ múa bút, bút không mòn
Lao lung tàn xác thân quân tử
Lao thất thâm tình nghĩa vợ con
Quốc biến sơn hà đa hữu trách (*)
Thi hào tự tại tấm lòng son.
(Phan Thượng Hải) 2020

(*) Chú thích: Hoàng chương là tên của thi sĩ nhưng cũng có nghĩa là "văn chương hay đẹp". Từ câu: "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách"
* Những người Miền Nam ở lại sau ngày 30-4-1975 cũng bày tỏ cảm tưởng của mình về chế độ mới trong nhiều năm sau đó:

CỰC TẢ (Nguyên Bản)
Cửa đóng màn che đã mấy thu
Đời tàn ngõ hẹp sống như tù
Quẩn quanh họp lại thiền Đông Độ
Vào ra luyện mãi phép Tây Du
Rầu rĩ Giáng Tiên ngồi gãi háng
Nẫu nà Từ Thức đứng xoa khu
Ăn chỉ tương cà, chê thịt cá
Sống chẳng tu hành cũng quá tu.
(Hoàng Hải Thủy) 1982

QUÂN TÁN (Họa)
Quân tán còn chi xuất với thu
Thong dong thì cũng xác thân tù
Hữu tật cam đành câu bất dụng
Vô tài nên chịu tiếng nan du
Những tưởng khoan hồng anh hạ bộ
Nào ngờ mắc bẫy chú Xuân Khu (*)
Chung cuộc vài năm cầm cán cuốc
Tu đọi, tu huyền ấy cũng tu.
(Dương Hùng Cường) 1982

(*) Chú thích: Trường Chinh Đặng Xuân Khu.

NGƯỜI Ở LẠI 30-4-75 (Họa)
Ngu dại một ngày để tiếp thu
Dưới quyền nhà nước, giống nhà tù
Hận đời cải tạo hành lao động
Buồn cảnh ly tan mộng viễn du
Lạc hậu tuyên truyền toàn lãnh thổ
Nghèo hèn áp đặt tận biên khu
Ta bà thế giới còn sinh sống
Địa ngục đây rồi khỏi phải tu.
(Phan Thượng Hải) 2014


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Bài viết nầy đăng lần đầu tiên trong
phanthuonghai.com trong mục Thơ và Sử phần Thời Cộng Hòa. Tài Liệu

Tham Khảo:
Thơ và Sử Việt - Thời kỳ Độc Lập (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com
Thơ và Sử Việt - Lãng Ba và Miền Nam (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com
Thơ Phan Thượng Hải - Tổ Quốc (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com
Trang Thơ Thi Viện Net
Google Wikipedia


Bs PHAN THƯỢNG HẢI BIÊN soạn và giữ bản quyền



















 

THI VỊ CỦA HÒN VỌNG PHU 

                                                                     

                             Bs Phan Thượng Hải biên soạn

pth_VHC_2.JPG
PTH_HVP_NuiKyLua.JPG

HÒN VỌNG PHU Ở NÚI KỲ LỪA

 

Có hai Hòn Vọng Phu chính trong lịch sử: 

Hòn Vọng Phu ở núi Kỳ Lừa gần thị trấn Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn 

Hòn Vọng Phu ở núi Bà thuộc huyện Phù Cát tỉnh Bình Định (Qui Nhơn).

Hai Hòn Vọng Phu nầy là chứng tích của 2 chuyện tình khác nhau đã tạo nên thi hứng cho nhiều thi nhân từ thi nhân Hồng Đức, thi hào Nguyễn Du, nhà cách mạng Phan Châu Trinh cho tới Hồ Dzếnh.  Thi vị Hòn Vọng Phu cũng thể hiện bằng thơ chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ.


"Đồng Đăng có núi Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh" 

 

Hai câu ca dao nầy nói đến núi đá vôi Kỳ Lừa nằm bên sông Kỳ Cùng.  Tương truyền vì mong mỏi chồng (Tô Văn) đi đánh trận lâu về, nàng Tô Thị bồng con lên núi Kỳ Lừa bên bờ sông Kỳ Cùng ngóng trông lâu ngày hóa thành đá.  Hòn đá nầy có hình như người mẹ bồng con gọi là Vọng Phu Thạch (Đá Vọng Phu).  Núi Kỳ Lừa nầy còn gọi là núi Tô Thị.  Hòn Vọng Phu hay Hòn Tô Thị ở Đồng Đăng, Lạng Sơn.  Nó đã bị vỡ nát vào năm 1991.  Sau nầy 1 tượng xi măng được đưa lên thay thế.

Từ Hà Nội đến Nam Quan là 167 km.  Chợ Đồng Đăng ở cây số 162, đồn Tam Lung ở cây số 158, chợ Kỳ Lừa ở cây số 152 và tỉnh lỵ Lạng Sơn ở cây số 150.  

PTH_HVP2.JPG

Sự tích Hòn Vọng Phu ở núi Kỳ Lừa bắt đầu với bài thơ của ông Nguyễn Du vào năm 1803 (đầu thế kỷ 19), được rất nhiều người dịch:

 

VỌNG PHU THẠCH                              ĐÁ VỌNG PHU                             

Thạch da ? Nhân da ? Bỉ hà nhân ?          Là đá là người, ai đó vậy?          

Độc lập sơn đầu thiên bách xuân             Chon von đầu núi mấy nghìn xuân              

Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng                Thần nữ mây mưa không bén mộng

Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân                 Chữ trinh một kiếp phải treo thân

Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ                    Mưa trời nước mắt quanh năm tháng

Đài triện trường minh nhất đoản văn       Rêu biếc còn đây một áng văn

Tứ vọng liên sơn diểu vô tế                      Bao la trời đất cương thường ấy

Độc giao nhi nữ tiện di luân.                    Lại trút trên đầu kẻ yếm khăn.

(Nguyễn Du)                                             (Lưu Trọng Lư dịch)

 

VỌNG PHU THẠCH                               ĐÁ VỌNG PHU

Thạch da ? Nhân da ? Bỉ hà nhân ?          Đá hay người ? Chẳng biết là ai ?

Độc lập sơn đầu thiên bách xuân              Đỉnh núi ngàn xuân đứng miệt mài

Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng                 Bỏ mộng mây mưa từ vạn kiếp

Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân                 Giữ thân trinh tiết đến muôn đời

Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ                    Ba thu mưa lệ hoài không dứt

Đài triện trường minh nhất đoản văn       Một áng văn rêu mãi tuyệt vời

Tứ vọng liên sơn diểu vô tế                      Núi biếc mênh mông trùng điệp điệp

Độc giao nhi nữ tiện di luân.                    Luân thường phận gái gánh trên vai.

(Nguyễn Du)                                             (Hải Đà dịch)

  

Bài "Vọng Phu Thạch" nầy tìm thấy trong tập thơ "Làm Quan Ở Bắc Hà" của ông Nguyễn Du (1802-1804).  Trong thời gian nầy, ông Nguyễn Du bắt đầu ra làm quan với nhà Nguyễn sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước (1802) với chức Tri Huyện rồi Tri Phủ ở trấn Sơn Nam.  Ông không có đi sứ trong khoảng thời gian nầy nhưng có được cử lên Nam Quan tiếp đón sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long (1803).  Sau đó sứ thần nầy đến Thăng Long phong sắc cho vua Gia Long và chính thức công nhận tên nước ta là Việt Nam.  Bài thơ "Vọng Phu Thạch" chỉ có thể được làm trong dịp nầy.  Từ năm 1805, ông Nguyễn Du vào làm quan ở miền Trung và triều đình Huế. 

 

Ông Nhàn Vân Đình và ông Trần Thiếp có làm 8 bài thơ xướng họa vào đầu thế kỷ 20 bằng chữ Quốc Ngữ mô tả Lạng Sơn Bát Cảnh: Tam Thanh động, Song Tiên động, Mạc Gia thành, Tô Thị sơn, Kỳ Lừa thị, Kỳ Cùng giang, Na Sầm phố và Tuần Mại quan.  Ngày nay chỉ còn 8 bài họa của ông Trần Thiếp.  

 

TÔ THỊ SƠN

Sắc đá trơ trơ giữa cõi trần

Mong chồng viễn thú dạ phân vân

Chàng vừa tuổi trẻ nhanh tài võ

Thiếp luống canh chầy đợi cửa xuân

Văn gấm gởi đi đường trái lối

Non xanh đành để tuyết pha thân

Hằng Nga ấy bạn tri âm đó

Hợp mặt canh khuya kể mấy lần.

(Trần Thiếp)


 

Hậu thế chỉ có thêm một bài thơ gồm những đoạn thơ Tứ Tuyệt của Thi sĩ Tiền Chiến Hồ Dzếnh (khoảng thập niên 1940-50):

 

NÚI VỌNG PHU

 

Nghe nói ngày xưa biển ở đây

Biển đi để lại núi non nầy

Mưa nguồn chóp bể chia hai ngả

Hòn vọng phu thương vọng hải đài

 

Thuở nhỏ tôi thường hay hỏi mẹ

Vì sao đỉnh núi mọc hình người

- Đợi chồng lâu quá nên thành đá

Hòn Vọng Phu kia đứng với đời

 

Tôi lớn dần lên đá vẫn chờ

Khi xa heo hút giữa sương mờ

Khi gần sừng sững chiều biên giới

Như bức phù điêu nét chửa khô

 

Không chỉ quê tôi núi đợi chồng

Còn nhiều nơi khác cảnh chờ mong

Bắc Nam đâu cũng niềm son sắt

Tạc giữa trời cao dáng thủy chung

 

Ôi nhớ rêu phong hồn cẩm thạch

Mối tình vời vợi giữa không gian

Bốn ngàn năm ấy bao sương gió

Mà vẫn đinh ninh thiếp đợi chàng.

 

(Hồ Dzếnh)

PTH_HVPNuiba.JPG

HÒN VỌNG PHU Ở NÚI BÀ (PHÙ CÁT)

Mỏm núi nào có chỗ cao chỗ thấp giống hình người mẹ và đứa con, qua trí tưởng tượng của người Việt, đều có thể trở thành Hòn Vọng Phu. 

 

Nước Việt ta lại cũng có một câu chuyện Hòn Vọng Phu cho đá Vọng Phu ở Núi Bà thuộc huyện Phù Cát tỉnh Qui Nhơn (Bình Định) với nhiều chi tiết hơn.

Chuyện kể 2 vợ chồng lấy nhau, một hôm người chồng phát hiện ra vợ mình chính là em gái ruột đã xa nhau từ nhỏ từ một vết sẹo trên đầu.  Vết sẹo ấy do ngày trước người anh vì vô tình làm người em chảy máu đầu sợ cha mẹ phạt nên bỏ trốn.  Sau nầy họ lại gặp nhau và lấy nhau nên vợ chồng (vì không biết) và có một đứa con.  Người chồng (người anh) day dứt lương tâm lấy cớ đi biển đánh cá rồi không trở về.  Người vợ (người em) mòn mỏi đợi chờ từng ngày.  Bà nhớ chồng nên ôm con ra hòn đá trước biển (Đông Hải) ngóng trông.  Hai mẹ con chết hóa thành đá.

 

Hòn Vọng Phu nầy ở núi Bà nhìn ra biển Đông khác với Hòn Vọng Phu ở núi Kỳ Lừa (nhìn ra sông Kỳ Cùng).

Từ thời Pháp Thuộc, Hòn Vọng Phu nầy là đề tài của rất nhiều thi sĩ ở Nam Kỳ.  Khởi đầu, ông Tôn Thọ Tường trong Bạch Mai thi xã có 2 bài thơ:

 

VỌNG PHU THẠCH

Đá tạc hình ai đã bấy đông

Con thơ tay ẩm luống trông chồng

Mưa ngâu dầm lụy trông ngàn bắc

Gió nữ rơi sầu giợn khắp đông

Rạng đất rạng trời thêm rạng tiết

Cùng non cùng nước chẳng cùng lòng

Khá khuyên má phấn trăm thu dưới

Lấy đó làm gương sửa tánh hung.

(Tôn Thọ Tường)

 

VỌNG PHU THẠCH (Nguyên bản)         

Hình đá ai đem tạc biển đông                     

In hình nhi nữ dạng ngồi trông                   

Da dồi phấn tuyết phơi màu trắng              

Tóc gội dầu mưa giũ bụi hồng                   

Ngày ngắm gương ô soi đáy nước (*)             

Đêm cài lượt thỏ chải trên không (*)               

Đến nay tuổi đã bao nhiêu thử                   

Trạc trạc bền gan chẳng lấy chồng.            

(Tôn Thọ Tường)

(*) Ô: ám chỉ Mặt Trời.  Thỏ: ám chỉ Mặt Trăng                                        

 

Bài thơ thứ nhì của ông Tôn Thọ Tường có 2 bài họa của vợ chồng thi sĩ Thường Tiên và Song Thanh.

 

VỌNG PHU THẠCH (Họa)                      

Nhìn con chạnh tủi lệ sầu đông                  

Hóa đá trơ hình dạng ngóng trông             

Đêm hứng sương chan đầu điểm bạc        

Ngày phơi nắng ráng má tô hồng               

Gió lay những tưởng thuyền ai ghé           

Trăng dọi nào dè bến nước không             

Sương tuyết chi sờn gan sắt đá                  

Khư khư một dạ chẳng hai chồng.             

(Nữ sĩ Song Thanh)                                    

 

VỌNG PHU THẠCH (Họa)

Nghe nói Vọng Phu núi phía đông

Chơn đi chưa tới mắt chưa trông

Bạc đen bịa lắm tình quân tử

Tiết nghĩa buồn cho phận má hồng

Ôm trẻ dầm sương ai có biết

Trông chồng thành đá kẻ rằng không

Trơ trơ một khối từ sơ tạo

Thêu dệt ra chi chuyện ngóng chồng.

(Thường Tiên)                                    

 

Chỉ có nữ sĩ Song Thanh là thông cảm và thương tiếc, khác với tâm ý của ông Tôn Thọ Tường và ông Thường Tiên?

 

Từ ông Tôn Thọ Tường có những bài thơ Quốc Ngữ khác ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 như của Tri Phủ Lê Văn Châu (tự Uyên Sanh), Tri Huyện Chợ Lớn Phan Văn Bảy tự Nguyện...  Tất cả đều thương tiếc người chinh phụ như bà Song Thanh.


 

VỌNG PHU THẠCH

Muôn kiếp tình si một khối đông

Trơ trơ người đá đứng trông chồng

Tóc thề khắn khắn mây phong chặc

Lòng đợi làu làu tuyết rửa trong

Đoạn thảm dễ mòn non chất ngất

Giọt sầu khôn cạn biển mênh mông

Đã cam cái phận giày mưa gió

Dám phụ trăm năm một chữ đồng.

(Vô Danh Thị)


 

VỌNG PHU THẠCH

 

Vó cu từ thuở tách truông voi

Tin tức sao chàng có vắng mòi

Mày nguyệt hổ se mày nguyệt rậm

Tóc mây biếng gỡ tóc mây còi

Xốn xang nỗi thiếp con quên nựng

Bẳng hẳng vì chàng trẻ nặng roi

Cũng muốn học đòi người dệt gấm

Ngày qua tháng lại biến đưa thoi.

 

Thương xót cho người giữa đảnh non

Trơ trơ hình đá mấy thu tròn

Trông chồng tuyết bủa lòng đâu cạn

Bồng trẻ sương sa dạ dễ mòn

Mây tỏa dây sầu un khắp cảnh

Mưa tuôn giọt thảm chảy đầy hòn

Đa đoan trách bấy cho con tạo

Nỡ để xuân tàn tuổi phấn son.

 

(Lê Uyên Sanh)


 

VỌNG PHU THẠCH

 

Tình chi nên đá chịu non tây

Vỏ vỏ trông ai thắm triệu mày

Con dại vóc truồng chàng áo ráng

Mẹ khoe tuyết cứng vận xiêm may

Rửa tay biếng lóng hơi ve trổi

Ngóng mắt xa nhìn trận nhạn bay

Thầm thỉ duyên xưa khôn mở miệng

Nước non còn đó nước non hay.

 

Trinh phụ ngày xưa rất có lòng

Ôm con dựa đá ngảnh trông chồng

Ngày trương đôi mắt nơi trời bắc

Đêm xót một mình chốn bể đông

Tưởng lúc chia phui sầu lại thảm

Nhớ cơn ly biệt não thêm nồng

Tam tùng sách trước còn roi dấu

Trực tiết ngàn thu tiếng ngợi không.

 

Hình dung thành đá bấy thu nay

Ẩm trẻ trông chồng dạ chẳng khuây

Gió ấy tiếng than sương ấy lụy

Mây in tóc rối cỏ in mày

Lòng bền như sắt đầy trời biết

Tiết cứng nên thần khắp đất hay

Hôm sớm luống chờ quên đói lạnh

Kiên trinh dường ấy ít ai tày.

 

(Bảy Nguyện)


 

Người Trung Kỳ cũng có thơ bắt đầu từ ông Phan Châu Trinh là người Quảng Nam vào đầu thế kỷ 20:

 

VỌNG PHU THẠCH

Sự tám mươi đời có biết không?

Người chăng? hay đá? vợ chăng? chồng?

Đi đâu đến nỗi quên tin tức?

Đứng đó bao giờ luống đợi trông?

Tu vậy hay sao đầu trụi lủi?

Khóc chi lắm hử? mặt phồng bông

Trời cao bể rộng người còn mất?

Biết nặng hòn non, nhẹ cái lông?

(Phan Châu Trinh) 1905

 

Thi sĩ Tiền Chiến Quách Tấn của tỉnh Bình Định (Qui Nhơn) suy nghĩ khác ông Phan Châu Trinh. 

 

ĐÁ VỌNG PHU

Chồng đi biệt tích tự bao giờ

Một gốc trời riêng một dạ chờ

Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp

Tóc thề mây núi bạc phơ phơ

Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi

Nghĩa vướng tình sâu chảy lững lờ

Dâu bể đã bao đời kiếp trải

Lòng son một tấm mãi trơ trơ.

(Quách Tấn) 

 

Ông Quách Tấn còn khám phá ra bài thơ của ông Thái Thuận về Hòn Vọng Phu nầy từ thế kỷ 15.  Ông Thái Thuận (1441-?) bút hiệu là Lã Đường đậu Tiến Sĩ năm 1475 đời vua Lê Thánh Tông.  Ông có trong Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú của vua Lê Thánh Tông.  

 

VỌNG PHU SƠN                                         NÚI VỌNG PHU

Hóa thạch sơn đầu ký tịch huân                   Hóa đá non cao chất tháng ngày

Thương tâm vô lộ cánh phùng quân             Gặp chàng biết có nẻo nào đây?

Thiên nhai mục đoạn thiên thiên nguyệt       Chân trời mắt mỏi năm năm nguyệt

Giang thượng hồn tiêu mộ mộ vân               Mặt sóng hồn tan lớp lớp mây

Thanh lệ nhất ban hoa lộ tích                       Sương đọng lòng hoa rơi giọt thảm

Ly tình vạn chủng thảo yên phân                  Khói vương sắc cỏ rối niềm tây

Tương Phi nhược thức tương tư khổ            Tương Phi vì biết tương tư khổ

Bất tích ai huyền ký dữ văn.                          Dây gởi sầu dây gởi gắm dây.

(Thái Thuận)                                                  (Quách Tấn dịch)

 

Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn thân chinh đánh Chiêm Thành.  Vua đem quân theo đường thủy bộ vào Thuận Hóa, ở đây luyện tập quân một thời gian rồi mới theo đường thủy bộ vào đánh kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành (gần Tp Qui Nhơn ngày nay). 

Trong chiến dịch nầy, vua Lê Thánh Tôn cùng các tướng Đinh Liệt, Lê Niệm và 26 vạn quân Đại Việt hạ kinh đô Đồ Bàn của nước Chiêm Thành, “cắt 4 vạn thủ cấp”, bắt vua Bà La Trà Toàn, gọi tắt là Trà Toàn (1460-1471), và hơn 3 vạn (30,000) tù nhân.  Tướng Bồ Trì Trì rút về nam đèo Cù Mông (giữa Qui Nhơn và Phú Yên) và lên làm vua.  Nước Đại Việt thêm đất Qui Nhơn bành trướng tới đèo Cù Mông.

Đất Qui Nhơn thuộc về Đại Việt từ năm 1471; từ bài thơ của ông Thái Thuận (làm quan của vua Lê Thánh Tông), Hòn Vọng Phu ở Phù Cát, Qui Nhơn và sự tích của nó đã có trước năm 1471 (lúc còn thuộc Chiêm Thành)


 

Nơi hải ngoại vào thế kỷ thứ 21 cũng có Nữ sĩ Hồ Mỹ Đức nhớ đến Hòn Vọng Phu:

 

VỊNH HÒN VỌNG PHU

Mỏi mắt vời xa chẳng thấy đâu

Nỗi niềm quạnh quẽ bấy nhiêu lâu

Một chờ, hai đợi, ba mong nhớ

Năm ngóng, mười trông, vạn tủi sầu

Trời đất mênh mông tin vẫn biệt

Núi mây thăm thẳm biển thêm sâu 

Trung trinh tiết liệt đem ngưng kết 

Thành khối băng tâm tại thạch đầu

(Hồ Mỹ Đức) 

Philadelphia, 7/9/17


 

NHỮNG HÒN VỌNG PHU KHÁC

 

Ngoài ra còn có những Hòn Vọng Phu khác ở Việt Nam:

Hòn Vọng Phu trên đỉnh núi M'drak, Đắc Lắc

Hòn Vọng Phu trên núi Nhồi, Thanh Hóa

Hòn Vọng Phu bên bờ khe Giai, Nghệ An

 

Bên Tàu cũng có những Hòn Vọng Phu như bài thơ dưới đây của Lưu Vũ Tích đời nhà Đường về Vọng Phu Sơn ở huyện Đương Đồ tỉnh An Huy với câu chuyện người vợ chờ đợi chồng mà hóa thành đá nhưng không có chi tiết tình nghĩa đậm đà như chuyện của nước Việt chúng ta.

 

VỌNG PHU SƠN                              NÚI VỌNG PHU

Chung nhật vọng phu phu bất quy     Đợi chồng đâu thấy suốt ngày không

Hóa vi vô thạch khổ tương ti (tư)       Hóa đá cô liêu cảm tấc lòng

Vọng lai dĩ thị kỷ thiên tải                 Vẫn mãi ngàn năm ngong ngóng đợi

Chỉ tự đương thời sơ vọng thì.          Ban đầu thuở ấy vẫn chờ mong.

(Lưu Vũ Tích)                                    (? Dịch)



 

KẾT LUẬN

 

Cũng được nói tới trong cổ nhạc và tân nhạc Việt Nam nhất là 3 bài "Hòn Vọng Phu" của Lê Thương, Hòn Vọng Phu đã trở thành địa danh nổi tiếng trong văn hóa nước ta:

 

HÒN VỌNG PHU

Thiên tạo nên hòn đá Vọng Phu

Tượng hình tình nghĩa tận thiên thu

Thơ về Phù Cát, nhiều thi sĩ

Người biết Kỳ Lừa, có Nguyễn Du

Luân lý trái oan đành cách biệt

Thê nhi thương nhớ khó đền bù

Địa danh đặc tính nền văn hóa

Nhân tạo thành danh tiếng Vọng Phu.

(Phan Thượng Hải)

5/10/17


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài Liệu Tham Khảo:

1) Thơ Và Sử Việt - phanthuonghai.com (Bs Phan Thượng Hải)

2) Văn Uyển (Lãng Ba Phan Văn Bộ)

3) Thi Pháp Thơ Đường (Quách Tấn)

4) Tập Làm Thơ (Diên Hương)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

THƠ VÀ SỬ VIỆT - CHI LĂNG 

                   Bs Phan Thượng Hải biên soạn 


Người Việt ngày nay thường biết ải Chi Lăng nhờ trận Chi Lăng (năm 1427).  Thật ra Sử Việt và Thơ Văn cổ điển đã có viết rất nhiều chi tiết về ải Chi Lăng và trận Chi Lăng.

 

SỬ VIỆT

 

* Trận Chi Lăng (1427) 

 

Trận Chi Lăng là trận cuối cùng và quan trọng nhất đã giúp cho Bình Định Vương Lê Lợi hoàn toàn đánh đuổi được quân Trung Quốc của nhà Minh ra khỏi đất nước sau 10 năm chiến đấu.

Bình Định Vương Lê Lợi (1385-1433) khởi nghĩa tự làng Lam Sơn (thuộc huyện Thường Xuân, Thanh Hóa ngày nay), phải 10 năm mới đánh đuổi quân Minh thâu lại nền độc lập cho nước Đại Việt (1418-1427).  Ông Nguyễn Trãi có viết “Bình Ngô đại cáo” tả lại lịch sử của 10 năm nầy.

 

BÌNH NGÔ

Dành lại giang sơn Đại Việt ta

Với bao xương máu lắm tài ba

Lê Lai vị chúa tròn trung nghĩa

Lê Lợi thành công cứu nước nhà

Tụy Động thừa cơ khai chiến thắng

Chi Lăng tổng kích khải hoàn ca

Mười năm đại nghiệp đầy gian khổ

Trang sử Bình Ngô đã trải qua. (*)

(Phan Thượng Hải)

4/5/15

 

(*) Chú thích: "Ngô" là từ ngữ của người Việt gọi người Trung Hoa, có từ Bắc Hà.  Nguồn gốc của nó chưa được biết rõ ràng.


 

Trận Chi Lăng thật sự diễn ra từ Nam Quan cho đến Xương Giang (gần thành phố Bắc Giang ngày nay) và kéo dài trong gần một tháng.

 

Cuối năm 1427, Nhà Minh sai Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh, Thôi Tụ và Hoàng Phúc đem 10 vạn quân từ Quảng Tây và Mộc Thạnh đem 5 vạn quân từ Vân Nam sang cứu.  

 

Sau 3 tháng bao vây (tháng 6 đến tháng 9,1427), các ông Trần Nguyên Hãn, Lê Sát và Nguyễn Lý dùng kế đào đường hầm thông vào trong thành làm nội ứng nên chiếm được thành Xương Giang, một căn cứ quân sự quan trọng (và cuối cùng) của quân Minh giữa biên giới Lạng Sơn và Đông Quan (cách TP Bắc Giang ngày nay 2 km và cách bờ sông Thương 3 km).  

 

Mười ngày sau (8-10-1427), quân Liễu Thăng vượt biên giới.  Bình Định Vương Lê Lợi sai: 

Các ông Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả và Nguyễn Chích chận quân Mộc Thạnh ở ải Lê Hoa (gần biên giới ở Cao Bằng)

Ông Trần Lựu giữ ải Khã Ly (Nam Quan)

Các ông Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Nguyễn Lổng, Phạm Văn Liêu và Trịnh Khắc Phục và 1 vạn quân, 100 con ngựa và 5 con voi giữ Chi Lăng

Các ông Nguyễn Lý và Lê Văn An và 3 vạn quân đóng ở Cần Trạm để tiếp viện 

Ông Trần Nguyên Hãn giữ thành thành Xương Giang.

pth_tranChiLang.JPG

Chiến trận "Chi Lăng" xảy ra trong gần 1 tháng trời:

Ông Trần Lựu giả thua dụ Liễu Thăng từ Khã Ly, qua Khâu Ôn (tỉnh lỵ Lạng Sơn ngày nay) và Ải Lưu cho đến Chi Lăng.  Ngày 10-10 (20-9 âm lịch), phục binh của bọn ông Lê Sát và Lưu Nhân Chú giết Liễu Thăng ở gò núi Mã Yên (cao 40 m) của thung lũng Chi Lăng và đánh bại quân Minh ở Chi Lăng giết 1 vạn quân Minh.  Quân Minh tiếp tục tiến về hướng nam.  

Ngày 15-10, quân Lam Sơn của bọn ông Lê Sát và Lưu Nhân Chú cùng với quân tiếp viện của các ông Nguyễn Lý và Lê Văn An phục binh ở Cần Trạm (nay là thị trấn Kép, Lạng Sơn) giết Lương Minh.  Quân Minh lại đi về phía nam.  

Quân Lam Sơn (của bọn ông Lê Sát và bọn ông Nguyễn Lý) lại phục binh ở Phố Cát (nay là Xương Lân, huyện Lạng Giang, Bắc Giang) giết thêm 1 vạn quân Minh, Lý Khánh tự tử.  Thôi Tụ dẫn quân Minh lại chạy về phía nam thì bị thành Xương Giang của ông Trần Nguyên Hãn chận đường nên phải đóng quân ở đồng trống cách đó 3 km (nay là xã Tân Dĩnh, h. Lạng Giang, Bắc Giang).  Chỗ nầy thì phía nam có thành Xương Giang, phía tây và tây nam có sông Thương, phía đông nam có sông Lục Nam và phía bắc có quân Lam Sơn ở Phố Cát (của bọn ông Lê Sát và bọn ông Nguyễn Lý).  Thôi Tụ muốn trá hàng để có thì giờ vượt qua bến Bình Than của sông Lục Nam để chạy qua Chí Linh (nay là Chí Linh, Hải Dương).  

Tuy nhiên Bình Định Vương Lê Lợi sai các ông Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Trương Lôi và 3000 quân thiết đội (quân tinh nhuệ là cận vệ của ông Lê Lợi) với 4 con voi cùng quân Lam Sơn ở Phố Cát mở cuộc tấn công cuối cùng giết 3 vạn quân Minh, bắt sống Thôi Tụ và Hoàng Phúc (ngày 3-11). 

 

Mộc Thạnh ở ải Lê Hoa nghe tin thua trận của cánh quân Liễu Thăng hết hồn rút chạy.  Các ông Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả và Nguyễn Chích rượt theo giết 1 vạn quân Minh. 

 

Thế là Vương Thông ở Đông Quan phải đầu hàng.  Sau “Hội thề ở Đông Quan”, ông Lê Lợi tha cho hàng tướng (như Vương Thông và Hoàng Phúc) và hàng quân về Tàu.  

 

Ông Lê Lợi bình định quân Minh thu về lãnh thổ Đại Việt.  Vua Trần Cao bỏ trốn thì bị bắt và có thể là tự tử bằng thuốc độc hay bị ông Lê Lợi giết chết (theo Khâm Định Việt Sử Cương Mục).   Bình Định Vương Lê Lợi lên ngôi là vua Lê Thái Tổ (1428).  


 

* Ải Chi Lăng và Trận Chi Lăng

 

Ải Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn) và sông Bạch Đằng là 2 cửa ngỏ ra vào Đại Việt của quân Tàu xâm lược.  (Ải = chỗ hiểm trở).  Riêng ải Chi Lăng còn là nơi chiến thắng của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nhà Tiền Lê (981).  Sau trận Bạch Đằng nhà Trần cũng có chiến thắng ở vùng núi Kỳ Cấp gần Chi Lăng (1288) là chiến dịch cuối cùng trong lần kháng Nguyên thứ ba.  

 

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết về chiến công của Lê Đại Hành:

Năm 981, quân nhà Tống chia làm 3 đạo vào Đại Cồ Việt: Hầu Nhân Bảo đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ vào cửa sông Hồng rồi theo sông Hồng đến bến Tây Kết (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên) và Lưu Trừng dùng cửa Nam Triệu vào sông Bạch Đằng.  

Vua Lê Đại Hành đóng cọc ngăn sông cầm chân quân Tống của Lưu Trừng ở sông Bạch Đằng.  Kế đó vua theo sông Thương đến Chi Lăng (nam Lạng Sơn) dùng kế trá hàng bắt được Hầu Nhân Bảo đem chém đầu.  Trần Khâm Tộ nghe tin sợ hãi rút quân, vua Lê Đại Hành đem toàn quân tiến đánh, quân Tống của Trần Khâm Tộ thua to chết quá phân nửa, thây chết đầy 

đồng.

pth_3daoquan.JPG

Ải Chi Lăng còn có biệt danh là Quỷ Môn.

 

ẢI CHI LĂNG

Địa đầu phương bắc, ải Chi Lăng

Lịch sử lừng danh sánh Bạch Đằng

Nổi tiếng Quỷ Môn đầy hiểm yếu

Đuổi quân Trung Quốc hết hung hăng

Lê Hoàn phá Tống trừ Nhân Bảo (*)

Lê Lợi bình Ngô sát Liễu Thăng

Chiến tích muôn đời lưu hậu thế

Anh hùng nước Việt chống xâm lăng.

(Phan Thượng Hải)

12/31/14

 

(*) Chú thích: Hầu Nhân Bảo.


 

THƠ VĂN CỔ ĐIỂN

 

* Ải Chi Lăng và Trận Chi Lăng 

 

Đây là những lời thơ tả ải Chi Lăng của ông Phạm Sư Mạnh thời nhà Trần và ông Nguyễn Du thời nhà Nguyễn. 

 

CHI LĂNG ĐỘNG                                     ĐỘNG CHI LĂNG

Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề                         Nổi trống tuần biên bước dặm ngàn,

Phiên thành man trại nhất ê kê                    Xem tày trùng nhỏ khóm Phiên, Man.

Giản nan giản bắc hồng kỳ chuyển             Quạt cờ đồng đội che đầu núi,

Quân hậu quân tiền thanh hủy đề                Gầm thét ba quân kéo một đoàn.

Lâu Lại cốc thâm ư tỉnh để                          Lâu Lại hang sâu dò khó tới,

Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề                  Chi Lăng cửa hiểm vượt khôn toan.

Lâu phong bạt mã cao hồi thủ                     Ngựa dong trước gió nghiêng đầu ngắm,

Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê.           Cung khuyết mây đài lúc rợp tan.

(Phạm Sư Mạnh)                                          (Đinh Văn Chấp dịch)

 

QUỶ MÔN ĐẠO TRUNG                       ĐƯỜNG QUA ẢI QUỶ MÔN

Quỷ Môn thạch kính xuất vân côn           Quỷ Môn đường đá tỏa mây tuôn

Chính khách nan quy dục đoạn hồn         Lữ khách về Nam sợ mất hồn

Thụ thụ đông phong xuy tống mã            Gió thổi cây cây chùn ngựa tiễn

Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên                 Trăng tàn núi núi vượn kêu dồn

Trung tuần lão thái phùng nhân lãn         Trung niên già thói lười nghênh khách

Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn                   Thấm lạnh trên đường rượu uống luôn

Sơn ổ hà gia tham đại thụy                       Xóm núi nhà ai tham ngủ quá

Nhật cao do tự yểm sài môn                     Then cài cửa đóng nắng cao vương.

(Nguyễn Du)                                              (Nguyễn Thạch Giang dịch)

 

Ông Phạm Sư Mạnh không hề nhắc đến chiến thắng của Lê Đại Hành xảy ra trước và chiến thắng ở vùng núi Kỳ Cấp gần như cùng thời với ông.

Ông Nguyễn Du đã ra làm quan với nhà Nguyễn cũng không nhắc đến chiến thắng của Bình Định vương Lê Lợi!

 

Ngô Thì Nhậm của nhà Tây Sơn cũng có bài thơ tả ải Chi Lăng và nhắc đến lịch sử.  Lời thơ chỉ nhắc đến Liễu Thăng và Mã Viện của Trung Quốc!

 

LẠNG SƠN ĐẠO TRUNG                               DỌC ĐƯỜNG LẠNG SƠN

Nhị Lạng giang sơn cảnh giới liên (*)               Núi sông xứ Lạng kế liền nhau
Bàng thông Kinh Quảng tiếp Cao Tuyên (*)     Tiếp với Kinh Tuyên nối Quảng Cao
Khê lưu bôn sử tranh quy hải                             Suối nước băng băng dồn biển cả
Lĩnh đạo thùy thê trực thướng thiên                   Núi non sừng sững vút trời cao
Thần kiếm thượng lưu Minh tướng thạch (*)     Hòn đá tướng Minh còn vết chém
Quỷ môn không tỏa Hán từ yên (*)                    Khói đền tướng Hán khóa chặt vào
Tự tòng nam bắc thông quan hậu                        Sau khi Nam Bắc thông quan ải
Chỉ điểm tinh biền đáo tự Yên. (*)                      Sứ giả Yên Kinh đến đón chào.

(Ngô Thì Nhậm)                                                  (Lâm Giang dịch)

 

(*) Chú thích:

Nhị Lạng = Lạng Sơn và Lạng Giang (Bắc Giang)

Kinh Quảng = Kinh Châu (Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay) và Quảng Châu (Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay).

Cao Tuyên = Cao Bằng và Tuyên Quang

Minh tướng thạch: Tại đèo Mã Yên nơi quân Minh bị phục binh và Liễu Thăng bị giết, tương truyền linh hồn Liễu Thăng thành 1 hòn đá hình người không đầu, trên mình có hằn những vết gươm.

Từ = miếu thờ.  Từ yên = khói của miếu thờ.  Hán từ: chỉ miếu thờ tướng Hán là Mã Viện.  Mã Viện có đi qua đây trong chiến dịch đánh Hai Bà Trưng. 

Quỷ môn: thuộc Chi Lăng, Lạng Sơn.

Chỉ điểm tinh biền đáo tự Yên = Có người đưa xe sứ thần từ Yên kinh tới (Yên kinh là kính đô của nhà Minh và nhà Thanh, ngày nay là Tp Bắc Kinh).  Đó là thông lệ tiếp sứ thần của Trung Quốc!

pth_Minhtuongthach.JPG

(Hòn đá không đầu của Liễu Thăng - Minh tướng thạch)


 

* Trận Chi Lăng (1427) 

 

Ông Nguyễn Trãi, người cùng thời, có tả lại chiến thắng Chi Lăng trong Bình Ngô Đại Cáo. 

Bình Ngô Đại Cáo viết (bản dịch ra Việt ngữ của Ngô Tất Tố):

 

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;


Thật ra lịch sử sau nầy mới biết được là Lê Thái Tổ và nhà Lê (cũng như nhà Mạc) phải triều cống cho nhà Minh và nhà Thanh của Trung Quốc mỗi 3 năm một lần.  Trong lễ triều cống luôn có 2 tượng người bằng vàng (đại thân kim nhân) để đền bù cho việc giết 2 tướng của nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh trong trận Chi Lăng.

Bí mật nầy được biết nhân việc đi sứ Trung Quốc của 2 ông Ngô Văn Sở và Phan Huy Ích (1788) và qua bài thơ của vua Càn Long.

 

Đây là chi tiết của cuộc đi sứ nầy cùng với 2 bài thơ Xướng Họa của vua 2 nước:

Với quân nghiệp lẫy lừng, vua Quan Trung Nguyễn Huệ đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh xâm lược (đầu năm 1788).  Vua Càn Long nhà Thanh nghị hòa và mời vua Quang Trung thăm Yên Kinh (Bắc Kinh bây giờ).  Theo chính sử, vua Quang Trung chọn cháu kêu bằng cậu rất giống mình tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương rồi sai ông Ngô Văn Sở và ông Phan Huy Ích đưa sang Trung Quốc.  Trong lễ triều cống có đem theo 2 con voi đực (!?).  Tại hành cung ở Nhiệt Hà, vua Càn Long và vua Quang Trung (giả) làm lễ ôm gối như là tình cha con, hội với các thân vương và trao đổi 2 bài thơ Xướng Họa.  

 

(Xướng)

Doanh phiên nhập cận trị thời tuần                

Sơ kiến hồn như cựu thức thân                      

Y cổ vị văn y tượng quốc (1)                              

Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân (2)                  

Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch                   

Gia hội ư kim miễn thế nhân                          

Vũ yểm văn tu thiên thuận đạo                      

Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân.                  

(Vua Càn Long)                                                    


 

(*) Chú thích: Theo Việt Nam Sử Lược, những câu thơ này nhắc lại lịch sử:

(1) 

Triều đình nhà Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết đem quân sang chiếm nước Đại Việt nhưng bị ông Lý Thường Kiệt chận ở sông Như Nguyệt.  Một thời gian sau hai bên giảng hòa.  Khi rút về đến gần biên giới, quân Tống chiếm giữ châu Quảng Nguyên (nay thuộc Cao Bằng) vì (người) nơi đây có nhiều vàng.  Vua Lý Nhân Tông đem voi sang triều cống để đòi lại (giống như vua Quang Trung?).  Cuối cùng nhà Tống phải trả lại châu Quảng Nguyên.  Người Tàu có 2 câu thơ chê nhà Tống:

“Nhân tham Giao Chỉ tượng (Vì tham voi Giao Chỉ)

Khước thất Quảng Nguyên kim” (Chạy và mất vàng Quảng Nguyên)

(2) 

Sau khi đuổi quân Minh, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) xin cầu phong với nước Tàu.  Nhà Minh bắt ông phải lập một hậu duệ của nhà Trần là Trần Cao lên làm vua.  Lê Thái Tổ bèn ám sát Trần Cao và nói là nhà Trần không còn ai nữa nên nhà Minh mới thuận cho.  Nhưng từ thời vua Lê Thái Tổ, nước Đại Việt có lệ 3 năm phải triều cống nhà Minh 1 lần.  Lần nào cũng phải đúc 2 người bằng vàng gọi là “đại thân kim nhân” để thế cho 2 tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh bị giết trong trận Chi Lăng.  

 

(Họa)

Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần              

Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn thân             

Ba trừng quế hải tuân hầu độ                           

Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân              

Vạn lý thê hành quy hữu cực (*)                          

Cửu trùng vũ lộ mộc đồng nhân                     

Căn hành cảnh ngưỡng vô cương thọ (*)            

Phổ suất tư đào Đế thế xuân.                            

(Vua Quang Trung)                                               

 

(*) Chú thích:

Cực = Ngôi vua

Căn hành = Gốc ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) là căn bản của trời đất.

 

Phỏng dịch:

 

(Xướng)                                                          (Xướng)

Doanh phiên nhập cận trị thời tuần                Sắp đi tuần thú, gặp phiên thần

Sơ kiến hồn như cựu thức thân                       Mới thấy, tưởng chừng đã rất thân

Y cổ vị văn y tượng quốc                               Chuyện cũ từng nghe nơi tượng quốc 

Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân                    Triều xưa có ghét việc kim nhân 

Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch                   Tránh xa chiến dịch, theo kinh sách

Gia hội ư kim miễn thế nhân                          Nay hội hoàng gia, đỡ thế dân

Vũ yểm văn tu thiên thuận đạo                       Võ yểm, văn tu, trời dẫn đạo

Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân.                 Đại Thanh phước lộc mãi muôn xuân. 

(Vua Càn Long)                                              (Phan Thượng Hải dịch)

 

(Họa)                                                               (Họa) 

Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần              Đưa chúa tuần du tỏ ý thần

Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn thân             Một lòng bội phục kính người thân

Ba trừng quế hải tuân hầu độ                          Sóng xô, tuân độ từ Nam Hải 

Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân             Nắng rọi, dưới thềm đến thánh nhân 

Vạn lý thê hành quy hữu cực                          Muôn dặm chung quy về Bệ Hạ

Cửu trùng vũ lộ mộc đồng nhân                     Chín tầng mưa móc khắp toàn dân

Căn hành cảnh ngưỡng vô cương thọ             Ngưỡng trông sống mãi như trời đất

Phổ suất tư đào đế thế xuân.                           Hoàng đế trị vì thế giới xuân. 

(Vua Quang Trung)                                         (Phan Thượng Hải dịch)



 

Ải Chi Lăng ngày nay

pth_aiChiLangnow.JPG

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Tài liệu tham khảo:

1) Thơ và Sử Việt - Thời Lập Quốc (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Thơ và Sử Việt - Nhà Lê (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

3) Thơ và Sử Việt - Nguyễn Trãi (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

4) Thơ và Sử Việt - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

5) Hình ảnh từ Google.


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

T

  THƠ VÀ SỬ VIỆT - HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VÀ CHIÊM THÀNH 

 

                                       Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

Câu chuyện của Huyền Trân Công chúa và Trần Khắc Chung trong Thơ và Sử đã tạo nên sự chú ý của hậu thế về lịch sử giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

 

HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA 

 

*

Đời Trần Thái Tông, Vua đánh Chiêm Thành (1252) bắt vương phi của vua Chiêm Thành (Jaya Paramesvaravarman II) là Bồ Gia La.  Sau đó 2 nước đều bị quân Mông Cổ tấn công nên không giao tiếp với nhau.

Năm 1306, theo lời hứa với vua Chiêm Thành trong khi du hành ở đây 5 năm trước, Thượng Hoàng Nhân Tông gả con gái là Huyền Trân công chúa (1287-1340) cho vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Sinvaharman III) để đổi lấy 2 châu Ô và Rý (còn đọc là Lý) của Chiêm Thành (nay là vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên).  Lúc đó vua Chế Mân đã có một bà Hoàng hậu chánh là người Java (Nam Dương). Quần thần đồng ý kể cả ông Trần Khắc Chung.  


 

* "Chiêu Quân Giá Hồ"

 

Một số ít văn thần trong triều mượn chuyện vua Hán đem Chiêu Quân (tên là Vương Tường) gả cho vua Hung Nô mà làm thơ quốc âm bằng chữ Hán Nôm để can gián việc nầy.  Toàn bộ có 48 bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú, tựa là “Chiêu Quân giá Hồ”, một số còn truyền tụng đến nay.  Đây là những bài thơ Hán Nôm thể Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú xưa nhất của lịch sử thi văn Việt Nam còn tồn tại, nếu bài thơ “Bán Than” không phải là của ông Trần Khánh Dư.  Những văn thần nầy có thể là những ông Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Trần Thì Kiến, Nguyễn Sĩ Cố… đều nổi danh trong văn học sử.

 

Bài 1 có thể là bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú đầu tiên bằng chữ Hán Nôm:

 

VUA HÁN NGUYÊN ĐẾ TỨC VỊ (Bài 1)

Viêm Lưu trời mở vận trùng quang

Ngôi báu xưa rày vỗ bốn phang (phương)

Rút vỏ gươm A thiêng thế nước (*)

Thêm chân non Thái vững âu vàng (*)

Trong triều giũ áo nền nhân thấm

Ngoài cõi nghiêng tai tiếng đức vàng

Hạng hải thê sơn đều ngóng phục

Lăng loàn hiềm một chút Hồ Khang (Khương). (*)

(Trần triều văn thần)

 

(*) Chú thích:

Gươm Thái A, một kiếm quý thời Xuân Thu

(Cái) âu (bằng) vàng (=Kim âu).  Nghĩa bóng là (Thiên hạ) vững như cái âu bằng vàng.

Hồ Khương: người Hồ và người Khương ở phương Bắc.  Chiêu Quân sẽ xuất giá về đó.

 

Bài 12 và bài 20 tỏ ý muốn can vua đừng gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành:

 

CHÚA THUYỀN VU XIN HÒA THÂN (Bài 12)

Hán Hồ từ thuở định thông gia

Chỉ núi thề non nghĩa giảng hòa

Tần Tấn duyên xưa thu lại tốt (*)

Bắc Nam ước cũ xếp can qua

Họ Trần đặt rối mưu con trẻ (*)

Ả Lữ trao thơ chối tủi già (*)

Thiên Tử không nghe thông ước cũ (?)

Một trời âu hẵn một thu xa.

(Trần Triều văn thần)

 

(*) Chú thích:

Lại=quan (lại).  Tốt=(binh) lính.  Thời Xuân Thu nước Tần và nước Tấn kết thông gia (Tần Mục Công lấy Mục Cơ, con Tấn Hiến Công) mà lợi cho 2 nước.

Trần Bình đời Hán Cao Tổ mưu dối Ý Chi (vợ của Thuyền Vu là vua của nước Hồ).

Lữ Hậu, vợ Hán Cao Tổ, bị chúa Thuyền Vu đưa thơ làm nhục (bằng cách đòi lấy bà góa phụ nầy).

 

VUA MUỐN GIỮ VƯƠNG TƯỜNG (Bài 20)

Chi để hương trời lộn cỏ rêu

Vậy ban chiếu chỉ phán hòa triều

Thư Hồ giấy mỏng lời xuôi ngược

Trướng ngọc non dầy nghĩa dấu yêu

Vã trước Bạch Đăng thù chửa trả (*)

Mà nay hồng phấn của đâu liều

Chẳng bằng sắc nước làm yên nước

Kén tướng binh nhung mở cõi Nghiêu. (*)

(Trần triều văn thần)

   

(*) Chú thích: 

Hán Cao Tổ bị người Hung Nô (=rợ Hồ) vây ở Bạch Đăng.

Cõi Nghiêu: nước của vua Nghiêu, thời thạnh trị trong lịch sử Trung Quốc.

 

*

Huyền Trân công chúa sang Chiêm Thành là Hoàng Hậu Paramecvari, sinh một hoàng tử.  

11 tháng sau vua Chế Mân chết (1307).  Vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung rước Huyền Trân công chúa đi đường biển trở về.  Hai người đi gần 1 năm trời mới về tới Thăng Long.  Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trần Khắc Chung tư thông với công chúa Huyền Trân trong cuộc hành trình nầy.  

Sau đó theo lệnh của Thượng Hoàng Nhân Tông, công chúa Huyền Trân đi tu ở chùa Trâu Sơn (Bắc Ninh) cho đến khi qua đời 23 năm sau (1340).  

 

Sử gia hậu thế cũng có lời bàn:

 

CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN (Nguyên bản) 

Đổi chác xưa nay khéo nực cười

Vốn đà chẳng mất lại thêm lời

Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm

Một gái thuyền quyên đáng mấy mươi

Lòng đỏ khen ai lo việc nước

Môi son phải giống mãi trên đời

Châu đi rồi lại châu về đó

Ngơ ngẫn nhìn nhau một lũ Hời!

(Hoàng Cao Khải)

 

CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN (Họa) 

Nhà Trần tôi chúa đáng chê cười

Lợi dụng Huyền Trân để có lời

Hôn ước vua Chiêm thêm một vợ

Tư thông gái góa mới hai mươi (*)

Hồng nhan mệnh bạc vì non nước

Hiếu nữ tình chung trọn nghiệp đời

Ô Lý đổi trao về Đại Việt

Thương nàng công chúa, tội dân Hời! (*)

(Phan Thượng Hải)

 

(*) Chú thích:

Lúc đó (năm 1307) Huyền Trân Công chúa được 20 tuổi.  Ông Trần Khắc Chung chắc chắn là hơn 40 tuổi và có vợ con rồi vì lúc năm 1285 ông có đi sứ đối khẩu với Ô Mã Nhi thì phải hơn 20 tuổi rồi.

Người dân Hời = người dân Chiêm Thành.  (Xưa gọi là người Chàm, bây giờ là người Chăm).


 

* Trần Khắc Chung

 

Ông Trần Khắc Chung (?-1330) tên thật là Đỗ Khắc Chung, nhờ có công đi sứ chống lại Tướng Ô Mã Nhi của giặc Nguyên nên được vua Trần cho đổi thành họ Trần.  Ông Trần Khắc Chung làm quan đầu trong triều đình đời vua Anh Tông và Minh Tông.  

 

Hoàng tộc nhà Trần biết chuyện (tư thông) giữa ông và công chúa Huyền Trân đều ghét ông Trần Khắc Chung.  Hưng Nhượng Vương (con Hưng Đạo Vương) có mắng ông Trần Khắc Chung tại triều đình.  

 

Sau đó có người vu cáo Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn (em vua Trần Anh Tông), Trần Khắc Chung xúi vua Trần Minh Tông bỏ đói ông nầy cho đến chết (mặc dù Trần Quốc Chẩn là chú của Minh Tông và là cha của Hoàng hậu) và còn để cho hàng trăm người nhà ông nầy chết oan theo.  Về sau việc vỡ lỡ nhưng ông Trần Khắc Chung không bị tội.  Khi ông Trần Khắc Chung chết, con của ông Trần Quốc Chẩn cho người đào xác lên mà “bằm nhỏ”. (Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).


 

ĐẠI VIỆT VÀ CHIÊM THÀNH

 

* Đại Việt và Chiêm Thành sau khi Huyền Trân Công Chúa về Đại Việt 

 

Năm 1311, vua Chiêm Thành là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV), con Chế Mân, muốn lấy lại 2 châu Ô Lý.  Vua Trần Anh Tông đem ông Phạm Ngũ Lão cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân (Chẩn) và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư phân làm 3 đạo quân đánh Chiêm Thành (1312) bắt Chế Chí về Đại Việt và phong em là Chế Đà A Bà còn gọi là Chế Năng (1312-1318) làm vua Chiêm Thành.  Chế Chí chết ở Đại Việt.

Sau cuộc viễn chinh, vua Trần Anh Tông có làm bài thơ:

 

CHINH CHIÊM THÀNH HOÀN CHU BẠC PHÚC THÀNH CẢNG

(Đánh Chiêm Thành về đậu thuyền ở cửa biển Phúc Thành)

 

Cẩm lãm quy lai hệ lão dung                    Thuyền gấm đường về buộc gốc đa

Hiểu sương hoa trọng thấp vân bồng        Sương mai nặng hạt ướt mui là

Sơn gia vũ cước thanh tùng nguyệt           Đầu thông xóm núi trăng vừa ló

Ngư quốc triều đầu hồng liệu phong         Răm đỏ làng chài gió đã qua

Vạn đội tinh kỳ quang hải tạng                 Muôn đội cờ bay vùng biển rạng

Ngũ canh tiêu cổ lạc thiên cung                Năm canh kèn trống điện trời sa

Thuyền song nhất chẩm giang hồ noãn     Bên song chợt ấm lòng sông biển

Bất phục du chàng nhập mộng trung.       Màn trướng thôi vương giấc mộng hoa.

 

(Trần Anh Tông)                                       (Phạm Tú Châu dịch)


 

Vua Chế Năng cũng muốn chiếm lại Ô Lý nên Trần Minh Tông cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn và ông Phạm Ngũ Lão sang đánh (1318), Chế Năng thua trận chạy trốn sang Java (Nam Dương).  

Nhà Trần lập một người Chàm từng sống ở Đại Việt là Chế Ba A Niêm hay Chế Anan làm vua (1318-1342).  Nước Chiêm Thành trở thành một “chư hầu” (vassal) của Đại Việt.  Khi Chế Anan chết, người em rể là Trà Hoa Bồ Đề được người Chàm ủng hộ đuổi con của Chế Anan là Chế Mô về Đại Việt.  Nước Chiêm Thành lại độc lập khỏi Đại Việt.  Sau nầy (1353) vua Trần Dụ Tông cho quân đưa Chế Mô về nước Chiêm Thành (làm vua) nhưng bị vua Trà Hoa Bồ Đề (1342-1360) đánh bại.  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vua Trà Hoa Bồ Đề chết, người em lên nối ngôi là vua Chế Bồng Nga (1360-1390). 

Vua Chế Bồng Nga (Po Binasuor) là vị vua thứ 39 của lịch sử Chiêm Thành và là vị vua hùng mạnh nhứt.  Chữ “Chế” không phải là “họ” (family name).  Nó là âm tiếng Hán từ chữ “Cei” của Chiêm Thành có nghĩa là “Uncle" thường dùng để gọi những vị Tướng Quân (Generals).


 

* Chế Bồng Nga

 

- Thời Trần Nghệ Tông

 

Vì mẹ của Dương Nhật Lễ sang cầu cứu Chiêm Thành, vua Chế Bồng Nga đem quân tấn công, theo cửa Đại An vào sông Đáy cướp phá Thăng Long làm vua Trần Nghệ Tông phải bỏ chạy khỏi kinh đô (1371).  

 

- Thời Trần Duệ Tông

 

Sau 2 năm làm vua, vua Trần Nghệ Tông (52 tuổi) giữ thông lệ cũ lên làm Thái Thượng Hoàng truyền ngôi cho em là Cung Tuyên Vương Kính tức là Trần Duệ Tông (năm 1373).  Tháng giêng năm 1377, vua Trần Duệ Tông (1337-1377) đi đánh Chiêm Thành để báo thù.  Vua bị Chế Bồng Nga phục binh bắn chết ngay trong thành Đồ Bàn.  Lê Quý Ly giữ hậu quân ở cửa Thị Nại bỏ chạy không tiếp viện.

 

- Thời Trần Phế Đế

 

Thượng Hoàng Nghệ Tông lập con thứ của Duệ Tông là Hoàng tử Trần Hiện (1361-1388), cháu kêu mình bằng bác, đang 16 tuổi, có mẹ là Gia Từ hoàng hậu (em của Lê Quý Ly).  Đó là vua Trần Phế Đế.  

Vua Chế Bồng Nga của Chiêm Thành lại tấn công và cướp phá Thăng Long vào tháng 11 năm 1377 (theo cửa Thần Phù vào sông Chính Đại ở Yên Mô, Ninh Bình) và vào năm 1378 (theo sông Đại Hoàng tức là sông Châu Giang ngày nay nên chắc phải vào cửa Đại An của sông Đáy rồi theo sông Châu Giang qua sông Hồng?).  

Lê Quý Ly và quân nhà Trần chận đứng được quân Chiêm vào năm 1380 (ở Thanh Hóa) và Nguyễn Đa Phương thắng quân Chiêm vào năm 1382 (ở cửa Thần Phù).  

Năm 1383, Chế Bồng Nga cùng tướng là La Khải, theo sơn lộ (? từ Thanh Hóa) đến Quốc Oai (nay là Quốc Oai, Hà Tây) vào cướp phá Thăng Long lần thứ 4, Nghệ Tông lại chạy qua bên kia sông Hồng lánh nạn.  

Quân Mông Cổ chỉ chiếm Thăng Long có 2 lần nhưng quân Chiêm Thành đánh hạ Thăng Long 4 lần (1371, 1377, 1378 và 1383), cướp phá và rút về.  

 

- Thời Trần Thuận Tông

 

Thượng Hoàng Nghệ Tông phế Trần Phế Đế và ép thắt cổ chết rồi lập con nhỏ của mình là Ngung (1377-1399) làm vua là Trần Thuận Tông (năm 1388).  

Đầu năm 1389, Chế Bồng Nga lại tấn công Đại Việt đánh bại Lê Quý Ly ở Thanh Hóa nhưng nhờ ông Nguyễn Đa Phương thủ bờ bắc sông Ngu Giang làm kế nghi binh cấm nhiều cờ xí ở dinh trại nên quân Chiêm không dám tấn công và rút về.  Lê Quý Ly ghen tị giết ông Nguyễn Đa Phương.  Ở địa phận Thanh Hóa có hạ lưu sông Mã.  Khi xưa khi sông Mã chảy gần tới biển là khúc sông Tào Xuyên (gọi là Ngu Giang) ra cửa Lạch Trường nhưng sông và cửa nầy bị hẹp thời nhà Nguyễn nên sông Mã mở rộng theo 1 nhánh nhỏ chảy ra cửa Lạch Hới gần núi Hàm Rồng ngày nay.  Do đó những lần vào Thanh Hóa chắc Chế Bồng Nga dùng cửa Lạch Trường của sông Mã.

Tháng 11 năm 1389, vua Chế Bồng Nga lại vào sông Hồng (cửa Ba Lạt?) đến Hoàng Giang (? khúc sông Hồng ở Nam Xương, Hà Nam), đóng quân và cướp phá ở vùng Thái Bình và Hưng Yên.  Lê Quý Ly cứ bị đánh thua nên Thượng Hoàng Nghệ Tông dùng ông Trần Khát Chân (dòng dõi ông Trần Bình Trọng) cầm quân chống giặc.  Đầu năm 1390, ông Trần Khát Chân đóng quân ở sông Hải Triều (khúc sông Luộc ở giữa Tiên Lữ, Hưng Yên và Hưng Nhân, Thái Bình).  Nhờ một hàng tướng Chiêm Thành (tên là Ba Lậu Kê) cho biết dấu hiệu riêng của thuyền Chế Bồng Nga (có sơn màu xanh), ông Trần Khát Chân nhân lúc Chế Bồng Nga đi thị sát mặt trận ở sông Hải Triều cho quân tập trung hỏa khí bắn vào chiếc thuyền nầy và may mắn giết chết Chế Bồng Nga.  Tướng La Khải và quân Chiêm phải rút về nước, con cháu Chế Bồng Nga đầu hàng và về ở Đại Việt.  Tướng La Khải lên làm vua và từ đó nước Chiêm Thành suy yếu không còn cạnh tranh nổi với Đại Việt.

 

Hậu thế có bài thơ:

 

CHẾ BỒNG NGA

Sơn hà nguy biến tự Chiêm Thành

Bởi Chế Bồng Nga khởi chiến tranh

Đại Việt ra vào không quản ngại

Thăng Long cướp phá mặc tung hoành

Vua Trần thất thế, điều nhân quả?

Sông Luộc đưa đường, chuyện tử sanh 

Hỏa khí Khát Chân tàn thảm họa

Nên khi nước loạn biết hùng anh.

(Phan Thượng Hải)

4/18/15

 

- Thời vua Hồ Quý Ly

 

Năm 1402, nhà Hồ sai tướng Đỗ Mãn sang đánh Chiêm Thành.  Vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm Động hay Ba Động (tỉnh Quảng Nam ngày nay) để xin bãi binh.  Vua Hồ Quý Ly bắt Chiêm Thành phải nhường thêm đất Cổ Lũy hay Cổ Lụy (tỉnh Quảng Ngãi ngày nay) mới chịu rút quân về.  Người Chiêm bỏ 2 vùng đất nầy di cư về Chiêm Thành.  Vua Hồ Quý Ly cho những người dân Đại Ngu có tiền của mà không có đất vào ở và bắt đầu sở hữa đất đai ở đây.


 

* Lịch sửi Việt chiếm Chiêm Thành

 

Chuyện công chúa Huyền Trân đổi lấy 2 châu của Chiêm Thành là một trong những quá trình nước Đại Việt chiếm nước Chiêm Thành (trong hơn 600 năm).

 

Đây là quá  trình lịch sử:

Lúc đầu Hoành Sơn (Đèo Ngang) là biên giới giữa nước Đại Cồ Việt (rồi Đại Việt) và nước Chiêm Thành.

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành bắt vua Chế Củ về Thăng Long.  Vua Chế Củ dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (gồm Quảng Bình và phần bắc Quảng Trị) để chuộc mình.

Năm 1306, Thượng hoàng Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân đổi lấy 2 châu Ô và Lý (phần nam Quảng Trị và Thừa Thiên).  Biên giới là đèo Cả (Hải Vân).

Năm 1402, Chiêm Thành cầu hòa, dâng cho vua Hồ Quý Ly đất Ba Động (Quảng Nam) và đất Cổ Lũy (Quảng Ngãi).

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Đồ Bàn và vùng chung quanh (nay là Qui Nhơn).  Biên giới là đèo Cù Mông.

Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng chiếm Phú Yên (Tuy Hòa)

Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm Nha Trang (Khánh Hòa)

Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh chiếm Phan Rang và Phan Rí (Phan Thiết).  Nước Chiêm Thành bị tiêu diệt.

 

* Vùng Tây Nguyên

 

Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn cùng các tướng Đinh Liệt, Lê Niệm (cháu nội Lê Lai) và 26 vạn quân Đại Việt hạ kinh đô Đồ Bàn của nước Chiêm Thành, “cắt 4 vạn thủ cấp”, bắt vua Bà La Trà Toàn, gọi tắt là Trà Toàn (1460-1471), và hơn 3 vạn (30,000) tù nhân.  Tướng Bồ Trì Trì rút về nam đèo Cù Mông (giữa Qui Nhơn và Phú Yên) và lên làm vua.  Nước Đại Việt thêm đất Qui Nhơn bành trướng tới đèo Cù Mông.

 

Vua Lê Thánh Tông chia nước Chiêm Thành còn lại ra làm 3 nước:  

Bồ Trì (hay Bồ Trì Trì) là vua nước Chiêm Thành gồm Nha Trang, Phan Rang và Phan Thiết.

Hoa Anh Vương cai trị nước Nam Hoa ở Phú Yên 

Nam Bàn Vương cai trị nước Nam Bàn gồm vùng đất phía tây núi Thạch Bì (núi Đại Lĩnh có đèo Hải Vân) tức là vùng Tây Nguyên (Cao Nguyên Trung Phần) ngày nay. 

 

Vùng Tây Nguyên nầy gồm vùng Pleiku, Komtum, Ban Mê Thuột và Lâm Đồng (Đà Lạt-Bảo Lộc).  

Vùng nầy chính thức nhập vô bản đồ nước ta vào thời vua Minh Mạng, chỉ có người Thượng sinh sống và hình như không có cơ quan hành chánh trong thời chúa Nguyễn (dù đã chiếm Phú Yên và Chiêm Thành), nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.  

Năm 1891, Bác sĩ Yersin thám hiểm công viên Lâm Đồng và báo cáo nên người Pháp mới để ý đến vùng nầy.  Từ năm 1896 đến 1899, chính phủ Pháp áp lực triều đình nhà Nguyễn để họ tự cai trị vùng Tây Nguyên (như thuộc địa) và cho người Pháp lên mở đồn điền.  Người Pháp lập tỉnh Komtum (1907), tỉnh Pleiku (1917), thị xã Đà Lạt là nơi nghĩ mát (1917), tỉnh Lâm Đồng (1920) và tỉnh Darlac ở Ban Mê Thuột (1923).

Năm 1946, sau khi trở lại Đông Dương, Cao ủy D’Argenlieu thành lập “Xứ Thượng Nam Đông Dương” (Pays montagnards du Sud Indochinois) do người Thượng tự trị (như Nam Kỳ Quốc).  

Năm 1950, Xứ Thượng Đông Dương sát nhập vào Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại (gọi là Hoàng Triều Cương Thổ) cho đến năm 1955 thì thuộc nước Việt Nam Cộng Hòa của chính phủ Ngô Đình Diệm. 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Thơ và Sử Việt phần Nhà Trần.

 

Tài liệu tham khảo

1) Thơ và Sử Việt - Nhà Trần (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Thơ và Sử Việt - Nhà Lê (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com  


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

HƠ VÀ SỬ VIỆT - HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VÀ CHIÊM THÀNH
Bs Phan Thượng Hải biên soạn

PTH_Tientrinhnamtien.JPG

 HOA NGHIÊM TÔNG

 

                                         Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Hoa Nghiêm Tông chủ yếu dựa trên giáo lý của Hoa Nghiêm Kinh.  Sư Pháp Tạng (643-712) tổ chức hoàn thành giáo lý của Hoa Nghiêm Tông.


 

* Toàn Thể và Pháp Giới

 

Kinh Hoa Nghiêm (vào thế kỷ thứ 1 tr CN) mô tả Phật Quả của Toàn Thể (Universal Buddhahood) chứ không của Cá Thể (Individual Buddhahood) như những Tông Phái trước:

Tất cả chúng sanh đều bị thấm vào bởi trí tuệ của Phật (Buddhajnàna).  Đó như là bào thai (=Tạng) của Phật (=Như Lai Tạng).  Đó là sự kết hợp của (Phật) tuyệt đối và (Chúng Sanh) tương đối.

"Tất cả trong Một, Một trong Tất cả" (All in One, One in All).  Tất cả hòa tan vào trong một Toàn Thể (a single whole).  Không có sự phân chia trong Toàn Thể của Sự Thực.  Toàn thể vũ trụ (cosmos) như là Sự Thực toàn thể của Phật (universal reality of Buddha).  Sự kết hợp trong Toàn thể cho phép sự hiện hữu thực sự của mọi Cá thể của thế giới hiện tượng là duy nhứt không có bản tánh thừa hưởng và tùy thuộc vào cái gì hết .

 

Hoa Nghiêm Tông là Duy Thức Phái áp dụng cho Toàn Thể thay vì cho Cá Thể.

Giáo lý Duy Thức áp dụng cho Cá Thể với một Thực Thể tuyệt đối trong Tâm của Cá Thể là Chân Như với những đồng nghĩa là: Như Lai Tạng, Pháp Thân và Phật Tánh.  Vạn Pháp và Vạn Hữu (bên ngoài Cá Thể) sinh khởi và nhận thức từ Tâm Thức của Cá Thể.

Tuy nhiên Cá Thể là một trong Vạn Hữu và Vạn Pháp.  Vạn Hữu là Toàn thể tất cả Cá Thể.  Do đó Giáo lý Hoa Nghiêm Tông áp dụng cho Toàn Thể và dùng Pháp Thân (hay Như Lai Tạng) là một Thực Thể tuyệt đối chung khắp mọi Cá Thể trong Toàn Thể.  

Hoa Nghiêm dùng từ ngữ "Giới" cho "Toàn Thể":

Thế Giới là Toàn Thể Sanh mạng (= Chúng sanh), nhất là Nhân mạng, không kiến ngộ Pháp Thân.  Pháp Giới là Toàn Thể Sanh mạng (= Chúng sanh), nhất là Nhân mạng, kiến ngộ Pháp Thân (Chân Như): "Thế Giới Pháp Thân" nầy gọi tắt là Pháp Giới.

 

Theo Duy Thức Phái thì Bậc Giác Ngộ là Cá Thể kiến ngộ Chân Như hay Phật Tánh hay Pháp Thân hay Như Lai Tạng.  Như vậy Pháp Giới là Toàn Thể đều Giác Ngộ: Chúng Sanh trên Thế Giới nầy đều Giác Ngộ.  Pháp Giới là Thế Giới Giác Ngộ của Phật Giáo có Pháp Thân chung khắp, mỗi và mọi Sanh mạng giác ngộ của Thế giới.  

Hoa Nghiêm Tông cũng là "duy Thức" do đó Pháp Giới của Hoa Nghiêm là thế giới của Tâm Thức (Tinh thần) chứ không phải của "Thân Thể" (Vật chất).

Kinh Hoa Nghiêm ví Pháp Giới như là lâu đài của Đại Nhật Như Lai.  Đại Nhật Như Lai là Pháp 

Thân Phật.

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

Cá Thể = Individual, Individuality

Toàn Thể = Totality

Thế Giới = Realm, World, Universe

Pháp Giới = Realm of The Law = Dharma-dhàtu

Pháp Thân = The Law Body = Dharma-kàya


 

* Tứ Pháp Giới và Pháp Giới

 

Theo Hoa Nghiêm Tông, lịch sử Phật Giáo có 4 loại Pháp Giới (Fourfold Universe) của Vạn Hữu:

1. Sự Pháp Giới (The world of the Facts or Reality): Thế giới của mọi Hiện Tượng (Sự) thông thường. (Pháp Giới của Tiểu Thừa)

2. Lý Pháp Giới (The world of the Principle): Thế giới chung của một Nguyên Lý (Lý) là một Thực Thể hay Tự Tánh tuyệt đối. (Pháp Giới của Tam Luận Tông và Pháp Tướng Tông)

3. Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới (The world of Principle and Facts or Reality united): Hiện Tượng và Thực Thể tương quan không chướng ngại.  (Pháp Giới của Thiên Thai Tông)

4. Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới (The world of all realities or practical Facts interwoven or identified in perfect harmony): Mọi Hiện Tượng dung hòa đầy đủ (viên dung) không chướng ngại (= Viên dung Vô ngại).  "The fact and fact world perfectly harmonized". (Pháp Giới của Hoa Nghiêm Tông)

 

"Sự" đồng nghĩa với "Hiện Tượng"

Sự = Fact = Sự Vật thật sự (có) xảy ra

Hiện Tượng = Phenomenon = Sự Vật là đối tượng tri giác và cảm giác được.  

Hiện Tượng, Trình Hiện, Hiển Hiện = Manifestation = Sự Vật hiện ra, xảy ra

"Sự" dùng cho Toàn Thể (Hoa Nghiêm Tông) còn "Hiện Tượng" dùng cho Cá Thể (các Tông Phái khác của Đại Thừa). 

Lý (Principle) = Nguyên Lý = Chân Lý (Truth) căn bản hay đúng theo Lý thuyết (theory).  

Hoa Nghiêm Tông chú trọng tới Sự Vật và Nguyên Lý hay Chân lý (của Sự Vật).


 

Pháp Thân ở trong mỗi và mọi Cá thể Giác ngộ của Toàn thể (thế giới) Giác ngộ (= Pháp Giới)

Pháp Thân hay Chân Như (Suchness - Thusness) ở phương diện Tĩnh (static aspect) thì là Tánh Không (Void, Emptiness = Sunyảta), là Thực thể (Noumenon) và có Lý Pháp Giới (realm of Principle).

Pháp Thân hay Chân Như ở phương diện Động (dynamic aspect) thì chỉ là Trình hiện (Manifestation), là Hiện tượng (Phenomenon) và có Sự Pháp Giới (realm of Facts).

 

Sự Pháp Giới thì "Động", là Pháp Giới Duyên Khởi nhưng theo Thập Huyền Duyên Khởi.

Pháp Giới Duyên Khởi là Sự Sự Đồng duyên khởi (simultaneously arise)

Thập Huyền Duyên Khởi là Sự Sự Vô Ngại duyên khởi (arise in harmony).

Pháp Thân = Chân Như = Cá thể Giác ngộ; có Lục (6) Tướng (= Đặc tính = Characters or specific Natures)

 

Pháp Giới Duyên Khởi = Universal Causation of the Law

Thập Huyền Duyên Khởi = Causation by 10 profound Theories

Chân Như = Suchness, Thusness

 

* Thập Huyền Duyên Khởi

(The causation by ten profound theories)

 

Thập Huyền Duyên Khởi là 10 Lý thuyết diễn tả chi tiết Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới (The fact and fact world perfectly harmonized).  "Sự Sự" là tương quan giữa mọi Sự Vật.  "Vô ngại" là dung hòa với nhau.

 

1. Đồng thời cụ túc tương ứng môn

= The theory of Co-relation (Tương Ứng)

(Môn=the Theory=Lý thuyết)

Mọi Sự Vật đồng hiện hữu và và đồng sinh khởi đồng thời (co-existence and simultaneous rise).  Vì đồng Hiện hữu nên mọi Sự Vật đều bình đẳng với nhau.  Đồng sinh khởi tức là đều sinh khởi như nhau không có cái nầy sinh ra cái kia, đó là "Trùng trùng vô tận Duyên Khởi" hay "Pháp Giới Duyên Khởi". Nó thay thế Nghiệp Cảm Duyên Khởi và Tạng Thức Duyên Khởi.

 

Pháp Giới Duyên Khởi = Trùng Trùng Vô Tận Duyên Khởi = Universal Causation of the Realm of the Law.

 

2. Chư pháp tương tức tự tại môn

= The theory of perfect freedom of mutual relationship (Tương Tức)

(Chư Pháp=Vạn Pháp)

Mọi Sự Vật tự do hoàn toàn tương tức hòa hợp lẫn nhau không chướng ngại.  Một tức là Hết thảy, Hết thảy tức là Một.  

 

3. Nhất đa tương dung bất đồng môn

= The theory of mutual penetration (Tương Dung) of dissimilar things.

Mọi Sự Vật, số nhiều (đa) hay số một (nhất), tương dung với nhau mặc dù không giống nhau (bất đồng).  (Nhất=một. Đa=nhiều).

 

4. Chư tàng thuần tạp cụ túc môn

= The theory of mutual identification (Tương Thức) of all distinct elements

Mọi Sự Vật dù khác nhau nhưng vì tương quan nên đều nhận biết được: một cũng như hết thảy.  (Thuần=một, Tạp=nhiều) 

 

Chư tàng=chư hành=all elements.

Chư Pháp=Vạn Pháp=all Dharmas=tất cả Hiện Tượng=all Phenomena

Chư Hành=Vạn Hữu=mọi Sự Vật=all Elements, all Elements of existence, all Existences

 

5. Bí mật ẩn hiển câu thành môn

= The theory of mutual complementary supply (Tương Trợ) to make a whole.

(Ẩn ở bề trong là bí mật, Hiển ra bề ngoài là hiển hiện).  

Mọi Sự Vật, ẩn hiện trong ngoài, đều tương trợ lẫn nhau để làm thành Toàn Thể.

 

6. Vi tế tương dung an lập môn

= The theory of construction by mutual penetration (Tương Dung) of minute and abstruse matters.

Mọi Sự Vật, nhỏ hay lớn, tương dung để kiến tạo.

 

7. Nhân Đà La vi tế cảnh giới môn

= The theory of mutual permeation (Tương Thông) and mutual reflection (Tương Phản) as in the region surrounded by the Indra net.

(Indra=Nhân Đà La=Đế Thích Thiên.  Indra là 1 vị "Thiên" hay Deva của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo)

Mọi Sự Vật tương thông và tương phản (chiếu) như những bảo châu của Tấm màn của Đế Thích Thiên (Nhân Đà La).

(Trong cung điện của Đế Thích Thiên mắc tấm màn bằng bảo châu có nhiều mắt lưới.  Ánh sáng của những bảo châu soi rọi lẫn nhau, trùng trùng điệp cùng dung thông với nhau mà không chướng ngại nhau).

 

8. Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn

= The theory of elucidating the truth by factual illustrations.

Thực Thể thể hiện rõ ràng thành hình ảnh của mọi Sự Vật (Vạn Hữu).  Thực Thể chính là duy Tâm (chỉ có từ Tâm), ý chỉ Pháp Thân hay Như Lai Tạng của Duy Thức.

 

9. Thập thế cách pháp dị thành môn

= The theory of "variously completing ten times periods creating one entity".  

Giải thích về Thập Thế (10 đời): Trong 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai, đều lại bao hàm có 3 đời nên thành 9 đời.  9 đời nầy lại cùng dung thông với nhau, tương tức và tương nhập lẫn nhau trở thành toàn thể của một đời.  Đó là "thập thế dung thông với nhau".

Tóm lại: Giải thích Vạn Pháp tương tức theo thời gian.

 

(Chư pháp tương tức tự tại môn (2): Giải thích Vạn Pháp tương tức trong không gian.  

Thập thế cách pháp dị thành môn (9): Giải thích Vạn Pháp tương tức theo thời gian)

 

10. Thác sự hiển pháp sinh giải môn

= The theory of elucidated principle (of "All-and-one" and "One-and-all") without needing the explanation.

Nguyên lý (Lý) nhất đa tương tức thì hoàn toàn hiển hiện rõ ràng ở nơi mọi Sự Vật (Sự), không cần phải nương vào thí dụ cũng liễu giải được. 

 

Tóm tắt:

"Sự Sự vô ngại Pháp Giới" là tất cả mọi Sự Vật (Vạn Hữu) tương tức không chướng ngại của Pháp Giới:

Mọi Sự Vật đồng hiện hữu và đồng sinh khởi (1)

Do đó mọi Sự Vật có Hiện Tượng hiện ra (=Sự) Tương Tức trong không gian (2) và Tương Tức theo thời gian (9): 

Tương Dung (3) (6) 

Tương Thức (4) 

Tương Trợ (5) 

Tương Thông (7) 

Tương Phản (7).

Như vậy mọi Sự Vật có một Nguyên lý (=Lý) là "Nhất Đa tương tức" (One-and-All and All-and-One) (10).

Bởi vì mọi Sự Vật có chung 1 Thực Thể tuyệt đối là Pháp Thân hay Như Lai Tạng (8) ở khắp trong từng và mọi Sự Vật.

"Sự Sự Vô Ngại" ví như 1 tràng hoa (=hoa nghiêm), là tên của kinh Hoa Nghiêm.

 

Lý=Principle.  Sự=Facts

Vô ngại=không có chướng ngại=in harmony, harmonized=Dung hòa, Viên dung

Tương Tức=mutual relation

Tương Dung=mutual penetration

Tương Thức=mutual identification

Tương Trợ=mutual complementary supply

Tương Thông=mutual permeation

Tương Phản=mutual refeflection

Mọi Sự Vật=Vạn Hữu=all things and all events=all beings=all elements of existence

Chúng Sanh=All sentient beings

Pháp Giới=Dharmadhàtu

Pháp Thân=Dharmakàya


 

* Lục Tướng 

 

Lục Tướng = Sixfold Specific Nature or Characters (of all Dharmas)

Tướng = Đặc tính = Specific Character

 

6 Đặc tính của mỗi Sự Vật (each or every Element) là 6 mối tương liên giữa cái: 

Toàn thể và Riêng biệt (Đơn lẽ); 

Giống nhau và Khác biệt; 

Hòa nhập và Riêng tư.

Có thể nói là những đặc tính (=tướng) của Cá Thể trong Toàn Thể.

 

1. Thể (Essence): tương quan giữa Tổng Tướng và Biệt Tướng (Toàn thể và Đơn lẽ)

Tổng Tướng (Universality): một Tướng Trạng: gồm có các Bộ Phận (organs). 

Biệt Tướng (Speciality as to character itself): các Bộ Phận của một Tướng Trạng: gồm lại thành một Tướng trạng.  

 

Tướng Trạng=Organism: ám chỉ một Cá thể

Bộ Phận=Organ

 

2. Tướng (Existence): tương liên giữa các Biệt Tướng trong Tổng Tướng theo không gian (Giống nhau và Khác nhau)

Đồng Tướng (Similarity): các Bộ Phận tương liên với nhau một cách hòa đồng với nhau trong một Tướng trạng

Dị Tướng (Diversity): các Bộ Phận tương liên với nhau một cách khác nhau trong một Tướng trạng 

 

3. Dụng (Usage): tương quan giữa các Biệt Tướng trong Tổng Tướng theo thời gian (Hòa nhập và Riêng tư)

Thành Tướng (Integration): qua tương liên trong một Tướng Trạng, có các Bộ Phận hòa nhập được nên hình thành

Hoại Tướng (Differentiation): trong tương liên trong một Tướng Trạng, có các Bộ Phận riêng tư (không hòa nhập) nên hủy hoại  

 

Hoa Nghiêm Tông cũng như Thiên Thai Tông hoàn toàn thuần túy của Trung Quốc (không xuất phát từ Ấn Độ).  Giáo lý diễn tả một Thế Giới Phật Giáo quá lý tưởng là Pháp Giới với mọi Chúng Sanh đều thành Phật Quả, động Pháp Thân với Tâm Thức Vô Ngại (dung hòa = in harmony).  

Vì quá lý tưởng nên khó thực hành được cho Hành giả cá thể (Individual Practicioner).


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền


Bài này là một Đoạn trích từ bài "Triết Lý Phật Giáo - Từ Phật Thích Ca đến Thiền Tông" đăng trong phanthuonghai.com

PTH_DaiNhatNhuLai.JPG

Sàriputta và Moggallàna (Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên)

 

                                   Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

Sự tích Vu Lan có nguồn gốc từ Moggallàna (Mục Kiền Liên).  Ngài và Sàriputta là 2 đệ tử đứng hàng đầu trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca.  Tuy nhiên 2 ngài nhập diệt trước Phật Thích Ca.

 

* Sàriputta và Moggallàna 

 

Sàriputta dịch âm là Xá Lợi Phất Đa La và dịch nghĩa là Thu Lộ Tử.  

         Xá Lợi Phất Đa La gọi tắt là Xá Lợi Phất (hay Xá Lị Phất). 

         Sàri (hay Xá Lợi) là tên của người Mẹ; Putta có nghĩa là Tử.  Sàri còn dịch nghĩa là Thu Lộ (một loài chim).  Thu Lộ là "Chim trăm lưỡi" (Bách thiệt điểu) nên tên Sàriputta còn dịch nghĩa là Thu Lộ Tử hay Bách Thiệt Điểu Tử. 

Moggallàna dịch âm là Mục Kiền Liên hay Mục Kiện Liên.

 

Sàriputta sinh ở làng Nalaka cạnh bên làng Kolita là nơi sinh của Moggallàna.  Hai làng nầy ở gần Rajagaha, kinh đô của nước Magadha, và hai người là bạn thân từ thời niên thiếu.  Sàri putta và Moggallàna cùng đi tu làm đệ tử của Sanjaya, một tu sĩ theo chủ thuyết hoài nghi.  Sau khi gặp và đàm luận với 1 đệ tử của Phật Thích Ca là Assaji (A Thuyết Thị = A Xá Bà Kỳ = Mã Thắng), Sàriputta cùng Moggallàna dẫn 250 đệ tử của Sanjaya gia nhập Tăng Già của Phật Thích Ca ở Tịnh xá Veluvana (Trúc Lâm = Bamboo Grove) gần Rajagaha.  Lúc đó 2 ngài vào khoảng 27. 28 tuổi.  Đây là bài kệ giúp Sàriputta và Moggallàna tỉnh thức và đến xin làm đệ tử của Phật Thích Ca:

 

Nhất thiết chư pháp bản       (Sinh ra hết thảy mọi pháp nọ)

Nhân duyên sinh vô chủ       (Đều do nhân duyên không có chủ)

Nhược năng giải thử giả       (Hễ mà hiểu được nghĩa ấy)

Tắc đắc chân thực đạo          (Thì đạo chân thực mới hiểu rõ)

 

Sàriputta có "Trí Tuệ Đệ Nhất" và Moggallàna có "Thần Thông Đệ Nhất" trong các đệ tử. Hai Ngài là đệ tử chính của Phật Thích Ca giúp truyền bá thuyết Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo.  Sàriputta giảng dạy rất hay giúp cho các Tỳ kheo hiểu được Phật Pháp còn Moggallàna giúp các Tỳ kheo tu hành đúng theo Phật Pháp và chống lại những tà thuyết.  Phật Thích Ca thường dùng 2 ngài làm gương cho các đệ tử khác trong Tăng Già.

 

* Nhập Diệt của Sàriputta và Moggallàna

 

Đạo của Phật Thích Ca được truyền bá rộng rãi nên sinh ra những người ganh tỵ chống đối. Moggallàna là đối tượng chánh nên ngài bị những người nầy giết chết khi đi khất thực.  Một thời gian ngắn sau đó, Sàriputta cũng nhập diệt.

Tương truyền rằng, vào một ngày kia, Phật Thích Ca (hơn 80 tuổi) nói với các đệ tử rằng chỉ 3 tháng nữa là Ngài nhập diệt.  Lúc đó Moggallàna vừa bị giết chết.  Sàriputta không muốn thấy cảnh Đức Phật qua đời nên xin để mình chết trước, thế là Sàriputta tự mình nhập diệt.

Hai ngài theo Phật Thích Ca trong khoảng 40 năm và nhập diệt trước Phật Thích Ca.

 

Sách "Tỉ Lại Gia Tạp Sự" viết:

Có người hỏi đức Thế tôn: 

         Một bậc thánh như Mục Kiền Liên (Moggallàna) mà bị bọn ngoại đạo đánh chết, thế là Nghiệp gì?  

Đức Thế tôn đáp: 

         Kiếp xưa Mục Kiều Liên là con một họ Bà La Môn vì quá yêu vợ mà bất hiếu với cha mẹ mình.  Người mẹ giận quá có rủa: "Sao những đứa hung ác không đánh chết mầy đi?". Nay tuy chứng cõi thánh là bậc thần thông đệ nhất mà vẫn phải chịu cái Nghiệp bị đánh chết.  

 

* Mục Kiền Liên (Moggallàna) và Lễ Vu Lan

 

- Kinh Vu Lan Bồn viết:

 

Một thời, Đức Phật trú tại khu vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc.  Trưởng giả Đại Mục Kiền Liên chứng đắc sáu thứ Thần thông dùng đạo nhãn quán sát khắp thế giới, thấy người mẹ đã qua đời của mình bị đọa trong loài Ngạ quỷ, không được ăn uống nên thân hình chỉ còn da bọc xương.  Tôn giả Mục Kiền Liên thấy vậy vô cùng xót thương buồn bã, liền lấy bát đựng đầy cơm và vận dụng thần thông đem hiến dâng cho mẹ.  Bà mẹ vừa nhận được bát cơm , liền dùng tay trái che đậy, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã hóa thành than hồng nên không thể ăn được. Tôn giả Mục Kiền Liên lớn tiếng than khóc trở về bạch với đức Phật, thuật lại đầy đủ mọi sự việc như vậy.

Đức Phật bảo:

         Thân mẫu của ông tội chướng sâu dày.  Tuy lòng hiếu thảo của ông vang động trời đất nhưng cũng không ai có thể làm gì được.  Nay ông phải nhờ oai lực của Tăng chúng ở mười phương thì mới có thể thoát được.

         Này Mục Kiền Liên!  Ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của mười phương Tăng chúng, nên vì cha mẹ 7 đời, cha mẹ hiện tại và những người đang ở trong vòng khổ nạn luân hồi mà sắm sửa đầy đủ cơm nước thức ăn và giường nằm đầy đủ để dâng chúng đại đức Tăng chúng khắp mười phương.  Vì giới pháp thanh tịnh đầy đủ nên đạo đức của Tăng chúng sâu rộng mênh mông.  Nếu có người dâng cúng Tăng chúng Tự tứ như vậy thì tất cả cha mẹ bà con quyến thuộc trong đời hiện tại đã quá vãng sẽ được siêu sinh trong 3 đường khổ liền được đầy đủ áo cơm.  Nếu cha mẹ lục thân quyến thuộc còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu trăm tuổi, còn cha mẹ già quá khứ 7 đời thì được sinh lên cõi Trời Tự Tại hóa sinh trong cõi Trời, hoa lệ chói sáng, hưởng vô lượng phước lạc.

Bấy giờ Đức Phật bảo Tăng chúng mười phương hoặc ở nơi Tăng chúng hoặc ở chùa tháp phải chú nguyện như vậy rồi sau mới thọ thực (ăn).

Khi ấy Tôn giả Mục Kiền Liên cùng với chư vị Đại sĩ Bồ tát đều rất hoan hỷ, tiếng than khóc bi thương của ngài Mục Kiền Liên cũng tan biến.  Thân mẫu của ngài cũng trong ngày ấy được thoát khổ trong loài Ngạ quỉ.

Khi ấy ngài Mục Kiền Liên lại bạch:

         Bạch Thế tôn!  Thân mẫu của con đã được siêu thoát, đó là nhờ năng lực công đức Tam Bảo, trong đó có uy lực của Tăng chúng.  Nếu đời vị lai, tất cả đệ tử của Đức Phật muốn hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ thì kinh Vu Lan Bồn nầy có thể cứu độ cha mẹ hiện tại cho đến cha mẹ 7 đời chăng?

Đức Phật nói:

         Nầy Mục Kiền Liên! Điều mà Như Lai muốn nói, Tôn giả đã hỏi.

         Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, quốc vương, vương tử, đại thần, tể tướng, tam công, bách quan cùng cả thảy dân chúng muốn thực hành đức từ hiếu, trước nên vì cha mẹ hiện tiền, kế đó cha mẹ 7 đời trong quá khứ là cứ đến Rằm tháng Bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng tự tứ, nên sắp đặt đủ các loại trái cây thức ăn nước uống vào bồn Vu Lan để dâng cúng chư Tăng ở mười phương.  Ngày chư Tăng Tự tứ câu nguyện cha mẹ hiện còn sống lâu trăm tuổi, không bệnh tật.  Cha mẹ trong 7 đời quá khứ thoát khỏi khổ đau trong loài Ngạ quỉ, được sinh trong cõi Trời, người phước lạc an vui.

         Thiện nam tín nữ là đệ tử của Đức Như Lai phải nên thực hành chữ hiếu, trong mỗi niệm thường thương tưởng đến cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ 7 đời trong quá khứ.  Hằng năm đến ngày Rằm tháng Bảy, đem lòng từ hiếu thương tưởng song thân cha mẹ hiện tiền, cha mẹ 7 đời quá khứ, sắm sửa bồn Vu Lan, hiến cúng Phật đà, dâng cúng Tăng chúng để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Nếu là đệ tử của Đức Phật thì phải tuân giữ điều ấy.

Lúc ấy, Tôn giả Mục Kiền Liên cùng với chúng đệ tử nghe Phật giảng dạy đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.  

 

- Vu Lan Bồn Kinh (Ullambana sùtra) được Trúc Pháp Hộ dịch ra Hán ngữ và từ đó chuyển âm sang Việt ngữ. Vu Lan Bồn Kinh dịch đầy đủ ra Hán ngữ là "Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh".

Trúc Pháp Hộ là tên Hán ngữ của nhà sư người Thiên Trúc (Ấn Độ) tên là Dharmaraksa (239-316).

"Vu Lan Bồn" là dịch âm từ Phạn ngữ "Ullambana".  Ullambana có nghĩa đen là "Cứu đảo huyền".  "Đảo huyền" là "treo ngược".  "Cứu đảo huyền" (Ullambana) có nghĩa là cứu những ai bị treo ngược (bị khốn khổ).  Trúc Pháp Hộ dùng nghĩa đen của "Vu Lan bồn" là "bồn Vu Lan" trong kinh là không đúng.   (Bồn = basin).

 

Kinh Vu Lan Bồn như trên đã kể lại câu chuyện Moggallàna (Mục Kiền Liên) cứu giúp Mẹ mình đang khốn Khổ trong cõi Ngạ quỉ nhờ lời dạy của Phật Thích Ca.  Tuy nhiên ý nghĩa của Kinh Vu Lan Bồn còn rộng hơn.

Theo kinh Vu Lan Bồn, dâng cúng ăn ở cho Tăng chúng trong ngày Tự tứ (ngày Rằm tháng 7, ngày 15 tháng 7) thì nhờ Đạo Đức (morality) "sâu rộng mênh mông" của Tăng chúng (monks and nuns) mà Cha Mẹ và thân quyến của mình được những phước:

         Cha mẹ và thân quyến đã chết bị siêu sinh trong 3 đường Khổ (3 Khổ đạo) liền được đầy đủ áo cơm.  (3 Khổ Đạo trong Lục Đạo Luân Hồi là: Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sinh).

         Cha mẹ và thân quyến đang sống sẽ được hưởng phước lạc mạnh khoẻ sống lâu trăm tuổi.

         Cha mẹ và thân quyến trong quá khứ 7 đời sẽ được tái sinh lên cõi Trời.

Tất cả cũng là thể hiện của lòng Hiếu của Phật tử. 

 

Nhưng tại sao lại dâng cúng vào ngày Tự tứ (ngày Rằm tháng 7, 15 tháng 7)?  Ngày Tự tứ là ngày gì?  Ngày Tự tứ là ngày cuối của 3 tháng Vũ Kỳ An Cư của Tăng Già.  Nó có lịch sử từ Luật Tạng của Phật Giáo Nguyên Thủy:

         Vũ Kỳ An Cư (Residence during the rainy season Retreat = Varsavasana): Vì mỗi năm cứ vào mùa mưa (Vũ Kỳ), nước lũ dâng lên tràn ngập cả đường lối làm sự đi lại giáo hóa, truyền đạo và khất thực không thuận tiện, hơn nữa lại là mùa côn trùng sinh ra đầy đường, đi lại sợ tổn hại tới sinh mạng các loài côn trùng nên Phật Thích Ca cùng các Đệ tử phải tụ họp tại một nơi nào thuận tiện để chuyên việc tu hành trong 3 tháng mưa nầy (từ ngày 16-4 cho tới 15-7)

         Lễ Tự Tứ (Pavàranà): Trong 3 tháng tu trì của Vũ Kỳ An Cư, nếu đại chúng có ai phạm vào tội lỗi mà đại chúng ngờ vực thì được tự do cử tội trong ngày lễ Tự Tứ (ngày 15-7, ngày cuối cùng của Vũ Kỳ An Cư).

 

- Nhân sự tích nầy nên có hội lễ Vu Lan trong nhân gian vào ngày Rằm (15) tháng 7 hằng năm.

Lễ Vu Lan bắt đầu ở Trung Quốc từ thời Lương Võ Đế (464-549), một vị vua rất sùng Phật Giáo.  Ngày Rằm (15) tháng Bảy gọi là ngày (Tết) Trung Nguyên có mở hội Vu Lan (Vu Lan Bồn) ở khắp chùa chiền tu viện và trong toàn dân chúng kỷ niệm sự tích Mục Kiền Liên cứu Mẹ nói riêng và thể hiện lòng hiếu thảo của Chúng sanh nói chung.  Dân chúng làm đúng như trong Kinh Vu Lan Bồn đã dạy: cúng dường thực phẩm cho Tăng chúng. Tuy nhiên còn có mở thêm hội Hoa đăng (cúng rước đèn hoa) và bá tánh còn cúng thêm (trên bàn thờ) cho "Cô Hồn" (tức là Quỉ đói = Ngạ quỉ).

Phong tục nầy được truyền sang các nước khác của Bắc Tông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam... 

 

Chuyện Mục Kiền Liên (Moggallàna) cứu mẹ được người Tàu viết thành nhiều tuồng hát và tiểu thuyết diễn tả Mục Kiền Liên xuống Địa ngục cứu mẹ, đơn giản tên Mục Kiền Liên thành Mục Liên và đặt tên cho mẹ của ngài là Thanh Đề.  Đó là những chuyện mang tựa đề: Mục Liên Cứu Mẫu Biến Văn, Mục Liên Cứu Mẫu Bản Quyển, Mục Liên Tam Thế Bản Quyển...  Theo truyện Tàu, tuy được cứu thoát nhưng bà Thanh Đề phải tái sinh làm một con chó đen ở thành Vương Xá (Rajagrha) và Mục Liên phải trổ thần thông một lần nữa cứu bà Thanh Đề tái sinh thành người.  Dĩ nhiên cõi Địa ngục trong những truyện nầy khác cõi Ngạ quỉ trong kinh Vu Lan Bồn. 

 

 

* Sàriputta trong Đại Thừa Trung Quán Tông

 

Tên Sàriputta (Xá Lợi Tử) được nói tới trong kinh Bát Nhã là kinh chánh của Trung Quán Tông của Phật Giáo Đại Thừa.

 

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh:

         Quan Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.  Xá Lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc.  Thụ Tưởng Hành Thức diệc phục như thị.  (Cưu Ma La Thập / Bản Hán ngữ)

         Dịch: Quan Tự Tại Bồ Tát khi thi hành phép Bát Nhã Ba La Mật Đa (Trí Tuệ Độ) thấy rõ Ngũ Uẩn đều Không đem tế độ hết thảy những Khổ ách.  Hỡi Xá Lợi Tử, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.  Thụ Tưởng Hành Thức cũng thế cả.  (Trần Trọng Kim / Bản Việt ngữ)

 

(*) Quan Tự Tại Bồ Tát là Quan Thế Âm Bồ Tát.  Xá Lợi Tử là Xá Lợi Phất (Sàriputta).

     Ngũ Uẩn = Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức.

 

 

* Sàriputta trong Đại Thừa Tịnh Độ Tông

 

Tên của Sàriputta xuất hiện trong 1 trong 3 kinh chánh của Tịnh Độ Tông.

 

Phật Thuyết A Di Đà Kinh:

         Bấy giờ Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàriputta): Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở đó.  Chúng sanh của nước ấy không có các Khổ não, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực Lạc.

 

*

Sàriputta có 3 người em trai đều là đệ tử của Phật Thích Ca, theo thứ tự là: Cunda (Thuần Đà), Upasena (hay Vagantaputta) và Revata (Ly Bà Đa).

         Revata nổi tiếng "Thiền Định Đệ Nhất".

         Upasena nổi tiếng là "Hoan Hỉ Đệ Nhất", luôn vui vẻ.

         Cunda nầy còn gọi là CulaCunda (Tiểu Thuần Đà) để phân biệt với Cunda là 1 trong 4 Đại Thanh Văn.  Ngoài ra trong lịch sử Phật Giáo Nguyên Thủy cũng có 1 người khác tên là Cunda.  Đó là người Thợ sắt (thợ rèn) đã dâng cho Phật Thích Ca "mộc nhĩ" (tai nấm). Đức Phật bị bệnh và qua đời sau khi ăn món "mộc nhĩ" nầy.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài này là một đoạn trích trong bài "Thập Đại Đệ Tử của Phật Thích Ca" đăng lần đầu trong website phanthuonghai.com

 

 

TỪ BÀI THƠ ĐIẾU PHAN THANH GIẢN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

 

                                 Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

(1)

Ngay sau khi ông Phan Thanh Giản qua đời, ông Nguyễn Đình Chiểu có bài thơ điếu:

 

ĐIẾU PHAN THANH GIẢN (Nguyên bản)

Lịch sĩ tam triều độc khiết thân

Vi quân nan bảo nhất phương dân

Long Hồ ninh phụ thư sinh lão

Phụng các không quy học sĩ thần

Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật

Tận trung hà hận tử Trương Tuần

Hữu thiên Lục tỉnh tồn vong sự

An đắc thung dung tựu nghĩa thần.

(Nguyễn Đình Chiểu)

 

(*) Chú thích: Khiết = trong sạch. Quân = vua, chúa.  Ninh phụ = thà phụ?  (Từ câu: "Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục"). Bỉnh = cầm.  Tiết = cờ Tiết của sứ thần hồi xưa. Tằng = từng trải qua. Hà hận = làm sao hận? 

 

Bài thơ Hán ngữ của ông Nguyễn Đình Chiểu có trùng vận (điệp vận) "Thần".  Thơ Hán ngữ viết bằng Hán tự thì không "thất luật" vì chữ "Thần" trong bài thơ tuy đồng âm nhưng có nghĩa khác và viết khác nhau (Hán tự).

Tự điển Trần Trọng San phân biệt 2 chữ Thần này:

Chữ "Thần" ở câu 4 có nghĩa là chủ tể của vạn vật; người có tài siêu việt.  Chữ "Thần" này viết theo bộ Kỳ.

Chữ "Thần" ở câu 8 có nghĩa là bề tôi (đối với vua chúa) như triều thần.  Chữ "Thần" này viết theo bộ Thần.

 

Làm thơ Hán ngữ viết bằng chữ Quốc ngữ thì "thất luật" trừ trường hợp điệp vận (trùng vận) của câu đầu và câu cuối.

Do đó xin làm bài thơ Hán ngữ viết bằng chữ Quốc ngữ "tiếp vận" chứ không "họa vận".

 

Thiển nghĩ trong Việt ngữ (Quốc ngữ hay Quốc âm) có Hán ngữ.  Nếu ta dùng Hán ngữ thông dụng trong Việt ngữ thì không cần phải dịch.

 

ĐIẾU PHAN THANH GIẢN (Tiếp vận)

Tam triều phụng sự tận trung thần

Xử sự Nam Kỳ tận ái dân

Pháp Quốc công lao như Phú Bật

Vĩnh Long thành bại dị Trương Tuần

Chính danh Nho sĩ chân tình nghĩa

Chính đạo Nho gia bản thiện nhân

Minh kính Lương Khê lưu hậu thế (*)

Lương dân Lục tỉnh cộng tri ân.

(Phan Thượng Hải)

7/30/22

 

(*) Chú thích: 

Lương Khê là tên hiệu của ông Phan Thanh Giản.  Lương Khê được ghi trên Minh tinh và Mộ của ông Phan Thanh Giản sau khi ông mất.

Minh tinh là mảnh lụa hay mảnh vải hay mảnh giấy đề danh hiệu và chức tước của người chết trong khi đám ma.  Minh tinh của đám ma ông Phan Thanh Giản đề chín chữ theo ý của ông là “Hải nhai thư sinh Phan Lương Khê chi cửu” (= Quan tài của học trò ở góc bể họ Phan hiệu Lương Khê).

Bia mộ của ông Phan Thanh Giản ghi: "Lương Khê Phan lão nông chi mộ".

Minh kính = gương sáng. 

 

(2)

Khi đọc 2 câu thơ của ông Nguyễn Đình Chiểu:

 

Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật

Tận trung hà hận tử Trương Tuần

 

Tác giả có điểm không đồng ý nên mới viết 2 câu dưới đây trong bài thơ của mình:

 

Pháp Quốc công lao như Phú Bật

Vĩnh Long thành bại dị Trương Tuần

 

Công lao đi sứ của ông Phan Thanh Giản (và ông Phạm Phú Thứ) sang Pháp Quốc thì cũng như Phú Bật.

Đây là lịch sử của Phú Bật đi sứ sang nước Liêu (theo Winston Phan Đào Nguyên):

Phú Bật là một văn thần dưới triều Tống Nhân Tông của Bắc Tống.  Theo sách sử "Tục Tư Trị Thông Giám", năm 1402, nước Liêu ở phương Bắc đem quân đe dọa nhà Tống và Trung Quốc ở biên cương để yêu sách đòi thêm số tiền lụa mà nhà Tống phải cống nạp hàng năm cho nước Liêu.  Triều đình nhà Tống mấy lần phải cử Phú Bật đi sang nước Liêu thương thuyết vì không ai khác dám đi.  Sau cùng nhà Tống giữ được đất nhưng phải tăng số tiền cống nạp hàng năm lên thành 20 vạn lạng bạc và 20 vạn tấm lụa.  Phú Bật không chịu gọi đó là "nạp" nhưng cuối cùng triều đình nhà Tống vẫn phải chấp nhận chữ nầy.  Do đó hòa nghị năm 1042 được gọi là Trọng Hi Tăng Tệ.  (Trọng Hi là niên hiệu của Tống Chân Tông.  Tăng tệ = tăng tiền).

 

Thành bại trong việc giữ thành Vĩnh Long của ông Phan Thanh Giản thì có khác Trương Tuần (dị = khác). 

- Đây là lịch sử thảm khốc của Trương Tuần về việc giữ thành Tuy Dương (theo Winston Phan Đào Nguyên):

Trương Tuần nguyên là một viên quan nhỏ đời nhà Đường của Trung Quốc.  Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông Trương Tuần mộ quân chống cự tại thành Ung Khâu.  Trương Tuần bị vây hãm ở thành Ung Khâu nên phải bỏ thành Ung Khâu và đến giữ thành Tuy Dương để tiếp tục chống giặc An Lộc Sơn.  Thành Tuy Dương cũng bị vây.  Khi trong thành này hết lương, Trương Tuần giết người thiếp để lấy thịt cho binh sĩ ăn, rồi sau đó cho binh sĩ giết mà ăn thịt cả người già và trẻ con trong thành.  Sau cùng khi thành Tuy Dương thua và bị chiếm, quân giặc (của An Lộc Sơn) trước khi giết ông đã dùng dao cạy miệng ông Trương Tuần ra để xem có phải ông chỉ còn mấy cái răng hay không, vì mỗi lần đánh trận ông giận dữ (hận) nghiến răng tới mức gãy cả răng.

- Đây là lịch sử nhân từ của ông Phan Thanh Giản về việc giữ thành Vĩnh Long:

Từ Mỹ Tho, tướng Pháp là De La Grandière muốn đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ.  Triều đình cử ông Phan Thanh Giản làm Kinh Lược để điều đình và chống giữ.  Tình hình của 3 tỉnh Miền Tây rất yếu và chắc chắn sẽ thua quân Pháp về quân sự.  Ông Phan Thanh Giản đã xin từ chức nhưng vua Tự Đức không cho.  Năm 1867, De La Grandière đem binh thuyền từ Mỹ Tho theo sông Tiền Giang tới đóng ở trước thành Vĩnh Long.  Trong 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ thì tỉnh Vĩnh Long là tỉnh lớn nhất và tỉnh thành Vĩnh Long là nơi của quan Kinh Lược của tất cả 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ.  Ông Phan Thanh Giản chỉ tự mình cùng với quan Án Sát Vĩnh Long là Võ Doãn Thanh xuống soái hạm của De La Grandière để điều đình.  Ông không hề hứa miệng hay viết văn kiện giao thành cho Pháp nhưng chỉ trách De La Grandière là vi phạm hòa ước 1862.  Việc điều đình không thành, khi ông Phan Thanh Giản (cùng Võ Doãn Thanh) đi bộ về để vào thành thì quân Pháp theo vào thành.  Quan nhà Nguyễn trong thành (kể cả Tổng đốc và Lãnh binh) không biết làm sao thì quân Pháp đã vào thành và chiếm thành.  Sự kiện này đã được tất cả nhân chứng kể cả Án sát Võ Doãn Thanh khai với triều đình khi bị xử tội sau này (khi ông Phan Thanh Giản đã chết).  Không một viên quan nào khai là Phan Thanh Giản giao thành cho Pháp mặc dù nếu làm như vậy thì họ sẽ nhẹ tội hơn vì đỗ tất cả tội cho một người đã chết là ông Phan Thanh Giản.

 

Mặc dù cũng là trung thần nhưng ông Phan Thanh Giản không có xử sự đối với người dân Nam Kỳ như Trương Tuần!

 

Từ lịch sử mất thành Vĩnh Long, đây là lịch sử mất toàn bộ 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ:

Sau khi lấy Vĩnh Long, quân Pháp đem thuyền ngược Tiền Giang đến trước tỉnh thành của tỉnh An Giang.  Họ bắt buộc Tuần vũ An Giang phải xuống gặp quan Pháp để nhận thơ "đầu hàng" của Kinh Lược Phan Thanh Giản.  Khi quan Tuần vũ xuống nhận thơ thì bị bắt làm con tin và quân Pháp dùng con tin mà vào thành Châu Đốc.  Thế là tỉnh An Giang mất.

Trước đó trên đường đi Châu Đốc, quân Pháp bắt được Tuần vũ tỉnh Hà Tiên đang dùng thuyền đi kinh lý trên sông Tiền Giang.  Ông này lại trở thành con tin.  Sau khi chiếm thành Châu Đốc (của tỉnh An Giang), quân Pháp dùng thuyền theo kinh Vĩnh Tế đến thành Hà Tiên (của tỉnh Hà Tiên) và dùng con tin là Tuần Vũ Hà Tiên để vào chiếm thành.  Tỉnh Hà Tiên cũng mất không một tiếng súng nổ!

 

Sau khi chiếm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên), De La Grandière khôn khéo tuyên truyền qua công văn và sách vở là ông Phan Thanh Giản đã đầu hàng và dâng thành cho Pháp.  Bức thư gửi cho các quan "ra lệnh đầu hàng" của Phan Thanh Giản chỉ được dùng để bắt quan Tuần vũ An Giang mà chiếm thành Châu Đốc và không hề được dùng để chiếm thành Hà Tiên.  Bức thơ này chỉ là một trong những ngụy tạo của người Pháp mà thôi.  Bức thơ này không được nói đến trong phiên tòa của triều đình Huế xử các quan Nam Kỳ sau khi ông Phan Thanh Giản qua đời. Không một viên quan nào khai là Phan Thanh Giản giao thành cho Pháp mặc dù nếu làm như vậy thì họ sẽ nhẹ tội hơn vì đỗ tất cả tội cho một người đã chết là ông Phan Thanh Giản.

 

Sau đó các sử gia người Việt (như Trần Trọng Kim, Linh mục Nguyễn Phương...) dựa trên tài liệu của người Pháp nên đều viết là Phan Thanh Giản đầu hàng và dâng thành cho Pháp trong Việt Sử.  De La Grandière rất khôn khéo, chiếm 3 tỉnh Miền Tây Nam Kỳ mà không tổn thất quân lực của người Pháp và sau đó tuyên truyền để người dân Nam Kỳ không chống lại họ.

 

Người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh dù tưởng là ông Phan Thanh Giản đầu hàng Pháp như tuyên truyền của người Pháp nhưng họ vẫn cám ơn ông Phan Thanh Giản.  Nhờ ông không hiếu chiến mà người dân Nam Kỳ được an bình không phải tử thương và mất mát của cải vì chiến tranh, một cuộc chiến không thể nào thắng được trong lúc đó và chỉ được tiếng là "bảo vệ đất nước của nhà vua"!  Thực sự sống với chế độ của người Pháp hay dưới chế độ của vua nhà Nguyễn thì cũng không khác gì lắm đối với "nông, công, thương".  Còn đối với thiểu số quần chúng là những "nho sĩ" thiển cận thì chỉ "trung quân" hơn là "ái quốc"?  

Chúng ta nên nhớ là lòng người dân Nam Kỳ không còn "trung" với nhà Nguyễn nữa khi vua nhà Nguyễn là Minh Mạng đã "phản bội" công lao giúp Gia Long thống nhất đất nước của người Nam Kỳ bằng cách kết tội ông Lê Văn Duyệt và đàn áp người dân Nam Kỳ trong "loạn Lê Văn Khôi" chỉ vài chục năm trước khi thực dân Pháp đến Nam Kỳ.

 

Năm 1967, nhân dịp kỷ niệm 100 năm, Linh mục Trương Bá Cần của Việt Nam Cộng Hòa đã viết bài minh oan cho ông Phan Thanh Giản: ông Phan Thanh Giản không có dâng thành và đầu hàng Pháp.  Nội dung của bài viết của Linh mục Trương Bá Cần được phản ảnh trong bài:

 

"Phan Thanh Giản không có đầu hàng Pháp" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

  PHẬT THÍCH CA ĐẢN SINH

 

                                             Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

* Tiểu sử Phật Thích Ca ở Lumbini

 

Thích Ca Mâu Ni Phật tên là Siddharta Gautama (Tất Đạt Ta Cồ Đàm) sinh ở Lumbibi (Lâm Tỳ Ni) của xứ Kapilavastu (Ca Tì La Vệ) của Ấn Độ, thuộc nước Nepal ngày nay khoảng hơn 2500 năm trước.    

Cha cùa ngài là Vua Suddhodana (Tịnh Phạm), làm đầu của dòng Sàkya (Thích Ca) và cai trị xứ Kapilavastu ở miền Đông Bắc Ấn Độ vào thời đó.  

Mẹ của ngài là Hoàng Hậu Maha Devi (Ma Da) chết 7 ngày sau khi sinh Siddharta.  Siddharta được em gái của Hoàng Hậu là bà Maha Prajpati (Ma ha ba xà ba đề) dưỡng nuôi.  

 

Lumbini là nơi Thái tử Siddharta sinh ra và sống trong hoàng cung cho tới khi xuất gia.  Người hành hương tới đây thường viếng chùa Maha Devi kỷ niệm nơi sinh của Phật Thích Ca.

 

Năm 16 tuổi, Thái Tử Siddharta kết hôn với Yasodhara (Da Du Đà La), một Công Chúa của dòng Koliya ở kế bên.  Hai người có một con trai là Rahula (La Hầu La).


 

* Chính Trị và Xã Hội trong Thời Phật Thích Ca

 

Phật Thích Ca sinh ở thủ đô Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ) trong lãnh thổ của thị tộc Sàkya (Thích Ca) thuộc đông bắc bán đảo Ấn Độ.  Vùng Đông Bắc bán đảo Ấn Độ nầy lúc bấy giờ gồm có 2 nước lớn và lãnh thổ của những Thị tộc, ở miền Nam và miền Bắc sông Gange (Hằng Hà).

 

- Ở miền Bắc sông Gange có nước Kosala (Kiêu Tất La) với thủ đô là Sràvasti (Xá Vệ).

Phía đông và đông nam của nước Kosala từ bắc xuống nam có lãnh thổ độc lập của 3 Thị tộc chính:

Thị tộc Sàkya (Thích Ca) có thủ đô là Kapilavasu (Ca Tỳ La Vệ)

Thị tộc Malla (Mạt La) có thủ đô là Kunisara

Thị tộc Liccavi (Ly Xa Tỳ) có thủ đô là Vesali (Phệ Xá)

Phía nam của nước Kosala có lãnh thổ độc lập của Thị tộc Kasi (Kathi) có thủ đô là Varanasi.  Varanasi và Vesali ở bờ bắc của sông Gange.

 

- Ở miền Nam sông Gange có nước Magadha (MaKiệt Đà) với thủ đô là Rajagrha (Vương Xá).  Rajagrha và Vesali đối diệnnhau ở 2 bên bờ nam và bắc của sông Gange.

Phía đông của nước Magadha có lãnh thổ độc lập của Thị tộc Anga (Ương Già) có thủ đô là Champa (Chiêm Ba).

Phía tây của nước Magadha có lãnh thổ độc lập của Thị tộc Vatsa (Bà Ta).  Lãnh thổ Vatsa và Kasi đối diện nhau ở 2 bên bờ nam và bắc của sông Gange.

Xa hơn nữa về phía Tây của Vatsa là nước Vamsa (ở miền Nam sông Gange) và ở phía Nam của nước Vamsa là nước Avanti (A Bàn Đề).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Bốn Giai cấp xã hội của Ấn Độ lúc bấy giờ:

Giai cấp người Bà La Môn (Brahmans): Giai cấp Tu sĩ tu hành và giữ lễ nghi tôn giáo (Ấn Độ giáo).

Giai cấp người Sát Đế Lợi (Ksatriyas): Giai cấp Vua Quan nắm quyền cai trị

Giai cấp người Tỳ Xá (Vaisyas): Giai cấp bìng dân gồm Nông, Công, Thương.

Giai cấp người Thủ Đà La (Sudras): Giai cấp Tiện dân (người hạ tiện) đời đời làm nô lệ (không thể chuyển sang những giai cấp khác).

Một người từ Giai cấp Sát Đế Lợi hay Tỳ Xá có thể đi tu và thuộc Giai cấp Bà La Môn.  Phật Thích Ca sinh ra là Thái tử Siddharta nên ngài thuộc giai cấp Sát Đế Lợi.  Khi ngài đi tu thì thuộc giai cấp Bà La Môn.


 

* Năm sinh của Phật Thích Ca

 

Phật Thích Ca qua đời lúc ngài 83 tuổi nhưng năm sinh của ngài không nhất định.  Hiện nay trong Wikipedia có 2 giả thuyết về ngày sinh của Phật Thích Ca:

(1) sinh năm 563 tr CN (và qua đời năm 480 tr CN).

(2) sinh năm 483 tr CN (và qua đời năm 400 tr CN). 

 

Theo lịch sử kỷ niệm ngày Phật Đản của Việt Nam, năm sanh của Phật Thích Ca là năm 624 tr CN và dùng ngày của Phật Giáo Đại Thừa là mồng 8 tháng 4 âm lịch.  Phật Giáo Nguyên Thủy dùng ngày rằm (15) tháng 4, đúng với ngày đản sanh của Phật Thích Ca.  Như vậy năm 2022 là năm 2646 (624+2022) theo Phật Lịch.


 

* "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn"


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Theo Kinh Tạng (Sutrapikita) khi mang thai, Mẹ của Phật Thích Ca nằm mơ thấy có một vị Bồ tát với dạng con voi trắng chui vào bụng của mình.  Ngay sau khi sinh ra từ hông phải của Mẹ, Phật Thích Ca bước đi 7 bước, một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống dưới đất mà nói rằng: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn (Trên trời dưới trời, chỉ có mình ta)"; và dưới mỗi bước chân hiện ra một đóa hoa sen.  

Thật ra theo Trường Bộ kinh (Pìghanikàya) của Phật Giáo Nguyên Thủy, nguyên văn câu nói nầy của Phật Thích Ca (theo Hán ngữ) là: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn nhất thiết thế gian sinh lão bệnh tử".  (Trên trời dưới đất chỉ có mình ta là cần thiết cho thế gian sinh lão bệnh tử).

Riêng Thượng tọa Thích Thiện Hoa dịch thẳng từ Phạn ngữ là: "Trên trời dưới đất kiếp nầy là kiếp cuối cùng, Như Lai đoạn diệt gốc rễ sinh tử".  Đây là câu hợp lý nhất với cuộc đời và giáo lý của Phật Thích Ca? Phật Thích Ca sinh ra ở kiếp của Thái tử Tất Đạt Ta và xuất gia đi tu thành Phật.  Khi thành Phật thì không Khổ trong kiếp sinh lão bệnh tử và khi nhập diệt thì đạt Niết Bàn tức là không phải tái sinh theo luân hồi lục đạo nữa. 

 

*

Cứ mỗi năm, Phật tử kỷ niệm ngày Phật Đản vào ngày 18 tháng 4 âm lịch.

 

PHẬT ĐẢN SINH 

Nguyên thủy khởi từ Phật đản sinh (*)

Thích Ca thành đạo, tránh phồn vinh

Tăng già ẩn trú phùng an tịnh

Giáo pháp quy y đạt thái bình

Giới luật bảo trì, tâm chánh định

Si mê đoạn diệt, trí thông minh

Chúng sanh hành đạo, đời không khổ

Giải thoát luân hồi khỏi tái sinh.

(Phan Thượng Hải)

 

(*) Chú thích: Phật Thích Ca sáng lập Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa).


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Tài liệu tham khảo

1) Hành Hương và Huyền Thoại Phật Thích Ca (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Thơ Phan Thượng Hải - Tôn Giáo (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

______________________________________

PTH_mapIndia.JPG
PTH_thienthuongthienha.JPG

THƠ THÁNG TƯ ĐEN                               

NGƯỜI DI TẢN 30-4  

Miền Nam đamất phải sinh ly 

Bỏ lại quê hương họa hiểm nguy 

Chiến hữu lao tù thân khốn khổ 

Đồng bào nô lệ dạ sầu bi 

Lương tâm nuôi dưỡng người di tản 

Chí hướng trường tồn lúc thịnh suy 

Trọn kiếp không quên thề chống Cộng 

Hằng năm tưởng niệm chuyến ra đi. 

(Phan Thượng Hải) 

4/23/17 

 

NGƯỜI Ở LẠI 30-4-75

Ngu dại một ngày để tiếp thu 

Dưới quyền nhà nước, giống nhà tù (*)

Hận đời cải tạo hành lao động 

Buồn cảnh ly tan mộng viễn du 

Lạc hậu tuyên truyền toàn lãnh thổ 

Nghèo hèn áp đặt tận biên khu 

Ta bà thế giới còn sinh sống 

Địa ngục đây rồi khỏi phải tu. 

         (Phan Thượng Hải) 

         4/25/14 

         

         (*) Chú thích: Chính quyền gọi là "Nhà nước" (sau 30-4-1975).

 

 

BỆNH VIỆN BÌNH DÂN 30-4-75 

 

Giặc đến, người đi, súng nổ vang 

Bình Dân nội trú lúc nguy nàn 

Cứu thương giải phẫu không ngừng nghỉ 

Thiển ý vô tư chẳng rộn ràng 

Giúp đỡ đồng bào khi biến loạn 

Quên tìm tỵ nạn được bình an 

Bùi ngùi nhớ lại ngày xưa ấy 

Thời thế trần ai khó luận bàn? (*) 

(Phan Thượng Hải) 

4/26/12 

 

(*) Chú thích:

         Ai Công Hầu, ai Khanh Tướng, trong trần ai ai dễ biết ai. (Đặng Trần Thường) 

         Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thì vẫn thế. (Ngô Thì Nhậm) 

         Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thì phải thế. (Phan Huy Ích) 

   Hoa Xuân: Đào, Anh Đào và Mai

 

                                     Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Hoa Mai, Hoa Đào và Hoa Anh Đào

 

Hoa của mùa Xuân ở vùng ôn đới và hàn đới thường có 3 thứ hoa thường được nhắc đến: Hoa Mai, Hoa Đào và Hoa Anh Đào.

Cả ba loại Hoa Mai, Đào và Anh Đào thuộc ba họ là Rosales, Rosaceae và Prunus nhưng nhiều khi khó phân biệt.

 

 

 

 

 

 

 

Ý nghĩa của 3 loại hoa.

Hoa Đào tượng trưng cho sự trường thọ (longevity).  

Hoa Mai là hoa của sự tốt lành (auspice).  

Hoa Anh Đào là hoa của mùa Xuân với tất cả truyền thống tốt đẹp của mùa Xuân.

 

Đặc tính của 3 thứ hoa:

Hoa Mai (Plum Blossom) được chia ra theo 2 màu: trắng (white) và đỏ thắm (crimson).  Tuy nhiên hoa Mai có thể có những màu khác nhau giữa 2 màu nầy.  Thí dụ, có vài nụ nở thành hoa màu hường còn có nụ nở thành hoa màu trắng.  Có vài nụ có nhụy màu lạt và chỉ có cánh hoa màu đỏ.  Hoa Mai có mùi hương dịu dàng (sweet gentle) giống như mùi của bông lài (jasmine).

Hoa Đào (Peach Blossom) có thể là có màu trắng (white) gọi là Bạch Đào), màu hường (pink) gọi là Hồng Đào và màu đỏ (red) gọi là Bích Đào.  Hoa có nhiều màu khác nhau có thể mọc trên cùng một cây.  Mùi hương dịu nhẹ (sweet and mild), chúng ta có thể ngửi từ cả hoa và lá.

Hoa Anh Đào (Cherry Blossom) có thể có những màu trắng (white), hường nhạt (light pink) hoặc hường đậm (dark pink); tùy theo loại cây hay từ cây riêng biệt.  Hoa Anh Đào thường có mùi hương nhẹ (mild) tuy nhiên cũng có loại khó có mùi hay có mùi rất mạnh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sự khác biệt giữa hình thể của 3 loại hoa.

Cả 3 thứ hoa thường đều có ít nhất là 5 cánh hoa (petal).

Hoa Mai: Cánh hoa hình tròn.  Một chỗ trên cành chỉ có một hoa và gần như không có cuống (petiole).

Hoa Đào: Cánh hoa có mũi nhọn.  Một chỗ trên cành có 2 hoa và có cuống ngắn.

Hoa Anh Đào" Cánh hoa có một chỗ lõm ở đầu.  Một chỗ trên cành có nhiều hoa và có cuống dài.

 

Thời gian của hoa nở có khác nhau nhưng có thời gian trùng nhau (trong tháng 3 và tháng 4 dương lịch của mỗi năm):

Hoa Mai thường nở vào cuối tháng 1 cho đến đầu tháng 4.

Hoa Đào thường nở vào đầu tháng 3 đến cuối tháng 4.

Hoa Anh Đào thường nở từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 4.

 

Trong các nước ở vùng ôn đới và hàn đới, mùa hoa Anh Đào của Nhật Bản rất nổi tiếng cho toàn thế giới.  Du khách thường đến Nhật Bản trong mùa hoa nầy.

Tác giả có bài thơ mô tả:

 

MÙA HOA ANH ĐÀO NHẬT BẢN

Xuân về nở rộ khắp gần xa

Nhật Bản đón mừng Sakura (*)

Rạng rỡ trên cành, mầm nghệ thuật

Xinh tươi theo gió, hứng thi ca

Điểm trang ngự uyển thiền sơn tự

Tô thắm phố phường bách tính gia

Thưởng ngoạn Anh Đào, cùng thú vị

Đẹp tình đẹp cảnh đẹp mùa hoa.

(Phan Thượng Hải)

9/13/13

 

(*) Chú thích: Sakura (tiếng Nhật Bản) = hoa Anh Đào.

 

 

Người Mỹ cũng thường thăm viếng thủ đô Washington DC để thưởng ngoạn hoa Anh Đào vào mùa Xuân trong thời kỳ của mùa hoa Anh Đào ở Nhật Bản.

 

Hoa Đào có chỗ có khi nở ngay trước mùa lễ Phục Sinh của Kitô Giáo (Christianity).

 

XUÂN ĐÀO PHỤC SINH

Đào thắm duyên xuân lễ Phục Sinh (*)

Tự nhiên thiên tạo ý hòa minh

Tin mừng cứu thế niềm hy vọng

Hoa nở giao mùa cảnh đẹp xinh

Thời tiết an lành tâm tỉnh thức

Nhân loài từ thiện tiếng cầu kinh

Xuân đào tái hiện phô thanh sắc

Cảm giác lòng người phước phục sinh.

(Phan Thượng Hải)

4/2/21

 

(*) Chú thích: Có loại hoa đào (như anh đào) nở vào đầu tháng tư ngay trước lễ Phục Sinh.


 

Hoa Đào ở Việt Nam

 

Hoa Đào (Peach Blossom; Beach Flower) có thể là có màu trắng (white), màu hường (pink), và màu đỏ (red).  Hoa có nhiều màu khác nhau có thể mọc trên cùng một cây.  Mùi hương dịu nhẹ (sweet and mild), chúng ta có thể ngửi từ cả hoa và lá.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hoa Đào ở Việt Nam, thường ở Bắc Việt thuộc vùng ôn đới, cũng có 3 loại hoa chính tùy theo màu:

Có màu đỏ (red) hay đỏ lạt (light red) hoặc màu hường đậm (dark rose).  Tiếng Việt gọi là Bích Đào.

Có màu hường (pink) hay hường nhạt (light pink) gần như màu trắng.  Tiếng Việt gọi là Đào Phai.

Có màu hoàn toàn trắng (white).  Tiếng Việt gọi là Bạch Đào.

 


 

Ở Việt Nam còn có:

Loại Đào Thất Thốn còn được gọi là đào tiến Vua là loại đào có cây cao hơn mặt đất chỉ chừng khoảng hơn 1m, phải trồng đến năm thứ 3 mới đơm hoa. Cây ra hoa kép và mỗi tầng hoa đều có 7 cánh, mỗi bông to có đường kính lên tới 4 – 5 cm. Đặc biệt, những bông hoa kép có thể có tới 30 - 50 cánh/bông.

Loại Hoa Đào Rừng thì mọc ở rừng nhưng có màu hường nhạt (như Đào Phai) hoặc màu trắng (như Bạch Đào).

 

Tại sao gọi là "Bích Đào" cho hoa Đào có màu đỏ hoặc màu hường đậm vì "bích" có nghĩa là màu xanh lam (blue) pha với màu xanh lục (green)?

Bích = (Màu) biếc hay xanh biếc; Thứ đá có màu xanh biếc.

Bích Câu = Cái ngòi (có) nước màu xanh biếc.  

Bích Ngọc = Một thứ ngọc có màu xanh biếc (= Jade Vert, tiếng Pháp).

Biếc = Xanh Biếc = Có màu xanh lam hòa lẫn màu xanh lục - Xanh đậm nhưng tươi ánh lên.

Tuy nhiên "Bích Đào" dùng cho hoa Đào có nghĩa khác.

Bích = Hòn ngọc, có hình tròn và ở giữa có lỗ.

Bích Đào = (Hoa) Đào đẹp và quí như hòn ngọc.

 

Cũng có danh hiệu "Hồng Đào" cho hoa Đào.

Theo Từ điển Hán ngữ,

Hồng = (Màu) đỏ lợt (lạt).

Theo Từ điển Việt ngữ,

Hồng = (Màu) đỏ (Red).

                    = Hường = (Màu) hường hay đỏ lạt (Rosé).

 

Thường dùng Hồng Đào khác với Bích Đào (màu đỏ) với "Hồng" chỉ có nghĩa là "Hường", như vậy Hồng Đào đồng nghĩa với Đào Phai?


 

Văn Học Sử Việt thường nhắc tới bài thơ "Hoa Đào" của Thôi Hộ vào đời nhà Đường.

Theo Tình Sử và Lệ Tình Tập, Thôi Hộ là một người đẹp trai, tánh quả hợp, không hay chơi với ai.  Một ngày thanh minh đi chơi một mình đến phía nam kinh thành thấy một nhà có vườn đào nhiều hoa, mới gõ cửa xin nước uống.  Một người con gái rất đẹp và rất nghiêm trang ra hỏi tên họ rồi đem nước mời uống.  Đến tiết thanh minh năm sau, Thôi Hộ lại đến nhà ấy, thấy cửa đóng, đề bài thơ nầy ở cánh cửa bên tả.  Cách mấy hôm lại đến chợt nghe tiếng khóc và có ông lão ra hỏi: anh có phải là Thôi Hộ không?  Con gái tôi đọc bài thơ của anh rồi nhịn ăn mới chết.  Thôi Hộ vào khấn, thì người con gái ấy sống lại, bèn lấy làm vợ.  Sau Thôi Hộ đổ Tiến sĩ vào đời Trinh Nguyên nhà Đường, làm qua đến chức Lĩnh Nam Tiết Độ Sứ.

 

ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Thôi Hộ)

 

ĐỀ CHỖ ĐÃ TRÔNG THẤY NĂM TRƯỚC

Hôm nay, năm ngoái, cửa cài

Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi

Mặt người chẳng biết đâu rồi

Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.

(Trần Trọng Kim dịch)

 

ĐỀ CHỖ ĐÃ TRÔNG THẤY NĂM TRƯỚC

Hôm nay năm ngoái cổng nầy

Hoa đào soi ánh đỏ hay mặt người

Mặt người nay ở đâu rồi

Hoa đào nay vẫn còn cười gió đông.

(Trần Trọng San dịch)


 

Bài thơ nổi tiếng nầy làm điển cố cho nhiều câu thơ:

 

Ức tích dữ quân tương biệt trung

Tuyết mai do vị thức đông phong

Vấn quân hà nhật qui

Quân chỉ đào hoa hồng

Đào hoa dĩ trục đông phong khứ

Lão mai giang thượng hựu phù dung.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đặng Trần Côn)

 

Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã quyến gió đông

Phù dung lại đã bên sông bơ xờ

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đoàn Thị Điểm)

 

 

Trước sau nào thấy bóng người

Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

(Đoạn Trường Tân Thanh)

 

Trên chín bệ cỏ hay chăng nhẻ

Khách quần thoa mà để lạnh lùng

Thù nhau chi hỡi đông phong

Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào.

(Cung Oán Ngâm Khúc)

 

 

Xuân sang xuân đã già nào

Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Hỏi cho giáp mặt hoa đào

Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru.

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Còn trời còn nước còn non

Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa

Hoa đào còn đó trơ trơ

Mà người năm ngoái mà giờ là đâu?

Vù vù gió thổi rèm lau

Càng như chất mới tơ sầu vào thêm.

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Ngày nay, theo Trang Thơ Thi Viện Net, bài thơ nầy được đổi tựa là "Đề Đô Thành Nam Trang" và đổi lời: từ "đông phong" thành "xuân phong"với chú thích.

 

ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu xuân phong. (*)

(Thôi Hộ)

 

(*) Chú thích : Có bản viết là "đông phong" cũng không sai vì ở Trung Quốc gió xuân (xuân phong) đến từ hướng đông!

 

Ý kiến về "Xuân phong" thay vì "Đông phong" cũng có lý, nhưng giải thích như của Trang Thơ Thi Viện Net thì hơi gượng ép, vì thật ra hoa Đào không có nở vào mùa Đông mà chỉ nở vào mùa Xuân ở Trung Quốc, một nước thuộc vùng ôn đới và hàn đới.  Do đó câu cuối của bài thơ phải viết cho đúng theo thời tiết thiên nhiên là:

 

Đào hoa y cựu tiếu xuân phong.

 

Như vậy các câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh và Cung Oán Ngâm Khúc dùng "đông phong" với "hoa đào" làm điển tích đều sai hết; và chỉ có Bích Câu Kỳ Ngộ dùng "mùa xuân" với "hoa đào" là đúng mà thôi?

 

Văn học sử nước Việt cũng có chuyện ông Từ Thức gặp Tiên là Giáng Hương ở động Từ Thức, còn gọi là động Bích Đào vào đời nhà Trần niên hiệu Quang Thái (1388-1398).  Động này ở xả Trị Nội, huyện Nga Sơn (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa); ở bên hữu núi Thần Phù.

Tương truyền Từ Thức có bài thơ tả cảnh chốn nầy như sau, có đề cập đến sự hiện diện của hoa Đào:

 

Thiên chương bích thụ quải triêu đôn

Hoa thảo nghinh nhàn nhập động môn

Bạng giản dĩ vô tăng thái dược

Lâm lưu thặng hữu khách tầm nguyên (ngôn)

Lữ du tư vị tam cầm lộng

Điếu đỉnh sinh nhai nhất tửu tôn

Nghĩ hướng Vũ Lăng ngư phủ vấn

Tiền lai viễn cận thực đào thôn.

 

(Nguyễn Tử Quang dịch thơ)

Đầu cành thấp thoáng bóng kim ô

Hoa động vui mừng đón khách vô

Cạnh suối nào là người hái thuốc

Quanh nguồn chỉ có gã bơi đò

Xênh xang ghế mát đàn ba khúc

Đủng đỉnh thuyền câu rượu một vò

Ước hỏi Vũ Lăng chàng đánh cá

Làng đào đâu có cách chừng mô.

 

Tương truyền Từ Thức kết duyên với Giáng Hương và sống được một năm ở cõi Tiên thì nhớ trần thế xin về.  Khi về chốn trần gian thì mới biết thời gian đã qua 60 năm.  Ông trở về chốn cũ nhưng không tìm được Tiên nữa nên vào ở ẩn ở núi Hoàng sơn thuộc huyện Nông Cống (cũng thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) và chết ở đây.

 

Lê Quý Đôn của nhà Hậu Lê có bài thơ vịnh sự tích nầy như sau, và có nhắc tên Bích Đào Động:

 

Hải thượng quần tiên sự diếu mang

Bích đào động khẩu thái hoang lương

Kiền khôn nhất cát cùng Từ Thức

Vân thủy song nga lão Giáng Hương

Thạch cổ hữu thanh xao hiểu nhật

Sa diêm vô vị niết thu xương

Thế nhân khổ tác Thiên thai mộng

Thùy thức Thiên thai diệc hí trường.

 

(Nguyễn Tử Quang dịch thơ)

Câu chuyện thần tiên rất khó lường

Bích Đào động nọ đã hoang lương

Áo bông gió bụi: thân Từ Thức

Mày liễu xuân tàn: sắc Giáng Hương

Trống đá ngày qua nghe tiếng động

Nhủ diêm sương nhuộm mất mùi thường

Thiên thai mộng tưởng cho thêm khổ

Ai biết thiên thai cũng hí trường.

 

Có những bài thơ hiện đại tả hoa Đào trong dịp Tết, đầu Xuân, cùng với hoa Mai vì hoa Anh Đào không có ở nước Việt.

 

ĐÀO THẮM (Nguyên bản)

Cây nhà vườn trước lá đang xanh

Đua nở bông tươi phủ khắp cành

Vài bướm nghe hương lơ lửng đến

Dăm ong thấy sắc dập dìu quanh

Người qua tấm tắc khen hoa đẹp

Kẻ lại trầm trồ nói dấu lành

Ngắt cánh xinh xinh trưng chậu Tết

Đón Xuân đào thắm cánh mong manh.

(Hp-Trương Ngọc Thạch) 

1/22/16

 

ĐÀO THẮM MAI XINH (Họa)

Xuân về hoa nở đẹp trời xanh

Đào thắm mai xinh giữa lá cành 

Thắng cảnh Bích Câu duyên gặp gỡ (*)

Trọn tình Thôi Hộ hết đi quanh (*)

Mai xinh thơ mộng đời may mắn

Đào thắm lòng vui sự tốt lành

Tươi trẻ hồn người tràn nhựa sống

Chứa chan kỳ vọng kiếp mong manh.  

(Phan Thượng Hải) 

1/23/16

 

(*) Chú thích: 

Từ câu thơ: "Đua chen thu cúc xuân đào. Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông" (Bích Câu kỳ ngộ: Tú Uyên gặp Giáng Kiều).

Sự tích và bài thơ của Thôi Hộ.


 

Hoa Mai ở Việt Nam

 

Hoa Mai (Plum) ở miền ôn đới hay hàn đới kể trên được gọi là Mai Hằng (Mơ, Mơ Ta) ở Việt Nam (Japanese Plum, Chinese Plum, Apricot), thường chỉ thấy ở Bắc Việt.  Bắc Việt gần miền ôn đới nhưng Nam Việt thuộc miền nhiệt đới nên có hoa Mai Vàng (Yellow Mai).

 

Các Loại Mai ở Việt Nam:

1. Mai Vàng (Mai Vàng Việt Nam) = Ochna integerrima.  Mai Vàng VN là loại Mai Mỹ (Ochna) chỉ có ở Việt Nam, nhất là Miền Nam trong dịp Tết Nguyên Đán.

Mai Núi = 1 loại Mai Vàng mọc tự nhiên ở rừng núi = thuộc loại Ochna integerrima.  Nó khác với loại Mai Vàng VN trồng ở phố thị hay thôn quê.

2. Những Mai Mỹ khác = Ochna serrulata, Ochna atropurpurea...

Mai Tứ Quý = thuộc loại Ochna serrulata.

Nhị Độ Mai = 1 loại tiêu biểu của Mai Tứ Quý.

3. Mai Hằng = Mơ, Mơ Ta = Prunus mume

Nhất Chi Mai = thuộc loại Prunus mume.

 

Mai Vàng (Việt Nam), không phải là Mai Núi.

- Thường thấy ở Miền Nam trong dịp Tết Nguyên Đán.  Được trồng ở phố thị hay thôn quê.

Miền Nam

Miền Bắc: hiện đại trồng ở vùng Uông Bí - Đông Triều - Quảng Ninh.

Miền Trung: trồng ở Huế và Bình Định. 

- Hoa màu vàng và có 5 cánh hoa.

Mai Vàng = Hoàng Mai, Huỳnh Mai, Lão Mai. 

= Yellow Mai (Anh ngữ).

 

 

 

 

 

 

 

Mai Núi

Thường thấy mọc tự nhiên ở vùng rừng núi: từ Tây Nguyên, ở Quảng Bình và Quảng Trị, cho tới Biên Hòa và Tây Ninh.

Hoa màu vàng và có 5-9 cánh hoa, có khi tới 12-18 cánh.

Ngày nay Mai Núi cũng được trồng ở phố thị và thôn quê.

Mai Núi = Mountain Mai

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Những Mai Mỹ khác trên Thế giới.

Hoa màu vàng có đài màu đỏ.

Mai Mỹ = Smell-leaved Plane, Mickey Mouse Plane, Carnival Ochna, Bird's Eye Bush

 

Mai Tứ Quý và Nhị Độ Mai.

- Hoa có 5 cánh hoa.

- Nhị Độ Mai có nghĩa là Mai nở hai lần (trước vàng sau đỏ).

Mai Tứ Quý bắt đầu có hoa màu vàng 5 cánh.  Các cánh rơi rụng rồi 5 đài hoa đổi thành màu đỏ úp lại ôm lấy nhụy, trông giống như nụ hoa vừa nhú.  Nhụy bên trong kết hạt rồi hạt to dần đẩy 5 đài hoa (đỏ) bung ra trông giống như hoa mai đỏ vừa nở.  Hạt ở giữa các cánh hoa, có màu xanh khi còn non rồi đổi sang màu đen khi già.


 

Thường trồng ở Miền Bắc từ xưa đến giờ và có Trái (Quả).

Hoa nở vào cuối Đông và đầu Xuân (cuối tháng 1 và đầu tháng 2).

Hoa thường có màu trắng, hiếm khi thấy màu hồng nhạt hay đỏ thẩm.

Hoa có 5 cánh hoa (thường là màu trắng).  Nhụy chỉ có màu vàng.

 

Mai Hằng, Mơ, Mơ Ta (khác Mơ Tây = Apricot = Prunus armeniaca).

= Bạch Mai, Hàn Mai.

= Mai, Mai Tử (Hán ngữ của Trung Hoa).

= Chinese Plum, Japanese Plum, Japanese Apricot (Anh ngữ).

= Apricotier du Japon, Apricotier (Pháp ngữ).

 

Mai Hằng hay Mơ Ta (Abricottier) màu trắng hồng biểu hiện Tình yêu không được đáp lại.Tác giả là người sống viễn xứ, nhân khi ngắm Mai Vàng sau vườn cũng có bài thơ:

 

NGẮM MAI VÀNG (Nguyên bản)

Hậu viên thơ thẩn ngắm mai vàng

Kỳ vọng đồng tình xuân mới sang

Nhụy nở tự nhiên chào gió lạnh

Cánh chia xinh xắn đón trời quang

Huy hoàng sắc đẹp bên hoàng cúc

Thanh bạch duyên may cạnh bạch lan

Thoáng nhớ hương xưa nơi đất mẹ (*)

Hồn thơ lai láng tứ mênh mang...

(Phan Thượng Hải)

3/3/21

 

(*) Cổ thi thường mượn hoa Mai để nhớ quê nhà cho những người viễn xứ, như bài thơ dưới đây của Lê Cảnh Tuân đời nhà Trần:

 

NGUYÊN NHẬT (*)                            NGÀY ĐẦU NĂM 

Lữ quán khách nhưng tại                       Hỡi ơi xuân cũ lại về

Khứ niên xuân phục lai                          Còn ta đất khách lê thê năm dài

Quy kỳ hà nhật thị                                 Ngày về thăm thẳm hỏi ai?

Lão tận cố hương mai.                           E rằng đã cỗi cành mai quê nhà.

(Lê Cảnh Tuân)                                      (Nguyễn Tấn Hưng dịch)

 

(*) Chú thích: Nguyên nhật = ngày đầu năm

 

Bài thơ của tác giả được những người trong nước họa:

 

MAI XUÂN (Họa)

Bát ngát Nam Phương ngập ánh vàng

Trời vui lồng lộng nắng Xuân sang

Mai hương nhẹ thoảng thơm quê lạnh

Cúc sắc đậm màu tươi xứ quang

Mong khách năm châu vui Ngọc Điểm

Ước người tứ xứ thưởng Hoàng Lan 

Nguyện cầu thế giới thanh bình điệu

Nhơn loại nhẫn hòa nhẹ gánh mang.

(Võ Văn Thành)

03/04/2021

 

CÂY MAI NHÀ (Họa)

Trước nhà rực rỡ chậu mai vàng

Hớn hở đón mừng năm mới sang 

Cành, nhánh sum sê như biểu diễn

Nụ, hoa tươi thắm tựa đăng quang 

Nghiêng mình đáp lễ chào em cúc

Ngẩng mặt trao hương gửi chị lan 

Xuân đến rồi đi lòng bịn rịn

Ơn trời mọi thứ được cưu mang.

(Phan Kim Thành)

3/6/21  

 

Tình quê hương không những từ bông Mai Vàng mà từ bông Lúa Vàng: 

 

HOÀNG HOA

Tâm tư êm ái tự hoàng hoa

Dưỡng tánh an cư thú đậm đà

Nhớ đến cố hương màu lúa chín (*)

Thương về quá khứ sắc mai già (*)

Cổ thi rạng tứ hòa phong cảnh

Mỹ tửu si tình mến tố nga

Xuân ý dâng tràn niềm hạnh phúc

Tượng hình chia sẻ khắp gần xa.

(Phan Thượng Hải)

3/19/21

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Học Thuật.

Tài Liệu Tham Khảo:

- Cùng một tác giả Bs Phan Thượng Hải - Phan Thượng Hải - phanthuonghai.com

Các Loại Hoa Biểu Hiện Tình Yêu (Bs Phan Thượng Hải)

Điển Cố Từ Thơ (Phan Thượng Hải)

Thơ Phan Thượng Hải - Sinh Vật và Cảnh Vật (Bs Phan Thượng Hải)

- Khác tác giả

Điển Hay Tích Lạ (Nguyễn Tử Quang)

Related articles and pictures - Google Wikipedia

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

PTH_hoadao_1.JPG
PTH_hoadao_2.JPG
PTH_PhuSi.JPG
PTH_hoadao_3.JPG
PTH_Hoadao_4.JPG
PTH_ Maivang.JPG
PTH_Mainui.JPG
PTH_Nhidomai.JPG
PTH_MaiHang.JPG
PTH_DalaiLatma.jpg

ĐẠT LAI LẠT MA THỨ 14

 

                                          Bs Phan Thượng Hải biên soạn 

 

Pháp danh của ngài là Tenzin Gyatso, rút ngắn từ "Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso". Tục danh của ngài là Lhamo Dondrub (hay Thondup).

Ngài sinh (năm 1935) trong 1 gia đình nông dân và chăn nuôi ngựa có 7 người con ở 1 làng nhỏ trước thuộc vùng Amdo của Tây Tạng nhưng lúc đó lại thuộc tỉnh Thanh Hải của Trung Hoa Dân Quốc.  Gia đình của ngài nói tiếng thổ ngữ Tây ninh Trung Hoa trước khi dời về Lhasa (năm 1939).  Người anh cả, Thupten Jigme Norbu, đã được nhận là tái sinh của Lạt Ma Taktser Rinpoche. 

 

Nhiếp Chánh Reting Rinpoche tìm ra Lhamo Thondup là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.  Cậu bé Lhamo Thondup nhận ra đúng hết từng di vật khác nhau của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 mà la lên rằng: "Cái đó của tôi! Cái đó của tôi!". Để Lhamo Thondup được rời nơi ở mà về Lhasa, Tây Tạng phải đút tiền cho Tướng quân ở Thanh Hải (Qing Hai) là Mã Bộ Phương (Ma Bu Fang).

Tenzin Gyatso được chánh thức thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trị vì Tây Tạng vào năm 1950 (khi 15 tuổi).  Năm 1959 (khi 23 tuổi) Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đậu Tiến sĩ của Phật Giáo Tây Tạng (Doctorate in Bhuddist Philosophy).  

 

Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, Tướng quân Mã Bộ Phương (Ma Bu Fang) của Thanh Hải (theo đạo Hồi) thường phá phách Tây Tạng.

Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc thành lập năm 1949, quân đội Trung Quốc chiếm Tây Tạng vào tháng 10, 1950 chỉ 1 tháng trước ngày tức vị của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (tháng 11, 1950).  Năm 1954, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 sang Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được phong làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ của Quốc Hội Nhân Dân.  

Năm 1956, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sang gặp Thủ tướng Nehru của Ấn Độ và ngài ngỏ ý xin tỵ nạn nhưng bị từ chối.  Cùng năm đó có cuộc nổi dậy của người Tây Tạng ở vùng Kham chống lại chánh quyền Trung Quốc.

 

Với sự giúp đỡ của CIA, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cùng tùy tùng trốn khỏi Tây Tạng, sang Ấn Độ vào ngày 30-3-1959 và tới Tezpur của vùng Assam vào ngày 18-4-1959.

Ngay sau đó, tại Dharamsala (của Ấn Độ), Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 với 80,000 người Tây Tạng định cư ở đây lập Chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong và duy trì nền tôn giáo, văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng tại đây.

 

Về chính trị, trước tiên, Đạt Lai Lạt Ma vận động với Liên Hiệp Quốc đấu tranh cho Nhân quyền trên lãnh thổ Tây Tạng. 

Sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được Nixon cho vào Hội đồng bảo an của Liên Hiệp Quốc, Đạt Lai Lạt Ma phải điều đình trực tiếp với Trung Quốc.  Qua nhiều lần điều đình ngoại giao với Trung Quốc về vấn đề Tây Tạng tự trị (liên hợp với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc) và về vấn đề Đạt Lai Lạt Ma về lại Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cuối cùng phải chấm dứt (điều đình) vì ngài không còn "tin" chánh quyền Trung Quốc nữa.

 

Về tôn giáo, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết sách và đi thuyết giảng Phật Giáo và Phật Giáo Tây Tạng khắp toàn thế giới. Ngài cũng giao dịch với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác trên thế giới.  Ngài cổ động cho tôn giáo dựa trên nền tảng khoa học chứ không dựa trên mê tín dị đoan.

Ngài luôn giữ liên hệ tốt đẹp với Ấn Độ. Ngài nói: "Tôi coi Ấn Độ là thầy và Tây Tạng là học trò vì những đại học giả như Long Thụ (Nagarjuna) từ Nalanda (của Ấn Độ) sang Tây Tạng giảng dạy Phật Giáo vào thế kỷ thứ 8".

Từ tôn giáo, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thành nổi tiếng trên khắp thế giới.  Ngài được giải Nobel Hòa Bình (năm 1989).

 

 

Dưới đây là một số quan điểm về một số vấn đề đặc biệt của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14:

 

- Về chủ nghĩa Cộng Sản của Karl Marx, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết:

         Trong tất cả những thuyết lý kinh tế hiện đại, hệ thống kinh tế của Marxism được xây dựng trên nguyên tắc đạo đức trong khi đó chủ nghĩa tư bản (capitalism) chỉ nghĩ tới thắng lợi và có lợi.  Marxism nghĩ tới sự phân chia tài sản trên căn bản bình đẳng và sự xử dụng công bình của phương tiện sản xuất.  Nó cũng nghĩ tới số mệnh của giai cấp công nhân - là đa số - cũng như số mệnh của những ai yếu thế và đang cần, và Marxism lo cho nạn nhân của sự lợi dụng trẻ em bị áp bức.  Do những lý do đó, hệ thống (Marxism) cảm động lòng tôi và nó có vẻ tốt và thuận tiện.

Ngài cho rằng khi ngài đến Bắc Kinh (1956), "đối với tôi, Marxism rất hấp dẫn, tôi còn tỏ ý muốn thành một đảng viên Cộng Sản", dẫn chứng từ ý niệm thích nhất của ngài là tự túc (self-sufficiency) và sự phân chia bình đẳng của tài sản.  

Tuy nhiên Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 không tin là Trung Quốc áp dụng thật sự đúng đắn chính sách của K. Marx.  Nói về chủ nghĩa tư bản, ngài cho rằng "mực sống của hàng triệu dân tốt hơn" nhưng đó "chỉ là làm sao cho có lợi", trong khi đó Marxism có "luân lý đạo đức" (moral ethics). Nhìn lại lịch sử, Liên Xô "chỉ nghĩ tới lợi ích của quốc gia hơn là lợi ích của Công nhân Quốc tế (Workers' International).

 

- Về Tình dục

Ngài quan niệm rằng giao hợp bằng miệng, bằng tay hay bằng hậu môn (cho cả Đồng tính luyến ái hay Dị tính luyến ái) là không được chấp nhận cho Phật Tử hay đối với Phật Giáo.

Ngài nói:

         "Sự cấm đoán tình dục cho người Phật tử áp dụng cho hành vi Đồng tính luyến ái và sự giao hợp Dị tính ở những chỗ khác hơn là âm đạo (vagina), kể cả sự thủ dâm hay những hành vi giao hợp bằng tay...  Trên quan điểm của Phật giáo, sự giao hợp tình dục của lesbian và gay thông thường được coi như là tình dục không có hạnh kiểm (sexual misconduct)".

         "Nếu có người đến hỏi tôi rằng Đồng tính luyến ái là Okay hay không.  Tôi sẽ hỏi: Ý kiến của người bạn tình (companion) của bạn ra sao?  Nếu cả 2 người đều đồng ý thì tôi nghĩ rằng tôi sẽ nói: Nếu 2 người Nam hay 2 người Nữ tự mình đồng ý có sự thỏa mãn chung với nhau mà không có làm hại những người khác, thì đó là Okay".

         "Một cuộc giao hợp tình dục được xem là đúng đắn khi đôi (tình nhân) dùng những cơ quan dành riêng cho sự giao hợp và không dùng những gì khác...  Đồng tính luyến ái, cho dù giữa 2 người Nam hay giữa 2 người Nữ, tự nó là không đúng đắn, Cái không đúng đắn là việc xử dụng những cơ quan được định nghĩa là không chính đáng (inappropriate) cho sự giao hợp tình dục".

Đạt Lai Lạt Ma nhắc nhở rằng mọi tôn giáo đều có cùng ý kiến về sự gian dâm (adultery).

 

- Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 biểu lộ sự lo lắng về vấn đề môi sinh (Environnement) và vận động cho việc bảo vệ các thú vật hoang dại.

 

- Về việc Osama Bin Laden bị giết chết, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 nói: 

         "Tha thứ không có nghĩa là quên những gì đã xảy ra...  Nếu chuyện gì quá hệ trọng (serious) và cần có sự phản công, bạn phải phản công lại"

 

- Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 nhắc nhở rằng Phá Thai là một hành vi của sát sanh (thuộc giới cấm của Phật Giáo).  Nhưng ngài cũng đồng ý trong những trường hợp đặc biệt "nếu trẻ chưa sinh sẽ chậm lớn (retarded) hay sự sinh sản sẽ gây nên vấn đề hệ trọng cho cha mẹ", với ý của ngài là tùy theo từng trường hợp cá biệt.  Điều nầy có khác văn hóa của Tây Tạng: Phá Thai là tuyệt đối không được chấp nhận và phái nữ không có quyền quyết định.Ở Tây Tạng, thịt là thực phẩm chính, hầu hết tăng sĩ đều "ăn tất cả mọi thứ" (omnivorous) cả thực vật lẫn động vật, kể cả Đạt Lai Lạt Ma.  Trong quá khứ, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 có thử ăn chay nhưng ngài bị "vàng da" (jaundice).  Do đó bác sĩ khuyên ngài phải ngưng.  Khi ngài viếng thăm Tòa Bạch Ốc (White House) và được dọn món ăn chay thì ngài từ chối và trả lời rằng: "Tôi là một tăng sĩ  (monk) Tây Tạng chứ không phải là một người ăn chay (vegetarian)". 

 

Năm 2008, sau khi có nổi loạn của dân Tây Tạng ở trong nước chống lại chánh quyền Trung Cộng, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 muốn sửa đổi phương hướng tìm Đạt Lai Lạt Ma kế vị trong tương lai (như có thể tái sinh ngoài lãnh thổ Tây Tạng) vì ngài sợ có sự âm mưu nhúng tay vào của chính quyền Trung Quốc.

Ngày 24-3-2011, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 xin từ chức là Lãnh tụ chính trị của chính quyền Tây Tạng lưu vong và xin Quốc Hội lưu vong sửa hiến pháp: Đạt Lai Lạt Ma không còn là người lãnh đạo của quốc gia nữa mà được thay thế bằng một Lãnh tụ do dân bầu lên.

 

Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 giới thiệu giáo lý giác ngộ của Thiền tông cho Phật tử còn vương vấn với cái Nghiệp của Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên thủy:       

         Tất cả mọi Hiện tượng thanh tịnh hay ô nhiễm đều trình hiện bởi Tâm Thức như là biểu hiện bằng tính chất tự nhiên thanh tịnh (của Bản Tâm) vì Bản Tâm là thanh tịnh bản nhiên từ khởi thủy..

         Ngay cả khi vẫn là chúng sanh và dù đã tạo vô số ý Nghiệp tốt hoặc xấu như tham, sân, si; Bản Tâm chính nó vẫn siêu việt (= ở trên) mọi ô nhiễm từ các phiền não nầy.  Nước có thể rất bẩn nhưng thể tính của nó vẫn là trong sạch (= thanh tịnh) và bản tánh của nước không bị ô nhiễm bởi bùn dơ.

         Tương tự, bất luận Hiện tượng phát sinh như là trò thiên diễn (= biểu tượng) của Tâm nầy, và bất luận lực dụng của nó (= hiện tượng phát sinh) đến mức nào thì tự Bản Tâm (căn nguyên của mọi tướng trạng của các kỹ xảo như vậy) từ vô thủy vẫn không bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm và vẫn không bị ảnh hưởng bởi cái thiện.

         Giác ngộ là khi ta "đồng nhất" được với Bản Tâm và nhận thức rõ ràng tất cả mọi Hiện tượng luân hồi sinh tử và Niết bàn (Vạn Pháp) đều lưu xuất từ Bản Tâm nầy.  Bản Tâm từ bi viên mãn và vi diệu vốn có sẵn (trong mỗi và mọi chúng sanh) nên Kinh có câu "Giác ngộ từ vô thủy". 

         Từ không bị ảnh hưởng bởi khái niệm quy ước, Tâm (Tâm Thức) đồng nhất với bản thể của mình (= Bản Tâm) và khẳng định chính xác rằng ý nghĩa của nó (= Bản Tâm) tương tục và thường hằng trong sự quân bình của Định Tuệ thì dù có sống trong thế tục chúng ta đã là Phật.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 giúp chúng ta hiểu rõ giáo lý nhân sinh của Kim Cang Thừa, giống như Thiền Tông của Phật Giáo Đại Thừa: Sống từ bi theo Bản Tâm từ bi bẩm sinh của tâm ta thì ta vượt thoát ra khỏi Nghiệp (Karma) (căn bản của Nhân Quả Nghiệp Duyên) và tâm của ta không có Tham (greed), Sân (anger) và Mạn (pride).  Thiền Tông còn gọi Bản Tâm là Phật Tánh (hay nhiều từ ngữ khác như "Bản Lai Diện Mục").  Đó là cốt lõi của giáo lý Phật Giáo Đại Thừa và Kim Cang Thừa.  Mọi người đều có sẵn Bản Tâm (hay Phật Tánh) từ bẩm sinh nên đều có thể thành Phật trong kiếp sống này.  

Nếu ta giác ngộ được cái cốt lõi của giáo lý nầy thì ta có "trí tuệ bát nhã" tức là không còn Si hay Vô Minh (ignorance) và Nghi (doubt).

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Tài liệu đọc thêm:

     1. Phật Giáo Tây Tạng Kim Cang Thừa (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

     2. Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

     3. Giáo Lý Giải Thoát của Phật Giáo Nguyên Thủy (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com  

_____________________

 LỊCH SỬ CỦA ĐẠT LAI LẠT MA VÀ BAN THIỀN LẠT MA

 

                                                  Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

a) Đại Cương

 

*

Je Tsongkhaba (Tông Khách Ba) lập phái Gelug ở Tu viện Ganden (từ năm 1409).  

Trong 2 đệ tử của Je Tsongkhaba (1357-419) có 2 Lạt Ma là Khedrup Je và Gendrum Drup (Gendrum Drub). Cả 2 Lạt Ma nầy thuộc 2 dòng hóa thân Tulku (Chu cô) khác nhau.  

Sau khi Je Tsongkhaba qua đời, Lạt Ma Gendrum Drup thay Je Tsongkhaba làm Trụ trì Tu viện Ganden và trở thành vị Lạt Ma được kính trọng và nổi tiếng của Tây Tạng.  Ngài không có liên quan tới chính trị.  Sau đó ngài rời Tu viện Gandan về làm Trụ trì Tu viện Drepung và lập Tu viện Tashilhumpo ở Shigatse (năm 1447).  Lạt Ma Khedrup Je thay làm Trụ trì tu viện Ganden và dĩ nhiên trở thành Gaden Tripa (Giáo chủ) của phái Gelug.

 

*

Dòng Tulku (Chu cô) của Lạt Ma Gendrum Drup nối tiếp với những Lạt Ma: Gendun Gyatso Palzanpo và Sonam Gyatso.  

         Lạt Ma Gendun Gyatso Palzampo lãnh đạo cả 3 tu viện Drepung, Sera và Ganden.  Phái Gelug rất có uy tín Phật Giáo Tây Tạng lúc bấy giờ.  

         Lạt Ma Sonam Gyatso là Ganden Tripa (Giáo chủ) của phái Gelug và trong thời của ngài, phái Gelug thay thế phái Kagyu, trở thành lãnh đạo của giáo hội Phật Giáo Tây Tạng.

 

Sau khi gặp Khả Hãn Altan của Mông Cổ, Lạt Ma Sonam Gyatso có danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma và từ đó danh hiệu nầy được dùng cho những Lạt Ma thuộc dòng Tulku nầy từ Lạt Ma Gendrum Drup.  Và từ đó dòng Tulku (Chu Cô) nầy được coi là hiện thân của Quan Tự Tại bồ tát (Avalokiteshvara).  Quan Tự Tại bồ tát là Quan Thế Âm bồ tát của Đại Thừa.  Sau khi có danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma, (Lạt Ma) Sonam Gyatso tự xưng là Đạt Lai Lạt Ma thứ 3 và tấn phong ngược lại cho Lạt Ma Gendun Gyatso Palzamo là Đạt Lai Lạt Ma thứ 2 và Lạt Ma Gendrum Drup là Đạt Lai Lạt Ma thứ 1.  Từ Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, Đạt Lai Lạt Ma là nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần (tôn giáo) của toàn lãnh thổ Tây Tạng. 

 

*

Dòng Tulku (Chu cô) của Lạt Ma Khedrup Je nối tiếp với những Lạt Ma: Sonam Choklang, Ensapa Lobsang Dondrup và Lobsang Chokyi Gyaltsen.  

Tương truyền rằng trước khi chính thức thành Ban Thiền Lạt Ma, dòng Tulku nầy đầu tiên là Hiện thân của Văn Thù bồ tát (Manjusrì) bắt đầu từ Tu Bồ Đề (Subhuti), một trong 10 Đại đệ tử của Phật Thích Ca, truyền qua 4 tăng sĩ Ấn Độ và 3 tăng sĩ Tây Tạng trước khi tới Lạt Ma Khedrup Je.  Lạt Ma Ensapa Lobsang Dondrup bỏ ra 20 năm tu thiền định ở một hang đá ở núi Hy Mã Lạp Sơn. Ngài có trí nhớ tuyệt vời, thuộc lòng cả kinh Bát Nhã Bát Thiên tụng.

 

Lạt Ma Lobsang Chokyi Gyaltsen là thầy của Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 và thứ 5.  Vì lý do đó, khi nắm quyền lãnh đạo Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 phong cho Lạt Ma Lobsang Chokyi danh hiệu Ban Thiền Lạt Ma

Như thế Lạt Ma Lobsang Chokyi Gyaltsen trở thành Ban Thiền Lạt Ma thứ 4.  Dòng Tulku (Chu cô) của ngài từ đó được mang danh hiệu Ban Thiền Lạt Ma và ngược lại:

         Lạt Ma Ensapa Lobsang Dondrup là Ban Thiền Lạt Ma Lạt Ma thứ 3,  

         Lạt Ma Sonam Choklang là Ban Thiền Lạt Ma thứ 2, 

         và Lạt Ma Khedrup Je (Khedrup Gelek Pelzang) là Ban Thiền Lạt Ma thứ 1 

          

Tước hiệu Ban Thiền Lạt Ma trước đó có được ban cho những Lạt Ma tài giỏi vì "ban thiền" (panchen) theo tiếng Tây Tạng có nghĩa là "đại học giả" nhưng từ nay "Ban Thiền" chỉ dùng riêng cho những Lạt Ma thuộc dòng Tulku (Chu cô) nầy mà thôi.  

Ban Thiền Lạt Ma chính thức được công nhận là Hiện thân của A Di Đà Phật, giữ chức Trụ trì và đặt cơ sở ở Tu viện Tashilhumpo.  

Từ đó Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma có liên hệ mật thiết với nhau và Đạt Lai Lạt Ma giúp trong việc tìm hóa thân cho dòng Tulku (Chu cô) của Ban Thiền Lạt Ma cũng như Ban Thiền Lạt Ma cố vấn cho việc tu học của Đạt Lai Lạt Ma khi còn nhỏ trước khi tức vị.

 

*

Lịch sử tương quan giữa Ban Thiền và Đạt Lai Lạt Ma

 

Ban Thiền Lạt Ma thứ 1 (1385-1438)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 (1391-1474)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 2 (1438-1505)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 2 (1475-1542)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 3 (1505-1568)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 3 (1543-1588)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 4 (1570-1662)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 (1589-1617)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 (1617- 1682)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 5 (1663-1737)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 (1683-1706)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 7 (1708-1757)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 6 (1738-1780)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 8 (1758-1804)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 7 (1782-1853)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 9 (1805-1815)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 10 (1816-1837)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 11 (1838-1856)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 8 (1855-1882)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 12 (1857-1875)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 (1876-1933)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 9 (1883-1937)

                  Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (sinh năm 1835)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 (1938-1989)

 

 

b) Dòng Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama)

 

(Giai Đoạn Độc Lập của Tây Tạng)

 

1. Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 (1391-1474)

 

Tục danh của ngài là Pema Dorje có nghĩa là Liên Hoa Kim Cương (Vajra Lotus) nhưng pháp danh là Gendun Drub hay Kundun Drup.  Ngài là môn đệ của Je Tsongkhapa (Tông Khách Ba) và hình như Je Tsongkhapa là cậu của ngài.

Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) của Tây Tạng được tin là hiện thân của Quan Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteshvara, tiếng Tây Tạng gọi là Chenresig).  Theo truyền thống, Palden Lhamo, Hộ thần (Dharmapala) của hồ thánh Lhamo La-tso tự nguyện là bà sẽ bảo hộ dòng hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 chết trong khi tham Thiền vào năm 1474, thọ 84 tuổi.

 

 

2. Đạt Lai Lạt Ma thứ 2 (1475-1542)

 

Tục danh của ngài là Yonten Phuntsok và pháp danh là Gendun Gyatso Palzangpo hay Gendun Gyatso.  Huyền thoại nói rằng sau khi biết nói, ngài nói tên mình là Pema Dorje, tục danh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 và tên của cha mình là Lobsang Drakpa, pháp danh của Je Tsongkhapa (Tông Khách Ba).

Khoảng 4 hay 7 tuổi, ngài được nhận là tái sinh của Gendrun Drup (Đạt Lai Lạt Ma thứ 1).

Ngài được quy y (received his novice vows) từ Lạt Ma Lungrig Gyatso vào năm 1486, lúc 10 tuổi.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 2 chết trong khi tham Thiền vào năm 1542, thọ 67 tuổi.

 

 

3. Đạt Lai Lạt Ma thứ 3 (1543-1588)

 

Pháp danh của ngài là Sonam Gyatso. Ngài là vị Lạt Ma của Tây Tạng đầu tiên chính thức được có danh hiệu Đạt Lai lúc sinh thời.  Hai vị tiền thân của dòng Tulku (Chu Cô) của ngài được gọi là Đạt Lai Lạt Ma sau khi đã qua đời.

 

Năm 1571, Khả Hãn Altan (Altan Khan) của nước Mông Cổ sùng bái Phật Giáo Tây Tạng nên mời Lạt Ma danh tiếng nhất của Tây Tạng lúc bấy giờ là Lạt Ma Sonam Gyatso của phái Gelug sang viếng thăm Mông Cổ. 

Sau 1 lần từ chối, Lạt Ma Sonam Gyatso sang hội kiến với Khả Hãn Altan theo lời mời lần thứ nhì (vào năm 1578).  Khả Hãn Altan dùng danh từ Đạt Lai Lạt Ma để tôn danh ngài.  Sonam Gyatso chính thức mang danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma và là vị thứ 3 còn 2 vị tiền thân Gendun Drup và Gendun Gyatso có danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma thứ 1 và thứ 2. 

Sở dĩ có danh hiệu Đạt Lai vì sự lẫn lộn giữa tiếng Tây Tạng và tiếng Mông Cổ.  Tiếng Gyatso của Tây Tạng có nghĩa là "biển cả hay đại dương"; Khả Hãn Altan dịch ra tiếng Mông Cổ là Dalai và lầm tưởng "tên họ" Gyatso của Đại Lạt Ma đi chung với "chức" Lama nên gọi là Dalai Lama (Đạt Lai Lạt Ma).  

Khả Hãn Altan chết năm 1582, 4 năm sau khi gặp Đạt Lai Lạt Ma thứ 3.  Đạt Lai Lạt Ma sang Mông Cổ 2 lần nữa sau khi Khả Hãn Altan qua đời.  Lần cuối cùng trên đường trở về Tây Tạng ngài bệnh và chết ở trên đất Mông Cổ.  Cháu cố của Khả Hãn Altan, Yonten Gyatso, được chọn là hóa thân của ngài và thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 4. 

 

 

4. Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 (1589-1617)

 

Pháp danh của ngài là Yonten Gyatso. Ngài sinh ở Mông Cổ và Cha của ngài là Tù trưởng của bộ lạc Chokur, cháu nội của Khả Hãn Altan.

Các nhà tiên tri của Tây Tạng đều tiên đoán Đạt Lai Lạt Ma tương lai (sau Đạt Lai Lạt Ma thứ 3) sẽ là người Mông Cổ.  Sau khi được chọn, Yonten Gyatso rời Mông Cổ lúc ngài 10 tuổi (năm 1598) và phải tới 4 năm sau mới tới Tây Tạng vì trên đường đi ngài phải ghé qua nhiều tu viện.  Ngài là môn đệ của Ban Thiền Lạt Ma thứ 5.  Tới năm 1604, ngài mới chính thức là Tăng sĩ.

Quí tộc Tây Tạng không đồng ý nên muốn lật đổ Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 với sự trợ giúp của phái Kagyu.  Năm 1605, một Vương tử Tây Tạng chiếm Lhasa và đuổi kỵ binh Mông Cổ.  Năm 1610, quân Tây Tạng tấn công Đạt Lai Lạt Ma ở tu viện Drepung, ngài phải di tản lánh nạn.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 chết vào năm 1617 trong khi đang lánh nạn, thọ 28 tuổi.  Có người cho là ngài bị đầu độc. 

 

 

5. Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 (1617-1682)

 

Pháp danh của ngài là Ngawang Lobsang Gyatso.  Ngài sinh trong dòng quí tộc Tây Tạng.  Cha của ngài là Dudul Rabten âm mưu chống lại vương tử của nhà Tsang trong khi ngài được bí mật công nhận là hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 từ người hầu cận chánh (Nhiếp Chánh) của Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 là Sonam Choephel.  Dudul Rabten bị bắt và chết trong khi bị giam giữ.  

 

Nhiếp Chánh Sonam Choepel (còn gọi là Sonam Rapten) cầu cứu với Khả Hãn Gushi của Mông Cổ.  Năm 1640, Khả Hãn Gushi chiếm đất Kham hàng phục phái Sakyas (có uy thế ở đây).  Năm 1642, Khả Hãn Gushi đánh bại Vương tử của nhà Tsang, thống nhất Tây Tạng và hàng phục phái Karmapas.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 (của phái Gelug) được Khả Hãn Gushi ủng hộ thành Lãnh tụ của toàn lãnh thổ Tây Tạng.  Ngài hòa giải với tất cả giáo phái khác.  

Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 lấy Lhasa là kinh đô, phong Nhiếp chánh (Regent) của mình là Sonam Rapten làm Tể tướng (gọi là Desi theo tiếng Tây Tạng) và phong chức cho chánh quyền địa phương.  Desi cai trị toàn Tây Tạng dưới quyền của Đạt Lai Lạt Ma nhưng quân đội trong tay Khả Hãn Gushi, xưng là vua của Tây Tạng.

 

Năm 1652, Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 đi Trung Quốc theo lời mời của Hoàng đế Thuận Trị của nhà Thanh.  Ngài đến Trung Quốc vào năm 1653 và được tiếp đón trọng thể 2 lần trong vòng 2 tháng ở Bắc Kinh.  Đạt Lai Lạt Ma chính thức được phong Quốc sư của những hoàng đế Mãn Thanh bắt đầu từ đó. Tuy nhiên sau nầy Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 lại ủng hộ loạn Tam Phiên (1673).

Khả Hãn Gushri chết vào năm 1655, các con tranh quyền đánh lẫn nhau.  Từ đó Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 hoàn toàn nắm quyền ở Tây Tạng.

 

Lạt Ma Lobsang Chokyi Gyaltsen (1570-1662) là thầy và là đồng minh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.  Tước hiệu Ban Thiền Lạt Ma trước đó thường được dùng cho những Lạt Ma tài giỏi nhưng Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 chỉ dành riêng cho dòng Tulku (Chu cô) của Lạt Ma Lobsang Chokyi Gyaltsen và phong ngài là Ban Thiền Lạt Ma thứ 4. Ngược lại 3 vị Lạt Ma trước của dòng Tulku (Chu cô) của Ban Thiền Lạt Ma thứ 4 nầy được có danh hiệu Ban Thiền Lạt Ma 1, 2 và 3 mặc dù những vị nầy đã qua đời.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 còn chính thức công bố dòng Tulku (Chu cô) của Ban Thiền Lạt Ma là hiện thân của Amitabha Buddha (A Di Đà Phật), tiếng Tây Tạng là "O-pa-me". 

Khi Ban Thiền Lạt Ma thứ 4 (Lobsang Chokyi Gyaltsen) nầy qua đời, Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 liền đích thân tìm tái sinh cho dòng Ban Thiền Lạt Ma.

 

Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 bắt đầu xây lâu đài Potala vào năm 1645 vì nó có vị trí tốt, nằm giữa 2 tu viện Drepung và Sera và thủ đô Lhasa.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 vào ở Bạch lâu (Potrang carpo) của lâu đài Potala vào năm 1649. Công trình xây dựng hoàn thành vào năm 1694, 12 năm sau khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 qua đời.  Hồng lâu (Potrang marpo) của lâu đài được thêm vào (1690-1694).

Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 có thi hành nhiều cải tổ trong Phật Giáo Tây Tạng.  Ngài công nhận Bon (Bon Giáo) là giáo phái thứ 5.

 

Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 qua đời năm 1682, thọ 65 tuổi.  Tuy nhiên cái chết của ngài bị giữ bí mật bởi Desi (Tể tướng) Sangye Gyatso cho đến năm 1696 (gần 15 năm sau).  Theo tin đồn từ đó tới ngày nay thì Sangye Gyatso nầy là con của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5, được ngài phong làm Tể tướng (Desi) từ năm 1679.  Bí mật được giữ để cho sự ổn định của Tây Tạng và việc xây cất lâu đài Potala, trong khi có thừa kế.  Sangye Gyatso còn là Nhiếp chánh cho tới khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 chính thức thay thế.

 

6. Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 (1683-1706)

 

Pháp danh của ngài là Tsangyang Gyatso.  Ngài sinh ở Mon Tawang (ngày nay thuộc Ấn Độ) thuộc dòng dõi người Monpa (dân tộc thiểu số ở Tây Tạng).  Lúc 5 tuổi (năm 1688), ngài đã được tìm ra và nhận là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 nhưng Nhiếp chánh (Regent) và Tể tướng (Desi) Sangye Gyatso nuôi giữ bí mật cho đến năm 1697 thì Sangye Gyatso mới gởi sứ thần tới Trung Quốc công bố là Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 đã qua đời và đã tìm được hóa thân.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 tức vị vào năm 1697 (bởi Ban Thiền Lạt Ma thứ 6).

 

Đạt Lai Lạt Ma chọn lối sống như người thế tục: uống rượu, có bạn nam và phụ nữ kế bên mình và viết những tình ca (love songs).  Ngài còn đôi khi bỏ cung điện Potola ra sống như người thế tục trên đường phố, giao du với phụ nữ.  

 

Năm 1701, Khả Hãn Lhasang của Mông Cổ cho người giết Nhiếp chánh của Đạt Lai Lạt Ma là Tể tướng Sangye Gyatso.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 bất bình, đến gặp Ban Thiền Lạt Ma thứ 6 và từ bỏ đời Tăng sĩ (hoàn tục).  Tuy nhiên ngài vẫn giữ chức phận Đạt Lai Lạt Ma.

Năm 1706, Khả Hãn Lhazang của Mông Cổ truất phế Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso và lập một Lạt Ma 25 tuổi tên là Ngawang Yeshey Gyatso (làm Đạt Lai Lạt Ma), cho rằng Ngawang Yeshey Gyatso nầy mới chính là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.

Khả Hãn Lhasang bắt giải Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 về Trung Quốc.  Có thuyết cho rằng ngài bị giết trên đường bị bắt giải về Trung Quốc hay có thuyết cho rằng ngài trốn thoát rồi chết vì lý do bí mật.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 qua đời ở gần hồ Kokonor vào năm 1706, thọ 24 tuổi. Không có lăng mộ của ngài ở lâu đài Potala như những Đạt Lai Lạt Ma chính thức khác.

 

 

(Giai Đoạn Đô Hộ của Nhà Thanh ở Tây Tạng)

 

7. Đạt Lai Lạt Ma thứ 7 (1708-1757)

 

Pháp danh của ngài là Kelzang Gyatso. Ngài sinh ở Lithang, ngày nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) của Trung Quốc.

Mặc dù Ngawang Yeshey Gyatso đang làm Đạt Lai Lạt Ma do Khả Hãn Lhazang lập lên, nhưng hàng giáo phẩm cao cấp của Tây Tạng vẫn tuân theo Nechung Oracle tìm ra Kelsang Gyatso là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 (Tsangyang Gyatso).  Ngài được bí mật đem về nuôi dạy ở tu viện ở Lithang và sau đó được Hoàng đế Khang Hi của Trung Quốc công nhận.

Từ trẻ tuổi, ngài là người đức độ và có tài làm thơ.

 

Người Dzungars (của Mông Cổ) theo yêu cầu của người Tây Tạng xâm chiếm Tây Tạng, giết Khả Hãn Lha-bzang và truất phế Đạt Lai Lạt Ma Ngawang Yeshey Gyatso.  Quân Mông Cổ cướp phá nước Tây Tạng và hành quyết nhiều giáo sĩ thuộc phái Nyingma và Bon.  Hoàng đế Khang Hi gởi quân tiếp viện thì bị The Dzungars đánh bại.

Năm 1720, Khang Hi gởi quân (cùng với quân địa phương Tây Tạng) đuổi quân Dzungars ra khỏi Tây Tạng.  Kelzang Gyatso chính thức là Đạt Lai Lạt Ma thứ 7. Tây Tạng từ đó thành đất đô hộ của nhà Thanh (của Trung Quốc)

 

Được Trung Quốc ủng hộ, Polhaney cai trị Tây Tạng và kềm chế Đạt Lai Lạt Ma thứ 6.  Sau khi Polhaney chết, con ông bị quân Ambans (của nhà Thanh) giết chết năm 1750. Quân Trung Quốc lại vào và ổn định nước Tây Tạng.

Hội Đồng Bộ Trưởng (Kashag) bắt đầu được lập ra, gồm 4 người, cai trị Tây Tạng và Đạt Lai Lạt Ma, trên danh hiệu, là chủ tịch của Hội Đồng Kashag.  Chức Desi (Tể tướng) cũng bị bãi bỏ.  Đạt Lai Lạt Ma từ đó lại là nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần (tôn giáo) của Tây Tạng.

 

Đạt Lai Lạt Ma thứ 7 qua đời lúc ngài được 49 tuổi.

 

8. Đạt Lai Lạt Ma thứ 8 (1758-1804)

 

Pháp danh của ngài là Jamphel Gyatso. Từ Đạt Lai Lạt Ma thứ 8 nầy, Nhiếp Chánh (Regent) chính thức cầm quyền tôn giáo thay thế khi Đạt Lai Lạt Ma còn niên thiếu với danh hiệu là Demo Tulku.

Năm 1790-1791 có người Gurkhas từ Nepal quấy nhiễu miền nam Tây Tạng nhưng bị đẩy lui.  

Đạt Lai Lạt Ma thứ 8 xây cất Công viên Norbulingka và Cung Điện Mùa Hè ở ngoại ô Lhasa vào năm 1783. 

Ngài qua đời lúc 47 tuổi.

 

 

9. Đạt Lai Lạt Ma thứ 9 (1805-1815)

 

Pháp danh của ngài là Lungtok Gyatso. Ngài được tìm ra năm 1807 và qua đời năm 1815 (thọ 10 tuổi)

 

10. Đạt Lai Lạt Ma thứ 10 (1816-1837)

 

Pháp danh của ngài là Tsultrim Gyatso. Ngài luôn bệnh hoạn và qua đời năm 1837, thọ 22 tuổi.

 

11. Đạt Lai Lạt Ma thứ 11 (1838-1856)

 

Pháp danh của ngài là Khedrup Gyatso, sinh cùng làng với Đạt Lai Lạt Ma thứ 7.  Ngài nắm quyền trị nước theo yêu cầu của chính quyền Tây Tạng nhưng đột ngột qua đời 10 tháng sau, chỉ thọ 19 tuổi.

Trong khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 11 còn sinh tiền, nhà Mãn Thanh suy yếu do chiến tranh Nha Phiến và loạn Thái Bình Thiên Quốc nên Tây Tạng càng bị cô lập trước ảnh hưởng của Tây Phương.

 

12. Đạt Lai Lạt Ma thứ 12 (1857-1875)

 

Pháp danh của ngài là Trinley Gyatso. Ngài tức vị năm 1873 nhưng cũng qua đời sớm 2 năm sau (1875) vì bệnh, thọ 18 tuổi.

Trong khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 12 còn sống, Tây Tạng cấm người Âu Châu được vào nước Tây Tạng vì quân Anh đánh nhau với người Sikkim và Bhutan.  Hai nước láng giềng nầy chịu ảnh hưởng (tôn giáo) của Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng.

 

(Giai Đoạn Lịch Sử Hiện Đại của Tây Tạng)

 

13. Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 (1876-1933)

 

Pháp danh của ngài là Thubten Gyatso, đó là tên rút ngắn của "Ngawang Lobsang Thupten Gyatso Jigdral Chokley Namgyal", được Ban Thiền Lạt Ma lúc bấy giờ ban cho.

 

Năm 1895, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 bắt đầu nắm quyền lãnh đạo chính trị và tôn giáo Tây Tạng.

Năm 1904, quân đội viễn chinh Anh (dưới quyền của Sir Francis Younghusband) đánh Tây Tạng.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 chạy trốn sang ở Urga (thuộc Mông Cổ), cách Lhasa 2400 km (1500 miles) về hướng Đông Bắc.  Triều đình Mãn Thanh liền lật đổ Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, nắm chủ quyền toàn Tây Tạng (và Nepal và Bhutan).  Trung Quốc trả tiền và ký hiệp ước với người Anh để Anh không xâm chiếm và can thiệp vào quốc sự của Tây Tạng.

Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 là một chính trị gia tài giỏi.  Từ Mông Cổ ngài sang ở Ngũ Đài Sơn của Trung Quốc và ngài bắt đầu tiếp xúc với các chính khách Âu Mỹ.  Năm 1908, Đạt Lai Lạt Ma gặp Hoàng đế Quang Tự và Thái hậu Từ Hi ở Bắc Kinh, nhưng không chịu nhượng bộ.

Tháng 12 năm 1908, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ Bắc Kinh tự động trở về Tây Tạng và cải tổ chính phủ.  Nhà Thanh lại đánh Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 lại phải chạy sang Ấn Độ.

Tại Ấn Độ, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tiếp tục vận động ngoại giao, gặp Phó vương Ấn Độ là Lord Minto.  

 

Sau cách mạng Tân Hợi (1911), nhà Mãn Thanh bị lật đổ và quân Thanh rút khỏi Tây Tạng (cuối năm 1912).  Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 từ Darjeeling (Ấn Độ) trở về Lhasa, tự mình nắm quyền lãnh đạo Tây Tạng, trên cả Kashag.  Ngài cải tổ và canh tân nước Tây Tạng theo Tây Phương.

Năm 1928, Tưởng Giới Thạch thống nhất Trung Quốc, lập Trung Hoa Dân Quốc và đóng đô ở Nam Kinh. Tây Tạng tấn công toan chiếm đất của 2 tỉnh Thanh Hải và Tây Khương nhưng bị đánh bại và quân Trung Hoa tiến sang chiếm đất của Tây Tạng. Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 phải cầu cứu người Anh.  Dưới áp lực của Anh, chính phủ Nam Kinh ra lệnh đình chiến vào năm 1933.

 

Tháng 12, 1933, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 qua đời.  Ngài tiên đoán tai họa sẽ đến cho đất nước và dân tộc Tây Tạng.

 

 

14. Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (sinh năm 1935)

 

Pháp danh của ngài là Tenzin Gyatso, rút ngắn từ "Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso". Tục danh của ngài là Lhamo Dondrub (hay Thondup).

Ngài sinh trong 1 gia đình nông dân và chăn nuôi ngựa có 7 người con ở 1 làng nhỏ trước thuộc vùng Amdo của Tây Tạng nhưng lúc đó lại thuộc tỉnh Thanh Hải của Trung Hoa Dân Quốc.  Gia đình của ngài nói tiếng thổ ngữ Tây ninh Trung Hoa trước khi dời về Lhasa (năm 1939).  Người anh cả, Thupten Jigme Norbu, đã được nhận là tái sinh của Lạt Ma Taktser Rinpoche. 

 

Nhiếp Chánh Reting Rinpoche tìm ra Lhamo Thondup là tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.  Cậu bé Lhamo Thondup nhận ra đúng hết từng di vật khác nhau của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 mà la lên rằng: "Cái đó của tôi! Cái đó của tôi!". Để Lhamo Thondup được rời nơi ở mà về Lhasa, Tây Tạng phải đút tiền cho Tướng quân ở Thanh Hải (Qing Hai) là Mã Bộ Phương (Ma Bu Fang).

Tenzin Gyatso được chánh thức thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trị vì Tây Tạng vào năm 1950 (khi 15 tuổi).  Năm 1959 (khi 23 tuổi) Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đậu Tiến sĩ của Phật Giáo Tây Tạng (Doctorate in Bhuddist Philosophy).  

 

Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, Tướng quân Mã Bộ Phương (Ma Bu Fang) của Thanh Hải (theo đạo Hồi) thường phá phách Tây Tạng.

Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc thành lập năm 1949, quân đội Trung Quốc chiếm Tây Tạng vào tháng 10, 1950 chỉ 1 tháng trước ngày tức vị của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (tháng 11, 1950).  Năm 1954, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 sang Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông.  Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được phong làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ của Quốc Hội Nhân Dân.  

Năm 1956, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sang gặp Thủ tướng Nehru của Ấn Độ và ngài ngỏ ý xin tỵ nạn nhưng bị từ chối.  Cùng năm đó có cuộc nổi dậy của người Tây Tạng ở vùng Kham chống lại chánh quyền Trung Quốc.

 

Với sự giúp đỡ của CIA, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cùng tùy tùng trốn khỏi Tây Tạng, sang Ấn Độ vào ngày 30-3-1959 và tới Tezpur của vùng Assam vào ngày 18-4-1959.

Ngay sau đó, tại Dharamsala (của Ấn Độ), Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 với 80,000 người Tây Tạng định cư ở đây lập Chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong và duy trì nền tôn giáo, văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng tại đây.

 

Về chính trị, trước tiên, Đạt Lai Lạt Ma vận động với Liên Hiệp Quốc đấu tranh cho Nhân quyền trên lãnh thổ Tây Tạng. 

Sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được Nixon cho vào Hội đồng bảo an của Liên Hiệp Quốc, Đạt Lai Lạt Ma phải điều đình trực tiếp với Trung Quốc.  Qua nhiều lần điều đình ngoại giao với Trung Quốc về vấn đề Tây Tạng tự trị (liên hợp với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc) và về vấn đề Đạt Lai Lạt Ma về lại Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cuối cùng phải chấm dứt (điều đình) vì ngài không còn "tin" chánh quyền Trung Quốc nữa.

 

Về tôn giáo, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết sách và đi thuyết giảng Phật Giáo và Phật Giáo Tây Tạng khắp toàn thế giới. Ngài cũng giao dịch với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác trên thế giới.  Ngài cổ động cho tôn giáo dựa trên nền tảng khoa học chứ không dựa trên mê tín dị đoan.

Ngài luôn giữ liên hệ tốt đẹp với Ấn Độ. Ngài nói: "Tôi coi Ấn Độ là thầy và Tây Tạng là học trò vì những đại học giả như Long Thụ (Nagarjuna) từ Nalanda (của Ấn Độ) sang Tây Tạng giảng dạy Phật Giáo vào thế kỷ thứ 8".

Từ tôn giáo, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thành nổi tiếng trên khắp thế giới.  Ngài được giải Nobel Hòa Bình (năm 1989).

 

 

c) Dòng Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama)

 

Ban Thiền Lạt Ma thứ 1, Khedrup Je hay Khedrup Gelek Pelzang (1385-1438)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 2, Sonam Choklang (1438-1505)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 3, Ensapa Lobsang Dondrup (1505-1568)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 4, Lobsang Chokyi Gyatsen (1570-1662)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 5, Lobsang Yeshe (1663-1737)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 6, Lobsang Palden Yeshe (1738-1780)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 7, Palden Tenpai Nyima (1782-1853)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 8, Tenpai Wangchuk (1855-1882)

Ban Thiền Lạt Ma thứ 9, Thubten Choekyi Nyima (1883-1937)

 

*

 Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 (1938-1989)

 

Pháp danh của ngài là Choekyi Gyatsen. Tục danh của ngài là Gonpo Tseten.

 

Sau khi Ban Thiền Lạt Ma thứ 9 qua đời (vào năm 1937), văn phòng của Ban Thiền Lạt Ma chọn Gonpo Tseten (Choekyi Gyatsen) nhưng chính phủ Lhasa (của Đạt Lai Lạt Ma thứ 13) lại chọn một người khác. Chính quyền Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc ủng hộ Choekyi Gyatsen và cho người sang Tây Tạng làm lễ tấn phong cho GonpoTseten chính thức thành Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 Choekyi Gyatsen ở tu viện Kumbum (năm 1949).  

Chính phủ Lhasa của Đạt Lai Lạt Ma vẫn không công nhận Ban Thiền Lạt Ma thứ 10.   Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 âm mưu viện quân của Tướng quân Mã Bộ Phương (Ma Bu Fang) của Thanh Hải (Trung Hoa Dân  Quốc) tấn công Tây Tạng và chính phủ của Đạt Lai Lạt Ma.  

Nhưng ngay sau đó Mao Trạch Đông chiếm Trung Quốc (cuối năm 1949), Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 lại ủng hộ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc của Mao Trạch Đông.  Ngài sang Bắc Kinh ký hiệp ước hòa bình với Trung Quốc và điện tín bắt Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 công nhận.  Nhưng Trung Quốc chiếm Tây Tạng vào năm sau (1950).  

Năm 1952, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chính thức công nhận Choekyi Gyatsen là Ban Thiền Lạt Ma thứ 10.  Tháng 9, 1956, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 sang gặp Mao Trạch Đông ở Bắc Kinh và Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 được bầu Uỷ viên thường trực của Quốc Hội Trung Quốc.

 

Năm 1959, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trốn sang Ấn Độ, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 vẫn ở lại Tây Tạng.

Năm 1962, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 gởi thỉnh nguyện thư cho Trung Quốc chỉ trích tình trạng tệ hại ở Tây Tạng.  Năm 1964, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 bị bắt đem cầm tù ở Bắc Kinh chỉ được thả tự do vào năm 1977 (13 năm sau, sau thời kỳ Cách Mạng Vân Hóa), rồi được phong làm Phó Chủ tịch Quốc Hội Trung Quốc (1979).  

 

Từ năm 1979, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 hoàn tục, cưới vợ là người Hán Trung Hoa và có 1 con gái.  Đầu năm 1989, Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 từ Bắc Kinh trở về Tây Tạng và chết ở Shigatse lúc 51 tuổi vào ngày 28-1-1989, chỉ 5 ngày sau khi ngài có tuyên bố: "Từ khi giải phóng, chắc chắn có mở mang nhưng cái giá phải trả cho sự mở mang nầy nặng hơn là sự thành đạt...".  

Sau nầy, vào năm 2011, theo tin từ 1 người chống lại chính phủ Trung Quốc (ông Yuan Hong Bin) thì đó là kế hoạch của Hu Jin Tao (Hồ Cẩm Đào) thủ tiêu Ban Thiền Lạt Ma thứ 10.  Hồ Cẩm Đào sau đó là Chủ tịch Nước của Trung Quốc.

 

*

Sau khi Ban Thiền Lạt Ma thứ 10 chết (tháng 1,1989), người đứng đầu ủy ban tìm kiếm Ban Thiền Lạt Ma mới là Lạt Ma Chadrel Rinpoche từ Tây Tạng liên lạc trực tiếp với Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ở Ấn Độ và tìm ra được Gelhun Choekyi Nyima (sinh ngày 25-4-1989 ở Lhari của Tây Tạng). Ngày 14-5-1995, Gelhum Choekyi Nyima được chính thức công nhận là Ban Thiền Lạt Ma thứ 11 bởi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Ba ngày sau (17-5-1995), Gelhum Choekyi Nyima mất tích luôn cho tới bây giờ.  Sau nầy Công luận quốc tế luôn muốn tìm tung tích của Ban Thiền Lạt Ma Gelhum Choekyi Nyima nầy nhưng luôn thất bại.  Câu trả lời của chính quyền Trung Quốc là: "đang sống một cuộc đời bình thường ở Trung Quốc".

 

Chánh quyền Trung Quốc liền cầm tù Lạt Ma Chandrel Rinpoche vì tội phản quốc và rút thăm từ Kim Hủ (bình đựng tro bằng vàng = golden urn) ra được (tên) Gyaincain Norbu là Ban Thiền Lạt Ma thứ 11.  Chính quyền Trung Quốc cho rằng phương pháp bóc thăm từ Kim Hủ nầy theo đúng truyền thống từ vua Khang Hi (năm 1792) và đã dùng trong việc lựa chọn Đạt Lai Lạt Ma thứ 10, 11 và 12.  Tuy nhiên thật sự thì việc rút thăm nầy trong quá khứ chỉ là hình thức để công nhận một Đạt Lai Lạt Ma đã được giáo hội Phật Giáo Tây Tạng tìm ra và công nhận.  Đây là hình thức để chiều theo và làm vui lòng triều đình nhà Thanh vào lúc đó.

 

Gyaincain Norbu sinh ngày 13-2-1989 cũng ở Lhari, Tây Tạng.  Cha mẹ là đảng viên Cộng sản, Gyaincain Norbu sống thời niên thiếu ở Bắc Kinh như người Tàu. Sau khi được chọn là Ban Thiền Lạt Ma thứ 11 bởi chính quyền Trung Quốc, Gyaincain Norbu được đem về Tây Tạng và huấn luyện như một tăng sĩ Tây Tạng.  Gyaincain Norbu nói thạo tiếng Tàu và tiếng Tây Tạng và hoạt động trong vai trò Ban Thiền Lạt Ma cho tới bây giờ (dĩ nhiên đúng theo đường lối của chính quyền Trung Quốc).   Ông không được Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, người Tây Tạng và quốc tế chấp nhận là Ban Thiền Lạt Ma thứ 11.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 HÓA THÂN TRONG PHẬT GIÁO TÂY TẠNG

 

                                             Bs Phan Thượng Hải

 

* Tulku (Chu Cô)

 

Trong Phật Giáo Tây Tạng, Tulku (Chu Cô) là một Lạt Ma cao cấp đặc biệt tự mình có thể chọn lựa phương cách tái sinh (rebirth) của mình.  Thêm nữa, trước khi chết, Tulku (Chu Cô) còn có thể cho (người khác) biết nơi mình tái sinh. 

Thông thường, một Lạt Ma có thể sẽ đầu thai (reincarnate) thành người cùng phái tính tuy nhiên Lạt Ma cũng như chúng sanh không có lựa chọn được phương cách tái sinh cho mình.

Đương thời có khoảng trên 2000 Tulkus (Chu Cô) được biết.  Tuy nhiên ở Tây Tạng có thể có vài ngàn Tulkus (Chu Cô) trước khi bị Trung Quốc xâm lấn.  Thông thường Tulku (Chu Cô) là đàn ông nhưng cũng có thiểu số là phụ nữ.

 

Tulku đồng nghĩa với từ ngữ Hóa Thân (Nirmanakaya) trong Tam Thân Phật (Trikaya = the 3 bodies of Buddha).  Theo thuyết nầy, Hóa Thân hay Ứng Thân là Phật trong "thân (và) tâm" (body mind) hay nói khác đi Phật có mang sắc thân như chúng sanh.  Cá nhân Phật Thích Ca là thí dụ của Hóa Thân Phật (Nirmanakaya).  

Trong phần định nghĩa của Phật Giáo Tây Tạng, Tulku (Chu Cô) được dùng để ám chỉ chung là sự hiện hữu hổn hợp của các vị Thầy (masters) Phật Giáo đã giác ngộ.

Gần đây, có từ ngữ Trung Hoa gọi Tulku (Chu cô) là Hoạt Phật hay Phật Sống (Huófó = living Buddha) và gọi đứa trẻ hóa thân của một Tulku là Linh Đồng (língtóng = soul boy).  Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cho rằng những từ ngữ nầy là "không có nghĩa lý gì hết" (non-sense). 

 

 

* Dòng Tulku (Dòng Chu Cô)

 

Mỗi Tulku có dòng tái sinh (rebirth) riêng của mình gọi là Dòng Tulku hay Dòng Chu Cô  (Tulku lineage).  

Thí dụ, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 được coi là một tái sinh của mỗi 13 Đạt Lai Lạt Ma trước đó và tất cả đều được coi là hiện thân hay hóa thân (emanation) của Bồ tát Avalokiteshvara (hay Chenrezig, tiếng Tây Tạng), vị "Bồ tát của từ bi", tay cầm bông sen trắng.  (Avalokiteshvara dịch nghĩa của Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng là Quan Tự Tại thuộc nam giới và khi truyền sang Trung Quốc và các nước Đông Á thì thành ra Quan Thế Âm hay Quan Âm thuộc nữ giới). 

 

 (Hậu quả)

Truyền thống Tulku (Chu Cô), hóa thân của một Lama (Lạt Ma), phát triển trong những thế kỷ thứ 12, 13 và 14.  Những giáo phái của Phật Giáo Tây Tạng bắt đầu chấp nhận sự việc là những tượng hình kiểu mẫu (examplary figures) có thể còn mãi trong nhân thế như là vị Thầy của giáo hội (institutional teachers), hiện ra trong đời nầy qua đời sắp tới do lòng từ bi.  Ở điểm nầy ý niệm về Hóa Thân Phật thành ra liên kết với ý niệm của sự hiển hiện đều đặn (regular manifestation = yangsi) của Tu sĩ.

 

Tulku được thừa kế tài sản (estates) của người mà mình hóa thân.  Luật thừa kế nầy tạo ra và giữ sự  giàu có cho một số dòng hóa thân Tulkus.  Tulku (Chu Cô) có được giàu có đầu tiên nầy là của Karmapa, giáo chủ của chi phái Karma Kagyu.  Đó là Tulku thứ nhì của dòng Karmapa (là) Karma Paksi (1204-1183).  Dòng Karmapa ngày nay có hóa thân thứ 17.

 

Đại đa số những Tulkus (Chu Cô) là người Tây Tạng nhưng cũng có Tulkus là những người thuộc dân tộc có tiếp xúc với người Tây Tạng như người Mông Cổ.  Ngày nay văn hóa (diaspora) Tulkus được tìm thấy trên toàn cầu.  Có người Âu Mỹ là Tulku (Chu Cô) như Tenzin Osel (sinh năm 1985), cha mẹ là người Spain, được nhận là tái sinh của một Lạt Ma Tây Tạng rất có quyền lực tên là Thubten Yeshe.

 

Năm 1988, theo đề nghị của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, một hội nghị được triệu tập với khoảng 350 tulkus tham dự từ 5 giáo phái của Tây Tạng (Nyingma, Sakya, Kagyu, Gelug và Bon).  Nội qui được luận bàn về tương lai của truyền thống tinh thần nầy ở bán lục địa Ấn Độ, Tây Tạng và ngoại quốc cũng như sự liên quan với khoa học và các tôn giáo khác.

 

 

(Tìm người hóa thân nối Dòng)

 

Một Tulku trước khi chết có thể viết những ngụ ý hay đưa những dấu hiệu để giúp chỉ định người người nối dòng hay sự tái sinh trong dòng Tulku: về nơi chốn, về cha mẹ, về đặc điểm của nhà ở...  Nếu không có chi tiết (đủ) thì những tăng sĩ có nhiệm vụ tìm kiếm được hướng dẫn bởi một chiêm tinh gia chuyên về Lama và Tulku (gọi là Tsispa).  Những lời tiên tri cũ cũng được dùng.  Sự tìm kiếm được dùng những thử nghiệm như đứa bé có thể nhận được người quen hay sở hữu trong kiếp trước hoặc trả lời được những câu hỏi về đời sống kiếp trước (là của Tulku đã qua đời).

Mức độ quan trọng của sự tìm kiếm tùy theo danh vị của Tulku (Chu Cô): từ một Lạt Ma thường cho tới rất quan trọng như Đạt Lai Lạt Ma hay Ban Thiền Lạt Ma.

Thường người nối nghiệp Tulku là đàn ông. Tuy nhiên có thể là đàn bà từ một Tulku đàn ông, Đạt Lai Lạt Ma nói: "nếu một phụ nữ tự thể hiện hữu dụng hơn, Lạt Ma hay hơn hết là nên tái sinh trong hình thức đó".  Ngài cũng nói rằng ngài "có thể tái sinh như là một sâu bọ (insect) hay một thú vật (animal)".

 

 

(Những Dòng Tulku hiện nay)

 

Nhà chuyên gia về Tây Tạng Francois Pommaret ước lượng hiện nay có khoảng 500 dòng Tulku được tìm thấy khắp: Tây Tạng, Bhutan, Bắc Ấn Độ, Nepal, Mông Cổ, và những tỉnh ở tây nam Trung Quốc.  Đại đa số những Tulkus là đàn ông, nhưng cũng có thiểu số là đàn bà.  Dòng Tulku phụ nữ cao quí nhất là của Dorje Phagmo ở tu viện Samding.

Dĩ nhiên dòng Tulku (Chu cô) nổi tiếng và có quyền lực chính trị nhất là Đạt Lai Lạt Ma đã có tất cả 14 hóa thân bắt đầu từ Lạt Ma Genudun Drub (Đạt Lai Lạt Ma thứ 1).

 

Đạt Lai Lạt Ma nắm quyền chính trị và tôn giáo của Tây Tạng từ Đạt Lai Lạt Ma thứ 5.  Từ đó chính quyền ở thủ đô Lhasa dùng quyền lực trong việc tìm kiếm hay chấp nhận Tulku (Chu Cô) của một số dòng Tulku quan trọng và có khi cắt đứt một dòng Tulku nào đó.  Dòng Tulku Shamarpa của phái Karmapa bị chính quyền Tây Tạng cấm hóa thân dưới lệnh của Đạt Lai Lạt Ma thứ 8 vào năm 1792.  Lạt ma Shamarpa là thị giả của Lạt ma Karmapa (Giáo chủ phái Karmapa).  Sau khi Đạt Lai Lạt Ma mất quyền lực ở Tây Tạng (năm 1959) thì mới biết là phái Karmapa vẫn bí mật công nhận hóa thân của dòng Shamarpa và dòng nầy vẫn tiếp tục bí mật tìm và có hóa thân cho tới bây giờ (từ sau năm 1792). 

 

Những dòng Tulku cũng có liên hệ với nhau như Ban Thiền Lạt Ma công nhận Đạt Lai Lạt Ma mới hay ngược lại.  Nếu không có liên hệ với dòng Tulku khác, một Tulku hóa thân trong một dòng luôn được chấp nhận bởi một vị Lama Rinpoche.  Tulku Jetsunma Ahkon Lhamo, phụ nữ Âu đầu tiên được công nhận bởi Lạt ma Penor Rinpoche vào thập niên 1980s.

 

Những vị giáo chủ 4 giáo phái chính ngày nay đều là những Tulkus của dòng của mình

         Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso (Đăng Châu Gia Mục Thố) của phái Gelug (Cách Lỗ).

         Lạt Ma Rigpe Dorje (Lăng Tuấn Lôi Tỉ Đa Kiệt) là giáo chủ phái Kagyu (Ca Nhĩ Cư).

         Lạt Ma Dujom (Đôn Châu) là giáo chủ phái Nyingma (Ninh Mã).

         Lạt Ma Sakyapa Sakya Trizin (Tát Ca Ba Tát Ca Xứ Châu) là giáo chủ phái Sakya (Tát Ca).

 

 

(Nghi vấn và Chỉ trích)

 

Theo sử gia Tây Tạng, Samten Gyatsen Karmay, Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 (Lobsang Gyatso) viết trong tiểu sử (của mình):

         Quan Tsawa Kachu của Tu viện Ganden đưa ra hình tượng và tràng hạt (thuộc về Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 và những vị Lạt Ma khác), nhưng tôi không thể phân biệt được chúng.  Khi ông rời căn phòng, tôi nghe ông nói với mọi người ở ngoài phòng là tôi đã qua được (đậu) cuộc thử nghiệm.  Về sau, ông thường khiển trách tôi và nói: "Ngươi phải cố gắng (tu học) thật nhiều vì ngươi không thể nhận ra được những vật đó". 

 

Trong phim tài liệu "Tulku", Lạt Ma Dzongsa Jamyang Khyentse Rinpoche, lý luận chống lại hệ thống Tulku của giáo hội Tây Tạng, đã tuyên bố:

         Và ngày hôm nay, bản thân tôi tin rằng giáo hội Tây Tạng đã quá bảo thủ văn hóa nầy.  Văn hóa nầy đang chết dần, nó sẽ không thi hành được nữa.  Nếu người Tây Tạng không cẩn thận, hệ thống Tulku sẽ tàn hại Phật Giáo. Cuối cùng thì Phật Giáo quan trọng hơn hệ thống Tulku, có ai thèm để ý tới những Tulku... và những gì xảy ra cho họ.

 

Tài tử Mỹ Steven Seagal, khi đã trưởng thành, được nhận là hóa thân của một Terton, Chungdrag Dorje, ở đông Tây Tạng vào thế kỷ thứ 17 bởi Lạt ma Penor Rinpoche (của phái Nyingma).  Steven Seagal vẫn chưa đi tu và chưa được tu luyện để thành Tulku.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

________________________

NGÔN NGỮ VÀ VĂN TỰ CỦA NGƯỜI VIỆT

 

                                             Bs Phan Thượng Hải

 

a) Định Nghĩa Ngôn Ngữ và Văn Tự

 

Nói và Chữ (Tiếng Nôm) = Ngôn Ngữ và Văn Tự (Hán Ngữ).

Nói thành Tiếng = Ngữ Âm = Tiếng Nói. 

 

Nói = Lời Nói và Tiếng Nói = Ngôn Ngữ

         Ngôn = Lời nói. 

         Ngữ = Nói - Lời nói.

         Lời nói là Ngôn và cũng là Ngữ.  Tuy nhiên có dùng khác nhau: Tự mình nói gọi là Ngôn và đáp lại kẻ khác gọi là Ngữ.  Ngữ là "nói với người (khác)".

 

Nói thì có phát ra Tiếng (Tiếng Nói) và có ý nghĩa (Lời Nói).

Âm = Tiếng.  Ngữ Âm = Tiếng Nói.

 

Chữ = Văn Tự = Chữ Viết.

Chữ của người Trung Hoa nhất là chữ Hán (chữ Nho, Hán Tự) xuất phát từ hình vẽ, bất cứ chữ nào truy nguyên ra thì cũng đều gắn với một hay nhiều hình vẽ nhất định mặc dù nó đã thoát ly khỏi các hình dạng ban đầu khá xa.

Chữ Hán (Hán Tự) chia ra làm 2 loại chính theo cách viết:

         Văn: gồm những chữ đơn do các nét liên kết tạo thành không có cấu trúc nội bộ xuất xứ từ một hình vẽ xưa.

         Tự: gồm những chữ ghép do phối hợp nhiều bộ phận, mỗi bộ phận khi xưa là một hình vẽ, tức là loại chữ có cấu trúc nội bộ.  Thí dụ: chữ Thu gồm có chữ Hòa và chữ Hỏa.

Như vậy theo nghĩa đen:

         Văn = Chữ; và Tự = Chữ.  

         Văn Tự = Chữ, Chữ Viết.

 

Văn Chương = văn tự hay đẹp viết thành bài. Văn Chương gồm có 2 Thể: Văn xuôi và Văn vần (= Thơ)

Từ = Lời văn.  Ngôn Từ = Lời nói (dùng trong) văn chương = Từ Ngữ.

 

Có sự phân biệt: Nước thì là (nước) Trung Quốc và Người thì là Người Trung Hoa.  

Sách xưa dùng từ ngữ "Hoa Văn" đồng nghĩa với "Chữ viết của người Trung Hoa".  Nghĩa của "Hoa Văn" rộng hơn "Hán Tự", nhưng không được thông dụng.

 

 

b) Ngôn Ngữ và Văn Tự của người Trung Hoa (nước Trung Quốc) 

 

Ngôn Ngữ của người Trung Hoa có những Ngữ Âm khác nhau.  Nó thay đổi theo thời gian của lịch sử và có khác nhau theo không gian.

 

- Theo thời gian, Ngữ Âm (Tiếng Nói) chính thức của người Trung Hoa từ khi thống nhất:

         Vào đời nhà Hán có Hán Âm.

         Vào đời nhà Tùy, Đường và Tống có Đường Âm.

         Vào đời nhà Minh, nhà Thanh và hiện đại có Quan Thoại Âm (Tiếng Quan Thoại).  

Ngày nay, chúng ta biết Quan Thoại Âm ra sao nhưng không hề nghe và biết Hán Âm và Đường Âm ra sao vì đã không được dùng từ nhiều thế kỷ trước, và chúng ta không có máy thu thanh để ghi âm lại Đường Âm và Hán Âm!

 

- Theo không gian, ngoài Ngữ Âm chính thức của người Trung Hoa dùng phổ thông cho toàn quốc (như Tiếng Quan Thoại) còn có những Ngữ Âm địa phương dùng cho tới ngày nay (mặc dù không biết từ lúc nào) thí dụ như:

         Tiếng Quảng: ngữ âm của người Trung Hoa ở vùng Lưỡng Quảng

         Tiếng Tiều: ngữ âm của người Trung Hoa ở vùng Tiều Châu

         Tiếng Phước Kiến: ngữ âm của người Trung Hoa ở vùng tỉnh Phước Kiến...

 

- Thí dụ: 

         Khi Anh Ngữ (Tiếng Anh) ngày nay nói là "one, two, three" thì với cùng một nghĩa, Tiếng Quan Thoại nói là "í, ợ, xáng" còn Tiếng Quảng nói là "dách, dì, xám".  (Và Tiếng Nôm của Việt Nam nói là "một, hai, ba").

 

Văn Tự (Chữ, Chữ Viết) của người Trung Hoa được dùng từ đời nhà Hán cho tới hiện nay (qua những triều đại Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh) nên thường gọi là Hán Tự (Hán Văn Tự).  Hán Tự thống nhất trong cả nước Trung Quốc.  

Hiện nay có thêm Giản Thể Tự (Chữ Giản Thể), một hình thức (viết) đơn giản của Hán Tự từ năm 1949 (sau khi đảng Cộng Sản Trung Quốc nắm chính quyền). Có sách xưa gọi Hán Tự là Hoa Văn, Chữ của người Trung Hoa.

 

 

c) Ngôn Ngữ và Văn Tự của người Việt

 

* Hán Ngữ và Hán Tự

 

Tổ tiên của người Việt chúng ta là người Lạc Việt ở Miền Bắc nước Việt ngày nay từ phía bắc của đèo Hải Vân .  Người Lạc Việt bắt đầu tiếp xúc với người Trung Hoavào đời nhà Hán khi bị đô hộ trong thời Bắc Thuộc.  Người Trung Hoa đem Ngôn Ngữ và Văn Tự của Trung Hoa sang nước ta từ đó (thế kỷ thứ 2 tr CN).  Người Việt dùng Ngôn Ngữ và Văn Tự của người Trung Hoa từ đó. 

         Ngôn Ngữ của người Trung Hoa được người Việt dùng là Ngôn Ngữ trong thời nhà Hán thường được gọi là Hán Ngữ, với Ngữ Âm là Hán Âm.  

         Văn Tự của người Trung Hoa được người Việt dùng (để viết Hán Ngữ) là Hán Tự (còn được người Việt gọi là Chữ Hán hay Chữ Nho). 

 

Trong hơn 1000 năm thuộc Trung Quốc (Bắc Thuộc Thời Đại), người Việt trải qua nhiều triều đại quân chủ của Trung Quốc lúc đầu từ nhà Hán (thế kỷ thứ 2 trước CN) cho đến khi dành độc lập (thế kỷ thứ 10) thì khi đó nhà Đường vừa chấm dứt và sắp đổi sang nhà Tống.  Ngữ Âm của Ngôn Ngữ của người Trung Hoa cũng thay đổi từ Hán Âm (trong thời nhà Hán) cho đến Đường Âm (trong thời nhà Đường và nhà Tống).  Do đó khi dành được độc lập vào năm 931, người Việt đang dùng Đường Âm.  Từ đó cho đến ngày nay Hán Ngữ vẫn được người Việt dùng nhưng với một Ngữ Âm là Đường Âm. Đó là giả thuyết từ các học giả Việt Nam hiện đại.  Trong khi đó từ thời nhà Minh cho đến ngày nay, người Trung Hoa ở Trung Quốc vẫn dùng Hán Ngữ nhưng đã đổi Ngữ Âm từ Đường Âm sang Quan Thoại Âm (Tiếng Quan Thoại). 

Như vậy tuy dùng cùng Ngôn Ngữ của Trung Hoa từ thời nhà Hán (Hán Ngữ) nhưng ngày nay (sau hơn 1000 năm độc lập) Ngữ Âm của người Trung Hoa và người Việt về Hán Ngữ thì khác nhau.  Ngôn Ngữ Trung Hoa nầy vẫn được người Việt chúng ta gọi là Hán Ngữ.

Tuy là giả thuyết như trên cho rằng Ngữ Âm của Hán Ngữ mà người Việt dùng chính là Đường Âm của Ngôn Ngữ Trung Hoa nhưng cũng có giả thuyết khác (tuy ít được chấp nhận) cho rằng Ngữ Âm của người Việt nầy chỉ là Tiếng địa phương như Tiếng Quảng, Tiếng Tiều...

Vì người Việt dùng Hán Ngữ như là Ngôn Ngữ của mình nên có học giả đặt tên là Hán Việt Ngữ.  Do đó có Hán Việt từ điển và Hán Việt tự điển.

 

Trong khi đó, dưới hơn 1000 năm thuộc Trung Quốc và gần 1000 năm độc lập sau đó, người Việt vẫn dùng Hán Tự để viết Hán Ngữ (với Ngữ Âm là Đường Âm). Đến hậu bán thế kỷ 19, người Việt mới bắt đầu thay thế Hán Tự (Chữ Hán, Chữ Nho) bằng Chữ Quốc Ngữ để viết Hán Ngữ. 

 

  

* Tiếng Nôm và Chữ Nôm

 

Ngôn Ngữ bắt đầu cùng với sự bắt đầu của một dân tộc.  Tổ tiên của người Việt chúng ta cũng cósáng tạo Ngôn Ngữ riêng của mình, ta có thể gọi là "Tiếng Nôm" hay Tiếng Nam hay "Tiếng Việt Ròng".  Theo các học giả, "Nôm" là đọc trại từ "Nam" vì nước Việt ở phương Nam. Thật ra Tiếng Nôm không thể là "Tiếng Việt Ròng" vì Tiếng Nôm tuy có khác nhưng cũng có những tiếng hơi giống Hán Ngữ.  Nhiều Tiếng Nôm từa tựa Hán Ngữ, có lẽ được tổ tiên ta sáng tạo từ Hán Ngữ (hay ngược lại?).

Thí dụ: Tiếng Nôm là "mạnh" cũng đồng nghĩa với Hán Ngữ là "mãnh", phát âm gần giống nhau.

Như vậy, Tiếng Nôm là Ngôn Ngữ, mà người Việt nói, không phải là Hán Ngữ.

 

Nếu Ngôn Ngữ của người Trung Hoa có nhiều Ngữ Âm theo thời gian và không gian, Tiếng Nôm của người Việt chỉ có một Ngữ Âm.  Mặc dù có giọng Bắc, Trung, Nam hơi khác nhau nhưng người Việt ở đâu cũng hiểu Ngữ Âm của đồng bào của mình.  Dĩ nhiên Ngôn Ngữ nào cũng có vài Phương Ngữ đặc biệt ở từng địa phương.   

 

Không biết từ lúc nào người Việt mới bắt đầu tạo ra Chữ (Văn Tự) để viết Tiếng Nôm của mình.  Loại Chữ viết nầy gọi là Chữ Nôm.  Các học giả cho rằng “Nôm” là trại từ “Nam”.

Phương cách viết tượng hình của Chữ Nôm thì cùng một nguyên tắc như Chữ Hán (Chữ Nho, Hán Tự).  

Theo học giả Nguyễn Văn Tố thì 2 chữ Bố Cái viết cho Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (chết năm 791) trong thời Bắc Thuộc là 2 chữ Nôm xưa nhứt được tìm thấy. Bố là Cha, Cái là Mẹ; nếu là Hán Ngữ và Hán Tự thì là “Phụ Mẫu”.  Theo các học giả hiện đại, Chữ Nôm bắt đầu thành hình từ thế kỷ thứ 8 hay thứ 9 trong thời Bắc Thuộc nhà Đường vì cơ sở kỹ thuật ghi âm tiếng Nôm của người Việt trong Chữ Nôm theo Đường Âm.

Chữ Nôm được triều đình nước ta công nhận từ đời nhà Trần (vua Trần Nhân Tông) với câu chuyện “Văn đuổi cá sấu” của ông Hàn Thuyên (Nguyễn Thuyên).  

 

 

* Việt Ngữ và Việt Tự 

 

Như vậy Ngôn Ngữ và Văn Tựcủa người Việt chúng ta phong phú hơn người Trung Hoa nhiều vì ngoài HánNgữ và Hán Tự (Tiếng Hán và Chữ Hán) như của họ, chúng ta còn có thêm Tiếng Nômvà Chữ Nôm.

Nếu ta gọi chung Ngôn Ngữ của người Việt chúng ta là Việt Ngữ và Văn Tự của người Việt là Việt Tự thì:

         Việt Ngữ (Tiếng Việt) gồm có Hán Ngữ (Tiếng Hán) và Tiếng Nôm.

         Việt Tự (Chữ Việt) gồm có Hán Tự (Chữ Hán hay Chữ Nho) và Chữ Nôm. 

 

Có học giả dùng từ ngữ "Chữ Nôm"cho Chữ Việt nói chung bao gồm Chữ Hán (Hán Tự, Chữ Nho) và Chữ Nôm. Điều nầy không đúng trên thực tế.

Từ thời vua Lê Thánh Tôn có dùng từ ngữ "Quốc Âm" đồng nghĩa với "Việt Ngữ".  Điều nầy cũng không sai nhưng không hoàn toàn đúng.

Do đó tác giả vẫn dùng Việt Ngữ và Việt Tự cho chính xác.

 

Từ ngữ "Nôm" có khi được dùng như đồng nghĩa với "Việt" (trong Việt Ngữ hay Việt Tự) thí dụ như "Thơ Nôm đời Hồng Đức" hay "Hồ Xuân Hương là bà Chúa thơ Nôm".  

 

 

* Quốc Ngữ và Chữ Quốc Ngữ

 

Từ thời Pháp Thuộc có dùng từ ngữ "Quốc Ngữ" (Tiếng của quốc gia) thay thế cho "Việt Ngữ" (Tiếng Việt) và có Chữ Quốc Ngữ được áp dụng thay thế cho Hán Tự và Chữ Nôm.

 

Đến thời Pháp Thuộc (vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20), nước Việt ta dần dần thay thế chữ Hán (Hán Tự) và chữ Nôm bằng Chữ Quốc Ngữ để viết Quốc Ngữ (Việt Ngữ).  Chữ Quốc Ngữ là tượng thanh, “Âm sao thì viết vậy”.  Chữ Quốc Ngữ dùng cách ghép 24 mẫu tự La Tinh và 5 dấu với nhau, đó là kỹ thuật Bính Âm (pin yin).  Vì là tượng thanh nên một chữ Quốc Ngữ có thể có nhiều nghĩavì âm giống nhau, tuy nhiên Chữ Quốc Ngữ đơn giản và dễ học hơn Chữ Nho (Hán Tự) và Chữ Nôm.  

 

Như vậy ngày nay Ngôn Ngữ và Văn Tự của người Việt chúng ta là:

         Tiếng Việt (Việt Ngữ hay Quốc Ngữ hay Quốc Âm) gồm có Hán Ngữ (Tiếng Hán) và Tiếng Nôm.  

         Chữ Việt (Việt Tự) là Chữ Quốc Ngữ.  Chữ Hán và chữ Nôm không còn dùng nữa nhưng vẫn còn trong sử sách cũ.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

_______________________________________

NĂM DẦN ĐỌC CHUYỆN CỌP


Bs Phan Thượng Hải biên soạn

Năm Dần là năm của Con Cọp (Con Hổ). Con Cọp hiện diện trong thi văn lịch sử chính trị,thành ngữ điển tích và tục ngữ cũng như trong kinh sách tôn giáo. Ngày nay, Con Cọp là giốnsắp tuyệt chủng nhưng ít người để ý đến.


Dàn bài
Thơ và Việt Sử (trang 1)
Tôn Giáo (trang 5)
Thành Ngữ Điển Tích Trung Hoa (trang 9)
Tục Ngữ và Từ Ngữ Việt (trang 13)
Thi Văn (trang 16)
Khoa Học (trang 20)

 

THƠ VÀ VIỆT SỬ


* Phạm Ngũ Lão và Bài thơ Thuật Hoài


Theo Nam Hải Dị Nhân Truyện của ông Phan Kế Bính (trích từ Vũ Trung Tùy Bút của ônPhạm Đình Hổ), trong một chuyến du hành, Hưng Đạo Vương và quân tùy tùng gặp phải ông Phạm Ngũ Lão đang ngồi vệ đường vót tre đan sọt. Lính gọi mãi thấy ông không tránh đường  nên dùng ngọn giáo đâm vào đùi. Ông Phạm Ngũ Lão cứ ngồi không động tịnh. Hưng Đạo Vương cho người vời đến hỏi thì mới biết ông là một nhân tài nên trọng dụng, dùng làm môn khách và tiến cử đến triều đình.
Ông Phạm Ngũ Lão lúc thiếu thời có làm bài thơ để tỏ chí khí:
THUẬT HOÀI
Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu (*)
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. (*)
(Phạm Ngũ Lão)
(*) Chú thích:
Tỳ=giúp. Khí=bỏ đi, dẹp đi. Thôn=nuốt. Ngưu=trâu. “Ba quân giúp hổ nuốt đi trâu”.
Tu=cần. Thính=nghe. Thuyết=thuyết=nói rõ ra. Vũ hầu là Vũ Khanh Hầu Gia (Chư)
Cát Lượng (Khổng Minh).
Có 3 bản dịch nhưng đều không thể diễn tả hoàn toàn như bản chánh:
THUẬT HOÀI
Ngọn giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng hổ khí thôn ngưu

Công danh nếu để còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe truyện Vũ hầu.
(Phan Kế Bính dịch)
TỎ LÒNG
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng khí át sao Ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
(Bùi Văn Nguyên dịch / trong Wikipedia)
THUẬT HOÀI
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân như cọp nuốt “đi” trâu
Công danh trai tráng còn vương nợ
Nhân thế cần nghe thuyết Vũ hầu.
(Phan Thượng Hải dịch)
Quân nghiệp của ông Phạm Ngũ Lão kéo dài hơn 30 năm. Ông Phạm Ngũ Lão là cánh tay mặt của ông Trần Hưng Đạo, tham dự tất cả những trận đánh trong cuộc kháng Nguyên lần thứ 2 và thứ 3 (trừ trận Hàm Tử và trận Bạch Đằng Giang). Sau nầy ông còn 3 lần đánh Ai Lao (1294, 1297, 1301) và 2 lần đánh Chiêm Thành (1312, 1318).
Ông Phạm Ngũ Lão là bạn thân của Hưng Hiển Vương Trần Quốc Uất (con út của ông Trần Hưng Đạo).
Chính ông Phạm Ngũ Lão là vị tướng cuối cùng đuổi quân Nguyên về Tàu luôn không trở lại (trong lần Kháng Nguyên thứ 3).


Việt Nam Sử Lược viết:


Sau khi nghe tin bị thua ở trận Bạch Đằng, Thoát Hoan từ Vạn Kiếp theo đường bộ chạyvề ải Nội Bàng bị Phạm Ngũ Lão và phó tướng là Nguyễn Chế Nghĩa phục binh đổ ra đánh.
Phạm Ngũ Lão chém chết Trương Quân. Thoát Hoan chạy thoát ra khỏi cửa ải, quân chết hết 5, 6 phần. Quân nhà Trần đuổi theo từ ải Nữ Nhi tới núi Kỳ Cấp và phục binh bắn chết A Bát Xích và Trương Ngọc. Trìng Bằng Phi hết sức giữ gìn Thoát Hoan theo đường tắt chạy thoát được về châu Tư Minh (Quảng Tây).

* Thơ Xướng Họa của Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị và Bùi Hữu Nghĩa


Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, ông Tôn Thọ Tường ra làm việc với Pháp. Các ông Phan Văn Trị và Bùi Hữu Nghĩa chống Pháp và chống lại ông Tôn Thọ Tường qua những bài xướng họa:


GIANG SƠN BA TỈNH (Xướng)
Giang nam ba tỉnh hãy còn đây
Trời đất xui chi đến nỗi này?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo
Mây tuôn đẹn kịt khói tàu bay

Xăng văng thầm tính, thương đôi chỗ
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!
(Tôn Thọ Tường)


GIANG SƠN BA TỈNH (Họa)
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây
Chẳng đã, nên ta phải thế này
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy
Cồn Rồng dầu mặc muội tro bay
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
Bủa lưới săn nai cũng có ngày
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung lay!
(Phan Văn Trị)


THỜI CUỘC (Họa)
Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế này.
Ngọn lửa Tam Tần phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ quý lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!
(Bùi Hữu Nghĩa)


(*) Chú thích: Thời Tam Tần và thời Ngũ Quý là những thời kỳ loạn lạc ở Trung Quốc. Thời Tam Tần: sau khi nhà Tần mất, lãnh thổ bị chia ra làm 3 nước gọi là Tam Tần.
Thời Ngũ Quý hay Ngũ Đại: sau khi nhà Đường mất cho đến khi nhà Tống thành lập, Trung Quốc trải qua 5 triều đại ở trung ương (Ngũ Đại) và ở địa phương có 16 nước (Thập lục quốc).
Từ những bài thơ họa của 2 ông Phan Văn Trị và Bùi Hữu Nghĩa, phong trào Cần Vương Kháng Pháp bắt đầu ở Nam Kỳ.
Ông Bùi Hữu Nghĩa còn làm bài thơ gửi bạn mình là ông Tôn Thọ Tường.


THÀ GẶP CỌP CÒN HƠN GẶP BẠN
Kết lũ năm ba bạn cặp kè
Duyên đâu giải cấu khéo thè be
Đã bưng bít mặt cùng trời đất
Sao hổ hang lòng với ngựa xe
Trẻ lẩn thẩn dạo qua dặm liễu
Già lơ thơ ở dưới cây hoè
Không chào cũng ngỡ, chào càng ngỡ

Hùm ở non cao há chẳng thè.
(Bùi Hữu Nghĩa)
(*) Chú thích: Giải cấu = gặp gỡ. Chẳng thè = e dè, chẳng nỡ làm thái quá.

* Hoàng Hoa Thám và thơ của Phan Bội Châu
Ông Hoàng Hoa Thám (1836-1913) nguyên tên là Trương Văn Thám còn gọi là Đề Thám. Ôngtheo Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) chống Pháp (1882-1888) từ trước phong trào Cần Vương. Kế đến ông theo Đề Nắm (Lương Văn Nắm) chống Pháp ở vùng Yên Thế. Khi Đề Nắm chết, ông Đề Thám trở thành lãnh tụ kháng chiến ở Yên Thế (1892-1913). Ông có hàng Pháp 2 lần rồi lại đánh Pháp. Cuối cùng ông thế cô phải trốn tránh trong rừng núi Yên Thế không theo lời dụ hàngcủa Lê Hoan (1909).
Cái chết của ông Đề Thám còn là một bí mật. Có thuyết cho rằng Pháp cho người trá hàng rồi ám sát ông.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Ông Hoàng Hoa Thám)

 

Ông Phan Bội Châu khi làm cách mạng bên Tàu có viết về cuộc đời của ông với tựa đề là Chân Tướng Quân. Hai ông nầy có gặp nhau ở Yên Thế trước khi ông Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du.
Đây là bài thơ của ông Phan Bội Châu khóc ông Hoàng Hoa Thám (Chân Tướng Quân):


KHỐC CHÂN TƯỚNG QUÂN                                KHÓC CHÂN TƯỚNG QUÂN
Dị chủng sài lang mãn địa tinh                           Sói lang giống khác tanh lợn đất
Độc thương chích thủ dữ cừu tranh                   Đấu với quân thù cánh tay đơn
Trấp niên thương kiếm sơn hà khí                     Gươm mấy chục năm hồn sông núi

Bách chiến phong vân phụ tử binh                     Gió bao trăm trận lính cha con
Quốc thế dĩ trần quân thượng phấn                   Nước dù chìm đắm lòng không nhụt
Tướng đầu vị đoạn giặc do kinh                         Đầu vẫn chưa rơi giặc hoảng hồn
Anh hùng bản sắc chung năng hiện                    Đến chết mới hay người tuấn kiệt
Vạn lý thời văn hổ khiếu thanh.                          Thẳm xa tiếng hổ vọng sông non.
(Phan Bội Châu)                                                (Kiều Văn dịch)


Từ bài thơ của ông Phan Bội Châu, ông Hoàng Hoa Thám có biệt danh là Hùm Thiêng YênThế.
Phong trào Cần Vương ở Bắc Trung Kỳ từ 1885 đến 1913 kéo dài 29 năm. Phong trào Kháng Pháp Cần Vương toàn quốc từ ông Trương Công Định (1859) cho đến ông Hoàng Hoa Thám (1913) kéo dài tất cả 55 năm.
Vì thương bạn là ông Phan Khôi trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở ngoài Bắc, ông Vũ Hoàng Chương có làm bài thơ tặng dưới đây bằng tiếng Hán Việt rồi tự mình dịch ra tiếng Việt. Hai câu cuối cũng có âm hưởng như bài thơ của ông Phan Bội Châu.


LOẠN TRUNG HỮU BIỆT                                     TRONG THỜI LOẠN XA BẠN
Đối diện tằng xưng thiên cãi văn                        Từng khen tuyệt tác ấy văn trời
Kim chiêu biệt hỹ, bút ưng phần!                        Tạm biệt từ đây bẻ bút thôi
Đông tây mộng quải tam canh nguyệt                 Giấc mộng đông tây vầng nguyệt lửng
Nam bắc tình khiên vạn lý vân                           Tơ tình nam bắc đám mây trôi
Trọc tửu vô đăng sầu bất ngữ                            Tỉnh say một cuộc đành không bạn
Hoàng sam thanh nhãn ý hà vân?                       Hào hiệp ngàn xưa dễ mấy người
Thu phong sạ khởi tiêu hồn cực                         Chợt nổi gió thu lòng héo hắt
Hổ khiếu viên đề hoảng hốt văn.                        Đâu đây hổ thét vượn than dài.
(Vũ Hoàng Chương)                                          (Vũ Hoàng Chương tự dịch)

 

TÔN GIÁO
 

* Chuyện Hoàng tử Sattva trong Bản Sinh Kinh của Phật Giáo
Hoàng tử Sattva là một trong những hóa thân trong 1 trong những kiếp trước của Phật Thích Ca.
Con của vua Maharatha, hoàng tử Sattva thành một ẩn tu (ascetic) và có vài đệ tử. Một hôm đang đi trên sườn núi với những đệ tử, Sattva thấy ở dưới đáy thung lũng có một con cọp mẹ đói sắp muốn ăn thịt con mới sinh của mình. Sattva biểu các đệ tử đi tìm thức ăn cho con cọp. Khi các đệ tử đi xa rồi, Sattva gieo mình nhẩy xuống thung lũng cho chết. Con cọp liền ăn thịt xác của Sattva. Khi các đệ tử trở lại liền ca ngợi nghĩa cử rộng lượng (generosity), từ bỏ (renunciation), đạo đức (morality), quả cảm (resolution), và bình tỉnh (equanimity) của Sattva. Liền đó có mưa hoa sen từ trên trời rơi xuống và Hoàng tử Sattva sống lại.
Theo Sư Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký, có 4 stupas ở miền bắc Ắn Độ dựng nênghi nhớ câu chuyện nầy.


* Chuyện Trang tử và câu Họa hổ họa bì nan họa cốt của Đạo Giáo

Trang Tử tên Chu tự Tử Hưu biệt hiệu là Tất Viên vì làm Thơ lại ở Tất Viên. Người Mông ấp thuộc nước Tống. Học trò của Lý Nhĩ tên tự là Bá Dương, bạc đầu từ lúc nhỏ nên được gọi là Lão Tử.
Trang Tử nằm mộng thấy mình hóa ra con bướm (hồ điệp). Lão Tử giải thích rằng: Thuở Trời Đất mới sinh có 1 con bướm trắng cánh lớn là vật đầu tiên được hưởng ánh sáng của mặt Trời và mặt Trăng và hương nhụy của hoa thơm, có thể được trường sinh bất tử. Một hôm bướm ấy bay lượn ở Dao Trì của Tây Vương Mẫu và hút hết nhụy hoa bàn đào của Tây Vương Mẫu nên bị phạt mà phải thác sinh. Bướm ấy là nguyên hình của nhà ngươi (Trang Tử) đó.
Trang Tử cùng người vợ thứ ba là Điền thị sống ở núi Nam Hoa.
Một hôm Trang Tử thấy 1 góa phụ quạt mồ cho khô vì người chồng trước khi chết cho phép bà được tái giá nếu mồ khô hẳn.
Trang Tử chán ngán và có làm bài thơ:
Bất thị oan gia bất tụ đầu
Oan gia tương tựu kỷ thời hưu
Tảo tri tử hậu vô tình nghĩa
Tựu bả sinh tiền ân ái câu
(Dịch)
Chẳng nợ nần nhau chẳng sánh đôi
Nợ nần dan díu biết bao thôi?
Ví hay mình thác người đem bạc
Lúc sống, tơ duyên đã rứt rồi.
Điền thị nghe Trang Tử kể chuyện thì giận người góa phụ (bạc nghĩa).
Trang Tử làm thêm:
Sinh tiền cá cá thuyết ân ái
Tử hậu nhân nhân dục phiến phần
Họa hổ họa bì nan họa cốt
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
(Dịch)
Khi còn, những kể niềm yêu dấu
Lúc thác, thương chăm việc quạt mồ
Vẽ hổ vẽ da xương khó thấy
Biết người biết mặt dạ khôn dò.
Điền thị thề nguyền không tái giá sau khi chồng chết.
Vài tháng sau Trang Tử đau nặng và Điền thị thề nguyền ở vậy suốt đời.


Trang Tử chết thì Điền thị lại mê và tái giá với một chàng trẻ tuổi (tới xin theo học với Trang Tử). Chàng trẻ tuổi nầy đau nặng và theo lời khuyên thì bệnh chỉ chữa hết nếu có phương thuốclà óc của người sống hay chết không quá 50 ngày uống hòa với rượu. Điền thị liền dở hòm của Trang Tử để lấy óc. Khi đó Trang Tử sống lại và chàng trẻ tuổi biến mất vì (chàng) nầy chỉ là phép của Trang Tử để thử vợ mà thôi. Trang Tử làm bài thơ:
Tòng tiền liễu khước oan gia trái
Nhĩ ái chi thời ngã bất ái
Nhược kim dữ nhĩ tố phu thê
Phạ nhĩ phủ thế thiên linh cái.
(Dịch)
Giũ sạch từ nay duyên với nợ
Yêu ta, ta cũng không yêu nữa
Ví cùng sum họp lại như xưa
E nỗi đập săng lòng giáo giở?
Lại thêm:
Phu thê bách nhật hữu hà ân
Kiến liễu tân nhân vong cựu nhân
Phủ đắc cái quan tào phủ thế
Như tha đẳng đắc phiến can phần.
(Dịch)
Ái ân, thôi cũng chuyện trăm ngày
Có mới vội vàng nới cũ ngay
Vừa đậy quan tài đà bổ nắp
Bên mồ lọ phải quạt luôn tay.
Điền thị hổ thẹn mà thắt cổ chết. Trang Tử mai táng chu đáo. Rồi gõ chậu sành mà hát:
Thê tử ngã tất mai
Ngã tử thê tất giá
Điền thị tha nhân canh
Mã thị tha nhân khóa
Ngã nhược chân tử thì
Nhất trường đại tiếu thoại.
(Dịch)
Vợ chết mình phải chôn
Mình chết vợ cải giá
Ruộng mình người cày liền
Ngựa mình người chiếm cả
Mình ví thực chết rồi
Nực cười lắm truyện lạ.
Hát xong đập tan cái chậu sành rồi biệt tích. Người nói theo Lão Tử mà thành tiên. Đó là chuyện Trang tử gổ bồn ca.

Tục ngữ Việt cũng có câu: Họa hổ họa bì nan họa cốt.

* Sao Vĩ Hỏa Hổ trong Nhị Thập Bát Tú của Đạo Giáo
Theo Đạo Giáo có 24 vị sao chánh lấy tên theo con vật. Sao Vĩ Hỏa Hổ lấy tên theo con Cọp (Hổ). Thiên văn học Tây Phương cũng có tên của những hành tinh giống như vậy. Sao Vĩ Hỏa  Hổ là hành tinh Scorpius.
Giác Mộc Giao: sao Giác (Spica). Giao=Cá Sấu
Càng Kim Long: sao Càng (Virgo). Long=con Rồng
Đê Thổ Lạc: sao Đê (Libra). Lạc=con Lạc Đà
Phòng Nhật Thố: sao Phòng (Libra). Thố=con Thỏ
Tâm Nguyệt Hồ: sao Hồ (Antares). Hồ=con Chồn Cáo
Vĩ Hỏa Hổ: sao Vĩ (Scorpius). Hổ=con Cọp
Cơ Thủy Báo: sao Cơ (Sagittarius). Báo=con Beo
Đẩu Mộc Giải: sao Đẩu (Sagittarius). Giải=con Cua
Ngưu Kim Ngưu: sao Ngưu (Capricormus). Ngưu=con Trâu
Nữ Thổ Bức: sao Nữ (Aquarius). Bức=con Dơi
Hư Nhật Thử: sao Hư (Aquarius). Thử=con Chuột
Nguy Nguyệt Yến: sao Nguy (Aquarius/Pegasus). Yến=con Én (Nhạn)
Thất Hỏa Trư: sao Thất (Pegasus). Trư=con Heo
Bích Thủy Dư: sao Bích (Algenib). Dư=con Cừu (Trừu)
Khuê Mộc Lang: sao Khuê (Andromeda). Lang=con Chó Sói xám
Lâu Kim Cẩu: sao Lâu (Aries). Cẩu=con Chó
Vị Thổ Trĩ: sao Vị (Aries). Trĩ=con Chim Trĩ
Mão Nhật Kê: sao Mão (Pleiades). Kê=con Gà
Tất Nguyệt Ô: sao Tất (Taurus). Ô=con Quạ
Chủy Hỏa Hầu: sao Chủy (Orion). Hầu=con Khỉ
Sâm Thủy Viên: sao Sâm (Orion). Viên=con Vượn
Tỉnh Mộc Hãn (Ngạn): sao Tỉnh (Gemini). Hãn=con Bò
Quỷ Kim Dương: sao Quỷ (Cancer). Dương=con Dê
Liễu Thổ Chương: sao Liễu (Hydra). Chương=con Cheo (=Mouse-Deer)
Tinh Nhật Mã: sao Tinh (Alphard). Mã=con Ngựa
Trương Nguyệt Lộc: sao Trương (Crater). Lộc=con Hưu/Nai
Dực Hỏa Xà: sao Dực (Corvus). Xà=con Rắn
Chẩn Thủy Dẫn: sao Chẩn (Corvus). Dẫn=con Giun/Trùng

* Câu "Bạo Hổ Bằng Hà" trong Luận Ngữ của Nho Giáo
Luận Ngữ là 1 trong Tứ Thư của Nho Giáo. Đây là câu nói nổi tiếng của Khổng tử trong Luận Ngữ.
Luận Ngữ 7.10:

Tử vị Nhan Uyên viết: Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ hữu thị phù!
Tử Lộ viết: Tử hành tam quân, tắc thùy dư?
Tử viết: Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dữ dã. Tất dã lâm sự nhi cụ, hiếu mưu nhi thành giả dã.
(Dịch)
Khổng Tử nói với Nhan Uyên: Nếu có ai dùng mình thì mình đem đạo ra thi hành, bằng không dùng mình thì mình ở ẩn với đạo; chỉ có ta với anh là làm được như vậy thôi.
Tử Lộ hỏi: Nếu Thầy thống lĩnh ba quân, thì Thầy chọn ai giúp?
Khổng Tử đáp: "Bắt cọp mà dùng tay không, qua sông mà không dùng thuyền, chết mà không biết tiếc thân, ta không cho kẻ ấy theo giúp ta. Ta chọn kẻ nào vào việc mà biết lo sợ dè dặt, thích lập mưu tính kế để thành công.
Câu nói bạo hổ bằng hà ám chỉ người vũ dũng nhưng vô mưu. Tử Lộ sau nầy chết ở nước Vệ vì cái dũng khí của ông vì không theo lời khuyên của Khổng tử.

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH TRUNG HOA
* Tam nhân thành hổ = Ba người nói, thành có hổ thật.
Nguyên văn: Phù thị chi vô hổ minh hĩ, nhiên nhi tam nhân ngôn nhi thành hổ = Rõ ràng là ở chợ không có cọp, thế nhưng có 3 người quả quyết thì sẽ thành có cọp. Xuất xứ từ trong phần Ngụy Sách Nhị của Chiến Quốc Sách.
Điển tích:
Trong thời Chiến Quốc, vua nước Ngụy cho con trai của mình sang nước Triệu để làm con tin và cho một đại thần thân tín tên là Sủng Hốt theo phò con mình. Sủng Hốt lo sợ là khi ông và công tử con vua Ngụy sang nước Triệu thì tại nước Ngụy có người gièm pha nói xấu mình. Sủng Hốt mới nói với vua nước Ngụy rằng:
Tâu đại vương, nếu có người báo với đại vương rằng có con cọp đi vào chợ của Đại Lương (kinh đô của nước Ngụy) thì đại vương có tin không?
Vua nước Ngụy đáp ngay không cần suy nghĩ:
Ta không tin được, con cọp làm sao vào chợ ở Đại Lương được.
Sủng Hốt lại hỏi:
Nhưng có người thứ hai cũng bảo với đại vương như vậy, đại vương có tin không?
Vua nước Ngụy suy nghĩ một chút rồi đáp:
Hai người đều nói như nhau, ta có phần nửa tin nửa ngờ.
Sủng Hốt lại hỏi:
Ngay lúc ấy lại có người thứ ba đến nói với đại vương là có con cọp ở tại chợ Đại Lương, đại vương có tin chăng?
Vua nước Ngụy đáp ngay:
Ba người đều nói như thế, chắc ta phải tin thôi.
Sủng Hốt liền nói:

Rõ ràng là ở chợ không có cọp, thế nhưng có 3 người quả quyết như vậy với đại vương thì đại vương tin là có thật. Nay thần theo hầu công tử sang nước Triệu, cách xa nước Ngụy thì nhất định sẽ có nhiều hơn 3 người nói xấu sau lưng về thần và công tử; mong đại vương hãy xét kỹ.
Sau khi công tử của nước Ngụy và Sủng Hốt sang nước Triệu làm con tin thì có rất nhiều ngườinói xấu gièm pha về họ và vua nước Ngụy dần dần cũng tin theo. Khi hết thời hạn làm con tinvà trở về nước Ngụy, cả hai đều không được trọng dụng nữa.

* Hồ giả hổ uy = Cáo giả oai cọp
Xuất xứ từ Chiến Quốc Sách
Điển tích:
Sở Hoàn Vương ngạc nhiên khi thấy người phương Bắc (của Trung Quốc) đều sợ tướng Chiêu Hề Tuất. Một quan đại thần của Sở Hoàn Vương là Giang Ất kể chuyện: Tại một khu rừng kia có một con cọp bắt được con cáo. Con cáo tức thì làm bộ dọa con cọp rằng nó là sứ giả do Trờisai xuống để thống trị muôn loài thú, nếu cọp xâm phạm đến nó thì sẽ bị Trời trừng phạt; nếucọp không tin thì hãy đi theo nó để xem muôn loài thú sợ hãi nó thế nào. Con cọp bằng lòng đi theo con cáo. Quả nhiên suốt đường đi, muôn loài thú thấy bóng dáng con cáo thì sợ bỏ chạy hết. Con cọp đâu biết là con cáo mượn oai của cọp nên muôn loài thú mới sợ chứ đâu có sợ con cáo. Nay binh quyền của nhà vua trao cả cho Chiều Hề Tuất, người phương Bắc sợ hãi là sợ binh lực của nhà vua chứ đâu có sợ Chiêu Hề Tuất.
Người Việt thường có câu thành ngữ: Cáo mượn oai hùm.

* Bất nhập hổ huyệt, nan đắt hồ tử = Không vào hang cọp, không bắt được cọp con.
Xuất xứ trong Ban Siêu truyện của Hậu Hán Thư
Điển Tích:
Danh tướng Ban Siêu đã đi đánh người Hung Nô ở phương Bắc của Trung Quốc thời nhà Hán và đã chiến thắng trở về. Ban Siêu lại được sai đi sử các nước ở vùng Tây Vực (phương Tây của Trung Quốc). Khi đến nước Thiện Thiện ở đây, phái đoàn sứ giả gồm Ban Siêu (chánh sứ), Quách Tuấn (phó sứ) và 36 người tướng sĩ tùy tùng được vua nước Thiện Thiện tiếp đón niềm nỡ. Nhưng đột nhiên ngay sau đó sự đón tiếp thành ra lạnh nhạt. Ban Siêu cho người thám thính thì biết là nước Hung Nô cũng sai sứ giả sang nước Thiện Thiện và vua nước nầy bắt đầu muốn theo Hung Nô và lạnh nhạt với Trung Quốc (và có thể bắt đoàn sứ giả Trung Quốc giao cho Hung Nô). Ban Siêu họp 36 người tướng sĩ bàn định tấn công doanh trại của sứ đoàn Hung Nô
nhưng không cho Quách Tuấn biết (vì Quách Tuấn là văn quan có thể sợ sệt mà tiếc lộ cơ mưu).
Ban Siêu nói trong buổi hợp rằng:
Không vào hang cọp, không bắt được cọp con; không mạo hiểm không thế nào thành công. Kế hoạch trước mắt là tiêu diệt đoàn sứ giả Hung Nô như vậy cắt đứt ý định đầu hàng Hung Nô của vua Thiện Thiện và nhà vua sẽ thần phục nhà Hán của Trung Quốc. 
Tướng sĩ đồng ý với ông. Ngay đêm đó Ban Siêu và 36 tướng sĩ tấn công doanh trại Hung Nô và giết chết sứ đoàn Hung Nô. Nhờ đó sứ mạng của Ban Siêu thành công, vua nước Thiện Thiện xin thần phục Trung Quốc vànhà Hán.
Tục ngữ Việt có câu: Bất nhập hổ huyệt, yên đắc hổ tử.

* Họa hổ loại khuyển = Vẽ cọp giống chó.
Nguyên văn: Hiệu Quý Lương bất đắc, hãm vi thiên hạ khinh bạc tử, sở vị họa hổ bất thành phảnloại cẩu giả dã = Bắt chước Quý Lương không xong lại trở thành sự khinh bạc trong thiên hạ, đógọi là vẽ cọp không thành mà ngược lại chỉ giống chó vậy.
Xuất xứ trong Mã Viện truyện của Hậu Hán Thư.
Điển tích
Mã Viện thời Đông Hán ở Trung Quốc có 2 người cháu là Mã Nghiêm và Mã Đôn tánh hay giao thiệp. Mã Viện muốn 2 người cháu nên giao thiệp và học với Long Bá Cao vì ông nầy là ngườitốt, cẩn trọng và khiêm nhường. Ông không muốn Mã Nghiêm và Mã Đôn giao thiệp và học với Đỗ Quý Lương. Đỗ Quý Lương là người hào hiệp nghĩa khí nhưng nếu (2 người cháu) bắtchước không khéo thì dễ trở thành loại người ngông cuồng dại dột đễ bị thiên hạ khinh bạc. Mã Viện mới viết thơ cho 2 người cháu và trong bức thơ có câu nầy: "Bắt chước Quý Lương khôngxong lại trở thành sự khinh bạc trong thiên hạ, đó gọi là vẽ cọp không thành mà ngược lại chỉgiống chó vậy"
Từ điển tích nầy có câu: Họa hổ thành khuyển = Vẽ cọp thành ra chó.
Tục ngữ Việt cũng có câu: Vẽ hùm thêm cánh. hay Vẽ hùm thêm cánh, vẽ rắn thêm chân.
* Túng hổ quy sơn = Thả cọp về núi
Nguyên văn: (Trình Dục viết:) Tích Lưu Bị vi Dự Châu mục thời, mỗ đẳng thỉnh sát chi, Thừa tướng bất thính, kim nhật hựu dữ chi binh, thử phóng long nhập hải, túng hổ quy sơn dã = (Trình Dục nói:) Xưa khi Lưu Bị làm Dự Châu mục tôi đã xin giết (hắn) đi, Thừa tướng không chịu nghe, nay lại cấp binh mã cho (hắn), chẳng khác nào thả rồng vào biển thả hổ về núi đó vậy.
Xuất xứ từ Tam Quốc Chí truyện.
Điển tích:
Lưu Bị trấn ở Từ Châu bị thua Lữ Bố đành phải tạm thời theo Tào Tháo về ở kinh đô Hứa Xương (thuộc Dự Châu). Khi hay tin Viên Thuật sẽ hội binh với anh là Viên Thiệu thì Lưu Bị xin Tào Tháo đem binh ra chận đánh Viên Thuật. Tào Tháo nghe lời cho Lưu Bị đem 5000 quân cùng với 2 tướng thân tín của mình là Châu Linh và Lộ Chiêu đi đánh Viên Thuật. Quan Công và Trương Phi hỏi Lưu Bị: Lần nầy anh xuất chinh tại sao lại gấp như vậy. Lưu Bị trả lời: Tanhư chim trong lồng như cá trong chậu, lần đi nầy như cá được vào biển rộng như chim được baylên trời cao.

Lưu Bị rời Hứa Xương rồi, mưu sĩ của Tào Tháo là Trình Dục và Quách Gia mới trở về nghechuyện liền đến nói với Tào Tháo.
Trình Dục hỏi:
Sao Thừa tướng lại cho Lưu Bị có quân đội và đi ra khỏi Hứa Xương.
Tào Tháo đáp:
Để y đi đánh Viên Thuật.
Trình Dục nói:Xưa khi Lưu Bị làm Dự Châu mục tôi đã xin giết (hắn) đi, Thừa tướng không chịu nghe,nay lại cấp binh mã cho (hắn), chẳng khác nào thả rồng vào biển thả hổ về núi đó vậy. Sau nầy không thể khống chế y được nữa.
Quách Gia cũng đồng ý.
Từ chuyến đi nầy, Lưu Bị như chim bay lên trời như cá vào biển hoàn toàn độc lập và trở thành đối thủ của Tào Tháo.
Tục ngữ Việt cũng có câu: Thả hổ về rừng.

* Kỵ hổ nan hạ = Cỡi cọp khó xuống
Nguyên văn: Kim chi sự thế nghĩa vô toàn chủng, thí như kỵ hổ, an khả trung hạ tai = Tình thế sự việc hiện nay có nghĩa là không xoay chuyển, như cỡi lưng cọp, làm sao xuống giữa chừng được.
Xuất xứ trong phần "Tấn Võ Đế Hàm Hòa Tam Niên" của sách Tư Trị Thông Giám (Tư Mã Quang).
Điển tích
Đào Khản đem quân tiếp viện Du Lượng và Ôn Kiều phò vua Tấn Thành Đế của nhà Đông Tấn chống lại loạn quân của Tô Tuấn và Tổ Ước. Quân Tấn hết lương, Đào Khản muốn bỏ đi. Ôn Kiều mới can và nói với Đào Khản rằng:  Thiên tử bị vây khốn, quốc gia nguy cấp. Tình thế ngày nay có nghĩa là không xoay chuyển được, như cỡi lưng cọp, làm sao xuống giữa chừng đươc. Chúng ta cùng dấy binh cần vương mà ông đòi bỏ đi tất sẽ làm lay chuyển lòng quân và làm hỏng việc lớn cứu nước. Nay ta sẽ cho tất cả nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của ông. Đào Khản nghe theo nên ở lại chỉ huy quân đội đánh bại loạn quân của Tô Tuấn và Tổ Ước và
khôi phục Tấn Thành Đế và nhà Tấn.
Tục ngữ Việt có câu: Cầm gươm đằng lưỡi, cưỡi hổ đằng đầu.

* Nhất cử tất hữu song hổ = Một lần đâm chắc chắn được 2 con cọp
(Chuyện Biện Trang đâm cọp)
Nguyên văn: Biện Trang tử dục thích hổ, quán kiên tử chỉ chi, viết: "Lưỡng hổ phương thả thực ngưu, thực cam tất tranh, tranh tắc tất đấu, đấu tất đại giả thương, tiểu giả tử; tòng thương nhi thích chi, nhất cử tất hữu song hổ chi danh" = Biện Trang tử muốn giết cọp, tên ở quán trọ can 
rằng: "Hai con cọp ấy đang tranh ăn thịt con trâu, ăn no rồi chúng sẽ tranh giành ắt sẽ đánh nhau,đánh nhau ắt con lớn thì bị thương, con nhỏ thì chết; lúc ấy ông sẽ đâm (chết) con bị thương chắc chắn sẽ nổi danh vì một lần giết cả 2 con cọp"
Xuất xứ từ trong phần Trương Nghi Liệt Truyện của sách Sử Ký (của Tư Mã Thiên).
Điển tích:
Trần Chẩn theo phò vua Tần (Tần Huệ Vương). Tần Huệ Vương đem việc 2 nước Hàn và Ngụy đánh nhau và hỏi Trần Chẩn phải làm thế nào.
Trần Chẩn kể chuyện Biện Trang đâm cọp để làm thí dụ cho mưu kế của mình:
Biện Trang tử nghỉ ở lữ điếm ở bìa rừng thấy 2 con cọp đang giằng xé ăn thịt một con trâu.
Biện Trang tử muốn giết cọp, tên ở quán trọ can rằng: "Hai con cọp ấy đang tranh ăn thịt con trâu, ăn no rồi chúng sẽ tranh giành ắt sẽ đánh nhau, đánh nhau ắt con lớn thì bị thương, con nhỏ thì chết; lúc ấy ông sẽ đâm (chết) con bị thương chắc chắn sẽ nổi danh vì một lần giết cả 2 con cọp".
Biện Trang tử nghe lời, tạm thời chờ đợi. Quả nhiên, hai con cọp sau khi ăn xong lại quay sang đánh nhau. Con nhỏ hơn bị cắn chết còn con lớn cũng bị thương nặng. Lúc ấy Biện Trang tử mới xông đến đâm chết con cọp bị thương nầy. Ông được nổi tiếng là một lần mà giết được 2 con cọp.
Sau khi kể câu chuyện Biện Trang đâm cọp nầy, Trần Chẩn mới nói với vua nước Tần:
Nay nước Hàn và Ngụy đang đánh nhau cũng như 2 con cọp kia vậy, sẽ có một chết một bị thương. Nếu đại vương đợi đến lúc đó thì sẽ diệt được cả hai nước.
Và quả nhiên chuyện có thực xảy ra cho nước Hàn và nước Ngụy và 2 nước bị nước Tần chiếm.
Từ điển tích nầy cũng có câu: Lưỡng bại câu thương = Cả hai thất bại đều bị tổn thương.

* Dưỡng hổ di họa = Nuôi cọp (là) để lại họa.
Nguyên văn: Dưỡng hổ tự di họa = Nuôi cọp (là) tự để lại họa cho mình.
Xuất xứ từ trong phần Hạng Võ bản kỷ của Sử Ký (của Tư Mã Thiên)
Điển tích
Lưu Bang và Hạng Võ nghị hòa lấy Hồng Câu làm ranh giới: Hạng Võ rút quân về phương đông và Lưu Bang rút quân về phương tây, không đánh nhau nữa.
Ngay sau đó Trương Lương và Trần Bình khuyên Lưu Bang nên tiếp tục đánh Hạng Võ, vì nếu nuôi cọp là tự để lại hậu họa về sau.
Lưu Bang nghe lời, lại đánh Hạng Võ. Hạng Võ thua chạy và tự tử ở bến Ô giang. Lưu Bang lập nên nhà Hán.
Người Việt có câu thành ngữ: Nuôi cọp trong nhà.

 

TỤC NGỮ và TỪ NGỮ VIỆT
* Tục Ngữ về Con Cọp
(Cọp = Hổ = Hùm = Kễnh = Khái = Ông Cả, Ông Ba mươi)
Con Cọp
*
Ăn như hùm đổ đó.
(Hùm là con hổ, con cọp; khi đói thường hay ra chỗ dòng nước chảy, đổ Đó trộm của người đơm Đó mà ăn một cách hấp tấp. Đó = đồ đan bằng tre nứa, dùng để bắt cá. Ý nói: ăn mau và ăn khoẻ)
Bắt cọp thời dễ, tha cọp thời khó.
Bất nhập hổ huyệt, yên đắc hổ tử.
(= Không vào hang cọp thì không yên được hổ con)
Cầm gươm đằng lưỡi, cưỡi hổ đằng đầu.
Cọp (Hổ) chết để da, người ta chết để tiếng. - Cọp (Hổ) chết vì da, người ta chết vì tiếng.
Hổ cậy rừng, rừng cậy hổ. - Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
Đưa thịt vào miệng hùm. (= Đút chuối vào miệng voi)
Họa hổ họa bì, nan họa cốt.
(= Vẽ hổ, vẽ da, không thể vẽ được xương cọp. Từ câu Hán ngữ: Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm)
Hổ phụ, sinh hổ tử.
Hùm dữ, chẳng nỡ ăn thịt con. - Hổ, chẳng ăn thịt con.
Hùm giết người hùm ngủ; người giết người thức đủ năm canh.
Hùm tha, ma bắt.
Miệng hùm, gan sứa.
(Gan sứa ám chỉ nhút nhát run sợ trong lòng)
Quân vô tướng, như hổ vô đầu.
Thả hổ, về rừng.

Tránh hùm, mắc hổ. - Tránh ông cả, ngã phải ông ba mươi.
(Ông Cả và ông Ba mươi được dùng để ám chỉ Cọp với sự kinh hãi)
Vuốt râu hùm, xỉa răng cọp.
*
Tuổi Dần, siêng mần không có ăn.

Con Cọp và những con Giáp khác
*
Hùm mất hưu, như mèo mất thịt.
Mèo tha miếng thịt xôn xao; kễnh tha con lợn thì nào thấy chi.
(Kễnh = hổ, cọp, theo cách gọi có tính cách kinh sợ)
Nam thực như hổ, nữ thực như miu.
(Miu = con mèo)
*
Hang hùm, miệng rắn. - Hang hùm, nọc rắn.
Miệng hùm, nọc rắn.
Vẽ hùm thêm cánh. - Vẽ hùm thêm cánh, vẽ rắn thêm chân.

Con Cọp và những con vật khác
Đuổi hùm cửa trước, rước voi cửa sau.
Cáo bầy, không bằng một cọp. - Quần hồ, bất như độc hổ. - Mảnh hổ, nan địch quần hồ.
Cú góp, cọp ăn. - Cú góp, cọp mừng.
(Ý nói: người yếu làm ra tích góp từng ly từng tí rồi bị người mạnh cướp bóc và hưởng lợi)

 

TỪ NGỮ VỀ CỌP


Hổ = Cọp
Hổ lửa = Rắn độc có khoang, màu đỏ như lửa.
Hổ mang = Rắn độc có đầu hình tam giác và hàm bạnh ra, và có tập tính đe dọa kẻ thùbằng cách ngẩng đầu lên.
Hổ chúa = Rắn hổ mang chúa.

Hổ trâu = Rắn hổ mang rất lớn và da đen trũi.
Hổ lang = những loải thú dữ nói chung
Hổ huyệt = Hang cọp
Hổ hang = Xấu hổ
Làm người sao chẳng hổ hang
Thua em kém chị xóm làng cười chê. (Ca dao)
Hổ lốn = Lẫn lộn, lộn xộn nhiều thứ với nhau.
(Không có trong từ điển)
Bắt Cọp.
Coi cọp, xem cọp
Cọp = Hổ = Hùm = Kễnh = Khái = Ông Cả, Ông Ba mươi.

THI VĂN
* Chuyện "Thần Phạm Nhĩ Hóa Ra Cọp" của Sơn Nam
Câu chuyện nầy được viết trong sách "Chuyện Xưa Tích Cũ" của Sơn Nam và Tô Nguyệt Đình có nguyên văn như sau:
Ngày xưa trên thiên cung có một vị thần tên Phạm Nhĩ. Theo chữ nho, "phạm nhĩ" có nghĩa là "lỗ tai rách".
Phạm Nhĩ toan soán ngôi của Ngọc Hoàng. Ông ta qui tụ binh mã, đánh đâu thắng đó, hễ bắt được địch thủ là ăn gan uống máu lập tức. Thấy Phạm Nhĩ đại náo thiên cung, Phật Bà Quan Âm bèn hạ lịnh cho ông Chuẩn Đề đem binh tới trừng trị. Nhưng ông Chuển Đề đại bại. Phật Di Đà bèn hóa phép thần thông đuổi được Phạm Nhĩ, bắt đày ông ta xuống trần gian, hóa kiếp ra con Cọp.
Để đề phòng ông Phạm Nhĩ trở lại thiên cung báo thù, Trời Phật cắt đôi cánh của ông không cho ông ta bay được.
Vì là thú vật, Phạm Nhĩ rất hung hăng. Nhưng nhờ cốt thần hồi kiếp trước nên trong giấc ngủ Phạm Nhĩ có thể nghe biết những ai nói xấu ông ta mặc dù cách xa ngàn dặm. E rằng Phạm Nhĩ thù vặt Phật Trời khiến Phạm Nhĩ gặt lỗ tai khi thức giấc, như vậy mà không nhớ gì cả.
Để an ủi Phạm Nhĩ, Phật Trời cho ông ta làm chúa Sơn Lâm.
Nhiều người nói rằng cọp không ăn thịt người nào họ Phạm (vì trùng một họ với cọp).
Ở nhiều làng mới khai phá, cọp thường được dân chúng phong chức Hương Cả. Hằng năm khi cử hương chức làng, cọp trở lại miễu để lãnh tờ cử mới.
Ở ngoài Bắc, (cọp) được gọi là Ông Ba Mươi. Sự tích là hễ ai săn được một con cọp thì làng xã thưởng cho ba mươi quan tiền. Đồng thời cũng đánh anh thợ săn nọ ba mươi hèo để vong hồn của cọp được thỏa mãn.
(Câu chuyện nầy chứng minh tên của con cọp còn là ông cả hay ông ba mươi và tại sao Cọp là Chúa tể sơn lâm).

* Chuyện "Con Cọp và Cậu Học Trò" của Sơn Nam.
Câu chuyện nầy được viết trong sách "Chuyện Xưa Tích Cũ" của Sơn Nam và Tô Nguyệt Đình với nguyên văn như sau:
Cậu học trò đi dạo chơi trên núi bỗng gặp một con cọp đang mắc bẫy. Cọp ta vùng vẫy la hét kêu cứu rằng:  'Tôi rủi lâm nạn, cậu làm ơn gỡ bẫy giùm. Tôi đền ơn xứng đáng, hằng ngày vác heo rừng, vác nai lại để câu làm tiệc. Trong rừng nầy có nhiều hột ngọc quí giá mà bấy lâu nay tôi chôn giấu dưới đất. Hễ được tự do thì tôi đào lên dâng cho cậu '.
Cậu học trò nọ vui mừng, phần thì muốn ra tay nghĩa hiệp phần thì muốn được của cảiquí báu nên tháo bẫy ra giùm.
Cọp được tự do, đi khoan thai trước mặt cậu trò rồi nghiêm nét mặt: Tao đói bụng quá,phải ăn thịt mầy mới được.
Cậu học trò cãi lại nhưng cọp không nghe. Xảy đâu một ông tiên hiện ra, tay cầm phấttrần chỉ ngay con cọp mà nói: Không được hổn láo, chuyện đâu còn có đó.
Biết đó là tiên giáng trần, cọp quì xuống mà nói: Thưa ngài, cậu học trò nầy phá tôi.
Ông tiên nói: Bây giờ cọp cứ yên lòng trở vào bẫy như cũ. Cậu học trò nầy phá bẫy nhưthế nào, để ta xét trị tội nó.
Dứt lời, cọp đi trở vào bẫy. Ông tiên gài bẫy lại rồi nói với cọp: Chuyện đâu còn có đóthì ta để đó. Mi ráng ở đây mà chịu chế
Rồi ông nói với cậu học trò:Cậu có lòng nhân đạo. Từ rày sắp tới phải cẩn thận. Cóòng nhân mà cũng phải có trí mới được, đừng nhẹ dạ nghe lời kẻ ác tâm.
(Câu chuyện nầy về sau được hậu thế sửa lại đôi chút để chứng tỏ trí khôn của con người)

 

* Bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ
*
Bài thơ Nhớ Rừng được trích một đoạn đăng trong Quốc Văn lớp 3 thời VNCH cho bài học
thuộc lòng. Đoạn nầy ngày nay được nhiều người lớn tuổi còn nhớ:
NHỚ RỪNG
.......
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả, cây già,
Tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài,
Trong chốn thảo hoa, không tên, không tuổi.
........

*
Đây là nguyên văn toàn bài thơ:
NHỚ RỪNG
Gậm một khối căm hờn trong củi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẵm,
Nay sa cơ, bị nhọc nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả, cây già,
Tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài,
Trong chốn thảo hoa, không tên, không tuổi
Nào những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặn ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy riêng ta vùng bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm bầu uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẽ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi chẳng mong còn thấy lại bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng kiêu hãnh của ta ơi!
(Thế Lữ) 1907-89
*
Bài thơ Nhớ Rừng là tuyệt tác. Có thể nói là một trong mươi bài Thơ Mới hay nhất.
Cái hay là ở cả Hình Thức và Nội Dung.
Về Hình Thức:
Dùng từ ngữ Hán Nôm phong phú Dùng chữ với nghĩa chính xác Dùng đúng chữ cho âm thanh của câu thơ tuyệt vời: tác giả áp dụng triệt để Luật Đổi Thanh của Thơ Mới mà còn chọn lựa từng chữ để có âm thanh rất hay khi đọc lên từng câu thơ.
Bài thơ có dàn bài đàng hoàng
Về Nội Dung thì Tứ thơ quá hay, diễn tả rõ ràng, rộng rãi và sâu đậm Cảnh vật và Tình Ý.
*
Bài thơ chi ra 4 phần như sau về Nội Dung:
NHỚ RỪNG
- Phần 1: Tình cảm hiện tại
Gậm một khối căm hờn trong củi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẵm,
Nay sa cơ, bị nhọc nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Tình cảm hiện tại: Ta (Hổ) giận hờn và khinh bỉ những thú loại chung quanh
- Phần 2: Cảnh vật quá khứ
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cõi sơn lâm, bóng cả, cây già,
Tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài,
Trong chốn thảo hoa, không tên, không tuổi
Nào những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặn ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi tắt mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy riêng ta vùng bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Ý về Cảnh vật quá khứ: Thiên nhiên: thật, đẹp và dễ thương + Ta (Hổ) tự do và hùng mạnh.
- Phần 3: Cảnh vật hiện tại
Nay ta ôm bầu uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Ý về Cảnh vật hiện tại: Nhân tạo: giả, xấu và đáng ghét
- Phần 4: Tình cảm về quá khứ
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi chẳng mong còn thấy lại bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng kiêu hãnh của ta ơi!
Tình cảm về quá khứ: Ta (Hổ) tuyệt vọng và mơ mộng
*
Thế Lữ làm bài thơ năm 1934 vào thời Pháp Thuộc, ví tình cảm và ý chí của mình như của con cọp sở thú về quá khứ và hiện tại.

Cảnh vật quá khứ (là Thiên nhiên) và hiện tại (là Nhân tạo) chính là đối tượng Tình Ý của Thế Lữ (=Ta). Trong thời gian bài thơ nầy ra đời, tôi nghĩ độc giả không thể nhận thức được Chính Trị đấu tranh trong bài thơ thí dụ như cảnh vật tự do hùng cường của nước VN trong quá khứ vì phần tả cảnh vật hiện tại không cho thấy rõ ràng cái "nô lệ và đàn áp". Hơn nữa đọc tới phần thứ tư thì chỉ là mơ mộng và tuyệt vọng về quá khứ. Người Pháp lúc đó cũng nghĩ như vậy nên không bỏ tù Thế Lữ.
Gần đây có tác giả ở ngoài nước mượn Con Cọp nầy để nói tới Tình Ý đấu tranh của riêng mình (chứ không phải của Thế Lữ) về Chính Trị hiện tại (thời VNCS) và quá khứ (thời VNCH). Điều nầy không hoàn toàn đúng nếu so sánh Hổ trong sở thú nhớ rừng và Người ở ngoài nước nhớ nước .


Đây là Thế Lữ dưới thời VNCS:
Ông Thế Lữ (1907-1989), sinh và chết ở Hà Nội, tên thật là Nguyễn Đình Lễ rồi đổi là Nguyễn Thứ Lễ. Còn có hiệu là Lê Ta tức là “Lê Ngã” (Ngã là tiếng Hán, Ta là tiếng Nôm) tứclà “lê” ngã “lễ”!
Sau khi tham gia và chỉ chuyên về kịch nghệ trong kháng chiến (1945-54), ông ở lại ngoài Bắc tiếp tục chuyên về Kịch Nghệ mà thôi chứ không làm một bài thơ nào nữa. Ông Thế Lữ lấy vợ lúc 17 tuổi. Người vợ đầu (lớn hơn ông 2 tuổi) dắt 3 đứa con nhỏ di cư vào Nam. Ông ở lại với đứa con cả và lấy vợ thứ nhì là một “Nghệ sĩ Nhân Dân”.

KHOA HỌC
Các loại Hổ chỉ có ở Á Châu. Hiện đại chỉ còn ước lượng 3890 con hổ và đa số qui tụ ở bán đảo Ấn Độ.
1. Hổ ở bán đảo Ấn Độ
Hổ Bengal (Panthera tigris tigris)
Ở Ấn Độ: 2,226 con
Ở Bangladesh: 106 con
Ở Nepal: 198 con
Ở Bhutan: 103 con

2. Hổ ở Trung Quốc
Hổ Siberia, hổ Amur, hổ Mãn Châu (Panthera tigris altaica): tuyệt chủng?
Hổ Hoa Nam (Panthera tigris amoyensia)
Ở Trung Quốc: >7 con

3. Hổ ở Đông Dương
Hổ Đông Dương, hổ Corbet (Panthera tigris corbetti)
Ở Campuchea: 0 con
Ở Lào: 2 con
Ở Việt Nam: <5 con

4. Hổ ở Đông Nam Á
Hổ Mã Lai (Panthera tigris jacksoni)
Ở Mã Lai: 250 con
Ở Thái Lan: 189 con
Ở Myanmar: ?

5. Hổ ở Indonesia
Hổ Bali (Panthera tigris balica): tuyệt chủng
Hổ Java (Panthera tigris sondaica): tuyệt chủng
Hổ Sumatra (Panthera tigris sumatrae)
Ở Indonesia: 371 con

6. Hổ ở Trung Đông
Hổ Ba Tư hay hổ Caspi (Panthera tigris virgata): tuyệt chủng?
Về màu da, hổ được chia ra làm 4 loại:
Bạch Hổ: da màu trắng
Hoàng Hổ: da màu vàng
Hắc Hổ: da màu đen
Thanh Hổ: da màu xám (Hùm xám)

Bs Phan Thượng Hải biên soạn và giữ bản quyền
Bài viết nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Học Thuật.

Tài liệu tham khảo:
- Cùng một tác giả (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com
1) Thơ và Việt Sử - Nhà Trần
2) Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc (Thế kỷ 19)
3) Hành Hương và Huyền Thoại Phật Thích Ca
4) Luận Ngữ và Triết học của Khổng Tử
5) Tục Ngữ Sưu Tập và Lược Giải
6) Thơ và Việt Sử - Tự Lực Văn Đoàn
- Khác tác giả
7) Từ Điển Thành Ngữ Điển Tích Trung Quốc (Nguyễn Tôn Nhan)
8) Thông Dụng Thành Ngữ Cố Sự (Vương An)
9) Trang Thơ Thi Viện Net (Google)
10) Chuyện Xưa Tích Cũ (Sơn Nam và Tô Nguyệt Đình)

Bs Phan Thượng Hải biên soạn và giữ bản quyền

PTH_HoangHoaTham.JPG

KHAI BÚT ĐẦU NĂM

Trương Ngọc Thạch, Phan Thượng Hải (2), Phan Kim Thành, Chánh Minh

______________________

 

KHAI BÚT ĐẦU NĂM 2022 (Nguyên bản)

Vừa đi hai đám cưới hôm nay

O-mí-cờ -roong mặc kệ mày.

Thánh lễ tiến hành theo hoạch định

Tiệc tùng hủy bỏ tránh lan lây.

Về nhà cởi áo thay đồ gấp 

Mở máy thả thơ gửi bạn ngay.

Năm Mới "22" mong tốt đẹp

Thân bằng, quyến thuộc dễ sum vầy.

(Trương Ngọc Thạch)

1/1/22

 

KHAI BÚT ĐẦU NĂM 2022 (Họa)

Đầu năm khai bút đoán năm nay

Nghĩ tới tương lai tái mặt mày

Tổng thống quốc gia càng lú lẫn

Tung hoành dịch bệnh vẫn hay lây

Putin tham vọng, người lo tránh

Trung Cộng tham tàn, chúng sợ ngay

Rối loạn thị trường và xã hội

Nhân tình chia rẽ khó vui vầy.

(Phan Thượng Hải)

1/2/22 

KHAI BÚT ĐẦU NĂM (Họa 2)

Đầu năm khai bút chúc năm nay

Chúc mọi người vui nở mặt mày

Chúc hết đau buồn, buồn sớm dứt

Chúc ngưng tật bệnh, bệnh thôi lây

Chúc tài lộc đủ lòng từ ái

Chúc phước đức lành dạ thẳng ngay

Chúc sống lâu dài ngoài tục lụy

Chúc cầu xin được đúng như vầy.

(Phan Thượng Hải)

1/3/22

 

Bài họa từ VIỆT NAM: 

 

KHAI BÚT (Họa)

Mỹ Trung thượng đỉnh mấy tuần nay

Dấu hiệu trên cơ rõ mặt mày

Ông Bảy khẽ cười đâu đã hết

Ông Bình ngầm bảo sẽ còn lây

Thế cờ vây hãm, nhìn ra vậy

Thương chiến gia tăng, thấy biết ngay 

Dự đoán ba năm gà vỡ trận 

Láng giềng khổ lụy, vẫn vui vầy.

(Phan Kim Thành)

1/3/21

  

ĐẦU NĂM KHAI BÚT (Họa)

 

Đầu năm khai bút viết đêm nay,

Dù có ai khen chẳng nở mày.

Đại dịch Cô Vi đang quậy phá,

Cờ-Rông biền thể đã tràn lây.

Trả lời thư điện* nên làm gấp,

Đọc được thơ hay bèn họa ngay.

Chúc bạn bè an vui, khỏe mạnh,

Gia đình sum họp thật vui vầy.

Chánh Minh

01/02/2022

PTH_NgAnNinh.JPG

NGUYỄN AN NINH

ĐỆ TỨ QUỐC TẾ 

pth_tathuthauPhanVhung.JPG

NGUYỄN AN NINH VÀ ĐỆ TỨ QUỐC TẾ 

                                         

                                      Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Bắt đầu từ ông Nguyễn An Ninh, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ có các ông Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu đã dùng báo chí để chống lại Thực Dân Pháp.

 

Nguyễn An Ninh

 

*

Từ năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc Dân Đảng (theo ông Vũ Hồng Khanh) phải dời sang Tàu.  Trong nước chỉ còn 2 Đảng Lập Hiến và Thanh Niên (của Vương Quang Nhường) ở Nam Kỳ đều là thân Pháp.  Tuy nhiên bắt đầu từ hoạt động của ông Nguyễn An Ninh, Nam Kỳ đã có những người dùng sách báo và diễn thuyết chống Pháp công khai về chính trị (thay vì dùng quân sự).  

 

*

Ông Nguyễn An Ninh (1900-1943) là con của ông Nguyễn An Khương sanh ở Cần Giuộc, Long An.  Ông Nguyễn An Khương, một dịch giả truyện Tàu nổi danh, có lập khách sạn Chiêu Nam Lầu (1908) ở Chợ Cũ, Sài Gòn là nơi kinh tài và trú ngụ của những người thuộc phong trào Duy Tân chống Pháp của ông Phan Châu Trinh.  

 

Năm 1918, ông Nguyễn An Ninh sang Pháp, học Đại Học có 1 năm (thay vì 4 năm) là đậu Cử Nhân Luật (?).  Năm 1920, ông gia nhập nhóm các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành hoạt động về báo chí chống chế độ thuộc địa đế quốc của Pháp.   

 

Ông Nguyễn An Ninh về nước năm 1922, diễn thuyết chống Pháp nhưng bị cấm nên trở lại Pháp vào năm 1923.  

Cùng năm đó (1923), ông trở về Sài Gòn nhờ tiền của ông Nguyễn An Khương mở tờ báo bằng tiếng Pháp tên là La cloche fêlée (Chuông Rè / The broken bell) để chống Pháp mà không bị kiểm duyệt (vì là báo bằng chữ Pháp) nhưng vẫn bị mật thám Pháp làm khó dễ và đe dọa nhân viên và độc giả nên năm sau (1924) tờ báo phải đóng cửa.  

Ông Nguyễn An Ninh lại sang Pháp dẫn ông Phan Châu Trinh về Sài Gòn (1925).  Ông nhờ ông Phan Văn Trường (đã về nước) làm chủ và mở lại tờ La cloche fêlée vì ông Phan Văn Trường (1876-1933) là công dân Pháp.  Tuy nhiên sau đó ông Nguyễn An Ninh vẫn bị bỏ tù 10 tháng (1926).  

Từ năm 1928 đến 1931, ông Nguyễn An Ninh có sang Pháp một lần rồi lại về nước, bị tù và được thả ra.  Trong thời gian nầy ông có một chí sĩ mới là ông Phan Văn Hùm.

 

Từ năm 1933, hoàn toàn ở lại Nam Kỳ, ông Nguyễn An Ninh cộng tác với báo La Lutte (Tranh Đấu) của nhóm Đệ Tứ Quốc Tế là các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch cũng như với báo Trung Lập của ông Nguyễn Văn Tạo thuộc Đệ Tam Quốc Tế.  

Ông Nguyễn An Ninh là linh hồn đấu tranh chống Pháp bằng báo chí nên ông bị tù vài lần nữa từ năm 1936.  

 

Năm 1939 ông bị tù lần thứ năm ở Côn Đảo và rồi chết ở đây vì kiệt sức vào năm 1943.  Khi đem xác đi chôn người ta tìm thấy trong túi áo của ông một miếng giấy ghi 2 bài thơ dưới đây:

 

SỐNG

Sống mà vô dụng sống làm chi

Sống chẳng lương tâm sống ích gì?

Sống trái đạo người, người thêm tủi

Sống quên ơn nước, nước càng khi

Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn

Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ

Sống sao nên phải, cho nên sống

Sống để muôn đời sử tạc ghi.

(Nguyễn An Ninh)

 

CHẾT

Chết sao danh tiếng vẫn còn hoài

Chết đáng là người đủ mắt tai

Chết được dựng hình, tên chẳng mục

Chết đưa vào sử, chữ không phai

Chết đó, rõ ràng danh sống mãi

Chết đây, chỉ chết cái hình hài

Chết vì Tổ Quốc người khen ngợi

Chết cho hậu thế đẹp tương lai.

(Nguyễn An Ninh)

 

Một nhà ái quốc chân chính coi cái “Sống” và cái “Chết” như nhau.  Ông Nguyễn An Ninh, sau ông Phan Châu Trinh, là những người vì dân vì nước cuối cùng đã thoát ra khỏi “Quân Chủ” (như ông Phan Bội Châu) chọn “Dân Chủ” nhưng chưa bị ảnh hưởng của một chủ thuyết nào (Quốc Dân của Tôn Dật Tiên, Đệ Tam hay Đệ Tứ Cộng Sản và sau nầy… Quốc Gia).

 

VỊNH NGUYỄN AN NINH

Chống Thực nung sôi giọt máu hồng (*)

Bốn mươi bốn tuổi trải gan trung

Nhân dân còn mắc vòng nô lệ

Khoa giáp màng chi miếng đỉnh chung (*)

Một thác Côn Sơn, bia vạn cổ

Bao lần "Chuông Bể", dội non sông (*)

Dân quyền đánh thức hồn dân tộc

Trước có Lư Thoa sau có ông. (*)

(Bút Trà)

 

(*) Chú thích:

Thực là Thực Dân Pháp.

Đỉnh=vạc, Chung=chuông.  Ở nhà giàu sang thì bày vạc và đánh chuông khi bữa ăn để mời khách.

Chuông Bể: tên tờ báo của Nguyễn An Ninh là La Cloche Fêlée

Lư Thoa = J. J. Rousseau, cha đẻ thuyết Dân quyền, viết quyển Contrat Social.

 

Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu

 

*

Các nhà cách mạng của người Việt bắt đầu ở Pháp từ thập niên 1910s-1920s với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền rồi đến ông Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành.  

Năm 1923, Nguyễn Tất Thành sang học ở Liên Xô và sau đó sang Tàu với tên là Lý Thụy rồi Nguyễn Ái Quốc rồi cuối cùng về Việt Nam năm 1945 với tên Hồ Chí Minh.  

Năm 1928, ông Nguyễn Thế Truyền (1889-1968) giao lại cho ông Tạ Thu Thâu rồi về nước sống với người vợ Pháp ở Nam Định.  Ông bị Pháp đày đi Madagascar (Mã Đảo) trong thời Đệ Nhị thế chiến (1940-1946) rồi được tha về và di cư vào Nam (1954).  Ông có ra tranh cử Phó Tổng Thống năm 1961 cùng liên danh với ông Hồ Nhật Tân.    

Ông Tạ Thu Thâu (1906-1945) sang Pháp vào năm 1927 theo ông Nguyễn Thế Truyền và trở thành Cộng Sản Đệ Tứ Quốc Tế ở Pháp (1929) cùng với các ông Phan Văn Hùm (1902-1946), Huỳnh Văn Phương (?-1945), Trần Văn Thạch (1905-1945).  Lúc đó cũng có nhóm Đệ Tam Quốc Tế ở Pháp gồm có Nguyễn Văn Tạo (1908-1970) và Trần Văn Giàu (1911-2010).  Các ông đều chống chính phủ Pháp trong việc xử tử ông Nguyễn Thái Học và các đồng chí năm 1930 nên lần lượt bị trục xuất hay trốn về nước.

 

*

Sau khi về Sài Gòn, nhóm Đệ Tứ Quốc Tế (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch) mở tuần báo Tranh Đấu (La Lutte) vào năm 1933 và Nguyễn Văn Tạo (Đệ Tam Quốc Tế) mở tờ báo Trung Lập.  

Có một người khác trong báo Tranh Đấu lại thuộc Cộng Sàn Đệ Tam Quốc Tế là Dương Bạch Mai (1904-1964).  Dương Bạch Mai sang Pháp cuối thập niên 1920, được đi học tập ở Liên Xô (như Nguyễn Tất Thành) từ 1929 đến 1932 thì về nước. 

Riêng Trần Văn Giàu (Đệ Tam Quốc Tế) chỉ âm thầm dạy học sau khi về nước ở Sài Gòn rồi được bí mật đưa sang học ở Liên Xô (1931-1933).  Pháp biết được nên bỏ tù Trần Văn Giàu 2 lần từ năm 1935.  Lần thứ nhì Trần Văn Giàu cùng với Tô Ký vượt ngục.  

Ông Huỳnh Văn Phương (Đệ Tứ Quốc Tế) về nước sống ở Bắc Kỳ, hoạt động cùng nhóm với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu.  Năm 1945, ông bị Việt Minh thủ tiêu.

Năm 1936, các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Nguyễn Văn Tạo đắc cử vào Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn.  

 

*

Tuy nhiên Pháp vẫn không để yên: các ông Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm, cũng như ông Nguyễn An Ninh, bị tù nhiều lần.  Từ năm 1932 đến 1940 ông Tạ Thu Thâu bị kết án 6 lần và ở tù 5 lần tổng cộng 13 năm với 10 năm biệt xứ.

Ông Phan Văn Hùm cũng bị tù nhiều lần.  Khi ngồi tù Khám Lớn ông có xướng họa với một nhà nữ cách mạng cùng chí hướng tên là cô Nguyễn Trung Nguyệt:

 

(Xướng)

Trăng tròn đâu sợ đám mây mù

Một bức trinh thơ giả ý ngu

Chịu tiếng lẳng lơ nhiều khuất phục

Biết mình trong sạch chẳng tâm tu

Anh hùng há luận cơn thành bại

Chí sĩ đành cam kiếp tội tù

Chỉ tiếc anh thơ công lỡ dở

Thiếu người ra chấp búa Trình Chu. (*)

(Phan Văn Hùm)

 

(*) Chú thích: Trình Hạo và Chu Hi (2 nhà Tân Nho Giáo thời Bắc Tống).

 

(Họa)

Lao lung dài chật khói mây mù

Thất bại đành cam lựa trí ngu

Cơm lức sơ sài tâm ráng luyện

Áo xanh tơ tải chí công tu

Sông non ngót đã trăm năm tội

Nước lửa đành cam mấy kiếp tù

Ánh thái dương còn còn ước vọng

Tre tàn măng mọc dễ gì tru.

(Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt)

 

Ông Phan Văn Hùm học ở đại học Sorbonne tốt nghiệp Cử Nhân và Cao Học về Triết Học, có viết quyển “Triết Lý Phật Giáo” và theo Cộng Sản Đệ Tứ Quốc Tế.  Bài thơ trên thấy ông cũng thiên về Nho Giáo.  Đúng là một nhà học giả trí thức.

 

*

Tới Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945), Pháp bắt giam hầu hết những người chống đối.  

Ông Nguyễn An Ninh chết ở Côn Đảo năm 1943.  Ông Phan Văn Hùm đi tù Côn Đảo (1939-1942) rồi quản thúc ở Tân Uyên.  Ông Tạ Thu Thâu cũng bị tù ở Côn Đảo (1940-1944), khi được thả thì ra hoạt động ở Bắc Trung Kỳ.  

Ông Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai đi tù Côn Đảo (1939-1943) rồi về bị quản thúc ở Tân Uyên.  Trong khi đó Trần Văn Giàu bí mật tái lập Xứ Ủy Nam Kỳ của Đông Dương Cộng Sản Đảng vào năm 1943 (thay thế Võ Văn Tần và Phan Đăng Lưu).

Ông Nguyễn Thế Truyền mặc dù sống như thường dân vẫn bị đày đi đảo Madagascar cũng như Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài (1941-46).

 

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp (9-3-1945), Trần Văn Giàu được Nhật giao cho cầm đầu Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ở Nam Kỳ với Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo.  Các ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch sau nầy cũng ở trong Mặt Trận.  

Ông Tạ Thu Thâu bị Việt Minh thủ tiêu ở Quảng Ngãi ngay sau khi Nhật cướp chánh quyền (9-3-45). 

 

Sau khi Pháp trở lại Đông Dương, Nhóm Đệ Tam Quốc Tế công khai trở thành Việt Minh và Đông Dương Cộng Sản Đảng dùng lực lượng vũ trang thủ tiêu Nhóm Đệ Tứ Quốc Tế gồm có các ông Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm và hàng trăm người khác ở Nam Kỳ (1945-1946).

Phong trào chống Pháp chân chính ở Nam Kỳ từ ông Nguyễn An Ninh rồi ông Tạ Thu Thâu cho đến ông Trần Văn Thạch và ông Phan Văn Hùm chỉ để lại những tấm gương hy sinh vì nước đáng kính và đáng mến?

 

*

Theo dòng lịch sử có 4 Liên Minh Cộng Sản quốc tế.

Đệ Nhất Quốc Tế (IWA=International Workingmen’s Association) thành lập ở London (năm 1864) và giải tán ở Philadelphia (năm 1876) với mục đích đoàn kết các nhóm xã hội chủ nghĩa khuynh tả, cộng sản, vô chính phủ và tổ chức công đoàn (union) trên thế giới. 

Đệ Nhị Quốc Tế thành lập ở Paris (năm 1889) là Liên minh quốc tế kết hợp các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới.  Nó không hoạt động trong Đệ Nhất Thế Chiến và phục hưng 2 lần (1923 và 1951).

Đệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập ở Moskva (Mạc Tư Khoa) vào tháng 3 năm 1919 và giải tán vào năm 1943, rồi tái sinh năm 1947 (từ Stalin) và giải tán năm 1956 (sau khi Stalin chết).  Đệ Tam Quốc Tế còn gọi là Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) là tổ chức của người Cộng Sản.  Cương lĩnh là Lật đỗ chế độ tư bản chủ nghĩa, Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và Thiết lập chuyên chính vô sản.  Từ năm 1919 đến 1943, nó họp 7 lần về những phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đấu tranh chống “phát xít”.

Đệ Tứ Quốc Tế còn gọi là Cộng Sản Đệ Tứ là liên minh của những người theo chủ nghĩa Trotsky chính thức thành lập vào năm 1938 tại Paris.  Đệ Tứ Quốc Tế theo khuynh hướng “cách mạng thường trực” do Trotsky khởi xướng sau khi Lenin chết vào năm 1924 để chống lại đường lối “cách mạng vô sản trong một quốc gia” của Stalin.  Do đó những người Trotkyist như các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… đã có trước khi Đệ Tứ Quốc Tế chính thức thành hình (1938).

Đệ Tam và Đệ Tứ Quốc Tế thành hình từ 3 người Cộng Sản thành công trong cách mạng Nga: Lenin, Trotsky và Stalin.  Trong thời Lenin, Trotsky cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế.      


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài viết nầy là một đoạn trong bài "Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc Thế kỷ 20" (Bs Phan Thượng Hải) đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com trong mục "Thơ và Sử" phần Thời Pháp Thuộc Thế kỷ 20.

   NHỮNG BÀI THƠ "SỐNG CHẾT" TRONG LỊCH SỬ

                                         

                                     Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Hậu thế thường truyền tụng một bài thơ ái quốc của ông Phan Bội Châu:

 

SỐNG

Sống tủi làm chi đứng chật trời

Sống nhìn thế giới hổ chăng ai

Sống làm nô lệ cho người khiến

Sống chịu ngu si để chúng cười

Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.

(Phan Bội Châu)

 

Tuy nhiên Tiền nhân ái quốc thường phải "Sống và Chết" trong cuộc đời đấu tranh cho chính nghĩa độc lập và tự do như các ông Đặng Văn Bá, Mai Xuân Thưởng và Nguyễn An Ninh.


 

Đặng Văn Bá

 

Gần đây lại có xuất hiện 2 bài thơ Sống Chết của bạn của ông Phan Bội Châu là ông Đặng Văn Bá (còn gọi là Đặng Văn Bách).

Ông Đặng Văn Bá (1873-1931) đậu Cử Nhân năm 1900 (cùng khóa với ông Phan Bội Châu).  Ông gia nhập phong trào Duy Tân với Phan Bội Châu và Ngô Đức Kế (1905) rồi bị đày Côn Đảo (1908-1916 hay 1921).  Được thả về ông sống ở Sài Gòn rồi ở Huế với ông Phan Bội Châu và sau cùng về sống ở quê nhà (Hà Tĩnh) đến khi qua đời.

Năm 1926 cái chết của ông Phan Châu Trinh gợi cảm hứng cho ông làm 2 bài thơ Sống Chết:

 

CHẾT

Chết mà vì nước, chết vì dân

Chết ấy làm trai hết nợ nần

Chết bởi Đông Chu thời thất quốc

Chết vì Tây Hán lúc tam phân

Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh

Chết tựa Trưng Vương phách hóa thần

Chết cụ Tây Hồ hồn chẳng chết

Chết mà vì nước, chết vì dân.

(Đặng Văn Bá)

 

SỐNG

Sống dại mà chi sống chật đời

Sống xem Âu Mỹ hổ chăng ai ?

Sống làm nô lệ cho người khiến

Sống chịu ngu si để bạn cười

Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống

Sống dại sinh chi đứng chật đời.

(Đặng Văn Bá)

 

Bài thơ “Sống” của ông Phan Bội Châu cũng hơi giống như bài thơ "Sống" của ông Đặng Văn Bá?

 

SỐNG                                                             SỐNG

Sống tủi làm chi đứng chật trời                      Sống dại mà chi sống chật đời

Sống nhìn thế giới hổ chăng ai                       Sống xem Âu Mỹ hổ chăng ai ?

Sống làm nô lệ cho người khiến                     Sống làm nô lệ cho người khiến

Sống chịu ngu si để chúng cười                      Sống chịu ngu si để bạn cười

Sống tưởng công danh không tưởng nước      Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời                          Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống                     Sống mà như thế đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.                      Sống dại sinh chi đứng chật đời.

(Phan Bội Châu)                                              (Đặng Văn Bá)


 

Mai Xuân Thưởng

 

Hai bài thơ "Sống Chết" của Đặng Văn Bá có lẽ chịu ảnh hưởng từ ông Mai Xuân Thưởng của phong trào Cần Vương.

 

Ông Mai Xuân Thưởng đi thi Cử Nhân ở trường Bình Định thì kinh thành Huế thất thủ (1885).  Nhiều sĩ tử bỏ thi nhưng ông vẫn tiếp tục thi và cùng 5 người khác được chấm đậu Cử Nhân.  Quan Chủ Khảo (khuyết danh) làm bài thơ khuyên những người thi đậu:

 

VÔ ĐỀ

Sơn hà phong cảnh dị tiền niên               Non sông rày đã khác xưa

Hoành giám du khan thử địa huyền        Gương nêu tài tuấn còn nêu chốn nầy

Hận mãn xương môn trần ám ngoại       Hận tràn cung khuyết bụi bay

Lệ linh văn viện bút đình biên                Tay cam dừng bút lệ đầy viện văn

Lịch truyền giáo dục ân như hải             Bao triều tắm gội biển ân

Bát giải thinh danh thẩm thự tiên           Phẩm tiên tám giải thêm phần thanh cao

Nhất dự y quan nan tự ủy                       Cân đai trót đã dự vào

Cương thường khán tử cố anh hiền        Cương thường noi dấu anh hào soi chung.

(Chủ khảo)                                              (? Dịch)

 

Tương truyền rằng đêm trước đó quan Chủ Khảo nằm mộng thấy 1 bà lão cho 1 cành mai trắng trổ bông nhụy vàng (tượng trưng là một quý nhân).  Sáng hôm sau ông đọc lại những bài thi thì thấy bài của ông Mai Xuân Thưởng là có chí khí nhứt và tên (Mai Xuân Thưởng) cũng hợp nên nghĩ rằng giấc mộng đó nói về ông nầy.  Quan Chủ Khảo nói riêng cho ông Mai Xuân Thưởng biết (về giấc mộng) do đó ông quyết tâm chống Pháp cứu nước.

Ông theo Tổng đốc Bình Định là ông Đào Doãn Định khởi nghĩa Cần Vương ở Bình Định.  Sau khi TĐ Đào Doãn Định bị bệnh mất (1885), ông Mai Xuân Thưởng trở thành lãnh tụ của Cần Vương ở Bình Định.  

 

Ông có làm bài thơ dưới đây trong khi đánh nhau với Pháp:

 

CHẾT NÀO CÓ SỢ

Chết nào có sợ chết như chơi

Chết bởi vì dân chết bởi thời

Chết hiếu chi nài xương thịt nát

Chết trung bao quản cổ đầu rơi

Chết nhân tiếng để vang nghìn thủa

Chết nghĩa danh thơm vọng mấy đời

Thà chịu chết vinh hơn sống nhục

Chết nào có sợ chết như chơi.

(Mai Xuân Thưởng)

 

Và bài thơ dưới đây trước khi bị hành quyết cùng với ông Bùi Điền:

 

NỢ TRAI

Không tính làm chi chuyện mất còn

Nợ trai lo trả ấy là khôn

Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước

Đá tạc lòng trung quý mấy hòn

Tái ngắt mặt gian xương tợ giá

Đỏ loè bia sách máu là son

Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới

Một nhánh mai già nảy rậm non.

(Mai Xuân Thưởng)


 

Nguyễn An Ninh

 

Hai bài thơ "Sống Chết" của Đặng Văn Bá từ Phan Châu Trinh cũng ảnh hưởng tới hai bài thơ "Sống Chết" sau nầy của 1 người bạn đồng chí hướng với Phan Châu Trinh là Nguyễn An Ninh, làm ngay trước khi qua đời.

 

Ông Nguyễn An Ninh (1900-1943) là con của ông Nguyễn An Khương sanh ở Cần Giuộc, Long An.  Ông Nguyễn An Khương, một dịch giả truyện Tàu nổi danh, có lập khách sạn Chiêu Nam Lầu (1908) ở Chợ Cũ, Sài Gòn là nơi kinh tài và trú ngụ của những người thuộc phong trào Duy Tân chống Pháp của ông Phan Châu Trinh.  

Năm 1918 ông Nguyễn An Ninh sang Pháp, học Đại Học có 1 năm (thay vì 4 năm) là đậu Cử Nhân Luật.  Năm 1920, ông gia nhập nhóm các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành hoạt động về báo chí chống chế độ thuộc địa đế quốc của Pháp.  

Ông Nguyễn An Ninh về nước năm 1922, diễn thuyết chống Pháp nhưng bị cấm nên trở lại Pháp năm 1923.  Cùng năm đó ông trở về Sài Gòn nhờ tiền của ông Nguyễn An Khương mở tờ báo bằng tiếng Pháp tên là La cloche fêlée (Chuông Rè/The broken bell) để chống Pháp mà không bị kiểm duyệt nhưng vẫn bị mật thám Pháp làm khó dễ và đe dọa nhân viên và độc giả nên năm sau (1924) tờ báo phải đóng cửa.  Ông Nguyễn An Ninh lại sang Pháp dẫn ông Phan Châu Trinh về Sài Gòn.  Ông nhờ ông Phan Văn Trường (đã về nước) làm chủ và mở lại tờ La cloche fêlée vì ông Phan Văn Trường (1876-1933) là công dân Pháp.  Tuy nhiên sau đó ông Nguyễn An Ninh vẫn bị bỏ tù 10 tháng.  Từ năm 1928 đến 1931, ông Nguyễn An Ninh có sang Pháp một lần rồi lại về nước, bị tù và được thả ra.  Trong thời gian nầy ông có một chí sĩ mới là ông Phan Văn Hùm.

 

Từ năm 1933, hoàn toàn ở lại Nam Kỳ, ông Nguyễn An Ninh cộng tác với báo La Lutte (Tranh Đấu) của nhóm Đệ Tứ Quốc Tế là các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch cũng như với báo Trung Lập của ông Nguyễn Văn Tạo thuộc Đệ Tam Quốc Tế.  Ông Nguyễn An Ninh là linh hồn đấu tranh chống Pháp bằng báo chí nên ông bị tù vài lần nữa từ năm 1936.  Năm 1939 ông bị tù lần thứ năm ở Côn Đảo và rồi chết ở đây vì kiệt sức năm 1943.  Khi đem xác đi chôn người ta tìm thấy trong túi áo của ông một miếng giấy ghi 2 bài thơ dưới đây:

 

SỐNG

Sống mà vô dụng sống làm chi

Sống chẳng lương tâm sống ích gì?

Sống trái đạo người, người thêm tủi

Sống quên ơn nước, nước càng khi

Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn

Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ

Sống sao nên phải, cho nên sống

Sống để muôn đời sử tạc ghi.

(Nguyễn An Ninh)

 

CHẾT

Chết sao danh tiếng vẫn còn hoài

Chết đáng là người đủ mắt tai

Chết được dựng hình, tên chẳng mục

Chết đưa vào sử, chữ không phai

Chết đó, rõ ràng danh sống mãi

Chết đây, chỉ chết cái hình hài

Chết vì Tổ Quốc người khen ngợi

Chết cho hậu thế đẹp tương lai.

(Nguyễn An Ninh)


 

Hậu thế ngày nay không cảm thông được Nghĩa Tử của người xưa nên thường chỉ biết bài thơ "Sống" của ông Phan Bội Châu.  Tiền nhân ngày xưa cũng có người chỉ có bài thơ "Chết" như của các ông Trần Cao Vân, Thủ Khoa Huân và Phan Thanh Giản.


 

Trần Cao Vân

 

Năm 1916, vua Duy Tân (1900-1945) mưu đảo chánh Pháp ở Huế và vùng phụ cận với hai ông Trần Cao Vân (1868-1916) và Thái Phiên (1882-1916) của Việt Nam Quang Phục Hội nhưng việc bị lộ và thất bại.  Ông Thái Phiên và Trần Cao Vân bị xử chém và Vua Duy Tân bị đày ra đảo Réunion với cha là vua Thành Thái.  Trước khi ra pháp trường, ông Trần Cao Vân có bài thơ:

 

CHẾT CHÉM

Đứa nào muốn chết chết như chơi

Chết vị non sông chết vị trời

Chết thảo bao nài xương thịt nát

Chết ngay há ngại cổ đầu rơi

Chết trung tiếng để ngoài muôn dặm

Chết nghĩa danh lưu đến vạn đời

Chết được như vầy là hả lắm

Ta không sợ chết hỡi ai ơi.

(Trần Cao Vân)


 

Thủ Khoa Huân

 

Ông Nguyễn Hữu Huân (1816-1875), người ở Chợ Gạo, Định Tường đi thi Cử Nhân đậu Thủ Khoa (còn gọi là Giải Nguyên) năm 1852.  Tuy là văn quan, ông đã khởi nghĩa Cần Vương chống Pháp ở Định Tường (1861-1875).  Dù bị bắt lưu đày rồi được tha nhiều lần cũng như được Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương giúp đỡ và dụ hàng nhưng ông Thủ Khoa Huân không bao giờ đầu hàng.  

 

KHI BỊ LƯU ĐÀY

Muôn việc cho hay ở số trời

Cái thân chìm nổi biết là nơi

Mấy hồi tên đạn ra tay thử

Ngàn dặm non sông dạo bước chơi

Chén rượu Tân đình nào luận tiệc

Câu thơ Cố quốc chẳng ra lời

Cang thường bởi biết mang tên nặng

Hễ đứng làm trai chác nợ đời.

(Thủ Khoa Huân)

 

KHI ĐƯỢC THA VỀ

Tòng cúc tuy mừng hãy đặng còn

Râu mày thêm thẹn với sông non

Miếu đường cách trở bề tôi chúa

Gia thất riêng mang nỗi vợ con

Áo Hán nhiều phần thay vẻ lạ

Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon

Giang Đông mang tiếng đa tài tuấn (*)

Cuốn đất kìa ai dám hỏi đon.

(Thủ Khoa Huân)

 

(*) Chú thích: 

Hạng Võ khi thua Lưu Bang thì được người Đình trưởng khuyên qua sông Trường giang sang Giang Đông sẽ có nhiều người theo giúp để đánh lại.  

 

Lần cuối cùng (1875) sau khi bị bắt ngồi tù trước khi bị đem ra pháp trường hành quyết, ông Thủ Khoa Huân có làm bài thơ dưới đây:

 

MANG GÔNG

Hai bên thiên hạ thấy hay không

Một gánh cang thường há phải gông

Oằn oại đôi vai quân tử trúc (*)

Long lay một cổ trượng phu tòng (*)

Thác về đất Bắc danh còn rạng

Sống ở thành Nam tiếng bỏ không

Thắng bại dinh hư trời khiến chịu (*)

Phản thần, “đụ hỏa” đứa cười ông 

(Thủ Khoa Huân)

 

(*) Chú thích: 

Từ câu "Trúc xưng quân tử, Tòng hiệu trượng phu".  Dinh hư=đầy vơi.


 

Phan Thanh Giản

 

Tháng 6, 1867, Thiếu tướng De La Grandière hội 1000 quân Pháp ở Mỹ Tho định tấn công Vĩnh Long.  Ngày 20-6-1867, De La Grandière đánh Vĩnh Long.  Quân đội nhà Nguyễn dưới quyền của quan Kinh lược Phan Thanh Giản thua mua quân Pháp nên Pháp chiếm 3 tỉnh Tây Nam Kỳ trong 4 ngày (từ 20 tới 24-6-1867).  Từ đó đất Nam Kỳ Lục Tỉnh thành ra đất thuộc địa của Pháp; thuế má, luật lệ, điều gì cũng do soái phủ ở Sài Gòn quyết định cả. 

Ông Phan Thanh Giản gởi trả áo mão cho triều đình.  Sau nửa tháng không thấy triều đình trả lời, ông phiền muộn lo lắng, nhịn đói và uống thuốc phiện với giấm thanh hằng ngày để tự tử.  Cuối cùng ông chết ngày 4-8-1867, thọ 72 tuổi.  Trong thời gian gần nửa tháng nầy, ông Phan Thanh Giản có làm bài thơ:

 

TUYỆT CỐC (*)

Trời thời đất lợi lại người hòa

Há dễ ngồi coi phải nói ra

Lăm trả ơn vua đền nợ nước

Đành cam gánh nặng ruổi đường xa

Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ

Vượt biển trèo non cám phận già

Những tưởng một lời an bốn cõi

Nào hay ba tỉnh lại chầu ba. (*)

(Phan Thanh Giản)

 

(*) Chú thích:

Tuyệt cốc = Nhịn (ăn) cơm

Đã không lấy lại được 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường mà còn mất thêm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com phần "Thơ Văn - Đọc Thơ".

 

Tài Liệu Tham Khảo

1) Phan Bội Châu (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Phong Trào Cần Vương (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

3) Nguyễn An Ninh (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

4) Thành Thái và Duy Tân (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

5) Trương Công Định và Thủ Khoa Huân (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

6) Phan Thanh Giản và Nguyễn Tri Phương (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

TU TÂM VÀ Ở HIỀN THEO PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA THIỀN TÔNG

 

                                             Bs Phan Thượng Hải biên soạn 

 

Sau khi biết "Không" (Sunya) là gì và biết "Bản Tâm" hay "Phật Tánh" (Buddha Nature) là gì, chúng ta có thể "tu tâm" và "ở hiền" theo giáo lý giác ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông mà không phải dựa vào hình thức và nhiều văn tự như Tứ Diệu Đế, Nhân Duyên Nghiệp Quả, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, Lục Độ, Thập Độ, Trí Tuệ Bát Nhã... hay gần đây nhất như Tọa Thiền và Chánh Niệm (theo Thiền sư Nhất Hạnh). 

"Tu tâm và ở hiền" chỉ cần dựa trên Tam Pháp Ấn (Vô Thường, Vô Ngã và Khổ), căn bản của Phật Giáo và giáo lý hóa độ chính của Phật Thích Ca trong Diệt Đế là "đoạn diệt mê hoặc" (Đoạn Hoặc).  

  

1) Tâm thức giác ngộ (của Thiền tông)

 

Tâm thức giác ngộ an tịnh không phiền não là:

         (Theo Không Tông) Tâm thức không bám chặc và ràng buộc (vô sở đắc = non-attached = vô sở trụ) vào sự vật tức là tự do, không chướng ngại (vô ngại = non hindrance) vào sự vật.

         (Theo Tánh tông) Tâm thức đồng nhất hay tuân theo bản tâm vô sở đắc (vô sở trụ) và vô ngại (tự do và dung hòa từ bi) đối với sự vật, và bản tâm có sẵn từ bẩm sinh trong mọi người.  

 

Theo Tánh Tông (và Thiền Tông), Tâm (Mind) của mỗi người gồm có Tâm Thức (Conscious Mind) là hoạt động của Tâm đối với đối tượng là sự vật bên ngoài của Tâm, và Bản Tâm (Nature Mind).  Bản Tâm còn được gọi là Phật Tánh (theo thuật ngữ Phật Giáo).

 

Theo Thiền tông (tổng hợp và dung hòa Không tông và Tánh tông), tâm thức vô minh hay giác ngộ là tùy theo nó tương quan với sự vật hiện hữu bên ngoài (như theo Không tông) và tương quan với bản tâm (như theo Tánh tông).

Tâm thức giác ngộ an tịnh (tranquil) không phiền não là:

         Tâm thức không vô minh bằng cách không bám chặc và không ràng buộc (vô sở đắc = non-attached = vô sở trụ) vào sự vật tức là tự do, không chướng ngại (vô ngại = non hindrance) vào sự vật (theo Không tông).  

         Tâm thức đồng nhất hay tuân theo bản tâm đã và luôn giác ngộ vô sở đắc (vô sở trụ) và vô ngại của mình, có sẳn từ bẩm sinh trong mọi người (theo Tánh tông).  

         Tâm thức trước hết phải không bám chặc vào sự vật (tương đối và chỉ là hiện tượng) thì sau đó tâm thức mới đồng nhất với bản tâm (luôn giác ngộ từ bẩm sinh) và như thế tâm thức giác ngộ (theo Thiền tông, tổng hợp và dung hòa Không tông và Tánh tông). 

 

Yếu chỉ của Thiền tông được thiền sư Triệu Châu tóm tắt trong bài kệ 4 câu, 2 câu cuối chính là nội dung giáo lý giác ngộ của Thiền Tông:

         Giáo ngoại biệt truyền

         Bất luận văn tự

         Trực chỉ nhân tâm

         Kiến tánh thành Phật

 

Pháp Bảo Đàn kinh của Thiền tông viết về tâm thức giác ngộ của Lục tổ Huệ Năng:

         Một ngày kia, Ngũ tổ (Hoằng Nhẫn) triệu tập môn đồ bảo rằng: “Sinh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sinh tử, tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được?  Các ngươi mỗi người hãy tự xem trí tuệ (huệ), dùng bản tâm Bát Nhã của tự tánh, mỗi người làm một bài Kệ trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý, thì ta sẽ truyền y bát cho làm Lục tổ (Tổ thứ sáu), hãy mau lên chẳng được chậm trễ, hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được.  Người kiến tánh vừa nghe phải liền thấy, nếu được như vậy thì khi ra trận giữa đao kiếm cũng phải thấy được”.

........

         Huệ Năng là người làm, chuyên về giã gạo từ 8 tháng nay, xin người đọc cho mình bài Kệ (của Thần Tú) vì ông không biết đọc.  Sau đó ông đọc bài Kệ của mình và nhờ người viết kế bên (bài của Thần Tú). 

    

                  Bồ đề bản phi thụ                          (Bồ đề vốn không là cây)

                  Minh kính diệc phi đài                  (Gương sáng cũng không đài gương) 

                  Bản lai vô nhất vật                       (Xưa nay không một vật)

                  Hà xứ nhạ trần ai.                        (Làm sao nhuốm bụi trần).

                  (Huệ Năng)

 

         Hôm sau Ngũ tổ (đã đọc bài Kệ của Huệ Năng) đến chỗ giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá giã gạo, nói rằng: “Người cầu đạo cần phải như thế” và hỏi: “Gạo trắng chưa?”.  Huệ Năng đáp: “Trắng đã lâu, còn thiếu sàng thôi”.  Tổ lấy gậy gõ trên cối 3 cái rồi bỏ đi.

         Huệ Năng hiểu ý nên canh ba vào thất (phòng của Tổ).  Ngũ tổ dùng cà sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết kinh (Bát Nhã) Kim Cang.  Khi đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ (đốn ngộ), vạn pháp chẳng lìa tự tánh.  

Huệ Năng liền bạch: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn chẳng lay động và tự tánh hay sanh vạn pháp”.  Tổ biết Huệ Năng đã ngộ nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bản tâm (thì) học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm thấy được bản tánh tức gọi là Trượng Phu, là Thiên Nhơn Sư, là Phật”.  

         Tổ truyền pháp đốn giáo và y bát và nói rằng: “Ngươi là Lục tổ khéo tự hộ niệm, độ khắp hữu tình, phổ biến lưu truyền cho đời sau đừng để đoạn dứt”.  

 

"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" có nghĩa là "Không nên bám chắc ở một chỗ mà sinh ra kỳ tâm".  Tự Tánh đồng nghĩa với Bản Tâm hay Phật Tánh.  

 

 

2) Đoạn hoặc và từ bi đối với sự vật (Thiền tông)

 

*

Tâm thức giác ngộ là tâm an tịnh (tranquil) không phiền não là nhờ:

         không tự ngã và không chấp ngã từ vô sở đắc (hay vô sở trụ) và vô ngại tự do 

         và không phân biệt giữa "ngã" và "không phải là ngã" từ vô ngại dung hòa. 

Điều nầy làm được vì tâm thức:

         không "trụ" (dính chặc ràng buộc) vào mọi sự vật bên ngoài tâm của mình, kể cả thân của mình 

         để rồi tuân theo và đồng nhất với bản tâm đã bẩm sinh giác ngộ của mình

 

Như thế, tâm thức giác ngộ (vô ngã) là:

         Tâm thức không tự ngã và không chấp ngã thì tâm thức đoạn diệt tình cảm: tham dục, sân và mạn.  Do đó tâm thức không tự ngã và không chấp ngã có thể gọi là tâm thức đoạn hoặc (đoạn diệt mê hoặc).

         Tâm thức dung hòa, không phân biệt giữa "ngã" và "không phải là ngã", chính là tâm thức có tình cảm từ bi.

         Khi tâm thức đoạn hoặc với sự vật, thì tâm thức từ bi theo bản tâm.

 

Như vậy, tâm thức giác ngộ để được an tịnh không phiền não là tâm thức đoạn hoặc và từ bi.

 

In Essentials of Buddhism, professor Kogen Mizuno writes:

         In the state of nonself, there can be no self-centered greed, unreasonable fear of others, hate, flattery, boasting, insult, anger, jealousy, or envy.  

         A person who has realized the nature of nonself can not bring harm to others, since actions are taken only after correctly considering both its immediate and its wider-ranging effects.  This is expressed as loving kindness and pity for all beings.  There is no conflict between self and others.  

         As the result, the state of nonself has been defined as the state of mind of an enlightened person.

 

(Dịch)

         Trong trạng thái vô ngã, không thể có tham lam ích kỷ, sợ hãi vô lý đối với người khác, thù ghét, nịnh bợ, khoe khoang tự phụ, lăng nhục, phẫn nộ giận dữ, ghen ghét hay ganh tỵ.

         Một con người thức ngộ tự tánh của vô ngã không thể làm hại những người khác, vì hành động chỉ được thực hiện sau khi nghĩ tới cả hai hậu quả tức thời và rộng rãi.  Đó được biểu lộ như lòng tử tế và thương xót cho tất cả chúng sanh.  Không có xung đột giữa mình và những người khác.

         Như vậy, trạng thái vô ngã được định nghĩa như là trạng thái của tâm giác ngộ.

 

*

Đoạn hoặc đối với tất cả mọi sự vật bên ngoài tâm của ta (all beings and all things) kể cả những sinh mạng hay sinh vật khác (all sentient beings), nhân mạng hay con người khác (human beings) và thân ta (trong sinh lão bệnh tử).

 

Đoạn Hoặc (Đoạn diệt mê Hoặc) là:

         Đoạn diệt Sân:

                  không phẫn nộ giận dữ (anger)

                  không thù ghét (hate)

                  không lăng nhục (insult) những người khác

                  không tổn hại (causing injury) những người khác

                  không độc ác (cruelty)

         Đoạn diệt Mạn:

                  không khoe khoang tự phụ (boasting)

                  không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

                  không nịnh bợ (flatterery) 

                  không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

         Đoạn diệt Tham Dục:

                  không tham lam ích kỷ (self-centered greed)

 

 

(Tham Dục)

Đoạn diệt Tham dục = không tham lamích kỷ (self-centered greed): 

         = không "tham dục" (tham muốn) riêng cho mình 

         = có "dục" (muốn hay ham muốn) nhưng không "tham" cái "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình

         = không "dục" (muốn hay ham muốn) cho riêng mình; một cách vô độ hay quá khao khát mãnh liệt không cưỡng lại được hay trói buộc ham muốn (= dục) lâu dài vào một đối tượng.

 

Tham dục = Tham muốn = Craving or Strong Desire = Tham Ái, Ái.

Tham, Tham lam = Greed

Tham dục = Tham, Tham lam

Dục = Muốn, Ham muốn = Desire

 

(Sân)

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Sân hay Giận (Anger) theo nghĩa đen là không vừa lòng (displeasure) và ghét (revulsion) một đối tượng (mà mình) không thích (dislike).

Từ Sân (hay Giận) còn phải Đoạn diệt những điều nặng hơn:

         Phẫn hay Giận dữ (Wrath) , thường có võ lực (violence).  Phẫn gần đồng nghĩa với Tức giận (Indignation) hay Nổi giận (Temper).

         Hận tức là Oán giận, Căm hờn (Enmity), thường do thù nghịch.

         Hại (Causing injury) làm tổn hại (sinh vật khác).

         "Độc" (Cruelty) là độc ác, hung dữ, tàn bạo, dã man.

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Sân =

         không phẫn nộ giận dữ (anger)

         không thù ghét (hate)

         không lăng nhục (insult)những người khác

         không tổn hại (causing injury) những người khác

         không độc ác (cruelty)

 

(Mạn)

- Theo Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên thủy:

Mạn = Kiêu ngạo (Pride = Màna)

Mạn khác với Kiêu (Arrogance = Mada).

         Mạn là tự kỷ coi mình hơn sanh mạng khác hay coi sanh mạng khác dưới hơn mình.  Mạn cần có sanh mạng khác để so sánh.  Mạn = Kiêu Ngạo (kiêu căng và ngạo mạn).

         Kiêu là tự kỷ coi mình là tối cao hơn hết (superior), không cần so sánh với chúng sanh.  Kiêu = Kiêu Hãnh.

Dĩ nhiên là nếu đoạn diệt Mạn thì cũng phải đoạn diệt Kiêu.

- Theo Thiền tông:

Đoạn diệt Mạn =

         không khoe khoang tự phụ (boasting)

         không ghen ghét (jealousy) hay ganh tỵ (envy)

         không nịnh bợ (flatterery) 

         không sợ hãi vô lý (unreasonable fear) đối với những người khác 

 

Thiền tông có đoạn hoặc (đoạn diệt tham dục, sân và mạn) giống như Phật Giáo Nguyên thủy nhưng dùng từ bi để thay thế trì giới của Phật Giáo Nguyên thủy.  

Đoạn diệt tham dục là điều rất tế nhị trong đoạn diệt mê hoặc nên cần có từ bi làm căn bản. 

 

*

Từ bi đối với sinh vật khác, người khác (và kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử).

Từ bi là:

         hiền lành (= Từ) với người và sinh vật khác, tức là nhẫn nhịn (forebearance) và không có xung đột (no conflict), do đó không làm hại người, sinh vật khác và thân mình.

         thương (= Bi) người khác và sinh vật khác, bằng thể hiện lòng tử tế (loving kindness) và lòng thương xót (pity), do đó giúp đỡ người, sinh vật khác và thân mình.

 

Người có tâm thức giác ngộ chính là Phật.  Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát. Như vật ý nghĩa của "đại từ bi" (great compassion) của Bồ tát khác với ý nghĩa của "từ bi" (compassion) của tâm thức giác ngộ.  Đại từ bi của bậc Bồ tát là hóa độ chúng sanh cũng giác ngộ như mình.

 

Thiền tông nhấn mạnh từ bi là từ Phật tánh (bản tâm) chứ không chỉ thể hiện bằng công đức.

Công án đàm thoại giữa Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Lương Vũ Đế viết về bản tâm từ bi và công đức của Phật tử (Thiền Luận quyển Hạ, trang 547):

 

         Lương Vũ Đế hỏi Đạt Ma (Tổ Bồ Đề Đạt Ma):

                  “Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay, đã xây dựng biết bao nhiêu chùa chiền, sao chép biết bao kinh điển và độ vô số tăng ni. Ngài nghĩ công đức của Trẫm như thế nào?”.

         Đạt Ma đáp (cộc lốc):

                  “Tâu Bệ hạ, chẳng công đức gì hết”

         Vũ Đế ngạc nhiên hỏi: 

                  “Tại sao thế?”

         Đạt Ma mới nói như vầy:

                  “Đó chỉ là những việc làm hạ đẳng, chỉ khiến cho người ta thác sinh vào các cõi trời, rồi cũng sẽ trở lại trần gian nầy nữa. Chúng vẫn còn mang những dấu vết của thế tục, như bóng theo hình. Dù chúng có vẻ thực, thì cũng chỉ là những pháp phi hữu.  Đối với công đức chân thật (thì) đầy đủ trí tuệ thanh tịnh (= trong sạch), viên mãn vi diệu, và bản tính chân thật của nó vượt ngoài sở tri (= cái hiểu biết) của người.  Do vậy đừng tìm cầu nó trong các công trình thế gian”.

 

Tác giả cũng xin có bài thơ tóm tắt giáo lý giác ngộ của Thiền tông:

 

         BỤT NHÀ 

         Bụt nhà, ai dám bảo không thiêng?

         Giác ngộ nhân tâm mạc vấn Thiền

         Phật tánh bẩm sinh phô trí tuệ (*)

         Tư duy đoạn hoặc thoát nhân duyên

         Khi ngưng sân mạn thôi tham dục

         Thì có từ bi hết muộn phiền

         Hành kiến thành tâm noi chánh đạo

         Thích Ca hoan hỉ, Bụt nhà thiêng.

         (Phan Thượng Hải)

         8/29/21

 

(*) Chú thích: Trí tuệ = hoàn toàn sáng suốt.

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

Bài nầy là một đoạn trong bài "Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Giáo Lý.

MÙA ĐÔNG TRÊN ĐẤT MỸ

Sau lễ Tạ Ơn Thu đã qua 

Mùa Đông lại đến khắp gần xa

Đông tàn, nghệ sĩ vương sầu cảm

Đông dạ, tình nhân biết tuổi già

Đông tuyết sơn hà tô sắc cảnh

Đông hàn thời tiết đãi mai hoa

Giáng Sinh chào đón mừng Năm Mới 

Nguyên Đán hồi Xuân ý thái hòa.

(Phan Thượng Hải)

11/26/21

 

(*) Chú thích: Lễ Tạ Ơn = Thanksgiving.  Giáng Sinh = Christmas.  Năm Mới = New Year.

 CHUYỆN KHOA CỬ THỜI XƯA

 

                                       Bs Phan Thượng Hải

* Thi cử đời nhà Lý

 

Thời nhà Đinh và nhà Tiền Lê, triều đình và hoàng gia không có tổ chức thi cử.

 

Năm 1075, Lý Nhân Tông (1072-1128) cho mở khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta gọi là khoa Tam Trường.  Người đỗ đầu khoa thi nầy là ông Lê Văn Thịnh.

Sau đó triều đình còn cho mở 5 khoa thi nữa vào những năm 1086, 1152, 1165, 1185, 1195.  

Năm 1165 thì gọi là khoa thi Thái Học Sinh vào thời vua Lý Anh Tông (1138-1175).

Năm 1195 là khoa thi Tam Giáo để tuyển những người tinh thông Nho, Lão, Phật vào thời Lý Cao Tông (1176-1240).  Người đỗ gọi là Tam Giáo xuất thân. 

Thể lệ và đề tài thi cử không rõ ràng trong thời nhà Lý.

 

* Thi Cử đời nhà Trần

 

Đời vua Trần Thuận Tông đặc biệt bắt đầu có thêm thi Hương (1396) cùng với thi Hội và thi Đình.  

Việc thi cử của nước Đại Việt có từ thời vua Lý Nhân Tông nhưng rất đơn giản trong thời nhà Lý.  Đến đời nhà Trần thì phức tạp hơn.  

Từ năm 1232 (đời vua Trần Thái Tông) mới có thi Thái Học Sinh ở kinh đô.  Người đậu Thái Học Sinh theo thứ bậc có Tam Giáp gồm Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ Tam Giáp.  

Từ năm 1237, chỉ lấy tối đa là 3 người đậu Đệ Nhất Giáp gọi là Tam Khôi: Trạng Nguyên (Trùm Đầu), Bảng Nhãn (Mắt Bảng) và Thám Hoa (Thăm Hoa).  

Từ năm 1246, định lệ cứ 7 năm thi Thái Học Sinh một lần.  

Từ năm 1304, người đậu đầu Đệ Nhị Giáp gọi là Hoàng Giáp.  

Từ năm 1374 (đời Trần Duệ Tông), người đậu Thái Học Sinh gọi là Tiến Sĩ rồi thêm một kỳ thi Đình (thi trong sân vua) để định thứ bậc Tam Khôi và Hoàng Giáp.  

Từ năm 1396, đời Trần Thuận Tông mới mở thi Hương ở các địa phương, ai đậu thì gọi là Cử Nhân và được vào kinh đô thi Thái Học Sinh (đổi là thi Hội) và (nếu) đậu thì là Tiến Sĩ và vào thi Đình để lấy Tam Khôi và Hoàng Giáp.  Cứ năm trước thi Hương rồi năm sau thi Hội và thi Đình, và cứ 7 năm một lần.  (Về sau vua Hồ Hán Thương đổi lại 3 năm một lần vào năm 1404 nhưng nước nhà bị Nhà Minh đô hộ năm 1407).  

 

* Trạng Nguyên Nguyễn Hiền

 

- Trong chuyện "Câu Đối Chí Khí" của mình, ông Petrus Trương Vĩnh Ký kể chuyện Trạng Nguyên Nguyễn Hiền mà ông không biết.

 

Đây là nguyên văn câu chuyện "Câu Đối Chí Khí" của ông Petrus Ký:

Ông huyện kia đi dọc đường, gặp một thằng con nít đi học về.  Thấy bộ mặt đứa sáng láng bảnh lảnh, mới kêu mà ra câu hỏi rằng:

Tự là chữ, cất dằn đầu, chữ tử là con, con nhà ai đó?

Đứa học trò chí khí đối lại liền:

Vu là chưng, cất ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa hỏi ta chi?

Ông huyện nghe biết đứa có chí lớn, bèn nói sau nó sẽ làm nên mà chớ.  Mà thiệt như làm vậy chẳng sai.

 

- Ngày nay chuyện hai câu đối trên có trong Lịch sử về Trạng Nguyên Nguyễn Hiền:

 

Năm Bính Ngọ (1246), Nguyễn Hiền đỗ đầu Thái Học Sinh, năm sau đỗ Trạng Nguyên lúc mới 13 tuổi.  Khi ra mắt nhà vua, vua thấy Nguyễn Hiền còn bé loắt choắt, ăn nói không đúng phép nên cho về nhà học lễ, ba năm sau sẽ bổ dụng.  Trạng Nguyên về được ít lâu thì có sứ nhà Nguyên sang đưa ra một bài thơ để thử nhân tài nước Đại Việt.  Cả triều đình đều chịu thua không ai hiểu ý của bài thơ.  Có quan tâu vua thử cho mời Trạng Hiền đến hỏi.  Vua đành sai sứ đến tận làng tìm Trạng Nguyên Nguyễn Hiền.  Tới làng thì sứ gặp một thằng bé đang đùa nghịch ở đầu làng liền hỏi thăm nhà Trạng Nguyên thì thằng bé cứ làm thinh.  Sứ thấy đứa bé ngộ nghĩnh nên đọc thử câu đối:

Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con ấy?

Đứa bé đối lại ngay:

Vu (于) là chưng, chặt ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?

Đối xong đứa bé bỏ chạy.  Sứ biết là quan Trạng nên theo tới nhà thì thấy quan Trạng đứng trong bếp, sứ lại đọc một câu nữa để trêu chọc:

Ngô văn quân tử viễn bào trù, hà tu mị táo

(Ta nghe người quân tử thường lánh xa nơi bếp núc, sao lại đi nịnh ông Táo?)

Quan Trạng liền đối:

Ngã bản hữu quan cư đỉnh nại, khả tạm điều canh

(Ta vốn là chức quan vào hàng Tể tướng, nhưng hãy tạm nếm canh!)

(Điều canh: nếm canh, có nghĩa bóng là làm Tể tướng do câu của vua Cao Tông nhà Thương nói với Phó Duyệt lúc cử Phó Duyệt làm Tể tướng).

Sứ khâm phục mời quan Trạng về Kinh đô nhưng quan Trạng từ chối nói rằng:

Trước nhà vua bảo ta không biết lễ (phép), nay chính nhà vua cũng không biết lễ.

Sứ về tâu lại, nhà vua phải mang xe ngựa, nghi trướng đến đón long trọng thì quan Trạng mới chịu đi.

Đến Kinh đô, Trạng Nguyên Nguyễn Hiền giảng giải bài thơ của sứ nhà Nguyên rõ ràng.  Nguyễn Hiền làm quan đến Công Bộ Thượng thư nhưng ông chết sớm (thọ 21 tuổi). 

 

* Nguyễn Trãi và Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh

 

Ông Nguyễn Trãi (1380-1442) là con của Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại của Tư Đồ Trần Nguyên Đán (đời vua Trần Nghệ Tông).  Ông có đậu Thái Học Sinh (Tiến sĩ) thời nhà Hồ (1400).  Hai cha con ông Nguyễn Phi Khanh (trước tên là Nguyễn Ứng Long) và ông Nguyễn Trãi đều làm quan với nhà Hồ.  Khi quân Minh chiếm nước ta (1407), ông Nguyễn Phi Khanh bị bắt về Tàu, nhưng không ai biết số phận và cuộc đời của ông Nguyễn Trãi ra sao cho đến năm 1420 khi ông Nguyễn Trãi cùng người bà con cô cậu là ông Trần Nguyên Hãn (cháu nội của ông Trần Nguyên Đán, cháu 5 đời của ông Trần Quang Khải) bắt đầu theo phò ông Lê Lợi ở Lỗi Giang (thuộc Thanh Hóa).    

Việt Nam Sử Lược của ông Trần Trọng Kim chỉ viết rằng: 

Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (Nam Kinh), ông Nguyễn Trãi theo đưa cha đến ải Nam Quan.  Ông Nguyễn Phi Khanh bảo rằng: “Con phải trở về mà lo trả thù cho cha và rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?”.  Từ đó ông Nguyễn Trãi trở về, ngày đêm lo việc phục thù cho đến năm 1420 thì gặp ông Lê Lợi.  

Thật ra không ai biết ông Nguyễn Trãi ở đâu, đi đâu và làm gì trong khoảng 1407-1420.  Đọc thơ của ông thì thấy ông Nguyễn Trãi đi khắp nơi kể cả bên Tàu.  Riêng ông Trần Nguyên Hãn thì không hề ra làm quan với nhà Trần hay nhà Hồ chỉ lang thang đi bán dầu.   

 

Lai lịch của ông Nguyễn Trãi cũng mơ hồ như câu chuyện có ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết cho năm 1385: 

Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông luôn trọng dụng Lê Quý Ly (sau nầy là vua Hồ Quý Ly).  Quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán sợ hậu họa nên kết thông gia, cho con trai lấy con gái ghẻ của Lê Quý Ly.  Ông có 2 người con gái.  Người con gái lớn là Trần thị Thái được ông mướn một thư sinh là Nguyễn Ứng Long dạy học.  Ông Nguyễn Ứng Long làm thơ hay nên cô Thái thương và có thai.  Ông Nguyễn Ứng Long sợ quá bỏ trốn.  Sau khi cô Thái đẻ xong, ông Trần Nguyên Đán gọi Ứng Long đến và nhắc chuyện Tư Mã Tương Như lấy góa phụ là Trác Văn Quân, nhờ bên vợ (giàu có và có quyền lực) nên học hành thi đậu và làm quan.  Ông Trần Ứng Long được vợ, chăm chỉ học hành và đậu Bảng Nhãn (đời nhà Trần).  Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông biết chuyện không cho làm quan.  

Sau nầy ông Nguyễn Ứng Long làm quan với vua Hồ Quý Ly và đổi tên là Nguyễn Phi Khanh.  Ông Nguyễn Trãi (sinh năm 1380) là con trưởng của ông Nguyễn Ứng Long như vậy có thể ông là đứa bé được sinh ra trong câu chuyện kể trên?

 

* Thi Cử đời nhà Hậu Lê

 

Nhà Hậu Lê trị vì lâu nhất và cũng sản xuất nhiều nhà khoa bảng nổi danh.

Năm 1434, vua Lê Thái Tông tái lập thi cử tuy cũng có ba kỳ thi giống như nhà Trần và nhà Hồ bắt đầu năm 1438 nhưng mãi đến 1442 mới có thi Hội và thi Đình.  

Năm 1448 đời Lê Nhân Tông bắt đầu có thay đổi cho thi Đình: Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp (Tam Khôi gồm có Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa) gọi là Cập Đệ, Đệ Nhị Giáp gọi là Chánh Bảng và Đệ Tam Giáp gọi là Phụ Bảng.  

Năm 1484 đời Lê Thánh Tông, Tiến Sĩ Chánh Bảng đổi là Tiến Sĩ và Tiến Sĩ Phụ Bảng đổi là Đồng Tiến Sĩ.  

Đến năm 1463 đời Lý Thánh Tông mới nhất định 3 năm có một kỳ thi (dĩ nhiên là năm trước thi Hương năm sau thi Hội và thi Đình).  

Năm 1463 người thi Hương đậu 4 trường gọi là Hương Cống (Cử Nhân khi trước) và đậu 3 trường gọi là Sinh Đồ.  Chỉ có đậu Hương Cống (Cử Nhân) mới được tiếp tục dự kỳ thi Hội.  

Sau nầy nhà Mạc vẫn tiếp tục như vậy còn nhà Lê Trung Hưng thì đến năm 1554 mới tổ chức thi cử (cũng giống nhà Lê Sơ).

 

* Trạng Nguyên Nguyễn Trực

 

Người đậu Trạng Nguyên đầu tiên của nhà Hậu Lê là ông Nguyễn Trực (1417-1474) vào năm 1442 trong kỳ thi có chủ khảo là ông Nguyễn Trãi (qua đời cùng năm 1442).  Ông Ngô Sĩ Liên, tác giả của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đậu Tiến Sĩ Phụ Bảng trong khóa nầy.  

Ông Nguyễn Trực, người làng Nghĩa Bang (nay thuộc Thanh Oai, Hà Nội), làm quan dưới 3 triều vua Thái Tông, Nhân Tông và Thánh Tông.  Theo ông Nguyễn Văn Tố trong báo Tri Tân số 28: Ông Nguyễn Trực, khi đi sứ bên Tàu, cũng dự thi và đậu Tiến Sĩ Cập Đệ nên đời bấy giờ gọi ông là “Lưỡng quốc Trạng Nguyên”.  

Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông có bài thơ tả đặc tính của ông Nguyễn Trực nói riêng và hầu hết các Trạng Nguyên (và khoa bảng) nói chung:

 

ĐIẾU NGHĨA BANG TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC

Đời dõi Nho tông phát ấp Bang (*)

Trong đạo đức, có từ chương

Nối dòng thi lễ nhà truyền báu

Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng

Nam Bắc hai triều danh dậy

Phong lưu một cửa họ sang

Từ đường ở đấy niềm tây lạnh

Dấu cũ càng thơm dạ có hương.

(Vua Lê Thánh Tông)

 

Đây là bài thơ theo thể Hàn Luật.


 

* Trạng Nguyên Lương Thế Vinh

 

Hậu thế thích nhất là ông Trạng Lường Lương Thế Vinh, còn gọi là Trạng Bình Dân.  Ông và ông Quách Đình Bảo nổi tiếng là người học giỏi ở vùng Sơn Nam (Thái Bình và Nam Định bây giờ).  Ông Quách Đình Bảo là người rất gắng công và chăm chỉ học hành còn ông Lương Thế Vinh thì thông minh, không cố gắng học nhiều nhưng đi thi thì đậu đầu (Trạng Nguyên) còn ông Quách Đình Bảo lại đậu thứ ba (Thám Hoa).  Vua Lê Thánh Tông rất bằng lòng về khóa thi của hai ông (năm 1463):

 

Trạng Nguyên Lương Thế Vinh

Bảng Nhản Nguyễn Đức Trinh

Thám Hoa Quách Đình Bảo

Thiên hạ cộng tri danh.

(Lê Thánh Tông)

 

Tuy nhiên vua Lê Thánh Tông là người biết dụng nhân tài.  Vua là một nhà lãnh đạo rất giỏi tự quyết đoán và dùng quân sự để củng cố và thi hành đường lối chính trị của mình với ba ông tướng tài trung thành là các ông Nguyễn Xí, Đinh Liệt và Lê Niệm.  Ông Quách Đình Bảo làm quan cũng như ông chăm học nên đường hoạn lộ rất dài, làm đến chức Hình Bộ Thượng Thư.  Vua Lê Thánh Tôn chỉ dùng ông Lương Thế Vinh trông coi viện Hàn Lâm lo về văn hóa và giao thiệp ngoại giao mà thôi.  Ông Lương Thế Vinh là người phóng khoáng cáo quan về nghỉ sớm, vui sống bình dân ở quê quán là làng Cao Lương (còn gọi là Cao Hương, nay thuộc Vụ Bản, Nam Định).

 

Ngoài tài về văn chương ông Lương Thế Vinh còn giỏi về âm nhạc, Phật học và nhất là toán học với 2 quyển: Đại Thành toán pháp và Khải Minh toán học.

Hậu thế có truyền tụng câu chuyện dưới đây:

Sứ Tàu là Chu Hi đố ông Lương Thế Vinh làm sao biết cân nặng (trọng lượng) của một con voi vì không có cái cân nào đủ lớn để làm được việc đó.  Ông Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên mạn thuyền sau đó dắt voi lên bờ.  Tiếp theo ông bỏ đá cục vào thuyền cho đến lúc thuyền chìm xuống tới đúng dấu cũ.  Thế là ông cho cân các cục đá là ra kết quả cân nặng của con voi.  Khi Chu Hi khen ngợi sáng kiến của ông Lương Thế Vinh thì ông trả lời rằng tôi học cách trên từ một người Tàu tên là Tào Xung, con của Tào Tháo!

 

Câu chuyện trên cho thấy là ngoài Toán học ông Lương Thế Vinh còn giỏi về Vật Lý.  Tuy nhiên sứ Tàu nầy không phải là Chu Hi.  Chu Hi (1130-1200) làm quan nhà Tống, một nhà Tân Nho Học nổi danh cùng với anh em Trình Hạo và Trình Xuyên.  Sứ Tàu gặp ông Lương Thế Vinh (1441-1496) phải là từ nhà Minh!

 

Vua Lê Thánh Tông có thơ khen ông Lương Thế Vinh:

 

ĐIẾU CAO LƯƠNG LƯƠNG TRẠNG NGUYÊN 

Chiếu thơ Thượng Đế xuống xem (đêm) qua

Gióng khách (khánh) tiên đài kíp tới nhà

Cẩm tú mấy hàng về động ngọc

Thánh hiền ba chén thấp hồn hoa

Khí thiên đã lại thu sơn nhạc

Danh lạ còn truyền để quốc gia

Khuất ngón tay than tài cái thế

Lấy ai làm Trạng nước non ta!

(Vua Lê Thánh Tông)

 

* Thi Cử đời nhà Nguyễn

 

Thi cử đời nhà Nguyễn cũng giống như nhà Hậu Lê nhưng không có lấy Trạng Nguyên (đậu đầu kỳ thi Đình gọi là Đình Nguyên, Tiến Sĩ đậu đầu trường thi Hội gọi là Hội Nguyên và Cử Nhân đậu đầu trường thi Hương gọi là Giải Nguyên hay Thủ Khoa).  Thi Hương thời nhà Nguyễn bắt đầu đời Gia Long 1807.  Thi Hội và thi Đình bắt đầu năm 1822 đời vua Minh Mạng.  Lúc đầu cứ 6 năm thi một lần nhưng từ năm 1825 thì cứ 3 năm một lần.  

Năm 1828, triều đình đổi lại Hương Cống là Cử Nhân và Sinh Đồ là Tú Tài (cho kỳ thi Hương).  Năm 1829, ở kỳ thi Hội ngoài Tiến Sĩ và Đồng Tiến Sĩ triều đình còn lấy thêm một bậc thấp hơn gọi là Phó Bảng.  Có một ông Phó Bảng rất nổi danh là ông Phan Châu Trinh.  

 

* Tiến Sĩ Phan Thanh Giản

 

Thời nhà Nguyễn, kỳ thi Hội đầu tiên vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) không có người Nam Kỳ nào đậu Tiến sĩ.  

Sang kỳ thứ 2 vào năm 1826, trong hơn 200 thí sinh (đã đậu Cử nhân), 9 người đậu Tiến sĩ đều là người Bắc Hà.  Vua Minh Mạng khuyên ban giám khảo nên chấm đậu thêm 1, 2 người từ Thừa Thiên trở vào Nam (Nam Hà).  Kết quả là được thêm 1 người nữa: đó là thí sinh Phan Thanh Giản thuộc tỉnh Vĩnh Thanh lúc bấy giờ (sau nầy là 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang) thuộc Nam Kỳ.  Đỗ đầu kỳ thi Hội nầy là Hội Nguyên Đặng Văn Khải quê ở Bắc Ninh.  

Vào thi Đình (chính vua Minh Mạng làm Chủ khảo), hai người đậu Hoàng Giáp (Đệ Nhị Giáp Tiến Sĩ) là ông Hoàng Tế Mỹ và ông Nguyễn Huy Hựu.  Ông Hoàng Tế Mỹ đỗ đầu tức là Đình Nguyên Hoàng Giáp (trên ông Hoàng Giáp Nguyễn Huy Hựu).  Không ai đậu Bảng Nhãn hay Thám Hoa và dĩ nhiên nhà Nguyễn không lấy Trạng Nguyên.  Tám người còn lại đậu Đệ Tam Giáp Tiến Sĩ, ông Phan Thanh Giản lại đậu hạng nhất trong 8 người nầy và Hội Nguyên Đặng Văn Khải đứng hạng thứ 5. 


 

* Thời Pháp Thuộc

 

Vào đầu thế kỷ 20, chữ Hán, chữ Nôm, Nho học và thi cử của nhà Nguyễn trở thành lỗi thời.  Nạn nhân và chứng nhân là ông Tú Trần Tế Xương:

 

CHỮ NHO

Nào có nghĩa (ra) gì cái chữ Nho

Ông Nghè ông Cống cũng nằm co (*)

Chi bằng đi học làm thầy Phán

Tối rượu sâm banh sáng sữa bò.

(Trần Tế Xương)

 

(*) Chú thích: Ông Nghè là đậu Tiến Sĩ, ông Cống là đậu Cử Nhân còn ông Đồ hay ông Tú là đậu Sinh Đồ hay Tú Tài.  

 

THAN NHO HỌC

Cái học nhà Nho đã hỏng rồi

Mười người đi học chín người thôi

Cô hàng bán sách lim dim ngủ

Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo

Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi

Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ

Trình có quan (ông) tiên thứ chỉ tôi. (*)

(Trần Tế Xương)

 

(*) Chú thích: Tiên Chỉ và Thứ Chỉ = chức sắc của những khoa bảng ở địa phương.

 

ĐỔI THI

Nghe nói khoa nầy sắp đổi thi

Các thầy đồ cổ đỗ mau đi

Dẫu không bia đá còn bia miệng

Vứt bút lông đi, giắt bút chì.

(Trần Tế Xương)

 

Năm 1869, chính quyền thuộc địa Pháp chính thức dùng chữ Quốc Ngữ (thay thế chữ Nho) trong các công văn ở Nam Kỳ.  Năm 1879, chữ Quốc Ngữ là chữ độc nhất dùng trong tất cả văn kiện và trong chương trình giáo dục.  Dĩ nhiên từ khi thành thuộc địa của Pháp thì không còn thi Hương ở Nam Kỳ.  Chữ Quốc Ngữ dùng trong giáo dục ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (?) từ năm 1910.  

 

Năm 1915 có khoa thi Hương cuối cùng ở Bắc Kỳ.  Đến đời vua Khải Định (1916-1925), khóa thi Hương cuối cùng chỉ ở 2 chỗ (Nghệ An và Bình Định) vào năm 1918.  Khóa thi Hội cuối cùng vào năm 1919.  Ngày 21-12-1917, Nha Tổng Giám Đốc Học Chánh Đông Dương ban bố học quy mới gồm 3 bậc Tiểu Học, Trung Học và Đại Học áp dụng cho toàn cõi Đông Dương cho đến khi chánh phủ Trần Trọng Kim nắm chính quyền năm 1945. 

 

Giới sĩ phu hết còn ông Nghè, ông Cống và ông Đồ, nhưng cậu Ấm như ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng là nạn nhân.

 

THƯ KHÓC TẾT CỦA HAI ÔNG ĐỒ

(Xướng)                                                      (Tự Họa)

Ngoảnh đi ngoảnh lại lại đến Tết               Giời ơi! Ới Tết ơi là Tết!

Ông đến độ nầy là hết chết                         Bác hãy còn hơn, tôi mới chết

Giời cao đất thấp vợ chưa về                     Gạo tẻ đong chịu nếp thời không

Tháng tận năm cùng gạo cũng hết             Áo vợ rách tan chồng cũng hết

Cỗ bàn duy có ba ông công                        Con theo tận nách mếu môi sò

Su kẽm cũng không một vảy hến               Nợ réo ầm tai câm miệng hến

Mà ra lúc quẫn văn càng hay                     Giời còn để sống đến trăm năm

Lại được một bài thơ khóc Tết.                  Lại mấy mươi bài thơ khóc Tết.

(Tản Đà)                                                      (Tản Đà)

 

* Trường Hậu Bổ

 

Bắt đầu thế kỷ 20, chính quyền thuộc địa Pháp cũng “duy tân” cho Bắc Trung Kỳ.  

Về chính trị, Pháp mở trường đào tạo người Việt làm việc cho Pháp trong những chức vụ cao cấp.  

Đầu tiên là Trường Thông Ngôn (mở năm 1862 ở Nam Kỳ) dùng ông Trương Vĩnh Ký làm Hiệu Trưởng.  Ở Nam Kỳ, Trường Tham Biện Hậu Bổ Sài Gòn (Collège Des Administrateurs Stagiaires) mở năm 1873 thay thế Trường Thông Ngôn và đóng cửa vào năm 1887.  Từ đó người Nam Kỳ phải sang Pháp học Trường Thuộc Địa ở Paris (École Coloniale à Paris).  Chỗ Trường Hậu Bổ Sài Gòn ngày nay là Trường Võ Trường Toản và Bộ Giáo Dục (thời VNCH).

Ở Bắc Kỳ thì có trường Hậu Bổ Hà Nội (École Des Aspirants mandarins) (1903-1912) rồi đổi thành Trường Sĩ Hoạn (École Des Mandarins) (1912-1917).  Ở Trung Kỳ có Trường Hậu Bổ Huế (École D’Administration) (1911-1917).  Sau đó chỉ còn Trường Pháp Chế Đông Dương (École de Droit et d’Administration) ở Hà Nội từ năm 1917 cho người Bắc và Trung Kỳ nhưng người dân chỉ quen gọi là “Trường Hậu Bổ”.

 

Khi không còn thi cử chữ Nho của triều đình nhà Nguyễn nữa, ông Tản Đà cũng thử thời vận với trường Hậu Bổ.  

 

HỎNG THI VÀO TRƯỜNG HẬU BỔ

Mỗi năm Hậu Bổ một lần thi

Năm ngoái năm xưa tớ cũng đi

Cử, Tú, Ấm sinh, vài chục kẻ

Tây, Ta, Quốc ngữ, bốn năm kỳ

Đĩa nghiên lọ mực bìa bao sách

Thước kẻ đanh ghim ngọn bút chì

Lại đến O-ran là bước khó (*)

Mình ơi, ta bảo “có thi thì…

(Tản Đà)

 

(*) Chú thích: O-ran (Oral) là thi vấn đáp. không phải thi viết.

 

Ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ trường Hậu Bổ.


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Tài liệu tham khảo từ phanthuonghai.com (cùng một tác giả):

1. Thơ và Việt Sử - Nhà Trần

2. Thơ và Việt Sử - Nhà Lê

3. Thơ và Việt Sử - Nhà Nguyễn

4. Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc thế kỷ 19

5. Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc thế kỷ 20

6. Truyện Cười Cổ Điển từ Petrus Ký.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

TỪ NGỮ "KHÔNG" CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

 

Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

*

Khi nói đến Phật Giáo, Phật tử có hiểu biết thường nói đến câu: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" với sự hiểu biết: từ ngữ "không" trong câu nầy có nghĩa thông thường là "hư không" (nothingness) hay "không có" (non - existence).  Đó là điều sai lầm từ căn bản.  

Câu nầy từ Bát Nhã Tâm Kinh mà bá tánh đọc trong lễ chùa Đại Thừa.  Từ ngữ "không" trong câu "sắc tức thị không, không tức thị sắc" có nghĩa khác theo Phật Pháp.  Nếu ta hiểu được từ ngữ "không" nầy thì sẽ hiểu được giáo lý giác ngộ của Không Tông, giáo lý giác ngộ căn bản sơ khởi của Đại Thừa. 

 

*

Thiền tông (tổng hợp và dung hòa Không Tông và Tánh Tông) áp dụng quan niệm về sự vật của Không tông trong Bát Nhã Tâm kinh.

Sự vật bên ngoài tâm của ta gồm luôn cả con người khác, sinh vật khác và thân của ta.

 

- Sự vật hiện hữu vì chúng tích tụ trong giác quan và tâm của ta. Đó là Ngũ uẩn (5 "cái" tích tụ = 5 aggregations).

            Tất cả mọi sự vật hữu thể (thế giới vật chất) gọi là Sắc, tích tụ trong giác quan của ta gọi là Sắc uẩn.

            Tất cả mọi sự vật tâm thần (thế giới vô thể) gọi là Danh, tích tụ trong tâm của ta gồm có Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.  Thọ, Tưởng, Hành, Thức chính là hoạt động của tâm ta.

            Thọ(Thụ) = cảm giác (sensation).

            Tưởng = tri giác (perception).

            Hành = tất cả những hoạt động khác của tâm ngoài Thọ, Tưởng và Thức (other mental constituents).

            Thức= nhận thức (cognition).

 

- Sự vật là hiện tượngvì chúng là 6 đối tượng của 6 giác quan của ta và tâm thức (có 6 phần) của ta.  Đó là 18 Giới (theo từ ngữ Phật Giáo).

 

Ngay từ Phật Thích Ca của Phật Giáo Nguyên Thủy cho đến Thiền tông, sự vật hiện hữu đồng nghĩa với hiện tượng.  Tất cả mọi sự vật hiện hữu hay hiện tượng được thể hiện bằng từ ngữ "Ngũ uẩn" hay "18 giới".  Sự vật, gọi tắt của sự vật hiện hữu, là hiện tượng của tâm ta bao gồm luôn thân ta trong sinh lão bệnh tử.

 

Sự vật = being and/or thing.  

Tất cả mọi sự vật = all beings and things.

Sự vật hiện hữu = element of existence.  

Tất cả mọi sự vật hiện hữu = all elements of existence = Vạn hữu.

Hiện tượng = phenomenon = dharma = Pháp.

Tất cả mọi hiện tượng = all phenomena = all dharmas = Vạn pháp.

(Như vậy, vạn pháp đồng nghĩa với vạn hữu, theo Phật Giáo.  "Pháp" ở đây không có nghĩa là "doctrine")

 

Phật Giáo từ Phật Giáo Nguyên Thủy có chia Vạn Pháp ra làm 2:

            Hữu Vi Pháp = mọi hiện tượng của sự vật tùy thuộc Nhân Duyên Nghiệp Quả.

            Vô Vi Pháp = hiện tượng của sự vật thoát khỏi Nhân Duyên Nghiệp Quả.

 

Hữu Vi Pháp = Conditioned Dharmas = Samskrta-dharma

Vô Vi Pháp = Unconditioned Dharmas = Asamskrta-dharma

 

Tất cả mọi sự vật hiện hữu (vạn hữu) hay tất cả mọi hiện tượng (vạn pháp) đều không có "ngã" (nature), đồng nghĩa với "vô ngã" của Phật Giáo bắt đầu từ Phật Giáo Nguyên Thủy. 

Không tông muốn cho rõ hơn nên gọi là "không có tự tánh" (without nature), đồng nghĩa với "tánh Không" (sùnyatà).  

Đó là lý thuyết Không (sùnya) của Không Tông.  Không (sùnya) của Không Tông chẳng có nghĩa là "hư không" (nothingness) hay "không có" (non-existence).

            

Without nature = vô ngã (của sự vật hay hiện tượng) = tánh Không = không có tự tánh

Nature = ngã = tự tánh 

 

Sự vật hiện hữu (sự vật) hay hiện tượng thì vô ngã (hay tánh Không) nên phải vô thường.  Như vậy mọi sự vật hay hiện tượng thì tương đối (relative), gồm vô ngã và vô thường:

            . vô ngã = không hoàn toàn, không thuần túy, không chuyên chế và không độc lập, và phải tương quan với những sự vật hiện hữu hay hiện tượng khác.

            . vô thường (impermanent) = không thường hằng (not permanent) = không tự sinh khởi; không cố định, phải thay đổi và biến hóa; không vĩnh cữu và phải hoại diệt. 

 

Bát Nhã Tâm kinh viết về lý thuyết Không như sau:  

            Khi Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara) thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, soi thấy rằng có ngũ uẩn và thấy Ngũ uẩn không có Tự tánh (Sùnyatà) trong chúng.

            Này Xá Lợi Phất (Sariputra): sắc ở đây là Không, Không là sắc; sắc không khác Không, Không không khác sắc; sắc tức thị là Không, Không tức thị là sắc.  Thọ, tưởng, hành, thức (đều) cũng vậy.

            Này Xá Lợi Phất: Hết thảy các Pháp ở đây (= Vạn Pháp) được biểu thị là Không (Sùnya).  Chúng không sinh, không diệt, không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm

            Vì vậy này Xá Lợi Phất; trong Không (Sùnya),

                        không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; 

                        không nhãn giới cho tới không có ý thức giới; 

                        cho tới không có tuổi già (= lão) và sự chết (= tử), không có sự tận diệt của tuổi già và sự chết;....

 

Chú thích:

            Ngũ uẩn = Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

            18 Giới = Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp tương đương với Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý; từ Nhãn giới tới Ý thức giới.

 

Tóm lại, theo Không tông, mọi sự vật hiện hữu (kể cả thân ta trong sinh lão bệnh tử):

            đều là hiện tượng (= đối tượng của giác quan và tâm ta), 

            và tương đối (relative) vì chúng là vô ngã hay tánh không (without nature) và vô thường (impermanent).  

Giáo lý như trên của Không tông trong kinh Bát Nhã gọi là thuyết Không (Sùnya) và sau nầy Thiền tông trong kinh Lăng Già gọi là Pháp vô ngã.

 

Cứu cánh của Phật Giáo là hết khổ.  Cứu cánh của Phật Giáo Đại Thừa là tâm con người hết phiền não.

 

- Nguyên nhân của khổ (của phiền não) là tất cả mọi sự vật đều là hiện tượng đối với tâm ta và đều là tương đối (relative) vì chúng đều vô ngã hay không có tự tánh (without nature) và vô thường (impermanent).  Tâm của ta dính chặc và ràng buộc (sở đắc = attached) hay bám chặc (sở trụ) vào sự vật tức là bị chướng ngại (= hindrance) bởi sự vật tương đối (vô ngã và vô thường) và chỉ là hiện tượng; thì tâm ta sẽ phiền não (khổ).

Tất cả mọi sự vật hiện hữu là đối tượng của tâm ta bao gồm luôn cả mọi sinh vật khác, mọi người khác và kể cả thân ta. 

 

- Do đó tâm giác ngộ an định không phiền não là không bám chặc và ràng buộc (vô sở đắc = non-attached = vô sở trụ) vào sự vật tức là tự do, không chướng ngại (vô ngại = non hindrance) vào sự vật.  

(Không tông không có phân biệt tâm thành ra tâm thức và bản tâm và không biết đến bản tâm. "Tâm" của Không tông là đồng nghĩa với "tâm thức" của Tánh tông)

 

Bát Nhã Tâm kinh của Không tông viết về tâm giác ngộ (Bát Nhã Ba La Mật Đa) như sau:

            Trong Không (Sùnya), không có Trí, không có Đắc (= vô sở đắc) và không có Chứng bởi vì không có Đắc.  Trong Tâm của Bồ Tát an trụ trên Bát Nhã Ba La Mật Đa không có những Chướng ngại (= vô ngại); và bởi vì không có những Chướng ngại trong Tâm đó nên không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt tới Niết bàn.

            Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai do y (dựa) trên Bát Nhã Ba La Mật Đa mà chứng đắc Giác ngộ viên mãn tối thượng.

 

Với vô sở đắc và vô sở ngại, Phật Giáo Đại thừa diệt được Khổ thuộc về Hành Khổ và Hoại Khổ.

 

Người có tâm giác ngộ chính là Phật.  Phật thực hiện Đại từ bi, hóa độ con người cũng giác ngộ thành Phật như mình thì có danh hiệu là Bồ tát (Bodhisattva).  Bồ tát hóa độ trong Bát Nhã Tâm kinh nầy là Bodhisattva Avalokitesvara, được dịch là Quan Tự Tại Bồ tát hay Quan Thế Âm Bồ tát.

 

*

Như vậy, thay vì cứ tự cho rằng mình biết "không" là "không có" (non-existence) hay "hư không" (nothingness); Phật tử cần hiểu "Không" (Sùnya) của Bát Nhã Tâm Kinh: mọi sự vật bên ngoài tâm của ta đều "không có tự tánh" (without nature).

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Bài viết nầy là 1 đoạn nhỏ trong bài "Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Giáo Lý.

 

Bài tiếp theo sẽ nói về "Tu Tâm của Phật Giáo".  

_______________________________

PTH_4pers.jpg

3 đoạn trích trong bài "Công Giáo trong Việt Sử" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com

Đây là link của toàn bài, có nói về Paulus Của và nhất là Petrus Ký (2 tín đồ Công Giáo) có công trong việc phát huy chữ Quốc Ngữ.

 

http://phanthuonghai.com/Documents/tho va su/tong luan/cong giao trong tho va viet su.pdf

 

CÔNG GIÁO VÀ SỰ THÀNH HÌNH CỦA CHỮ QUỐC NGỮ

(Bs Phan Thượng Hải)

  

Đạo Thiên Chúa truyền vào Đại Việt

 

Công Giáo (thuộc Giáo hội Roma) du nhập vào Đại Việt bắt đầu từ năm 1533.  Lúc đầu thường được gọi là Đạo Thiên Chúa, Đạo Gia Tô hay Đạo Cơ Đốc.  Gia Tô là dịch âm từ Jesus và Cơ Đốc là dịch âm từ Christ.  Người sáng lập Đạo là Gia Tô Cơ Đốc (Jesus Christ).

 

Nguồn Gốc:

            Đạo Thiên Chúa (Công Giáo) bắt đầu truyền vào nước ta vào năm 1533. Theo Khâm Định Việt Sử: “Đạo Gia Tô, theo bút ký của tư nhân, tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông có người Tây Dương tên "I Nê Khu"lén truyền đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường và Quần Anh, huyện Nam Chân và ở làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy”.  Ngày nay 3 làng nầy thuộc 3 huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường của tỉnh Nam Định. Tên "I Nê Khu"có lẽ là âm từ tiếng Bồ Đào Nha Inacio hay từ tiếng Tây Ban Nha Ignacio do đó Giáo sĩ “I Nê Khu” nầy chỉ có thể là người Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha.  (Thực ra vào năm 1533, nước Đại Việt dưới quyền cai trị của nhà Mạc vào thời Thái tổ Mạc Đăng Dung và vua Lê Trang Tông còn ở Ai Lao). 

            Ở Đàng Trong, có 2 linh mục Luis de Fonseca (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte (Pháp) từ Malacca đến truyền giáo ở Quảng Nam dưới thời Chúa Nguyễn Hoàng trong 6 năm (1580-1586).

 

Diễn Tiến:

            Năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III thiết lập giáo phận Goa từ mũi Hảo Vọng qua Ấn Độ Dương cho đến Nhật Bản.  Năm 1557, một phần của giáo phận Goa thành giáo phận Malacca gồm Indonésie, Mã Lai, Cam Bốt, Chàm, Xiêm, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản.  Năm 1576, một phần của giáo phận Malacca thành giáo phận Macao gồm Trung Hoa, Nhật Bản và Đại Việt.  Đa số các giáo sĩ là những Thừa Sai dòng Tên (Jésuites/Societa Iesu) và dòng Đa Minh (Dominico/Dòng Anh Em Thuyết Giáo).  

            Năm 1614, đạo Thiên Chúa bị cấm ở Nhật Bản, các Thừa Sai bị đuổi nên về Macau và bắt đầu chuyển sang Đại Việt.  Có 2 sự kiện lịch sửxảy ra: Cha Buzomi và Cha Carvalho đổ bộ vào cửa Hàn (ở Đà Nẵng) của Đàng Trong (1615) và Cha Alexandre de Rhodes đổ bộ lên cửa Bạng (ở Thanh Hóa, tên cũ là cửa Thần Phù) của Đàng Ngoài (1627).  Các tu sĩ sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ dựa trên mẫu tự La Tinh để truyền giáo tuy nhiên cũng có người thông thạo chữ Hán Nôm.  

            Năm 1645, Cha Alexandre de Rhodes về Roma cổ động nên Hội Thánh ủy quyền cho Hội Thừa Sai Paris (Missions Étrangère de Paris) tổ chức truyền giáo ở Đại Việt.  Từ đó Truyền Giáo Thiên Chúa bước từ thời kỳ khai sinh (1533-1659) sang thời kỳ hưng thịnh (1659-1802).

            Năm 1659, 2 giáo phận được thành lập ở Đại Việt tách ra khỏi giáo phận Macao: Giáo phận Đàng Trong, Chiêm ThànhvàChân Lạp (Giám mục Pierre Lambert de la Motte làm Đại diện Tông Tòa) và Giáo phận Đàng Ngoài (Giám mục Francois Ballu làm Đại diện Tông Tòa) dưới quyền của Hội Thừa Sai Paris.  Giám mục de la Motte lập dòng nữ tu ở Đại Việt là Dòng Mến Thánh Giá (Amantes de la Croix/Congregation of the Holy Cross Lovers) vào năm 1669.

            Mặc dù có sự cấm đạo của Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn nhưng đạo Thiên Chúa phát triển mạnh và mở thêm giáo phận.  Đại Diện Tông Tòa Đàng Trong vào cuối thế kỷ 18 là Giám mục Pigneau de Béhaine (1771-1799) còn gọi là Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Vương Phúc Ánh và rất thân với Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh.  

            Sau khi Giám mục Bá Đa Lộc (và Hoàng Tử Cảnh) qua đời, đạo Thiên Chúa ở Việt Nam chuyển sang thời kỳ thử thách (1802-1883) với sự cấm đạo nghiêm khắc của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức của nhà Nguyễn.  Sau đó là thời kỳ phát triển cho đến 30-4-1975.

 

Thành hình của chữ Quốc Ngữ

 

Chữ Quốc Ngữ thành hình là nhờ các giáo sĩ ngoại quốc truyền đạo Gia Tô (đạo Thiên Chúa) ở Việt Nam từ thế kỷ 16.  

 

Theo ông Nguyễn Tường Bách, người bắt đầu sáng tạo chữ Quốc Ngữ là Giáo sĩ dòng Tên Francisco De Pina (1585-1625), người Bồ Đào Nha.  

            Giáo sĩ De Pina bắt đầu đến Macao truyền giáo (1613) rồi tới Đàng Trong (1617).  Thấy chữ Hán Nôm khó học nên khó dịch văn bản của Đạo Gia Tô (Kitô Giáo), Francisco De Pina dựa theo phát âm (của người Việt) mà dùng mẫu tự La tinh diễn tả thành chữ viết (như chữ Bồ Đào Nha của ông): chữ Quốc Ngữ của nước ta thành hình (từ năm 1622).  

            Giáo sĩ De Pina còn viết văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới nầy và từ năm 1624 dạy các giáo sĩ khác trong đó có Antonio De Fontes (1569-?) sinh tại Lisboa (Bồ Đào Nha) và Alexandre De Rhodes (1591-1660) sinh tại Avignon (Pháp).  

            Tháng 12, 1625,Giáo sĩ De Pina lên 1 chiếc tàu Bồ Đào Nha ở Đà Nẵng để mang hàng hóa vào bờ nhưng chẳng may tàu chìm, Francisco De Pina chết chìm (lúc 40 tuổi).  Hai Giáo sĩ tiếp tục công nghiệp của ông là Gaspar De Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647).

 

Sau đó có 3 người có công tạo ra chữ Quốc Ngữ được nhắc nhở đến nhiều nhứt: 

            1) Thừa Sai Cha Alexandre De Rhodes (1591-1660) là nhà truyền giáo (missionary) dòng Tên người Pháp.  Tên của ông âm ra Hánngữlà A Lịch Sơn Đắc Lộ.  Năm 1625, ông đến Hội An rồi năm 1627 ra Bắc Hà.  Ông truyền giáo trong 20 năm ở Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị trục xuất tất cả 6 lần.  Ông bắt đầu học nói tiếng Việt từ một em bé 12 tuổi ở Hội An.  Chữ Quốc ngữ đã có được từ các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa(Công Giáo), Cha Đắc Lộ gom lại và viết thành Từ Điển An Nam Bồ (Đào Nha) La Tinh (Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum) vào năm 1651.  Cha Alexandre De Rhodes(Đắc Lộ) chết tại Ispahan, Ba Tư (Iran).

            2) Thừa Sai Đức Cha Bá Đa Lộc, cũng là người Pháp, tên là Pierre Joseph Georges Pigneau De Béhaine (1741-1799).  Bá Đa Lộc là âm từ chữ Pierre.  Ông còn được gọi là Cha Cả (?) hay Giám Mục Adran (?) hay Bi Nhu quận công (từ chữ Pigneau).  Là Đại Diện Tông Tòa của Đàng Trong(Nam Hà), ông giúp Nguyễn Vương Phúc Ánh chống nhà Tây Sơn.  Giám Mục Bá Đa Lộc viết Từ Điển An Nam La Tinh (Dictionarium Anamitico Latinum) vào năm 1773 gồm 4 thứ chữ: La Tinh, Quốc Ngữ, Hán (Nho) và Nôm.

            3) Thừa Sai Cố Jean Louis Taberd (1744-1840) là người Pháp, thuộc dòng La Salle (La San) truyền giáo ở Nam Kỳ (1820-1830).  Tiếng Việt gọi Taberd là “Từ”.  Trường Lasan Taberd thành lập ở Sài Gòn (1873-1975) theo tên của ông.  Cố Taberd dựa vào Đắc Lộ và Bá Đa Lộc viết và xuất bản Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị (chữ Quốc Ngữ và La Tinh) ở Calcutta vào năm 1838.  Ngoài ra ông cũng xuất bản Tự Điển của ông Bá Đa Lộc.  

 

Thừa Sai Cố Taberd có một người Việt giúp làm quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị là Thầy Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853), người Cái Mơn (thuộc tỉnh Vĩnh Long).  Thầy Phan Văn Minh về sau về nước làm Linh Mục và tử đạo. Theo ông Dương Quảng Hàm, nhờ Cha Phan Văn Minh nầy giúp Cố Taberd nên chữ Quốc Ngữ viết giống như ngày hôm nay.

 

Cũng như vua Minh Mạng, vua Tự Đức cấm đạo Thiên Chúa (Gia Tô) rất nghiêm nhặt.  Một nạn nhân nổi danh hậu thế là Linh mục Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853), sinh ở Cái Mơn, Vĩnh Long.  

Thầy Phan Văn Minh theo Cố Taberd qua chủng viện Pénang (Mã Lai) rồi có sang Calcutta giúp Cố Taberd viết cuốn Tự Điển Việt La Tinh. Theo ông Dương Quảng Hàm, nhờ Thầy Phan Văn Minh sửa đổi nên chữ Quốc Ngữ mới viết như chúng ta viết bây giờ.  

Năm 1840, Thầy Phan Văn Minh về nước truyền đạo ở Nam Kỳ và được thụ phong Linh Mục.  Năm 1848, sau khi lên ngôi vua Tự Đức bắt đầu cấm đạo Thiên Chúa (Công Giáo) gắt gao và từ năm 1851, có ra lệnh chém đầu thả trôi sông những “Tây Dương đạo trưởng”.  Cha Phan Văn Minh chịu chung số phận và tử đạo vào năm 1853.  

Ngày 19-6-1988, Cha Phan Văn Minh cùng với 116 người Việt Nam khác được Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị phong Thánh.  Tất cả là 117 Thánh Tử Đạo của Việt Nam.  

Ngày nay có nhà thờ Công giáo của giáo dân người Mỹ gốc Việt mang tên Cha (Philip Phan Văn Minh) ở Orlando, Florida.

 

Cha Phan Văn Minh làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ và có lẽ là những bài thơ đầu tiên (bằng chữ Quốc Ngữ).

 

NƯỚC TRỜI

Đời trước Thiên cơ bất khả lậu

Đời nay Con Chúa đã ra đời

Nho gia không còn chi ẩn dấu

Thiên cơ là chính thật nước Trời.

(Linh mục Phan Văn Minh)

 

Cha Phan Văn Minh sáng lập Hội Thơ E Vang (E Vang = Évangile = Phúc Âm = Tin Mừng)

 

KHAI HỘI THƠ VỊNH E VANG

Gia cang đất nước có thân danh

Tô điểm E Vang tận gốc nhành

Cơ cấu nhân sinh theo đạo thánh 

Đốc hành thế sự với tân thanh

Con đường bác ái khi chung sống

Đức độ công bằng lúc đấu tranh

Chúa đã hoằng khai nguồn cứu rỗi

Trời cao không bỏ kẻ ngay lành.

(Linh mục Phan Văn Minh)

 

Cha Phan Văn Minhcó bài thơ về “Gia Tô Cơ Đốc” (Gia Tô=Jesus.  Cơ Đốc=Christ=Ki Tô) được tất cả 48 bài họa riêng 3 bài cuối làm sau khi Cha qua đời.

 

GIA TÔ CƠ ĐỐC 

(Xướng)

Gia Tô Cơ Đốc đấng con Trời

Đặc cách lâm phàm cứu khắp nơi

Chẳng lấy lợi danh mà tạo nghiệp

Không dùng vương bá để xây đời

Vâng lời thiên mệnh đành thân diệt

Gánh tội nhân gian chịu máu rơi

Dĩ nhược thắng cường mệnh chứng tỏ

Kiếp sau hiện hữu sống muôn thời.

(Cha Phan Văn Minh)

 

Trong 48 bài họa có 2 bài họa của ông Đồ Ốc ở Giồng Giăng, Ba Tri với 2 bài tự họa trả lời của Cha Phan Văn Minh là rất đặc biệt và thú vị:

 

(Họa 1)                                                       (Tự họa 1)

Thế gian vạn sự nói do Trời                        Cai trị thế gian luật của Trời

Nhưng tại làm sao khổ khắp nơi                 Có yên có khổ cũng tùy nơi

Cứu khổ đã nêu bên đạo Chúa                   Tranh danh: oán hận do người thế

Giải nguy chưa thấy phía người đời            Giành lợi: chiến tranh tại thói đời

Triều đình Nam Quốc xô không ngã           Thuốc bổ vào người sinh thuận nghịch

Đạo trưởng Tây Phương bám chẳng rơi      Đạo nguy nhập thế có xuôi rơi

Đã đẩy giáo nhơn vào thế khổ                     Xưa nay đạo khổ do tham vọng

Vậy ai phải chịu bất tri thời.                        Lịch sử chứng minh kẻ thức thời.

(Đồ Ốc)                                                        (Cha Phan Văn Minh)

 

(Họa 2)                                                         (Tự Họa 2)

Đạo khổ xưa nay vốn tại Trời                      Sống ở thế gian chẳng khỏi Trời 

Thất mùa ôn dịch khắp nơi nơi                    Khác nào loài cá khắp nơi nơi

Thủy tai chôn lấp bao nhiêu mạng               Sông sâu khoẻ xác tha hồ lặn

Địa chấn nát tan mấy cuộc đời                     Sông cạn phơi thây há trách đời

Khổ đó con người làm chẳng được              Cá có oán sông lên hoặc xuống

Nạn nầy tạo hóa trút đầy rơi                         Mình không biết nước lớn hay rơi

Thiên tai đại nạn Trời làm cả                        Dĩ nhiên phải chịu vì không biết

Nhân loại chỉ gây giặc nhứt thời.                 Thượng bất oán Thiên lẽ thức thời.

(Đồ Ốc)                                                        (Cha Phan Văn Minh)

 

Hậu thế cũng có bài họa:

 

GIÊ SU KI TÔ(Họa)

Vinh danh đẹp ý Chúa trên trời

Đem đến Tin Mừng khắp mọi nơi

Nếu giữ thiện tâm gìn bác ái

Được đầy ơn phước sống yên đời

Niềm tin nhân loại luôn kỳ vọng

Cứu thế Giê Su chẳng bỏ rơi

Sẽ đến Thiên Đàng nơi vĩnh cửu

Hết còn đau khổ lúc sinh thời.

(Phan Thượng Hải)

4/22/16

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

_______________________________

CHUỐI & CA DAO

            = Banana 

               = Musa acuminata and Musa balbisiana

 

Các loại Chuối:

            Nhóm Chuối Già (Chuối Tiêu)

                        Chuối Già Hương

                        Chuối Già Lùn

                        Chuối Già Cúi

                        Chuối Tiêu Hồng

                        Chuối Lùn

                        Chuối Táo Quạ

                        Chuối La Ba (từ tiếng Pháp La Banane): đặc sản của Đà Lạt

                        Chuối Sáp: không ăn chín được

            Nhóm Chuối Sứ (Chuối Tây)

                        Chuối Cau, Chuối Cau Lửa

                        Chuối Ngự

                        Chuối Xiêm

            Nhóm các loại Chuối khác:

                        Chuối Hột hay Chuối Chát

                        Chuối Bom hay Chuối Bơm

 

 Ca dao:

            Bao giờ cho chuối có cành

            Cho sung có nụ cho hành có hoa

            Bao giờ trạch đẻ ngọn đa

            Sáo đẻ dưới nước thời ta lấy mình

            Bao giờ cây cải làm đình

            Gỗ lim làm gối thời mình lấy ta.

                        

                        Này em ơi, bánh nhiều lắm sao gọi là bánh ít

                        Chuối non èo sao gọi là chuối già

                        Đối như anh vậy chắc là xứng đôi.

            

            Đầu giồng có trồng cây chuối

            Cuối giồng có trồng cây da

            Ngã ba có cây đại hồng

            Gái chưa chồng trong lòng hớn hở.

                        

                        Đầu giồng có trồng cây chuối

                        Cuối giồng có trồng cây da

                        Ngã ba có cây đại hồng

                        Gái chưa chồng trong lòng hớn hở

                        Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh

                        Ngó lên mây trắng trời xanh

                        Thương ai cũng vậy thương anh cho rồi.

            

            Đầu làng có bụi chuối khô

            Ngó về xóm cũi có hai cô chưa chồng

            Gió lay đập gẫy nhành vông

            Ai về đường ấy, nhắn đây là chồng hai cô!

                        

                        Gió đưa bụi chuối sau hè

                        Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.

            

            Gió đưa bụi chuối sau hè

            Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

            Con thơ tay ẵm tay bồng

            Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông.

                        

                        Gió đưa bụi chuối sau hè

                        Bụi môn trước cửa ai dè em hư.

            

            Gió đưa bụi chuối te tàu

            Chàng nam thiếp bắc làm giàu ai ăn.

                        

                        Ngó lên cây chuối trổ hoa

                        Nghỉ thương mẹ già vất vả quanh năm.

            

            Trách ai trồng chuối dưới bàu

            Trái ăn lá rọc cho tàu xác xơ.

                        

                       Trông ra bụi chuối ở cuối bụi tre

                        Bậu nghe lời ai dụ đánh anh què một chân.

            

            Sá gì một nải chuối xanh

            Năm bảy người dành cho mủ dính tay.

 

 

Câu đố:

            Cong cong như cái lưỡi cày

            Cả trăm con sáu đậu ngày đậu đêm.

                        

           Bằng trang cườm tay, để ngay bàn Phật

Phan Thượng Hải biên soạn

                           Bản Vọng Cổ

                                              (Bs Phan Thượng Hải biên soạn) 

 

Bản Vọng Cổ, trước hết có tên là Dạ Cổ, do ông Cao Văn Lầu tục gọi là Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng chế hồi năm 1920 lúc ông 30 tuổi (3 năm sau khi Cải Lương ra đời vào năm 1917).

 

 

 

 

 

 

 

Ông cưới vợ được 10 năm nhưng không có con nên cha mẹ ông buộc phải cưới vợ khác vì sợ tuyệt tự.  Ông buồn rầu quá không muốn làm ăn gì nữa.  Ban ngày ra ngoài đồng, ông nghiền ngẫm những lời vợ ông nói trước khi chia tay, ông vẫn biết đờn cổ nhạc nên trong tâm trạng người chồng đau khổ trước cảnh gia đình tan rã, ông cảm hứng tạo ra bản nhạc 20 câu gọi là “Dạ Cổ Hoài Lang” (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng) có ý để kỷ niệm tâm tình của vợ ông đối với ông.  Về sau bản nhạc ấy đổi tên là “Vọng Cổ Hoài Lang” (= Trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng) cho rộng nghĩa hơn.

Tuy nhiên, sau khi ông Sáu Lầu sáng tác bản Vọng Cổ đầu tiên nầy thì Vợ của Ông thụ thai và sau đó Ông Bà ăn ở với nhau có tất cả 6 người con (và hình như ông Sáu Lầu không có vợ nào khác).  

Đây là lời bản "Dạ Cổ Hoài Lang" nguyên thủy của ông Sáu Lầu sáng tác hồi năm 1920 (có 20 câu):

 

            DẠ CỔ HOÀI LANG (Nhịp Đôi)

 

            1. Từ là từ phu tướng

            2. Bửu kiếm sắc phong lên đàng

            3.Vào ra luống trông tin chàng,

            4. Đêm năm canh mơ màng,

            5. Em luống trông tin nhàn,

            6. Ôi, gan vàng quặn đau.

            7. Đường dầu xa ong bướm,

            8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.

            9. Còn đêm luống trông tin bạn,

            10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu,

            11. Vọng phu vọng, luống trông tin chàng,

            12. Lòng xin chớ phụ phàng.

            13. Chàng hỡi, chàng có hay,

            14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.

            15. Biết bao thuở đó đây xum vầy,

            16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai.

            17. Thiếp cũng nguyện cho chàng,

            18. Nguyện cho chàng hai chữ bình an.

            19. Mau trở lại gia đàng,

            20. Cho én nhạn hiệp đôi. 

 

Bản Vọng Cổ nguyên thủy nầy ca giọng Bắc (đã biến thể), nhịp đôi và có 20 câu (mỗi câu có khoảng 6,7 chữ) được thông dụng từ 1920 cho đến 1926.  

Sau đó bản Vọng Cổ tăng nhịp, xuống 12 câu rồi 6 câu và thêm chữ (cho mỗi câu) cho đến khoảng đầu thập niên 1950s thì đã thành bản Vọng Cổ hiện tại (rất được ưa chuộng) ca giọng Nam (có pha hơi Oán), nhịp 32 hay 64 và có 6 câu (mỗi câu có số chữ lên đến 60,70 chữ).

Năm 1920: ông Sáu Lầu sáng chế bản Vọng Cổ nhịp đôi 20 câu.

Năm 1927: soạn giả kiêm nghệ sĩ Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đổi thành nhịp tư 12 câu. 

Năm 1936: nghệ sĩ Năm Nghĩa (Lư Hòa Nghĩa) đổi thành nhịp tám 6 câu.  Câu có nhiều chữ hơn nên ca chậm và ngân nga nhiều ở mấy chữ cuối câu.

Năm 1946: nghệ sĩ Út Trà Ôn (Nguyễn Thành Út) đổi thành nhịp 16,6 câu với lối ca nhịp nhàng hơn.

Năm 1955: soạn giả Viễn Châu (tức nhạc sĩ Bảy Bá) đổi thành nhịp 32 6 câu với số chữ trong câu tăng nhiều hơn.

 

Ông Bảy Bá là một thi sĩ kiêm nhạc sĩ nên những bài ca của ông soạn rất dễ ca và ý tứ dồi dào câu văn điêu luyện gọn gàng hấp dẫn.  Bài ca của ông xuất bản rất nhiều và giới mộ điệu thường tặng cho ông danh hiệu “Vua soạn Vọng Cổ”.

Năm 1965: soạn giả Viễn Châu lại đổi thêm ra nhịp 64 6 câu bắt đầu áp dụng cho những bài Vọng Cổ hài hước của ông (thường do Hề Văn Hường ca).  Tuy ca sĩ ca nhịp 64 nhưng đờn nhịp 128 vì mấy cái láy của bài ca người đờn ni bằng chơn trái nên nhịp chẻ bằng hai số nhịp của bài ca. Còn nhịp chánh ni bằng chơn mặt. 

 

Ngoài việc đổi thành nhịp 16, nghệ sĩ Út Trà Ôn còn lồng vào câu Vọng Cổ những điệu Hò hay điệu nói thơ Vân Tiên…Do đó ông được tặng danh hiệu “Đệ nhứt danh ca miền Nam”.  Đến năm 1964, soạn giả Cổ Nhạc cho lồng vào câu Vọng Cổ những điệu Tân Nhạc.  Năm 1965 có những bản Vọng Cổ mới gọi là “Tân Cổ Giao Duyên”.

 

Thường trong tuồng Cải Lương, khi một người ca dứt 1 câu Vọng Cổ, nhằm nhịp Song Lang chót rồi thì đờn nhồi 12 nhịp hoặc 8 nhịp mới bắt qua câu kế.  Trong khoảng đờn nhồi nầy vai tuồng không ca.  Vậy để tránh cho khỏi “nguôi” tuồng, soạn giả thường cho vai đối thoại nói lối thêm 1 câu ngắn gọi là “Nói lối giặm” đặng trám vào khoảng trống nầy, rồi người ca mới bắt qua câu Vọng Cổ kế.

 

Để giúp nghệ sĩ “vô” Vọng Cổ (trước câu 1 hay câu 4 hoặc 5), soạn giả thường áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để “gối đầu” bản Vọng Cổ:

Dùng những bản ngắn cổ điển: Sơn Đông Hướng Mã, Cao Phi, Giang Tô, Thủ Phong Nguyệt, Hướng Mã Hồi Thành, Lý Con sáo, Lưu Thủy Hành Vân…

Dùng câu lối văn xuôi.

Dùng câu lối văn vần (dùng đủ thể thơ mới hay cũ).

Dùng bản Tân nhạc mới chế có đệm nhạc hay ngâm Tao Đàn.

Dùng bản Tân Nhạc có sẵn (Tân Cổ Giao Duyên).  Phương pháp nầy chỉ có cho dĩa hát chớ không thể dùng trong tuồng Cải Lương.     

 

Nốt nhạc dùng trong câu vọng cổ khác nhau giữa giọng Kép và giọng Đào và cũng tương đương với nốt tân nhạc:

Giây Kép: Hò  Xự Xang  Xê  Cóng

                La   Si    Ré     Mi   Fa

Giây Đào: Hò  Xự  Xang  Xê  Cóng

                Mi   Fa   La      Si   Do

Khi còn 20 câu, mỗi câu phải chấm dứt với 1 nốt nhứt định nhưng khi thêm chữ và xuống số câu (bây giờ là 6 câu) thì hình như không bắt buộc nữa.

 

Bản Vọng Cổ bắt đầu là điệu tâm tình buồn nhưng nó còn dùng trong những trường hợp khác cho đến cả hài hước như “Vọng Cổ hài hước” của Hề Văn Hường.  Cách ca Vọng Cổ cũng cải tiến vào thời VNCH ngoài cách thông thường và theo kiểu Út Trà Ôn còn có theo kiểu Minh Cảnh (Minh Phụng và Minh Vương) hay kiểu Thanh Sang…

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

___________________________

ĐẠO GIA VÀ ĐẠO GIÁO

Vô Vi là trọng điểm của Triết học của Lão tử.  Xin trích một đoạn trong bài "Triết Lý của Lão tử và Trang tử" (Bs Phan Thượng Hải) trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Giáo Lý.  Cũng có thể đọc nguyên bài từ link dưới đây:

http://phanthuonghai.com/Documents/van hoa/2 giao ly/triet ly cua lao tu va trang tu.pdf

 

Lão tử và Trang tử là hai triết gia chánh của Đạo Gia Trung Quốc vào cuối thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc. 

            Triết lý của Lão tử có ghi trong Đạo Đức kinh mà theo truyền thuyết là tác phẩm của ông.  Do đó Đạo Đức kinh còn được các học giả cũ gọi là sách Lão tử.  

            Triết lý của Trang tử có ghi trong Nam Hoa kinh. Tương truyền Trang tử là tác giả của Nam Hoa kinh nên nó còn có tên là sách Trang tử.

 

* Đạo Gia

 

Đạo Gia là một phái triết học có từ thời Xuân Thu (771 tr CN - 476 tr CN) và thời Chiến Quốc (tiếp theo thời Xuân Thu cho tới khi Tần Thủy Hoàng đế thống nhất Trung Quốc vào năm 221 tr CN) với 3 triết gia tiêu biểu là Dương Chu, Lão tử và Trang tử.

 

Lịch sử và danh hiệu của Đạo Gia được ghi lần đầu tiên trong bài văn "Luận Lục Gia Yếu Chỉ" của Tư Mã Đàm (cha của Tư Mã Thiên), đăng trong Sử Ký của Tư Mã Thiên.  Trong đó, Tư Mã Đàm xếp các triết gia của thời Xuân Thu và Chiến Quốc thành 6 học phái lớn, gọi là Lục Gia (Gia = Phái). Theo Tư Mã Đàm, 1 trong Lục Gia là Đạo Đức Gia gồm có những môn đồ của học phái nầy đặt vào trung tâm học thuyết siêu hình và xã hội của họ ý niệm hư vô tức là "Đạo" và sự ngưng kết của Đạo trong mỗi cá nhân được coi là "Đức tính" tự nhiên của con người.  Phần "Đức" nầy nên hiểu là năng lực liên quan tới mọi vật cá biệt.  Phái nầy được Tư Mã Đàm gọi là Đạo Đức Gia, về sau chỉ gọi là Đạo Gia.  

 

Đạo Gia và Nho Gia là 2 học phái lớn nhất trong Lục Gia vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. 

            Những triết gia trong Nho Gia vốn do ở các học giả. Từ ngữ "Nho" có nghĩa là người học giả có đủ trí thức.

            Những triết gia trong Đạo Gia vốn do ở các ẩn sĩ lánh xã hội. 

 

 

* Lão tử và Trang tử

 

Hai triết gia chánh của Đạo Gia là Lão tử và Trang tử và hai triết gia chánh của Nho Gia là Khổng tử và Mạnh tử (Tử = thầy).  

Lão tử là triết gia đầu tiên đưa ra khái niệm Đạo và Đức của Đạo Gia (Đạo Đức Gia) trong Đạo Đức kinh. Do đó có thể nói Lão tử là người sáng lập Đạo Gia cũng như Khổng tử là người sáng lập Nho Gia.  

Nho Gia cũng có khái niệm "Đạo Đức" nhưng khái niệm triết học "Đạo Đức" của Nho Gia hoàn toàn khác hẳn khái niệm triết học "Đạo Đức" của Đạo Gia.

 

Lịch sử không biết rõ nhiều về Lão tử.  "Lão tử" có nghĩa là "ông Thầy già".  Đây là những dữ kiện được biết nhưng không chắc chắn về Lão tử: 

            Ông sinh vào năm 571 tr CN và qua đời năm 471 tr CN.

            Ông họ Lý và tên là Nhĩ, tên tự là Bá Dương.

            Ông có tên thụy là Đam (có nghĩa là "bí ẩn").  Do đó có giả thuyết cho rằng ông là một quan Thái sử của một nước chư hầu tên là Đam và hậu thế gọi ông là Lão Đam.

Theo truyền thuyết, vì chán nản chính sự lúc bấy giờ nên Lão tử cỡi một con trâu đi về hướng Tây của Trung Quốc và "biến mất vào sa mạc".  Khi đi ngang qua cửa ải Hàm Cốc, một người lính gác cửa thuyết phục ông viết để lại những hiểu biết của mình trước khi đi vào sa mạc.  Lão tử xiêu lòng nên mới viết để lại Đạo Đức kinh, lưu truyền tới ngày nay. 

 

Trang tử tên thật là Trang Chu (369 tr CN - 286 tr CN).  Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, ông tên là Trang Chu, người đất Mông, làm quan Lại ở Tất Viên (?), sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời.  Đất Mông thuộc nước Tống, một nước chư hầu nhỏ trong thời Chiến Quốc. 

Hậu thế truyền tụng nhiều truyền thuyết thú vị về Trang tử (cũng như tác phẩm của ông là Nam Hoa kinh) như là:

            Trang Chu mộng hồ điệp.

            Trang tử cổ bồn ca.

 

..................................

 

* Đạo Gia và Đạo Giáo

 

Tần Thủy Hoàng đế thống nhất Trung Quốc, gồm thâu 6 nước (thế kỷ thứ 3 tr CN), thời Chiến Quốc chấm dứt (năm 221 tr CN).  Nhà Hán (206 tr CN - 220) tiếp theo nhà Tần trị vì Trung Quốc trong hơn 4 thế kỷ.  Đến thời nhà Hán có một tôn giáo xuất hiện là Đạo Giáo:

            Vì nó có liên quan tới Đạo Gia của thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc nên được có tên là Đạo Giáo.  

            Vì nó có tôn thờ Lão tử nên còn có tên là Lão giáo.

 

Hai ngành của Đạo Giáo:

            Ngành đầu tiên thường được gọi là Tiên Đạo.  Những người đi tu theo Tiên Đạo là những Chơn nhơn ẩn tu trong thiên nhiên rừng núi luyện đơn (luyện thuốc) mà thành Tiên, sống trường sinh bất tử và có phép lạ.  Ngành nầy được nói đến trong lịch sử là câu chuyện về Trương Lương, trọng thần của Hán Cao tổ (vị vua sáng lập nhà Hán), đi tu theo ông tiên là Hoàng Thạch Công.  Ngành nầy thường được biết với truyền thuyết Bát Tiên, đứng đầu là Lý Thiết Quày và Hớn Chung Ly (Chung Ly Quyền) thời nhà Hán. Bát Tiên gồm có Lý Thiết Quày, Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Lam Thể Hòa, Hà Tiên cô, Hàn Tương Tử và Tào Quốc cựu.  Đường lối sống ẩn tu theo thiên nhiên rất hợp với triết lý Đạo Gia và những triết gia của Đạo Gia như Lão tử hay Trang tử cũng là những ẩn sĩ.  Dĩ nhiên ngành Đạo Giáo nầy không phổ thông trong xã hội và dễ trở thành thần thoại.

            Ngành thứ nhì là những người đi tu gọi là Đạo sĩ, thờ Lão tử, một triết gia của Đạo Gia (tôn là Thái Thượng Lão Quân) dùng phương thuật, tế lễ, bùa chú, kinh kệ, thờ cúng, trị bệnh...  Ngành thứ nhì có lẽ đã thành hình từ lâu nhưng chính thức xuất hiện trong lịch sử từ Trương Đạo Lăng (cháu 8 đời của Trương Lương) vào cuối thời nhà Hán.  Giáo pháp của ngành nầy đi ngược với triết lý của Đạo Gia.  Ngành thứ nhì nầy của Đạo Giáo rất phổ biến trong xã hội nhân gian Trung Quốc và lưu truyền sang các nước láng giềng như Việt Nam.  Nó rất gần với và dễ trở thành mê tín.  Những Đạo sĩ có khi là những Phù thủy.

 

Như vậy Đạo Gia và Đạo Giáo khác nhau.  Đạo Giáo là một tôn giáo có từ thời nhà Hán còn Đạo Gia là một học phái triết học trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.

 

* (Lịch sử)

 

Đạo Gia và Nho Gia là 2 học phái triết lý lớn nhất trong Lục Gia vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc.  Từ thời Hán Vũ đế vào đầu nhà Hán (thế kỷ thứ 2 tr CN) cho tới nhà Thanh (đầu thế kỷ 20), triết lý của Nho Gia (Nho Học, Nho Đạo, Nho Giáo) chiếm địa vị độc tôn trong chính trị và văn hóa của xã hội Trung Quốc nên Đạo Gia suy tàn từ đó, chỉ còn Đạo Giáo tồn tại. 

 

* Triết lý Đạo Gia theo Trang tử từ Lão tử

 

Theo Lão tử, Đạo là cái bởi đó mọi vật sinh ra.  Khi sinh ra, riêng mỗi vật đều nhận từ cái phổ biến một phần từ Đạo gọi là Đức.  Đức có nghĩa là "tiềm thế" hay "đức tính".  Đức của mỗi vật là cái mà tự nhiên đã phó cho riêng mỗi vật. 

Tóm lại, Đạo là cái bởi đó mọi vật sinh ra và Đức là cái bởi đó mọi vật trở thành vật.

Đạo Đức kinh viết:

            Mọi vật đều tôn Đạo và quý Đức.

 

Trang tử cũng có những tư tưởng về Đạo và Đức giống như Lão tử.

Nam Hoa kinh viết:

            Thoạt đầu tiên thì có vô.  Vô có vô danh.  Một do đó mà sinh, có một mà chưa có hình.  Vật được đó mà sinh gọi là Đức.

Theo Trang tử, Đức là cái bản tính và khả năng của mỗi vật.

 

Lão tử áp dụng Đạo Thường và Đức vào đường lối xử thế (Vô Vi).  Trang tử áp dụng Đạo và Đức vào đường lối đạt hạnh phúc.

 

* Đường lối theo Đức đạt Hạnh phúc tương đối (Relative Happiness)

 

Đức là cái làm cho ta trở thành ta; là bản tính và khả năng của ta.   Sống sung sướng khi cái Đức ấy, khi những khả năng tự nhiên của ta được xử dụng trọn vẹn và tự do, nghĩa là khi bản tính ta được phát triển trọn vẹn và tự do.  Đó là đường lối để đạt hạnh phúc tương đối của Trang tử.

Liên quan tới ý tưởng phát triển tự do nầy, Trang tử đưa ra sự tương phản giữa tự nhiên và nhân vi.  Ông gọi tự nhiên là theo trời và nhân vi là theo người.  Theo trời là nguồn gốc mọi điều hạnh phúc và tốt lành; theo người là nguồn gốc mọi đau khổ và tai họa.  

 

Mọi vật đầu khác nhau về khả năng tự nhiên cũng như bản tính cũng không giống nhau.  Tuy nhiên điều giống nhau là mỗi vật đều được hạnh phúc ngang nhau khi khả năng được sử dụng hay bản tính được phát triển trọn vẹn và tự do.

Thiên Tiêu Dao Du của Nam Hoa kinh kể chuyện con chim đại bàng và con chim tu hú.  Khả năng của 2 con chim đều hoàn toàn khác nhau.  Con chim đại bàng thì có thể bay xa hàng vạn dặm còn con chim tu hú chỉ có thể bay từ cây nầy sang cây khác.  Cả hai đều sung sướng ngang nhau vì có thể làm những việc mỗi con có thể làm và mỗi con đều yêu thích.

Không có sự nhất trí tuyệt đối trong bản tính của mọi vật, mà cũng chẳng cần gì có sự nhất trí như vậy.

Nam Hoa kinh viết:

            Bởi thế chân vịt tuy ngắn nhưng nối thêm thì vịt lo.  Chân hạc tuy dài nhưng chặt đi thì hạc buồn.  Cho nên tính dài không phải để chặc đi, tính ngắn không phải để nối thêm.

 

Theo Trang tử, sống và hoạt động theo Đức tức là bản tính được phát triển tự do và trọn vẹn với những khả năng tự nhiên được sử dụng tự do và trọn vẹn.  Tuy nhiên như vậy chỉ ta chỉ đạt được Hạnh phúc có giới hạn tức là tương đối.  Sự giới hạn hay ngăn trở là do sự vật bên ngoài (ngoại vật) hay nói rõ hơn là do diễn tiến tự nhiên của những sự vật bên ngoài.  Do đó sự vật chính nó có thể làm ta đau khổ; hay tình cảm của ta đối với nó là nguyên nhân chính làm ta đau khổ thật sự và nhiều hơn.

 

* Đường lối theo Đạo đạt Hạnh phúc tuyệt đối (Absolute Happiness)

 

.............

 

Thánh nhân có quan điểm hiểu biết siêu việt sáng suốt và không có hoặc quên đi quan điểm hiểu biết thiển cận phân biệt.  Thánh nhân vượt qua sự phân biệt mà hợp nhất với vạn vật.  khi đó thánh nhân sống sung sướng trong vạn vật.

 

Nam Hoa kinh viết:

            Trời đất là vạn vật hợp nhất.  Đạt tới cái Nhất thì làm một với trời đất, tay chân ta không hơn gì bùn đất; sống chết, đầu cuối, không khác gì sự nối tiếp của ngày đêm, đều không thể làm bận lòng.  Như vậy, hẳn không bận tâm vì được thua, may rủi.

Đạo gia gọi "đạt tới cái Nhất" nghĩa là hợp nhất với vạn vật.

Ở đây Trang tử cũng đã đạt tới giải đáp cuối cùng của vấn đề bản lai của Đạo Gia nguyên thủy như thế nào.  Vấn đề ấy là giữ mạng sống và tránh đau khổ hiểm nguy.  Nhưng đối với Thánh nhân, chính nó không còn là vấn đề nữa vì thánh nhân không phân biệt nữa.  Thánh nhân không còn phân biệt, xem sống cũng như chết, thua cũng như được.

 

Nam Hoa kinh viết:

            Phải mà không phải, vậy mà không vậy.  Phải nếu quả thật là phải, thì phải khác với không phải, chẳng có chi là phải bàn.  Vậy nếu quả thật là vậy, thì vậy khác với không vậy, cũng chẳng có chi phải bàn. Hãy quên sự phân biệt phải trái. Hãy vui trong cõi vô cùng và dừng tại đấy.

Cõi vô cùng là cảnh giới của người đạt Đạo, kinh nghiệm đời sống trong cõi vô cùng.  Người nầy quên tất cả những phân biệt về mọi vật, ngay những kinh nghiệm trong chính đời sống của chính người ấy.

Như vậy, Thánh nhân vượt qua sự phân biệt mà hợp nhất với vạn vật thì thánh nhân sống sung sướng trong vạn vật, có Hạnh phúc tuyệt đối.

Nên Nam Hoa kinh đã có viết:

            Nếu dựa vào cái chính của trời đất, cỡi trên sự biến hóa của lục khí, để rong chơi trong cõi vô cùng. 

Người nầy hoàn toàn tự tại nên có Hạnh phúc tuyệt đối.

 

Thánh nhân làm một với Đại Nhất nghĩa là làm một với vạn vật. Bởi vì vạn vật luôn luôn tồn tại nên Thánh nhân cũng không ngừng tồn tại.

Nam Hoa kinh viết:

            Giấu thuyền dưới vũng, dấu lưới trong hồ, có thể gọi là chắc vậy.  Nhưng nửa đêm, một người sức lực đến mang đi, người mê muội sẽ không biết tới.  Giấu vật lớn nhỏ đều có chỗ thích nghi, vẫn còn có thể mất.  Nhưng nếu giấu thiên hạ trong thiên hạ thì không thể mất, đó là tình lớn của mọi vật. Cho nên Thánh nhân dạo chơi trong cõi vật thì không thể mất mà cùng còn.

Do đó Thánh nhân cũng không bao giờ ngừng tồn tại hay nói đúng hơn Hạnh phúc tuyệt đối của thánh nhân tồn tại chắc chắn.

 

Tóm tắt:

Từ sự hiểu biết bản chất tự nhiên của sự vật, tâm thức của thánh nhân không có quan điểm thiển cận mà có quan điểm siêu việt sáng suốt (vượt qua sự thiển cận).

            Quan điểm thiển cận là phân biệt mọi sự vật vì không nhìn thấy sự tương đối của sự vật.

            Quan điểm sáng suốt siêu việt là đứng ngoài sự phân biệt mọi sự vật, nhìn thấy sự tương đồng và tương ứng mặc dù tương phản của mọi sự vật và cuối cùng không phân biệt mình với mọi sự vật (ngã và vô ngã). Quan điểm siêu việt còn được Đạo Gia gọi là Quan điểm của Đạo.  Từ đó thánh nhân sống hợp Nhất với vạn vật và như thế sống sung sướng tồn tại trong mọi sự vật, đạt được Hạnh phúc tuyệt đối.

 

......................

 

* Triết lý của Đạo Gia theo Trang tử và Thiền Tông

 

Triết lý của Trang tử không khác với triết lý của Thiền Tông.

- Trang tử của Đạo Gia dạy:

            Đức là bản tánh bẩm sinh khác nhau của mỗi người. Sống theo Đức tức là phát triển khả năng bẩm sinh của mình một cách trọn vẹn và tự do thì ta đạt Hạnh phúc tương đối.

            Mọi sự vật đều tương đối, nếu tâm ta không phân biệt sự vật thì ta hợp nhất với mọi sự vật và sống sung sướng trong mọi sự vật.  Khi đó ta đạt Hạnh phúc tuyệt đối.

 

- Thiền Tôngcủa Phật Giáo Đại Thừa dạy:

            Phật Tánh (Bản tâm) từ bi là bản tánh bẩm sinh giống nhau của mỗi người

            Mọi sự vật đều tương đối (vì đều vô ngã), nếu tâm ta không dính chặc (trụ) vào sự vật thì Phật Tánh trong ta sẽ lộ ra Từ bi, sống dung hòa với mọi sự vật.  Khi đó tâm ta an tịnh và thoát khỏi Phiền não.  

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 

 

Tài liệu tham khảo:

            1) Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (Phùng Hữu Lan - Nguyễn Văn Dương dịch)

            2) Giáo Lý Giác Ngộ của Phật Giáo Đại Thừa Thiền Tông (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

TL_Cao Van Lau.jpg

Phan Thượng Hải: THƠ THU _______

 

THU HỨNG

Cảnh vật mùa thu mở lối đường

Khơi nguồn nghệ thuật thú văn chương

Lạnh lùng thời tiết qua mưa nắng

Ảm đạm thiên nhiên đổi sắc hương

Cảm động tâm tư, lòng tiếc nhớ

Cảm hòa tình tứ, dạ sầu thương

Thi nhân say tỉnh hồn thơ mộng

Thu hứng nên vần thỏa vấn vương.

(Phan Thượng Hải)

9/20/21

 

BÁNH TRUNG THU

Mời nhau thưởng thức bánh Trung Thu

Hình thể tròn vuông vẫn đặc thù (*)

Đối ẩm chuyện trò vui lão cụ

Được ăn ca hát sướng thằng cu

Ấm lòng vọng nguyệt, trăng ngời sáng

Vững dạ rước đèn, nến tỏ lu

Thú vị ngọt ngào trong dịp lễ

Ngàn năm truyền thống đẹp mùa thu.

(Phan Thượng Hải)

9/20/21

_______________________________

BÀN VỀ THƠ MỚI

 

(Trích 2 Đoạn trong bài tựa đề "THƠ MỚI" mới đăng trong website phanthuonghai.com qua link: http://phanthuonghai.com/Documents/tho van/lam tho/tho moi.pdf)

(1) 

 

Danh từ "Thơ Mới" bắt đầu xuất hiện cùng lúc với phong trào "Thi Nhân Tiền Chiến". Vào đầu thập niên 1930s cho đến lúc bắt đằu cuộc chiến tranh 1945-1954 (thời kỳ Tiền Chiến), có xuất hiện nhiều thi nhân làm những Bài Thơ Mới và sáng tạo để áp dụng thêm những Thể Thơ Mới. Do đó đề tài Thơ Mới gồm có Bài Thơ Mới và Thể Thơ Mới.  Thơ Mới luôn dùng chữ Quốc ngữ. 

 

Một Bài Thơ trong lịch sử thi văn nước Việt có 3 loại:

            Bài Thơ Cổ Điển

            Bài Thơ Mới Có Vần

            Bài Thơ Mới Không Có Vần

 

* Bài Thơ Cổ Điển (Luôn Có Vần)

 

Thi nhân nước Việt sau khi dành độc lập nhất từ thời nhà Lý (thế kỷ thứ 10) đã có làm Thơ Cổ Điểnvới những Bài Thơ Cổ Điển dùng chữ Hán và chữ Nôm theo những Thể Thơ Cổ Điển.

            Đường Luật Bát Cú (Bát Cú = 8 câu)

            Đường Luật Tứ Tuyệt (Tứ Tuyệt = 4 câu)

            Cổ Phong Tràng Thiên

            Lục Bát Đoản Thiên hoặc Tràng Thiên

            Song Thất Lục Bát Đoản Thiên hoặc Tràng Thiên

(Bài Thơ Đoản Thiên có từ 8 câu trở xuống.  Bài Thơ Tràng Thiên có nhiều hơn 8 câu).

 

Một Bài Thơ Cổ Điển chỉ dùng một Thể Thơ Cổ Điển mà thôi.  Một Bài Thơ Cổ Điển Tràng Thiên thì luôn luôn liên tục.

Từ thế kỷ thứ 19, thi nhân của Thơ Cổ Điển dùng chữ Quốc ngữ.

 

* Bài Thơ Mới Có Vần

 

Thi nhân nước Việt dùng chữ Quốc ngữ (nhất là từ đầu thập niên 1930s) bắt đầu sáng tạo thêm những Thể Thơ Mới và làm những Bài Thơ Mới. 

 

Những Thể Thơ Mới được sắp loại tùy theo cách gieo Vần:

            Thể Thơ Mới Vần Liên Tiếp

            Thể Thơ Mới Vần Ôm

            Thể Thơ Mới Vần Gián Cách

            Thể Thơ Mới Vần Hỗn Tạp

Vần trong các Thể Thơ Mới có những đặc tính:

            Có nhiều Vần Trắc cũng như Vần Bằng

            Có nhiều Vần Lơi cũng như Vần Chánh  

            Có thể có Lạc Vận

 

Một Bài Thơ Mới Có Vần Tràng Thiên có thể:

            gồm những câu liên tục 

            gồm những đoạn tứ cú (4 câu)

 

Một Bài Thơ Mới Có Vần có thể:

            chỉ áp dụng một Thể Thơ Mới hay Thể Thơ Cổ Điển cho toàn bài thơ.

            áp dụng nhiều Thể Thơ Mới hoặc Thể Thơ Cổ Điển cho bài thơ (mỗi Đoạn của Bài Thơ có Thể Thơ khác nhau).

 

Câu thơ của Bài Thơ Mới Có Vần có theo Luật Bằng Trắc gọi là Luật Đổi Thanh.  Các thi sĩ giỏi của Thơ Mới đều dùng Luật Đổi Thanh mặc dù luật nầy không bắt buộc cho thi nhân phải dùng như luật Bằng Trắc của những Thể Thơ Cổ Điển và Bài Thơ Cổ Điển.

 

* Bài Thơ Mới Không Vần

 

Thi nhân nước Việt từ thời kháng Pháp (1945-1954) có làm những Bài Thơ Mới Không Vần và không theo một Thể Thơ nào hết và thường là Tràng Thiên liên tục.  Toàn bài thơ gồm những câu văn xuôi sắp thành hình thức xuống hàng như một bài thơ.  Thí dụ: bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm.  Trong những trường hợp ngoại lệ nầy thì Bài Thơ Không Vần không theo một luật lệ nào hết!

Theo Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, bài thơ phải có vần thì mới đúng nghĩa của nó. "Thơ là văn vần", nếu không có vần thì là văn xuôi.  Tuy nhiên ngày nay thi nhân vẫn làm Bài Thơ Không Vần, và dĩ nhiên không theo Luật Đổi Thanh.

 

(2)

 

Bài Thơ Mới dùng Thể Thơ Đường Luật

 

Nếu Bài Thơ Mới dùng chỉ dùng Thể Đường Luật Tứ Tuyệt (4 câu) hay Đường Luật Bát Cú (8 câu) thì Bài Thơ Mới sẽ có thêm nhiều Đoạn để có nhiều hơn 8 câu.

Vì âm thanh của Thể Thơ Đường Luật rất hay và muốn tránh Đối trong Đường Luật Bát Cú nên thi sĩ thường làm Bài Thơ Mới Tràng Thiên với nhiều Đoạn 4 câu theo Thể Đường Luật Tứ Tuyệt.

 

Đây là những bài thơ nổi tiếng gồm nhiều Đoạn theo Thể Đường Luật Thất Ngôn Tứ Tuyệt

 

TRÚT LINH HỒN

 

Máu đã khô rồi thơ cũng khô

Tình ta chết yểu tự bao giờ

Từ nay trong gió, trong mây gió

Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ

 

Ta còn trìu mến biết bao người

Vẻ đẹp xa hoa của một trời

Đầy lệ đầy thương đầy tuyệt vọng

Ôi! Giờ hấp hối sắp chia phôi!

 

Ta trút linh hồn giữa lúc đây

Gió sầu vô hạn nuối trong cây

- Còn em sao chẳng hay gì cả?  

Xin để tang anh đến vạn ngày.

 

(Hàn Mặc Tử)

 

 

TRÀNG GIANG 

 

Gợn sóng tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy giòng

 

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sầu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu

 

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê rờn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ  nhà.

 

(Huy Cận)

 

 

MỘT CHÚT TÌNH

 

Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng

Mà sầu trong dạ đã mang mang

Tình yêu như bóng trăng hiu quạnh

Lạnh lẽo đêm trường dãi gió sương

 

Ta chỉ xin em một chút tình

Cho lòng thắm lại với ngày xanh

Sao em quên cả khi chào đón

Tình ái chiều xuân đứng trước mành

 

Rộn rã cười vang một góc lầu

Ngây thơ em đã biết gì đâu !

Đêm khuya trăng đọng trong cây lá

Vò võ ta xe mấy đoạn sầu

 

Lác đác ngày xuân rụng trước thềm

Lạnh lùng ta dõi bước chân em

Âm thầm ấm mối xa xa vọng

Đường thế đâu tìm bóng áo xiêm

 

Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau

Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau

Chờ anh dưới gốc sim già nhé !

Em hái đưa anh đóa mộng đầu.

 

(Lưu Trọng Lư)

 

 

TỰ TÌNH DƯỚI HOA

 

Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng

Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng

Mắt xanh là bóng dừa hoang dại

Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng

 

Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay

Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?

Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ

Nửa như hoài vọng, nửa như say

 

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ

Hương ngàn gió núi đọng hàng mi

Tâm tư khép mở đôi tà áo

Hò hẹn lâu rồi…Em nói đi

 

Em muốn đôi ta mộng chốn nào?

Ước nguyền đã có gác trăng sao

Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý

Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào

 

Em chẳng tìm đâu có sẵn thơ

Nắng trong hoa, với gió bên hồ

Dành riêng em đấy. Khi tình tự

Ta sẽ đi về những cảnh xưa

 

Rồi buổi u sầu, em với tôi

Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời

Vai kề một mái thơ phong nguyệt

Hạnh phúc xa xa miệng mỉm cười.

 

(Đinh Hùng)

 

 

HAI SẮC HOA TI GÔN

 

Một mủa thu trước mỗi hoàng hôn

Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn

Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc

Tôi chờ người đến với yêu đương

 

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài trong lúc thấy tôi vui

Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,

Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”

 

Thuở đó, nào tôi đã hiểu gì

Cành hoa tan tác của sinh ly

Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng,

Là chút lòng trong chẳng biến suy”

 

Đâu biết lần đi một lỡ làng

Dưới trần gian khổ chết yêu đương

Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm

Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…

 

Từ đấy thu rồi thu lại thu

Lòng tôi còn giá đến bao giờ?

Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…

Người ấy, cho nên vẫn hững hờ

 

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Ái ân lạt lẻo của chồng tôi

Mà từng thu chết, từng thu chết

Vẫn dấu trong tim một bóng người

 

Tôi nhớ lời người trước bảo tôi

Một mùa thu trước rất xa xôi

Đến nay tôi hiểu thì tôi đã

Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

 

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ

Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu

Gió về lạnh lẽo chân mây vắng

Người ấy ngang sông đứng ngóng đò

 

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng

Trời ơi!  Người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ tới loài hoa…vỡ

Tựa trái tim phai, tựa má hồng?

 

(TTKH) 1945

 

 

KHUYÊN AI KÉN VỢ

 

Lấy vợ khuyên ai kén vợ hiền

Kén người đức hạnh, bậc chân chuyên

Tốt duyên gặp được người như nguyện

Giá nọ nhà vàng đúc cũng nên

 

Lấy vợ khuyên ai kén vợ xoàng

Cần chi giàu có với quan sang

Quí hồ nội trợ tề gia giỏi

Cái cảnh gia đình mới vẻ vang

 

Lấy vợ khuyên ai cốt chữ tình

Xin dừng vụ lợi với ham danh

Mấy người tiểu kỷ vì danh lợi

Khó trọn cùng nhau nghĩa tử sinh

 

Lấy vợ không nên kén vợ giàu

E rằng ỷ của lại khinh nhau

Hổ thay ! Cái tiếng nhờ lưng vợ !

Tiếng ấy anh hùng há chịu đâu !

 

Lấy vợ không nên lấy ả đầu

Hoa tàn, nhị rữa, tiết còn đâu

Chỉ quen nghề nghiệp nhà son phấn

Chẳng trách phương ngôn đã có câu (*)

 

Lấy vợ không nên lấy vợ nhiều

Một bà thôi cũng đủ thương yêu

Ai về nhắn nhủ phường tham thịt

Cả lẻ làm chi, tổ ỷ eo…!

 

(Tú Mỡ)

 

(*) Chú thích: Phương ngôn rằng: “Lấy quan, quan cách, lấy khách, khách về Tàu, lấy nhà giàu, nhà giàu hết của”.

 

CÒN GẶP NHAU

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

Lợi danh như bóng mây chìm nổi

Chỉ có tình thương để lại đời

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương

Tình người muôn thuở vẫn còn vương

Chắt chiu một chút tình thương ấy

Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi

Bao nhiêu thú vị ở trên đời

Vui chơi trong ý tình cao nhã

Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ cười

Cho tình thêm thắm ý thêm tươi

Cho hương thêm ngát đời thêm vị

Cho đẹp lòng tất (?) cả mọi người

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chào

Giữa miền đất rộng với trời cao

Vui câu nhân nghĩa tròn sau trước

Lấy chữ nhân tình gửi tặng nhau

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ say

Say tình say nghĩa bấy lâu nay

Say thơ say nhạc say bè bạn

Quên cả không gian lẫn tháng ngày

 

Còn gặp nhau thỉ hãy cứ đi

Đi tìm chân lý lẽ huyền vi

An nhiên tự tại lòng thanh thản

Đời sống tâm linh thật diệu kí !

 

(Tôn Nử Hỷ Khương)

BS PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

GIÀ HAY QUÊN

Tuổi già bớt nhớ lại hay quên

Ráng nhớ điều hay, ráng bớt quên

Cổ tích cố nhân nhiều lúc nhớ

Kịp thời đúng chỗ lắm lần quên

Biết nên hỉ xả tâm hằng nhớ

Biết phải từ bi tánh khó quên

Nhớ chuyện tốt lành quên chuyện xấu

Đến khi hết nhớ, hết còn quên!

(Phan Thượng Hải)

9/13/20

Nhân có Buổi Hội Thảo và Triển Lãm về Phan Thanh Giản tại Houston ngày 15/8/2021, xin mời vào website phanthuonghai.com để đọc:

Giai đoạn lịch sử trong thời gian Pháp chiếm Nam Kỳ

và có liên quan tới ông Phan Thanh Giản: 

http://phanthuonghai.com/Documents/tho%20va%20su/8%20phap%20thuoc%20the%20ky%2019/phan%20thanh%20gian%20va%20nam%20ky%201859-1867.pdf

VỀ 2 ÔNG TRẦN HUY LIỆU và TRẦN VĂN GIÀU

Bài của Ls Phan Đào Nguyên minh bạch cho ông Phan Thanh Giản có liên quan chính tới sử gia Trần Huy Liệu.  Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu là số 1 và số 2.  Tui xin gởi vài đoạn đã viết về việc làm của 2 người trong lịch sử chính trị trước khi họ phải thành sử gia (trong những bài "Thơ và Việt Sử" đăng trong phanthuonghai.com).

Xin mời đọc chơi cho vui.

Thân mến

Hải

 

TRẦN HUY LIỆU VÀ TRẦN VĂN GIÀU

 

Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu là 2 sử gia cầm đầu ở Miền Bắc và sau nầy CHXHCNVN (sau 1975)..

Hai người đã hoạt động chính trị trước đó nhưng chuyển sang thành Sử Gia của chính phủ, cầm đầu Viện Sử Học của nhà nước cho đến khi qua đời.

Đây là sơ lược những hoạt động chính trị của 2 người trước khi thành sử gia lãnh đạo của nhà nước.

 

 

TRẦN HUY LIỆU

 

(Trích từ Bài: Thơ và Việt Sử - Thời kỳ Độc Lập.  Đoạn "Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh")

 

Dưới tên Hồ Chí Minh và Việt Minh, Hồ Chí Minh đã lập Chính phủ và Quân đội chuẩn bị vì Nhật sắp thua Đệ Nhị thế chiến.

Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân của Võ Nguyên Giáp (1944) hợp với Cứu Quốc Quân của Chu Văn Tấn (1940) thành Việt Nam Giải Phóng Quân (15-5-45) với 3 Chỉ huy là Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn và Trần Đăng Ninh.  

            Trần Đăng Ninh (1910-1955) làm Hậu Cần trong Kháng chiến. 

            Chu Văn Tấn (1909-1984) vào Đông Dương Cộng Sản Đảng (1935) hoạt động ở vùng Lạng Sơn với Hoàng Văn Thụ.  Lập Đội Du Kích Bắc Sơn rồi đổi thành Cứu Quốc Quân (1941), từng hộ vệ đại hội lập Việt Minh.  

Hội ở Tân Trào gồm Việt Minh / Đảng Cộng Sản Đông Dương (CS) và Đảng Dân Chủ (DC) lập Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng có 5 ủy viên thường trực: Hồ Chí Minh (CS), Trần Huy Liệu (CS), Nguyễn Lương Bằng (CS), Phạm Văn Đồng (CS) và Dương Đức Hiền (DC) với Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch và Trần Huy Liệu làm Phó Chủ Tịch.

            Trần Huy Liệu (1901-1969) vào VN Quốc Dân Đảng (năm 1928) thì bị bắt tù Côn Đảo (1928-1935).  Khi thả về, Trần Huy Liệu gia nhập Đông Dương Cộng Sản Đảng vào năm 1936 rồi lại bị tù Sơn La (1939-1945).

            Nguyễn Lương Bằng (1904-1979) sang Tàu vào VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925) rồi CS Đảng (1930?).  Nguyễn Lương Bằng bị bắt ở Hương Cảng (1931), giải về VN. Sau đó: vượt ngục (1932), bị bắt tù ở Sơn La (1935) rồi vượt ngục (1943).

 

 

(Trích từ Bài: Thơ và Việt Sử: Thời Pháp Thuộc Thế kỷ 20.  Đoạn "Trần Trọng Kim")

 

Tháng 8-1945, ngay sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim từ chức.  Chính phủ Việt Minh của Hồ Chí Minh từ Hà Nội sai Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Thi sĩ Cù Huy Cận vào Huế buộc vua Bảo Đại phải thoái vị.  Ngày 25-8-45, vua Bảo Đại ban chiếu thoái vị, chấm dứt thời đại quân chủ của nước Việt Nam bằng câu nói nổi danh: “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”.  Ngày 30-8-45, trên lầu Ngọ Môn trước mặt dân chúng, ông trao ấn kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh và sau đó ông di hành ra Hà Nội (Thăng Long) nhận làm Cố Vấn cho Chính Phủ VNDCCH của Hồ Chí Minh với một câu nói khác: “Trong lúc dân chúng làm cách mạng mà mình bỏ (thì) tri ôốc dôộc lắm”. (xấu hổ lắm).  

 

 

TRẦN VĂN GIÀU

 

(Trích từ Bài: Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc Thế kỷ 20.  Đoạn "Nguyễn An Ninh")

 

Các nhà cách mạng của người Việt bắt đầu ở Pháp từ thập niên 1910s-1920s với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền rồi đến ông Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành. 

            Năm 1923, Nguyễn Tất Thành sang học ở Liên Xô và sau đó sang Tàu với tên là Lý Thụy rồi Nguyễn Ái Quốc rồi cuối cùng về Việt Nam năm 1945 với tên Hồ Chí Minh.  

            Năm 1928, ông Nguyễn Thế Truyền (1889-1968) giao lại cho ông Tạ Thu Thâu rồi về nước sống với người vợ Pháp ở Nam Định.  Ông bị Pháp đày đi Madagascar (Mã Đảo) trong thời Đệ Nhị thế chiến (1940-1946) rồi được tha về và di cư vào Nam (1954).  Ông có ra tranh cử Phó Tổng Thống năm 1961 cùng liên danh với ông Hồ Nhật Tân.    

            Ông Tạ Thu Thâu (1906-1945) sang Pháp vào năm 1927 theo ông Nguyễn Thế Truyền và trở thành Cộng Sản Đệ Tứ Quốc Tế ở Pháp (1929) cùng với các ông Phan Văn Hùm (1902-1946), Huỳnh Văn Phương (?-1945), Trần Văn Thạch (1905-1945).  Lúc đó cũng có nhóm Đệ Tam Quốc Tế ở Pháp gồm có Nguyễn Văn Tạo (1908-1970) và Trần Văn Giàu (1911-2010).  Các ông đều chống chính phủ Pháp trong việc xử tử ông Nguyễn Thái Học và các đồng chí năm 1930 nên lần lượt bị trục xuất hay trốn về nước.

 

Sau khi về Sài Gòn, nhóm Đệ Tứ Quốc Tế (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch) mở tuần báo Tranh Đấu (La Lutte) vào năm 1933 và Nguyễn Văn Tạo (Đệ Tam Quốc Tế) mở tờ báo Trung Lập. 

Có một người kháctrong báo Tranh Đấu lại thuộc Cộng Sàn Đệ Tam Quốc Tế là Dương Bạch Mai (1904-1964).  Dương Bạch Mai sang Pháp cuối thập niên 1920, được đi học tập ở Liên Xô (như Nguyễn Tất Thành) từ 1929 đến 1932 thì về nước. 

Riêng Trần Văn Giàu (Đệ Tam Quốc Tế) chỉ âm thầm dạy học sau khi về nước ở Sài Gòn rồi được bí mật đưa sang học ở Liên Xô (1931-1933).  Pháp biết được nên bỏ tù Trần Văn Giàu 2 lần từ năm 1935. Lần thứ nhì Trần Văn Giàu cùng với Tô Ký vượt ngục.  

Ông Huỳnh Văn Phương (Đệ Tứ Quốc Tế) về nước sống ở Bắc Kỳ, hoạt động cùng nhóm với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu.  Năm 1945, ông bị Việt Minh thủ tiêu.

 

......................

Tới Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945), Pháp bắt giam hầu hết những người chống đối.  

            Ông Nguyễn An Ninh chết ở Côn Đảo năm 1943.  Ông Phan Văn Hùm đi tù Côn Đảo (1939-1942) rồi quản thúc ở Tân Uyên.  Ông Tạ Thu Thâu cũng bị tù ở Côn Đảo (1940-1944), khi được thả thì ra hoạt động ở Bắc Trung Kỳ.  

            Ông Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai đi tù Côn Đảo (1939-1943) rồi về bị quản thúc ở Tân Uyên.  Trong khi đó Trần Văn Giàu bí mật tái lập Xứ Ủy Nam Kỳ của Đông Dương Cộng Sản Đảng vào năm 1943 (thay thế Võ Văn Tần và Phan Đăng Lưu).

            Ông Nguyễn Thế Truyền mặc dù sống như thường dân vẫn bị đày đi đảo Madagascar cũng như Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài (1941-46).

 

......................

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp (9-3-1945), Trần Văn Giàu được Nhật giao cho cầm đầu Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ở Nam Kỳ với Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo. Các ông Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch sau nầy cũng ở trong Mặt Trận.  

Ông Tạ Thu Thâu bị Việt Minh thủ tiêu ở Quảng Ngãi ngay sau khi Nhật cướp chánh quyền (9-3-45). 

 

 

(Trích từ Bài: Thơ và Việt Sử - Thời kỳ Độc Lập.  Đoạn "Lãng Ba Phan Văn Bộ")

 

.................

Tháng 3 năm 1945, sau khi đảo chánh Pháp, Nhật cho vua Bảo Đại lập chính phủ Trần Trọng Kim.  Trong Nam Kỳ, vua Bảo Đại được đặt một quan Khâm Sai, là ông Nguyễn Văn Sâm, cũng như Khâm Sai Phan Kế Toại ở Bắc Kỳ.  

Tuy nhiên thực quyền được Nhật giao cho Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm tất cả các đảng phái và giáo phái ở Nam Kỳ, cai trị Sài Gòn và địa phương.  Ngày 23-3-45, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất rút lui nhường quyền lãnh đạo cho Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ của Việt Minh (Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế) với Trần Văn Giàu(thuộc CS Đệ Tam Quốc Tế) làm Chủ Tịch.  

 

Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Anh vào giải giới quân Nhật phía Nam vỹ tuyến 16 (từ Tourane tức là Đà Nẵng tới mũi Cà Mau) gồm Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ.  Quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn.  

Trong khi đó Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ đã bị chống đối của Cao Đài, Hòa Hảo và Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskyist) nên phải nhượng bộ và cải tổ, Phạm Văn Bạch (cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế) thay Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch.  Sài Gòn hoàn toàn rối loạn giữa người Pháp, người Việt và các đảng phái. 

 

Sau một thời gian thương thuyết, quân Pháp tấn công quân Việt Nam và chiếm Tòa Thị Chính Sài Gòn là trụ sở của Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ ngày 23-9-45.  (Ngày 23-9 nầy sau nầy được gọi là ngày Nam Bộ Kháng Chiến).  Quân Việt Nam thua, phải rút ra ngoại ô và phong tỏa Sài Gòn. Ngày 3-10-45, tướng Leclerc đem 10.000 quân đổ bộ vào Sài Gòn.  Ngày 9-10, Anh và Pháp ký hiệp ước ở Luân Đôn xác định Anh hoàn toàn ủng hộ Pháp trong việc cai trị toàn Đông Dương dưới vỹ tuyến 16.  

 

...............

Ngày 16-10-45, quân Việt Minh rút về vùng kháng chiến.  Khi rút đi, Việt Minh giết 20 người nồng cốt của phe Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskyist), trong đó có ông Phan Văn Hùm.  Quân đội của Cao Đài, của Hòa Hảo (gọi là Dân Xã) và của Bình Xuyên (của Tướng Bảy Viễn) không tham gia, chỉ rút về địa phận của mình.  

Trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp còn có Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của các ông Nguyễn Văn Sâm (cựu Khâm sai), Phan Khắc Sửu, Trần Văn Ân và Hồ Văn Ngà.   Nó là hậu thân của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội (của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để) ở Nam Kỳ.  Năm 1946, ông Nguyễn Văn Sâm và Hồ Văn Ngà bị VM thủ tiêu.  

Trong khoảng 1945-1946, VM dưới quyền của Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai thủ tiêu khoảng 2.500 người đối lập (theo lời của Trần Văn Giàu về sau nầy), trong đó có ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) bị giết ngày 29-9-1945.  Hai người bạn của ông trong đảng Lập Hiến (1923-1937) là ông Nguyễn Phan Long (1889-1960) và ông Trương Văn Bền (1883-1956) sang Pháp năm 1948 may mắn sống sót.  Con gái của ông Bùi Quang Chiêu là bà Henriette Bùi Quang Chiêu đậu Bác sĩ Y Khoa ở Pháp vào năm 1929, là Bác sĩ Y Khoa đầu tiên của Việt Nam.  

Sau nầy, Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) của đạo Hòa Hảo cũng mất tích ngày 16-4-1947 trong chuyến đi hội với VM ở Tân Phú.     

 

Quân Pháp lần lượt chiếm lại lãnh thổ: phía Nam Sài Gòn chiếm đến mũi Cà Mau (25-10-45 tới 5-2-46) và phía Bắc Sài Gòn tới Kom Tum và Đà Nẵng (23-10-45 tới tháng 7-46).  Về chính trị, Pháp cho lập Nam Kỳ Quốc trong Liên Bang Đông Dương với chính phủ của Thủ Tướng Bs Nguyễn Văn Thinh ra mắt ngày 26-3-46, làm bù nhìn cho Pháp, cai trị dưới vỹ tuyến 16.

 

...............

Kháng chiến thuộc Việt Minh không được người trong Nam ủng hộ, mặc dù kháng chiến rất dữ dội ở miền Bắc.  Kháng chiến Việt Minh trong Nam (thường gọi là Nam Bộ) thật ra gồm Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ.  (Chữ Bộ được người kháng chiến dùng thế cho chữ Kỳ?).  

Các nhân vật của Nam Bộ Kháng Chiến lúc đầu từ Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ bị chuyển về Bắc như Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai, Bs Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tạo… (trừ Hà Huy Giáp).  Đổi lại chính phủ Hồ Chí Minh đưa vào Nam Tôn Đức Thắng (1946) rồi Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ và các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn... (Nguyễn Bình tử trận năm 1951 còn Nguyễn Sơn trở về với Trung Cộng năm 1950).  Khi tập kết năm 1954 thì có tên của các tướng Tô Ký, Đồng Văn Cống, Trần Văn Trà…. 

 

BS PHAN THƯỢNG HẢI 

_______________________________

LỜI THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

                                        (Bs Phan Thượng Hải)

                           

 Ông Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những lời nói và câu thơ làm nên và tiên đoán lịch sử.  Ngoài ra ông cũng là một thi sĩ tiền phong về thơ Hán Nôm với nhiều sáng tạo.


 

TIỂU SỬ

 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là người học rộng và giỏi tướng số.  Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên tên là Nguyễn Văn Đạt người làng Trung Am huyện Vĩnh Lại trấn Hải Dương lúc bấy giờ (nay là xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).  Vào cuối nhà Hậu Lê, Mạc Đăng Dung chuyên quyền và cướp ngôi nhà Lê (1527); ông ở ẩn, không chịu đi thi làm quan. 

 

Về sau khi nước nhà tạm thời yên ổn dưới triều nhà Mạc; ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, năm 43 tuổi, ra thi Hương đậu Giải Nguyên, thi Hội thì đậu Hội Nguyên rồi vào thi Đình đậu Trạng Nguyên (1534-1535).  Ông Ngưyễn Bỉnh Khiêm làm quan đến Lại Bộ Thị Lang và Đông Các Đại Học Sĩ thì từ quan năm 1542 (53 tuổi) và về trí sĩ tu hành ở Bạch Vân am nơi quê quán ở làng Trung Am.  

Các vua nhà Mạc vẫn có hỏi ý kiến ông và còn phong cho ông là Lại Bộ Thượng Thư Trình Tuyền Hầu rồi Thái Phó Trình Quốc Công nên tục gọi ông là Trạng Trình.  Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan “tại gia” cho đến năm ông 73 tuổi mới hoàn toàn về hưu.

Ông Trạng Trình cũng cố vấn cho chúa Trịnh Kiểm và chúa Nguyển Hoàng chứ không là tôi thần của riêng triều đình nào hết.  Những lời cố vấn của ông Trạng Trình đều có hiệu quả tốt cho đất nước: Bắc Hà hòa bình và thịnh vượng dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh (khoảng 250 năm); nhà Mạc tồn tại thêm 3 đời ở Cao Bằng sau khi mất Thăng Long và nhất là Chúa Nguyễn vào được Nam Hà và diệt Chiêm Thành và chiếm Thủy Chân Lạp, mở rộng lãnh thổ nước Việt ta thành gấp đôi.  

 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 94 tuổi, có 3 vợ và 12 con (7 trai và 5 gái).  Con trai đều đỗ đạt làm quan.  Học trò của ông là ông Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và ông Lương Hữu Khánh (con của thầy ông là ông Lương Đắc Bằng) đều làm đến Thượng Thư trong triều đình Hậu Lê trung hưng.  Học trò tôn ông là Tuyết Giang phu tử.  Thế kỷ 20, Cao Đài Giáo ở Tây Ninh phong ông là Thanh Sơn Đạo Sĩ hay Thanh Sơn Chân Nhân.

 

Nho Giáo chỉ có về nhân sinh quan truyền sang Đại Việt với 2 nhà Nho tiêu biểu là ông Chu Văn An và ông Nguyễn Trãi.  Nhưng đến thời Tống Nho, anh em Trình Hạo và Trình Di và Chu Hi đưa ra học thuyết Lý Khí (gọi là Lý Học), Nho Giáo có thêm Hình Nhi Thượng và biến thành Tân Nho Giáo.  Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà Nho nước ta tiêu biểu cho sự hiểu biết về Lý Học Tân Nho Giáo.  “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” là câu người Tàu khen ông Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông Lý Học.  Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có tước Trình Tuyền Hầu trước khi được nhà Mạc thăng lên là Trình Quốc Công. 



 

THƠ TIÊN ĐOÁN LỊCH SỬ

 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) sống vào thế kỷ 16 với tên nước là Đại Việt.  Mãi đến năm 1802 (đầu thế kỷ 19), nước ta mới đổi tên là Việt Nam.  Tuy nhiên trong 2 bài thơ gửi cho 2 ông Trạng Nguyên khác, Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng chữ “Việt Nam” rồi: 

 

Thơ gửi Trạng Nguyên Nguyễn Thuyến

 

Trạng Nguyên Nguyễn Thuyến (1495-1557) hiệu là Cảo Xuyên người làng Canh Hoạch huyện Thanh Oai trấn Sơn Nam đỗ Trạng Nguyên năm 1532 (3 năm và 1 khóa trước ông Nguyễn Bỉnh Khiêm) làm quan đến Lại Bộ Thượng Thư tước Thê Quận Công.

 

TÂY HỘ KÝ THANH OAI TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN CẢO XUYÊN (*)

Tạc dữ ngã tằng ấp tiếu đàm                       Bữa trước cùng ông mãi tiếu đàm

Bất tài tư xuyễn ngã ưng tàm                      Kém tài tự thẹn dám đâu ham

Khôi tam niên ngã quân đa hạnh                Trạng Nguyên trước tớ ông may nhỉ

Trù nhất thâu quân ngã vị cam                   Trù tính thua ông tớ chửa cam

Hồ học tích niên tằng cộng giảng               Biển học năm nao cùng giảng thuyết

Hán duy kim nhật hữu tường thanh            Việc quân ngày tới lại chung làm

Tiền trình viễn đại quân tu ký                     Đường xa lối rộng ông nên nhớ

Thùy thị thanh danh trọng Việt Nam.         Tiếng để sao cho đẹp Việt Nam.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)                                 (? Dịch)

 

(*) Hộ giá đến miền Tây gửi Thanh Oai Trạng Nguyên Nguyễn Cảo Xuyên.

 

Thơ gửi Trạng Nguyên Giáp Hải

 

Trạng Nguyên Giáp Hải (1504-1586) hiệu là Tiết Trai người làng Công Luận huyện Văn Giang (nay thuộc Hải Hưng) sau đến ở làng Dĩnh Kế huyện Thượng Nhân (nay thuộc Hà Bắc) thi đỗ Trạng Nguyên năm 1538 (3 năm và 1 khóa sau ông Nguyễn Bỉnh Khiêm) làm quan đến Lại Bộ Thượng Thư tước Sách Quận Công.

 

QUY LÃO KÝ LẠI BỘ THƯỢNG THƯ TÔ KHÊ BÁ (*)

Kiểm điểm hành niên thất thập tam           Tuổi đã bảy ba ở cõi phàm

Huyền xa sai vãn dã ưng tàm                     Từ quan muộn, mắc tiếng tham lam

Trì khu tự hứa ta vô lực                              Ruổi rong vẫn biết đà thua kém

Danh lợi hà cầu khởi thị tham?                  Danh lợi chăng cầu há bảo tham

Miễn lực vọng công phù đế thất                 Gắng sức ông chăm phò đế nghiệp

Thâu nhàn tiếu ngã lão Vân Am                Hưởng nhàn tớ ở mãi Vân Am

Thọ tinh cộng chiếu quang mang tại          Thọ tinh vằng vặc trên nền thẳm

Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam.         Sau trước rạng soi đất Việt Nam.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)                                (? Dịch)

 

(*) Về hưu gửi Lại Bộ Thượng Thư Tô Khê Bá (Trạng Nguyên Giáp Hải).


 

Theo ông Phan Kế Bính trong Nam Hải Dị Nhân truyện thì ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài thơ Sấm như sau như là một “tiên tri” về “Lê Mạc phân tranh” 

 

LỜI SẤM

Non sông nào phải buổi bình thời

Thù đánh nhau chi khéo nực cười

Cá vực chim rừng ai khiến đuổi

Núi xương sông huyết thảm đầy vơi

Ngựa phi chắc có hồi quay cổ

Thú dữ nên phòng lúc cắn người

Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa

Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi.

(Phan Kế Bính phỏng dịch)

 

Câu “Ngựa phi chắc có hồi quay cổ” tiên đoán nhà Lê sẽ khôi phục được nước.  Câu “Thú dữ nên phòng lúc cắn người” tiên đoán gia đình Chúa Trịnh sẽ giữ quyền nhà Lê.  Những điều tiên đoán trong bài Sấm nầy đều đúng.  

Tuy nhiên nguyên văn của bài thơ nầy làm bằng chữ Hán tựa đề là Cảm Hứng trong Bạch Vân Am thi tập như sau (chứ không có trong Sấm Trạng):

 

CẢM HỨNG                                                      

Thái hòa vũ trụ bất Ngu Chu (*)                        

Hổ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù               

Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu                   

Uyên ngư tùng trước vị thùy ngu                  

Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã                    

Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu              

Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước                  

Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.              

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)                                   

(*) Thời Ngu Thuấn và Chu Văn Vương là những thời thịnh trị theo Nho Gia.

 

Nguyên văn của 2 câu “Ngựa phi chắc có hồi quay cổ/Thú dữ nên phòng lúc cắn người” là “Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã/Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu”.  

 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm bài thơ nầy lúc ông đã từ quan tại triều đình nhà Mạc (sau 1542).  Nhà Lê Trung Hưng chiếm Thanh Hóa năm 1543 và chiến tranh Lê Mạc thật sự từ 1545 cho đến khi chấm dứt vào năm 1593 sau khi nhà Lê và chúa Trịnh Tùng chiếm Thăng Long và giết vua Mạc Mậu Hợp (1592) rồi giết Mạc Toàn (con Mạc Mậu Hợp) và Mạc Kính Chỉ (1593). 

 

Dưới đây là lịch sử "Lê Mạc phân tranh":

 

Ông Nguyễn Kim lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao năm 1533 chính thức sáng lập nhà Hậu Lê Trung Hưng.  Vua Lê Trang Tông là Hoàng tử Lê Duy Ninh con của Lê Chiêu Tông. 

Tục truyền rằng Vua Lê Trang Tông có biệt danh là Chúa Chổm vì lúc hàn vi ông rất nghèo nên thiếu nợ rất nhiều.  Khi ông làm vua, dân chúng kéo tới cung vua ở Thăng Long để đòi nợ.  Điều nầy chỉ là truyền thuyết và không đúng sự thật vì nhà Hậu Lê khôi phục Thăng Long sau khi vua Lê Trang Tông đã qua đời ở Thanh Hóa.  

Sau nầy sử gia cũng nghi ngờ là vua Lê Trang Tông không phải là con của vua Lê Chiêu Tông vì Trang Tông sinh năm 1514 và Chiêu Tông sinh năm 1506.  Nhà Mạc thì tố cáo là ông Nguyễn Kim lập con riêng của mình lên làm vua là Lê Trang Tông.

 

Năm 1543, Nguyễn Kim về chiếm Thanh Hóa (và Nghệ An).  Tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng rồi 2 năm sau (1545) đầu độc chết ông Nguyễn Kim và trốn về với nhà Mạc.  Rể ông Nguyễn Kim là ông Trịnh Kiểm lên thay làm Thái Sư.

Năm 1546 Mạc Hiến Tông Phúc Hải chết, người con thế ngôi là Mạc Tuyên Tông Phúc Nguyên có chú là Tuyên Vương Mạc Kính Điển làm Phụ Chính.  Tướng Phạm Tử Nghi lập con Thái Tổ là Mạc Chính Trung và làm phản nhưng bị Mạc Kính Điển đánh dẹp và giết chết.

Từ 1545 tới 1580, nhà Mạc (dưới quyền Mạc Kính Điển) và nhà Lê (dưới quyền Trịnh Kiểm rồi Trịnh Tùng) giằng co không thắng bại.  Năm 1562, Mạc Tuyên Tông chết, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên làm vua.  Năm 1570, Trịnh Cối thua người em khác mẹ là Trịnh Tùng (cháu ngoại ông Nguyễn Kim) chạy về hàng nhà Mạc.  

Năm 1580, Mạc Kính Điển chết (em là Mạc Đôn Nhượng thay), nhà Mạc suy yếu.  Năm 1591 Trịnh Tùng tiến sát Thăng Long bắt được Tướng Nguyễn Quyện của nhà Mạc nhưng rút quân.  Năm 1592, Trịnh Tùng chiếm Thăng Long.  Mạc Mậu Hợp thua ở Hải Dương bị bắt và bị giết.  Con Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn cũng bị bắt và bị giết (1593).

Mạc Kính Chỉ (con Mạc Kính Điển) tự lập làm vua (1593) nhưng 3 tháng sau bị thua 2 tướng Hoành Đình Ái và Nguyễn Hữu Liêu của Trịnh Tùng ở Hải Dương và bị giết.


 

LỜI NÓI LÀM NÊN LỊCH SỬ

 

Từ những câu thơ trong đời ông tiên đoán đúng lịch sử, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những câu nói bất hủ làm nên lịch sử:

 

(1)

"Cao Bằng tuy thiểu khả diên sổ thế"

 

Sau khi mất Thăng Long, theo lời khuyên trên đây của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà Mạc rút về vùng Cao Bằng và tồn tại 85 năm sau (1593-1677) với 3 đời vua.  

Mạc Kính Cung (1593-1594): em Mạc Kính Chỉ, con thứ 7 của Mạc Kính Điển

Mạc Kính Khoan (1594-1628): cháu kêu Kính Cung bằng chú

Mạc Kính Vũ (1628-1677): con Kính Khoan.  Năm 1677, tướng Đinh Văn Tả của chúa Trịnh chiếm Cao Bằng.  Mạc Kính Vũ trốn sang Tàu.

Nhà Mạc tuy ở Cao Bằng được nhà Minh ở miền Nam ủng hộ nhưng không bao giờ mượn quân Tàu sang tiếp viện.

 

Nguyên văn của lời khuyên: “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy nhỏ nhưng có thể kéo dài nhiều thế hệ).

Câu nói nầy của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nên lịch sử.  


 

(2)

"Giữ Chùa thờ Phật thì được ăn oản"

 

Nhà Lê Trung Hưng bắt đầu khi ông Nguyễn Kim lập con của Lê Chiêu Tông là Lê Trang Tông (1533).  Vua Lê Trung Tông (con Trang Tông) chết (1556), không có con.  

Tục truyền rằng Thái Sư Trịnh Kiểm đã lưỡng lự muốn xưng làm Vua nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải.  Sau Trịnh Kiểm cho người đi lẽn ra Hải Dương hỏi ông Nguyễn Bỉnh Khiêm tức là Trạng Trình xem nên làm thế nào.  Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả chỉ ngảnh lại bảo đầy tớ: “Năm nay mất mùa thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”.  Nói rồi lại sai đầy tớ ra chùa bảo Tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa rồi bảo Tiểu rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì (được) ăn oản”.  Sứ giả về kể chuyện lại cho Trịnh Kiểm nghe.  Trịnh Kiểm hiểu ý mới cho người đi tìm con cháu họ Lê.

(Trần Trọng Kim/VNSL).

 

Nhờ đó vua Lê và chúa Trịnh cùng cai trị Bắc Hà yên tịnh khoảng 250 năm.  

 

Trong lịch sử, Chúa Trịnh có giết 3 vua Lê (Anh Tông, Kính Tông và Phế Đế Duy Phường) và 1 Thái tử (của vua Hiển Tông) nhưng không bao giờ tiêu diệt nhà Lê.  

Nhà Lê Trung Hưng bắt đầu khi ông Nguyễn Kim lập con của Lê Chiêu Tông là Lê Trang Tông (1533).  Vua Lê Trung Tông (con Trang Tông) chết (1556), không có con.  Theo lời khuyên của Trạng Trình, Thái sư Trịnh Kiểm không tự lập làm vua mà lập ông Lê Duy Bang là cháu 5 đời của Lam Quốc Công Lê Trừ (anh thứ hai của Thái Tổ Lê Lợi) làm vua là vua Lê Anh Tông.  Theo gia phả, vua Lê Anh Tông là vai ông của vua Lê Trung Tông (ông lên làm vua thế cháu).

Năm 1573, Lê Anh Tông đã muốn tự lập khỏi Chúa Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) khi ông nầy tranh quyền với anh là Trịnh Cối nhưng không xong nên cùng 4 người con lớn, chạy trốn vào Nghệ An.  Sau khi Trịnh Cối thua và hàng nhà Mạc thì vua Anh Tông bị bắt rồi bị Trịnh Tùng giết chết.  Con thứ năm của Anh Tông là Duy Đàm vì còn nhỏ tuổi (7 tuổi) không chạy theo vua cha được, ở lại kinh đô (Thanh Hóa) nên được Chúa Trịnh Tùng lập làm vua là Lê Thế Tông.  Trong thời vua Lê Thế Tông (vị vua thứ tư của nhà Lê Trung Hưng 1573-1599), nhà Lê và chúa Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long (1592).     

Vua Lê Kính Tông Duy Thái (con Thế Tông) mưu với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) lật đỗ Chúa Trịnh Tùng nhưng việc không thành nên Trịnh Tùng buộc vua Lê Kính Tông phải thắt cổ chết và lập Thái tử Lê Duy Kỳ làm vua là Lê Thần Tông vào năm 1619 (lúc 13 tuổi).

 

Vua Lê Thần Tông (1607-1662) làm vua lần thứ nhứt (1619-1643) và lần thứ nhì (1649-1662).  Vua tên là Lê Duy Kỳ là con trưởng của vua Lê Kính Tông và Hoàng hậu Trịnh thị Ngọc Trinh (con gái của Chúa Trịnh Tùng).  Do đó vua Lê Thần Tông là cháu nội của Vua Lê Thế Tông và cháu ngoại của Chúa Trịnh Tùng.  

Năm 1630, Chúa Trịnh Tráng (con Trịnh Tùng) ép Lê Thần Tông (24 tuổi) phải lấy con gái mình là Trịnh thị Ngọc Trúc làm Hoàng hậu.  Lúc đó bà Trịnh thị Ngọc Trúc nầy (36 tuổi) đã có 4 con và chồng là Lê Trụ đang bị giam trong ngục.  Hoàng hậu Trịnh thị Ngọc Trúc không có sinh hoàng tử và sau đó đi tu ở chùa Bút Tháp (ở Bắc Ninh).  Năm 1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (là vua Lê Chân Tông) lên làm Thái Thượng Hoàng.  Năm 1649, Lê Chân Tông (1630-1649) chết không có con nên Chúa Trịnh Tráng đưa Thái Thượng Hoàng Lê Thần Tông lên ngôi làm vua lần thứ nhì.  Năm 1662, vua Lê Thần Tông chết vì ung thư.

Vua Lê Thần Tông theo Chúa Trịnh đánh chúa Nguyễn tất cả 3 lần.

Vua Lê Thần Tông có những kỷ lục của một vị vua Việt Nam: làm vua 2 lần, có 4 người con làm vua (bằng với vua Trần Minh Tông) và là vua đầu tiên lấy vợ người Tây phương (người Hòa Lan, con gái của một thuyền trưởng). 

 

Bốn vị vua là con của Lê Thần Tông là:

Lê Chân Tông (1630-1649) lên ngôi năm 1643.

Lê Huyền Tông (1654-1671) lên ngôi năm 1662

Lê Gia Tông (1661-1675) lên ngôi năm 1671

Lê Hy Tông (1663-1716) lên ngôi năm 1676 rồi năm 1705 nhường ngôi cho con trưởng là Lê Dụ Tông và làm Thái Thượng Hoàng cho đến khi mất.  Vua Lê Hy Tông sanh ra 5 tháng sau khi cha mình là Lê Thần Tông qua đời.  Đời ông làm vua là thời thạnh trị của nhà Hậu Lê Trung Hưng vì Bắc Hà không còn chiến tranh.  Chiến tranh Trịnh Nguyễn (1627-1672) xảy ra trong thời Thần Tông, Chân Tông, Huyền Tông và Gia Tông (trong thời chúa Trịnh Tráng và Trịnh Tạc).  

 

Lê Dụ Tông (1679-1731) làm vua từ năm 1705.  Năm 1727, Chúa Trịnh Cương phế con trưởng của Lê Dụ Tông là Lê Duy Trường và lập con thứ là Duy Phường (mẹ là dòng họ Trịnh).  Biết là Lê Dụ Tông bất bình, Trịnh Cương ép vua nhường ngôi cho Duy Phường và lên làm Thái Thượng Hoàng (1729).  Dụ Tông mất năm 1731 thì đến năm sau (1732), Chúa Trịnh Giang phế Lê Đế Duy Phường thành Hôn Đức Công và lập Duy Trường làm vua là Lê Thuần Tông.  Năm 1735, Lê Thuần Tông qua đời, Chúa Trịnh Giang lập em là Duy Thận là vua Lê Ý Tông và 2 tháng sau thắt cổ Hôn Đức Công Duy Phường.  

Năm 1740, mẹ của Chúa Trịnh Giang truất phế Trịnh Giang (1711-1762), tôn là Thái Thượng Vương, giam lỏng trong cung (cho đến khi mất vào năm 1762) và lập em (Trịnh Giang) là Chúa Trịnh Doanh.  Chúa Trịnh Doanh liền bắt vua Lê Ý Tông làm Thái Thượng Hoàng (1740), nhường ngôi cho con trưởng Duy Diêu là Lê Hiển Tông (1717-1786).  

Vua Lê Hiển Tông giữ niên hiệu Cảnh Hưng trong 47 năm làm vua cho đến khi mất (1786).  Lê Duy Mật là con Lê Dụ Tông nổi lên chống lại Chúa Trịnh ở Thanh Hóa, phải 40 năm mới dẹp được (1740-1770).  Chúa Trịnh Sâm (con Trịnh Doanh) giết con trưởng của Hiển Tông là Duy Vỹ, giam con là Duy Khiêm với 2 người em của Duy Khiêm và lập Duy Cận (em Duy Vỹ) làm Thái Tử.  Năm 1783, Kiêu Binh truất phế Duy Cận thành Sùng Nhượng Công và lập Duy Khiêm làm Hoàng Thái Tôn.  Lê Duy Khiêm (sau đổi tên là Duy Kỳ) lên ngôi sau khi Lê Hiển Tông qua đời là vua Lê Chiêu Thống.  Vua Lê Thần Tông và vua Lê Chiêu Thống có trùng tên là Duy Kỳ.  

 

(3)

"Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân"

 

Cuối đời nhà Mạc, ông Nguyễn Kim (1468-1545) phò vua Lê Trang Tông ở Thanh Hóa mong chiếm lại đất nước từ nhà Mạc.  Ông Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất thuốc độc chết, binh quyền thuộc về rể là ông Trịnh Kiểm (1503-1570).  Thái Sư Trịnh Kiểm kiếm cớ định tội giết con của ông Nguyễn Kim là Lãng Quận Công Nguyễn Uông.  Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (em Nguyễn Uông) hỏi ý kiến ông Trạng Trình (phải làm sao?) thì câu trả lời bất hủ là:

 

“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Hoành Sơn một dãy, muôn đời dung thân).

 

Ông Nguyễn Hoàng liền nhờ chị là Ngọc Bảo xin với chồng là ông Trịnh Kiểm vào trấn thủ đất Thuận Hóa, nam của Hoành Sơn thì được chấp thuận.

Năm 1558, ông Nguyễn Hoàng (1525-1613) dẫn mấy ngàn dân quân vượt Đèo Ngang của Hoành Sơn vào Thuận Hóa (gồm tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên bây giờ).  Năm 1569, ông kiêm nhiệm Trấn Thủ Quảng Nam (gồm tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Qui Nhơn) và sau đó năm 1611 vượt đèo Cù Mông (giữa Bình Định và Phú Yên) chiếm Phú Yên đến biên giới Tuy Hòa (Phú Yên) và Khánh Hòa (Nha Trang) bây giờ.  Đèo Cù Mông là đèo hiểm trở nhất nước Việt dài 7 km, cao 245 m và dốc 9%.  Nước Chiêm Thành chỉ còn Khánh Hòa (Nha Trang), Phan Rang và Phan Thiết.

Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm Nha Trang (Khánh Hòa)

Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh chiếm Phan Rang và Phan Rí (Phan Thiết).  Nước Chiêm Thành bị tiêu diệt.

 

Dưới thời chúa Nguyễn, nước Đại Việt chiếm trọn vùng Thủy Chân Lạp của nước Chân Lạp lập thành Nam Kỳ.  Việc thành hình của đất Nam Kỳ chính thức từ ông Nguyễn Hữu Cảnh lập Dinh Trấn Biên và Dinh Phiên Trấn năm 1698 cho đến năm 1759 dưới thời ông Nguyễn Cư Trinh hoàn tất và ổn định Dinh Long Hồ.

Nam Kỳ Lục Tỉnh hình thành năm 1759 với 3 Dinh: Trấn Biên (tỉnh Biên Hòa), Phiên Trấn (tỉnh Gia Định) và Long Hồ.  

Ông Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) trấn Dinh Long Hồ đóng ở đất Tầm Phào (tỉnh lỵ Vĩnh Long bây giờ) từ năm 1753 đến năm 1765.  Dinh Long Hồ gồm 4 tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.  

 

Câu “Vạn đại dung thân” không phải chỉ ám chỉ con cháu của ông Nguyễn Hoàng mà thật sự là dùng cho con cháu của dân Việt.  Nhờ ông Nguyễn Hoàng vượt Hoành Sơn mà lãnh thổ nước Việt trải dài đến mũi Cà Mau với vùng đồng bằng trù phú ở Nam Kỳ đã giúp cho toàn dân được “vạn đại dung thân”?  

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm thật là một thiên tài, một câu nói làm nên lịch sử.

 

CHÚA NGUYỄN HOÀNG

Nghe lời quan Trạng quá Đèo Ngang

Mạo hiểm Tiên phong, Chúa Nguyễn Hoàng

Trọng dụng nhân tài an Thuận Quảng

Nương nhờ địa lợi thủ Linh Giang

Đàng Trong nước Việt dân hùng mạnh

Nghiệp cả trời Nam đất mở mang

Vạn đại thành công truyền hậu duệ

Dung thân khai quốc tự Hoành San.

(Phan Thượng Hải)

1/18/15


 

SẤM TRẠNG TIÊN ĐOÁN LỊCH SỬ

 

Sấm Trạng Trình hay Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm là những lời được cho là có tính cách tiên tri về các sự kiện lịch sử của dân Việt trong khoảng 500 năm (1509-2019).

Bản chánh gọi là Sấm Ký bản A có 262 câu (thơ) gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”.  Ngoài ra còn có 20 bản khác gồm 7 bản chữ Hán Nôm và 20 tựa sách chữ Quốc Ngữ về Sấm Trạng Trình từ năm 1948.

Trong Trang Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những bản Sấm Trạng:

Bản Hán Nôm: Nguyễn Văn Bân, Nguyễn Văn Sâm

Bản Quốc Ngữ: Hoàng Xuân, Hương Sơn, Mai Lĩnh, Nguyễn Quân, Sở Cuồng.

 

Sấm Ký bản A có 8 câu dưới đây (câu 43-50) là tiên đoán đúng lịch sử của cuối thế kỷ 18 (của nhà Nguyễn Tây Sơn).

 

Chim bằng cất cánh về đâu

Chết tại trên đầu hai chữ quận công

Bao giờ trúc mọc qua sông

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây 

Đoài cung một sớm đổi thay

Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn 

Đầu cha lộn xuống chân con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi. 


 

(1)

Chim bằng cất cánh về đâu

Chết tại trên đầu hai chữ quận công

 

Hai câu nầy nói về Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh vào thời Tây Sơn diệt chúa Nguyễn và chúa Trịnh.

 

Ông Nguyễn Hữu Chỉnh (? -1787) là danh sĩ Bắc Hà thời vua Lê Hiển Tông, văn võ song toàn (16 tuổi đậu Hương Cống và 18 tuổi đậu Võ Cử Nhân).  Tục thế gọi ông là Cống 

Chỉnh.  Ông bỏ vào Đàng Trong theo phò Tây Sơn (1782).  

 

Nhà Nguyễn Tây Sơn nổi lên ở ấp Tây Sơn (thuộc huyện Phù Ly, nay là làng An Khê, huyện Phù Cát, Qui Nhơn) vào năm 1771 với 3 anh em là Nguyễn Nhạc (?-1793), Nguyễn Huệ (1753-1792) và Nguyễn Lữ (1754-1787).  Ba anh em nầy là con của ông Hồ Phi Phúc, đổi thành họ Nguyễn để thu phục nhân tâm.  

Hai năm sau, ông Nguyễn Nhạc chiếm Qui Nhơn (1773).  Nhân cơ hội đó Chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc chiếm kinh đô Phú Xuân của Chúa Nguyễn (1774).  

Chúa Nguyễn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định (Nam Kỳ) rồi lập cháu mình (con cố Thái tử Nguyễn Phúc Hiệu) là ông Nguyễn Phúc Dương làm Đông Cung (người sẽ nối ngôi).

 

Chúa Nguyễn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần nhờ quân Nguyễn ở Nam Kỳ dưới quyền của Trấn Thủ dinh Long Hồ Tống Phúc (Phước) Hiệp (?-1776) để chống lại Tây Sơn.  Ông Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương ở Qui Nhơn (1776), cầu hòa với Chúa Trịnh rồi sai 2 em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vào Nam diệt chúa Nguyễn (1777).  Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (gọi là Thái Thượng Vương), Đông Cung Tân Định Vương Nguyễn Phúc Dương (gọi là Tân Định Vương) và hoàng tộc của chúa Nguyễn đều bị ông Nguyễn Huệ giết hết.  Năm 1778, ông Nguyễn Nhạc không thần phục Chúa Trịnh, tự xưng là Thái Đức Đế.  

Con ông Nguyễn Phúc Luân là ông Nguyễn Phúc Ánh (cháu kêu Định Vương bằng chú) tự xưng Vương (1780), dùng những người thường dân là ông Đỗ Thành Nhơn (?-1781) rồi ông Châu Văn Tiếp (1738-1784) để khôi phục Nam Kỳ.  Ông Đỗ Thành Nhơn lộng quyền bị Nguyễn Vương giết (1781) còn ông Châu Văn Tiếp bị thương nặng trong trận đánh với Tây Sơn ở sông Măng Thít (nay thuộc Vĩnh Long) rồi qua đời (1784).  

Chiến tranh ở Nam Kỳ giữa Tây Sơn và Nguyễn Vương Phúc Ánh chấm dứt khi ông Nguyễn Huệ của Tây Sơn thắng trận Rạch Gằm Xoài Mút (nam Cái Bè, Mỹ Tho) vào năm 1784.  Quân Xiêm tiếp viện Nguyễn Vương Phúc Ánh từ Vĩnh Long theo sông Tiền Giang tiến về tấn công quân Tây Sơn Nguyễn Huệ đóng ở Mỹ Tho.  Ông Nguyễn Huệ phục binh ở 2 bên bờ và trong những cồn ở giữa sông Tiền Giang giữa 2 cửa sông phụ lưu Rạch Gằm và Xoài Mút, tiêu diệt 2 vạn quân Xiêm La.  Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương (đều là cháu của vua Xiêm) cùng vài ngàn quân sống sót lội bộ theo đường Tây Ninh qua Chân Lạp để đi về xứ.  Nguyễn Vương từ Trấn Giang (Cần Thơ bây giờ) cùng Thái giám Lê Văn Duyệt và 10 người tùy tùng phải trốn qua Xiêm La (Thái Lan).  

 

Năm 1786, theo kế ly gián của ông Nguyễn Hữu Chỉnh, ông Nguyễn Huệ và ông Vũ Văn Nhậm chiếm Phú Xuân và sau đó chiếm đất Thuận Hóa.  Thế là Nam Hà (Đàng Trong) hoàn toàn thuộc nhà Tây Sơn.  

Năm 1786, ông Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung Ương hoàng đế (vẫn niên hiệu Thái Đức) đóng đô ở Quy Nhơn phong cho ông Nguyễn Lữ là Đông Định Vương ở Nam Kỳ đóng ở Gia Định và ông Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương trấn từ đèo Hải Vân tới sông Gianh (đóng ở Phú Xuân).  Ông Nguyễn Huệ là một tướng giỏi vô địch trong Việt Sử “chiến thắng không hề chiến bại”, còn có tên là Nguyễn Văn Huệ hay Nguyễn Quang Bình. 

 

Sau đó ông Nguyễn Huệ sai ông Nguyễn Hữu Chỉnh đi trước theo đường biển vào cửa Đại An của sông Đáy theo sông Nam Định đến sông Hồng rồi chiếm kho lương ở Vị Hoàng (vùng đất có khúc sông nhỏ cùng tên chảy từ sông Hồng vào Nam Định).  Biết quân Trịnh chưa kịp phòng thủ, ông Nguyễn Huệ theo đường bộ qua Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa đến hội ở Vị Hoàng.  Từ Vị Hoàng quân Tây Sơn đánh bại bộ binh của Bùi Thế Dận ở Đông An (gần Hưng Yên?) và đánh bại thủy quân của Đinh Tích Nhưỡng ở góc sông Luộc và sông Hồng.  Quân Tây Sơn lại thắng quân của chúa Trịnh Khải và Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân (Thanh Trì, Hà Nội).  Chúa Trịnh Khải chạy về Sơn Tây nhưng bị tên Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho Tây Sơn.  Chúa Trịnh Khải dùng gươm cắt cổ tự tận.  Bắc Bình Vương cho tống táng chúa Trịnh Khải và vào Thăng Long chầu vua Lê Hiển Tông. 

 

Sau khi cưới Ngọc Hân công chúa (con Lê Hiển Tôn) rồi Hiển Tôn mất và cháu nội là Duy Kỳ lên ngôi là Lê Chiêu Thống, ông Nguyễn Huệ và Vũ Văn Nhậm về Phú Xuân (Huế) và để Nguyễn Hữu Chỉnh giữ Nghệ An.  

 

Trịnh Bồng (con Chúa Trịnh Giang, anh chú bác với chúa Trịnh Sâm) tự lập làm Chúa.  Ông Nguyễn Hữu Chỉnh theo về phò Lê Chiêu Thống, đánh bại chúa Trịnh Bồng, được phong Đại Tư Đồ Bằng Quận Công và nắm quyền ở Bắc Hà chống lại Tây Sơn.  Chúa Trịnh Bồng bỏ đi tu rồi mất tích.  

 

Từ Bắc Hà ông Nguyễn Hữu Chỉnh có 2 câu gửi vào Đàng Trong:

 

Đường trời mở rộng thênh thang

Ta đây cũng một trào đàng kém ai

 

Từ Đàng Trong, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ trả lời:

 

Ai ra Đông Hải nhắn lời cùng

Lông cánh bao nhiêu dám vẫy vùng

Hồng Lĩnh bên kia bể bên nọ

Bay thì mắc núi đậu thì cung.

 

Chỉ một thời gian ngắn ông Nguyễn Huệ sai ông Vũ Văn Nhậm cùng 2 tâm phúc của mình là ông Ngô Văn Sở và ông Phan Văn Lân ra Bắc Hà.  Tháng 11 năm Đinh Tỵ (1787), ông Vũ Văn Nhậm phá quân ông Nguyễn Hữu Chỉnh ở làng Thanh Quyết (nay thuộc Gia Viễn, Ninh Bình) rồi ở Châu Cầu (nay thuộc Kim Bảng, Hà Nam).  Vua Lê Chiêu Thống chạy ra Kinh Bắc (Bắc Ninh) cầu cứu nhà Thanh.  Ông Nguyễn Hữu Chỉnh chạy về Yên Thế đóng quân ở Mục Sơn (?) thì bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa lên đánh và bắt sống.  Ông Nguyễn Hữu Chỉnh bị xé xác ở Thăng Long theo lệnh của ông Vũ Văn Nhậm và thịt để cho chó ăn.


 

(2)

Bao giờ trúc mọc qua sông

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây

 

Hai câu nầy nói về chiến tranh giữa nhà Mãn Thanh Trung Quốc và vua Quang Trung của Tây Sơn.  Quân Thanh chiếm Thăng Long (có cất một cầu tre bắt qua sông Hồng Hà) và quân Tây Sơn chiến thắng huy hoàng như ánh mặt trời.

 

Cuối năm 1787, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân để Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Nội Hầu Phan Văn Lân và ông Ngô Thì Nhậm trấn giữ Bắc Hà.  Vua Càn Long của nhà Thanh bên Tàu sai Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị làm chánh tướng cùng Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống và Trương Triều Long đem 20-29 vạn quân sang đánh nước Đại Việt.  Vua Lê Chiêu Thống cùng quân “Cần Vương” của mình ủng hộ quân Thanh.  Quân nhà Thanh chiếm đóng Thăng Long đặt những đồn lũy chung quanh. Quân Tây Sơn của ông Ngô Văn Sở và ông Phan Văn Lân rút về thủ ở đèo Tam Điệp (còn gọi là đèo Ba Dội) tại Thanh Hóa.  Tôn Sĩ Nghị cho cất một cầu tre bắt qua sông Hồng Hà (ứng với câu: bao giờ trúc mọc qua sông)  

 

Ông Nguyễn Huệ lên ngôi là vua Quang Trung Hoàng Đế (đầu năm 1788), Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc đã gần mất Nam Kỳ về tay Nguyễn Vương Phúc Ánh, tự xuống làm Tây Sơn Vương ở Quy Nhơn, nhường đất Quảng Nam cho ông Nguyễn Huệ.  

Vua Quang Trung đem mấy vạn quân ra bắc hội với 6 vạn quân của 2 ông Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân ở Tam Điệp (tổng cộng là 10 vạn quân).  Theo lời khuyên của một ẩn sĩ ở Nghệ An là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, vua Quang Trung quyết định đánh nhanh (và đánh mạnh), liền chia ra 5 cánh quân tiến ra bắc.

 

Đêm 30 Tết Kỷ Dậu xuất phát từ núi Tam Điệp, vua Quang Trung cùng với ông Ngô Văn Sở và ông Phan Văn Lân dẫn cánh quân thứ nhứt (cánh quân chủ lực) tiến thẳng về hướng bắc theo đường Hà Nam chiếm 2 đồn của quân Cần Vương Lê Chiêu Thống: đồn Nguyệt Quyết (nay ở Thanh Liêm, Hà Nam) và đồn Nhật Tảo (nay ở Duy Tiên, Hà Nam).  Mùng 3 Tết vua Quang Trung vây đồn Hà Hồi, 20 km nam Thăng Long (nay ở Thường Tín, Hà Nội), quân Thanh không kịp phòng bị phải đầu hàng.  Mùng 4 Tết, quân của vua Quang Trung đến đóng trước đồn Ngọc Hồi, 15 km nam Thăng Long (nay ở Thanh Trì, Hà Nội) là nơi có lực lượng chính của quân Thanh do Đề Đốc Hứa Thế Hanh và Tổng Binh Trương Triều Long cầm đầu.  

 

Trong khi đó (mùng 4 Tết) Đô Đốc Long (còn gọi là Đô Đốc Mưu), tên là Nguyễn Tăng Long, dẫn một cánh quân Tây Sơn thứ nhì từ Tam Điệp bọc theo đường Hà Tây qua Chương Đức (nay là Chương Mỹ, Hà Tây), qua cầu Nhân Mục của sông Tô Lịch chiếm đồn Khương Thượng, Sầm Nghi Đống bị vây ở 1 gò đất không thoát được phải tự tử.  Đêm mùng 4 Tết, Đô Đốc Long chiếm đồn Nam Đồng. Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long (đông Thăng Long) hoãng sợ bỏ chạy, vua Lê Chiêu Thống cũng chạy theo, quân Thanh dành nhau qua cầu sông Nhị Hà trốn về Tàu.  Đồn Khương Thượng (còn gọi là Đống Đa) và đồn Nam Đồng ở tây nam Thăng Long (nay thuộc Đống Đa, Hà Nội).  Sử cũ thường gọi những trận đánh nầy của Đô Đốc Nguyễn Tăng Long là trận Đống Đa.  (Vua Quang Trung không có đánh trận Đống Đa).    

 

Sáng mùng 5 Tết vua Quang Trung tấn công và chiếm đồn Ngọc Hồi, Hứa Thế Hanh tử trận.  Quân Thanh chạy về hướng Thăng Long thì bị cánh quân thứ ba là 1 cánh quân bên trái của cánh quân vua Quang Trung (cũng theo đường Hà Nam), do Đô Đốc Bảo (tên là Đặng Xuân Bảo) cầm đầu chận đánh ở Đầm Mực (tây bắc Ngọc Hồi), Trương Triều Long bị giết chết.  Vua Quang Trung vào Thăng Long ngày mùng 5 Tết (30-1-1788) được Đô Đốc Long đón tiếp.

 

Quân Tôn Sĩ Nghị trên đường chạy về Tàu bị Đô Đốc Tuyết (tên là Nguyễn Văn Tuyết) chận đánh ở Hải Dương phải chạy lên hướng bắc thì bị Đô Đốc Lộc (tên là Nguyễn Văn Lộc) phục kích một trận ở Lạng Giang. 

 

(3)

Đoài cung một sớm đổi thay

Chấn cung sau cũng sa ngay chẳng còn

Đầu cha lộn xuống chân con

Mười bốn năm tròn hết số (kiếp) thì thôi.

 

Hai câu trên nói về số phận của vua “em” Quang Trung Nguyễn Huệ (cung Đoài, làm em) sẽ chết trước vua “anh” Thái Đức Nguyễn Nhạc (cung Chấn, làm anh).  

Theo hai câu dưới, từ vua “cha” Quang Trung lên ngôi (1778) cho đến vua “con” Cảnh Thịnh mất ngôi và bị giết (1802) thì vừa đúng 14 năm.  Theo Hán tự, trong chữ Quang có chữ Tiểu ở trên đầu và trong chữ Cảnh có chữ Tiểu ở dưới chân.

 

Bốn năm sau khi thắng quân Thanh (1792) vua Quang Trung bành trướng quân đội (cứ 3 người đàn ông thì tuyển 1 người làm lính).  Chính sử cho rằng nhà vua muốn đánh nước Tàu (hay chiếm Lưỡng Quảng).  Vua Quang Trung chuẩn bị sai sứ giả là ông Vũ Văn Dũng sang Tàu cầu hôn và đòi đất Lưỡng Quảng (của Triệu Đà ngày xưa) để thử triều đình nhà Thanh.  Nhưng sứ thần là ông Vũ Văn Dũng chưa khởi hành thì chẳng may vua Quang Trung bất ngờ bị bệnh và qua đời.  Vua thọ 40 tuổi. 

 

Nguyễn Vương Phúc Ánh (1762-1820) là con của ông Nguyễn Phúc Luân, là cháu kêu chúa Định Vương bằng chú và là cháu nội của Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.  Ông là hoàng tộc của chúa Nguyễn độc nhất còn sống sót nhà Tây Sơn.  

Năm 1787, khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ bận rộn ở Bắc Hà, Nguyễn Vương Phúc Ánh trở lại chiếm toàn bộ Nam Kỳ (1789), Nguyễn Lữ thua chạy về Qui Nhơn, đi tu rồi mất một thời gian ngắn sau đó.  

Theo đường bộ, Nguyễn Vương chiếm đến Phú Yên.  Ông Nguyễn Huỳnh Đức thắng một trận lớn ở đèo Cù Mông. Đèo Cù Mông là đèo hiểm trở nhất nước Việt dài 7 km, cao 245 m và dốc 9%.  Nhờ đó đường bộ đuợc khai thông cho quân Nguyễn Vương tiến lên hướng bắc tấn công Qui Nhơn (kinh đô của Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc).  

Sau 3 lần tấn công, Nguyễn Vương chiếm được Qui Nhơn và đổi tên là Bình Định (1799).  Sau khi giải vây Qui Nhơn lần thứ nhất, quân Tây Sơn của vua Cảnh Thịnh từ Phú Xuân vào Quy Nhơn tịch thu tài sản và kho tàng của Hoàng Đế Nguyễn Nhạc nên ông tức giận thổ huyết mà chết.  Con là Nguyễn Bảo chỉ được ăn lộc 1 huyện, tước là Hiến Công (Sử gọi là Tiểu Triều).  Tiểu Triều Nguyễn Bảo muốn hàng Nguyễn Vương nhưng bị em chú bác là vua Cảnh Thịnh hay được, bắt dìm xuống sông cho chết (1798).  

 

Trong nội loạn ở Phú Xuân (1795), Tổng trấn Bắc Thành Ngô Văn Sở và cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Bùi Đắc Trụ bị Vũ Văn Dũng giết (bằng cách dìm dưới sông Hương).  Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cầm quyền, vào đánh Bình Định (Qui Nhơn).  Trần Quang Diệu vây thành Qui Nhơn còn thủy quân của Vũ Văn Dũng giữ cửa Thị Nại.  Theo kinh nghiệm của đèo Cù Mông, Nguyễn Vương tránh đường bộ và đèo Hải Vân nên dùng đường thủy và “thủy quân lục chiến”.

 

Nguyễn Vương cho rao truyền câu đồng dao ở các vùng của Tây Sơn:

 

“Lạy Trời cho chóng gió Nồm (*)

Cho thuyền Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”

 

(*) Gió từ Nam thổi ra Bắc.

 

Năm 1801, theo đường biển, Nguyễn Vương đem các ông Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đánh cửa Thị Nại.  Võ Di Nguy tử trận nhưng nhờ ông Lê Văn Duyệt tiếp tục tấn công, Nguyễn Vương chiếm được Thị Nại, Vũ Văn Dũng thua về với Trần Quang Diệu tiếp tục vây thành Quy Nhơn.  Ông Võ Tánh (và ông Ngô Tòng Châu) liều chết giữ thành Qui Nhơn cầm chưn quân chủ lực của Tây Sơn và gửi mật thư khuyên Nguyễn Vương Phúc Ánh đánh chiếm Phú Xuân.  Nguyễn Vương cho ông Nguyễn Văn Thành đóng ở Thị Nại chận đường thủy của quân Tây Sơn ở Qui Nhơn rồi Vương theo đường biển đi về phương bắc vào chiếm Quảng Nam (1801).  Ông để ông Nguyễn Huỳnh Đức đóng ở Quảng Nam chận đường bộ tiếp viện Phú Xuân của Trần Quang Diệu từ Qui Nhơn.  Trong khi Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng hạ thành Qui Nhơn, Nguyễn Vương Phúc Ánh đem ông Nguyễn Văn Trương và Lê Văn Duyệt cũng theo đường biển vào cửa Thuận An theo sông Hương vào chiếm Phú Xuân (Huế), vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Hà.  

Đầu năm 1802, Vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy và bà Bùi Thị Xuân (vợ ông Trần Quang Diệu) đánh lũy Trấn Ninh và cửa Nhật Lệ (thuộc Đồng Hới, Quảng Bình).  Nguyễn Vương Phúc Ánh cùng ông Đặng Trần Thường và Phạm Văn Nhân giữ lũy Trấn Ninh và cho ông Nguyễn Văn Trương đánh bại thủy quân Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ.  Bộ binh Tây Sơn ở trước lũy Trấn Ninh bỏ chạy.  

Từ đó quân Tây Sơn tan vỡ, lục quân của ông Lê Văn Duyệt và ông Lê Chất cùng với thủy quân của ông Nguyễn Văn Trương tiến chiếm Bắc Hà dễ dàng, bắt toàn thể hoàng gia nhà Tây Sơn.  Ông Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đã phải từ Quy Nhơn theo đường Ai Lao rút về Bắc Hà nên cũng bị bắt.  Vua Cảnh Thịnh và tất cả hoàng gia và tướng của Tây Sơn đều bị vua Gia Long giết chết (1802).


 

THI PHẨM

 

Hậu thế luôn nhắc đến 1 bài thơ tiêu biểu của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm về “triết lý Nhàn” của ông:

 

NHÂN TÌNH THẾ THÁI BÀI 38 (CẢNH NHÀN)

Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thế nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

Thật ra ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có để lại 3 tác phẩm về Thơ:  

Quyển Bạch Vân Am Thi Tập gồm một số ít thơ Đường Luật cổ điển dùng chữ Hán.  

Quyển Bạch Vân Gia Huấn dùng chữ Hán Nôm theo thể Song Thất Lục Bát.  

Nhưng quan trọng nhất là quyển Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập gồm những bài thơ Đường Luật TNBC cổ điển hoặc theo Hàn Luật dùng chữ Hán Nôm. 


 

THƠ HÀN LUẬT

 

Tục truyền rằng ông Hàn Thuyên (1229-?) có cải cách thơ Đường bằng những luật mới như dùng câu 6 chữ (1) hay ngắt nhịp 3,4 (thay vì 4,3) hoặc dùng thủ vỹ ngâm (2).  Thủ vỹ ngâm là câu đầu và câu cuối của bài thơ giống nhau.  

Hậu thế gọi là Hàn Luật.  Các ông Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An và Lê Quý Ly có làm thơ Hán Nôm như ông Hàn Thuyên nhưng đều thất lạc vì Bắc thuộc thời nhà Minh.  Thơ Hán Nôm mới thấy lại vào đời nhà Hậu Lê bắt đầu từ ông Nguyễn Trãi.   

 

Đây là một những bài thơ Hán Nôm của ông Nguyễn Trãi dùng Hàn Luật (mà sau nầy cũng thấy trong thơ Hồng Đức và thơ của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm).  

 

HOA SEN

Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh

Quân tử không kham được thửa danh

Gió đưa hương, đêm nguyệt lạnh (1)

Riêng làm của, có ai tranh. (1)

(Nguyễn Trãi)

 

THỦ VỸ NGÂM

Góc thành Nam, lều một gian (1) (2)

No nước uống, thiếu cơm ăn (1)

Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá

Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn (*)

Con đòi trốn dường ai quyến (1)

Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn (**) (1)

Chẳng phải triều quan chẳng phải ẩn

Góc thành Nam, lều một gian. (1) (2)

(Nguyễn Trãi)

 

(*) Thú thứa=xú xứa=xuề xòa=xuềnh xoàng.  Vằn=chó vằn, con chó

(**) Bà ngựa=con ngựa, như gọi là ông voi thay vì con voi.


 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dùng thơ Đường Luật theo thể Hàn Luật dĩ nhiên dùng chữ Hán Nôm (mà lúc đó ông đã gọi là Quốc Ngữ): có câu 6 chữ (1) và Thủ Vỹ Ngâm (2) như những bài dưới đây.

 

NHÂN TÌNH THẾ THÁI BÀI 2 (AN PHẬN THÌ HƠN)

Giàu ba bữa khó hai niêu (1)

An phận thì hơn hết mọi điều

Khát uống trà mai hơi ngút ngút

Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu

Giang sơn tám bức là tranh vẽ

Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu

Thong thả đêm khuya nằm sớm thức

Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)


 

VÔ ĐỀ

 

Rất nhân sinh bảy tám mươi (1) (2)

Làm chi lảo đảo nhọc lòng người

Bạch Vân am vắng chim kêu muộn

Kim Tuyết dòng thanh cá mát tươi

Ưu ái một niềm hằng nhớ chúa

Công danh hai chữ đã nhường người

Giàu lẫn khó yên đòi phận (1)

Rất nhân sinh bảy tám mươi (1) (2)

 

Thanh nhàn hưởng được tính từ nhiên

Non nước cùng ta đã có duyên

Dắng dỏi bên tai cầm suối (1)

Dập dìu trước mặt tán sen (1)

Xuân về, hoa nở mùi hương nức

Khách đến, chim mừng dáng mặt quen

Chốn ấy thanh nhàn được thú (1)

Lọ là Bồng Đảo mới tiên. (1)

 

(Nguyễn Bỉnh Khiêm) 


 

Tuy nhiên thơ Hàn Luật của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm còn cải cách xa hơn nữa.  Như bài “Vô Đề” ở trên, ông dùng 2 bài thơ Bát Cú cho 1 đề tài.  Kế đến ông Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có dùng câu 5 chữ (3) và còn làm 1 bài thơ Lục Cú tức là chỉ có 6 câu thay vì 8 hay 4 câu (4)

 

THÚ DƯỠNG THÂN

Phú quý bởi thời vần (3)

Tu luyện lâu bền thú dưỡng thân

Hứng ý miệng ngâm câu quốc ngữ

Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân

Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt (5)

Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân (5)

Dẫu có ai than thì sẽ nhủ:

Thái bình thiên tử thái bình dân. (5)

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

THÚ TIÊU DAO (4)

Xóm tự nhiên lều một căn (1)

Quét không thây thẩy bụi hồng trần

Nhìn hàng cam quít con đòi cũ

Mấy gã ngư tiều lừa bạn thân

Thấy nguyệt tròn thì kể tháng (1)

Nhìn hoa nở mới hay xuân. (1)

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)


 

THƠ ĐƯỜNG LUẬT

 

Trong bài thơ Đường Luật TNBC chính thống hay Hàn Luật, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những kỹ thuật tân tiến như dùng chữ lập lại trong câu 7 chữ (5):

 

THÚ DƯỠNG THÂN

Phú quý bởi thời vần 

Tu luyện lâu bền thú dưỡng thân

Hứng ý miệng ngâm câu quốc ngữ

Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân

Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt (5)

Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân (5)

Dẫu có ai than thì sẽ nhủ:

Thái bình thiên tử thái bình dân. (5)

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

THÚ NHÀN

Lẩn thẩn ngày qua lại tháng qua

Một năm xuân tới một phen già

Ái ưu vằng vặc trăng in nước

Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa

Án sách vẫn còn án sách cũ (5)

Nước non bạn với nước non nhà (5)

Cuộc cờ đua chí dù cao thấp

Ta muốn thanh nhàn thú vị ta.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

NHÂN TÌNH THẾ THÁI BÀI 20 (THẾ GIAN BIẾN ĐỔI)

Thế gian biến đổi vũng nên đồi

Mặc lạt chua cay lẫn ngọt bùi

Còn bạc còn tiền còn đệ tử (5)

Hết cơm hết gạo hết ông tôi (5)

Xưa nay vẫn trọng người chân thực

Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi

Ở thế mới hay người thế bạc

Giàu thì tìm đến khó tìm lui.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)


 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm còn dùng thể Độc Vận và Song Ngữ:

 

DẠI KHÔN

Làm người có dại mới nên khôn

Chớ dại ngây si chớ quá khôn

Khôn được ích mình đừng rẻ dại

Dại thì giữ phận chớ tranh khôn

Khôn mà hiểm độc là khôn dại

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn

Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại

Gặp thời, dại cũng hóa thành khôn.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

Đời sau có thi sĩ “nối nghiệp”:

 

DẠI KHÔN (Họa)

Ong óng đua nhau nói dại khôn

Biết ai là dại biết ai khôn

Khôn mê tửu sắc là khôn dại

Dại chốn thiền môn ấy dại khôn

Khôn ấy không tiền, khôn ấy dại

Dại mà phiền nhiễu, dại mà khôn

Đố ai rõ đặng trong khôn dại

Mới gọi là người biết dại khôn.

(Cai Tổng Lê Quang Chiểu)

 

DẠI KHÔN (Họa)

Thiên hạ đua nhau nói dại khôn

Biết ai là dại biết ai khôn

Khôn nghề cờ bạc là khôn dại

Dại chốn văn chương ấy dại khôn

Mấy kẻ nên khôn đều có dại

Làm người có dại mới nên khôn

Chữ khôn ai cũng khôn là thế

Mới biết trần gian kẻ dại khôn.

(Tú Tài Trần Tế Xương)

 

DẠI KHÔN (Họa)

Vũ trụ càn khôn có dại khôn

Nhân sinh định kiến dại hay khôn

Lương tâm thiện tánh, tình không dại

Nhân nghĩa lợi danh, trí biết khôn

Lắm lúc tày khôn thành quá dại

Đôi khi giả dại thế mà khôn

Người khôn từng trải điều khôn dại

Kẻ dại luận bàn chuyện dại khôn.

(Phan Thượng Hải)

11/13/2019


 

KẾT LUẬN

 

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết như một nhà tiên tri nhưng ít người biết ông là một người đức độ khiêm nhường, một học giả thông thái, có tài làm thơ rất hay góp phần cho nền văn học nước ta và là một chính trị gia lỗi lạc: với những câu nói đơn giản ông đã làm nên lịch sử hòa bình lâu dài và mở rộng địa lý của nước Việt.  

 

Nho Giáo muốn bình trị Thiên Hạ nhưng trong lịch sử Nho Gia từ Khổng Tử cho đến Vương Dương Minh ở Trung Quốc cũng như các ông Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Công Trứ… ở Việt Nam không có một ai thành công làm an dân lợi nước rộng lớn và lâu dài trong sự khiêm nhường như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

Sấm Trạng Trình của ông cũng tiên đoán đúng lịch sử của nhà Nguyễn Tây Sơn.  


 

TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

 

Công nghiệp Trạng Trình giúp quốc gia

An dân lợi nước bậc tài ba

Khéo khuyên cộng hưởng dòng Lê Trịnh

Hữu ích về cho xứ Bắc Hà

Họ Nguyễn tuân theo lời viễn thị

Phương Nam mở rộng đất bao la

Bỉnh Khiêm tri túc bình thiên hạ

Người Việt nhờ ơn được thái hòa.

 

Mai danh ẩn tích tánh khiêm hòa

Sấm ký tiên tri biết chuyện xa

Cửa Khổng nhân sinh đà hiểu thấu

Sân Trình vũ trụ đã thông qua

Thi từ cải cách nền văn học

Chính kiến thành công việc nước nhà

Thông thái minh tâm không vị lợi

Đức tài đệ nhất rạng Nho Gia.

 

(Phan Thượng Hải)

10/22/16


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com phần Văn Thơ mục Đọc Thơ.

 

Tài Liệu Tham Khảo:

Phần "Thơ và Sử" trong phanthuonghai.com

Nguyễn Bỉnh Khiêm (Phan Thượng Hải)

Nguyễn Hoàng (Phan Thượng Hải)

Nguyễn Hữu Chỉnh (Phan Thượng Hải)

Quang Trung (Phan Thượng Hải)

Gia Long (Phan Thượng Hải)

Trang Thơ Nguyễn Bỉnh Khiên Thi Viện Net

  TỪ BÀI THƠ "CẢNH NHÀN" CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

 

                                        Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

 

Bài thơ "Cảnh Nhàn" là bài thơ vô đề thứ 78 trong Bạch Vân Am Quốc Ngữ Thi Tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tựa đề là do hậu thế đặt ra.

Hậu thế từ đầu thế kỷ rất ưa chuộng bài thơ nầy.  Nó rất phổ thông nên còn được người ngoại quốc để ý tới.  Khi nói tới thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, độc giả hiện đại đều nói tới bài thơ nầy trước nhất.

 

CẢNH NHÀN 

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta hãy nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

(*) Chú thích: 

         2 câu cuối dẫn điển cố là chuyện Thuần Vu Phồn say rượu mà ngủ dưới gốc cây hoè, nằm mộng thấy đến nước Hoè An được công danh phú quý vinh hiển; nhưng khi tỉnh thức dậy thì biết chỉ là giấc mộng và nhìn lại dưới gốc cây hoè chỉ thấy có một tổ kiến mà thôi.

         Câu 7 có những bản viết là : "bóng" thay vì "gốc"; "sẽ" thay vì "hãy" và "uống" thay vì "nhắp"(= nhấp).

 

Hai câu cuối của bài thơ ngược lại với nội dung "cấm rượu" (giới tửu) của một bài thơ khác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cũng cùng trong Bạch Vân Am Quốc Ngữ Thi Tập.

 

GIỚI TỬU

Hễ thấy ma men lánh chớ chơi
Đừng theo thói tục vốn quen hơi
Hẳn hoi giữ được âu chăng một
Ăn nói hoăng ra ắt tỏ mười
Chẳng những đắng cay, mình cưỡng uống
Lại điều trẻ nít thế thêm cười
Tỉnh ra gẫm lại hay chi nữa
Xin bớt mà thôi, chẳng rũ rời.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về "Dại Khôn" trong 2 câu Thực của bài thơ "Cảnh Già" với tính cách châm biếm nhưng ngụ ý ngược lại (sarcastic):

 

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao

 

Vì đặc tính châm biếm, 2 câu nầy thường được hậu sinh nhắc tới nhiều nhất. Thật ra Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý một cách trịnh trọng và thận trọng về vấn đề "Dại Khôn" đến nỗi ông có làm bài thơ vô đề thứ 102 trong Bạch Vân Am Quốc Ngữ Thi Tập về đề tài "Dại Khôn" nầy và hậu thế đặt tựa đề cho bài thơ nầy là "Dại Khôn":

 

DẠI KHÔN (Nguyên bản)

Làm người có dại mới nên khôn

Chớ dại ngây si chớ quá khôn

Khôn được ích mình đừng rẻ dại

Dại thì giữ phận chớ tranh khôn

Khôn mà hiểm độc là khôn dại

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn

Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại

Gặp thời, dại cũng hóa thành khôn.

(Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

Đây là bài thơ được hậu sinh hiện đại đọc rất nhiều trong Trang Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chỉ đứng sau bài thơ "Cảnh Nhàn" mà thôi.  Nó là bài thơ đầu tiên làm theo thể "song ngữ" (?): dùng 2 tiếng đi đôi với nhau (dại và khôn) với 1 tiếng làm độc vận của bài thơ (khôn).  Đó cũng là một trong những cải cách Thơ Đường Luật Quốc ngữ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.  Sự việc nầy cho thấy Thơ Đường Luật Quốc ngữ của nước ta có nhiều canh tân làm cho hay hơn Thơ Đường Luật Hán ngữ hay của Trung Quốc. 

 

Đời sau có những bài họa bàn về chuyện "Dại Khôn", dĩ nhiên cũng áp dụng cải cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

DẠI KHÔN (Họa)

Thiên hạ đua nhau nói dại khôn

Biết ai là dại biết ai khôn

Khôn nghề cờ bạc là khôn dại

Dại chốn văn chương ấy dại khôn

Mấy kẻ nên khôn đều có dại

Làm người có dại mới nên khôn

Chữ khôn ai cũng khôn là thế

Mới biết trần gian kẻ dại khôn.

(Tú tài Trần Tế Xương)

Đầu thế kỷ 20 ở Bắc Kỳ

 

DẠI KHÔN (Họa)

Ong óng đua nhau nói dại khôn

Biết ai là dại biết ai khôn

Khôn mê tửu sắc là khôn dại

Dại chốn thiền môn ấy dại khôn

Khôn ấy không tiền, khôn ấy dại

Dại mà phiền nhiễu, dại mà khôn

Đố ai rõ đặng trong khôn dại

Mới gọi là người biết dại khôn.

(Cai tổng Lê Quang Chiểu)

Đầu thế kỷ 20 ở Nam Kỳ

 

DẠI KHÔN (Họa)

Vũ trụ càn khôn có dại khôn

Nhân sinh định kiến dại hay khôn

Lương tâm thiện tánh, tình không dại

Nhân nghĩa lợi danh, trí biết khôn

Lắm lúc tày khôn thành quá dại

Đôi khi giả dại thế mà khôn

Người khôn từng trải điều khôn dại

Kẻ dại luận bàn chuyện dại khôn.

(Phan Thượng Hải) 

Đầu thế kỷ 21 

11/13/19

 

Quan điểm "Nhàn" của bài thơ là phản ảnh đúng với triết lý "truy cầu an lạc" của Tống Nho và Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là Nho sĩ thuộc phái Tống Nho.  Ông không phải theo Đạo Gia như Lão tử hay Trang tử.  Dĩ nhiên ông không phải là 1 chơn nhơn (danh hiệu dùng cho Tiên của Đạo Giáo hay Lão Giáo).

Nho Gia được thành lập từ cuối thời Xuân Thu do Khổng tử và sau đó trở thành Nho Giáo.  Khi đến đời Bắc Tống, anh em Trình Hạo và Trình Di và Chu Hi dùng Kinh Dịch và các lý thuyết về vũ trụ của Âm Dương Gia làm căn bản mà lập ra Nho Giáo mới, thường gọi nôm na là Tân Nho Giáo (còn gọi là Đạo Học Gia).  Đó là ngành Lý Học vì dựa trên "Lý và Khí".  Nó phân biệt với ngành Tâm Học của Vương Dương Minh vào thời nhà Minh.

Nho Giáo truyền qua Đại Việt với các Nho sĩ tiêu biểu như Chu Văn An (nhà Trần) và Nguyễn Trãi (nhà Lê).  Lương Đắc Bằng và Nguyễn Bỉnh Khiêm (nhà Mạc) là những Nho sĩ Tống Nho đầu tiên.  Câu "An Nam Lý Học hữu Trình Tuyền" chứng minh điều nầy.  Nguyễn Bỉnh Khiêm được gọi là Trạng Trình vì ông đậu Trạng Nguyên và khi làm quan với nhà Mạc có tước hiệu là Trình Tuyền hầu rồi được thăng là Trình Quốc công.  

 

"Truy cầu an lạc" cũng là một mục đích được Trình Hạo của Tống Nho thừa nhận.  Thánh Nhân không những vui Đạo mà vui những gì vốn là của mình.  Tống Nho trích từ trong Luận Ngữ câu nói của Khổng Tử: "Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay mà gối (đầu), ở trong cảnh ấy ta cũng lấy làm vui.  Bất nghĩa mà giàu sang thì ta coi như mây nổi".

Trình Hạo cũng tóm tắt trong bài thơ về quan điểm "Nhàn" của mình và của Lý Học Tống Nho:

 

NGẪU THÀNH

Nhàn lai vô sự bất thung dung

Thụy giác đông song nhật dĩ hồng

Vạn vật tĩnh quan giai tự đắc

Tứ thời giai hứng dữ nhân đồng

Đạo thông thiên địa hữu hình ngoại

Tứ thập phong vân biến thái trung

Phú quí bất dâm bần tiện lạc

Nam nhi đáo thử thị hào hùng.

(Trình Hạo)

 

NGẪU NHIÊN THÀNH THƠ (Dịch)

Năm qua mọi việc thảy thong dong

Tỉnh giấc vừng ô mọc đã hồng

Muôn vật lặng xem đều tự đắc

Bốn mùa vui thú với nhân đồng

Ngoài hình vóc, đạo thông trời đất

Trong chuyển di, lòng thấu núi sông

Phú quý chẳng dâm, bần tiện sướng

Nam nhi dường ấy mới hào hùng.

(Nguyễn Văn Dương dịch)

 

Câu thơ "Phú quí bất dâm bần tiện lạc" (Phú quí chẳng dâm, bần tiện sướng) đã lưu truyền hậu thế cho đến hiện đại nhưng đại đa số những người "quote" nó không biết nguồn gốc của nó từ đâu ra!

 

Bài thơ "Cảnh Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ áp dụng cho một người ở nông thôn vào thế kỷ thứ 16 ở nước Việt.  Một người già hiện đại trong thế kỷ 21 dù cho ở đâu cũng phải có "Cảnh Nhàn" được diễn tả khác hơn.  

 

CẢNH NHÀN (Nguyên bản)

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốccây ta hãy nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

 

TRI NHÀN TRI TÚC (Họa)

Duyên may an lạc tả vài câu

Sống lúc cao niên phải thế nào

Giải trí văn hoa thêm khoái tỉ 

Dưỡng thân liệt lão hết xanh xao 

Tri nhàn, giản dị tình già dặn 

Tri túc, hòa đồng mộng ước ao 

Khôn dại sự đời không thắc mắc 

Tỉnh say vẫn để ý hầu bao.

(Phan Thượng Hải)

7/20/21

 

(*) Chú thích:

         Khoái tỉ = thích thú, lấy làm thỏa mãn

         Xanh xao = (Da) có màu xanh tái; nhợt nhạt; có vẻ ốm yếu.

         Già dặn = Phát triển đến mức đầy đủ - Quá mức qui định - Có trình độ cao nhờ từng trải trong công việc hoặc cuộc sống.

         Ước ao = ao ước = mong đạt được điều gì một cách thiết tha.

         Thắc mắc = còn chưa thông hiểu điều gì, cần được giải đáp.

         Ngắn ngủi = (Thời gian) quá ngắn hay quá ít, so với mong muốn yêu cầu.

         Hầu bao = Số tiền của một người hay một một tập thể - Túi vải đựng tiền của người thời trước, thường dùng đeo ở thắt lưng.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 

 

Tài Liệu Tham Khảo:

         Lời Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

         Lịch Sử Tân Nho Giáo (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

         Trang Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - Google

         Đại Từ Điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên)

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền.

Bàn về Họa Vận

              Bs Phan Thượng Hải

 

(1)

 

Đây là nguyên văn trong quyển "Thi Pháp Thơ Đường" của Thi sĩ tiền chiến Quách Tấn, là 1 trong 2 quyển sách được nhiều Thi nhân làm Thơ Đường "cổ điển" tôn trọng.  Quyển thứ nhì là "Phép Làm Thơ" của Diên Hương.  Hai ông đều là Thi sĩ Thơ Đường (bằng chữ Quốc Ngữ) lỗi lạc của Nam Hà vào thời Pháp Thuộc và thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

 

(Trang 354-355)

 

Họa vận phải theo 3 qui luật, ngoài những phép tắc đã nói trên, là:

1. Bài họa phải cùng một thể luật như bài xướng, nghĩa là hễ bài xướng thể thất ngôn luật bằng thì bài họa cũng vậy.

2. Những vần của bài họa phải cùng một nghĩa với những vần với bài xướng.  Ví dụ: 

            Vần bài xướng là đường là con đường thì bài họa cũng phải dùng vần đường với nghĩa con đường chớ không được dùng chữ đường là đường mía hay đường là nhà...  

            Vần bài xướng là vần châu là hạt châu thì không được dùng trong bài họa chữ châu là châu quận hay châu là thuyền...

3. Những chữ đứng trước vận ngữ bài họa, tức là chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, đều không được trùng với chữ đứng trước vận ngữ, tức chữ thứ 6 trong câu bỏ vần, bài xướng.  (Như không được dùng "mến thương" để họa "mến thương" mà phải họa bằng "nhớ thương" hay "tiếc thương"...)

 

Ba qui luật nầy được triệt để tuân thủ trong thơ chữ Hán.  Nhưng trong thơ Quốc Âm (chữ Nôm hay chữ Quốc Ngữ), nhất là từ khi chữ Hán cáo chung, thì không còn được áp dụng một cách chặt chẽ nữa.  Qui luật thứ 3 còn được phần đông tuân theo.

......

Phạm luật mà hay còn hơn đúng luật mà dở (QT thường gọi là Phá Luật chớ không gọi là Thất Luật).  Nhưng vừa không phạm luật (mà) vừa hay thì mới thật là diệu thủ.

Thơ xướng họa là một lối thơ thù tạc, một lối thơ tiêu khiển.

 

(Quách Tấn)

 

Ông Quách Tấn viết quyển "Thi Pháp Thơ Đường" với ngụ ý khiêm nhường chỉ nói lên sự hiểu biết và ý kiến riêng của mình. Quyển sách nầy có 25 bài mà ông viết dưới hình thức một bức thư: bức thư thứ nhất, thứ nhì... tới bức thư thứ 25. Ngụ ý của ông là nó không phải là "Bible" hay ít nhất nó cũng không phải là "Text Book" mà chỉ là "Guide Lines" cho người làm thơ Đường Luật mà thôi. 

Tui nghĩ hậu thế (như Google) chỉ dựa vào 2 quyển sách nầy về cách làm Thơ Đường Luật mà thôi, nhất là quyển của Quách Tấn rất đầy đủ.

 

(2)

 

Như trên, ông Quách Tấn viết: "Qui luật thứ 3 còn được phần đông tuân theo".

Vâng, tui vẫn tuân theo qui luật nầy nhưng rất hiếm khi phải cố tình phá luật để nói ý mình muốn nói (trong Nội Dung).

Tui cũng có 2 nguyên tắc về Hình thức:

1. Tui nghĩ Luật của Thơ Đường Luật giúp cho có sự cân đối và khéo léo. 

2. Tui nghĩ Luật của Thơ Đường Luật là căn bản để cho Âm thanh của câu thơ và bài thơ khi đọc lên thì thấy hay, như một bản nhạc vậy. Nó khác với câu văn xuôi.  Đây chỉ là căn bản mà thôi vì Thi nhân phải dụng công sức riêng thêm nữa.

Nếu ta phá một vài luật thiển cận và không quan trọng mà không đi sai 2 nguyên tắc trên và đạt được nội dung ý nghĩa mình muốn thì không có gì đáng phàn nàn?  Có khi lại còn làm cân đối hơn?  Như trường hợp "tử vận" thì sao?

 

Hơn nữa nếu là tui Tự Họa chớ không Họa của một Thi sĩ khác thì không cần phải theo Luật của ông Quách Tấn, vì ông Quách Tấn chỉ viết cho xướng họa giữa 2 thi nhân.   

 

Thêm nữa, ông Quách Tấn như phần trên đã viết: "Ba qui luật nầy (1, 2 và 3) được triệt để tuân thủ trong thơ chữ Hán".  Tức là thơ họa dùng chữ Hán của tiền nhân ta không bao giờ phạm qui luật thứ 3.

Ông Quách Tấn đã không nhớ hay không biết bài thơ của ông Nguyễn Trãi họa bài thơ của Lê Thái Tông còn lưu giữ trong lịch sử thi ca (đều có đăng trong Thi Viện Net, Trang Thơ Nguyễn Trãi).

Xin trích đoạn nầy đã có trong 3 bài viết của tui đã đăng trong website của tui phanthuonghai.com: "Nguyễn Trãi", "Thơ Lịch Sử" và "Lịch Sử Họa Thơ".

 

Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (được 20 tuổi) đi duyệt binh ở huyện Chí Linh (thuộc tỉnh Hải Dương bây giờ).  Bấy giờ ông Nguyễn Trãi đang về trí sĩ ở trại Côn Sơn gần đó.  Vua Lê Thái Tông ghé thăm ông Nguyễn Trãi và hai người có làm thơ xướng họa:

 

NGỰ CHẾ TAO NGỘ THI (Xướng) 

(Thơ tao ngộ của Vua)

Duyệt bãi lâu thuyền hải thượng hồi           Thuyền trận duyệt xong buổi thoái hồi

Côn trang đắc đắc lục phi lai                       Côn sơn xe ngựa ruổi qua chơi

Chỉ kim Lục Dã nhàn vân thự                     Thăm nền Lục Dã nhìn mây rỗi

Thượng ức Lam Sơn phụ phượng tài           Nhớ thuở Lam Sơn trổ phượng tài

Hồ lý hữu thiên vong giáp tý                       Trong động riêng trời, quên tuổi giáp

Sơn trung vô địa khởi lâu đài                      Bên non hiếm đất dựng lâu đài

Bằng thùy vĩ ngã đan thanh thủ                   Đan thanh nét vẽ nhờ ai đó

Họa xuất hồ sơn điểm liễu mai.                  Tô điểm núi hồ cảnh liễu mai.

(Lê Thái Tông)                                             (Vân Trình dịch)

 

NGỰ CHẾ TAO NGỘ THI PHỤNG HỌA (Họa)

(Vâng mệnh họa thơ tao ngộ của Vua)

Phảng phất quân thiên mộng kỷ hồi            Mộng tưởng ngôi cao biết mấy hồi

Sơn trung kinh hỷ thúy hoa lai                    Cả mừng xe ngọc kíp lên chơi

Di châm thân cảm tiên triều cựu                 Khắc lời thánh đế răn tôi cũ

Định sách đa tâm tá trị tài                           Góp sức triều cương thẹn bất tài

Tự hạnh nhàn thân khâu hác chí (*)           May được nhàn thân bên suối động

Cảm ngôn vô địa khởi lâu đài                    Dám đâu riêng đất dựng lâu đài (**)

Hồ sơn tao ngộ thần du lạc                         Nước non hội ngộ chào long giá

Vũ lộ xuân đầm nhuận liễu mai.                Mưa móc đầm đìa nhuận liễu mai. (**)

(Nguyễn Trãi)                                             (Vân Trình dịch)

(*) Khâu hác chí=cái chí để ở nơi gò hang.

(**) Ông Nguyễn Trãi cũng dùng 2 chữ “lâu đài” và “liễu mai” để họa.

 

Theo ông Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử Lược) thì khi vua đi qua thăm, thấy nàng Nguyễn Thị Lộ (thì mê) bèn bắt theo hầu.  Bà Nguyễn Thị Lộ gặp ông Nguyễn Trãi lúc 16 tuổi (khoảng 1428-1429) thì đến năm 1442 cũng đã 32, 33 tuổi rồi còn vua Lê Thái Tông vừa 20 ! Đi đến huyện Gia Định (thuộc tỉnh Bắc Ninh bây giờ), 1-2 ngày sau đó thì đột nhiên vua Lê Thái Tông mất ở Lệ Chi Viên, chỉ có bà Nguyễn Thị Lộ bên cạnh.  Con thứ ba của Thái Tông là Thái tử Bang Cơ (1441-1459) nối ngôi là Lê Nhân Tông mới 2 tuổi nên bà mẹ ruột là Thái Hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính (cho đến năm 1452).  Triều đình đổ tội cho bà Nguyễn Thị Lộ giết vua, bắt ông Nguyễn Trãi làm tội và tru di cả 3 họ (tam tộc).  Sử gọi là vụ án Lệ Chi Viên (Vườn Vải).

BS Phan Thượng Hải

______________________

 

Bàn về Thơ "thanh mà tục"

                                                        (Bs Phan Thượng Hải biên soạn)

 

*

Thơ Việt ngữ dùng chữ Hán Nôm để nói lẫn lộn "thanh và tục" có 2 kỹ thuật chính:

         Tả một sự vật "thanh" (hay "không tục") nhưng làm cho độc giả nghĩ tới hay thấy như một sự vật "tục" khác.  Thí dụ như tả Cái Quạt nhưng làm cho độc giả thấy cũng giống như Âm Hộ.  Thí dụ như tả Đá Gà nhưng làm cho độc giả nghĩ tới Giao Hợp (nam nữ).

         Dùng từ ngữ có thể nói lái được.  Thí dụ: "Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?" (trong bài Chơi Chùa Quán Sứ).  Đáo nơi neo = đến nơi nào (có nghĩa không tục); nhưng "Đáo nơi neo" nói lái là "Đéo nơi nao" (có nghĩa tục).

 

*

Bài Cái Quạt của Hồ Xuân Hương trong văn bản chỉ có 4 câu (theo bản Quốc Văn tùng ký)

 

         Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
        Duyên này tác hợp tự ngàn xưa.
        Chành ra ba góc da còn thiếu,
        Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.

 

Các bản chữ quốc ngữ sau này có thêm 4 câu nữa:
 

         Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
        Che đầu quân tử lúc sa mưa.
        Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
        Phì phạch trong lòng đã sướng chưa.

 

Đây là bài thơ dùng kỹ thuật 1: tả một sự vật "thanh" (Cái Quạt) nhưng làm cho độc giả nghĩ tới một sự vật "tục" khác (Âm hộ).

Tuy nhiên 2 câu Thực (câu 3 và 4) tả Cái quạt không đúng: Cái quạt làm gì có "da" và nhất là làm gì có "thịt".  Âm hộ thì có da và có thịt, như vậy bà Hồ Xuân Hương không có tả Cái Quạt mà tả Âm Hộ một cách rõ ràng.  Và như vậy không còn nghệ thuật "thanh mà tục" nữa!

Có thể 4 câu sau (bản chữ Quốc ngữ) là thơ của hậu thế thêm vô?

 

*

Hồ Xuân Hương làm thơ dùng chữ Hán Nôm thường chỉ có 2 kỹ thuật nầy nhưng không làm được kỹ thuật thứ ba.

Thơ Việt ngữ dùng chữ Quốc ngữ dùng được cả 3 kỹ thuật.

Kỹ thuật thứ ba là dùng 1 chữ Quốc ngữ có 2 nghĩa (vì chữ Quốc ngữ là tượng thanh).  Thí dụ: chữ "Cu" có 2 nghĩa.

Thi nhân thơ Quốc ngữ có dùng kỹ thuật mới nầy mà bà Hồ Xuân Hương không làm được vì thời của bà (cuối thế kỷ 18) chưa có chữ Quốc ngữ trong quần chúng.

 

Đây là những bài thơ "thanh và tục" theo kỹ thuật thứ ba.

Cu = thằng cu - con cu (penis)

 

CU CỤ  (Độc vận - Nguyên Bản)

Thế sự đảo huyền chuyện Cụ Cu

Lộn sòng “thằng Cụ” với “ông Cu”

Cu “Quân Tử Kiếm” là Cu Cụ (*)

Cụ “Lão Ngoan Đồng” ấy Cụ Cu (*)

Ra chốn đình trung ưng gọi Cụ

Giữa vòng hương phấn muốn là Cu

Giai nhân có hỏi Cu hay Cụ

“Lục thập niên tiền…” Cụ vốn Cu.

(Vô Danh Thị)

 

(*) Chú thích: 

         Quân Tử Kiếm Nhạc Bất Quần tự thiến để luyện võ công (Tiếu Ngạo Giang Hồ/Kim Dung).

         Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông lớn tuổi nhưng tánh vẫn như con nít (Anh Hùng Xạ Điêu/Kim Dung).

 

         CU CỤ (Độc vận - Họa)

         Tuy khác danh xưng: Cụ hoặc Cu

         Tính tình vui vẻ, Cụ như Cu

         Thà tiêu xí quách Cu theo Cụ

         Biết sướng cuộc đời Cụ chỉ Cu

         Cu tưởng lão làng lên giọng Cụ

         Cụ ham già dịch tại thằng Cu

         Cu không thế phát thành Sư Cụ

         Như Cụ hồn nhiên cứ “Cúc Cu”.(*)

         (Phan Thượng Hải)

         4/18/12

         (*) Chú thích: Cúc cu có 2 nghĩa: Nắm cu (cúc = nắm) và tiếng con chim kêu "cúc cu".

 

         CU CỤ (Độc vận - Họa)

         Bàn loạn cho vui chữ Cụ Cu

         Vợ thương vợ gọi: “bố anh Cu”

         Thằng Cu nặng lớn thành ra Cụ

         Ông Cụ nhẹ già chuyển hóa Cu

         Người Việt phân chia Cu với Cụ

         Dân Tây lẫn lộn Cụ và Cu

         Tơ vò rắc rối Cu hay Cụ

         Cu Cụ giống nhau chỗ có Cu.

         (Hp-Trương Ngọc Thạch)

         10/20/13

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

 "TRUYỆN KIỀU CÒN, TIẾNG TA CÒN, TIẾNG TA CÒN, NƯỚC TA CÒN"

 

                                                      Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

(Bài nầy là 1 đoạn có để trong nhiều bài chính như bài "Nguyễn Du và Truyện Kiều trong lịch sử thi văn" hay bài "Thơ và Việt Sử - Nhà Nguyễn" (đều có trong phanthuonghai.com). 

Năm 1924, học giả Phạm Quỳnh đưa ra câu nổi danh "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn" nầy trong bài diễn thuyết của ông ở hội Khai Trí Tiến Đức (8-9-1924) nhân kỷ niệm ngày giỗ của Tiên Điền Nguyễn Du.

 

Đây là trích những đoạn chính trong bài nầy:

         ….

         Văn chương người ta thiên kinh vạn quyển, dầu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn chương mình chỉ có độc một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh Thư Phúc Âm của cả một dân tộc, ví lại khuyết nốt thì dân tộc ấy đến thế nào ?

         ….

         Mãi đến thế kỷ mới rồi mới có một đấng quốc sĩ vì nòi giống, vì đồng bào, vì tổ tiên, vì hậu thế, rỏ máu làm mực, “tá tả” một thiên văn khế tuyệt bút, khiến cho giống An Nam được công nhiên, nghiễm nhiên rõ ràng, đích đáng làm chủ nhân ông một cõi sơn hà gấm vóc.  Đấng quốc sĩ ấy là ai ? Là cụ Tiên Điền ta vậy.  Thiên văn khế ấy là gì ? Là quyển Truyện Kiều ta vậy.

         …..

         

         (Phần Kết luận)

         Áng tinh trung thấp thoáng dưới bóng đèn, chập chùng trên ngọn khói, xin chứng nhận cho lời thề của đồng nhân đây.  Thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày càng rực rỡ, quốc hồn ngày càng tinh tao, quốc bộ ngày một tấn tới, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khôi phục cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối càng thơm lây”.

 

Bài nầy được đăng lại trên Nam Phong tạp chí số 86 (1924).  

 

Thiển nghĩ tiếng Việt của ta đã tồn tại từ khi có người Lạc Việt cho tới khi có Truyện Kiều thì cũng khoảng 4000 năm.  Nhạc sĩ Phạm Duy có viết: "Tiếng nước tôi, 4000 năm ròng rã buồn trôi, khóc cười theo vận nước nổi trôi".  Như vậy có người nói "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn" thì có hơi quá đáng ? Hơn nữa còn so sánh Truyện Kiều như là Thánh thư Phúc âm của một dân tộc !

 

*

Ngay sau đó có nhiều học giả không đồng ý với câu trên và bài diễn thuyết của Phạm Quỳnh mà còn lên án Truyện Kiều.

         Một tháng sau đó, trên báo Hữu Thanh, ông Ngô Đức Kế có viết bài “Luận về chánh học và tà thuyết” chống lại chủ trương đề cao Truyện Kiều của ông Phạm Quỳnh, cho bài “diễn thuyết” ở hội Khai Trí Tiến Đức là “tà thuyết”.  Theo ông Ngô Đức Kế, Truyện Kiều đã làm cho các thanh niên VN “say đắm trong trời tình biển ái mà mềm nhũng cái lòng sắt đá, bỏ mất cái chí nguyện cao xa”.  Tuy nhiên ông Phạm Quỳnh không trả lời.  

         Sau khi ông Ngô Đức Kế qua đời 5 năm sau (1929), ông Phan Khôi mới viết ở báo Phụ Nữ Tân Văn đã kích ông Phạm Quỳnh là “học phiệt” đã không trả lời (ông Ngô Đức Kế).  Ông Phạm Quỳnh mới trả lời cho rằng sự chống đối của ông Ngô Đức Kế chỉ là vì lý do cá nhân và cạnh tranh trong báo giới.  Điều nầy làm ông Huỳnh Thúc Kháng viết trong báo Tiếng Dân chỉ trích ông Phạm Quỳnh và gọi Truyện Kiều là “dâm thư”!

Huỳnh Thúc Kháng còn làm bài thơ chỉ trích thêm là Nguyễn Du sùng bái Tàu, nhắc lại nguồn gốc Truyện Kiều và những bài thơ khác của Nguyễn Du bằng Hán ngữ ca tụng nhân vật bên Tàu như Mã Viện.

 

VỊNH KIỀU

 

Á cũ qua rồi mới chửa Âu

Học Kiều xúm xít bọn mày râu

Đã mang thân thế nương nhà thổ

Còn trách cha ông vụng kiếp tu !

Một khúc đoạn trường khêu lửa dục

Mấy dây bạc mạng chác hơi sầu

Biết chăng hỡi cụ Tiên Điền nhỉ

Muôn ác tà dâm ấy sự đầu !

 

Muôn ác tà dâm ấy sự đầu

Tình đâu đâu mà hiếu đâu đâu

Theo trai gác xó lời cha mẹ

Làm đĩ đành thân tiếng ngựa trâu

Nghiêng nước trận cười gương mấy kiếp

Đắm người bể sắc tội nghìn thu

Tiên Điền cụ nghĩ mua vui vậy

Biết nỗi người sau dại thế ru...

 

Biết nỗi người sau dại thế ru

Phong trần đưa giọng chuyện phong lưu

Vẩn vơ người ấy phường trăng gió

Đau đớn lòng ai cuộc bể dâu

Nòi giống khôn thiêng thân một nước

Anh hùng nhiều ít tiếng năm châu

Tiên Điền cụ có hay chưa nhì

Sách dạy ngày nay đĩ đứng đầu.

 

Sách dạy ngày nay đĩ đứng đầu

Xúm nhau sùng bái gái bên Tàu

Cột đồng Mã Viện xô chưa đổ

Sóng ác Kiều nương đắm lại sâu

Ố điểm ngàn năm ô lịch sử

Báo chương phân nửa chuyện thanh lâu

Ai ơi, gọi cụ Tiên Điền dậy

Đừng để non sông chịu tiếng vu.

 

Đừng để non sông chịu tiếng vu

Phật nhà không lạy, lạy người Tàu

Trưng Vương đền cũ mùi hương lạnh

Triệu Ẩu bia còn nét chữ lu

Thiện chẳng thấy bày, bày những ác

Ơn kia không biết, biết chi cừu

Tiên Điền cụ biết thời nay nhỉ

Á cũ qua rồi mới chửa Âu !

 

(Huỳnh Thúc Kháng)

 

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

_______________________

THƠ NGÀY FATHER'S DAY

 

 

 

 

CHA

Tiếng Nôm nước Việt gọi là Cha

Gọi Cậu, nghĩa đồng, viết khác xa (*)

Từ đám thằng cu lòng mến Bố

Từ đàn con trẻ dạ thương Ba

Là Thầy, me nó nên nhường tớ

Là Tía. má mầy phải nhịn ta

Hán tự chính danh là chữ Phụ

Không là linh mục, cũng là Cha!

(Phan Thượng Hải)

6/19/21

(*) Ba tôi và chú bác tôi là người Cao Lãnh, đều gọi ông nội bà nội của tui là Cậu Mợ.

 

Tìm lại trong quá khứ có những bài thơ cũ nhân ngày Father's Day (Ngày Từ Phụ) của anh Chánh Minh, đàn anh Trương Ngọc Thạch, thằng cháu con anh Hai của tui và tui.

 

CHA (Nguyên bản)

Nhớ mãi người cha mái tóc xanh

Có cha che chở sống an lành

Chơi đùa thân mật từ thơ ấu

Dạy dỗ nghiêm minh đến trưởng thành

Bỏ nước ra đi, lòng chẳng đặng

Lìa quê mất hết, dạ không đành

Trải qua năm tháng sầu xa xứ

Cha đã nằm yên dưới mộ xanh.

(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)

6/19/16

 

            CHA (Họa)

            Sớm phải lìa cha lúc tuổi xanh

            Nổi trôi cuộc sống khó yên lành

            Công cha dạy dỗ từ thơ dại

            Nghĩa mẹ chăm lo đến trưởng thành

            Bỏ xứ xa cha, tâm chẳng nỡ

            Rời quê cách mẹ, óc không đành

            Tự do tìm đến, ngày đêm gắng

            Gặp mẹ, mộ cha cỏ đã xanh.

            (Hp-Trương Ngọc Thạch)

            6/20/16

 

            

            CHA (Họa)

            Cha hiền mất sớm, lúc đầu xanh

            Hưởng phước nên Con được tốt lành

            Hiểu ý người xưa tu đức độ

            Thấy gương người trước gắng công thành

            Nhớ thương tự nhỏ tuy còn giữ

            Ly biệt từ lâu cũng phải đành

            Đoán biết giờ đây người quá cố

            Lãng ba thơ thẩn khắp trời xanh. (*)

            (Phan Thượng Hải)

            6/21/16

            (*) Chú thích: Bút hiệu của cha là Lãng Ba.  Lãng ba = sóng lãng mạn

 

NHỚ BA TÔI

Sống ở đời ai cũng có cha

Cha tôi số khổ, cứ bôn ba

Chiến tranh đời lính, nhiều thương tích

Cuộc sống lao tù, phải trải qua

Ngày cố đạp xe, vì lũ nhóc (*)

Đêm rèn ngoại ngữ, mộng cờ hoa (*)

Họa không tính trước, người không biết

Bọn trẻ còn mơ, bố vắng nhà. (*)

(Phan Kim Thành)

6/22/16

(*) Chú thích:

            Chạy xe đạp ôm, nuôi con

            Ban đêm ông ấy tự học tiếng Anh, và dạy con cái. Tính chuyện đi Mỹ đổi đời.

            Chưa bao giờ tôi nghĩ là ba tôi đã ra đi mãi mãi.

 

MỪNG NGÀY TỪ PHỤ (Nguyên bản)

Nhân ngày từ phụ đến hôm nay

Ước mọi người cha mấy chữ nầy:

Hạnh phúc tràn đầy không phải mộng

Sướng vui thỏa thích chẳng cần say

Các con quấn quýt mừng cha khoẻ

Bằng hữu xum vầy chúc bạn may

Trách nhiệm đôi vai xong một gánh

Mong cầu thọ lộc có từng giây.

(Hp-Trương Ngọc Thạch)

6/19/16

 

            NGÀY TỪ PHỤ (Họa)

            Gìn lòng từ phụ đến ngày nay

            Tự phụ làm cha chỉ thế nầy!

            Trọng nghĩa bao năm còn nghĩa nặng

            Thân tình lắm lúc có tình say

            Lễ nghi tô thắm câu thành bại

            Lễ giáo mệt nhoài kiếp rủi may

            Thêm đạo phu thê thêm chữ hiếu

            Nhân duyên chằng chịt quá nhiều giây?

            (Phan Thượng Hải)

            6/20/16 

TL_HaveANiceDay.gif
PTH_Que the.JPG

MÊ TÍN TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM

 

Bs Phan Thượng Hải

Tín ngưỡng của người Việt trong Phật Giáo và Đạo Giáo (Lão Giáo) đã có từ hơn ngàn năm. Từ

Đạo Giáo, người Việt có mê tín dưới những hình thức như Ngồi Đồng, Gọi Hồn, Thanh Đồng,

Thầy Pháp (Phù Thủy) và Xin Thẻ (hay Xin Xăm).

Hồn của Người chết - Tiên

Một Người (đang sống) gồm có Hồn và Xác.

Hồn = yếu tố tinh thần vô hình được coi là đối lập với Xác (thì hữu hình).

Hồn là từ ngữ gọi chung của Hồn Phách hay Hồn Vía. Hồn hay Hồn Phách (Hồn Vía) là vô

hình.

Hồn Phách (= Hồn Vía) = 2 mặt âm dương không tách rời nhau của tinh thần con người ta nói

chung.

 Hồn tác động ở phương diện tâm thần, có tính động và thuộc Dương.

 Phách (= Vía) ở phương diện thể chất, có tính tĩnh và thuộc Âm.

Hồn thuộc cõi Âm nên còn gọi là Âm Hồn. Người thuộc cõi Dương, như Dương gian, Dương

trần...

Theo Lão Giáo, khi Người chết thì Hồn lìa khỏi Xác: Xác người chết sẽ hũy hoại còn Hồn người

chết có thể xuống Địa ngục hay còn trên cõi trần gian hoặc được Ngọc Hoàng Thượng Đế phong

làm Thần, còn gọi là Thần linh. Thần (hay Thần linh) có quyền lực siêu nhiên để giúp cho người

sống.

Thánh là Thần hay Thần linh có tiếng trong nhân gian được người sống thờ ở đền chùa. Thí dụ

như Thánh Trần (Trần Hưng Đạo).

Tiên là Người tu theo Đạo Lão (Lão Giáo) và thành đạo tức là thành Tiên. Tiên sống trường thọ

mãi mãi có Hồn và Xác vì không chết. Tiên có phép mầu nhiệm.

Sau khi người (đã) chết chỉ còn Hồn là vô hình. Tuy nhiên lại có Ma. Ma là gì? Theo định

nghĩa của Đại Từ điển Việt Nam, Ma là hiện hình của người chết. Như vậy Ma phải được thấy

từ người khác còn sống?

Thiển nghĩ sau khi Người chết thì Xác bị hũy diệt, Hồn có thể:

 thành Thần hay Thần Linh làm việc tốt cho nhân loại. Thánh là Thần được người sống

tôn thờ riêng biệt. Thần linh hay Thánh là Hồn của người tốt khi còn sống và khi chết tiếp tục

làm việc tốt. Thí dụ như Trần Hưng Đạo, Quan Công...

 thành Ma hay Tà Ma, phá hại nhân loại. Ma là Hồn của người xấu khi còn sống và khi

chết tiếp tục làm việc xấu. Thí dụ như Phạm Nhan.

 thành Hồn người chết thông thường, không tốt và không xấu.

Đồng và Bóng - Cô Hồn

Theo Đại Từ Điển Việt Nam:

 Đồng = Người được Thần linh hay Hồn người chết nhập vào (Xác) - và có khả năng nói

ra được những điều bí ẩn. Người nầy được gọi là Người ngồi Đồng hay Người lên Đồng.

 Bóng = Hồn người chết hiện về nhập vào (Xác) Người (nào đó). Người nầy được gọi là

Người ngồi hầu Bóng hay Bóng cô (hay Bà bóng).

 Đồng Bóng = Người được Thần linh hay Hồn người chết nhập vào trong lễ cầu xin.

 Đồng Cốt = Người làm Nghề Đồng Bóng = Cốt, Bà Cốt (vì Đồng Cốt thường là đàn bà).

Tuy nhiên, Đồng được Bóng nhập vào Xác thì lúc đó Xác có khi gọi là Cốt.

Theo Toan Ánh thì có sự phân biệt: Đồng có nhiều loại và có nhiều từ ngữ khác nhau:

 Người được Thánh (Thần linh) nhập vào gọi là Đồng Cốt (ông Đồng bà Bóng). Sự kiện

đó gọi là Ngồi Đồng hay Lên Đồng, hay đội Bóng Thánh. Đồng cốt thường là người có Căn Thờ

và Căn Đồng. Có khi Đồng Cốt còn được Tiên nhập vào và sự kiện nầy gọi là Phụ Tiên.

 Người được Hồn người chết nhập vào gọi là Cô Hồn (xác Cô hay xác Cậu). Sự kiện nầy

gọi là Gọi Hồn. Tùy theo người chết là đồng nam hay đồng nữ thì Cô Hồn được gọi phân biệt là

Xác cậu hay Xác cô. Có khi Cô Hồn được Hồn người sống khác nhập vào.

 Người được Tà Ma nhập vào gọi là Đồng. Sự kiện nầy còn gọi là ốp Đồng.

Cũng theo Toan Ánh,

 Bóng = Thần linh hay Thánh hoặc Tiên hoặc Tà Ma nhập vào Người trần (và người trần

gọi là Đồng).

Bài viết nầy căn cứ theo giải thích của Toan Ánh.

Căn Thờ và Căn Đồng

Người có Căn Đồng hoặc Căn Đồng = Người có căn cơ để dễ được Thần linh hay Hồn người

chết nhập vào (Xác).

Người có Căn Thờ là Người có số phải thờ 1 hay nhiều vị Thánh Thần của Đạo Lão thì mới được

bình yên và tránh khỏi tai họa được. Có những vị Thần được thờ nầy trước đây không phải là

của Đạo Giáo nhưng các lưu phái tại Việt Nam đã tôn thờ các vị nầy và coi các vị là Thần linh

của Đạo Giáo: Hưng Đạo vương, Tản Viên, Liễu Hạnh Công chúa...

Người có Căn Thờ chỉ phải thờ đức Hưng Đạo vương được gọi là Thanh Đồng.

Người có Căn Thờ dễ trở thành Người có Căn Đồng và được Thần Thánh mình thờ nhập vào.

Đồng được Thánh nhập thường bắt đầu là Người có Căn Thờ (thờ Thánh Thần) và có Căn Đồng.

Họ có Điện thờ Thánh Thần riêng mà mình có số phải thờ ở nhà, hoặc thờ theo Đồng Cốt khác

hoặc tại một cửa miếu thờ chư vị.

Tùy theo Thánh Thần mà Họ có tên:

 Đồng Đức Mẹ khi thờ các Công chúa như Liễu Hạnh Công chúa, Thượng Ngàn Công

chúa...

 Đồng Đức Ông khi thờ các Hoàng tử. Các Hoàng tử hoặc là con vua hay những vị linh

thiêng được tôn lên.

 Đồng Cậu khi thờ các cậu.

Đồng Cô khi thờ các cô. Các cậu các cô là những người chết trẻ gặp giờ linh được tôn
thờ.


Những Người có Căn Thờ (và Căn Đồng) mà không có Điện thờ riêng tại nhà được Toan Ánh tả
như sau:
Thường Đồng cốt phần lớn là đàn bà. Những bà những cô hay đau yếu hoặc đôi khi mặt
đỏ rần rần, nằm mơ thấy bay trên không, thấy lội dưới nước, đi xem bói, đi lễ bái được thầy bói
hoặc các ông đồng bà cốt bảo là số thờ, thánh bắt đồng.


Người có số thờ nầy đem vàng hương tới một cửa Điện xin làm con công đệ tử và phải
đội bát phù hương, nghĩa là những bình hương nhỏ để ở bàn thờ chư vị tại điện; những ngày tuần
tiết người có số thờ đến lễ rồi đội những bình hương đó lên đầu. Bình hương đặt trên một chiếc
mâm nhỏ có thắp hương. Có người phải đội một bát phù hương, có người căn đồng nặng phải
đội 2, 3 bát hoặc nhiều hơn.


Có người chỉ phải đội bát phù hương. Có người bị (chư Thánh Thần) bắt đồng thì phải
đội bóng Thánh (tức là phải làm). Nếu vì lý do còn trẻ tuổi có thể làm lễ xin khất đồng được.
Sau nầy có những người ở trong Miền Nam cũng hành đạo như người có Căn Thờ và Căn Đồng
nhưng thường được gọi là Mẫu.


Ngồi Đồng (= Lên Đồng)


Đồng còn được gọi là Đồng Cốt hay ông Đồng bà Bóng.
(Đồng - Đồng cốt)
Lễ Ngồi Đồng (hay Lên Đồng) thường xảy ra tại Điện của Thánh vào những ngày rằm, mùng
một, tuần tiết, hoặc khi có người nào đau yếu đến Điện kêu cứu. 
Người có Căn Đồng là chủ điện hay hoặc người có Căn Đồng khác vào ngồi đồng. Người ngồi
đồng hay lên đồng (= Đồng) đều có khăn trầu áo ngự, tức là loại khăn áo ngũ sắc dành riêng cho
ngồi đồng.
Tại điện có sẵn cung văn, tức là đàn ca hầu bóng từ những đàn bà (gọi là chầu văn). Người có
căn đồng vào ngồi đồng mặc áo xanh đỏ đội khăn các mùi múa may nhảy nhót ở trong điện. Lúc
đó là lúc Thánh nhập vào Đồng (còn gọi là Thánh ốp vào Đồng). Tức là Đồng hành động như
Thánh rồi.


Con công đệ tử chung quanh kêu xin để "Thánh" chữa bệnh cho người đau. "Thánh" bèn ban
truyền bằng giọng nũng nịu, ỏn ẻn, có khi giọng hờn dỗi để được nịnh bợ tâng bốc. "Thánh"
phán sao, gia chủ của người bệnh phải tuân theo. Có khi "Thánh" cho uống tàn hương nước thải;
có khi cho nước quết trầu để mang về xoa cho người bệnh; có khi cho bùa đeo.
"Thánh" cũng ban lộc cho bọn cung văn, những người hầu dâng tức là những người phụ tá để
đưa quần áo cho đồng hoặc những người đứng chung quanh lễ bái. Lộc có thể là tiền hoặc là
bánh kẹođã được mua trước cúng tại điện, có thể là trầu cau hay thuốc lá. Tiền thường dùng là
giấy bạc kết thành con bướm dùng để ban lộc.


Thi sĩ Trần Tế Xương có 2 bài thơ:
LÊN ĐỒNG
Khen ai khéo vẽ sự lên đồng
Một lúc lên ngay sáu bảy ông
Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm gỗ
Ra oai, bà giắt cái khăn hồng
Cô giương tay ấn tan tành núi
Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông
Đồng giỏi sao Đồng không giúp nước?
Hay là Đồng sợ súng thần công?
(Tú Xương)


SƯ ÔNG VÀ MẤY Ả LÊN ĐỒNG
Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng
Thà rằng bạn quách với sư xong!
Một thằng trọc tuếch ngồi khua mõ
Hai ả tròn xoe đứng múa bông
Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậu
Thướt tha dưới án nguýt sư ông
Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng
Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng!
(Tú Xương)


Tục ngữ có câu:
Miệng bà đồng, như lồng chim khứu.
(Đồng là đồng cốt. Chim khứu = Khứu = chim cỡ như chim sáo, lông đen đuôi dài, hay hót) 
Gọi Hồn (= Cầu Hồn)
Đồng ở đây không phải là người có Căn Thờ, chỉ là Người thường, gọi là Người trần.
Người trần nầy (thường là đàn bà) để cho Hồn (hay Âm hồn) của người chết nhập vào, được gọi
là Cô Hồn, thường không gọi là Đồng Cốt. Tùy theo Hồn của đồng nam hay đồng nữ chết mà
phân chia ra Xác cậu và Xác cô.
(Ngày nay, từ ngữ "Cô Hồn" được dùng cho một nghĩa khác. Theo Việt Nam Đại Từ Điển, Cô
Hồn là hồn người chết bơ vơ không được ai thờ cúng).
(Cô Hồn)


Theo Toan Ánh và Phan Kế Bính, Cô Hồn như là một nghề kiếm ăn. Những nhà có người chết,
thương xót nhớ tưởng muốn tìm cách gọi hồn (hay cầu hồn) người thân để hỏi han về cuộc sống
ở cõi âm hay để hỏi han những bí mật mà người chết biết khi còn sống, thì thường hay mời Cô
Hồn tới để gọi hồn về nhập. Muốn gọi hồn người chết về phải cần đặt quẻ, và quẻ phải do người
có vía lành đặt.
Như vậy Cô Hồn phải gọi Hồn người chết ở cõi âm về rồi mới nhập vô mình được; khác với
Đồng Cốt là Đồng Cốt có sẵn Thánh ở tại điện thờ.
Người lành vía được kén đặt quẻ, đưa một cơi trầu và mấy đồng tiên; xưa là 100 đồng tiền kẽm.
Món tiền này chính là món tiền thù lao cho Cô Hồn, ngày nay có thể là năm ba chục hay hơn nữa
tùy theo Cô hồn. Cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ,
nâng ngang trán khấn hứa ông Chiêu bà Dì để hai vị linh thần nầy xuống âm phủ tìm hồn người
đã chết về.
Một lát sau âm hồn người chết về nhập vô Cô Hồn kể lể khóc lóc nói lại lúc lâm chung, tả oán
cảnh tình ly biệt. Lúc đó cha mẹ vợ con anh em xúm vào hỏi han Hồn. Hồn người chết qua
miệng của Cô Hồn sẽ tùy theo những câu hỏi mà trả lời, và tùy người hỏi mà nhận đúng cha mẹ
vợ con anh em hay người khác trong gia đình. Âm hồn cũng lại nói đúng được nguyên do tại sao
chết, chết về bệnh gì, chết ngày tháng nào, lúc an táng người nhà đã chọn theo thi hài những gì. 
Âm hồn lại cho người nhà biết hiện ở âm phủ đang làm gì và tình trạng ra sao. Âm hồn muốn
xin gì, người nhà sẽ cúng cho.


Những câu Cô Hồn nói đúng đều được người nhà thưởng tiền và nếu có những câu sai thì Cô
Hồn, thay lời âm hồn, sẽ nói (vì) quá đau đớn thương xót người sống nên âm hồn đã nhầm lẫn.
Âm hồn nhập vào Cô Hồn một lát, sau khi được người nhà hỏi thăm đủ chuyện, thì thăng.


Toan Ánh viết:
Thật ra Cô Hồn là người sành tâm lý, khi nói một câu mà thấy người nhà tỏ vẻ không
đồng ý là Cô Hồn sửa chữa ngay.
Thí dụ khi được hỏi giờ chết của âm hồn, Cô Hồn nói:
Hồn rằng hồn chết ban ngày
Câu nói không được người nhà tán thưởng, Cô Hồn liền sửa:
Thương cha nhớ mẹ hồn rày thác đêm!
Các Cô Hồn có khi là người có mục tật (nhãn quan kém), không nhìn thấy gì nhưng rất
thính tai, và dường như có để lục giác quan để biết khi nói lầm.


Âm hồn có những điều kỵ:
Khi gọi hồn mà hiện diện của người có vía dữ thì âm hồn không nhập. Khi Hồn đang nói
chuyện với người mà có 1 người vía dữ bước vào thì lập tức Hồn thăng.
Hồn không lên nếu trong nhà có người lấy nồi đất úp vào đầu ông Táo hoặc có ai tinh
nghịch bỏ muối vào bếp. Tục cho rằng vì làm như vậy ông Chiêu bà Dì không hỏi han ông Táo
được để đi tìm âm hồn về, như vậy làm sao hồn nhập được.
(Hồn người sống nhập vào Cô Hồn)
Có nhiều người muốn thử thách Cô Hồn, thay vì gọi Hồn người chết, người ta gọi Hồn người
sống, những người vắng mặt và có khi cả những người có mặt. Ấy thế mà hồn vẫn cứ nhập và
vẫn cứ trả lời được những câu hỏi của mọi người, nhiều khi rất phù hợp với những việc đã xảy
ra, hoặc tình trạng trong nhà. Người ta bảo rằng đó là ông Chiêu bà Dì đã hỏi ông Táo nên biết
rõ mọi việc trong nhà.


Phụ Tiên


Phụ Tiên cũng giống như Gọi Hồn chỉ khác ở đây là mời Bóng một vị Tiên nhập vào cốt Người
trần, thay vì mời gọi Hồn người chết (âm hồn). Tiên không phán truyền như âm hồn mà chỉ thảo
thơ.
Muốn Phụ Tiên phải tìm những nơi chùa chiền thanh vắng. Người nào có việc cầu khẩn phải
tắm rửa sạch sẽ, ăn chay một ngày rồi mua vàng hương trầu rượu bày lên một hương án đốt đèn,
đốt hương lễ bái, khấn rồi mới Phụ Tiên.


Trước chỗ án thờ có một mâm gạo. Một người ngồi Đồng lấy khăn che kín mặt, tay cầm một cái
bút bằng cành đào. Người ta thường kén cành đào mọc về hướng Đông và bẻ cành đào vào buổi
sáng. Ngọn cành đào chấm xuống mâm gạo. Một người cầm hương thư vào mặt và hai tay
người ngồi Đồng. Vài ba người khác đọc những văn sai để cầu Tiên lên hoặc ngâm những cổ
thi. Khi người ngồi Đồng bắt đầu đảo là Tiên sắp lên. Lúc đó người ngồi Hầu đồng phải khấn 
khứa, tấu lạy, kêu van. Thế là một lát sau bóng Tiên nhập vào người ngồi Đồng, có nghĩa là
người ngồi Đồng có ngôn ngữ và hành động của Tiên.


Người ngồi Đồng, đã được Tiên nhập nên tạm gọi là "Tiên", liền gõ bút (tức là cành đào) vào
mâm gạo rồi bắt đầu viết trên mâm gạo. Người hầu bút phải trông theo những chữ viết trên mâm
gạo mà chép ra một tờ giấy. Thường thường khi "Tiên" viết xong một bài thơ lại truyền cho
những người hầu đồng ngâm lại cho "Tiên" nghe. "Tiên" chỉ truyền phán bằng thơ viết trên
mâm gạo, rồi người hầu đồng chép lại trên giấy.
Thơ "Tiên" làm rất nhanh, như kiểu ứng khẩu hay ứng bút, không nghĩ ngợi gì. Thường "Tiên"
làm thơ nhưng cũng có khi làm ca phú hay tứ khúc.
Lúc "Tiên" mới lên, bài thơ đầu tiên bao giờ cũng là bài thơ để tự xưng danh hiệu của mình như
Lê Sơn Thánh mẫu, Quỷ Cốc Tiên ông, Vương Ngao Lão tổ... Cũng có khi vị Tiên lên lại là Thi
bá của thời trước như Lý Bạch.


Sau khi xưng danh hiệu rồi, "Tiên" mới lần lượt làm tặng mỗi người Hầu đồng một bài thơ, trong
bài thơ ẩn rõ sự hay dở của đương sự mà chỉ đương sự biết nếu đương sự hiểu thấu bài thơ.
Có khi "Tiên" truyền lấy rượu uống. Người Hầu đồng phải rót hỏa thang. "Tiên" cầm bút chấm
vào rượu đã là "Tiên" uống rồi.
Có khi "Tiên" hứng đánh cờ truyền lấy bàn cờ; người Hầu đồng phải hầu cờ. Mỗi khi muốn đi
một nước cờ, "Tiên" chỉ cầm cành đào chỉ vào quân cờ và vạch nước đi. Một người Hầu đồng
khác phải nhắc quân cờ đi theo ý "Tiên".
Có khi "Tiên" đòi xướng họa thơ với người Hầu đồng.
Ai muốn xin điều gì, chữa bệnh cầu danh thì viết thơ phong kín mà kêu cầu, "Tiên" sẽ chỉ bảo.
Ngày xưa, mỗi khoa thi học trò thường rủ nhau 5, 7 người phụ Tiên lên để hỏi về khoa cử.
"Tiên" có khi lên rất lâu, nhưng có thăng sau khi chỉ giáng vài bài thơ.
Phụ Tiên cũng như Gọi Hồn và Ngồi Đồng; thực hư hư thực chỉ duy người trong cuộc mới hiểu
rõ.


Thanh Đồng


Thanh Đồng là người có căn số phải thờ Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) rồi cũng có Căn Đồng tức
là được Thánh nhập vào
Ở đền thờ Thánh Trần, như đền Kiếp Bạc hay đền Bảo Lộc, trong dịp những ngày lễ hội; những
Thanh Đồng đến hoặc thay mặt Thánh Trần (1) hoặc được Thánh nhập vào (2) để trị bệnh nhân
bằng cách trừ tà ma nhập vào họ (làm họ bị bệnh).


(1)
Thanh Đồng đại diện Thánh Trần làm cho Người bệnh lên Đồng có tà ma (Phạm Nhan hay thủ
hạ của nó) nhập vào để Thanh đồng trừ tà mà trị bệnh:
Những người nầy trong những ngày lễ hội tại đền Kiếp Bạc hoặc đền Bảo Lộc đều tới lễ
và lên đồng bắt tà. Tà đây là chỉ Phạm Nhan và bộ hạ của hắn. Phạm Nhan nguyên là tướng của
Mông Cổ bị Hưng Đạo vương giết.
Đàn bà sinh sản đau yếu hữu sinh vô dưỡng cho là mình bị Phạm Nhan ám; hoặc chồng
trước hay vợ trước ghen tuông; hoặc bị tà ma trêu cợt, đem vàng bạc tới cửa điện lễ bái và kêu 
Thanh đồng khấn xin trừ tà. (Phạm Nhan và bộ hạ cũng là tà ma, nhưng chúng sợ Thánh Trần
Hưng Đạo và Thánh cũng có quyền lực trừ tất cả các tà ma khác).
Người có bệnh ngồi Đồng bịt khăn đỏ vào mặt. Thanh đồng cầm hương thư trên mặt và
tay người này, rồi niệm chú khấn nguyện. Trong lúc đó cung văn đánh trống gõ phách ca những
bài văn sai để ốp Đồng. Bị thôi miên, người ngồi Đồng (người bệnh) lảo đảo, đó là lúc (hồn) tà
ma nhập vào.
Thanh đồng liền ra oai quát hỏi người bệnh như tra tấn tù nhân. Người bệnh đã lên đồng
(có hồn tà ma nhập vào) liền cầm vồ đập vào đầu mình, hoặc cầm bàn vả vào mặt mình. Đó là tà
ma bị sự trừng phạt. Rồi tà ma cung chiêu nhận tội, làm tờ cam kết không quấy nhiễu người
bệnh nữa, trên tờ cam kết có in dấu tay của con tà. Người ta bảo dấu tay trên tờ cam kết tuy
người bệnh in vào, nhưng không phải là dấu của người bệnh, đó là dấu tay của con tà, so sánh
với tay người bệnh khi hết bệnh thì không giống nhau. Tờ cam kết có dấu ấn của Thanh đồng
được trao cho người bệnh mang về dán ở đầu giường. Nếu bị đau yếu trở lại thì lại mang vàng
hương tới điện (Đền Thánh Trần) kêu, Thánh sẽ lại trị tội con tà.
(Thanh Đồng)


(2)
Thanh Đồng được Thánh nhập vào để trấn Tà ma không cho hành người bệnh:
Cũng có khi bóng hay hồn tà ma không nhập (ốp) vào người bệnh, mà trái lại Thánh
(Thánh Trần) lại nhập vào Thanh Đồng để ra oai với con tà cho sợ mà không dám quấy phá
người bệnh. Thanh đồng tự thắt cổ bằng lụa, nung đỏ lưỡi cày rồi xỏ chân vào, nấu dầu sôi uống
rồi lại phun ra, nhai nắm hương đang cháy, lấy lình xiên mép, lấy dao rạch lưỡi... Lúc rạch lưỡi,
máu chảy được phun vào một tờ giấy để làm bùa gọi là dấu mặn. Bùa này người bệnh đốt uống
với tàn hương nước thải để trị tà, hoặc dùng để đeo, hay dán ở buồng ngủ để trấn áp tà ma.

Thầy Pháp (= Phù Thủy)


Theo Phan Kế Bính, Phù Thủy thường đêm khuya đến những nơi tha ma mộ địa đốt hương khấn
khứa luyện phù phép để làm cho các âm hồn phải theo hiệu lệnh của mình. 
Phù thủy có phép kỳ lạ sai khiến nỗi những âm hồn làm những việc của người trần nhưng phần
nhiều làm về đêm. Những âm hồn chịu sai khiến của Phù thủy gọi là âm binh.


Thí dụ:
Sai âm binh tát nước.
Sai âm binh ném đá gạch vào nhà người khác.
Những thầy phù thủy mỗi khi sai khiến âm binh xong phải có lễ khao binh, nếu không âm binh
sẽ làm phản lại đánh trả thầy; và mỗi lần sai âm binh thầy phù thủy cần phải canh chừng đừng để
trời sáng, phải thâu âm binh về trước khi mặt trời mọc. Bị lộ thiên nghĩa là bị người trần trông
thấy vào ban ngày, âm binh cũng đánh trả thầy.
Những nhà có người chết vào giờ xấu hay sợ có trùng, tức là có tà ma đến làm hại phải nhờ thầy
Phù thủy cho bùa dán trong quan tài hay yểm chung quanh huyệt cũng như ở trong nhà để trấn
áp tà ma.
Người đau ốm cho là tà ma làm, người nhà mời thầy Phù thủy đến để diệt ma. Để diệt ma, ngoài
việc dùng bùa, Phù thủy còn dùng Phụ trượng hay Phụ bạch xà.
Phụ trượng nghĩa là niệm chú yểm phép vào cây trượng, cho người cầm đi khua khắp nhà để
đuổi ma.


Phụ Thần bạch xà thì dùng một con rắn bằng rơm rồi phù phép vào con rắn để rắn bò quanh nhà
mà diệt tà ma. Con rắn thường bò được là nhờ trong ruột có bộ phận cử động bằng máy, nhưng
người quá tin cho là Phù thủy cao tay có phép lạ.
Thầy Phù thủy còn có khi Phụ đồng chổi, đọc thần chú để cây chổi tự cử động được nhưng sự
thật cây chổi cử động cũng chẳng khác chi con rắn bằng rơm bò quanh nhà. Cây chổi quét sạch
tà ma.


Phù thủy lại có phép làm bùa yêu hay bùa mê. Bùa yêu làm cho hai người ghét nhau phải
thương nhau. Bùa mê làm cho người tỉnh trở nên mê mẩn có khi hóa điên dại, phải có bùa giải
mới hết.


Những người có thân nhân quá vãng thương nhớ thường nhờ Phù thủy Phụ cành phan để mời
Gọi Hồn người chết về nói chuyện.
Phụ cành phan có nghĩa là có một Người trần còn sống cầm một cành tre, ngồi trước đàn, rồi
thầy Phù thủy niệm chú phụ động để Hồn người chết nhập vào người trần nầy và có thể nói
chuyện được với thân nhân và người khác. Trong khi Phụ cành phan, cảnh trống chiêng gõ vang
rền lẫn với tiếng đọc phép của thầy Phù thủy, thêm mùi hương ngạt ngào khiến người ngồi Đồng
(cầm cành tre) nầy bị thôi miên có thể mê mẩn đi được.


Có người cho rằng những thầy Phù thủy cao tay có thể bắt ấn phù phép niệm chú để cho Người
sống xuống được âm phủ tìm giáp mặt người thân đã chết để trò chuyện.


Tục ngữ có những câu về Thầy Pháp:
Ông thầy khoe ông thầy tốt, bà cốt cậy bà cốt hay.
Thầy đổ cho bóng, bóng đổ cho thầy. 
Cao tay ấn. mới nhấn được nó.
Giữ như ông thầy giữ ấn. (= Giữ như giữ mả tổ).


Thầy Pháp khác Thầy Cúng
Thầy Pháp = Phù Thủy = Người có phép thuật như kể trên.
Thầy Cúng = Người chuyên nghề cúng bái ma quỉ thần thánh.
Đây là câu tục ngữ về Thầy Cúng:
Trơ trơ, như thủ lợn nhìn thầy.
(Thủ lợn = đầu lợn, dùng làm đồ cúng lễ)


Xin Thẻ (Xin Xăm)
*
Tại các đền miếu (và cả tại các chùa!) nữa thường có một hay nhiều ống Thẻ để thờ. Mỗi ống có
nhiều, thường có khoảng trăm Thẻ.
Thẻ là mảnh tre mỏng, trên có mang một số, số này ăn với Quẻ Thẻ. Thẻ còn được gọi là Xăm
và Quẻ thẻ là Quẻ xăm.
*
Một Quẻ hay
Quẻ thẻ là một bài thơ giáng bút trong lúc phụ đồng vị Thần linh (hay Thánh) thờ
tại ngôi đền hoặc miếu có thẻ. Bài thơ giáng bút được ghi chép lại và ghi số, số của bài thơ nầy
được ghi vào Thẻ tre của ống thẻ.
Thơ giáng bút ở đây khác với thơ giáng bút trong lúc Phụ tiên ở chỗ nó được chép lại và dùng để
ứng vào những người xin thẻ về sau; còn bài thơ trong lúc Phụ tiên thì chỉ hợp với người hầu
đồng lúc đang lên.
Mỗi bài thơ giáng bút đều được khắc in với số đã ghi để phát cho người xin thẻ.
Trong Quẻ thẻ ngoài bài thơ còn có mấy chữ đề là
Triệu gì. Triệu tức là cái điềm ứng với Quẻ
thẻ.
Thí dụ: Triệu "Tướng quân đắc thắng", triệu "Vạn vật phùng xuân", hoặc triệu "Du thuyền ngộ
vũ".
Có triệu xấu, có triệu tốt. Triệu chỉ những nét đại cương về Quẻ thẻ.
Triệu "Tướng quân đắc thắng" là triệu tốt, và ứng vào người xin được thẻ nầy như một vị
tướng quân thắng trận.
Trái lại triệu "Du thuyền ngộ vũ", tức là đi chơi thuyền gặp mưa, là triệu xấu.
Mỗi quẻ có triệu riêng, không quẻ nào giống quẻ nào.
Thường thường trong ống Thẻ 100 Quẻ có độ:
10 triệu "thật tốt" mang hai chữ "đại cát" hoặc "thượng thượng".
20 triệu "tốt vừa" mang chữ "cát" hoặc chữ "thượng".
10 triệu thật xấu mang hai chữ "hạ hạ".
20 triệu "xấu vừa" mang chữ "hạ".
40 triệu mang chữ "trung bình", tức là triệu "không xấu không tốt". 
Như trên đã nói, mỗi Quẻ thẻ có một bài thơ. Bài thơ này tổng đoán việc cát hung, tùy theo
Triệu ghi ở đầu quẻ thẻ.
Dưới bài thơ lại phân ra từng
Mục với lời giải: bản mệnh, mưu vọng, cầu tài, hành nhân, thất vật,
lục giáp, quan trạng, bệnh tật...
Lời giải của mỗi Mục hoặc là văn xuôi, hoặc có khi lại là một bài thơ riêng.
Cuối cùng ở Quẻ thẻ là Lời chú giải chung theo ý nghĩa của bài thơ tổng đoán trên.
*
Muốn
xin Thẻ trước hết phải quì khấn trước bàn thờ, khấn rõ tên tuổi, sinh quán, trú quán, và
muốn xin quẻ Thẻ về việc gì. Khấn xong thì lễ "bốn rưỡi"; ngày nay người ta vái 5 vái dài, 3 vái
ngắn. Lễ hoặc vái xong, người xin thẻ xốc ống thẻ cho có 1 chiếc thẻ vọt ra thì thôi. Trong
trường hợp có nhiều chiếc thẻ cùng vọt ra một lúc, người xin thẻ phải khấn lễ lại và lại xốc ống
thẻ cho đến được 1 chiếc thẻ vọt ra ngoài ống thẻ.
(Thẻ) (Xin Thẻ = Xin Xâm)
Tại Miền Nam, sau khi được Quẻ thẻ rồi, người xin được thẻ còn xin thêm một
Đài Âm Dương
bằng hai đồng tiền hoặc bằng hai con keo hình mặt trăng lưỡi liềm. Hai con keo đều có 1 mặt
phẳng và 1 mặt vồng lên khum khum, coi như 1 một mặt sấp 1 mặt ngửa.
Nếu Đài Âm Dương ứng theo lời xin nhất âm nhất dương, tức là quẻ thẻ của đương sự đã được
Thần linh chiếu theo việc cát hung vận về đương sự mà ứng như vậy.
*
Khi có được một chiếc Thẻ "văng" ra ngoài, khỏi hộp thẻ và khi Đài Âm Dương đã ứng cho Quẻ
đó, người xin thẻ đọc số thứ tự ghi trên chiếc thẻ, rồi ra
xin một Quẻ thẻ từ người thủ từ hoặc
ban quản trị nơi thờ tự. Quẻ thẻ có in sẵn theo số đã đọc trên chiếc Thẻ. Có nơi người lấy thẻ
phải trả tiền giấy in, có nơi thẻ được phát không cho khách tới lễ bái xin thẻ.


Về đài âm dương, có người xin trước và khi có được nhất âm nhất dương mới xin quẻ sau.
Trong trường hợp keo âm dương đầu tiên không được, người ta thường khấn khứa xin lại, và như
thế cho tới lần thứ ba, nếu vẫn không được nhất âm nhất dương thì người ta sẽ thôi. Hôm đó
Thần linh không ứng cho đương sự.
Xin được Quẻ thẻ rồi, đương sự phải nhờ người đoán, vì nhiều khi bài thơ tổng đoán cũng như
các lời chú giải, nghĩa không được rõ ràng, chỉ những người đoán quẻ thẻ mới hiểu. Tại trước 
cửa các nơi thừa tự thường có những ông thầy ngồi xem số đoán thẻ. Mỗi Quẻ thẻ đoán xong,
khách đi lễ thường trả cho người đoán một món tiền thù lao nhỏ.
*
Theo lời các cụ thì trước đây, mỗi Quẻ thẻ bao giờ cũng là một bài thơ giáng bút Hán tự. Số
người đọc được
chữ Hán giờ đây không có nhiều nên tại các nơi thờ tự, ban quản trị hay những
người có trách nhiệm đã thuê người diễn nôm và diễn nghĩa những Quẻ thẻ, cho in sang chữ
quốc ngữ, và có khi còn kèm cả chữ Hán.
Tại những nơi thờ tự mới lập gần đây, người ta
không xin được Thần linh giáng bút thì người
ta thuê hoặc nhờ soạn sẵn một số Quẻ thẻ, có hay có dở, có trung bình với lời chú giải; rồi làm lễ
cầu Thần linh xin cho mỗi quẻ một số bằng cách rút thăm. Có bao nhiêu quẻ thì người ta viết
từng ấy số, mỗi số trên thanh tre hoặc một mảnh giấy, đoạn người ta khấn vái để rút ra một số
cho mỗi thẻ.

*
Đầu năm, các thiện nam tín nữ đi lễ thường xin quẻ thẻ để xem vận mệnh hay dở quanh năm của
mình. Các thí sinh đi thi, các người buôn bán làm ăn, các người có thân nhân đau ốm cũng
thường xin Thẻ để tìm hiểu kết quả trước.
Ngày nay ở Sài Gòn, về dịp đầu năm cũng như trong những ngày tuần tiết, người ta kéo nhau đi
lễ và xin thẻ rất đông tại các đền như tại lăng Tả quân Lê Văn Duyệt, đền Hưng Đạo Vương, đền
Sòng sơn thờ Liễu Hạnh Công chúa (ở đường Trương Minh Giảng), đền Hai Bà Trưng (ở Gia
Định).
*
Lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt là nơi dân chúng hay đến xin Thẻ nhưng chính Tả Quân Lê Văn
Duyệt còn bị kết tội vì một Quẻ Thẻ.
Năm 1835, sau khi dẹp xong loạn Lê Văn Khôi (con nuôi của ông Lê Văn Duyệt), vua Minh
Mạng cho Nội Các định tội ông Lê Văn Duyệt (đã qua đời trước đó). Nội các đứng đầu là ông 
Hà Tôn Quyền và ông Nguyễn Tri Phương tìm thấy 9 tội phản nghịch của ông Lê Văn Duyệt,
trong đó có 2 tội như sau:
Một là: “Mộ” tiếm gọi là “Lăng” (điều nầy cũng đúng vì tới bây giờ chúng ta vẫn gọi là
Lăng Ông Bà Chiểu?). Lăng chỉ dùng để gọi cho mồ mã của Vua mà thôi!


Hai là: Lúc sinh tiền tự xưng là xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng
Phù Chu ninh hậu thập Chu thần
Tha niên tái ngộ Trần Kiều sự (*)
Nhất đán hoàng bào bất thử thân

 (Trần Trọng Kim dịch)
Giúp Hán há thua cùng tướng Hán
Phò Chu nào kém bọn tôi Chu
Trần Kiều nếu gặp cơn binh biến
Mảnh áo hoàng bào dễ ép nhau?


(*) Chú thích:


Trần Kiều là nơi xảy ra cuộc binh biến. Sau khi vua nhà Hậu Chu là Sài Vinh chết, con
là Cung Đế lên ngôi còn nhỏ tuổi. Quân Khiết Đan của nước Liêu ở phương Bắc sắp tấn công.
Quân đội khoát áo hoàng bào vào người Tướng quân Triệu Khuông Dẫn và tôn ông nầy lên làm
vua, truất phế Chu Cung Đế, lập nên nhà Tống. Quẻ ám chỉ ông Lê Văn Duyệt là Triệu Khuông
Dẫn và vua Minh Mạng là vua Cung Đế của nhà Hậu Chu.


Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn


Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com phần Văn Hóa mục Giáo Lý


Tài liệu tham khảo:
1) Tín Ngưỡng Việt Nam (Toan Ánh)
2) Việt Nam Phong Tục (Phan Kế Bính)
3) Nghi Thức và Lễ Bái của Người Việt Nam (Sơn Nam)
4) Thơ và Việt Sử - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com
5) Đại Từ Điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên)
Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền 

 

 

 

PTH_Đá gà.JPG

                          ĐÁ GÀ TRONG THƠ CHỮ QUỐC NGỮ

 

                                                      Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

Phong trào Đá Gà ở Nam Kỳ rất được ưa chuộng và người "tạo" ra là Tổng trấn Gia Định Thành Tả Quân Lê Văn Duyệt.  Tương truyền là ngài Tả Quân rất mê đá gà cũng như mê hát bội!

Đá Gà trở thành một đặc điểm văn hóa Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 19 cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam.  Nhiều trường gà có ở khắp 6 tỉnh Nam Kỳ.

 

Triết lý của Đá Gà được thể hiện qua bài thơ của thi sĩ Dị Nhơn ở Nam Kỳ:

 

ĐÁ GÀ

Bấy lâu thóc nước chịu ơn nhà

Một trận đua gan biết sức gà

Trước cuộc chém đâm chi nháy mắt

Giữa đường sanh tử chẳng dung gia

Đương Dương nào kém người thao sáu (*)

Địch khái đâu nhường kẻ lược ba (*)

Tài đức quyết đem đền nợ chủ

Ngàn năm để rạng tiết danh ta.

(Dị Nhơn)

 

(*) Chú thích: Trận Đương Dương thời Tam Quốc.  Thao sáu lược ba = Lục thao Tam lược là sách binh thư của Khương Tử Nha (Thái công Vọng, Lã Vọng) có Lục thao (6 kế mưu) và Tam lược (3 kế hoạch) dùng cho quân sự.

 

 

 

Ông Đỗ Văn Y và ông Trương Duy Toản là 2 nhà cách mạng trong Nam theo Cường Để.  Bị bắt ở bên Pháp, ở tù trong ngục La Santé (như Phan Châu Trinh) rồi bị giải về an trí ở Nam Kỳ.  

Cũng như những nam nhi khác ở Nam Kỳ, ông Đỗ Văn Y làm bài thơ dùng con Gà trống "đá" để tỏ chí khí nam nhi của mình. 

 

GÀ TRỐNG

Đêm khuya thức giấc tối đen mò

Cất tiếng kêu người gáy ó o!

Rơi máu trường nhưng lòng chẳng gớm

Xàu mình chiến hậu tiếng không ô

Giống nòi quyết giữ thân tròn vẹn

Cựa sắc nào phai phận quả cô

Một độ ăn thua trời đất biết

Ân đền nghĩa trả cái công phu.

(Đỗ Văn Y)

 

Chú thích:

Trường: là trường gả (nơi tổ chức thi đá gà)

Xàu = héo úa; buồn rầu

 

Chi tiết về Đá Gà được thi sĩ tiền phong Lê Quang Chiểu của Nam Kỳ mô tả như sau:

 

ĐÁ GÀ

Cũng là đồng loại khéo kình gan

Đá chọi làm chi chẳng ngỡ ngàng

Ô cậy thế cao, đâm là vít

Tía toan lòn thấp chém như tan

Vỉa vai cũng nghĩ vài thao nước

Mé sỏ chẳng vì ít tấc nhang

Trong thép hãy còn khua lỗ miệng

Ngoài vòng bạc xỉa giữa bàng quan.

(Lê Quang Chiểu)

 

Chú thích:

Gà Ô = gà có lông đen.  Gà Tía = gà có lông màu đỏ sậm

Vỉa vai = cắn vào vai đối phương mà đá (1 thế đá của con gà)

Mé sỏ = cắn vào mép hay cắn vào mồng gà đối phương mà đá (1 thế đá khác của con gà)

Theo Hán ngữ: Bàng = bên cạnh.  Quan = (ông) quan

Theo tiếng Nôm: Bàng quan = làm ngơ, đứng ngoài cuộc.  

Hai câu cuối là tác giả chơi chữ từ câu: "Miệng nhà quan có gang có thép, đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm".

 

Ông Lê Quang Chiểu (1852-1925) sanh ở Cái Răng, Cần Thơ (nay là quận Châu Thành, Cần Thơ) là học trò của ông Phan Văn Trị.  Ông cũng sống ở Phong Điền như ông Phan Văn Trị và có một thời gian ngắn ông làm Cai Tổng Phong Điền nên còn được gọi là Cai Tổng Chiểu (hay Tổng Chiểu).  Ông thường bị lộn với ông Nguyễn Đình Chiểu.  

Là con nhà giàu ông không chịu làm quan lâu, chỉ ở nhà làm thơ.  Ông là người đầu tiên xuất bản tập thơ viết bằng chữ Quốc Ngữ ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20.  Tập thơ “Quốc Âm thi hợp vịnh” nầy của ông Lê Quang Chiểu là tập thơ viết bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên của Việt Nam.  Tập thơ nầy tổng hợp thơ Đường Luật của các Thi sĩ Nam kỳ (Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Tôn Thọ Tường, Thủ Khoa Nghĩa... luôn cả thơ của ông).  

Cháu của ông Lê Quang Chiểu là Bác sĩ nhãn khoa Lê Văn Hoạch ở Cần Thơ có 2 lần làm Thủ tướng chính phủ Nam Kỳ Quốc vào thập niên 1940s.

 

Trong các trường gà ở Nam Kỳ, gà Cao Lãnh nổi tiếng là đá hay nhất như 2 câu Ca dao thường được nhắc tới:

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh 

Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân 

 

Còn có 4 câu Ca dao khác nói về gà Cao Lãnh:

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh

Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ

Làm chi nay đợi mai chờ

Linh đinh Phong Mỹ dật dờ Hòa An (*)

(*) Chú thích: Hai xã nầy ngày nay thuộc Tp Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

 

Người ta nói gà Cao Lãnh là gà lai nên có 2 đặc tính: vừa mạnh và vừa dai! (cho nên đá hay?).  

 

 

 

Thi sĩ Lãng Ba Phan Văn Bộ (1908-1966) là người sinh trưởng ở Cao Lãnh, ông cũng có những bài thơ vảo thập niên 1940s và 1950s, thời thịnh hành của "Đá Gà".

Qua thơ của Lãng Ba, chúng ta có những cái nhìn khác về Đá Gà.

 

ĐÁ GÀ

Điều, ô, bông, chuối, xám, xanh, vàng

Hội lại quanh trường túc gáy vang

Cáp chạn, đắn đo xương, vảy, cựa

Cá tiền, liệu lượng bắt, quăng, dằn

Tới lui xạ đá, lông văng túa

Xoay trở cắn đâm, máy chảy tràn

Thắng bại, chẳng vong âu cũng phế

Tương tàn đồng loại, nghĩ nào đang?

(Lãng Ba Phan Văn Bộ) 

22-8-1948 

 

Chú thích:

Các màu lông của con gà:  Điều = màu đỏ.  Bông = lông có nhiều màu.  Chuối = màu như màu lá chuối (xanh lục).  Một con gà mà lông có nhiều màu gọi là gà bông.

Bắt, Quăng, Dằn: những cách thức đánh cá đá gà (ở trường gà)

Xạ = bắn, đá lẹ và thẳng như (súng) bắn.  Từ ngữ dùng để tả (gà) đá.

 

GÀ RÓT

Cũng điều cũng xám cũng ô nè

Quanh quẩn sau hè gáy lấy le

Lúa sẵn no nê mồng đỏ lói

Nghệ vô đầy đủ cẳng vàng khè

Nắng che mưa chở năng bồng bế

Gió giữ sương gìn mãi vuốt ve

Những tưởng ra trường đền nợ chủ

Mới vừa giao nạp chạy te te…

(Lãng Ba Phan Văn Bộ) 

30-1-1953 

 

GÀ MÁI ĐÁ GÀ TRỐNG

Á Ngộ! Mái tơ đá trống cồ

Nóng xem, ai chẳng lấn chen vô?

Xạ mau, nhảy lẹ, bao trò diễn

Đâm nặng, cắn đau, lắm điệu phô

Kẻ tưởng thua tài lo khuyến khích

Người tin lấn sức cứ trầm trồ

Té ra chỉ “cụi” trong giây lát

Túc gáy cùng nhau lại cặp bồ.

(Lãng Ba Phan Văn Bộ) 

16-10-1948

 

Năm 1972, tôi được anh Tư, con bác Sáu của tôi, dẫn đi coi Đá Gà ở 1 trường gà tại Châu Đốc.  Thật là một kỷ niệm khó quên, nó làm tôi hiểu và mến phục những Thi sĩ  (Lê Quang Chiểu và Lãng Ba) đã làm những bài thơ hay và đúng thực tế về Gà và Đá Gà.  Những ông nài gà thì giỏi lắm: cầm máu, may vá ... đều rất khéo léo như Giải Phẫu gia thứ thiệt.

 

Khi đọc lại lịch sử, Đá Gà đã có từ lâu ở Miền Bắc, ít nhất là từ đời nhà Trần.  Trong Hịch Tướng Sĩ (năm 1284), Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn có viết:

Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú về làm ruộng, hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.

Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống làm sao đâm thủng được áo giáp, mẹo cờ bạc làm sao dùng nỗi được quân mưu, dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều thân ấy nghìn vàng không chuộc; vả lại vợ bìu con díu...

 

Tại Miền Trung đã có một thi nhân ở Huế dùng chuyện Đá Gà để làm thơ như thơ của Hồ Xuân Hương:

 

ĐÁ GÀ

Vui xuân nhằm tiết mồng ba

Ông bà cao hứng bắt gà đá chơi

Gà ông ngỏng cổ gáy hơi

Gà bà thủ bộ đợi thời gà ông

Gà ông chém trúng cạnh mồng

Gà bà nổi giận gặm cần gà ông

Đá nhau một chặp ướt lông

Gà bà trúng cựa, gà ông gục cần!

(Vô Danh Thị)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn 


 

Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Thơ Văn phần Đọc Thơ.

 

Tài liệu tham khảo:

1) Thơ Lãng Ba (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Thơ và Việt Sử - Thời kỳ Pháp Thuộc (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

3) Nam Kỳ Lục Tỉnh (Hứa Hoành)

4) Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim)

5) Tinh Thần Trào Phúng Trong Thi Ca Xứ Huế (Hoàng Trọng Thược)


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

_________________________________________

    LỊCH SỬ VIỆT NAM - THỜI THƯỢNG CỔ 

                                            Bs Phan Thượng Hải biên soạn

 

Thời Thượng Cổ của lịch sử Việt Nam là thời gian từ khi bắt đầu có lịch sử cho tới khi bắt đầu của Bắc Thuộc Thời đại.  Nó có liên quan tới nguồn gốc và tổ tiên của người Việt Nam chúng ta trong thời Tiền Sử.   

Lịch sử trong thời Thượng Cổ nầy vẫn còn có nhiều nghi vấn và tranh cãi cho tới ngày nay.

Bài viết nầy chỉ trình bày tóm lược những điều đã đọc được từ các sử gia xưa và nay qua những nguồn sử liệu cũ và mới để cho người thông thường có một kiến thức tổng quát và thứ tự về lịch sử nước nhà trong thời Thượng Cổ. 

 

Theo nguồn sử liệu cũ, lịch sử cũ của thời Thượng Cổ bắt đầu với lịch sử của Hùng Vương và nước Văn Lang với nguồn gốc từ Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ.  Sau đó An Dương Vương Thục Phán chiếm nước Văn Lang và lập nước Âu Lạc.

Chọn lọc tài liệu từ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (có lẽ từ Lĩnh Nam Chích Quái) và một phần của Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Việt Nam Sử Lược tóm lược Lịch sử cũ của thời Thượng Cổ gồm:

Nước Xích Quỷ

Nước Văn Lang

Nước Âu Lạc 

Theo thời khoa học hiện đại, lịch sử cũ nầy gần như là thần thoại lại không hợp lý về thời gian và không gian nên đã không được hoàn toàn chấp nhận.

 

Lịch sử cũ chỉ chú trọng tới quốc gia.  Một quốc gia phải gồm có dân tộc, lãnh thổ và chính quyền.  Lịch sử với nguồn sử liệu mới chú trọng tới Dân tộc và Lãnh thổ vì có dân tộc sống trên lãnh thổ trong thời Thượng Cổ mà không cần có chính quyền: 

Nhóm người Bách Việt (thay vì là nước Xích Quỳ): sống ở vùng Đông Nam và Nam núi Ngũ Lĩnh (gọi chung là đất Lĩnh Nam).

Người Lạc Việt (thay vì là nước Văn Lang): sống ở miền Bắc Việt Nam ngày nay.

Nước Âu Lạc có dân tộc đa số là người Lạc Việt và thiểu số là người Âu Việt.

Lịch sử mới của thời Thượng Cổ nói tới về người Lạc Việt, nhóm người Bách Việt và nước Âu Lạc.  Từ đó cũng nói sơ lược về thời Tiền Sử của người Lạc Việt, tổ tiên của người Việt chúng ta hiện nay.

 

 

LỊCH SỬ CŨ 

 

Lịch sử cũ của thời Thượng Cổ được chọn lọc và trình bày tóm lược và khá đầy đủ từ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim về nước Xích Quỷ, nước Văn Lang và nước Âu Lạc.

 

Nước Xích Quỷ

 

Cứ theo tục truyền rằng vua Đế Minh (cháu 3 đời vua Thần Nông) đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc Hồ Nam, Trung Quốc bây giờ) lấy một nàng Tiên đẻ ra con thứ là Lộc Tục.  Sau đó Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam.  

Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương và đặt tên nước của mình là Xích Quỷ.  Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ gồm có:

Phía Bắc giáp Động Đình Hồ (bắc Hồ Nam bây giờ), tức là nam của sông Trường Giang (sông Dương Tử).

Phía Nam giáp nước Hồ Tôn (nước Chiêm Thành sau này).

Phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên bây giờ).

Phía Đông giáp bể Nam Hải. 

Kinh Dương Vương Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr CN).  Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm.  Sùng Lãm nối ngôi làm vua nước Xích Quỷ xưng là Lạc Long Quân. 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Nước Xích Quỷ)


 

Lạc Long Quân (Sùng Lãm) lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra 100 con trai.  Có sách chép là Âu Cơ đẻ ra 100 trứng rồi nở ra 100 con trai.  

Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: 

“Ta là dòng dõi Long quân còn Nàng là dòng dõi Thần Tiên ăn ở với nhau lâu không được, nay có được 100 đứa con trai thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi còn ta đem 50 đứa xuống bể Nam Hải".   

Gốc tích nầy có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau nước Xích Quỷ chia ra những đất nước gọi là Bách Việt.  Bởi vậy ngày nay đất Hồ Quảng (Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây) còn xưng là đất Bách Việt.  Đấy cũng là một điều nói phỏng chứ không có lấy gì làm đích xác được.


 

Nước Văn Lang

 

Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương họ là Hồng Bàng (nhà Hồng Bàng).  Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên); đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính.  Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối gọi là Phụ đạo.  Lãnh thổ có 15 Bộ gồm Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị) ngày nay.  

 

15 Bộ gồm có:  

Văn Lang (h. Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên ngày nay)

Châu Diên và Phúc Lộc (vùng Sơn Tây ngày nay)

Tân Hưng (vùng Tuyên Quang và Hưng Hóa ngày nay)

Vũ Định (vùng Thái Nguyên và Cao Bằng ngày nay)

Vũ Ninh (vùng Bắc Ninh ngày nay)

Lục Hải (vùng Lạng Sơn ngày nay)

Ninh Hải (vùng Quảng Yên ngày nay)

Dương Tuyền (vùng Hải Dương ngày nay)

Giao Chỉ (vùng Hà Nội, Nam Định và Ninh Bình ngày nay)

Cửu Chân (vùng Thanh Hóa ngày nay)

Hoài Hoan (vùng Nghệ An ngày nay)

Cửu Đức (vùng Hà Tĩnh ngày nay)

Bình Văn (vùng Hà Tĩnh ngày nay?)

Việt Thường (vùng Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay)


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Nước Văn Lang = Miền Bắc Việt Nam ngày nay)


 

Sử Tàu có chép rằng năm Tân mão (1109 tr CN) đời vua Chu Thành Vương của nhà Tây Chu có nước Việt Thường ở phía Nam xứ Giao Chỉ sai sứ đem chim Bạch trĩ sang cống.  Nhà Chu phải tìm người thông ngôn mới hiểu được ngôn ngữ và ông Chu Công Đán (chú của Thành Vương) lại chế ra xe chỉ nam để dẫn đường cho sứ Việt Thường về nước.  Vậy đất Giao Chỉ và đất Việt Thường có phải là đất của Hùng Vương lúc bấy giờ không?

 

Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm Quí mão (258 tr CN) thì bị nhà Thục lấy mất nước.  Xét từ đời Kinh Dương Vương (2879 tr CN) đến hết đời Hùng Vương thứ 18 (258 tr CN) có 20 đời vua trong vòng 2622 năm.  Cứ tính hơn bù kém mỗi ông vua trị vì được non 150 năm!  Dẫu là người Thượng cổ nữa, thì cũng khó lòng sống lâu được như vậy.  Xem thế thì đủ biết truyện đời Hồng Bàng không chắc là truyện xác thực.  

 

Ngày nay, sử gia theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư còn chép thêm rằng: 

Kinh Dương Vương sinh năm 2919 tr CN, chết năm 2792 tr CN và lên ngôi vào năm 2879 tr CN. 

Các vua Hùng Vương bắt đầu từ Kinh Dương Vương là Hùng Vương thứ nhất (từ năm 1879 tr CN) rồi đến Lạc Long Quân là Hùng Vương thứ nhì, có Miếu hiệu là Hùng Hiền Vương.

15 Hùng Vương tiếp theo (Hùng Vương thứ 3 tới Hùng Vương thứ 17) đều có Miếu hiệu nhưng không có niên biểu.  Từ Kinh Dương Vương (Hùng Vương thứ nhất) tới Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18) có tất cả 18 đời vua Hùng Vương kéo dài trên 2622 năm.  Riêng Kinh Dương Vương thọ 127 tuổi.

Hùng Vương cuối cùng (thứ 18) từ chối không gả con gái cho Thục Vương.  Năm 258 tr CN, cháu của Thục Vương là Thục Phán nối ngôi, đem quân đánh Hùng Vương.  Hùng Vương chỉ uống rượu say sưa không phòng bị nên bị thua và nhảy xuống giếng tự tử.  An Dương Vương thôn tính nước Văn Lang và chính thức lập nước Âu Lạc (257 tr CN).


 

Nước Âu Lạc

 

Năm 258 tr CN, An Dương Vương Thục Phán của nước Thục đánh bại vua Hùng Vương thứ 18, rồi chính thức lập nước Âu Lạc (257 tr CN) đóng đô ở Phong Khê (nay thuộc tỉnh Phúc Yên).  Nhờ thần Kim Quy, vua xây thành Cổ Loa hình xoáy như trôn óc (gọi là Loa Thành).  Thần Kim Quy còn cho ông một móng chân làm thành một cái nỏ thần, bắn một phát giết hàng vạn người.  

 

Triệu Đà, quan Úy của quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) muốn chiếm nước Âu Lạc nhưng vì có nỏ thần nên đánh không thắng nỗi.  Ông lập kế cho con là Trọng Thủy sang Âu Lạc lấy con của An Dương Vương là Mỵ Châu (và chịu ở rể).  Trọng Thủy hỏi dò vợ mình là Mỵ Châu tại sao không ai thắng nỗi nước Âu Lạc.  Vì tin chồng, Mỵ Châu kể chuyện cái nỏ thần và lén lấy cho chồng xem.  Trọng Thủy lén tráo đem cái nỏ giả thay vào.  Sau đó Trọng Thủy xin về nước thăm cha.  Khi sắp đi, Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu rằng: “Tôi về, mà lỡ có giặc giã đánh thì làm sao tôi tìm được nàng”.  Mỵ Châu nói rằng: “Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ khi thiếp có chạy về đâu thì sẽ lấy lông ngỗng rắc dọc đường”.  

 

Trọng Thủy đem nỏ thần về và kể sự thật cho cha là Triệu Đà, ông nầy liền đánh Âu Lạc (năm 208 tr CN).  Vì nỏ thần giả nên không hiệu nghiệm nữa, do đó vua An Dương Vương thua trận phải đem Mỵ Châu lên ngựa mà chạy đến núi Mộ Dạ (nay là huyện Đông Thành, Nghệ An).  Vua khấn thần Kim Quy thì thần hiện lên và bảo rằng: “Giặc ở sau lưng nhà vua đấy”.  An Dương Vương tức giận mới chém chết Mỵ Châu rồi nhảy xuống giếng tự tử.  Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ rắc đuổi đến núi Mộ Dạ.  Thấy xác vợ, Trọng Thủy thương xót đem xác Mỵ Châu về chôn ở thành Cổ Loa rồi nhảy xuống giếng tự tử.

Nay ở làng Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương có cái giếng tục truyền rằng Trọng Thủy chết ở giếng ấy.  Tục cũng truyền rằng máu của Mỵ Châu chảy xuống bể, những con trai ăn phải hóa ra ngọc trân châu.  Hễ ai lấy được ngọc ấy đem về rửa ở giếng Trọng Thủy ở đền Cổ Loa thì ngọc ấy trong và đẹp ra.


 

LỊCH SỬ MỚI VỀ NGƯỜI LẠC VIỆT 

 

Nguồn Sử Liệu

 

Lịch sử của người Việt và nước Việt chúng ta bắt đầu bằng lịch sử của những người sống ở Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Đó là tổ tiên của chúng ta.

 

Thời Thượng Cổ của lịch sử Việt Nam là thời kỳ bắt đầu khi có Lịch sử cho tới  khi bắt đầu Thời Bắc Thuộc (năm 208 tr CN).  Trước đó là Thời Tiền Sử.

Sau năm 214 tr CN, người Tàu chiếm đất của những người Bách Việt ở Lĩnh Nam thì mới tiếp xúc với nước Âu Lạc.  Từ đó sử gia Tàu mới biết có nước Văn Lang, một nước có lãnh thổ là Miền Bắc Việt Nam ngày nay, đã có trước đó từ nhiều thế kỷ trước và chỉ mới đổi thành nước Âu Lạc từ năm 257 tr CN.    

Năm 208 tr CN, nước Âu Lạc bị Triệu Đà (một quan Úy của nhà Tần và nhà Hán) thôn tính và lập nước Nam Việt với lãnh thổ có thêm Lưỡng Quảng ngày nay (Quảng Đông và Quảng Tây) đóng đô ở Phiên Ngu hay Phiên Ngung (thuộc Tp Quảng Châu ngày nay).  

Năm 111 tr CN, nhà Hán của Trung Quốc thôn tính nước Nam Việt.  

Miền Bắc Việt Nam ngày nay thuộc Tàu từ năm 208 tr CN cho tới khi ông Ngô Quyền dành độc lập vào năm 938 (gọi là Bắc Thuộc Thời đại).  Nước ta thuộc Tàu tất cả hơn 1100 năm và sau đó độc lập gần 1100 năm cho tới ngày nay (năm 2019).

 

Nguồn Sử Liệu của Thời Thượng Cổ.

Sau năm 214 tr CN (Thế kỷ thứ 3 tr CN), Sử gia Trung Quốc từ thời Bắc Thuộc bắt đầu viết Sử về Miền Bắc Việt Nam ngày nay trong thời Thượng Cổ dùng Hán tự (từ Hán ngữ).  Do đó tất cả nhân danh (tên người) và địa danh có trong Sử liệu đầu tiên đều có nguồn gốc từ Sử gia Trung Quốc nên đều bằng Hán ngữ.  Những nhân danh hay địa danh có trước thời Bắc Thuộc có lẽ được sử gia Tàu dịch âm từ ngôn ngữ địa phương của người bản xứ (Tiếng Việt Cổ) hay tự đặt ra. 

Từ năm 938 (Thế kỷ thứ 10), Dân tộc bản xứ ở  Miền Bắc Việt Nam ngày nay dành độc lập và lập thành quốc gia, đó là nước Việt của chúng ta cho tới ngày nay.  Sử gia nước Việt mới bắt đầu viết lịch sử của nước Việt từ thế kỷ thứ 14 nhưng Chính sử chỉ còn tồn tại từ thế kỷ thứ 15 (đó là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên).  Chính sử viết vào thế kỷ thứ 14 đã bị mất (đó là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu), chỉ còn lại Ngoại sử mang tính chất thần thoại là sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp.  Những sử gia Việt nầy cũng dùng Hán tự và Hán ngữ.  Một số nhân danh và địa danh có thể khác hay được thêm trong Lĩnh Nam Chích Quái và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư.  Tuy đã bị thất lạc nhưng Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu không có viết về thời Thượng Cổ mà chỉ bắt đầu từ Triệu Vũ Vương (Triệu Đà), thời điểm bắt đầu của Bắc Thuộc Thời đại.

Gần đây, có một quyển chính sử của sử gia người Việt viết vào thế kỷ thứ 14 thất lạc bên Tàu vừa tìm ra được.  Đó là Đại Việt Sử Lược (Việt Sử Lược), viết bằng Hán tự.

Từ thế kỷ thứ 20, các nhà Khảo cổ bắt đầu khai quật những vùng văn hóa ở Miền Bắc Việt Nam ngày nay như Văn hóa Đông Sơn.  Từ đó có thêm những nguồn sử liệu mới ngoài sách vở.

Sử liệu ngày nay được phổ thông nhờ những công trình dịch thuật toàn bộ những sử liệu Hán và Hán Nôm như Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng như sự quảng bá trên Internet.

 

Như vậy lịch sử thời Thượng Cổ của người Việt và nước Việt chúng ta đã được dựa trên 2 nguồn sử liệu về thời Thượng Cổ:

Nguồn Sử Liệu cũ (tới cuối thế kỷ 20) thường dùng Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.  Nó lấy nguồn từ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và một phần của Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có lẽ dựa trên Lĩnh Nam Chích Quái.  Nguồn sử liệu cũ có tính chất thần thoại và không hợp lý.

Nguồn Sử Liệu mới (từ cuối thế kỷ 20) dùng sử liệu của Tàu (viết trong thời Bắc Thuộc) đa số tìm được trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục mới được dịch ra toàn phần và phổ biến, của Đại Việt Sử Lược mới được tìm ra, của các học giả trong Wikipedia và từ công trình khai quật của các nhà Khảo cổ từ thế kỷ 20.  Nguồn sử liệu mới hợp lý nên có giá trị.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Miền Bắc Việt Nam ngày nay)


 

Chi tiết lịch sử từ Nguồn sử liệu mới

 

Việt Sử Lược (đời nhà Trần, thế kỷ thứ 13) viết:

Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 tr CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối "kết nút".  Nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc.

 

Trích từ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục

An Nam Chí Nguyên của Cao Hùng Trưng chép: Giao Chỉ khi chưa đặt quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc (Lạc điền), theo nước triều lên xuống mà làm ruộng; khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng; đều dùng ấn đồng thao xanh.  Nước gọi là Văn Lang.  Phong tục thuần hậu mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ, truyền được 18 đời.

Theo Dư Địa Chí của Cổ Hi Phùng, Giao Chỉ về đời Chu gọi là Lạc Việt, về đời Tần gọi là Tây Âu, thế thì đất Âu Lạc lại ở về phía tây Phiên Ngu (kinh đô của nước Nam Việt của Triệu Đà).  Theo Giao Quảng Ký của Hoàng Sâm, Giao Chỉ có ruộng Lạc Điền, khai khẩn theo nước triều lên xuống.  Người "ăn" hoa lợi ruộng ấy là Lạc Hầu.  Các huyện (khu vực địa phương) tự gọi là Lạc Tướng.  Sau nầy con Thục Vương đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê.  

 

Trích từ Wikipedia

Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ thứ 4) và Thủy Kinh Chú (thế kỷ thứ 6) chép:  Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc điền, ruộng (cày cấy) theo con nước thủy triều.  Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc dân.  Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện.  Ở huyện phần đông có Lạc Tướng.  Lạc Tướng có ấn bằng đồng (đeo) giải (vải màu) xanh.  Về sau con vua Thục đem 3 vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng.  Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương.

Sử Ký Tư Mã Thiên, chương Nam Việt Úy Đà liệt truyện, có nói chuyện Triệu Đà thôn tính vùng đất phía Nam trong đó có nước Âu Lạc, quốc gia do An Dương Vương thống nhất và được cho là sự hợp nhất của 2 nhóm Lạc Việt và Âu Việt.

 

Sử gia ngày nay đã đồng ý (Wikipedia):

Lạc Việt là tên gọi của một trong các dân tộc Việt trong nhóm Bách Việt.  Người Lạc Việt có lẽ bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ (nay thuộc tỉnh Hồ Nam), đã từng sinh sống ở vùng đất mà nay là Tây Nam Quảng Đông, Đông Nam Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Miền Bắc Việt Nam ngày nay nơi người Lạc Việt sinh sống gồm có Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh) với biên giới phía nam là Hoành Sơn và Đèo Ngang.  Lãnh thổ có thể có thêm Quảng Bình và Quảng Trị (cho đến Thừa Thiên) nhưng không có gì chắc chắn. 

Âu Việt hay Tây Âu là 1 tập hợp các bộ lạc miền núi sinh sống tại khu vực mà ngày nay gồm có Đông Bắc Việt Nam, Tây Quảng Đông và Nam Quảng Tây.  Theo truyền thuyết là nước Nam Cương ở tỉnh Cao Bằng.  Âu Việt hay Tây Âu cũng là tên gọi của một trong các dân tộc Việt trong nhóm Bách Việt.

Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Đông Bắc của nước Văn Lang hợp nhất nước Văn Lang của người Lạc Việt với vùng đất của người Âu Việt  hay Tây Âu (Đông Nam tỉnh Quảng Tây ngày nay) vào năm 258 tr CN và lập nước Âu Lạc.

 

Theo "Dong Sơn Culture - Wikipedia", người Lạc Việt của nước Văn Lang (và nước Âu Lạc) có một nền văn hóa đặc biệt.  Đó là Văn hóa Đông Sơn, tìm được đầu tiên từ khai quật ở làng Đông Sơn (thuộc Tp Thanh Hóa ngày nay). 

Thời gian của Văn hóa Đông Sơn là từ khoảng năm 1000 tr CN cho tới khoảng năm 1 tr CN. 

Địa điểm của Văn hóa Đông Sơn là miền Bắc Việt Nam ngày nay trọng tâm ở lưu vực sông Hồng Hà gồm các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.  


 

Lịch sử Thời Thượng Cổ từ Nguồn sử liệu mới

 

Quốc gia gồm có Lãnh thổ (Territory), Dân tộc (People) và Chính quyền (Government).  

Muốn tìm nguồn gốc lịch sử người Việt và nước Việt của chúng ta thì phải bắt đầu bằng Lãnh thổ.  Miền Bắc Việt Nam ngày nay là lãnh thổ đầu tiên.  Các Sử gia ngày nay đều đồng ý nó gồm có Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh) với biên giới phía nam là Hoành Sơn và Đèo Ngang.  Lãnh thổ có thể có thêm Quảng Bình và Quảng Trị (cho đến Thừa Thiên) nhưng không có gì chắc chắn. 

 

Theo Văn Hóa Đông Sơn, từ khoảng 1000 năm tr CN (thế kỷ thứ 11 tr CN) đã có người sinh sống trước đó và gây dựng một nền văn hóa ở đây.  Đó là dân tộc Lạc Việt, đã được sử gia hiện đại công nhận là một trong các dân tộc Việt trong nhóm Bách Việt.  Dần dần người dân Lạc Việt có nhiều bộ tộc hay bộ lạc.  Người Lạc Việt cũng được biết có sinh sống ở những vùng thuộc Tây Nam Quảng Đông và Đông Nam Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay.

 

Theo Đại Việt Sử Lược, cùng thời với vua Chu Trang Vương trong thời Xuân Thu bên Tàu vào thế kỷ thứ 7 tr CN, bắt đầu có chính quyền quân chủ của người Lạc Việt dưới sự lãnh đạo của vua Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ ngày nay).  Đó là nơi có Đền Hùng Vương.  Có tất cả 18 đời Hùng Vương từ khoảng 696-682 tr CN. (đời Chu Trang Vương) cho tới 258 tr CN (trong hơn 400 năm).  Sử Tàu gọi Hùng Vương là Lạc Vương và danh hiệu Hùng Vương là từ sử liệu của người Việt (từ Việt Sử Lược vào thế kỷ 14).  

Hùng Vương có quan lại phụ tá ở trung ương là những (quan) Lạc Hầu.  Địa phương có những Bộ cai quản bởi quan Lạc Tướng.  Dưới Lạc Tướng là các quan Bố Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng xã). 

 

Nước có tên là Văn Lang và chia ra 15 Bộ.  Nước Văn Lang là Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  

Địa điểm và tên của 15 Bộ được sử gia ngày nay ấn định: 

Văn Lang: kinh đô Phong Châu (h. Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ ngày nay)

Châu Diên (vùng Sơn Tây ngày nay)

Phúc Lộc (vùng Sơn Tây ngày nay)

Tân Hưng (vùng Tuyên Quang và Hưng Hóa ngày nay)

Vũ Định (vùng Thái Nguyên và Cao Bằng ngày nay)

Vũ Ninh (vùng Bắc Ninh ngày nay)

Lục Hải (vùng Lạng Sơn ngày nay)

Ninh Hải (vùng Quảng Yên ngày nay)

Dương Tuyền (vùng Hải Dương ngày nay)

Giao Chỉ (vùng Hà Nội, Nam Định và Ninh Bình ngày nay)

Cửu Chân (vùng Thanh Hóa ngày nay)

Hoài Hoan (vùng Nghệ An ngày nay)

Cửu Đức, Bình Văn và Việt Thường (vùng Hà Tĩnh, và bắc Hoành Sơn ngày nay)

 

Dân Lạc Việt sống bằng nông nghiệp với những ruộng lúa cạnh sông, cày cấy theo thủy triều lên xuống.  Phong tục thuần hậu nhưng không có Chữ viết.  Ngôn ngữ của dân Lạc Việt trước thời Bắc Thuộc chưa được hiểu biết tường tận.  Sử gia thường gọi là "Tiếng Việt cổ".


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Nước Văn Lang thành lập từ thế kỷ thứ 7 vào thời Xuân Thu và nhà Đông Chu ở Trung Quốc)


 

Nguồn sử liệu mới: 

Không có nói tới nguồn gốc Hồng Bàng thị (của Hùng Vương) từ Kinh Dương Vương, nước Xích Quỷ, Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Có nói khác với nguồn sử liệu cũ về cơ cấu chính quyền và lãnh thổ của nước Văn Lang.

Có nói tới tên Lạc hay Lạc Việt của dân tộc nước Văn Lang.  Chi tiết nầy không có nói tới trong nguồn sử liệu cũ.

Có nói tới danh hiệu Hùng Vương và Văn Lang như nguồn sử liệu cũ.

 

Năm 258 tr CN, Thục Phán nối nghiệp làm vua, thủ lãnh của các bộ tộc người Âu Việt hay Tây Âu ở Đông Nam Quảng Tây ngày nay, rồi đánh bại Hùng Vương thứ 18 và chiếm chính quyền trung ương của nước Văn Lang.  Thục Phán xưng là An Dương Vương và đổi tên nước là Âu Lạc (257 tr CN).  Nước Âu Lạc gồm có lãnh thổ nước Văn Lang cũ và thêm phần đất của người Âu Việt (Đông Nam Quảng Tây ngày nay).

 

Năm 208 tr CN, quan Úy quận Nam Hải của nhà Tần là Triệu Đà đánh bại An Dương Vương Thục Phán và thôn tính nước Âu Lạc.  Triệu Đà xưng là Triệu Vũ Vương và lập nước Nam Việt.  Nước Nam Việt gồm có 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Triệu Đà chia nước Văn Lang cũ (Miền Bắc Việt Nam ngày nay) thành 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân.  Quận Giao Chỉ là Bắc Kỳ ngày nay và quận Cửu Chân là bắc Trung Kỳ ngày nay (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh).  Về sau (trong thời nhà Triệu) một phần đất phía nam của quận Cửu Chân tách ra thành quận Nhật Nam.

Năm 111 tr CN, nhà Hán của Trung Quốc chiếm và tiêu diệt nước Nam Việt.  Miền Bắc Việt Nam ngày nay là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam trở thành quận của Trung Quốc.  


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Nước Văn Lang và đất Âu Việt)


 

Địa danh và Nhân danh 

 

Những Sử liệu đầu tiên về người Lạc Việt và nước Văn Lang viết bởi sử gia Trung Quốc từ thời nhà Hán nên bằng Hán tự.  Người Lạc Việt và nước Văn Lang không có Chữ viết (văn tự) mặc dù có ngôn ngữ mà các sử gia ngày nay gọi là Tiếng Việt Cổ.  Hiện nay đã có những khám phá ra Chữ Việt Cổ (trong thời Thượng Cổ) nhưng còn quá hạn chế và chưa chính thức được hoàn toàn hiểu biết và công nhận. 

Như vậy tất cả nhân danh (tên người) và địa danh có trong Sử liệu đầu tiên đều có nguồn gốc từ Sử gia Trung Quốc nên đều bằng Hán ngữ.  Những nhân danh hay địa danh có trước thời Bắc Thuộc có lẽ được sử gia Tàu dịch âm từ ngôn ngữ địa phương (Tiếng Việt Cổ?) hay tự đặt ra.

 

Dưới đây là giả thuyết về một số danh hiệu bằng Hán tự và Hán ngữ:

 

Văn Lang 文 郎

"Văn Lang" dịch âm ra Hán ngữ từ tiếng Việt Cổ "Blang" hay "Klang" mà nhiều dân tộc ở miền núi Trung Kỳ ngày nay còn dùng cho tên của 1 loại Chim họ tôn kính như vật tổ.  Một loại Chim có thể là "Tổ Vật" của người Lạc Việt nên dùng để đặt cho tên quốc gia?  (Chữ Văn Lang 文 郎 viết theo Hán tự dịch nghĩa Hán ngữ là chàng trai văn vẻ và có học thức).

 

Lạc Việt 雒 越

"Lạc" dịch âm ra Hán ngữ từ tiếng Việt Cổ "Lak" hay "Nak" có nghĩa là "Nước" (Water).  Quốc gia Văn Lang có nhiều "Ruộng nước".  Theo Hán ngữ "Ruộng" là "Điền".  Do đó người Tàu tạo ra Hán ngữ "Lạc điền" cho "Ruộng nước" ở đây.  Từ đó người Tàu gọi người dân ở đây là "người Lạc" (Lạc nhân), từ Lạc điền.  (Chữ Lạc 雒 viết theo Hán tự dịch nghĩa Hán ngữ là con ngực da trắng có lông gáy màu đen).  

Người Tàu gọi tổng quát những dân tộc ở phía Nam và Đông Nam dãy núi Ngũ Lĩnh là người Việt 越, có lẽ lấy từ tên của nước Việt vào thời Xuân Thu hay sự tích có người Việt Thường đến gặp vua Thành Vương của nhà Tây Chu vào năm 1109 tr CN.  (Sau đó vì có nhiều giống người Việt khác nhau nên gọi tổng hợp là Bách Việt).  Do đó người Tàu gọi thêm người Lạc là người Lạc Việt 雒 越.  

 

Hùng Vương 雄 王

Chữ Lạc 雒 và chữ Hùng 雄 viết theo Hán tự gần giống nhau nên Sử gia người Việt sau nầy đổi chữ "Lạc Vương" (vua của người Lạc Việt) của Sử gia Trung Quốc thành chữ "Hùng Vương" cho có ý nghĩa "mạnh" hơn hay viết lộn?  (Chữ Hùng 雄 dịch nghĩa theo Hán ngữ là "mạnh / strong").


 

Tiền Sử của người Lạc Việt

 

Trước Thời Cổ Đại hay Thượng Cổ của Lịch sử là thời Tiền Sử (thời trước khi có lịch sử).  

Thời Tiền Sử có 3 Thời đại nối tiếp nhau: Đồ Đá (Stone Age), Đồ Đồng (Bronze Age) và Đồ Sắt (Iron Age).  Tùy theo từng nơi khác nhau trên Địa cầu, Lịch sử bắt đầu ở Thời đại khác nhau tùy thuộc vào sự thành lập hay du nhập của Chữ viết ở từng địa phương (thường là vào Thời Đồ Đồng).

Trong Thời đại Đồ Đồng (Bronze Age) vào khoảng trước 5.000 năm tr CN có các giống người Tiền sử ở Đông và Đông Nam Á Châu và Úc Châu ngày nay:

Australoids

Neolithic Austroasiatic

Austronesian

Kra-Dai

Hmong Mien 

 

Theo các sử gia hiện đại (Wikipedia):

Người "Bản xứ" ở Miền Bắc Việt Nam ngày nay (trung tâm là đồng bằng sông Hồng và sông Mã) là hậu duệ của người Hmong-Mien (Miêu-Dao) ở những cộng đồng nông nghiệp thuộc lưu vực sông Trường Giang (s. Dương Tử).   Họ di cư đến đây vào khoảng 2000 năm tr CN và có di tích là Văn hóa Phùng Nguyên.  Văn hóa Phùng Nguyên (khoảng 1500-2000 năm tr CN) tìm được từ khai quật đầu tiên ở làng Phùng Nguyên (18 km đông Thành phố Việt Trì) vào năm 1958.  

Vào khoảng 1000-1200 tr CN thì bắt đầu có Văn hóa Đông Sơn của người "Bản xứ" ở đây với loại Trống Đồng đặc biệt.  

Từ thế kỷ thứ 7 tr CN, người "Bản xứ" lập thành quốc gia với chính quyền quân chủ ở Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  

Từ thế kỷ thứ 3 tr CN, người Tàu đến Miền Bắc Việt Nam ngày nay đem Chữ Hán (Hán tự) và dùng Hán ngữ viết Lịch sử của người "Bản xứ", gọi tên quốc gia là nước Văn Lang, người dân là người Lạc Việt và vua là Lạc Vương.  Theo người Tàu thì khi đó người "Bản xứ" chưa có Chữ viết, nhưng có 1 số sử gia ngày nay không đồng ý.  Tuy nhiên Ngôn ngữ và Chữ viết của người "Bản xứ" gọi là "Tiếng Việt Cổ" và "Chữ Việt Cổ" thì chưa được sử gia hiện đại khám phá đầy đủ, hiểu biết rõ ràng và phổ biến minh bạch.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Những người Tiền Sử ở Đông Nam Á Châu và Úc Châu)

 

Như vậy Tổ tiên của người Lạc Việt từ người Hmong-Mien (Miêu Dao) ở lưu vực sông Trường Giang di cư tới Miền Bắc Việt Nam ngày nay trong thời Tiền Sử.

Tổ tiên của người Tàu (Hoa Hạ) là những người sống ở lưu vực sông Hoàng Hà trong thời Tiền Sử:

Tam Hoàng 

Ngũ Đế

Nhà Hạ (khoảng 2070 tr CN - 1600 tr CN)

Lịch sử Trung Quốc chỉ chính thức bắt đầu với nhà Thương (từ 1600 tr CN) dựa trên Giáp Cốt Văn tự trên các mu rùa.  Giáp Cốt văn tự là chữ viết đầu tiên của Trung Quốc.  Khi có Chữ viết tự tạo hay du nhập từ nơi khác thì một địa phương bắt đầu có lịch sử (của nó): chữ viết ghi lại lịch sử.  Nhà Thương theo thời gian là nối tiếp của nhà Hạ với cùng một lãnh thổ nhưng điều lạ là Giáp Cốt Văn của nhà Thương không có viết gì về thời Tam Hoàng, Ngũ Đế và nhà Hạ.  Thời Tiền Sử nầy chỉ được viết từ những thời đại khác hàng mấy ngàn năm sau đó nên không thể có thật mà chỉ là hoang đường tưởng tượng?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Lãnh thổ của nhà Hạ, và lúc bắt đầu của nhà Thương vào năm 1600 tr CN)

 

Tam Hoàng là 3 vị "bán thần" giúp người dân sinh sống; gồm có Phục Hy, Toại Nhân (hay Nữ Oa) và Thần Nông.  Tương truyền gọi là Thần Nông vì là vị Thần sáng tạo ra nghề nông và biết dùng cây cỏ để chữa bệnh.

Ngũ Đế là 5 vị quân chủ (monarch) không cùng huyết thống truyền ngôi cho nhau theo thứ tự là: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn.

Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ Vũ.  Hạ Vũ truyền ngôi cho con cháu cùng huyết thống lập ra nhà Hạ.

Thời Tiền Sử của Trung Quốc chấm dứt vào năm 1600 tr CN (bắt đầu thế kỷ thứ 16) với bắt đầu của nhà Thương.  Gọi là Thời Tiền Sử vì không có Chữ viết.  Trong thời Tiền Sử nầy người Tàu biết dùng lửa, cất nhà, trồng ngũ cốc, làm quần áo, chài lưới, có lễ nghi...

 

Do đó vào thời điểm khoảng 5.000 tr CN, tổ tiên của người Tàu và của người Việt đã sống ở 2 nơi khác nhau.

Tổ tiên của người Tàu sống và định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà.

Tổ tiên của người Việt sống ở lưu vực sông Trường Giang (s. Dương Tử) rồi một nhóm di cư đến định cư ở lưu vực sông Hồng và sông Mã (Miền Bắc Việt Nam ngày nay) vào khoảng năm 2000 tr CN.


 

LỊCH SỬ MỚI VỀ NHÓM NGƯỜI BÁCH VIỆT

 

Lịch sử nước Âu Lạc (và nước Văn Lang) của người Lạc Việt và Âu Việt cũng nằm trong lịch sử Trung Quốc và Bách Việt ở Lĩnh Nam.  Huyền sử nước Xích Quỷ của người Việt tuy làm cho hậu sinh liên kết nó với nguồn gốc của nhóm người Bách Việt nhưng chính nó chỉ là hoang đường và không có thật mặc dù có sự tương tự giữa lãnh thổ của nước Xích Quỷ và của nhóm người Bách Việt.


 

Trung Quốc và Bách Việt

 

Người Tàu từ đời nhà Hạ (2070-1600 tr CN) cho tới thời Chiến Quốc (473-221 tr CN) gọi mình là người Hoa Hạ để phân biệt với nhiều giống người thiểu số khác (mà người Hoa Hạ gọi là Rợ / Barbarians) sống trong cùng một lãnh thổ.  

Theo thuyết Thiên Mệnh của nhà Tây Chu (từ 2 người con của Chu Văn Vương là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích), lãnh thổ Trung Quốc lúc đó gọi là Thiên Hạ (Dưới Trời) có một lãnh tụ tối cao và độc nhất là Thiên Tử (Con Trời), có Thiên Mệnh (Mệnh Trời) cai trị tất cả mọi người.  Thiên tử lần lượt là vua nhà Hạ, nhả Thương và nhà Chu (Tây Chu rồi Đông Chu trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc).  Lúc đầu từ thời nhà Tây Chu, Thiên Hạ gồm có Trung Quốc là nước của Thiên tử Nhà Chu, các Phương quốc là các nước của các Chư Hầu và đất nước của những người Thiểu số (gọi là Rợ).  

Khi nhà Tần thống nhất Thiên hạ (221 tr CN), chấm dứt thời Chiến Quốc, và Tần Thủy Hoàng Đế làm Thiên tử xưng là Hoàng đế thì Thiên Hạ là Trung Quốc vì không còn Chư hầu và Phương Quốc nữa.  Lúc đó người Hoa Hạ cũng gần như đồng hóa những người Thiểu số (như những người Địch, Nhung, Di, Man, Ba, Thục...) và đã thôn tính đất nước của họ.  Sau đó Nhà Hán thay thế nhà Tần.  Từ đó người Hoa Hạ là người Hán (Hán nhân, Hán tộc).  Danh từ Trung Quốc và Hán tộc tồn tại cho tới ngày nay. 

Lãnh thổ Trung Quốc trong thời gian bắt đầu của nhà Tần ở lưu vực sông Vị, sông Phần Thủy, sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (s. Dương Tử); thuộc phía Bắc và Tây Bắc dãy núi Ngũ Lĩnh.  

 

Từ thế kỷ thứ 9 tr CN vào thời Xuân Thu, người Hoa Hạ đã biết có 2 bộ lạc của người Việt lập thành 2 nước chư hầu Ngô và Việt, được ghi trong chính sử của người Hoa Hạ là Tả Truyện và kinh Xuân Thu.

Nước Ngô của người Câu Ngô (ở miền Nam tỉnh Giang Tô ngày nay). 

Nước Việt 越 của người Ư Việt (ở miền Bắc tỉnh Triết Giang ngày nay).  

Tương truyền họ có văn hóa gần như người Hoa Hạ nhờ Thái Bá (con của Chu Văn Vương của nhà Tây Chu) tự lưu đày ở đây.  Người Câu Ngô và Ư Việt thường được gọi chung là người Đông Âu Việt hay Đông Âu. 

Năm 473 tr CN, Việt Vương Câu Tiễn thôn tính nước Ngô, đây là năm đánh dấu chấm dứt thời Xuân Thu và bắt đầu thời Chiến Quốc.  Năm 333 tr CN, nước Việt bị nước Sở (của người Hoa Hạ và dân tộc thiểu số khác) thôn tính.  Hoàng tộc dời về vùng đất của tỉnh Phước Kiến ngày nay lập nước Mân Việt và cai trị người bản xứ.  Người bản xứ là người Mân Việt.

 

Đến thời Chiến Quốc, người Hoa Hạ mới chú ý đến những giống người ở Nam và Đông Nam của dãy núi Ngũ Lĩnh.  Họ gọi tổng quát là Người Việt 越 (Việt Nhân), có lẽ lấy từ tên nước Việt của thời Xuân Thu ở Đông Nam dãy núi Ngũ Lĩnh hay từ người Việt Thường 越 裳 ở phương Nam đã đến gặp vua Chu Thành Vương (1109 tr CN). 

Sách Lã Thị Xuân Thu của nước Tần vào cuối thời Chiến Quốc, viết xong vào năm 239 tr CN, nói tới "Bách Việt" 百 越.

Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên của thời Tây Hán, trong phần "Ngô Khởi truyện", Bách Việt là từ ngữ dùng chung cho nhiều giống người không phải là người Hoa Hạ, sống ở miền Nam và Đông Nam của Trung Quốc.  Vì là nhiều giống người Việt nên gọi tổng hợp là Bách Việt (bách = 100), nhưng không có nghĩa là phải đúng 100 giống người Việt, có thể là 5, 10 hay 20 hoặc không biết hết.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Dãy núi Ngũ Lĩnh gồm có: Đại Dũ, Thủy An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương)


 

Sau cuộc viễn chinh "Bách Việt" trong đời Tần Thủy Hoàng, người Hán biết rõ hơn về người Bách Việt.

Theo Hán Thư của Ban Cố và em gái là Ban Cơ (viết xong vào năm 111): “Trong vòng 7, 8 ngàn dặm giữa Giao Chỉ và Cối Kê ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình”.  Giao Chỉ là miền Bắc Việt Nam bây giờ và Cối Kê ở bắc tỉnh Chiết (Triết) Giang của Trung Quốc bây giờ.  Do đó đất nước của những giống người Bách Việt có thể là ở miền Nam và Đông Nam của dãy núi Ngũ Lĩnh, bắt đầu có tên là Lĩnh Nam trong thời nhà Tần. 

 

Nếu so sánh với địa lý ngày nay, 

Vùng đất của người Hoa Hạ và người Hán là các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông; Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên; Giang Tô, An Huy và Hồ Bắc.

Vùng đất của người Việt hay Bách Việt là các tỉnh Hồ Nam, Triết Giang (Chiết Giang), Giang Tây; Quí Châu, Vân Nam; Phúc Kiến, Quảng Đông và Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay (gồm có Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ). 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau khi gồm thâu các nước của thời Chiến Quốc và thống nhất Trung Quốc (vùng đất của người Hoa Hạ và của người Hán sau nầy), Tần Thủy Hoàng chinh phạt (những) người Bách Việt.  Theo sách Hoài Nam Tử, vào năm 214 tr CN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem khoảng nửa triệu quân theo dòng sông Tương xuống phương Nam và phải đánh 2 lần mới thắng được những người Bách Việt ở Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay và lập thành 3 Quận thuộc nước Tần (Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận).  Tần Thủy Hoàng di dân Trung Quốc về đây dùng chương trình đồng hóa người Việt bản xứ.  Những người Bách Việt sống ở đây là thuộc giống người Hồ Việt, Đông Việt, Dương Việt, Nam Việt và Tây Âu Việt.

 

Năm 208 tr CN, Quan Úy của quận Nam Hải (của nhà Tần) là Triệu Đà đánh bại và thôn tính vương quốc Âu Lạc (của người Tây Âu Việt và Lạc Việt).  Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngung hay Phiên Ngô (thuộc Tp Quảng Châu ngày nay) và lập nên nước Nam Việt, độc lập với chính quyền Trung Quốc (nhà Tần và nhà Hán).  Triệu Đà để người Bách Việt được sống chung với người di cư từ Trung Quốc, không kỳ thị và đồng hóa.  Nước Nam Việt của nhà Triệu gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Nước Âu Lạc gồm một phần phía nam của tỉnh Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay.

 

Sau nhà Tần, nhà Hán chiếm hoàn toàn những Đất Nước của những người Bách Việt:

chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay. 

chiếm nước Dạ Lang của người Việt là Quý Châu ngày nay. 

chiếm đất của người Điền Việt là Vân Nam ngày nay. 

chiếm nước Mân Việt của người Mân Việt và Ư Việt là Phước Kiến và nam Triết Giang ngày nay

PTH_xichquy.JPG
PTH_nuocVanLang.JPG
PTH_mienBacVN.JPG
PTH_vanLangtky7.JPG
PTH_NuocVanLangvadatAuLac.JPG
PTH_nguoitiensu.JPG
PTH_lanhthoNhaHa.JPG
PTH_daynuiNguLinh.JPG
PTH_cactinhTrungQuoc.JPG

(Các tỉnh Trung Quốc ngày nay)

PTH_NhahanchinhphatLinhNam.JPG

(Nhà Hán chinh phạt Lĩnh Nam)

 

Bách Việt và Lĩnh Nam

 

Sự hiện hữu của nhóm những người Bách Việt  ở Nam và Đông Nam của dãy núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam) đã có từ nhiều thế kỷ trước CN tuy nhiên bắt đầu từ thời điểm nào thì không ai biết.  Từ thời Xuân Thu của nhà Đông Chu sự hiện hữu mới có trong lịch sử Trung Quốc (sách Tả Truyện và kinh Xuân Thu).

 

Nhóm Bách Việt ở phương Bắc:

Người Câu Ngô sống ở nam tỉnh Giang Tô ngày nay lập nên nước Ngô vào thời Xuân Thu.  Nước Ngô bị nước Việt thôn tính năm 473 tr CN.  Người Câu Ngô có văn hóa Hoa Hạ nhờ theo truyền thuyết Thái Bá con của Chu Văn Vương của nước Tây Chu tự lưu đày ở đây và giáo hóa người Câu Ngô.

Người Ư Việt sống ở tỉnh Triết Giang ngày nay lập nước Việt vào thời Xuân Thu và thôn tính nước Ngô của người Câu Ngô.  Sau đó nước Việt bị nước Sở thôn tính vào thời Chiến Quốc.  Người Câu Ngô và Ư Việt thường được gọi chung là Ngô Việt.  

Người Mân Việt sống ở tỉnh Phước Kiến.  Hoàng gia nước Việt sau khi mất nước chạy về đây cùng người Mân Việt lập nước Mân Việt (334-110 tr CN) cho đến khi bị nhà Hán thôn tính.

Người Hồ Việt sống ở tỉnh Hồ Nam ngày nay.  Đất bị Tần Thủy Hoàng chiếm (214 tr CN).

Người Đông Việt (và Dương Việt) sống ở tỉnh Giang Tây ngày nay.  Đất bị Tần Thủy Hoàng chiếm (214 tr CN).

Người Dạ Lang thuộc Bách Việt sống ở tỉnh Quý Châu và lập nước Dạ Lang từ thế kỷ thứ 3 tr CN và bị nhà Hán thôn tính vào năm 27 tr CN.

Người Điền Việt sống ở tỉnh Vân Nam và lập Điền Quốc, rồi cũng bị nhà Hán thôn tính.

 

Nhóm Bách Việt ở phương Nam:

Người Nam Việt sống ở Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.  Đất bị Tần Thủy Hoàng chiếm (214 tr CN).

Người Tây Âu Việt (hay Tây Âu hay Âu Việt) sống ở tây nam Quảng Tây ngày nay theo lưu vực sông Tây Giang và Quế giang.  Một phần đất bị Tần Thủy Hoàng chiếm cùng lúc với người Hồ Việt, Đông Việt và Nam Việt (214 tr CN).  Phần đất kia trước đó đã theo thủ lãnh là Thục Phán sát nhập vào nước Văn Lang của người Lạc Việt khi Thục Phán chiếm nước Văn Lang (257 tr CN) thành ra nước Âu Lạc.

Người Lạc Việt 雒 越 đại đa số sống ở Miền Bắc Việt Nam ngày nay và hình như thiểu số sống ở nam Quảng Đông và Quảng Tây. "Lạc" theo Hán ngữ có nghĩa là "con ngựa da trắng với lông bờm màu đen".  Người Lạc Việt ở miền Bắc Việt Nam ngày nay có nước Văn Lang ở đây thành lập từ thế kỷ thứ 7 tr CN và có 18 đời vua là Hùng Vương.  (Theo truyền thuyết, Hùng Vương là dòng dõi từ Kinh Dương Vương là người lập ra nước Xích Quỷ.  Cũng theo truyền thuyết nước Xích Quỷ là quốc gia của toàn thể người Bách Việt từ lúc đầu).

PTH_vitrivungBachViet.JPG

(Người Bách Việt ở Lĩnh Nam) 


 

Nước Văn Lang bị Thục Phán, một thủ lãnh của người Tây Âu Việt chiếm và lập thành nước Âu Lạc (257 tr CN).  Dưới quyền cai trị của An Dương Vương Thục Phán, lãnh thổ nước Âu Lạc là lãnh thổ của nước Văn Lang cũ nhưng có thể có thêm một phần của nam tỉnh Quảng Tây (phần đất người Âu Việt dưới quyền của Thục Phán cư ngụ).  An Dương Vương xây Loa Thành ở kinh đô Cổ Loa vẫn còn di tích tới nay ở xã Cổ Loa, Hà Nội.  Như vậy dân của nước Âu Lạc đại đa số là người Lạc Việt, thiểu số là người Âu Việt.  Nước Âu Lạc tồn tại 50 năm (từ 257 tr CN) với 1 đời vua là An Dương Vương Thục Phán. 

Triệu Đà, quan Úy quận Nam Hải của nhà Tần, đánh bại An Dương Vương, thôn tính nước Âu Lạc, lập thành nước Nam Việt (208 tr CN).  Lãnh thổ gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Dân tộc của nước Nam Việt của Triệu Đà gồm người Hoa Hạ (người Hán) đã di cư vào Quảng Đông và Quảng Tây trong thời Tần Thủy Hoàng đế; người Nam Việt và người Tây Âu Việt bản xứ ở Quảng Đông và Quảng Tây; người Tây Âu Việt và người Lạc Việt bản xứ của nước Âu Lạc. 

Năm 111 tr CN, Nhà Hán thôn tính nước Nam Việt của nhà Triệu, nhập lãnh thổ vào Trung Quốc và lập thành Giao Chỉ bộ gồm 9 quận, đặt quan Thái thú và Thứ sử cai trị.

 

Như vậy nước Âu Lạc của người Lạc Việt và người Tây Âu Việt thành thuộc địa của Trung Quốc cho tới thế kỷ thứ 10 khi ông Ngô Quyền dành độc lập và đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ của nước Âu Lạc.  Sau đó ông Đinh Bộ Lĩnh lập nước Đại Cồ Việt với lãnh thổ là miền Bắc Việt Nam ngày nay.  Sau nầy nước Đại Cồ Việt đổi tên thành Đại Việt và bành trướng thành nước Việt Nam ngày nay gồm thêm Miền Nam Việt Nam.

 

Miền Bắc Việt Nam ngày nay gồm có Bắc Kỳ và các tỉnh ở bắc Trung Kỳ (tới Hoành Sơn và Đèo Ngang).  Nó là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam trong thời Bắc Thuộc nước Tàu (quận Giao Chỉ là Bắc Kỳ).


 

LỊCH SỬ MỚI VỀ NƯỚC ÂU LẠC

 

Câu chuyện Mỵ Châu Trọng Thủy cũng như Thần Kim Quy chỉ là chuyện thần thoại khó có thể có thật.

 

Ngày nay lịch sử nước Âu Lạc được tóm tắt như sau:

Năm 258 tr CN, Thục Phán, 1 thủ lãnh của người Âu Việt (hay Tây Âu) đánh bại Hùng Vương của nước Văn Lang, nắm chính quyền trung ương và đóng đô ở Phong Khê (nay ở xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Hà Nội).  Lãnh thổ có thêm phần đất của Thục Phán và người Âu Việt dưới quyền (nay ở đông nam tỉnh Quảng Tây).  Năm 257 tr CN, Thục Phán xưng là An Dương Vương và xây Loa Thành (thành Cổ Loa).  Nước đổi tên là Âu Lạc.  Chính quyền địa phương của những Lạc Tướng cai trị 15 Bộ ở địa phương vẫn không thay đổi (cho tới cả trong thời Bắc Thuộc).  Dân tộc gồm người Lạc Việt của nước Văn Lang cũ (Miền Bắc Việt Nam ngày nay) và người Âu Lạc dưới quyền cai trị của Thục Phán (ở đông nam Quảng Tây ngày nay).   

 

Năm 208 tr CN, Triệu Đà, quan Úy quận Nam Hải của nhà Tần và nhà Hán, đánh bại Thục An Dương Vương và thôn tính nước Âu Lạc.  Triệu Đà lập nước Nam Việt độc lập với nhà Hán xưng là Nam Việt Vũ Vương.  Lãnh thổ của nước Nam Việt gồm có 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay và Miền Bắc Việt Nam ngày nay (nước Văn Lang cũ).  Miền Bắc Việt Nam ngày nay gồm Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh cho tới Hoành Sơn và Đèo Ngang).

 

Ngày nay có giả thuyết là Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc vào năm 179 tr CN chứ không phải vào năm 208 tr CN.  Thời điểm nầy rất quan trọng vì nó là thời điểm bắt đầu Thời Bắc Thuộc (chấm dứt khi Ngô Quyền dành độc lập vào năm 938).

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (thế kỷ 15) và Đại Việt Sử Lược (thế kỷ 14), nước Âu Lạc kết thúc vào năm 208 tr CN sau khi An Dương Vương bị Triệu Đà đánh bại và sát nhập thành nước Nam Việt.

Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên (thế kỷ 1 tr CN) viết rằng Tây Âu Lạc (tức là nước Âu Lạc ở phía Tây) bị Triệu Đà đánh bại ngay sau khi Thái hậu nhà Hán là Lữ Hậu chết vào năm 180 tr CN, vì thế một số sách ngày nay viết là nước Âu Lạc sụp đổ vào năm 179 tr CN.

Điều nầy chưa chắc Sử Ký (là) hoàn toàn đúng vì nước Âu Lạc chỉ có 1 vua là Thục An Dương Vương.  Từ năm 257 tr CN (khi nước Âu Lạc thành lập) cho tới năm 179 tr CN là 79 năm!  Thời gian từ năm 257 tr CN tới năm 208 tr CN là 50 năm thì có lý hơn vì Thục An Dương Vương khó có thể làm vua đến hơn 79 năm (và sống đến khoảng 100 tuổi hay hơn nữa).

PTH_NuocAuLac.JPG

(Nước Âu Lạc)

 

Năm 214 tr CN, người Tàu chiếm đất tới Lưỡng Quảng ngày nay thì tiếp xúc nước Âu Lạc và sau đó thôn tính nước nầy.  Danh hiệu Âu Lạc cũng từ Hán ngữ và Hán tự của người Tàu cũng như danh hiệu của những người trong nhóm Bách Việt (như Lạc Việt, Âu Việt, Nam Việt...).   Rất tiếc chúng ta không biết được danh hiệu của nước Âu Lạc cũng như địa danh và nhân danh của nước nầy bằng ngôn ngữ bản xứ.  Tuy nhiên sử gia vẫn tin là có nước Âu Lạc trong thời điểm và địa điểm nầy và đó là điều hợp lý.  Người Tàu (Hán) đã dùng danh hiệu Lạc Việt và Âu Việt cho người dân thì tên nước là Âu Lạc là điều dĩ nhiên?

 

KẾT LUẬN

 

Nguồn sử liệu mới đã góp phần viết lại lịch sử thời Thượng Cổ của người Việt chúng ta.  Tuy nhiên những chuyện thần thoại viết trong Lĩnh Nam Chích Quái vẫn còn được người Việt chúng ta tôn trọng và truyền tụng.  Đó là những chuyện được kể đi kể lại nhiều lần đôi khi không còn giống với nguyên văn trong Lĩnh Nam Chích Quái và được Thi nhân dùng làm đề tài sáng tác cho tới ngày hôm nay.

 

Đây là những chuyện chánh trong thời Thượng Cổ: 

Truyện Hồng Bàng (Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ)

Truyện Trầu Cau

Truyện Đầm Nhất Dạ (Chử Đồng Tử và Tiên Dong)

Truyện Phù Đổng Thiên Vương

Truyện Bánh Dày Bánh Chưng

Truyện Dưa Hấu

Truyện Lý Ông Trọng

Truyện Kim Quy (và Mỵ Châu Trọng Thủy)

Truyện Núi Tản Viên (Sơn Tinh Thủy Tinh)

Những chuyện nầy là căn bản của nguồn sử liệu cũ cho thời Thượng Cổ nhưng cho tới cuối thế kỷ thứ 20 thì một số đã mất dần giá trị khoa học lịch sử.  

 

Truyện "Hồng Bàng", chính thức có trong chính sử là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, đã được dùng như là nguồn gốc của người Việt chúng ta.  

Có Sử gia ngày nay (như Liam Kelly) nghĩ rằng nó chỉ là sự tưởng tượng thêm của Ngô Sĩ Liên lấy nguồn gốc từ "Lưu Nghị truyện" viết vào thời nhà Tống ở bên Tàu (960-1279).  Truyện nầy kể lại thư sinh Lưu Nghị vào đời Đường Cao Tông (649-683) trên đường tới huyện Kinh Dương thì gặp một thiếu phụ con gái của Long quân của Động Đình hồ.  Thiếu phụ nầy có chồng trước là Long vương của sông Kinh đã ngược đãi bà.   Kết cuộc là Lưu Nghị kết duyên với thiếu phụ nầy.  Câu chuyện nầy giống câu chuyện của Kinh Dương Vương kết duyên với con gái của Động Đình quân trong Hồng Bàng kỷ của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 

 

Tuy nhiên người Việt ngày nay kể cả tác giả bài viết nầy vẫn tự hãnh diện và tự hào là "giòng giống Lạc Hồng" và "con cháu Hùng Vương" từ truyện "Hồng Bàng".  

 

CON CHÁU HÙNG VƯƠNG

Cội nguồn người Việt tự tiên long

Con cháu Hùng Vương mạnh tựa rồng

Miền Bắc thành công gìn tổ quốc

Phương Nam tiến bộ mở non sông

Tâm tư hậu duệ nên bền chí

Gương sáng tiền nhân giúp vững lòng

Lịch sử hùng anh tồn tại mãi

Vinh danh nước Việt rạng trời Đông.

(Phan Thượng Hải)

4/19/21

 

Nhưng truyện nầy lại gián tiếp ám chỉ rằng người Việt chúng ta và người Tàu (người Hán) có cùng 1 nguồn gốc vào khoảng năm 3000 tr CN.  

Theo những sử gia hiện đại, người Việt chúng ta và người Tàu (người Hán) có thể đã có nguồn gốc khác nhau từ khoảng năm 5000 tr CN trong thời Tiền Sử.  Ước mong trong tương lai có sử gia hay nhà nhân chủng học tài ba làm sáng tỏ vấn đề nầy.


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Bài viết nầy đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com trong mục Văn Hóa phần Học Thuật.

 

Tài Liệu Tham Khảo:

1) Thơ và Việt Sử - Thời Thượng Cổ (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim)

3) Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngô Sĩ Liên)

4) Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn)

5) Lĩnh Nam Chích Quái (Trần Thế Pháp)

6) Kinh Dương Vương as a medieval invented tradition - leminhkhai's seasian blog

7) Những Đề tài liên quan trong Wikipedia  

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

________________________

   TRƯƠNG VĨNH KÝ VÀ TRƯƠNG MINH KÝ

                                                                                   

                                             Bs Phan Thượng Hải biên soạn                                                                                        

 

Ba ông Petrus Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của đã có công dùng chữ Quốc Ngữ để truyền bá và phát huy văn hóa Đông Tây cho người Việt bắt đầu từ Nam Kỳ trong thời Pháp thuộc vào hậu bán thế kỷ thứ 19.  

 

Thành hình của Chữ Quốc ngữ

 

*

Sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ (1867), Pháp muốn thay đổi văn hóa nước Việt Nam, tách ra khỏi Trung Hoa và gần gũi với Âu Tây hơn do đó chữ Quốc Ngữ được dùng thay thế chữ Hán và chữ Nôm.  Ông Petrus Trương Vĩnh Ký là người khởi công làm việc nầy.  Nhờ công lớn của ông Petrus Trương Vĩnh Ký, ông Paulus Huỳnh Tịnh Của và ông Trương Minh Ký mà người Việt chúng ta mới có chữ Quốc Ngữ ngày hôm nay; dễ dàng, phong phú, hữu dụng, hợp thời và tách ra được chữ Hán và chữ Nôm phức tạp và khó khăn.

 

*

Chữ Quốc Ngữ thành hình là nhờ các giáo sĩ ngoại quốc truyền đạo Gia Tô (đạo Thiên Chúa) ở Việt Nam từ thế kỷ 16.  

 

Theo ông Nguyễn Tường Bách, người bắt đầu sáng tạo chữ Quốc Ngữ là Giáo sĩ dòng Tên Francisco De Pina (1585-1625), người Bồ Đào Nha.  

Giáo sĩ De Pina bắt đầu đến Macao truyền giáo (1613) rồi tới Đàng Trong (1617).   Thấy chữ Hán Nôm khó học nên khó dịch văn bản của Đạo Gia Tô (Ki Tô Giáo), Francisco De Pina dựa theo phát âm (của người Việt) mà dùng mẫu tự La tinh diễn tả thành chữ viết (như chữ Bồ Đào Nha của ông): chữ Quốc Ngữ của nước ta thành hình (từ năm 1622).  

Giáo sĩ De Pina còn viết văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới nầy và từ năm 1624 dạy các giáo sĩ khác trong đó có Antonio De Fontes (1569-?) sinh tại Lisboa (Bồ Đào Nha) và Alexandre De Rhodes (1591-1660) sinh tại Avignon (Pháp).  

Tháng 12, 1625, Giáo sĩ De Pina lên 1 chiếc tàu Bồ Đào Nha ở Đà Nẳng để mang hàng hóa vào bờ nhưng chẳng may tàu chìm, Francisco De Pina chết chìm (lúc 40 tuổi).  Hai Giáo sĩ tiếp tục công nghiệp của ông là Gaspar De Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647).

 

Sau đó có 3 người có công tạo ra chữ Quốc Ngữ được nhắc nhở đến nhiều nhứt: 

1) Thừa Sai Cha Alexandre De Rhodes (1591-1660) là nhà truyền giáo (missionary) dòng Tên người Pháp.  Tên của ông âm ra Hán ngữ là A Lịch Sơn Đắc Lộ.  Năm 1625, ông đến Hội An rồi năm 1627 ra Bắc Hà.  Ông truyền giáo trong 20 năm ở Đàng Trong và Đàng Ngoài và bị trục xuất tất cả 6 lần.  Ông bắt đầu học nói tiếng Việt từ một em bé 12 tuổi ở Hội An.  Chữ Quốc ngữ đã có được từ các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa (Công Giáo), Cha Đắc Lộ gom lại và viết thành Từ Điển An Nam Bồ (Đào Nha) La Tinh (Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum) vào năm 1651.  Cha Alexandre De Rhodes (Đắc Lộ) chết tại Ispahan, Ba Tư (Iran).

2) Thừa Sai Đức Cha Bá Đa Lộc, cũng là người Pháp, tên là Pierre Joseph Georges Pigneau De Béhaine (1741-1799).  Bá Đa Lộc là âm từ chữ Pierre.  Ông còn được gọi là Cha Cả (?) hay Giám Mục Adran (?) hay Bi Nhu quận công (từ chữ Pigneau).  Là Đại Diện Tông Tòa của Đàng Trong (Nam Hà), ông giúp Nguyễn Vương Phúc Ánh chống nhà Tây Sơn.  Giám Mục Bá Đa Lộc viết Từ Điển An Nam La Tinh (Dictionarium Anamitico Latinum) vào năm 1773 gồm 4 thứ chữ: La Tinh, Quốc Ngữ, Hán (Nho) và Nôm.

3) Thừa Sai Cố Jean Louis Taberd (1744-1840) là người Pháp, thuộc dòng La Salle (La San) truyền giáo ở Nam Kỳ (1820-1830).  Tiếng Việt gọi Taberd là “Từ”.  Trường Lasan Taberd thành lập ở Sài Gòn (1873-1975) theo tên của ông.  Cố Taberd dựa vào Đắc Lộ và Bá Đa Lộc viết và xuất bản Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị (chữ Quốc Ngữ và La Tinh) ở Calcutta vào năm 1838.  Ngoài ra ông cũng xuất bản Tự Điển của ông Bá Đa Lộc.  

 

Thừa Sai Cố Taberd có một người Việt giúp làm quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị là Thầy Philipphê Phan Văn Minh (1815-1853), người Cái Mơn (thuộc tỉnh Vĩnh Long).  Thầy Phan Văn Minh về sau về nước làm Linh Mục và tử đạo.  Theo ông Dương Quảng Hàm, nhờ Cha Phan Văn Minh nầy giúp Cố Taberd nên chữ Quốc Ngữ viết giống như ngày hôm nay. 

PTH_badaloc.JPG

Truyền bá và Phát huy chữ Quốc ngữ

 

*

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), cũng người Cái Mơn như Cha Phan Văn Minh.  Ông mở tờ báo đầu tiên của nước ta là Gia Định Báo từ năm 1865 và in sách để truyền bá văn hóa Đông Tây dùng chữ Quốc Ngữ trong sáng tác và dịch thuật từ chữ Pháp cũng như phiên âm từ chữ Hán Nôm ra chữ Quốc Ngữ.  Gia Định Báo không những là tờ báo đầu tiên mà còn là tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc Ngữ.  Hai phụ tá của ông Trương Vĩnh Ký là ông Paulus Huỳnh Tịnh Của (Chủ bút của Gia Định Báo) và ông Trương Minh Ký (không có liên hệ huyết thống với ông Trương Vĩnh Ký).  

Ông Trương Vĩnh Ký và ông Trương Minh Ký (người Gò Vấp, Gia Định) xuất thân dạy học ở Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) do người Pháp thành lập từ năm 1862.  Ông Huỳnh Tịnh Của (người Bà Rịa) xuất thân là Thông dịch viên ở Soái Phủ Sài Gòn.   

 

Hai ông Petrus Ký và Paulus Của là người theo đạo Công Giáo (Petrus và Paulus là tên thánh: Phêrô và Phaolồ), cùng xuất thân từ trường đạo ở đảo Penang (nay thuộc Mã Lai) tuy nhiên riêng ông Trương Minh Ký lại theo Nho Giáo.  Ông Trương Minh Ký nguyên tên là Trương Minh Ngôn, nhưng vì kính mến thầy của mình là ông Trương Vĩnh Ký nên ông đổi tên mình bằng cách thêm chữ Kỷ (己) vào sau chữ Ngôn (言) thành chữ Ký (記).  Riêng ông Trương Vĩnh Ký có tên lúc mới sinh là Trương Chánh Ký, từ thời Pháp thuộc ông thường được gọi là Pétrus Ký.

 

*

Năm 1869, chính quyền thuộc địa Pháp chính thức dùng chữ Quốc Ngữ (thay thế chữ Nho) trong các công văn ở Nam Kỳ.  Năm 1879, chữ Quốc Ngữ là chữ độc nhất dùng trong tất cả văn kiện và trong chương trình giáo dục.  Dĩ nhiên từ khi thành thuộc địa của Pháp thì không còn thi Hương ở Nam Kỳ.  Chữ Quốc Ngữ dùng trong giáo dục ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (?) từ năm 1910.  Năm 1915 có khoa thi Hương cuối cùng ở Bắc Kỳ và năm 1919 có khoa thi Hội cuối cùng ở Huế.  

PTH_dsainamquocamtuvi_GiaDinhBao.JPG

*

Tự Vị

 

Ông Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) là người viết “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị”, quyển “tự điển” (Dictionary) đầu tiên của Việt Nam xuất bản lần đầu tiên ở Sài Gòn (năm 1895).

Đây là những dẫn giải về cuốn sách nầy của tác giả (ông Paulus Huỳnh Tịnh Của): 

Tự Điển, Tự Vị khác nhau có một sự rộng hẹp.  Tự Điển phải có chú giải; mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy.  Chỉ như Tự Vị cũng là sách hội biên các thứ chữ cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, mà không cần dẫn điển tích gì.

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị tham dụng chữ Nho (Hán) có giải nghĩa có dẫn chứng, mượn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ. 

 

Ông Paulus Của còn dịch “Phép Toán” (Arithmétique) và “Phép Đo” (Géométrie) từ sách Pháp vào năm 1867.

 

*

Sáng tác và Dịch thuật bằng chữ Quốc ngữ 

 

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) là người đầu tiên:

Có tác phẩm Văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ: “Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích”. (1866).  Sau nầy rút ngắn lại là “Chuyện đời xưa”.

Có tác phẩm chữ Hán Nôm chuyển thành chữ Quốc Ngữ: “Kim Vân Kiều truyện” (1875) và “Đại Nam quốc sử diễn ca” (1875).

Có tác phẩm (văn xuôi) chữ Hán viết ra chữ Quốc Ngữ: “Tứ Thư” (1889), “Minh Tâm Bửu Giám” (1891-93) ...

Có từ điển Pháp Việt / Petit dictionnaire francais-anamite (1867).

 

Ông Trương Minh Ký (1855-1900) là người đầu tiên:

Có tác phẩm văn xuôi chữ Pháp dịch ra chữ Quốc Ngữ: Les Aventures de Télémaque của Fenelon (1887), được dịch ra thơ.

Có tác phẩm văn vần chữ Pháp dịch ra chữ Quốc ngữ: Les Fables de Lafontaine (1884), được dịch ra thơ.

Có tác phẩm Thơ sáng tác hay dịch thuật đầu tiên bằng chữ Quốc Ngữ

 

Có thể nói ông Petrus Trương Vĩnh Ký là Văn sĩ chữ Quốc Ngữ đầu tiên và đầu tiên về Truyện vui.  Câu văn của ông thể hiện trung thực ngôn ngữ bình dân của một người Nam Kỳ vào thuở đó.

Chuyện khôi hài của ông Petrus Ký rất sâu rộng: 

Thường là câu chuyện làm độc giả cười đối tượng trong chuyện nhưng ông còn cho thấy các đối tượng trong chuyện cười lẫn nhau.  

Cười không những là vui mà cười, nhưng còn cười vì những tình cảm khác.  

Đề tài gồm cả quốc gia (dân tộc, lãnh thổ và chánh quyền) và xã hội (kinh tế, tôn giáo, văn hóa, khoa học...).  

Trong câu chuyện, ngoài văn xuôi, ông còn dùng thơ và câu đối.  

Ông Petrus Ký còn tạo ra hay đưa ra những nhân vật như Cống Quỳnh, Tú Suất...

Những tác giả về chuyện khôi hài (hay tiếu lâm) sau nầy đều không có được cái tài sâu rộng như ông Petrus Ký.

 

*

Thơ chữ Quốc ngữ

 

Có thể nói là ông Trương Minh Ký là Thi sĩ đầu tiên làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ. 

Điều đặc biệt của ông Trương Minh Ký là dù nguyên bản là văn xuôi, ông cũng thích dịch ra văn vần dùng thể thơ Lục Bát hay Song Thất Lục Bát.

 

Bản dịch “Những viễn du của Télémaque” từ văn xuôi chữ Pháp ra văn vần chữ Quốc Ngữ:

 

Từ khi Ulysse đi rồi

Nàng tiên Calypso nguôi đặng nào

…….

Minerve giả dạng dấu tên

Làm như tuồng mặt ông hiền Mentor

Theo Télémaque giúp phò


 

Bản dịch “Chuyện Phansa diễn ra Quốc Ngữ”:

 

LA CIGALE ET LA FOURMI         CON VE VÀ CON KIẾN

 

La cigale ayant chanté                       Con ve mùa hạ ngân nga

Tout l’été                                           Sang đông không có đồ mà dưỡng thân

Se trouva fort dépourvue

Quand la bise fut venue

Pas un seul petit morceau

De mousse ou de vermisseau 

 

Elle alla crier famine                         Than van với kiến ở gần

Chez la fourmi sa voisine                  “Xin giùm ít hột đỡ thân cơ hàn

La priant de lui prêter                        Đến mùa bổn lợi lại hoàn

Quelque grain pour subsister             Lòng đâu có dám tính đàng sai ngoa”

Jusqu’à la saison nouvelle

Je vous paiera, lui dit-elle 

Avant l’aout, foi d’animal

Intérét et principal 

 

La fourmi n’est pas préteuse             Cho vay đặt nợ gần xa

C’est là son moindre défaut              Kiến không nghề đấy hỏi ra tức thì

Que faisez-vous au temps chaud?    “Mùa khô khi ấy làm gì

Dit-elle à cette emprunteuse             Ve rằng: “Ca xướng luôn khi đêm ngày”

Nuit et jour à tout venant                  Kiến rằng: “Nghề hát vui thay!

Je chantais, ne vous déplaise             Nào ra múa thử tài hay bây giờ!”

Vous chantiez? j’en suis fort aise

Eh bien dansez maintenant.

 

                                                          Đây khuyên tích cốc phòng cơ

                                                          Ở đời liệu trước chớ chờ ăn năn

                                                          Người giàu có kẻ khó khăn

                                                          Lấy dư cho thiếu lòng hằng nghĩa nhơn

                                                          Mang ơn thì phải biết ơn

                                                          Làm ơn ai đợi đền ơn bao giờ.

 

(Lafontaine)                                      (Trương Minh Ký) 1884

Fables de Lafontaine                        Truyện ngụ ngôn Phansa

 

Ông Trương Minh Ký ngoài dịch thuật từ nguyên bản còn hay đưa hay thêm ý kiến của mình như bài thơ trên đây.  Chúng ta có thể so sánh với lối dịch sát nghĩa của ông Nguyễn Văn Vĩnh 34 năm sau:

 

LA CIGALE ET LA FOURMI                    CON VE VÀ CON KIẾN

La cigale ayant chanté                                  Ve sầu kêu ve ve

Tout l’été                                                      Suốt mùa hè

Se trouva fort dépourvue                              Đến kỳ gió bấc thổi

Quand la bise fut venue                                Nguồn cơn thật bối rối

Pas un seul petit morceau                             Một miếng cũng chẳng còn

De mousse ou de vermisseau                        Ruồi bọ không một con

Elle alla crier famine                                    Vác miệng chịu khúm núm

Chez la fourmi sa voisine                             Sang chị kiến hàng xóm

La priant de lui prêter                                   Xin cùng chị cho vay

Quelque grain pour subsister                        Dăm ba hạt qua ngày

Jusqu’à la saison nouvelle                            -Từ nay sang tháng hạ

Je vous paiera, lui dit-elle                             Em lại xin đem trả

Avant l’aout, foi d’animal                            Trước thu thề Đất Trời

Intérét et principal                                        Xin đủ cả vốn lời

La fourmi n’est pas préteuse                        Tính kiến ghét vay cậy

C’est là son moindre défaut                         Thôi ấy chẳng hề chi

Que faisez-vous au temps chaud?               -Nắng ráo chú làm gì?

Dit-elle à cette emprunteuse                        Kiến hỏi ve như vậy

Nuit et jour à tout venant                             Ve rằng: -Luôn đêm ngày

Je chantais, ne vous déplaise                       Tôi hát thiệt gì bác

Vous chantiez? j’en suis fort aise                Kiến rằng: -Xưa chú hát

Eh bien dansez maintenant.                         Nay múa thử coi đây.

(Lafontaine)                                                 (Nguyễn Văn Vĩnh dịch) 1928


 

Là một nhà thơ tài ba, Ông Trương Minh Ký viết “Như Tây nhựt trình”, một thiên du ký sự từ Sài Gòn đi Paris qua Bắc Phi và Âu Châu, bằng thể thơ Song Thất Lục Bát tất cả 2000 câu (dài gần bằng truyện thơ Lục Vân Tiên) được khởi đăng trên Gia Định Báo từ 10-4-1888 trong hơn một năm mới dứt:

 

(Câu 1-8) 

Từ Gia Định xuống tàu Tarn ấy

Tới Alger nên thấy thành ni

Rồi qua cho đến Paris

Thấy sao kể vậy từ đi mới về

Tiếng quê kệch dầu chê cũng chịu

Lời thật thà miễn hiểu thời thôi

Trải xem những chuyện qua rồi

Thì hay họa phúc do nơi lòng người.

 

(Câu 775-778)

Các cha linh mục bên Tây

Cạo râu sạch bách như thầy chùa ta

Tại Alger các cha già trẻ

Đều để râu như thể bên ta.


 

Ông Trương Minh Ký cũng sáng tác riêng mình thơ Đường Luật bằng chữ Quốc Ngữ và đăng thơ hay họa thơ Quốc Ngữ của nhiều thi sĩ Nam Kỳ lúc bấy giờ.  

 

CON TÂY (*)

Dữ tợn loài tây thú bốn chưn

Da như giáp sắt mũi như sừng

Ăn gai uống đục không ưa bóng

Ỷ mạnh lung lăng cứ miệt rừng.

(Trương Minh Ký)

 

(*) Chú thích: Con Tây = Con Tê Giác

 

CON DÊ

Phận hèn chui nhủi tháng ngày qua

Vắn vỏi đêm hôm tiếng thiết tha

Bay nhảy với đời coi thử sức

Vui chơi cũng biết đá như gà.

(Trương Minh Ký)


 

Từ đó thơ chữ Quốc Ngữ bắt đầu ở Nam Kỳ với nội dung chuộng Nho Giáo nhưng lại có thêm tình cảm lãng mạn.

 

CUỘC ĐỜI (Xướng)                                  

Quyền vương bá, tước công hầu                 

Cậy tiếng trao lời dắt đến đâu                    

Ngôn ngữ so kề đời Khổng Mạnh              

Trí mưu ví kịp thuở Đường Châu              

Phải thời trận vó đưa nên lẹ                     

Gặp vận cơ trời hóa rất mau                       

Nam Bắc Đông Tây người trải cuộc          

Mở lòng rộng rãi thả cho sau.                    

(Đỗ Đăng Vị)                                            

 

CUỘC ĐỜI (Họa)

Phải hồi gặp lúc có quân hầu

Trời muốn thì nên chẳng khó đâu

Trung hiếu rạch ròi ra cửa Khổng

Nghĩa nhơn ao ước dõi nhà Châu

Rừng nho xông lướt sao cho kịp

Biển thánh vẫy vùng mới được mau

Số trẻ phận già trời đã định

So gương lớp trước rõ đời sau.

(Thế Tải Trương Minh Ký)

 

NGŨ CANH VÃN

Chạnh lòng khoăn khoái tưởng lo xa

Mới đó sao canh đã đến ba

Sương bủa hòa trời sao rải rác

Tuyết giăng khắp núi nguyệt dần dà

Bâng khuâng sầu thúc không cầm lụy

Thổn thức buồn tuôn biếng nói ra

Những mảng so đo tìm lẽ hỏi

Hỏi ai hơn hỏi tấm lòng ta.

(Vô Danh thị) 

Đăng trong tờ báo “Thông Loại Khóa Trình” vào năm 1889.


 

Công nghiệp

 

*

Ngay từ đầu ông Petrus Ký đã từ chối không chịu trở thành công dân Pháp theo lời mời của chính quyền Pháp.  Năm 1886, được Khâm sứ Paul Bert trọng dụng, ông giữ vai trò trọng yếu ở triều đình Huế của vua Đồng Khánh.  Nhưng không được 1 năm, sau khi Paul Bert đột ngột qua đời (tháng 11 năm 1886), ông Trương Vĩnh Ký từ quan trở về Sài Gòn.  Trong khoảng hơn 10 năm cuối của cuộc đời (1887-1889), ông Trương Vĩnh Ký về sống cuộc đời của một thường dân không dư dả ở Chợ Quán, Sài Gòn.  Sau khi chết, thọ 62 tuổi, mộ của ông ở gần nhà thờ Chợ Quán, góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng. 

 

Ông Trương Vĩnh Ký qua đời năm 1898 và ông Trương Minh Ký 2 năm sau đó (1900) lúc 45 tuổi.  Ông Huỳnh Tịnh Của mất vào năm 1908.

Dưới đây là những lời thơ đương thời chủ quan và khách quan về ông Trương Vĩnh Ký và ông Trương Minh Ký:

 

TUYỆT BÚT LÚC LÂM CHUNG

Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai

Xô đẩy người vô giữa cõi đời

Học thức gởi tên con sách nát

Công danh rút cục cái quan tài

Dạo hòn lũ kiến men chân bước

Bò xối con sùng chắt lưỡi hoài

Cuốn sổ bình sinh công với tội

Tìm nơi thẩm phán để thưa khai.

(Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký) 1898 

 

ĐIẾU TRƯƠNG VĨNH KÝ

Lánh tục ngài đà trở gót tiên

Ôi thôi thương tiếc bấy ông hiền

Cõi trần tuy cách danh còn tạc

Chốn thọ dầu lui tiếng để truyền

Trước bước đâu còn người dạy bảo

Đường đi nào thấy kẻ răn khuyên

Biển dâu trách nỗi ai gây cuộc

Lánh tục ngài đà trở gót tiên.

(Lê Uyên Sanh)


 

ĐIẾU TRƯƠNG MINH KÝ

 

Cởi hạc đi đâu hỡi bớ Thầy

Nỡ lìa môn đệ ở đời đây

Non sông ngọc nát lòng hằng nhớ

Sông lệ vàng rơi dạ chẳng khuây

Huê liễu hạt về sương cánh gió

Đảnh hồ rồng vượt mấy từng mây

Vật còn để dấu trong trời đất

Người trí dầu xa tiếng chẳng bay.

 

Nguồn đào lạc nẻo đến đâu đây

Cửa Khổng sao không nể phép nầy

Thước ngọc rắp trong da trắng tuyết

Nhà vàng còn ngại tóc xanh mây

Ngỡ là thuyền bá không nơi đỗ

Mới đến trường trung kiếm bạn vầy

Thanh khí đây đà trang phải mặt

Phải chăng xin lựa lấy đôi thầy.

 

(Lê Uyên Sanh)

 

Thi sĩ Lê Uyên Sanh, tên thật là Lê Văn Châu, là một trong những thi sĩ chữ Quốc Ngữ hàng đầu của Nam Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 19.

 

*

Tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Tây Phương, ba ông Petrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của và Trương Minh Ký có cùng một quan niệm là xã hội Việt Nam có khả năng và cần vận dụng các kiến thức khoa học và kinh nghiệm của học thuật Tây Phương về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hóa Đông Phương cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.  Nhờ chữ Quốc Ngữ, quan niệm nầy được ba ông thực hiện ở Nam Kỳ. 

Người Pháp chỉ muốn dùng chữ Quốc Ngữ như là một chuyển tiếp để áp đặt chữ Pháp trên dân thuộc địa, nhưng nhờ những vị tiền phong nầy chữ Quốc Ngữ tồn tại cho đến khi dân Việt Nam dành độc lập.  Hai ông Trương Vĩnh Ký và Trương Minh Ký (cùng với ông Huỳnh Tịnh Của) đã để lại một xã hội “Nam Kỳ Lục Tỉnh” tự mình sống độc lập, an bình và cải tiến từ đầu thế kỷ 20 dựa trên Nho Giáo và chữ Quốc Ngữ mặc dù là thuộc địa của Pháp

PTH_PKy_2.JPG

Tình ý và chí hướng làm lợi ích cho dân Việt của ông Petrus Trương Vĩnh Ký được thể hiện qua Câu của ông viết trong bức thơ bằng chữ La Tinh gởi cho bạn mình, Bác sĩ Alexis Chavanne (vào tháng 10 năm 1887), được ông Winston Phan Đào Nguyên dịch ra: 

"Điều duy nhứt mà tôi theo đuổi là làm sao thành có ích, tuy phải nói thêm rằng: (ích lợi đó) không phải cho tôi.  Đó là số phận và niềm an ủi của tôi" 

(Unum et unicum quaero, esse sulicet posse utilem, quamvis dicendum sit: Sic vos non vobis.  Haec est mea sors et consolatio).  

 

Trước đó, Hậu thế đã hiểu lầm ông qua Đoạn dịch sai lầm "Ở với họ mà không theo họ" hay "Theo họ mà không lệ thuộc họ", dịch từ Đoạn "Sic vos non vobis" trích từ Câu trên.  "Họ" lại được dẫn giải là "Thực Dân Pháp"! 

Bản dịch đúng của ông Winston Phan Đào Nguyên về Đoạn "Sic vos non vobis" theo ý nghĩa trong nguyên Câu là: "(ích lợi đó) không phải cho tôi".  Nếu chúng ta đọc kỹ toàn bộ Câu trên qua lời dịch trung thực và đúng đắn của ông Winston Phan Đào Nguyên, chúng ta sẽ hiểu rõ tình ý và chí hướng không vì tư lợi riêng mình của ông Petrus Trương Vĩnh Ký, nhất là tư lợi chính trị. 

 

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký không tự mình mà còn biết dùng 2 người đồng sự cùng tình ý và chí hướng là ông Paulus Huỳnh Tịnh Của và ông Trương Minh Ký.  Riêng ông Trương Minh Ký là một người hoàn toàn theo Nho giáo.  Cái công nghiệp ích lợi cho dân cho nước của 3 ông khởi đầu từ bậc Thầy là ông Petrus Trương Vĩnh Ký.

Hậu thế có bài thơ:

 

VỊNH PETRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ

Ích quốc lợi dân biết thích nghi

Danh nhân tài đức tự Nam Kỳ

Cái hay văn tự đem truyền bá

Cái đẹp văn chương biết phát huy

Hiền thục dân tình qua biến loạn

Nâng cao dân trí thoát gian nguy

Thức thời sáng suốt, công to lớn

Hậu thế ghi ơn tận nghĩ suy.

(Phan Thượng Hải)

9/3/19

 

VỊNH TRƯƠNG MINH KÝ

Khiêm nhường tận tụy với non sông

Hậu thế ít người biết đến ông

Truyền bá văn minh, tâm sáng suốt

Triển khai văn hóa, bậc tiền phong

Nhân tài quốc ngữ tăng dân trí

Thi tứ quốc âm tỏ nỗi lòng

Giúp ích Nam Kỳ khi quốc nạn

Ngoài vòng danh nghĩa, nghĩa thành công.

(Phan Thượng Hải)

3/20/21


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Bài viết nầy đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com (trong mục "Thơ và Sử" phần "Thời Pháp Thuộc, thế kỷ 19). 


 

Tài Liệu Tham Khảo:

1) Thơ và Việt Sử - Thời Pháp Thuộc, thế kỷ 19 (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Minh Oan Cho Petrus Trương Vĩnh Ký (Winston Phan Đào Nguyên) - phanthuonghai.com

3) Petrus Trương Vĩnh Ký dưới cái nhìn của một người gốc Miền Nam vào năm 2019 (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

4) Văn Uyển (Lãng Ba Phan Văn Bộ)

5) Văn Học Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ 1865-1930 (Bằng Giang)

6) Trang Thơ Thi Viện Net

7) Google Wikipedia

8) Chuyện Cười Cổ Điển từ Petrus Ký (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

PTH_hoaDao.jpg

“ Tháng Giêng cho anh một nụ hoa đào ...” (thơ Nguyên Sa)

                                             THƠ HOA ĐÀO

                                                  Phan Thượng Hải

 

(1)

Những năm trước, anh TNT có làm bài thơ tả hoa Đào trong nhà và tui có họa lại (kèm thêm hoa Mai) trong dịp đầu Xuân.

 

ĐÀO THẮM (Nguyên bản)

Cây nhà vườn trước lá đang xanh

Đua nở bông tươi phủ khắp cành

Vài bướm nghe hương lơ lửng đến

Dăm ong thấy sắc dập dìu quanh

Người qua tấm tắc khen hoa đẹp

Kẻ lại trầm trồ nói dấu lành

Ngắt cánh xinh xinh trưng chậu Tết

Đón Xuân đào thắm cánh mong manh.

(Hp-Trương Ngọc Thạch)

 

ĐÀO THẮM MAI XINH (Họa)

Xuân về hoa nở đẹp trời xanh

Đào thắm mai xinh giữa lá cành (*)

Thắng cảnh Bích Câu duyên gặp gỡ (*)

Trọn tình Thôi Hộ hết đi quanh

Mai xinh thơ mộng đời may mắn

Đào thắm lòng vui sự tốt lành

Tươi trẻ hồn người tràn nhựa sống

Chứa chan kỳ vọng kiếp mong manh.  

(Phan Thượng Hải)

 

(*) Đua chen thu cúc xuân đào

     Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông 

     (Bích Câu kỳ ngộ: Tú Uyên gặp Giáng Kiều)

 

(2)

Khi nói đến hoa Đào thì các học giả đều nhắc đến bài thơ của thi sĩ Thôi Hộ đời nhà Đường.  Bài thơ nầy và bài "Hoàng Hạc Lâu" là 2 bài thơ được biết đến nhiều nhất của Đường thi trong văn học nước Việt.

 

(Trích một đoạn từ bài "Điển Cố Từ Thơ" của tui)

 

Theo Tình Sử và Lệ Tình Tập, Thôi Hộ là một người đẹp trai, tánh quả hợp, không hay chơi với ai.  Một ngày thanh minh đi chơi một mình đến phía nam kinh thành thấy một nhà có vườn đào nhiều hoa, mới gõ cửa xin nước uống.  Một người con gái rất đẹp và rất nghiêm trang ra hỏi tên họ rồi đem nước mời uống.  Đến tiết thanh minh năm sau, Thôi Hộ lại đến nhà ấy, thấy cửa đóng, đề bài thơ nầy ở cánh cửa bên tả.  Cách mấy hôm lại đến chợt nghe tiếng khóc và có ông lão ra hỏi: anh có phải là Thôi Hộ không?  Con gái tôi đọc bài thơ của anh rồi nhịn ăn mới chết.  Thôi Hộ vào khấn, thì người con gái ấy sống lại, bèn lấy làm vợ.  Sau Thôi Hộ đỗ Tiến sĩ vào đời Trinh Nguyên (nhà Đường) làm quan đến chức Lĩnh Nam Tiết Độ Sứ.

 

ĐỀ TÍCH SỞ KIẾN XỨ

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Thôi Hộ)

 

            ĐỀ CHỖ ĐÃ TRÔNG THẤY NĂM TRƯỚC

            Hôm nay, năm ngoái, cửa cài

            Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi

            Mặt người chẳng biết đâu rồi

            Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.

            (Trần Trọng Kim dịch)

 

            ĐỀ CHỖ ĐÃ TRÔNG THẤY NĂM TRƯỚC

            Hôm nay năm ngoái cổng nầy

            Hoa đào soi ánh đỏ hay mặt người

            Mặt người nay ở đâu rồi

            Hoa đào nay vẫn còn cười gió đông.

            (Trần Trọng San dịch)

 

Ngày nay, bài thơ nầy được đổi tựa là "Đề Đô Thành Nam Trang" và đổi lời: từ "đông phong" thành "xuân phong" với tự chú thích!

 

ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu xuân phong. (*)

(Thôi Hộ)

(*) Chú thích : Có bản viết là "đông phong" cũng không sai vì ở Trung Quốc, gió xuân (xuân phong) đến từ hướng đông!

 

Bài thơ nổi tiếng nầy làm điển cố cho nhiều câu thơ cổ điển (và đều chỉ nhắc đến "đông phong" mà thôi):

 

Ức tích dữ quân tương biệt trung

Tuyết mai do vị thức đông phong

Vấn quân hà nhật qui

Quân chỉ đào hoa hồng

Đào hoa dĩ trục đông phong khứ

Lão mai giang thượng hựu phù dung.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đặng Trần Côn)

 

            Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió

            Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

            Nay đào đã quyến gió đông

            Phù dung lại đã bên sông bơ xờ

            (Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đoàn Thị Điểm)

 

            Trước sau nào thấy bóng người

            Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

            (Đoạn Trường Tân Thanh)

 

            Trên chín bệ cỏ hay chăng nhẻ

            Khách quần thoa mà để lạnh lùng

            Thù nhau chi hỡi đông phong

            Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào.

            (Cung Oán Ngâm Khúc)

 

            Xuân sang xuân đã già nào

            Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu

            (Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

            Còn trời còn nước còn non

            Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa

            Hoa đào còn đó trơ trơ

            Mà người năm ngoái mà giờ là đâu?

            Vù vù gió thổi rèm lau

            Càng như chất mới tơ sầu vào thêm.

            (Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

            Hỏi cho giáp mặt hoa đào

            Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru.

            (Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

(3)

Riêng tui nghĩ chúng ta đã đến tuổi "liệt lão" rồi, đa số còn vợ còn chồng thì cái tình nghĩa sau nhiều năm còn đậm đà hơn là bài thơ tình của Thôi Hộ, chỉ thể hiện phần đầu của tình yêu thôi?

Do đó năm trước tui có làm bài thơ tặng anh chị M. và cũng nghĩ đến mình.

Xin gởi tặng những ai cùng cảnh ngộ.

 

VỢ CHỒNG GIÀ

Đến lúc tuổi già tựa tiết Đông

Cùng nhau sưởi ấm thắm tình nồng

Ít còn vướng bận đời con cháu

Chỉ có tự do chuyện vợ chồng

Người nói người im đều toại ý

Tiếng cười tiếng dạ thảy vui lòng

Uyên ương liền cánh nơi gia nội

Say ngắm hoa đào cợt gió Đông.

(Phan Thượng Hải)

3/12/20 

 

PHAN THƯỢNG HẢI

   TƯƠNG TƯ TRONG THƠ VÀ ĐIỂN CỐ

 

                                                 Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

Tương Tư  (相  思) có nghĩa là "nhớ nhau".  Trường Tương Tư là "nhớ nhau hoài".

Thơ cổ điển và hiện đại của nước Việt có dùng điển cố từ những bài thơ của Trung Quốc khi mô tả sự tương tư của tình nhân.


 

TƯƠNG TƯ và TƯƠNG GIANG (SÔNG TƯƠNG)

 

*

Lương Ý Nương sống vào thời Hậu Chu (951-959) của Ngũ Đại Tàn Đường.  Lương Ý Nương thương nhớ người tình là chàng Lý Sinh nên làm bài thơ "Trường Tương Tư".  Nữ sĩ làm bài thơ nầy để bày tỏ tâm tình khi gia đình không cho phép lấy chàng Lý Sinh.  Bài thơ nầy có 1 đoạn rất nổi tiếng, mọi người đều biết từ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ:

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Quân tại Tương giang đầu

Thiếp tại Tương giang vỹ

Tương tư bất tương kiến

Đồng ẩm Tương giang thủy.

(Lương Ý Nương)

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Chàng ở đầu sông Tương

Thiếp ở cuối sông Tương

Nhớ nhau không thấy mặt

Cùng uống nước sông Tương.

(Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ dịch)

 

Sông Tương (Tương giang) xuất phát từ rặng núi Duyên Hải ở tỉnh Quảng Tây chảy qua Hồ Nam đến Động Đình Hồ.

 

Thật ra nguyên văn từ Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ có chỗ sai lầm vì tác giả bài thơ là một người đàn bà chứ không phải là đàn ông!  Do đó nguyên văn như sau:

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

我  在  湘  江  頭,
Ngã tại Tương giang đầu
君  在  湘  江  尾。
Quân tại Tương giang vỹ
相  思  不  相  見,
Tương tư bất tương kiến 
同  飲  湘  江  水。 
Đồng ẩm Tương giang thủy

(Lương Ý Nương)

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Ta ở đầu sông Tương

Chàng ở cuối sông Tương

Nhớ nhau không thấy mặt

Cùng uống nước sông Tương.

(Phan Thượng Hải dịch)


 

Đây là toàn bài thơ Trường Tương Tư của Lương Ý Nương:

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 

 

Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân                Hoa hoa lá lá rụng tơi bời

Tận nhật tư quân kiến bất quân                Lòng nhớ người sao chẳng thấy người

Trường dục đoạn hề trường dục đoạn      Ruột muốn đứt thêm thêm đứt ruột

Lệ châu ngân thượng cánh thiên ngân     Châu rơi thành ngấn lại châu rơi

 

Ngã hữu nhất thốn tâm                             Ta có một tấc lòng

Vô nhân cộng ngã thuyết                          Không có ai mà hỏi

Nguyện phong xuy tán vân                       Muốn nhờ gió đuổi mây

Tố nữ thiên biên nguyệt                            Để được cùng trăng nói

 

Huề cầm thượng cao lâu                           Ôm đàn lên lầu cao

Lâu cao nguyệt hoa mãn                           Lầu cao trăng giải khắp

Tương tư vị tất chung                               Tương tư khúc chẳng thành

Lệ trích cầm huyền đoạn                          Lệ nhỏ dây đàn đứt

 

Nhân đạo tương giang thâm                     Người bảo sông Tương sâu

Vị để tương tư bạn                                    Tương tư sâu gấp bội

Giang thâm chung hữu để                         Sông sâu còn có đáy

Tương tư vô biên ngạn                             Tương tư chẳng bến bờ

 

Ngã tại Tương Giang đầu                       Ta ở đầu sông Tương

Quân tại Tương Giang vỹ                       Chàng ở cuối sông Tương

Tương tư bất tương kiến                         Tương tư không gặp mặt

Đồng ẩm Tương Giang thủy                   Cùng uống nước sông Tương

 

Mộng hồn phi bất đáo                               Hồn mộng bay không đến

Sở khiếm duy nhất tử                                Còn một chết mà thôi

Nhập ngã tương tư môn                            Bước vào cửa tương tư

Tri ngã tương tư khổ                                 Mới (Mình) biết tương tư khổ

 

Trường tương tư hề trường tương tư        Tương tư hoài dài tương tư

Trường tương tư hề vô tận cực                Tương tư dài dài không xiết

Tảo tri như thử quải nhân tâm                  Sớm biết nỗi đau lòng

Hồi bất đương sơ mạc tương thức.           Xưa đừng cùng quen biết

 

(Lương Ý Nương)                                     (Vũ Ngọc Khánh dịch)

 

*

Trước Lương Ý Nương, các thi sĩ đời Đường đã dùng sông Tương để tả sự thương nhớ của Nga Hoàng và Nữ Anh đối với chồng mình là vua Thuấn tại đây.  Tình cảm nhớ thương còn gồm nhiều điển cố khác như bài thơ của Lý Thương Ẩn (813-858) vào đời nhà Đường:

 

LỆ

Vĩnh Hạng trường niên oán ỷ la (*)

Ly tình chung nhật tứ phong ba

Tương giang trúc thượng hân vô hạn (*)

Hiện thủ bi tiền sái kỷ đa (*)

Nhân khứ Tử Đài thu nhập tái (*)

Binh tàn Sở trướng dạ văn ca (*)

Triêu lai Bá thủy kiều biên liễu (*)

Vị để thanh bào tống ngọc kha. (*)

(Lý Thương Ẩn)

 

LỆ (NƯỚC MẮT)

Vĩnh Hạng lâu năm oán lượt là

Ly tình suốt buổi nhớ phong ba

Sông Tương trúc ngấn dòng thương cảm

Núi Hiện bia đầy hạt xót xa

Người bỏ cung vua, thu vượt ải

Quân tàn trướng Sở, tối nghe ca

Sớm kia cành liễu bên cầu Bá

Đưa tiễn sao bằng được ngọc kha.

(Trần Trọng San dịch)

 

(*) Chú thích:

Vĩnh Hạng: một khu trong cung cấm tại Trường An

Tương Giang: tên sông ở tỉnh Hồ Nam.  Tương truyền đây là nơi 2 bà Nga Hoàng và Nữ Anh tự trầm sau khi nghe chồng là vua Thuấn chết tại Thương Ngô.  Miền nầy có loại tre có vệt giống như ngấn nước mắt, gọi là Tương phi trúc (tre của các bà Phi sông Tương).

Hiện: tên núi ở huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc.  Trên núi nầy có tấm bia kỷ niệm Dương Hộ đời Tấn, gọi là Truy lệ bi (Bia rơi lệ).

Tử Đài: tên cung đời Hán.  Đời Hán, Vương Chiêu Quân phải rời cung nầy sang đất Hồ kết duyên với Thuyền Vu (vua của rợ Hồ, vua Hung Nô).

Sở trướng: quân Sở bị vây tại Cai Hạ, ban đêm nghe tiếng sáo của Trương Lương, chạnh lòng nhớ nhà, bỏ trại trốn đi.  Trong trướng.Hạng Võ cùng Ngu Cơ làm bài ca than thân thế trong trướng.  Trướng là cái màn, chỉ chỗ ngủ của Tướng quân trong trại lính.

Bá Thủy: tên sông chảy qua Trường An vào sông Vị.  Người đời Đường thường bẻ cành liễu bên cầu nầy để tặng người đi xa.

Ngọc kha: viên đá trắng gắn ở dây buộc đầu ngựa.

 

*

Bài thơ nổi tiếng của Lương Ý Nương và Lý Thương Ẩn là điển cố của những câu thơ cổ điển:

 

Tầm quân hề Dương Đài lộ

Hội quân hề Tương Giang tân

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đặng Trần Côn)

 

Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đoàn Thị Điểm)

 

Ỏi tai những tiếng đoạn trường

Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn.

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Rành rành xuyến ngọc thoa vàng

Quần Nghê tha thướt sóng Tương rượm rà

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Chiều thu như gợi tấm thương

Lòng người trông xuống sông Tương mơ tình

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Sông Tương một giải nông sờ

Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia

(Đoạn Trường Tân Thanh)

 

Nhạc sĩ Thông Đạt cũng có bài thơ và phổ tân nhạc với tựa đề "Ai về sông Tương".

 

AI VỀ SÔNG TƯƠNG

 

Ai có về bên bến sông Tương

Nhắn người duyên dáng tôi thương

Bao ngày ôm mối tơ vương

Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương

Tâm hồn mơ bóng em luôn

Mong vài lời em ngập hương.

 

Thu nay về vương áng thê lương

Vắng người duyên dáng tôi thương

Mối tình tôi vẫn cô đơn

Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em

Mơ hoài hình bóng không quên

Hương tình mộng say dịu êm

 

Bao ngày qua, thu lại về mang sầu tới

Nàng xây tình mới, hồn tôi tơi bời

Nhìn hoa cười đón mừng vui duyên nàng

Tình thơ ngây từ đây nát tan.

 

Hoa ơi, thôi ngưng cười đùa lả lơi

Cùng tôi buồn đắm đừng vui chi tình

Đầy bao ngày thắm dày xéo tâm hồn

Nầy lệ sầu hoen ý thu.

 

Ai có về bên bến sông Tương

Nhắn người duyên dáng tôi thương

Sao đành lỡ đứt tơ vương

Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ

Dây tình tôi nắn cung tơ

Rút lòng sầu trách người mơ.

 

(Thông Đạt)

 

*

Nguyễn Du (1766-1820) trong Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) đã dùng sông Tương để tả sự tương tư của tình nhân.

 

Sông Tương một giải nông sờ

Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia

 

Tuy nhiên sau nầy Nguyễn Du đi sứ sang Trung Quốc có ghé Tương Giang (Sông Tương) và có làm bài thơ vịnh.  Bài thơ nầy không có nói đến "tương tư của tình nhân"!

 

TƯƠNG GIANG DẠ BẠC

Nhất khứ lục thập lý

Du du giang thủy trường

Phù vân liên Ngũ Lĩnh (*)

Minh nghuyệt hội Tam Tương (*)

Biệt phố phân tân sắc

Dao không thất cố hương

Hạc lai nhân bất kiến (*)

Vãn thụ nhất thương thương. (*)

(Nguyễn Du)

 

ĐÊM ĐẬU THUYỀN TRÊN SÔNG TƯƠNG

Một đi sáu mươi dặm

Dòng cuộn nước mênh mang

Mây giăng liền Ngũ Lãnh

Trăng ngập tràn Tam Tương

Bến tiễn chia xuân sắc

Trời xa lấp cố hương

Hạc về người chẳng thấy

Cây biếc lạnh ngàn sương.

(Quách Tấn dịch)

 

(*) Chú thích:

Ngũ Lĩnh = 5 dãy núi cao ở tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây.

Tam Tương: Tương Giang phát nguyên từ tỉnh Quảng Tây chảy theo hướng đông bắc vào tỉnh Hồ Nam.  Hợp với Ly Thủy thành s. Ly Tương.  Kế đến hợp với Tiêu Thủy thành s. Tiêu Tương.  Rồi chảy lên phía Bắc ở huyện Hành Dương hợp với Chương Thủy thành s. Chương Tương.  (Do đó gọi là Tam Tương).  Sau cùng chảy đến tỉnh Trường Sa vào Động Đình hồ.

Hạc lai: nhắc sự tích Phí Văn Huy cỡi hạc vàng lên tiên giới tự lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, gần vùng Tương Giang.

Thương thương = lạnh lẽo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TƯƠNG TƯ

 

*

"Trường tương tư" không phải chỉ dựa vào sông Tương Giang.  Nó chỉ cần nghĩa đen là "Nhớ nhau hoài" như bài thơ Trường Tương Tư của Lý Bạch (701-762).

 

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

Nhật sắc dục tận hoa hàm yên

Nguyệt minh như tố sầu bất miên

Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ (*)

Thục cầm dục tấu uyên ương huyền (*)

Thử khúc hữu ý vô nhân truyền

Nguyện tùy xuân phong kỷ Yên Nhiên (*)

Ức quân điều điều cách thanh thiên

Tích thời hoành hoa mục

Kim tác lưu lệ tuyền

Bất tín thiếp trường đoạn

Quy lai khán thủ minh kính tiền.

(Lý Bạch)

 

NHỚ NHAU HOÀI

Hoa lồng khói biếc lặn tà dương

Trăng trong như lụa lòng buồn thương

Đàn Triệu vừa ngơi trụ Phượng hoàng

Đàn Thục toan gẩy dây uyên ương

Khúc nầy có ý không ai truyền

Mong gởi gió xuân đến Yên Nhiên

Xa cách trời xanh, nhớ khó quên

Ngày xưa mắt gợn sóng

Nay thành suối lệ phiền

Đoạn trường ai chẳng tin lòng thiếp

Hãy về mà ngắm bóng gương in.

(Trần Trọng San dịch)

 

NHỚ NHAU HOÀI

Bóng tà dương hoa lồng khói biếc

Trăng như tơ sầu giấc không yên

Đàn Triệu vừa dứt tiếng huyền

Thục cầm lại gởi khúc uyên ương liền

Ý nhạc hay, thất truyền xin gởi

Nhờ gió xuân đưa tới Yên Nhiên

Cao xanh ngăn cách khó quên

Làm em càng nhớ chàng nơi phương trời

Mắt ngày xưa lả lơi gợn sóng

Nay suối tuôn lệ nóng nhớ chàng

Vì ai đòi đoạn tâm can

Về đây đối bóng xin chàng hãy tin.

(Cao Nguyên dịch)

 

(*) Chú thích:

Triệu sắt: vì người nước Triệu giỏi đàn sắt nên thường gọi đàn nầy là "Triệu sắt".  Sắt là loại đàn có 25 dây.

Thục cầm: Tư Mã Tương Như người nước Thục giỏi gẩy đàn cầm, nên đàn nầy thường được gọi là Thục cầm.  Cầm là loại đàn có 7 dây.

Yên Nhiên: tên núi ở Mông Cổ ngày nay.  Đời Đông Hán, Tướng Đậu Hiến đánh thắng Thiền Vu (vua Hung Nô), lên núi nầy khắc chữ trên đá ghi chiến công của mình.

 

*

Từ tình tứ bài thơ nầy, văn học Việt Nam có những câu thơ về "tương tư": có đàn có nước mắt và có núi Yên Nhiên xa xôi.

 

Cưỡng viện cầm, chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ

Cưỡng cổ sắt, khúc trung sầu yết uyên ương huyền

Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền

Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên

Yên Nhiên vị dị truyền

Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đặng Trần Côn)

 

Sắt cầm gượng gẩy ngón đàn

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng (trùng)

Lòng này gửi gió Đông có tiện

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

Non Yên đâu chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đoàn Thị Điểm)

 

Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt

Khải ca tướng sĩ bối biên phong

Lặc công hề Yên Nhiên thạch

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đặng Trần Côn)

 

Bóng cờ xí giã ngoài quan ải

Tiếng khải ca trở lại thần kinh

Non Yên tạc đá đề danh

Triều thiên vào trước cung đình dâng công

(Chinh Phụ Ngâm Khúc / Đoàn Thị Điểm)

 

Song mà tình chẳng riêng ai

Bệnh tương tư có trải mùi mới hay

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

(TƯƠNG TƯ)

Bướm kia vương lấy sầu hoa

Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh

Có khi gảy khúc đàn tranh

Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân

Cầu Hoàng tay lựa nên vần

Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào

Có khi mượn chén rượu đào

Tiệc mồi chưa cạn ngọc dao đã đầy

Hơi men chưa nhấp đã say

Như xông mùi nhớ như gây giọng tình

Có khi ngồi suốt năm canh

Mõ quyên điểm nguyệt chuông kềnh nện sương

Ỏi tai những tiếng đoạn trường

Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn

Có đêm ngắm bóng trăng tàn

Tiếng quyên hót sớm trận nhàn bay khuya

Ngổn ngang cảnh nọ tình kia

Nỗi riêng riêng biết dãi dề với ai

Vui xuân chung cả một trời

Sầu xuân riêng nặng một người tương tư

Lòng yêu tay tả nên thơ

Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo

Ả Hằng ví nặng lòng yêu

Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao

Hỏi cho giáp mặt hoa đào

Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru.

(Bích Câu Kỳ Ngộ)

 

Thơ chữ Quốc ngữ cũng có bài thơ của Nguyễn Bính:

 

TƯƠNG TƯ 

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của Trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên nầy?

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Nhà em có một giàn trầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?

(Nguyễn Bính)


 

Kết Luận

 

Thi sĩ Lãng Ba Phan Văn Bộ đã đi sâu rộng vào đề tài Tương Tư qua những bài thơ.

 

THẤT TÌNH KHÚC

Quanh quẩn Tương Giang hát lẫn đờn

Ví không thệ ước gẫm còn hơn

Nhớ nhung sớm tối sầu riêng chịu

Mơ mộng ngày đêm khổ dễ sờn

Đô hội phồn hoa hằng rảo mắt

Sơn cùng thủy tận cũng lê chơn

Hoa râm mái tóc tìm chưa gặp

Chẳng trách vô duyên chỉ ngậm hờn.

(Lãng Ba) 

 

TƯƠNG TƯ

Đau khổ vì ai, ai có dè?

Nhạc lòng bưng bít dễ ai nghe

Đêm mơ tưởng sắc thường mê mộng

Ngày ước giao duyên những rụt rè

Mong đợi, nhạn hồng không nhắn nhủ

Nhớ thương, bình tước khó lăm le

Khối tình ấp ủ càng thêm nặng

Khao khát mưa Ngâu, mãi nắng hè.

(Lãng Ba) 

 

ĐỢI CHỜ 

Vắng bóng thân yêu mấy độ rày

Ra vào khoắc khoải, ngóng tin ai

Nhớ thương, thương nhớ, tơ sầu dệt

Mơ tưởng, tưởng mơ, tóc biếng cài

Nỗi nọ..., lo lường qua tháng trọn

Niềm kia..., thổn thức suốt canh dài

Sự lòng gửi đến nhờ cô nhạn

Có thấu cho chăng mối cảm hoài?

(Lãng Ba) 

 

ẢO ẢNH

Trăng sáng, hoa xinh, rảo bóng hồng

Sen vàng lẻo đẻo ngẩn ngơ trông

Tóc mây, da tuyết, xem hoa mắt

Vóc liễu, xương mai, thấy đẹp lòng

Trách bấy hương trời giam cổng kín

Thương thay sắc nước chịu phòng không

Tiên nga ai đấy, ai xin nhắn

Chớ để người trần mãi nhớ mong...

(Lãng Ba) 

 

MỘNG TƯỞNG 

Thắt thẻo ngày đêm nhớ bạn lòng

Thả hồn về gặp giữa chiều đông

Thoạt chào, thoạt nói, môi tươi thắm

Vừa thẹn, vừa vui, má ửng hồng

Cùng vạch lúa vàng qua thửa ruộng

Rồi nương sóng bạc thả dòng sông

Phật đài đến viếng song song lạy

Khấn vái cho nên cặp vợ chồng.

(Lãng Ba) 


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Bài nầy đăng lần đầu trong phanthuonghai.com trong mục Thơ Văn phần Đọc Thơ.


 

Tài liệu tham khảo:

1) Điển Cố Từ Thơ (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Những bài thơ tình của Thi sĩ Lãng Ba (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

3) Thơ Lục Bát (Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

_________________________________

PTH_5duongranh.JPG

                   THƠ VÀ VIỆT SỬ - TRẦN VĂN HƯƠNG

 

                                           Bs Phan Thượng Hải biên soạn


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đi tắm trần truồng mổng thiếu khăn (*)     

Ăn, Ngủ, Ỉa xong; đầy đủ cả                       

Muốn chi chi nữa biết mần răng!               

(Trần Văn Hương) 17-11-60                                                     

 

(*) Chú thích: 

Ngồi rù = Ngồi co ro ủ rũ như gà bị bệnh (dịch).  Mổng = Mổng đít.

 

Ra lịnh đòi ra chịu chụp hình

Đua nhau sắm sửa được làm xinh

Anh xoa mái tóc cho ra dáng

Cụ vuốt chòm râu để gợi tình

Sờ trán chùi da da mốc thếch

Đưa tay giũ áo áo hôi rình

Ví dầu ảnh ấy, ngày sau thấy

Chúng bảo nhau rằng “cái lũ ranh”.

(Trần Văn Hương) 22-11-60

 

DỊ TƯỚNG BẤT TÀI

Cũng dự phong lưu lúc ở ngoài

Vào đây, nhìn mãi chẳng ra ai

Mặt mày ủ rũ râu dòm miệng

Đầu cổ chôm bôm tóc liếm tay

Răng cỏ vắng chùi (chà) hôi thủm thủm

Áo quần không giặt ngửi khai khai

Chưa bao lâu, đã thay hình dạng

Dị tướng than ôi lại bất tài

(Trần Văn Hương) 1-12-60

 

- Từ Thể xác ảnh hưởng đến Tinh thần sau một thời gian ở tù:

 

Phong độ nhà lao có dễ đâu

Tập thành nề nếp lắm công phu

Nằm cao ngủ kỹ sao rằng phạm

Ở bẩn ăn dơ mới gọi tù

Nghiêng ngửa nằm khềnh xem đáng mặt…

Trần truồng đứng tắm để trơ …khu

Nhắn ai muốn học vào đây học

Phong độ nhà lao có dễ đâu.

(Trần Văn Hương) 11-12-60

 

Vì chưng bẻm mép mới vào đây

Câm họng đâu ra đến nỗi nầy

Dân chúng sướng; đồ: dân chúng khổ!

Nước nhà nên; bảo: nước nhà nguy!

Dở hay mặc kệ thằng cha nó!

Còn mất can chi lão nội mầy?

Nếm thử mùi tù cho đáng kiếp

Từ rày chừa bỏ tật thày lay.

(Trần Văn Hương) 21-11-60

 

Sự thế man man tỉnh chửa rồi

Vào đây thoát đã đủ trăng thôi

Cảnh nầy tuy đẹp bề ăn ở

Nỗi ấy không khuây lúc đứng ngồi

Vận nước những lo dâu biển đổi

Tức mình luống thẹn tháng ngày trôi

Nhắn ai ngoài ấy ta xin hỏi

Triều đã lui chưa, cát đã bồi?

(Trần Văn Hương) 12-12-60

 

*

Bài thơ "Nỗi Lòng"

 

Cuối năm 1961, khi được người bạn là Long Giang Đỗ Phong Thuần cho đọc 1 bài thơ (tựa là Nỗi Lòng), bảo là của Chí sĩ Ngô Đình Diệm làm khi bôn ba làm cách mạng ở hải ngoại, ông Trần Văn Hương có làm 2 bài họa:

 

NỖI LÒNG (Nguyên bản)  

Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không, lái cũng không!
Xe muối nặng nề thân vó Ký (*)
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng (*) 
Vá trời lấp biển người đâu tá? 
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế 
Cắm sào đợi khách, thuở nào trong? 

(Chí sĩ Ngô Đình Diệm) 1953 

 

(*) Chú thích: Ngựa Ký là ngựa giỏi, chạy xa.  Chim Hồng Hộc là chim bay cao.
 

(Họa 1)                                                        

Hèn vụng toan khai núi lấp sông!              

Chiêm bao sự nghiệp: có rồi không!          

Tan tành lưới gió hoài tơ nhện                    

Diệu vợi đường mây rã cánh hồng               

Mùi thế ngọt ngon ai đã chán?                   

Chợ đời giành giựt khách còn đông            

Nhắn lời xin hỏi người cao kiến                

Nào thuở Hoàng Hà thấy nước trong?       

(Trần Văn Hương) 26-12-61                                                     

 

(Họa 2)

Tủi nhục như vầy rửa nước sông?

Cơ đồ gây dựng phút thành không!

Lòng nầy hổ gởi vầng trăng bạc

Danh ấy đành buông ngọn lửa hồng 

Chí sĩ cam thân vùi tuyết Bắc (*)

Anh hùng thẹn mặt ngó người Đông (*)

Xét mình chẳng tiện theo gương trước

Sống đục còn hơn chịu thác trong!

(Trần Văn hương) 26-12-61

 

(*) Chú thích:

Nhắc chuyện Tô Vũ cam chịu ở vùng “tuyết phương Bắc” và Hạng Vũ thẹn không muốn qua sông gặp lại “người Giang Đông” (mặc dù ông Đình Trưởng có cấm sào đợi).


 

Ông Long Giang Đỗ Phong Thuần cũng có 1 bài thơ để nói ý kiến chống đối của mình (với ông Ngô Đình Diệm) thì ông Trần Văn Hương cũng phụ họa 1 bài nữa:

 

PHÚNG THẾ (Xướng)                                                    

Đường đời chen lấn chợ trời đông              

Chác lợi mua danh mới phập phòng           

Tránh kẻ ham giàu bôi sử sách                    

Phụ người công khó giúp non sông            

Con buôn gặp mối đeo như đỉa                   

Thằng mổng no cơm hót tựa nhồng             

Ái quốc ưu dân là quảng cáo                      

Ngân hàng ngoại quốc dẫy đầy công.         

(Long Giang Đỗ Phong Thuần)                  

 

CHUYỆN TRỚ TRÊU (Họa)

Trớ trêu mật ít lại ruồi đông

Thầm nghĩ cười ai mũi sớm phồng

Môi mỏng khoe lo dân với nước

Mặt dầy quên thẹn với non sông

Thấy lâu xốn mắt, lòng lang sói

Nghe lắm rườm tai, giọng cưởng nhồng 

Tấp tểnh đua đòi trang “chí sĩ”

Muôn đời để mãi tiếng thằng “công” (*)

(Trần Văn Hương)

 

(*) Chú thích: 

“Công”: từ tiếng Pháp là “Un Con” để nói người ngu dốt vô liêm sĩ. (Ông Trần Văn Hương tự chú thích).

 

Sau đó dù biết là bài thơ không phải của Chí sĩ Ngô Đình Diệm (mà là của ông Nghè Nguyễn Sỹ Giác), nhưng ông Trần Văn Hương không đổi ý (chống đối).  Đến năm 1964, nhìn lại cuộc đảo chánh 1-11-63, ông thú thật là ông giựt mình vì những câu thơ “khẩu chiếm” (khẩu khí) của mình về vận mệnh của ông Ngô Đình Diệm.

 

*

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thi văn của giới trí thức VN hòa hợp Bắc Nam và Đông Tây lên cao đến tuyệt đỉnh.  Người di cư miền Bắc cũng hòa hợp với người trong Nam như 2 bài thơ của ông Nguyễn Vỹ và ông Trần Văn Hương vịnh Mùa Thu:

 

Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng

Lá ngập tơi bời đến ải quan

Cây cỏ ngậm ngùi sầu thế hệ

Nước non vương vấn hận thời gian

Vườn thơ vắng bướm hương tàn tạ

Cánh nhạn tung mây gió phũ phàng

Ôi mảnh hồn trăng từ vạn kỷ

Gieo chi đất bụi một màu tang.

(Nguyễn Vỹ)

 

Tàn lục lưa thưa điểm lá vàng

Heo mây heo hắt giục thu sang

Sương lồng trướng khói: mờ gương thỏ

Gió vén rèm mây: chẳng bóng nhàn

Khí mát xông thềm, hơi dế lạnh

Mưa dầm trĩu nhánh, giọng thiền khan

Bắc Nam kinh vỹ trời tuy khác

Thu đến sầu thu cũng ngập tràn.

(Trần Văn Hương) 


 

Ông Nguyễn Vỹ là một thi nhân tiền chiến ở miền Bắc nổi danh với Thơ Mới.  Sau hiệp định Genève, ông làm báo ở Miền Nam nổi danh với Bán Nguyệt San Phổ Thông.  Ông thường hay Xướng thơ Đường Luật trong những dịp đặc biệt và mời mọi người trong nước (VNCH) họa lại, chỉ cần trùng vần của câu đầu mà thôi.  

Bài thơ trên của ông Nguyễn Vỹ là 1 bài thơ Xướng về mùa Thu (1961?) và có 113 bài họa được ông chọn đăng trong tập thơ bán kèm theo Phổ Thông tựa đề là “Nam thu hòa khúc”.  Ông Trần Văn Hương ban đầu không có họa nhưng khi thấy có nhiều người hưởng ứng nên mới làm bài họa trên nhấn mạnh đến thời tiết Miền Nam trong mùa thu.

 

*

Điều lạ là vấn đề “Ý Thức Hệ” giữa Tư Bản (Miền Nam VNCH) và Cộng Sản (Miền Bắc VNDCCH) không ảnh hưởng đến ông Trần Văn Hương như đa số chính trị gia trong thời kỳ nầy:

 

ĂN CƠM RỒI NÓI CHƯỚNG

Cơm rồi nói chướng chọc ai chơi

Có giận thì cam chớ nặng lời

Thịt béo cá ngon ăn phát ách

Trà thơm bánh ngọt nít mê tơi

Sướng thân quên kẻ quen đau khổ

No bụng xem đời rất sáng tươi

“Duy Vật? Duy Tâm?”- sai bét hết!

“Duy Bao Tử” mới đáng mười mươi.

(Trần Văn Hương)


 

Nguồn gốc từ miền Bắc, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập với Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát và Phùng Văn Cung ngày 20-12-60 ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên), Tây Ninh ở vùng gần biên giới Việt Miên.  Quân Đội Giải Phóng Miền Nam lập ngày 15-2-61 và bắt đầu có chiến tranh ở Miền Nam.

 

NHÌN XUÂN NHÂM DẦN SANG CẢM TÁC

Trâu đi danh dữ hãy còn bêu

Cọp bước chân sang cũng lắm đều (điều)

Tiếng súng “tảo thanh” thay tiếng pháo (*)

Cây cờ “giải phóng” thế cây nêu (*)

Con đường thân ái đang tay lắp

Ngòi lửa oan cừu ráng sức khêu

Vói hỏi Ông Xanh thông cảm chẳng?

Thằng dân vắn cổ biết sao kêu.

(Trần Văn Hương) 

5-2-62

 

(*) Chú thích:

Tết năm Nhâm Dần (1962), Quân đội GPMN ra lệnh cho các vùng quê không ăn Tết còn chính phủ VNCH thì ra lệnh cấm đốt pháo.

 

Ngày 16-2-62, đại hội lần thứ nhứt của Mặt Trận GPMN bầu Ls Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch với 3 người cũ làm Phó Chủ Tịch là Bs Phùng Văn Cung, Ks Huỳnh Tấn Phát và Võ Chí Công.


 

Thời kỳ Quân Quản (1963-67)

 

Ngày 1-11-63: Đảo chánh các Tướng Tá trong quân đội do Trung tướng Dương Văn Minh, Trung tướng Trần Văn Đôn, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm (Tham mưu trưởng Liên quân) và Thiếu tướng Tôn Thất Đính (Tư lệnh Quân đoàn 3) cầm đầu.  Quân chủ lực là của Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (ở Biên Hòa) và Sư đoàn 7 của Đại tá Nguyễn Hữu Có (ở Mỹ Tho).

 

Ngày 2-11-63: Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết.

 

Ngày 3-11-63: Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập để tạm thời lãnh đạo quốc gia.  Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt và Thời kỳ Quân Quản bắt đầu.

Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng:

Chủ tịch: Trung tướng Dương Văn Minh

Đệ nhất Phó Chủ tịch: Trung tướng Trần Văn Đôn

Đệ nhị Phó Chủ tịch: Trung tướng Tôn Thất Đính

Ủy viên Ngoại Giao kiêm Tổng Thư ký: Trung tướng Lê Văn Kim

Ủy viên Kinh Tế: Trung tướng Trần Văn Minh

Ủy viên An Ninh: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu

Ủy viên Quân Vụ: Trung tướng Trần Thiện Khiêm

Ủy viên Chính Trị: Thiếu tướng Đỗ Mậu

Ủy viên: Trung tướng Mai Hữu Xuân

              Trung tướng Lê Văn Nghiêm

                           Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu

                           Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có

Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định Cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lập Chính phủ.

 

Ngày 4-11-63: Chính phủ Lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ thành lập.

Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ:

Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Kinh Tế: Nguyễn Ngọc Thơ

Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Trần Văn Đôn

Tổng trưởng An Ninh: Trung tướng Tôn Thất Đính

Tổng trưởng Ngoại Giao: Phạm Đăng Lâm

Tổng tưởng Tư Pháp: Nguyễn Văn Mầu

Tổng trưởng Giáo Dục: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ

Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Trần Lê Quang

Tổng trưởng Thông Tin: Thiếu tướng Trần Tử Oai

Tổng trưởng Công Chánh: Trần Ngọc Oánh

Tổng trưởng Y Tế: Vương Quang Trường

Tổng trưởng Lao Động: Nguyễn Lê Giang

Tổng trưởng Thanh Niên: Nguyễn Hữu Phi

Tổng trưởng Tài Chánh: Lưu Văn Tính

Tổng trưởng Kinh Tế: Âu Trường Thanh

Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng: Nguyễn Thành Cung


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ và các Tướng tá)

(1) Nguyễn Ngọc Lễ (2) Trần Thiện Khiêm (3) Dương Văn Minh (4) Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ (5) Trần Văn Đôn (6) Tôn Thất Đính 

(7) Nguyễn Văn Thiện (8) Nguyễn Văn Vỹ (9) Nguyễn Cao Kỳ (10) Trần Ngọc Huyến (11) Nguyễn Hữu Có (12) Nguyễn Văn Thiệu (13) ? (14) Lê Nguyên Khang (15) Nguyễn Giác Ngộ (16) Dương Hiếu Nghĩa (17) Huỳnh Văn Cao. 


 

Ngày 30-1-64: Trung tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "Chỉnh lý", bắt và quản thúc 4 Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân và Lê Văn Kim ở Đà Lạt.  Các Tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu và Đỗ Mậu theo cùng phe với Tướng Nguyễn Khánh.  

Ngày 31-1-64: Trung tướng Nguyễn Khánh làm Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. kiêm Tổng Tư lệnh Quân Đội.

Ngày 1-2-64: Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ từ chức và được Trung tướng Nguyễn Khánh chấp nhận (3-2-64)

Ngày 7-2-64: Hiến ước lâm thời số 2 giao quyền hành Quốc trưởng cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định.  Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cử Tướng Dương Văn Minh làm Quốc trưởng và Tướng Nguyễn Khánh lập chính phủ.

Ngày 8-2-64: Chính phủ Nguyễn Khánh thành lập.

Chính phủ Nguyễn Khánh:

Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh

Phó Thủ tướng đặc trách Bình định: Nguyễn Tôn Hoàn

Phó Thủ tướng đặc trách Kinh Tế Tài Chánh: Nguyễn Xuân Oánh

Phó Thủ tướng đặc trách Văn Hóa Xã Hội: Thiếu tướng Đỗ Mậu

Quốc Vụ Khanh: Bác sĩ Lê Văn Hoạch

Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Phan Huy Quát

Tổng trưởng Nội Vụ: Hà Thúc Ký

Tổng trưởng Công Chánh: Trần Ngọc Oánh

Tổng trưởng Quốc Gia Giáo Dục: Bùi Tường Huân

Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Trần Thiện Khiêm

Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Nguyễn Công Hầu

Tổng trưởng Y Tế: Vương Quang Trường

Tổng trưởng Lao Động: Đàm Sỹ Hiến

Tổng trưởng Thông Tin: Phạm Thái

Tổng trưởng Tài Chánh: Nguyễn Xuân Oánh

Tổng trưởng Kinh Tế: Âu Trường Thanh

Tổng trưởng Tư Pháp: Nguyễn Văn Mầu

Tổng trưởng Xã Hội: Trần Quang Thuận

Bộ trưởng tại Phủ Thủ Tướng: Nghiêm Xuân Hồng 

 

Ngày 21-3-64: Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng biểu quyết tự giải tán, nhường chỗ cho Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời của Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (thay thế Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng):

Chủ tịch: Trung tướng Nguyễn Khánh

Đệ nhất Phó Chủ tịch: Trung tướng Trần Thiện Khiêm

Đệ nhị Phó Chủ tịch: Thiếu tướng Đỗ Mậu

Đệ tam Phó Chủ tịch: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu

Cố vấn Tối cao: Trung tướng Dương Văn Minh 

 

Từ đầu tháng 8-64, bắt đầu có chống đối của Báo chí, Sinh viên, Phật Giáo (do Thượng tọa Thích Tâm Châu cầm đầu) và Công Giáo (do Linh Mục Hoàng Quỳnh cầm đầu).  Rối loạn trong Chính phủ Nguyễn Khánh và Hội Đồng Quân Đội.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Các Tướng Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh)

 

Ngày 8-9-64: Thượng Hội Đồng Quốc Gia thành lập theo Hiến chương Vũng Tàu, để chuyển dần sang Chính phủ dân sự. 

Thượng Hội Đồng Quốc Gia gồm có 16 thành viên.  Ông Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch.  Phó Chủ tịch là Nguyễn Xuân Chữ và Tổng Thư ký là Trần Văn Văn.  Bác sĩ Hồ Văn Nhựt được cử lập chính phủ nhưng không làm được nên xin rút lui.  Đô trưởng Sài Gòn là ông Trần Văn Hương được bổ nhiệm làm Thủ tướng và lập chính phủ.

 

Ngày 13-9-64: Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu tướng Lâm Văn Phát đem quân về đóng ở Sài Gòn Gia Định nhưng không được toàn thể quân đội (dưới quyền của Đại tướng Trần Thiện Khiêm) ủng hộ nên phải rút quân về.  Sau đó Trung tướng Dương Văn Đức, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và nhiều sĩ quan cùng phe bị cách chức.

Ngày 27-9-64: Ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ thay thế làm Quyền Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia.

Ngày 24-10-64: Đại tướng Trần Thiện Khiêm làm Đại sứ tại Hoa Kỳ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và chính phủ Trần Văn Hương)


Ngày 4-11-64: Chính phủ Trần Văn Hương thành lập.

Chính phủ Trần Văn Hương:

Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quân Lực: Trần Văn Hương

Đệ nhất Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội Vụ: Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên

Đệ nhị Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia: Nguyễn Xuân Oánh

Tổng trưởng Ngoại Giao: Phạm Đăng Lâm

Tổng trưởng Tư Pháp: Lữ Văn Vi

Tổng trưởng Thông Tin: Lê Văn Tuấn

Tổng trưởng Kinh Tế: Nguyễn Duy Xuân

Tổng trưởng Tài Chính: Lưu Văn Tính

Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Ngô Ngọc Đối

Tổng trưởng Công Chánh: Lê Sĩ Ngạc

Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Phan Tấn Chức

Tổng trưởng Y Tế: Trần Quang Diệu

Tổng trưởng Xã Hội: Đàm Sĩ Hiến

Tổng trưởng Lao Động: Nguyễn Hữu Hùng

Tổng trưởng Phủ Thủ Tướng: Phạm Văn Toàn

 

Chính phủ Trần Văn Hương bị Phật giáo và Sinh viên chống đối kịch liệt.  Ngoài ra còn có xung đột giữa Phật Giáo và Công Giáo.

Ngày 18-12-64, Tổng Tư lệnh Quân Đội là Đại tướng Nguyễn Khánh lập một Hội Đồng Quân Lực để giúp đỡ Tổng Tư lệnh.

 

Ngày 20-12- 64: Nhân danh Hội Đồng Quân Lực, Tướng Nguyễn Khánh giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia.

Thủ tướng Trần Văn Hương phải thu nạp thêm các Tướng lãnh vào chính phủ:

Đệ nhị Phó Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Tổng trưởng Quân Lực: Trung tướng Trần Văn Minh

Tổng trưởng Tâm Lý Chiến: Trung tướng Linh Quang Viên

Tổng trưởng Thanh Niên Thể Thao: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.

Ông Nguyễn Xuân Oánh xuống thành Đệ tam Phó Thủ tướng.

 

Phật Giáo vẫn chống đối biểu tình tuyệt thực: Cầm đầu là các Thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Trí Quang, Thích Hộ Giác và Thích Thiện Minh.

Ngày 24-1-65: Hội Đồng Quân Lực bãi nhiệm Thủ tướng Trần Văn Hương và đem giam ông ở Vũng Tàu.  Ông Nguyễn Xuân Oánh ủy nhiệm lập chính phủ mới nhưng không thành.

Ngày 27-1-65: Đại tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý lật đổ chính quyền dân sự và truất phế Quốc trưởng Phan Khắc Sửu.   

 

Ngày 20-2-65: Đảo chánh thất bại của Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo.  

Phe các Tướng trong nội bộ của Hội Đồng Quân Lực dàn xếp ép Tướng Nguyễn Khánh phải lưu vong và ủy quyền cho Bác sĩ Phan Huy Quát lập chính phủ dân sự.  Quyền hành của 2 Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm hoàn toàn chấm dứt.  Hai Tướng bắt đầu lãnh đạo Hội Đồng Quân Lực là Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.

 

Cuối tháng 2-65: Chính phủ Phan Huy Quát thành lập: 

Thủ tướng: Bác sĩ Phan Huy Quát

Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Trần Văn Đỗ

Phó Thủ tướng phụ trách Kế hoạch: Luật sư Trần Văn Tuyên

Bộ trưởng Thông Tin: Trung tướng Linh Quang Viên

Bộ trưởng Giáo Dục: Nguyễn Tiến Hỷ

Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng: Bùi Diếm

 

Chính phủ Phan Huy Quát lại bị Công Giáo chống đối.  Sự bất đồng chánh kiến giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát đưa đến sự kiện cuối cùng là Chính phủ dân sự bị "quân đội" giải tán (kể cả chức vụ Quốc trưởng) vào ngày 11-6-65.


 

Ngày 12-6-65: Hội Đồng Quân Lực lập ra Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, tổ chức sau cùng của Thời kỳ Quân Quản:

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có trọng trách chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chính thức từ ngày 19-6-65 là ngày Ủy Ban trình diện quốc dân nên gọi ngày đó là ngày Quân Lực.  Ngày Quốc Khánh vẫn là ngày 1-11.

Ủy Ban lập ra Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là Nội các Chính phủ

Hội Đồng Quân Lực tự giải tán (14-6-65)

 

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có 11 chức vụ (và 9 Thành viên):

Chủ tịch, tương đương với Quốc trưởng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Tổng Thư ký: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu

Ủy viên phụ trách điều khiển Hành pháp (Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), tương đương với Thủ tướng: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ

Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Hữu Có

Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội: Trung tướng Nguyễn Hữu Có

Tư lệnh Quân đoàn I: Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi

Tư lệnh Quân đoàn II: Thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh

Tư lệnh Quân đoàn III: Thiếu tướng Cao Văn Viên

Tư lệnh Quân đoàn IV: Thiếu tướng Đặng Văn Quang

Tư lệnh Hải Quân: Đề đốc Trần Văn Chơn

Tư lệnh Không Quân: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ

 

Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (từ tháng 6-65 đến tháng 11-67) thay thế Chánh phủ Phan Huy Quát và  sẽ nhường lại cho chính phủ dân sự của nền Đệ nhị Cộng Hòa

Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, ở cương vị Thủ tướng.

Các thành viên trong Ủy Ban:

1. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên: Phó Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương

2. Bác sĩ Trần Văn Đỗ: Tổng Ủy viên Ngoại Giao

3. Thẩm phán Trần Minh Tiết: Tổng Ủy viên Tư Pháp

4. Luật sư Nguyễn Hữu Thống

5. Dược sĩ La Thành Nghệ

6. Giáo sư Trần Văn Kiện

7. Bác sĩ Trần Lữ Y

8. Nguyễn Xuân Phong: Ủy viên Lao Động

9. Bùi Diễm: Ủy viên Ngoại Giao

10. Âu Trường Thanh: Tổng Ủy viên Kinh Tế Tài Chánh

11. Trương Văn Thuấn: Tổng Ủy viên Giao Thông

12. Nguyễn Văn Trường: Tổng Ủy viên Giáo Dục

13. Bác sĩ Trần Ngọc Ninh: Tổng Ủy viên Văn Hóa Xã Hội kiêm Ủy viên Giáo Dục

14, Trung tướng Đặng Văn Quang: Tổng Ủy viên Kế Hoạch

15. Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị: Tổng Ủy viên Thông Tin Chiêu Hồi kiêm Tổng Cục trưởng Chiến tranh Chính trị

16. Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng: Tổng Ủy viên Xây Dựng

17. Võ Long Triều: Tổng Ủy viên Thanh Niên Thể Thao.


 

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-75)

 

Liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thắng cử trong cuộc đầu phiếu năm 1967, chính thức thành lập Đệ Nhị Cộng Hòa với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng thống.  Tổng thống chỉ định Thủ tướng và Thủ tướmg thành lập Chính phủ (Nội các).  Được chỉ định, Luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ tướng và lập Nội các (9-11-67).  Liên danh Trần Văn Hương và Mai Thọ Truyền đứng hạng nhì trong cuộc tuyển cử.

Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương giải tán tháng 11-67.

Chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968)

Thủ tướng: Luật sư Nguyễn Văn Lộc 

Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Trần Văn Đỗ

Tổng trưởng Nội Vụ: Trung tướng Linh Quang Viên

Tổng trưởng Xây Dựng Nông Thôn: Trung tướng Nguyễn Đức Thắng

Tổng trưởng Tài Chánh: Lưu Văn Tính

Tổng trưởng Kinh Tế: Trương Thái Tôn

Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Giáo sư Tăng Kim Đông

Tổng trưởng Canh Nông và Điền Địa: Tôn Thất Trình

Tổng trưởng Chiêu Hồi: Nguyễn Xuân Phong

Tổng trưởng Giao Thông và Vận Tải: Lương Thế Siêu

Tổng trưởng Công Chánh: Bửu Đôn

Tổng trưởng Y Tế: Bác sĩ Trần Lữ Y

Tổng trưởng Xã Hội và Tỵ Nạn: Bác sĩ Nguyễn Phúc Quế

Tổng trưởng Cựu Chiến Binh: Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng

Tổng trưởng Lao Động: Giáo sư Phó Bá Long

Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc: Paul Nur

Tổng trưởng Tư Pháp: Huỳnh Đức Bửu

 

Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc bị chỉ trích và ép từ chức.  Ông Trần Văn Hương thay thế làm Thủ tướng với Nội các mới (28-5-68) cho đến ngày 1-9-69 thì có Nội các mới của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm.

Ông Nguyễn Văn Lộc (1922-1992) sinh ở quận Châu Thành, Vĩnh Long.  Ông đậu Cử nhân Luật tại đại học Montpellier (1954) và tốt nghiệp Cao học Hình Luật tại đại học Paris (1964).  Ông là Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn từ năm 1955.  Tháng 11-67, ông Nguyễn Văn Lộc được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định làm Thủ tướng lập nội các chính phủ đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng Hòa.  Sau vụ binh biến Mậu Thân, ông bị ép từ chức.  Sau đó ông không làm chính trị mà chỉ dạy học.  Năm 1969-70, ông là giáo sư ở đại học Hòa Hảo (An Giang).  Năm 1971-72, ông làm Viện trưởng viện đại học Cao Đài Tây Ninh.

 

Chính phủ Trần Thiện Khiêm (1969-1975)

Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội Vụ: Đại tướng Trần Thiện Khiêm

Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo Dục: Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên

Tổng trưởng Ngoại Giao: Dược sĩ Trần Văn Lắm

Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ

Tổng trưởng Thông Tin: Luật sư Ngô Khắc Tỉnh

Tổng trưởng Xây Dựng Nông Thôn: Thiếu tướng Trần Thanh Phong

Tổng trưởng Tài Chánh: Nguyễn Bích Huệ

Tổng trưởng Kinh Tế: Phạm Kim Ngọc (69-71) và Nguyễn Đức Cường (71-75)

Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Giáo sư Tăng Kim Đông

Tổng trưởng Cải Cách Canh Nông và Ngư Nghiệp: Cao Văn Thân

Tổng trưởng Chiêu Hồi: Bác sĩ Hồ Văn Châm

Tổng trưởng Giao Thông: Trần Văn Viễn

Tổng trưởng Công Chánh: Dương Kích Nhưỡng

Tổng trưởng Y Tế: Bác sĩ Trần Minh Tùng

Tổng trưởng Xã Hội: Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu

Tổng trưởng Lao Động: Đàm Sĩ Hiến

Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc: Paul Nur

Tổng trưởng Tư Pháp: Luật sư Lê Văn Thu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và chính phủ Trần Thiện Khiêm)


Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử trong cuộc bầu cử ngày 3-10-1971 trong liên danh với ông Trần Văn Hương.  Từ đó ông Trần Văn Hương là Phó Tổng Thống thay thế Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.

 

Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) có những sự kiện lịch sử quan trọng:

Hiến pháp và Tuyển cử (1967)

Chiến tranh Cục bộ (1967-68)

Chiến tranh Mậu Thân (1968)

Việt Nam hóa chiến tranh (1968-73)

Cải Cách Điền Địa lần thứ 2 (1969-73)

Tuyển cử (1971)

Hiệp định Paris (1972-1974)

Chiến tranh mùa Xuân (1974-75)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Trần Văn Hương)


 

Người Lãnh Đạo Quốc Gia

 

*

Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong cuộc đảo chánh 1-11-63, ông Trần Văn Hương làm Đô Trưởng Sài Gòn lần thứ hai (1964), nổi danh với “đi làm bằng xe đạp”.  Sau đó ông tham gia chính quyền của Đệ Nhị Cộng Hòa giữ chức Thủ Tướng lần thứ nhứt (1964-1965) của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng lần thứ nhì (1968-1969) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ.  Ông đắc cử và làm Phó Tổng Thống với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1971-1975).  Ngày 21-4-75, ông trở thành Tổng Thống khi ông Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam và ngày 28-4-75, ông Trần Văn Hương nhường chức Tổng Thống cho học trò cũ của mình là Cựu Đại Tướng Dương Văn Minh.  Miền Nam mất ngày 30-4-75.

 

*

Ông Trần Văn Hương sống ở Sài Gòn cho đến khi qua đời (1982) với em gái, em rể và người con lớn là Trần Văn Dõi.  Con thứ của ông Trần Văn Hương là ông Trần Văn Đính (thường là Phụ Tá cho ông) di tản năm 1975 và định cư ở California.  Trần Văn Dõi, lấy họ mẹ với tên mới là Lưu Vĩnh Châu, là 1 cán bộ thường, trước theo kháng chiến Việt Minh ở ngoài Bắc có đánh trận Điện Biên Phủ, cấp bực Đại Úy trong quân đội (Miền Bắc).  Ông Trần Văn Hương cũng có người em là ông Lâm Văn Giỏi là một Giáo sư của trường Trung học Phan Thanh Giản (ở Cần Thơ).


 

Thi sĩ Trần Văn Hương

 

Vốn là giáo sư việt văn, ông Trần Văn Hương là một thi sĩ kỳ tài.  Ngoài đề tài lịch sử chính trị, ông còn làm thơ về những vấn đề văn hóa.

 

Đây là đề tài tôn giáo trong thơ Trần Văn Hương.

 

VÔ ĐỀ

Ta thấy người tu ta cũng tu

Cũng chuông cũng mõ cũng công phu

Tháng ngày rau thịt, chay hòa mặn

Hôm sớm kinh văn, sáng lẫn mù

Chưa hẳn nhà thuyền (thiền) hơn khách tục

Chớ khoe mình trí để người ngu

Vả tu đâu phải chuyên hành xác

Di Lạc ngồi kia vẫn mập ù?

(Trần Văn Hương)

 

(Câu Đối)

Đạo cứ hỏi nơi Tâm, đừng trai giới kệ kinh làm rộn Phật.

Phúc lựa cầu với Phật, hãy khiêm từ nhiêu nhẫn để nên Tâm.

(Trần Văn Hương)


 

Đặc biệt là ông Trần Văn Hương rất thích họa thơ.  Ông thường tìm họa những bài thơ khó.

 

- Họa thơ Phan Khôi:

 

VIẾNG MỘ ÔNG LÊ CHẤT (Nguyên bản)

Bình Tây Trấn Bắc sử nghìn thu 

Ấy cỏ mờ rêu đất một u

Ấy dũng ấy trung là thế thế!

Mà ân mà nghĩa ở mô mô?

Chim gào hờn xót xuân ầm ỹ

Hùm thét oai lưa gió vụt vù

Cái chuyện anh hùng ai nhắc nữa

Hồ Tây văng vẳng tiếng chuông bu!

(Phan Khôi) 1921

 

Dù là một bài thơ “tử vận” nhưng có người người họa được:

 

ĐIẾU ÔNG LÊ CHẤT (Họa)

Thân danh bách chiến được bao thu

Vùi nắm xương tàn chốn tịch u

Đất Bắc vỗ dân công nhớ đó

Non Tây phá giặc sử ghi mô? (*)

Tấm gương trung liệt gương bôi lợt

Ngọc đuốc ân oai gió thổi vù

Làm vật hy sinh phơi mặt tợ

Để cho ruồi kiến mặc tình bu.

(Trần Văn Hương) 1962

 

(*) Chú thích: Non Tây = Tây Sơn

 

Ông Lê Chất (1769-1826) nguyên là tướng của nhà Tây Sơn.  Khi vua Cảnh Thịnh giết hại công thần kể cả nhạc phụ của ông là Lê Trung, ông Lê Chất bỏ theo ông Võ Tánh ở Bình Định, về với Nguyễn Vương Phúc Ánh (1799).  Ông là phó tướng của ông Lê Văn Duyệt đem lục quân chiếm Bắc Hà và sau nầy làm đến Tổng Trấn Bắc Thành.  Khi chết, ông có mộ chôn ở Hà Nội.

 

- Họa thơ vua Thành Thái

 

Hơn 30 năm bị lưu đày, khi trở về qua Cap St Jacques, Cựu hoàng Thành Thái cũng có làm bài thơ theo thể liên hoàn và được ông Trần Văn Hương họa lại.

 

TỰ THÁN (Nguyên bản)                                                                        

                                              

Sống thừa nào biết có hôm nay                

Nhìn thấy non sông đất nước nầy!            

Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ       

Ruột tằm đoài đoạn mối sầu tây               

Thành Xuân nghìn dặm mây mù mịt (*)   

Bể Cấp bốn bề sóng bổ vây                       

Tiếng súng đêm trường nghe nhặt khúc    

Dầu cho sắt đá cũng châu mày.                

 

Châu mày lụy ứa suốt canh thâu               

Đất tổ hồn thiêng đâu ở đâu?                    

Dưới một bầu trời chung Bách Việt         

Trên hai cõi đất vạch Hồng Câu (*)         

Giá than trách kẻ lòng đen bạc                  

Trùn dế thương ai kiếp dãi dầu                 

Mãi đứng núi nầy trông núi nọ                 

Hỏi bao giờ bể hóa thành dâu? (*)                 

 

(Thành Thái)                                      

 

(*) Chú thích:

Thành Xuân = Phú Xuân (Huế) kinh đô của nhà Nguyễn.  

Hồng Câu là nơi Lưu Bang và Hạng Vũ họp để chia mỗi người ½ nước Tàu; chứng tỏ bài thơ nầy làm sau 1947 khi nước ta có 2 nước VNDCCH trên vỹ tuyến 16 của VM và Quốc Gia VN dưới vỹ tuyến 16 của Bảo Đại.

Từ câu "Thương hải biến vi tang điền" (Biển hóa thành ruộng dâu).


 

TỰ THÁN (Họa)                                                

                                              

Ba chục năm chờ mới có nay

Cái mừng nào đổi cái mừng này

Tinh long chực thuở về đài bắc

Hồ mã quên ngày hí gió tây (*)

Nên để con côi hùm sắp cật?

Hay mong biển rộng ngạc giương vây?

Phải chăng vận nước nhờ tay cũ

Mà giống dân ta nở mặt mày

 

Mày mặt nào cam chịu phục thâu

Tình nhà nỗi nước trọng khinh đâu?

Ấp gò may được trời gieo vận

Đỡ vạc mong chờ khách thả câu

Xót kẻ phơi sương cùng nát thịt

Thương dân cạn mỡ với khô dầu

Xem bầu nhiệt huyết còn chưa nguội

Biển thẳm còn ngày hóa ruộng dâu. (*)

 

(Trần Văn Hương)

 

Chú thích: 

Từ câu "Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi" (Ngựa Hồ hí gió Bắc.  Chim Việt đậu cành Nam).  Ám chỉ nhớ quê nhà.

Từ câu "Thương hải biến vi tang điền" (Biển hóa thành ruộng dâu).

 

Tiếc thay ông Trần Văn Hương không có thì giờ làm thơ sau năm 1963 vì bận rộn ở chính trường.  Hậu thế có những bài thơ tưởng nhớ ông.  

 

VỊNH TRẦN VĂN HƯƠNG (Nguyên bản)

Trần thế lâu nay vắng bóng Ông

Một lòng tận tụy với non sông

Không xu thời cuộc không màng lợi

Chẳng cậy quyền hành chẳng hám công

Quốc vận long đong nào đổi dạ

Tâm can ngay thẳng khó thay lòng

Đồng cam hoạn nạn cùng dân chúng

Hậu bối muôn đời mãi nhớ Ông.

(Hồ Mỹ Đức)

1/28/17 

 

VỊNH TRẦN VĂN HƯƠNG (Họa)

Sống tròn đạo đức trọn đời Ông

Cam chịu số phần với núi sông

Vị nghĩa chí tình không vị lợi

Thành nhân chi mỹ chẳng thành công

Vận suy, chính trực đầy thi hứng

Nước mất, tận trung trải tấm lòng

Gương sáng ngàn năm lưu hậu thế

Bi hùng lịch sử một đời Ông.

(Phan Thượng Hải)

1/29/17


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

 

Bài viết nầy đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com (trong mục "Thơ và Sử" phần "Thời Độc Lập").

 

Tài liệu tham khảo:

1) Thơ và Việt Sử - Thời kỳ Độc Lập (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

2) Lao Trung Lãnh Vận (Trần Văn Hương)

3) Hai Mươi Năm Qua: 1945-1964 Việc Từng Ngày (Đoàn Thêm)

4) Google Wikipedia


 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Ông Trần Văn Hương (1902-1982), sinh ở Vĩnh Long, học trường Collège Mỹ Tho, đậu Thành Chung (Diplôme) rồi tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, về làm Giáo sư Việt Văn của trường Collège Mỹ Tho (Nguyễn Đình Chiểu).  

Cuộc đời và thơ của ông Trần Văn Hương trải qua lịch sử chính trị trong Thời kỳ Kháng chiến chống Pháp, Đệ Nhất Cộng Hòa, Thời kỳ Quân Quản và Đệ Nhị Cộng Hòa.


 

Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Tự Trị

 

Tháng 3 năm 1945, sau khi đảo chánh Pháp, Nhật cho vua Bảo Đại lập chính phủ Trần Trọng Kim.  Trong Nam Kỳ, vua Bảo Đại được đặt một quan Khâm Sai, là ông Nguyễn Văn Sâm, cũng như Khâm Sai Phan Kế Toại ở Bắc Kỳ.  

Tuy nhiên thực quyền được Nhật giao cho Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm tất cả các đảng phái và giáo phái ở Nam Kỳ, cai trị Sài Gòn và địa phương.  Ngày 23-3-45, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất rút lui nhường quyền lãnh đạo cho Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ của Việt Minh (Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế) với Trần Văn Giàu (thuộc CS Đệ Tam Quốc Tế) làm Chủ Tịch.  

 

Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Anh vào giải giới quân Nhật phía Nam vỹ tuyến 16 (từ Tourane tức là Đà Nẳng tới mũi Cà Mau) gồm Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ.  Quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn.  

Trong khi đó Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ đã bị chống đối của Cao Đài, Hòa Hảo và Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskyist) nên phải nhượng bộ và cải tổ, Phạm Văn Bạch (cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế) thay Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch.  Sài Gòn hoàn toàn rối loạn giữa người Pháp, người Việt và các đảng phái.  

 

Sau một thời gian thương thuyết, quân Pháp tấn công quân Việt Nam và chiếm Tòa Thị Chính Sài Gòn là trụ sở của Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ ngày 23-9-45.  (Ngày 23-9 nầy sau nấy được gọi là ngày Nam Bộ Kháng Chiến).  Quân Việt Nam thua, phải rút ra ngoại ô và phong tỏa Sài Gòn.  Ngày 3-10-45, tướng Leclerc đem 10.000 quân đổ bộ vào Sài Gòn.  Ngày 9-10, Anh và Pháp ký hiệp ước ở Luân Đôn xác định Anh hoàn toàn ủng hộ Pháp trong việc cai trị toàn Đông Dương dưới vỹ tuyến 16.  

 

Ngày 16-10-45, quân Việt Minh rút về vùng kháng chiến.  

Sau khi rút đi, Việt Minh giết 20 người nồng cốt của phe Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskist), trong đó có ông Phan Văn Hùm.  Quân đội của Cao Đài, của Hòa Hảo (gọi là Dân Xã) và của Bình Xuyên (của Tướng Bảy Viễn) không tham gia, chỉ rút về địa phận của mình.  

Trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp còn có Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của các ông Nguyễn Văn Sâm (cựu Khâm sai), Phan Khắc Sửu, Trần Văn Ân và Hồ Văn Ngà.   Nó là hậu thân của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội (của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để) ở Nam Kỳ.   

Trong khoảng 1945-1947, VM dưới quyền của Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai thủ tiêu khoảng 2.500 người đối lập (theo lời của Trần Văn Giàu về sau nầy), trong đó có ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) bị giết ngày 29-9-1945, ông Hồ Văn Ngà và ông Nguyễn Văn Sâm. 

Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) của đạo Hòa Hảo cũng mất tích ngày 16-4-1947 trong chuyến đi hội với VM ở Tân Phú.      

 

Ông Trần Văn Hương đi theo kháng chiến Nam Bộ ở Tây Ninh chưa được 1 năm thì bỏ về thành (1946) và mở tiệm thuốc.  Ông có làm bài thơ tưởng niệm ông Nguyễn Văn Sâm.

 

NGUYỄN VĂN SÂM 

 

Chống Thực Dân, chống độc tài!

Một thề đã quyết dám đơn sai

Khen chê trôi kệ rằng hay dở

Phải quấy cần chi luận vắn dài

Đau đớn thương dân đang vận tối

Vẻ vang mong nước có ngày mai

Ví dầu muốn biết công hay tội

Đọc sử sau nầy lựa hỏi ai?

 

Ấy mới gan, ấy mới tài!

Con đường định vạch mặc chông gai

Thân nầy đành đã không trăm tuổi

Hội ấy thôi thì đóng một vai

Vui với giàu sang vui cũng thẹn

Thác vì nòi giống thác bao nài

Nghìn sau sử sách ghi câu chuyện

Công của ai? mà tội của ai?

 

(Trần Văn Hương)

 

Quân Pháp lần lượt chiếm lại lãnh thổ: phía Nam Sài Gòn chiếm đến mũi Cà Mau (25-10-45 tới 5-2-46) và phía Bắc Sài Gòn tới Kom Tum và Đà Nẳng (23-10-45 tới tháng 7-46).  

Về chính trị, Pháp cho lập Nam Kỳ Quốc trong Liên Bang Đông Dương với chính phủ của Thủ Tướng Bs Nguyễn Văn Thinh ra mắt ngày 26-3-46, làm bù nhìn cho Pháp, cai trị dưới vỹ tuyến 16.


 

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa

 

*

Lao Trung Lãnh Vận

 

Năm 1955, ông Trần Văn Hương ra làm Đô Trưởng Sài Gòn của chính phủ Ngô Đình Diệm cũng chưa được 1 năm thì từ chức.  Ông cùng với 17 người khác trong nhóm xưng là Tự Do Cấp Tiến bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm bỏ tù sau vụ đảo chánh 11-11-60.  Nhóm nầy từng họp ở khách sạn Caravelle tuyên bố đối lập với chính phủ Ngô Đình Diệm (1960) rồi ủng hộ (?) cuộc đảo chánh 11-11-60 (nên còn có tên là nhóm Caravelle). 

 

Trong tù từ ngày 12-11-60 cho đến ngày 7-4-61 thì được thả, ông Trần Văn Hương có để lại những bài thơ trong tác phẩm “Lao Trung Lãnh Vận”:


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Ông Trần Văn Hương và tác phẩm Lao Trung Lãnh Vận)


 

- Tinh thần khi mới vào tù:

 

Ai bảo trong lao khổ

Trong lao sướng thấy mồ!

Bên nầy thì cụ Tổng

Phía nớ lại quan Đô

Đòi vợ, ngầy: ông Cử

Làm thơ, giễu: bác Đồ

Các anh còn ở ngoải

Đợi quái gì chưa vô?

(Trần Văn Hương) 17-11-60

 

Chú thích:

Theo ý của bài thơ, nhóm Caravelle (18 nguời) của ông Trần Văn Hương có đủ các ông cựu Tổng trưởng, cựu Đô trưởng, Cử nhân và Tú tài (Đồ).

Thực ra bài thơ chỉ đúng phân nửa:

Cựu Tổng trưởng: Bs Nguyễn Tăng Nguyên, Ls Lê Ngọc Chấn

Cựu Đô trưởng: ô. Trần Văn Hương

Không có ông Cử hay ông Đồ nào hết chỉ có Tiến sĩ Hán học là ông Trần Lê Chất.

Trong nhóm 18 người có 2 kỹ sư (Phan Khắc Sửu và Lương Trọng Tường). 6 bác sĩ (Nguyễn Lưu Viên, Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên...), 3 luật sư (Trần Văn Tuyên, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật) và 1 linh mục (Hồ Văn Vui).

 

- Thể xác trong tù:

 

Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn                      

Chưa thấy chuyện gì chuyện khó khăn       

Nằm khểnh sờ môi: râu tủa tủa                   

Ngồi rù gãi háng: dái tăn tăn (*)                      

Làm sang phe phẩy tay còn quạt            

PTH_TVH_Lao trung.JPG
pth_TVH_TVHvatuongta.JPG
pth_TVH_3tuongKhiemMinhKhanh.JPG
pth_TVH_chanhphuPKSuu.JPG