
Cần xem tiết mục nào xin click vào Trang bài / webpage trong MENU dưới đây:
TRANG CHÍNH / HOME . BÀI MỚI ĐĂNG . SINH HOẠT HOUSTON, TX . ĐH XXIII-MARYLAND 2019 . ĐH XXII-SAN JOSE 2018 . ĐH XXI-HOUSTON 2017 . SINH HOẠT CANADA . SINH HOẠT ÚC CHÂU . CÁC ĐẶC SAN ĐH . SINH HOẠT BẮC - NAM CALI . SINH HOẠT vùng NEW ENGLAND . TIN SINH HOẠT CÁC NƠI . GÓC SÂN TRƯỜNG NHÀ . VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT . VÒNG TAY NGHĨA TÌNH . CHIA BUỒN - CHUNG VUI . TÌM NGƯỜI - NHẮN TIN
.jpg)

TRẦN CẨM QUỲNH NHƯ
Cựu PTG-ĐTĐ Cần Thơ
Sài Gòn
___________________________
HẬU ĐÌNH HOA
Khuya, hai chân đau nhức, bao tử cũng quặn, chẳng thiết tha meo miếc với bạn bè... Ai nấy ngủ rồi, mình cứ ngồi bó gối nhìn ra cửa sổ. Đèn quảng cáo ở ngã tư sáng đến nỗi soi lên thấy mây. Dường như lâu lắm rồi không được thấy trăng sao gì. Bầu trời cứ bị cắt nhỏ bởi mái tôn và nhà lầu, muốn nhìn trời phải ngước lên mỏi cổ. Không gian như giếng trời, như cái lô-cốt vô hình, cứ hun hút dìm mình xuống. Đôi lúc chợt nhớ tới con ma trẻ con ác độc và tội nghiệp trong phim “The Ring”. Dưới giếng sâu, biết bao cô độc lạnh lùng... Trong lòng tôi bây giờ cũng gợn lên bao nỗi quạnh hiu...
Tiếng con dế lửa ông xã nuôi cứ gáy ra rả không mòn mỏi. Ổng mua dế cho con chích chòe cưng của ổng ăn, lộn trong đám dế choắt có con dế trống tiếng gáy quá oai hùng, vậy là ông già U.70 chợt nhớ lại tuổi thơ bắt dế giữa đồng, bèn để lại nuôi đặng nghe nó gáy chơi. Mà khổ, ổng quên rằng bà vợ già của ổng rất khó ngủ về đêm ! Nhưng khuya nay không phải tội con dế...
Đã bao đêm mình ngồi bó gối như vầy, vì tất cả những lý do trời ơi ? Trong vườn thượng uyển của Thái tử Siddhartha, người ta không để vàng một chiếc lá, không để héo một bông hoa, và kìa nỗi khổ của chúng sinh vẫn miên man không dứt...
Thoắt nhớ một đêm mấy chục năm về trước, cũng có lần tôi ngồi bó gối nhìn trăng như vầy. Đó là cái hôm cả nhà được lá thơ anh Hai lần đầu tiên gởi về từ sau những chấn song. Nửa đêm, không ngủ được, thấy trời sáng trăng, tôi ra phần sân ngăn giữa nhà trước và nhà sau ngồi ôm con chó nhỏ, trong lòng ngổn ngang trăm mối...
Bỗng rợn người, một tiếng hát trong vắt và lanh lãnh vang lên từ trời cao. Cách nhà tôi một con hẻm nhìn lên là hành lang một khách sạn bốn tầng. Trên đó một cô gái ngồi hát, giọng khỏe khoắn nhưng sao liêu trai buồn thảm. Ánh trăng nhờ nhờ, chỉ thấy mái tóc dài, hai cánh tay trần với bờ vai trắng nuột. Mấy câu hát cứ lặp đi lặp lại hoài, giọng bi ai thê thiết. Giữa những khoảng lặng là đốm thuốc lá lóe đỏ trong bóng đêm...
Hậu Đình Hoa, ơi Hậu Đình Hoa !
Ngàn năm mang mang hận sầu,
Bên sông thương nữ lả lơi...
Trời ơi, rờn rợn nổi lên từng đợt và nước mắt tôi chảy ướt mặt bao giờ không hay. Cô gái là ai? Cách ăn mặc hở hang với điếu thuốc trên tay ngồi trong bóng đêm một khách sạn, không cần suy nghĩ cũng có thể đoán biết. Nhưng sao cô gái lại hát khúc Hậu Đình Hoa ? Tình cờ nghêu ngao khi vắng khách mà không cần hiểu ý nghĩa của ca từ, hay hát để khóc than thân phận tuyết sạch giá trong, một chiều tao loạn đã sa vào nơi cát vẩn bụi lầm?
Con chó nhỏ bị nước mắt tôi rơi xuống liên tục xuống đầu xuống mặt nên nó khó chịu vùng vằng bỏ đi. Còn tôi vẫn ngồi bất động trong bóng đêm, khóc mùi, khóc cho tương lai vô định, khóc cho thân phận con người mỏng manh trong cơn gió bụi năm nào...
Trăng lẫn vào mây rồi. Tối đen.
Trần Cẩm Quỳnh Như
06/2010
_______________
CÁI MỀN LÔNG VỊT
(Phần 1 & Phần 2)
_______________________
CÁI MỀN LÔNG VỊT (1)
1. AI DE CHAI LÔNG DỊT!
Cái số tui nó bần. Mền lông cừu Úc, mền Mỹ hai da, thậm chí là mền "quân tiếp vụ" hồi xưa (trước 75) êm mềm xốp nhẹ tận mạng, mà tui vẫn cứ khoái đắp mền lông vịt !
Bà con bây giờ chắc đâu ai còn đắp mền lông vịt? Mền nhung mền nỉ Tung Của đổ đống bán lềnh khênh ngoài chợ, rẻ rề, mà coi bộ cũng “được gái” lắm, độc hại cỡ nào miễn bàn, chớ rờ vô cũng mướt rượt, êm ấm, màu sắc tươi sáng rực rỡ hay đằm thắm ôn nhu đều có đủ cho mọi gu người dùng.
Có ai cắc cớ đi kiếm mua cái mền lông vịt, nhìn bộ hiền khô, quê quê, hoa văn không đa dạng, quanh đi quẩn lại cái mền mỏng xanh lam hay đỏ bordeaux với hình rồng phượng vờn nhau ở giữa.
Nhưng đừng vội xem thường cái mền quê mùa! Cái mền nhà quê này giặt rất mau khô, và nữa, khí hậu miền Nam hiếm khi lạnh lẽo, cho nên gần sáng trời se se mà đắp cái mền lông vịt, vừa nhẹ, vừa ấm, lại vừa mát, thiệt "cảm khái" gì đâu! (bắt chước cách nói của nhà văn Hoàng Hải Thủy). Cái nhẹ của mền lông vịt nó không giống cái nhẹ của mền nỉ Tung Của. Nó phủ sát người nhưng rất thoáng, giống một thứ tình thương chân thật, nhè nhẹ, ấm hơi người rất cảm động, như ôm choàng cả thân thể lẫn tâm tư. Còn mền Tung Của nó nhẹ bân, bồng bềnh, hờ hững, môi miếng... như người dưng, rồi tới khi tích đủ nhiệt thì nó bắt đầu hừng hực nóng như thể mình đi tắm hơi!
Lâu lâu lễ lạt không phải dạy học cũng không phải đi chợ, trùm mền lông vịt nằm nướng tới muốn khét nghẹt luôn, mà dậy sớm quen mắt rồi, nên chỉ nằm quấn kén, thả hồn về miền kỷ niệm, ôi thôi nhớ đủ thứ chuyện xưa tích cũ trên đời... Thiệt thú vị không thể tả!
Nhớ hồi nhỏ hay thấy Má nhổ lông vịt xong gói lại bỏ đó bán ve chai. Cái nghề này bây giờ mất tiêu luôn rồi! Mền thì còn bán đó, nhưng không phải là mền lông vịt đúng nghĩa, họ pha nylon vô nhiều quá, đắp nóng mà qua một thời gian là xệu xạo déformé hết trơn hết trọi. Như cái mền của thằng nhóc con tui, nó dài đòn quá nên phải đắp xéo mới phủ chân, thỉnh thoảng soạn mền đem giặt, mới thấy cái mền của nó đã thành... hình thoi từ đời nào !
Ngồi buồn nghĩ lại, cuộc đời tui có khá nhiều kỷ niệm với cái mền lông vịt này. Để tui kể bạn nghe.
2. BÀ HOẠI NHỎ
Sau 75 gia đình tui sợ đi kinh tế mới, bỏ thành phố lên Long Khánh mua đất lập trại, chiều xuống ngoài rẫy sương lam chướng khí phủ giăng mờ mịt, thiệt đúng là:
...
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn...
(Hương rừng Cà Mau - Sơn Nam)
Nhiều tháng trôi qua , đôi khi còn giật mình ngơ ngác tự hỏi sao thoắt cái mình lạc loài đến đây? Sao mà đến nông nỗi này?
Đêm, mưa rừng như đem khí lạnh khắp nơi gom về, lạnh tới mức trùm khăn mang vớ, áo quần mặc mấy lớp như cái củ hành vẫn còn lạnh run. Một buổi tối cả nhà đang ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu nhắc chuyện ngày xưa, bỗng nghe tiếng người í ới ngoài rẫy. Lúc đó tui đang trùm cái mền lông vịt lên đầu y như mấy cô Ả Rập Saudi mặc veil, để nguyên vậy chạy ra coi ai. Tối thui, dáng một người cao cao nhập nhoạng xa xa.
- Hoại (Ngoại) ơi Hoại, có thấy con bò của con đi lạc vô rẫy hôn Hoại?
- Không thấy!
Tui la lớn, trong bụng vừa tội nghiệp vừa mắc cười, nói thầm trong bụng: Bà Hoại này mới có hai chục tuổi thôi con à!
Sáng ra, vừa tỏ mặt người, thấy anh chàng hồi hôm đang dắt bò ngang rẫy, gương mặt đen xạm mệt rũ mà hớn hở... Thiệt ngộ, ảnh lại gặp bà Hoại đang trùm cái mền lông vịt đứng giữa sân cho gà ăn! Lần này thấy mặt Hoại rồi, ảnh cười ngỏn ngoẻn, gương mặt rám nắng đỏ lựng tới hai mang tai, lẹ lẹ dong bò chạy mất!
3. THÚ VỊ TÌNH KHAI
Ở rẫy rừng có cái thú vui không gì sánh được, đó là rủ nhau cả đám đi nhát ma thiên hạ!
Buồn quá mà! Cả đám tụi tui là dân học trò bỏ thành phố lên rừng, đứa nào đứa nấy mặt mũi khờ me, ngày làm rẫy, đêm về học ôn tiếng Anh tiếng Pháp mai phục chờ ngày "vượt sóng". Đám con nít bản xứ thì ngoài việc chăn bò, lùng kiếm dái mít chấm muối, truy tìm mấy trái nhãn lồng núp đâu đó ngoài đồng cỏ hoặc trèo cây phá tổ chim chìa vôi, thì chẳng còn gì để giải trí cho đỡ buồn.
Thế là phe "bản xứ" bèn rủ phe "khờ me" rình rình mấy đêm không trăng đi nhát ma thiên hạ cho... khuây khỏa!
Phe bản xứ gồm thằng nhỏ chăn bò đâu chừng mười bốn mười lăm tuổi tên Hùm, nhưng tui vẫn kêu lén là thằng Hăng Rết (nói lái, vì hàng tiền đạo nó sún thấy thương) và con em nó chừng bảy tám tuổi, người ngợm đen thui như cục than hầm, ốm nhom ốm nhách tên con "Vịt Đẹt".
Phe khờ me gồm tui với thằng Út em tui.
Buổi chiều trước đó, khi dong bò về chuồng, thằng Hùm còn ghé ngang rỉ tai: "Chị Năm nhớ đem theo cái mền!".
Tui với thằng Út hào hứng lắm, dù chẳng biết đem mền theo làm giống gì, vì phe kia thần thần bí bí chẳng hở ra cho biết kế hoạch tác chiến ra sao.
Trời vừa chạng vạng, chị em tui đã xách cái mền lông vịt mò ra chỗ hẹn là ngã ba đường mòn, không quên nói xạo với người lớn trong nhà là đi qua bà Hai lối xóm mua mít về ăn (Bà Hai có em bò Loan Mắt Nhung mà có lần tui kể bạn nghe trong bài viết "Tui đi chăn bò" đó).
Đến nơi, phe bản xứ đã ngồi núp sẵn sau ụ mối lớn, kế bên mấy lùm cây dại um tùm. Tụi tui nhanh chóng thiết lập đội hình, nói cho le chớ thiệt ra là ngồi chùm nhum lại rồi trùm mền kín mít chỉ chừa hai con mắt. Hăng Rết cắt nghĩa trùm vậy cho đỡ muỗi cắn và cũng đỡ bị lộ. Nó suỵt suỵt con Vịt Đẹt đang luôn miệng mè nheo vì bị đè dẹp lép giữa đám tụi tui. Nó quẹt lửa xẹt xẹt tới bốn năm cây diêm mới cháy mấy cây nhang rồi lập tức che lại kín mít. Lại cắt nghĩa: Cho đỡ muỗi và lát nữa còn dùng làm "đồ chơi"!
Tối đen như mực, thiệt đúng là đêm ba mươi. Tiếng chó sủa dấm dẳng xa xa. Một hai tiếng cú rúc não nề làm ốc ác tui nổi lên lục cục. Lúc hai chân tui bắt đầu tê dại, còn con Vịt Đẹt ngủ gục lên gục xuống muốn trẹo cổ thì bỗng nghe tiếng dép quẹt lẹt xẹt từ xa. Hăng Rết thì thào: "Bà ba Đực bả đi bán dìa". Nó thoăn thoắt bẻ bỏ một phần chân nhang rồi cắn phần chân nhang còn lại giữa hai hàm răng, trườn sát đất. Ngay khi bà ba Đực vừa trờ tới, nó đưa đầu ra khỏi bụi cây, mặt ngước lên hết cỡ, nó rên lên một tiếng thiệt ma quái rồi dùng hết sức khè ra thiệt mạnh cho tia lửa từ đầu nhang bắn ra tung tóe, soi rõ gương mặt nó bành bạnh sưng sỉa (vì đang phồng mang trợn mắt thổi hết cỡ), hai mắt trợn ngược phát ghê. Bà Ba bả hét lên một tiếng lanh lãnh rồi quăng thúng mủng ba giò bốn cẳng chạy trối chết. Cùng lúc con Vịt Đẹt hổng biết sao cũng ré lên đinh tai. Tụi tui xà quần trong cái mền, quờ quạng tứ tung kiếm hoài hổng ra cái miệng nó ở đâu để mà bịt lại!!!
Tức thời "di tản chiến thuật" (tức là rút lui đó) chớp nhoáng ai về nhà nấy gọn ơ. Trời Phật ơi tiếng là đi nhát ma người ta mà chị em tui đứa nào đứa nấy mặt mũi xanh dờn, tay chân run lẩy bẩy. Anh Ba tui hỏi mít đâu bây. Lại xạo: "Bà Hai bả hết mít chín gồi!".
Cái mền dơ ẹ lấm lem cát đất đem quẳng một góc, buổi sáng bốc mùi ammoniac khai ngấy thấy ghê. Một cuộc "thẩm tra" được tiến hành ráo riết mới lòi ra thủ phạm là con Vịt Đẹt, lúc nó nghe bà ba Đực bả hét lớn như Trương Phi hét quân Tào Tháo ở cầu Trường Bản, nó liệu, nó hét theo, rồi tiện thể... nó tè... tí tách!!!
Sau này lần nào gặp con Vịt Đẹt tui cũng phì cười nhớ tới mấy câu tếu trong "Tướng mệnh khảo luận" của Vũ Tài Lục:
Thú vị tình thâm,
Cưới phải con vợ đái dầm,
Thú vị tình khai!
"Vụ án" đó được hai phe thề bán sống bán chết "sống để dạ chết mang theo", vì nạn nhân, bà Ba, là vợ ông Ba Đực Chủ tịch xã, nghe nói trước 75 hồi còn "công tác" ở trong rừng, ổng giữ chức vụ "Trưởng ban ám sát đặc khu Rừng Sát"!!!
Ngã Ba đường mòn từ đó về sau nổi tiếng vì... con ma khè!
(Còn tiếp)
TCQN
SG, 08/2016
( From FB TCQN)
CÁI MỀN LÔNG VỊT (phần 2)
4. MỀN TRÔI BƠ VƠ
Phía sau trại, cách khoảng một cây số là một con sông, không lớn lắm nhưng lúc nào nước cũng cuồn cuộn đục lờ. Mùa mưa củi khô từ rừng trôi về nhiều lắm, nên một bữa thằng Út rủ rê: "Chị Năm, mình ra đó giặt mền đã lắm, vừa gom củi về chụm, một công hai chuyện!"
Không có nước máy, xách nước giếng lên giặt đồ khá cực, nên nghe nó rủ mình cũng bùi tai, dù cũng hơi sợ ma vì nghe đồn ngoài đó thỉnh thoảng thấp thoáng bóng áo lính ngoài rặng bần và tiếng lao xao như hồn tử sĩ thoảng về trong gió...
Đến nơi, tui chọn một gộp đá vững vàng ngồi giặt đồ, trong khi thằng Út đi dọc bờ sông mót củi gần đó. Khung cảnh hoang sơ đến lạnh lùng. Tiếng con chim gì quang quác đinh tai, rồi tất cả chìm vào tĩnh lặng. Chỉ còn duy nhất tiếng nước ù òa róc rách, tiếng giặt đồ sột soạt, lâu lâu vài tiếng hú cao vút xa xa của bầy vượn nhát người.
Yên ắng quá... Tưởng như thời gian đang chững lại. Tưởng như không gian đang đông lại, trong vắt, huyền hoặc ở một thế giới song song - nếu không có lá cây đang rì rào và nước sông đang cuồn cuộn chảy...
Cúi nhìn mãi những xoáy nước nhỏ như những cái phễu chung quanh gộp đá, tui lẩn thẩn tự nghĩ, có khi nào mình té xuống đây rồi trôi mãi theo dòng nước như câu hát về một cuộc tình bi thảm:
... Một người bèn ra ven sông buông theo nước cuồn cuộn mau
Một người chìm sâu trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu...
(Hẹn hò - Phạm Duy)
Dù không phải là một kết cuộc có hậu, nhưng chẳng phải tốt hơn là ngồi lại mãi nơi này, bất lực nhìn tương lai trôi...
Tay vò chiếc mền lông vịt, tui chợt nhớ tới truyện ngắn "Chiếc chiếu hoa cạp điều" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhớ thằng nhỏ đắp chiếc chiếu rách mướp mà khoái chí: "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ".
Những người biết xấu hổ như tác giả giờ chắc gần tuyệt chủng hết rồi, chỉ nói dối một chút về chiếc chiếu mà đã cho là nỗi nhục cả đời, như ông đã viết:
"Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành..."
Đang suy nghĩ vẩn vơ, chợt ngay sát phía sau lưng tui có tiếng bước chân xào xạc trên đệm lá khô gãy giòn. Tưởng thằng Út trở về, tôi hỏi: "Củi nhiều hông?" Lặng thinh, tôi quay ngoắt lại, không một bóng người. Tui sợ điếng, gọi thảng thốt : "Út ơi!".
Trong cơn hoảng hốt, tay tui chới với quờ quạng làm rơi mớ đồ giặt xuống nước. Cái mền lông vịt! Tui với theo nhưng không kịp, tui lại không biết bơi. Dòng nước như cướp nó đi, cuộn trôi băng băng...
Khi thằng Út trở lại, tui đang ngồi khóc bên bờ sông. Nó điếng hồn: "Cái gì vậy? Chị Năm bị sao vậy?". Tui mếu máo chỉ tay ra xa: "Cái mền lông vịt, nước cuốn mất rồi!".
Tiếng thằng Út cằn nhằn: "Cái bà này! Làm hết hồn. Mất thì thôi chớ khóc cái gì, thiệt tình á!".
Tối đó thằng Út nằm võng tòn ten, e hèm rồi ca rống lên:
Mền (mây) trôi bơ vơ, mang theo niềm nhớ
Ánh trăng vàng úa soi bóng hình ai phương trời nào đây
Môi em thơ ngây, mái tóc buông dài, đôi mắt u buồn, lệ thẫm đêm nào ướt hoen khăn hồng ...
(Nhạc sầu tương tư - Hoàng Trọng)
Má hỏi tui nghĩ sao rớt mất có cái mền lông vịt mà đứng khóc mặt mũi tèm hem. Tui nói: "Con tội nghiệp nó quá Má ơi !", làm cả nhà phì cười. Cũng như có lần rơi mất cái khăn mouchoir khi đang vượt biên bằng đường bộ qua Miên, tui cũng đứng tần ngần, ngẩn ngơ, tội nghiệp nó phải bất hạnh lạc loài nơi đất khách!!!
Phải chăng tính cách "Lâm Đại Ngọc" này đã khiến tui cả đời buồn thương từ thân phận cánh hoa rơi tới tình người sao phù du mong manh...
5. QUÂN TỬ NGỒI RƯỜNG
Nhớ lại lúc mới về rừng, gia đình tui lập tức bị các ban bệ dưới Xã truy hỏi tới nơi tới chốn: "Mắc gì về đây làm chi? Tính chừng nào vượt biên? "Làm nông" nổi hông mà bày đặt làm?".
Họ kêu tụi tui là "nhà giàu Sài Gòn", mình xưng gia đình công chức, họ cười nhếch mép!
"Lâu rồi đời mình cũng qua", dần dần thấy tụi tui một đám cận thị trắng nhách mà chí thú làm ăn hết biết, năm này qua năm khác coi bộ an phận rẫy bái không có ý tò te (tại họ không biết thôi, xé lẻ "bơi" hoài hổng được phải dội trở dìa!), lại hiền lành lễ phép và nhứt là biết điều quà cáp điếu đóm hết cỡ, nên không lâu sau, tụi tui được chính thức nhập tịch làng rừng, ai nhắc cũng thương "tụi học trò Sài Gòn"!
Thương thì thương, lấn đất vẫn lấn, chó hở ra vẫn bị đập, quần áo mùng mền phơi ngoài sân vẫn phải canh như phơi vàng!
Giờ mới vô đề: Một bữa nọ anh em tụi tui kéo hết ra rẫy chỉ còn Má lúi húi nấu nước ở gian bếp.
Trước hết phải tả sơ cái nhà, bạn mới hiểu tại sao ban ngày ban mặt có người ở nhà, lại có chó, mà vẫn bị trộm.
Nhà là nhà tranh vách đất được xây theo kiểu lán trại, trải ra dàn hàng ngang chớ không có bề sâu như nhà bình thường, được chia ra nhiều gian thông nhau. Từ trái qua phải, gian đầu là phòng ngủ, kế tới phòng khách, rồi tới gian bếp, rồi gian chứa nông phẩm (để khoai mì, khoai lang, bắp, đậu phọng, mè... trong khi chờ kêu thương lái tới mua, hoặc lá bạc hà thu hoạch bữa trước, bữa sau rửa sạch cho vô cái nồi chưng cất bự chảng nấu tinh dầu), cuối cùng là gian nông cụ. Còn phòng tắm, toilette, chuồng gà và nhà chưng cất bạc hà cũng ở gần đó nhưng được xây riêng biệt.
Tui sẽ không kể chuyện tên trộm ác ôn thoa nước hành lá vô tay giả làm rắn hổ hành để gà sợ không kêu quang quác rồi nó ôm đi mất cả gia đình con gà trắng giống Úc mới mua mắc động trời (cả con trống Hùng Cường, con mái Mai Lệ Huyền và cả ổ trứng đang ấp) khiến cả nhà tui đau xót lý chim quyên..., tui chỉ kể chuyện bị ăn trộm mền.
Hôm đó là ngày thu hoạch lá bạc hà. Mười cô thợ rẫy, người nào người nấy thấp lùn, vai nở, bắp chân chắc nịch, sức làm việc hiệu quả và dẽo dai kinh hoàng. Thấy tui cắt lá bạc hà mới có vài sọt mà đấm lưng thùm thụp, họ xúm lại cười rần. Tới khi chịu hết nổi, tui đầu hàng, bỏ chạy vô nhà pha trà đá cho thợ.
Rẫy bạc hà khá rộng, từ đó có thể đứng nhìn bao quát lán trại từ xa. Khi đang chạy lúp xúp trong rẫy, chợt tui nhìn thấy nháng nháng một bóng người thì thụp ở cửa sổ đầu gian trái. Xa quá, mắt cận thị lên độ nên tui tưởng Má đem củi vô bếp, vì gần đó có đống củi lớn phủ bạt, kế bụi chuối lớn. Nhưng khi chạy vô tới hông nhà thì chẳng thấy ai, ngoại trừ một đống mền tung tóe dưới đất. Tui réo: "Má ơi, sao để mền tùm lum ở đây?".
Má chạy ra nhìn, vẻ mặt đăm chiêu: "Để kêu anh Ba tụi bây kiếm thêm vài con chó, một mình con Ki cột ngoài kia nó giữ nhà đâu xuể!". Tui thiệt ngố, nghe vậy mới biết nhà suýt bị trộm!
Có lẽ tui từ rẫy bạc hà chạy về trễ năm phút thôi là tối đó cả nhà đã không còn mền đắp!
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, tên trộm này coi bộ cũng "có nhơn", hắn thò tay qua song cửa sổ làm bằng thân cây đước lôi mền ra, chỉ lựa mền len thứ xịn mà lấy, còn mấy cái mền lông vịt thì chừa lại, chắc để cho khổ chủ khỏi phải chết cóng trong mấy đêm mưa rừng lướt thướt! Tui nói: "Cái thằng ăn trộm này khôn ghê chưa Má, chỉ lựa mền len, bỏ lại mền vải!". Má đột nhiên nói lớn: "Thôi đừng nói vậy, ai cũng khổ mà. Phải đi ăn trộm, người ta cũng khổ tâm. Thôi ôm mền vô đi con. Sau này nhớ đừng để mền gần cửa sổ là được".
Buổi tối khi việc gom lá bạc hà tạm xong, mấy cô thợ về hết, Má mới kể chuyện lại cho anh Ba và thằng Út nghe. Anh Ba nói chắc người quen, chớ con Ki rất thính hơi, sao nó lại im re?
Má nói ừ, quen.
Tụi tui tá hỏa: Trời đất, sao Má biết?
Má cười: "Lúc tao với con Như đứng đó, "nó" còn núp trong bụi chuối, mấy cái lá chuối khô đem vắt lên đầu! Thằng Út nói sao Má không hú tụi con vô lôi đầu nó ra!
Má nói thôi bỏ đi, nhà mình thân cô thế cô, gây thù kết oán làm chi, mà cũng tội, nó nghèo khổ quá mà!"
Mãi rất lâu sau này, khi anh Ba tui bị nạn, chính gã trộm này đã ra mặt giúp đỡ mọi bề. Lúc đó, hắn không còn là đứa chăn trâu cắt cỏ vô danh tiểu tốt nữa, mà đã nghiễm nhiên trở thành một nhân vật "đinh" dưới Xã...
Sau này khi về lại Sài Gòn, thỉnh thoảng nhắc lại chuyện xưa, tụi tui kêu "ông kẹ chê mền lông vịt" là "Vân Tiên đầu đội chuối khô"!
Ai cũng có thể đổi đời. Chỉ có điều, đôi khi sâu của giống ruồi lại xé kén trở thành loài bướm, dù nó chỉ là con bướm ngày, thô lậu, đen đủi, xám xịt.
Dù sao đi nữa, lòng nhân của Má tui đã được hồi đáp, mặc dù sự hồi đáp đó cũng không thể cứu được ông anh khẳng khái của tui thoát khỏi kiếp nạn năm nào...
Sau khi anh Ba tui mất sau những chấn song, thỉnh thoảng những đêm trăng sáng, tui hay thơ thẩn ra sân ngồi nơi thềm nhà. Trời lạnh căm, tôi trùm cái mền lông vịt, ôm con Ki, con Miu, mà nghe như trong gió thoang thoảng mùi thuốc lá anh Ba hút vào những đêm không ngủ anh ra đầu hè ngồi lặng im trong bóng tối suy gẫm chuyện đời. Như còn thấy nụ cười anh với hàm răng trắng lóa, như còn thấy rõ mồn một dáng anh ngồi đó, cao lớn đến tội nghiệp, lạc lõng trong kiếp người sinh bất phùng thời...
Anh ngồi mãi đó, một chấm nhân sinh
Có hay không có trong cõi vô tình
Anh ngồi mãi đó,
Anh ngồi mãi đó, một chấm nhân sinh...
Anh lại trở về bên bờ sông đó
Còn nỗi thương quê mất tròn tuổi nhỏ
Có phải mưa nguồn xóa phăng bờ cát.
Cơn lũ nào tuôn, triền dâu xơ xác.
Tuôn về biển mẹ sâu rộng muôn trùng.
Sông thì nhỏ bé, máu góp sao cùng.
Sông thì nhỏ bé, máu góp sao cùng ....
(Lời tiền thân của cát - Trầm Tử Thiêng)
TCQN
SG - 22/08/2016

ĐẠI HỒ CẦM
Kể chuyện đờn địch của tui, bạn nghe chơi đỡ buồn.
1. ĐỜN BẦU
Hồi tui còn nhỏ, anh Ba tui một bữa hỏi mấy đứa con gái trong nhà thích làm gì nhứt. Chị Hai nói thích làm nhạc sĩ (bả mê nhạc Đoàn Chuẩn, Cung Tiến lắm), chị Tư thích làm ca sĩ (bà này tánh thực dụng, ước có giọng ca trời phú và dùng nó để hái ra tiền). Tui nhỏ hơn mấy anh chị nhiều tuổi lắm, lúc đó mấy ổng bả lớn rồi mà tui còn dưới Tiểu học, hai con mắt tròn vo đen thui như hai hột nhãn, hay đi đôi guốc vông kêu lách chách, đi học mặc áo bà ba trắng quần đen, ngực dẹp đép bụng ễnh ngược. Nhỏ vậy chớ ý thích thì không thua kém mấy anh chị lớn đâu ngheo. Tui tuyên bố chắc nịch: "Em thích làm văn sĩ mà giỏi đờn bầu!", bị anh Ba tui ký đầu: "Con mén này nhỏ mà tham dữ bây!".
Ờ làm văn sĩ coi bộ khó, chớ đàn bầu thì có tiền cứ vô học Quốc Gia Âm Nhạc (bây giờ kêu là Nhạc Viện). Người ta có khiếu học vài năm, mình ngu ngu học chục năm, rồi "đàn bầu ai gảy nấy nghe", mình đờn tửng tửng mình mình nghe, chớ có đi khoe khoang trình diễn đâu xa mà sợ bị nói tài chưa tới!
Ba tui dân Tây học mà cổ lỗ xỉ lắm, ổng không cho học đàn bầu. "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu", nghe còn không cho, huống hồ ngồi gãy! Ba hỏi sao con không học đàn tranh cho dáng ngồi đẹp dịu dàng. Tui nói thôi vậy Ba cho con học trống đi? Ông già mém xỉu! Ổng không ngờ đứa con gái út ngoan hiền chưa bao giờ biết cãi lời lại có những sở thích đối nghịch nhau ác liệt!!!
Chị Hai tui thì thùy mị đoan trang lắm, bả có cây sáo Nguyễn Đình Nghĩa bả cưng như vàng, mà hơi bả ngắn ngủn nên mỗi lần bả tập thổi éc éc là bầy chó nhà hàng xóm nó sủa rân trời!
Rồi nhà gặp biến cố lớn. Nhà cửa, đất đai, nhà máy... chỉ một đêm trôi hết qua kẻ tay! Cả nước cơm còn không có ăn lấy đâu có tiền học đờn!
Từ bỏ mộng hồ hải sau gần mười năm trôi giạt, tui trở về Sài Gòn tìm chỗ trọ và học lại Đại học, vừa dạy kèm Anh văn cho mấy nhà đại xì thẩu trong Chợ Lớn.
Buồn quá một bữa tự nhiên nổi hứng tui theo tờ rơi quảng cáo dạy đàn bầu, tìm tới một hẻm nhỏ đường Ngô Tùng Châu Phú Nhuận (giờ là Nguyễn Văn Đậu). Thầy dạy nhiều nhạc khí như Aspirine trị bá bịnh chớ không chỉ chuyên đàn bầu, cỡ tuổi dưới trung niên, tóc tai bờm xờm. Nghe nói căn bản nhạc lý tui chưa biết gì, thầy bèn trổ tài đờn cho nghe một bản, có lẽ là bản ruột của thầy. Tui dốt nhạc lý nhưng nghe tiếng đàn thầy lủng củng không mượt mà nên cảm ơn thầy rồi một đi không trở lại.
Mấy tháng sau tình cờ xa xa thoáng thấy thầy ngoài đường Lê Quang Định, thầy không ới, trò cũng làm bộ không thấy, mà nghĩ sao thầy lặng im chạy theo sau trò một đỗi dài tới tận nhà.
Má tui hay nhắc tới hai chữ "thầy đờn" với giọng kém tôn trọng, có lẽ vì bà già bị ảnh hưởng sâu đậm ấn tượng trai lơ của thầy Hai Khánh trong vở cải lương "Nửa Đời Hương Phấn" với câu nói đi vào lịch sử xài tới xài lui hoài với tất cả các cô gái thầy gặp: "Tui thương mà đâu có dám nói!".
Ông thầy đàn bầu này cũng vậy, tui không trở lại học do tay nghề thầy không nhuyễn, phần lớn cũng do ông thầy nói chuyện mà liếm môi bóng lưỡng và cặp mắt thầy cứ rảo khắp người tui từ khoảng dưới cổ xuống tới tận đùi!
2. ĐẠI HỒ CẦM
Sau âm thanh não nuột của đờn bầu, lớn lên tui còn bàng hoàng vì âm trầm buồn thảm và uy nghiêm của cello (trung hồ cầm) và contrebasse/contrabass (đại hồ cầm).
Anh Ba tui hay ghẹo: "Bây cao nhồng, 'phải thời' học Octabass (cỡ lớn nhứt dòng đại hồ cầm) coi bộ hợp! Mà đi lưu diễn các nước phải có HAI thằng tiểu đồng đi theo, lỡ cây đờn nó ngã nó đè thì có người lôi bây ra!". Ông anh tui là vậy đó, ổng ỷ ổng lớn hơn tui tới mười mấy tuổi nên ngày nào không chọc tui là coi bộ ổng ăn cơm hổng ngon.
Đại hồ cầm ngoài âm thanh dìu dặt, thế ngồi còn vững chãi tôn nghiêm, hầu như chỉ có mặt trong những buổi hòa nhạc bác học và quy mô lớn. Tui thích những cô gái ngồi đàn hồ cầm tóc thề suôn mượt đơn giản với bộ đầm trang nhã thanh lịch. Dường như hiếm thấy một nhạc sĩ hồ cầm nào ăn mặc khêu gợi hay lòe loẹt màu mè.
Stjepan Hauser nghệ sĩ cello nổi tiếng thế giới người Croatia có lần biểu diễn với một cello điện, dáng nhẹ nhàng thanh tú và tân kỳ, như thể nó kết hợp tất cả tinh hoa nghệ thuật của người tạo tác lẫn kỹ thuật công thái học để người đàn có thế ngồi đàn thoải mái hơn.
Nhưng sao tui cảm thấy đại hay trung hồ cầm kiểu truyền thống tuy bị mang tiếng nặng nề vẫn mang nét uy nghiêm khó thể thay thế, tiếng cũng trầm sâu trong khi đàn điện lại thanh trong hơn.
3. ÔI NHỮNG GIẤC MỘNG KHÔNG THÀNH!
Các bậc cha mẹ hay có một sai lầm là hay gán ghép những giấc mộng dở dang của mình vào con cái: Sau này tui hỏi con trai thích đàn bầu hay contrabass không?
Nó cười hà hà: "Mẹ đừng nói muốn con học đàn bầu nghe. Bố giỏi guitar vậy con còn hổng học, huống gì mấy cái đờn tỏn tỏn với ù ù!" (ý nó nói đờn bầu tỏn tỏn, còn đại hồ cầm ù ù).
Thôi, chơi không được thì mình nghe đỡ ghiền. Tui nghe ráo hết mấy clip đàn bầu của sư phụ Phạm Đức Thành (cái ông tóc dài hay đàn cho chương trình Thúy Nga By Night) từ Giọt Mưa Thu, Đêm Đông cho tới Con Thuyền Không Bến, Điệu Buồn Phương Nam...
Cello thì có Stjepan Hauser lừng lẫy với Ave Maria, The Swan, I Have A Dream, O Sole Mio, The Godfather, The Lonely Shepherd...
Tui thường chìm dần vào giấc ngủ bằng tiếng cello trầm buồn của giai điệu My heart will go on, nhắm mắt lại vẫn thấy rợp trời sao giăng giữa khung trời tím thẫm và con tàu Titanic lặng lẽ lướt đi trong băng lạnh.
Hay Unchained Melody với hình ảnh Sam (Patrick Swayze) mái tóc vàng nâu và gương mặt xương xương, đôi mắt trìu mến cố ngoáy nhìn lại người thương Molly (Demi Moore), vừa bước vào vùng sáng lóe tự trời cao rồi tan dần...
4. TIẾNG ĐÀN MA
Rồi một đêm, tui nghe tiếng đại hồ cầm văng vẳng... Chăm chú lắng nghe, dường như nó phát ra từ tầng trên cùng cao ốc gần nhà. Rồi ngày sau lại có cảm giác như nó ở ngay đây, trong căn phòng yên ắng. Tiếng đàn trầm buồn bi ai lẫn chút ma mị, khi khoan khi nhặt, lúc gần lúc xa...
Nhiều ngày qua, tui đâm ra nghi ngờ thần kinh của mình. Xưa nay tui vốn chừng mực, chưa bao giờ mê đắm thứ gì tới mức không kiểm soát và ám ảnh. Nhưng sao...
Nhiều ngày sau tiếng đàn liêu trai biến mất không tăm hơi. Cho tới một đêm khuya, khi tui mở toang cửa sổ để đón gió đêm, lập tức tui sững sờ vì lại nghe tiếng đại hồ cầm dìu dặt nho nhỏ rồi lớn dần, như thể một nhạc công đang ngồi rất gần tui đang say mê kéo vĩ. Có hơi thú vị, nhưng cũng rờn rợn... Mãi rồi tiếng đàn cũng tắt dần khi trời về sáng.
Cũng may tui đã ở căn nhà này hơn bốn chục năm trời, không phải nhà mới mua. Nếu không tui lại lẩn thẩn lậm mấy phim ma, tưởng tượng cảnh đôi vợ chồng ham căn nhà đồng quê thênh thang giá rẻ mà mua nhằm căn nhà rùng rợn kiểu Amityville!
Chờ con trai đi làm về kể chuyện, nó dặn hễ nghe tiếng đàn thì kêu nó, rồi nó quan sát từng ngóc ngách căn phòng, cuối cùng cười hí hí: "Mỗi lần vậy mẹ mở cửa sổ nhìn xuống dưới đường coi có ông già nào đang đờn ót ét để tỏ tình với mẹ hông? Ông này kỳ thiệt, chồng con người ta ràng ràng ra đó!".
Tui nạt: "Đàng hoàng coi!". Nó nói chắc nịch: "Cuối tuần con rảnh con đi bắt ông già đó cho mẹ, giờ mẹ thưởng thức tiếng đờn của ổng thêm vài ngày đi!".
Thứ Năm, thứ Sáu, rồi thứ Bảy, nhắc nó, nó nói giọng thần bí: "Để con đi mua mớ lông nheo về trừ tà!". Gì vậy trời, cái thằng ba trợn này!
Thừa lúc tui đang ngồi máy dạy học, nó lên phòng tui lúi húi làm gì không biết, lát dặn Mẹ để ý coi mấy ngày sau còn nghe nữa hông.
Hết dứt thiệt luôn! Tui thắc mắc: "Con làm sao hay vậy?".
Nó bèn dẫn tui tới cái khe cửa ngăn ngang phòng trước và phòng sau: "Đây ông già người yêu của mẹ đây: Là gió từ cửa sổ luồn dưới khe cửa sẽ phát ra tiếng trầm giống tiếng đờn. Con mua mấy thước dán khe cửa, trong nghề kêu là 'lông nheo', dán bít ở dưới là ổng hết đờn!".
Rồi nó còn dặn thòng: "Chừng nào mẹ ghiền quá muốn nghe lại thì lột sợi lông nheo ra, hen!"
Ôi trời thì ra vậy, làm tui quê một cục. Tối tối nghe vẳng tiếng đàn rờn rợn, tui cứ nhớ tới tiếng đại hồ cầm trong một phim kinh dị Nam Hàn, con nhỏ nghệ sĩ tài hoa bị đứa bạn giết hại để giành ngôi vị quán quân, nên nó hiện hồn về báo thù, và mỗi khi sắp giết một người trong gia đình nhỏ bạn, là tiếng đại hồ cầm lại vang lên ảo não thảm thê...
5. "LÀM LẠI"?
Có mấy ai đã đi qua cuộc đời này lại không ước ao mình có thể quay ngược thời gian để làm lại từ đầu! Cho nên mấy cái phim time-travelling đánh vô tâm lý đó, cứ cho nhân vật "làm lại" cả chục lần để "sửa lại" cái chết của một người thân, thậm chí còn "sửa lại" cả cuộc đời mình cách khôn ngoan và biết tính toán hơn!
Bạn ơi, nhiều khi tui trốn đời trong phút chốc để sống với nhân vật trong phim ảnh vào những đêm không ngủ, để rồi sáng dậy lại an nhiên như chưa từng ước mơ, chưa từng thất vọng, cố mà hài lòng với những-tương-đối-nào-có-vẻ-tuyệt-đối-nhứt của hiện thực đời thường!
Cùng với những thước phim cho phép "làm lại", tui luôn nhắm mắt tưởng như đang lắng nghe tiếng đại hồ cầm xa gần khoan nhặt gần bên, và tự an ủi rằng trong mỗi một cuộc đời, bao giờ tiếng đại hồ cầm bảng lảng trầm buồn cũng vang lên nhiều hơn và lâu hơn tiếng harmonica reo vui hạnh phúc!
SG, 20/07/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như
https://www.youtube.com/watch?v=3AUsZwck0_c
The Godfather
https://www.youtube.com/watch?v=xpd5-KGcVmY
Serenade
https://www.youtube.com/watch?v=oC3PeBw3QVo
My heart will go on
_________________

HỘI TRÙNG DƯƠNG
. Trần Cẩm Quỳnh Như
Như dòng sông ta miệt mài đi mãi
Ra biển khơi không quay lại đầu nguồn.
Trong lòng ta chất chứa những u buồn...
Lúc phẳng lặng...lúc sóng dâng cuồn cuộn...
Như chiếc lá rời cành bay theo gió
Bay về đâu ta chẳng biết về đâu?!
Một thoáng vui lặng lẽ vỡ tan mau
Chỉ lắng đọng nỗi niềm đau bất tận...
(Như dòng sông và chiếc lá - Huỳnh Ngọc Anh Kiệt)
-----------
MỞ
Để tôi nói chuyện bạn nghe đỡ buồn.
Tánh tôi hay hát dù không có chất giọng (nhưng không hiểu sao có lần thi hát thầy Lương Vinh Sanh cho hạng Nhứt? Chắc tại năm đầu Trung học, còn nhỏ quá nên Thầy chỉ cần hát đúng giọng là được. Mấy năm sau thì cái giọng xoàng xĩnh của tôi lập tức bị nhỏ bạn Ngọc Hân soán mất ngôi).
Nhưng thích hát là một chuyện khác! Hồi trẻ, rửa chén cũng hát rùm beng "Từ nay bèo trôi, cầu xiêu, con đò nát, Và mây đìu hiu cây rụng lá, thân mình về đâu?" (Vĩnh Biệt - Đoàn Chuẩn), ủi đồ cũng hò ông ổng "Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ, Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó... (Hương Xưa - Cung Tiến). Giờ nghĩ lại thiệt tội nghiệp lỗ tai những người xung quanh.
Sau 75, về ruộng, nhổ cỏ cũng hát, chăn bò tắm heo cũng hát, Histoire D'un Amour, Bang Bang, Poupée de cire, poupée de son... hát nhạc Pháp cho con bò con heo nó nghe!
Về già, viêm họng mãn tính, lại bị cắt amygdales, giọng đã dở càng dở tệ, thêm lá phổi mệt mỏi sự đời và mấy chục năm giảng bài rang rảng, giờ có nghe ca sĩ nào hát hay quá không nhịn được thế nào cũng bày đặt nhẩm theo, mà chỉ còn nước thều thào!
Tôi nhớ từ hồi nhỏ xíu, khi bắt đầu ê a hát theo mấy anh chị, thì "Hội Trùng Dương" đã là một trong những bài hát yêu thích nhứt của tôi, dù lúc đó tôi chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa của bài hát, không biết là của ai, cũng không biết nó được sáng tác từ trước 54, còn lớn tuổi hơn tôi!
Âm nhạc thật diệu kỳ, bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng khi nghe lại nó vẫn gieo vào lòng tôi bao nhiêu là thương cảm! Rồi tôi cứ nghe đi nghe lại mãi, cảm giác như mới được nghe lần đầu, mỗi lúc một thấm thía...
Người hoài cổ như tôi, dù biết thời gian phải trôi để cho mọi thứ được đổi thay và tiến hóa, nhưng sao tôi vẫn nhớ thương hoài một dĩ vãng êm đềm, một thời đại vàng son đã chảy xuôi không bao giờ trở lại... Tôi không chối giờ đây mọi thứ đều đủ đầy, mọi thứ đều hiện đại, nhưng đố bạn tìm lại được không khí thanh bình xưa...
Et puis la nuit m'est devenue peine et légère
Et je défie quiconque qu'pourra m'prouver l' contraire
Etincelles d'amour faites briller autour, vive la rivière sans retour
Etincelles d'amour faites briller autour, vive la rivière sans retour...
(La rivière sans retour - Chanson)
Phải, dù đêm đen mịt mù trở thành nỗi đau khôn xiết, dòng sông một khi đã chảy đi là không bao giờ trở lại.
Tôi bỗng muốn mãi trầm mình trong giai điệu "Hội Trùng Dương" để tạm quên đi đục trong phù thế, lắng nghe lòng mình, tìm lại chút hương xưa...
GIỚI THIỆU
"Hội Trùng Dương" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là tâm tình của ba dòng sông: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long được nhân cách hóa như ba thiếu nữ của ba miền Bắc Trung Nam, là một trong ba bản trường ca hào hùng bất hủ của nền âm nhạc Việt Nam trước 75, cùng với "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương và "Sông Lô" của nhạc sĩ Văn Cao.
Điểm đặc thù của "Hội Trùng Dương" ở chỗ, toàn cảnh không bẽ bàng xót thương cho thân phận con người trong cơn chính biến như "Hòn Vọng Phu", không có "sóng căm hờn", "bao đám xác thù" hay "tiếng súng trái phá" như "Sông Lô", mà nó là nét hài hòa giữa thơ và nhạc, mang âm hưởng đặc trưng theo từng địa phương, nhẹ nhàng diễn đạt tình ý theo hoàn cảnh từng miền, mỗi con sông là một âm điệu trầm hùng đầy nỗi niềm và khát vọng cứ lôi cuốn người nghe trong sóng nhạc trước sau từng đợt cuốn hút, tất cả đều mang tới cho người nghe một sự hào hùng của loại quân nhạc lãng mạn, một niềm hãnh diện vì miền đất ấm no trù phú, lẫn ngậm ngùi như một nhớ tiếc dằn vặt đau đáu khôn nguôi, mặc dù toàn bản trường ca đều thấp thoáng một không khí lạc quan, luôn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng.
ĐOẠN MỞ ĐẦU
"Trùng dương, trùng dương, trùng dương ...
Trùng dương .....chốn đâу ngàn phương,
Có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông nhắc câu chờ mong..."
Những chữ "trùng dương trùng dương" được lặp đi lặp lại nhiều lần như từng đợt sóng trước sau nhẹ nhàng "Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi..." tới toàn cảnh "ngàn phương" đến "ba dòng sông cuốn xuôi" về ba miền rồi nhập vào nhau chảy về biển cả. Chưa bao giờ tiếng nhạc êm đềm lại tượng hình sinh động đến vậy!
"Nước non buồn vui
Đây hội trùng dương đầy vơi..."
Chỉ trong một dòng nhạc ngắn gọn mở đầu đã cho người nghe một ý niệm bao quát về nội dung nhạc phẩm, chuyện dân, chuyện nước, có vui vẻ có buồn thương, và toàn bản trường ca như một áng văn tự tình đầy vơi tâm sự.
SÔNG HỒNG
"Ϲhiều naу nước xuôi dòng đại dương,
Có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn..."
Nét nhạc chậm lại êm đềm như một tiếng ngân dài. Cách diễn tả sống động (vẩn vơ nắng quái, cô thôn mờ xa) vẽ ra những nét chấm phá cho thấy đời sống hiền lành của những ngôi làng thanh bình bên dòng sông đục phù sa ươm nắng vàng. Điệu Hò Dô Ta "Dô dô hò dô" nhịp nhàng vui tươi dồn nhanh dần như một hành khúc:
"Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa,
Có những cô thôn mờ xa đón bầу dân đánh cá..."
Một hình ảnh đầy thơ mộng khi nhạc sĩ ví con sông Hồng với thiếu nữ hững hờ gối đầu lên mảnh đất Lào Cai và Việt Trì, mênh mang xõa tóc theo từng bãi cát dài ven sông, nằm thả hồn mơ Thái Bình Sơn Tây. Và dù tả cảnh chiến chinh "đem thịt xương ngăn giữ nương đồng", nhưng vẫn nhẹ nhàng "Đem vinh quang thắm tô sông Hồng"!
Mây ký ức đã hoá mầu tóc bạc
Sóng thời gian còn u uẩn nỗi niềm
Những con thuyền xa mẹ đã bao đêm
Ngày trở lại sông vẫn đầy nước mắt
(Sông Hồng của mẹ - Nguyễn Việt Chiến)
SÔNG HƯƠNG
Sông Hương nước chảy hiền hoà,
Mà sao vẫn cuốn cả nhà Nguyễn trôi?
Rót đầy ly rượu mời hoa
Hỏi nhan sắc cũ, lụa là xưa đâu?
Tột cùng sao vội đắm sâu,
Lòng dân chẳng ở bền lâu với mình ?...
Sẩy chân vỡ giấc son vàng,
Cười khan bên những lọng tàn hẩm hiu.
Bần thần ngó mảnh sân rêu,
Nghe đâu thuở trước dập dìu công khanh
Dư thừa rượu thịt, yến oanh
Chỉ không thấy tấm lòng dân buổi nào
Phải chăng lúc ấy giặc vào ,
Cân đai nhốn nháo, luỹ hào ngửa nghiêng ?...
(Bên sông Hương cảm tác - Bùi Thụy Đào Nguyên)
Điệu buồn nỉ non ai oán chơi vơi trên con sông Hương trầm mặc bên phế tích hoàng thành, như thở than cho dải đất miền Trung bất hạnh mãi mãi kiếp đời lầm than "khiến đau thương thấm tràn...". Nỗi buồn cứ trải dài mênh mang từ phiên chợ Đông Ba cho đến bến Vân Lâu "thuyền vó đơm sâu", để rồi khi người hát xuống giọng thì đã thành "đơm sầu", giống như gợi bao nhiêu buồn thương đều gom tụ hết về đây...
Trong khi mảnh đất phương Nam hầu chưa từng khốn khổ vì lụt lội và hạn hán, thì miền Trung luôn "mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn", không chỉ vì "Trời hành cơn lụt mỗi năm" mà còn do chinh chiến "xương máu tuôn tràn", dù vậy giọng nhạc vẫn tràn đầy hy vọng một ngày mai tươi sáng:
"Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh,
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên".
Thật sự có ai đâu ngờ, vừa hết nạn can qua, cảnh tử biệt sinh ly vẫn khốc liệt kéo dài theo năm tháng...
Xáng xề sông đổ về xa
Xáng xề phách nhịp đổ qua hồn mình
Ai ngâm khúc nhạc cung đình
Để ai thương cả Hoàng thành cỏ rêu...
(Đêm sông Hương - Thạch Quỳ)
Một điểm tài hoa của người nhạc sĩ, là vài âm ngữ thanh trắc dùng trong phiên khúc "Sông Hương" này được kéo oằn xuống thành dấu nặng theo ngữ điệu miền Trung một cách tài tình, cho nên người hát dù không phải người Huế vẫn có thể dễ dàng hát tròn âm hưởng miền này:
Đêm đêm khua ẠNH trăng vàng mà than
Phiên Đông Ba buồn quá CỰA chợ
Quê hương em nghèo LẶM ai ơi!
Trời rằng trời hành cơn lụt MỘI năm
Ai là qua là thôn VẶNG
Nghe sầu như mùa mưa NẶNG
BỆN Vân Lâu thuyền vó đơm sầu
Một nỗi ngậm ngùi cho miền Trung nói riêng và dân Việt nói chung, là chiến tranh liên miên, thống khổ không dứt, đến nỗi sự bất hạnh đã thành lẽ thường, và rồi người ta đã phải làm quen với nó, sống chung với nó. Sự chịu đựng triền miên đã thành bản năng, bình thường "như hai mùa mưa nắng", nên người người đều cháy bỏng ước mong một ngày đất nước thoát khổ nạn triền miên để người dân cùng vui tươi cất lời hoan ca:
"Hò ơi……
Ai là qua là thôn vắng,
Nghe sầu như mùa mưa nắng...
...Bao giờ máu xương hết tuôn tràn,
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn,
Cho em vang khúc ca nồng nàn!"
SÔNG CỬU LONG
Nếu ở sông Hồng êm đềm, sông Hương ai oán, thì sang miền Nam, tiếng nhạc từ con sông Cửu Long như vỡ òa mở ra một vùng trời nước trù phú vui tươi với cảm giác thỏa thuê no đủ.
"Đây miền Nam!
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long,
Cuộn chảy dâng trời Nam mạch sống...
Đời vươn lên thuyền ghé bến,
Sống NO NÊ dân quê một miền..."
Người dân miền Nam có lẽ chẳng bao giờ hiểu hết được ý nghĩa hai chữ NO NÊ, vì xưa nay luôn được thiên nhiên ưu đãi cho biển trời đầy cây thơm trái ngọt, cá thịt ăm ắp, lúa vàng bát ngát ngập đồng, nên mọi người đều cho rằng no ấm là điều hiển nhiên...
Cho tới khi miền Nam bị nạn đói tấn công!
Tôi nhớ năm tám mấy có anh bạn cùng dạy học, nghề tay trái là chụp ảnh dạo ở các chùa chiền, hai đứa con anh, nick ở nhà cháu lớn tên No, cháu nhỏ tên Nê! (bây giờ đã thành danh ở nửa kia trái đất, chắc vợ chồng anh vẫn còn rùng mình ám ảnh khi gọi tên con vì nhớ tới giai đoạn đói khổ kinh hoàng đó). Đủ biết mãnh lực ghê gớm của cơn đói khi ngày này qua tháng nọ toàn ăn độn bo bo và khoai mì, một điều khó tin khi miền Nam là vựa lúa của cả nước!
"Kìa nắng thương dân đây,
Nắng khô đồng lầy..."
Có dễ thương không, tới thiên nhiên cũng thương yêu hậu đãi người dân miền Nam, khiến cho nắng ấm khắp vùng, đồng lầy khô ráo!
Không chỉ trong nhạc phẩm Hội Trùng Dương, còn rất rất nhiều bài hát của các nhạc sĩ nổi tiếng đã ca ngợi một miền Nam hiền hòa ấm no và hạnh phúc dù ngày ấy hằng đêm hỏa châu vẫn còn sáng lòe lơ lửng tít trời cao: "Được mùa" Phạm Đình Chương, "Nắng đẹp miền Nam" - Lam Phương Hồ Đình Phương, "Khúc ca ngày mùa" - Lam Phương, "Mùa lúa chín" - Thu Hồ, "Hò lơ" - Phạm Duy, "Tình vui thôn trang" - Lê Trọng Nguyễn, "Lý Ba Tri" - Đinh Trầm Ca, "Hương yêu" - Hoàng Trọng, "Chờ một ngày" - Lam Phương, "Lúa mùa duyên thắm" - Trịnh Hưng...
Đó là lý do sau 75 khi đất nước thống nhứt, người từ các vùng Trung Bắc đổ dồn về miền Nam lập nghiệp sinh sống, mà chưa bao giờ ngược lại! Tôi vẫn còn nhớ như in gương mặt tươi cười của nhạc sĩ Nhất Sinh (gốc Trung) giữa miền quê trải dài cánh đồng lúa chín bát ngát và ánh mắt thỏa thuê của nhạc sĩ Trần Tiến (gốc Bắc) qua TV khi có dịp vào Nam nằm vắt vẻo đu đưa trên võng giữa vườn cây ăn trái mênh mông một tỉnh miền Tây!
Kèm vào điệu nhạc dồn dập phóng khoáng tươi vui, là điệu hát ru con mộc mạc quen thuộc của dân Nam đôn hậu:
"Ϲhẻ tre bện sáo cho dầу,
Băng ngang sông Mỹ ơ... có ngàу, ngày gặp em..."
Rồi đoạn kết, một khúc nhạc tươi tắn đầy ắp hy vọng với toàn cảnh sum họp hạnh phúc của ba con sông sau khi đã dặm ngàn dong ruổi, lại hòa vào nhau ở sóng nước biển Đông! Mấy chữ "tự do" được nhắc đi nhắc lại mãi xuyên suốt nhạc phẩm cho đến tận câu cuối cùng, cho thấy ước nguyện cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân Việt, là tự do và no ấm, hai khái niệm nghe đơn giản mà bao đất nước cứ mãi điêu linh không thể nào với tới!
"Ô hò ơi... ra biển khơi!
Trùng Dương...
Ba chị em là ba miền nhưng tình thương đã nối liền
Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duуên
Hẹn nhau...
Pha hòa sóng lan bốn phương trời...
...Dựng mùa vinh quang hứa đời tự do!"
Tại sao ba cô gái lại gặp nhau ở biển Đông và tại sao lại pha hòa sóng lan bốn phương trời? Có thể đây chỉ là một ý tưởng ngẫu nhiên ám chỉ một hình tượng hiệp nhứt, nhưng sao tôi vẫn hơi rờn rợn khi nghĩ câu hát sao giống như một lời s ấm, vì cách đây chưa lâu, biết bao thu yền nhân mọi miền đã trước sau bao đợt ra khơi, may mắn tản đi "bốn phương trời" cũng nhiều, mà bạc mệnh dập dờn dưới đáy biển Đông cũng không ít!
KẾT
Ôi, những dòng sông! Là dòng chảy vô thường đầy biến dịch thăng trầm với bèo nước lênh đênh, là những trải nghiệm đầy tính triết lý cho nhân vật Siddhartha ngồi chờ một tiếng "OM" huyền diệu ("Câu chuyện dòng sông" - Hermann Hesse), là lưu lượng đổi khác từng giây ("On ne se baigne jamais deux fois dans le même fleuve" - Héraclite), là đường đời vạn nẻo và cuộc sống mờ mịt ("Củi một cành khô lạc mấy dòng" - Tràng Giang - Huy Cận)...
Qua được bên kia sông, xem như đến được bờ (đáo bỉ ngạn) của triết lý Phật giáo, là buông bỏ tất cả để đạt tới sự hoàn mỹ của một tiểu ngã ("Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" - "Vượt qua, vượt qua tới bờ bên kia, là Giác Ngộ rồi đó!" - Bát Nhã Tâm Kinh). Đó cũng là tính vô trụ (không bám vào cái gì hết) của dòng sông.
Cho nên gần 70 năm đã trôi qua, "Hội Trùng Dương" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương vẫn như một tuyệt phẩm tự tình dân tộc trong sáng, hào hùng và nhiều ý nghĩa sâu sắc cứ tiếp tục mãi gieo hy vọng vào một ngày mai đúng nghĩa tươi đẹp cho một đất nước đã quá mỏi mòn vì những tháng ngày chịu đựng trăm cay ngàn đắng.
Bao giờ? Câu hỏi từ rất lâu đã mãi vang vọng trong lòng mỗi người dân Việt.
Câu hỏi không có câu trả lời.
Không biết đường cong sông Tiền Đường có giống đường cong sông Lam,
Mà ngọn sóng ở đây cứ cồn lên nỗi tang điền thương hải?
Ơi cánh chim bằng ba chìm bảy nổi!
Ba trăm năm là mấy đời người?
(Bên sông Lam nghĩ về Nguyễn Du - Xuân Hoàng)
SG, 18/06/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như
YOUTUBE: HỘi TRÙNG DƯƠNG:
Thái Thanh: https://www.youtube.com/watch?v=spncRuGG070
Ánh Tuyết: https://www.youtube.com/watch?v=CLKQIPGJjUc

.Trần Cẩm Quỳnh Như
Một vị thầy cũ có gởi cho tôi một link hay "Tuyệt vọng lên núi Nga Mi tự sát", và bảo "Em đọc xong ghi vắn tắt cho Thầy vài suy nghĩ". (Xem link ở cuối bài)
Tôi đọc bài, vừa đọc vừa khóc...
Chuyện xưa hiện về, mồn một như mới đây.
Và đây là vài suy nghĩ tôi viết gởi Thầy, kể lại một trong ba lần tự vận không thành.
TCQN
N ow I'm a soldier, a lonely soldier
Away from home through no wish of my own
That's why I'm lonely, I'm Mr Lonely
I wish that I could go back home...
(Mr Lonely - By Bobby Winton)
https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/mr-lonely-bobby-vinton.eaZWREHePB.html
Tôi rời Sài Gòn tới Bãi Dứa Vũng Tàu một ngày đầu tháng Chín. Nắng đã vàng hanh trên lũ sóng lao xao ngoài xa nhưng phố biển biếng lười vẫn như còn lặng yên ngáy ngủ.
Tôi chọn đại một nhà nghỉ vắng. Tháng Chín, hết hè, mọi nhà nghỉ và khách sạn đều vắng tanh. Dường như cả nhà nghỉ này chỉ có mình tôi: những người khách lẻ loi bỗng trở thành "thượng đế" thật sự, các nhân viên ai cũng xởi lởi tử tế, thậm chí họ còn đề nghị nấu ăn luôn cho tôi. Tôi cám ơn, nói chắc cũng không cần lắm, tôi ở có một ngày đêm.
Kế sát nhà trọ là một quán sân vườn phục vụ các món ăn đơn giản. Tôi chọn một góc mát, kêu tô hủ tíu nhỏ. Tôi không đem nhiều tiền, tôi không thiết ăn uống, và thêm một lý do nữa: Hết đêm này, tôi đã không cần ăn uống nữa rồi.
Sân vườn nhiều bóng rợp, mấy cây nhãn lá xanh rì, hàng sứ cùi thả bông trắng xóa xuống nơi tôi ngồi. Tôi thơ thẩn cầm lên một bông còn rất tươi, cánh dày trắng sữa, giữa ửng vàng ngọt. Tôi nhớ tới những cô gái Tahiti gợi cảm và mặn mòi với đóa sứ trắng giắt một bên tai, nụ cười rạng rỡ khoe hàm răng trắng tinh nổi bật trên nền da nâu khỏe mạnh. Dù lòng đang nặng nề, tôi bỗng hơi tức cười khi tưởng tượng nếu bây giờ mình giắt bông này lên tai, chắc bọn thanh niên thiếu nữ đang cười nói vui vẻ góc kia chúng nó sẽ phì cười và tội nghiệp cái bông trắng cài trên mái tóc nâu phờ phạc một thiếu phụ trẻ ốm o, héo úa và buồn rũ như khóm cỏ trong mưa. Đâu rồi mái tóc dài dập dờn như sóng theo mỗi bước chân đầy tự tin trong sân trường Đại học? Cái gì đã bào mòn nhanh đến vậy thời gian tươi đẹp của tôi, xuân sắc của tôi, nụ cười của tôi, tương lai của tôi???
Thôi thì thôi mộ người tà dương
Thôi thì thôi nhé.. đoạn trường thế thôi...
(Đưa em tìm động hoa vàng - Phạm Duy)
Một đứa nhỏ gầy gò trạc tuổi con trai tôi trờ tới để xấp vé số của nó vào lòng tôi rồi tự nhiên kéo ghế ngồi đối diện. "Nha nha cô!". Tôi phì cười với cách mời mua hàng lạ lùng của thằng nhỏ. Tôi nói cô không chơi vé số, nhưng con ăn sáng không, cô kêu cho một phần. Thằng nhỏ gật đầu lia lịa. Tôi ngồi nhìn nó ăn, gương mặt đen đủi tội nghiệp, đôi môi tái bóng mỡ, những gắp mì vội vã ngon lành... Không biết con trai tôi giờ này đang làm gì? Bố nó kêu nó dậy chưa? Cho nó ăn phần ăn sáng cuối cùng tôi làm cho nó và để sẵn trong lồng bàn chưa? Nhóc rất ngoan, nó biết ngày nào mẹ cũng đi chợ rồi quáng quàng đi dạy, rồi bố cũng dạy, nên nó ngồi một góc lủi thủi chơi một mình cách bà Nội không xa.
Trên đường đi, xe vùn vụt nhưng tôi cũng kịp thấy đôi ba trường Tiểu học khai giảng sớm, những bà mẹ trẻ tíu tít cầm tay đứa nhỏ áo sơ mi trắng tinh, gương mặt thơ ngây trầm ngâm như còn tiếc nuối những ngày hè ngắn ngủi... Tôi ngoáy nhìn mãi như muốn tìm hình bóng đứa con tôi, lủi thủi ôm cặp với vành khăn tang trắng trên đầu. Đôi mắt đã khóc quá nhiều sao vẫn còn lắm nước mắt đến vậy, tức tưởi, nghẹn ngào, nước mắt lại từng dòng âm thầm chảy... Cũng may tôi còn cái kiếng mát để che giấu hai mí sưng húp...
Buổi chiều, sau khi hỏi được một vài thông tin từ bàn tiếp tân, tôi thả bộ xuống con đường dọc bãi biển, ghé quầy tạp hóa bên đường bán kèm vài thứ thuốc cảm ho thông thường, hỏi cầu may một vỉ Mictasol Bleu. Khi con bé đưa ra vỉ thuốc, chưa kịp mừng đọc date thấy đã quá hạn cả tuần. Thôi cũng đành phải mua uống ngay lúc đó, vì bệnh nhiễm trùng đường tiểu của tôi bỗng nhiên tái phát chẳng đúng lúc.
Như một hậu ái đầy cảm động, tôi gặp ngay ngôi chùa nhỏ bên đường, đó là tất cả những gì tôi mong đợi vào lúc này. Tôi vào ngồi thật lâu dưới tượng Quan Thế Âm, một tiếng, hai tiếng??? Đầu óc trống không, xơ cứng, lạnh ngắt. Sân chùa vắng tanh, một hai vạt áo vàng thấp thoáng lướt sau vòm cây xa... Tiếng con chim gì thánh thót liến thoắng như rót từng chuỗi thủy tinh xuống vạt nắng trong vắt dưới chân Phật Bà. Tôi ngước lên tìm kiếm, tiếng đập cánh thanh nhẹ xao xác tàng lá dày. Tôi chợt bắt gặp ánh mắt Phật, sống động đến nao lòng. Lạy Phật, xin chỉ cho con một đường đi. Con đã sai lầm một lần, giờ phải chăng con đang đem một sai lầm khác để sửa chữa sai lầm trước? Nhưng con đã tới bước đường cùng. Con giờ có gì? Gia đình có, người thân có, nhưng con không có một bến đỗ không sóng gió. Con cần một bến đỗ yên bình, dù cả đời hay tạm bợ... Từ một quyết định không đúng đắn, như một bánh răng trật, cả con tàu cuộc đời đã lao đi không kiểm soát, cuối đường là vực sâu tuyệt vọng và ngỡ ngàng - ngỡ ngàng vì người, tuyệt vọng vì mình...
Tôi lạy Phật lần cuối và rời chùa, thơ thẩn xuống bãi vắng. Biển động ầm ầm. Gió phần phật đến lạnh run. Thứ gió không thân thiện mặn rát thách thức kẻ lạ mặt ủ rũ đơn độc... Mây kéo xuống chân trời xám xịt, những hạt mưa to bắt đầu rời rạc rơi... Tôi rùng mình ớn lạnh, cảm giác như có những dòng điện nhỏ truyền xuống tận mấy ngón chân vì căn bệnh nhiễm trùng đang hành hạ...
Đêm về nhanh theo cơn mưa rả rích. Tôi ngồi thừ trước ly nước nóng rót từ bình thủy mượn của nhà trọ ban chiều. Trong vô thức, tôi bẻ từng viên thuốc ra khỏi vỉ... Hai trăm viên thuốc ngủ mua gom góp nhiều lần từ mấy tháng nay. Thời đó thuốc ngủ rất khó mua, và tôi cứ một điệp khúc "mua cho bà Má mất ngủ kinh niên". Mỗi nhà thuốc cho mua được một vỉ, cho tới khi đủ hai trăm viên, và cho tới khi giọt nước tràn ly, quyết định chín mùi...
Tôi yên lặng khuấy lên. Hai trăm viên thuốc trong một ly cối nước nóng hòa vào nhau thành một chất đặc sền sệt, mùi thuốc nhè nhẹ, lạ lẫm... Đưa lưỡi nếm một chút, không đến nỗi đắng như tôi tưởng. Mà đời mình còn chưa đủ đắng?
Cửa sau phòng trọ nhìn ra biển rộng. Bãi cát xa mờ hắt lên màu vàng nhạt nhợt lạnh lẽo. Mặt trăng tròn u buồn mờ đục trong mưa thưa. Tiếng gió, tiếng sóng ì ầm như đại bác đêm một thuở xa ngái... Và rồi dưới màn mưa mờ lướt thướt nhuộm trăng, đột nhiên nổi bật vạt áo trắng nhờ nhờ một đứa nhỏ câu đêm đơn độc trên ghềnh đá bãi biển vắng ngắt đến lạnh người.
Tôi ở cách nó một khoảng khá xa, bao gồm sân sau nhà trọ và bãi cát rộng, ánh trăng lu sau màn mưa làm mọi thứ đều nhập nhoạng, sao tôi vẫn thấy rõ mồn một miếng vá đụp trên đôi vai gầy còm, thấy rõ từng đường may vụng về vá víu, mảnh vá sơ sài lật phật theo từng cơn gió. Thằng nhỏ như tuyệt vọng khi liên tiếp quăng mãi dây câu vào biển đen gầm gừ, tưởng chừng như nó đang thách thức định mệnh khi chọn kiếm ăn vào một đêm biển động...
Áo vá... Cái áo vá làm tôi rúng động đến run rẩy khi nghĩ con tôi cũng có thể một ngày mặc chiếc áo vá đụp... "Không có cha ăn cơm với cá, không có mẹ liếm lá đầu đường". Tôi nỡ sao? Ngày đầu tiên đi học, con tôi mới vào lớp Một đã phải quấn trên đầu vành khăn tang?
Sao tôi đang tâm, sao tôi nông cạn, nỡ bỏ lại người chồng hiền lành và đứa con nhỏ nhít chỉ vì máu mủ bất nhân? Tôi muốn chết vì họ muốn tôi chết. Tôi muốn chết để họ hài lòng. Tôi muốn chết để họ phải suốt đời ăn năn... Và tôi cũng muốn chết vì tôi ương yếu vô dụng...
Đã nhiều lần tôi muốn đem con đi tới một nơi xa thiệt xa, vùng sâu (chớ không phải khu trung tâm) của Côn Đảo, Phú Quốc hay Tây Nguyên gì đó.
Cũng đã từng gởi thơ cho mấy tòa soạn tôi thường cộng tác (lúc đó chưa có máy tính để tìm kiếm thông tin) để hỏi xem, rằng tôi đang ở SG, với bằng cấp ra trường loại giỏi nhưng lại không có trong hàng ngũ giáo viên chính thức của Nhà nước (tôi chỉ dạy hợp đồng cho các công ty và vài trung tâm sinh ngữ), thì khi tình nguyện tới dạy những nơi xa xôi, tôi được đãi ngộ gì, tôi có được cấp chỗ ở, và con tôi có được theo vào hộ khẩu? Tòa soạn công khai trả lời trên báo, kêu liên lạc Sở Giáo dục ; kèm theo một chuyện khá tức cười, là sau đó có vài người gởi thơ liên lạc với tôi, trong đó có vài em gái ở tỉnh và một em trai đang đi nghĩa vụ ở xa, mong muốn được làm quen và viết thơ liên lạc qua lại, vì cảm phục tôi đang ở SG mà xung phong đi dạy nơi xa. Thật sự tôi đâu được lý tưởng đến vậy, nói cho cùng tôi chỉ là con thú cùng đường!
Rồi nghĩ lại thương con, nó đang ở ngay trung tâm thành phố, đang được hưởng những thứ tương đối tốt nhứt cho cuộc đời một đứa nhỏ: nhà riêng, đủ cha mẹ, bệnh viện lớn, trường gần... Tôi sanh nó ra sao tôi lại bất công, quyết định đem nó đi tới những chỗ xa xôi không có bất kỳ đồ dùng văn minh hiện đại nào... Và học vấn thì nếu về những nơi chó ăn đá gà ăn muối đó, có lẽ chỉ duy nhứt tôi mới có thể kèm cặp nó lên tới cấp Ba, mà rủi thay khả năng tôi chỉ có thể kèm nó được Việt văn, Anh văn và Pháp văn!
Thế là mọi dự định phá sản từ trứng nước...
Đêm nay tôi lại ngồi mông lung trong căn phòng xa lạ, suy nghĩ mãi về quyết định của mình, lòng thương con ray rứt... Không đâu, tôi không thể vì vài người thân nhẫn tâm đến cùng cực với tôi, mà trong một lúc phẫn uất nông cạn tôi lại đang tâm chối bỏ sự sống để con tôi phải chịu mồ côi. Không có mẹ đã khổ, có mẹ kế lại càng khổ hơn (ai biết được ngày mai?).
Người thân của tôi, tuy cùng máu mủ nhưng gẫm ra có lẽ chỉ là những con nợ sanh cùng bụng mẹ để đầu thai đòi nợ lẫn nhau, cho nên họ sát phạt không chút dung tình, quyết tâm dồn tôi vào chỗ chết, sao tôi lại dại khờ cho họ toại nguyện, mà rốt cuộc nỗi đau chỉ mình con tôi gánh chịu? Nỗi đớn đau bị người thân phản bội này, tôi phải cưu mang cả đời để trả giá cho những gì tôi đã làm cho họ kiếp trước, biết đâu???
Và cả khổ đau trong đời vì những sinh ly tử biệt đã qua, những mất mác không thể kiếm tìm...
Tôi thở hắt một hơi dài, nhìn ra đứa nhỏ gầy gò ngoài kia, quyết định thả bộ ra đó... Nhưng khi mãi rón rén đi trên mặt cát trơn với đôi chân mỏi mệt vì cả buổi chiều thơ thẩn, ra tới ghềnh đá thì đứa nhỏ đã ra về tự bao giờ...
Sáng sớm hôm sau tôi về lại SG, lòng thầm nghĩ những nhân viên phòng trọ chắc chắn sẽ hết hồn hết vía khi thấy trơ trỏng trên bàn ly thuốc đặc sệt của tôi!
Ôm con trong tay, tôi nức nở khóc... Bà Nội nói Kata cứ chạy ra cửa ngóng Mẹ... Bố cũng đã chạy tìm khắp nơi...
Đứa nhỏ ngây thơ hỏi Mẹ đi đâu lâu dữ tối không về ngủ với con!
Ôi Mẹ xin lỗi con, Mẹ xin lỗi!!!
Nhiều năm sau đó, tôi chợt lóe nghĩ, phải chăng vì được Phật Bà Quan Âm độ mạng, nên đứa nhỏ câu đêm ngoài Bãi Dứa chính là Phật Bà Quan Âm thị hiện để kéo tôi ra khỏi vũng mê, vì tôi đã rúng mình bắt gặp ánh mắt Phật Bà trong sân chùa, đau đáu làm nao núng tận tâm can...
Cảm ơn chư Phật chư Bồ Tát đã kịp kéo tôi ra khỏi u minh, để con tôi có mẹ, giờ đây đã là một thanh niên chín chắn, biết nghĩ, và nhứt là tôi đã kịp góp tặng cho xã hội một con người tử tế.
"Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, họ vẫn có thể dẫn dắt ta đi qua những cánh cửa chật chội của định kiến, chứng minh trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, người ta vẫn có thể đem lại ý nghĩa cho sự tồn tại của mình bằng tình yêu thương".
(Đặng Hoàng Giang - Hành trình cận tử)
SG, 09/06/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như
------------------------------

(Hình: SenDecor)
QUÁN THẾ ÂM
"Cầu khẩn hay phụng thờ hình tượng Quán Thế Âm, không sao sánh được với việc trau dồi từ tâm"".
(Sư Toại Khanh)
1. Mấy câu đầu tử vi của tôi:
-
Mệnh: Hỏa - Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)
-
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Nghe đáng mừng quá phải không bạn? Còn gì bằng một sinh linh nhỏ nhoi lại được Phật Bà Quan Âm độ mạng?
Như Đức Mẹ của người Công Giáo, Phật Bà Quán Thế Âm là một hình tượng đẹp đẽ, uy nghi, mầu nhiệm nhưng cũng không kém phần gần gũi với tất cả các tín đồ Phật giáo. Cho nên một ngày, tới khi nghe giảng Quan Thế Âm tùy hiện, có khi là đàn ông, tôi đã hết sức bất ngờ, vì Quán Thế Âm từ lâu đã tồn tại trong tâm thức nhân gian là vị "Phật Bà" thệ nguyện không thành Phật, mãi làm Bồ Tát độ trì chúng sanh cõi Ta Bà.
Từ khi còn nhỏ xíu được Má dạy ngồi khoanh tròn vo chắp tay niệm "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát", cho đến khi lớn hơn chút, lại được Má rủ rỉ bên tai mỗi tối trước khi ngủ truyện Quan Âm Thị Kính ngày ngày đi xin sữa về nuôi đứa trẻ mới sinh bỏ trước cổng chùa, truyện Quan Âm Diệu Thiện cỡi cọp thoát khỏi pháp trường của vua cha.
Má nói (dù mắt tôi đã ríu lại mất tiêu rồi) khi mình làm người tốt, sau này về già lúc ngủ, linh hồn sẽ bay về cõi Phật. Thời gian dài tuổi thơ tôi lúc nào cũng thắc mắc sao mà bay lên được, khi còn kẹt cái nóc mùng với cái nóc nhà? Má nói khi đó mình sẽ nhẹ nhàng bay lên như không có gì, tôi thì cứ hồi hộp sợ bay đại lên sẽ bị u đầu!!! Tuổi thơ ngốc nghếch thiệt dễ thương!
Sau 75 sợ đi kinh tế mới, Má tôi lên mua đất ở rừng Long Khánh, sân rộng lắm trồng nhiều mai vàng và mai tứ quý, giữa sân chúng tôi còn an vị một tượng Quán Thế Âm bằng thạch cao trắng cao khoảng mét rưỡi dưới bóng cây bồ đề xum xuê và bụi tre ngà thân óng ả vàng ươm.
Từ nơi thành phố đô hội về giam đời thanh xuân dưới cái nắng rát bỏng ngày hè hay gió lạnh cắt da buổi lập đông, chúng tôi được bình an cho tới ngày bỏ đất ra đi, tôi cho là có sự nhiệm mầu che chở của Ơn Trên. Vùng đất vắng vẻ, nhà này cách nhà kia một hai cây số quy tụ đủ các thành phần kéo tới khai hoang, chúng tôi còn bị mang tiếng "nhà giàu SG" dù chẳng có gì ngoài mấy rương sách (có lẽ họ nghi rương vàng!). Nhà cửa chúng tôi thì khá hơn những nhà trong vùng, vách tường, mái fibro cement, nhưng họ mà muốn thì họ đạp cửa cái một.
Một đêm tôi chìm trong giấc chiêm bao nặng nề, thấy mình đứng giữa vườn trăng, chợt xa xa một bóng người trăng trắng ẩn hiện thấp thoáng ở vườn điều (đào lộn hột) sân trước. Tôi là đứa chúa nhát, nhưng lúc đó sao tỉnh bơ chạy theo, thấy người đó lướt đi như bay rồi khuất bóng nơi bụi tre ngà sau tượng Quan Âm. Trăng sáng lạnh. Và thật kỳ lạ, rõ ràng cái bóng nhập vào tượng Phật nhưng không nhập hẳn, mà như một bản in lỗi, nó với tượng nhập vào nhau nhưng vẫn còn lại một đường viền mờ mờ cách nhau vài phân như khi ta nhìn lên mặt trăng trong thời gian nguyệt thực. Ngay lúc đó tiếng chó sủa điên cuồng, xích sắt kéo loảng xoảng. Tôi choàng dậy, nghe cả nhà theo thói quen lớn tiếng mắng mấy con chó cho biết chủ nhà còn thức, run rẩy nhìn ra cửa sổ kịp thấy hai bóng người cao lớn thình thịch chạy băng qua sân và nhảy vút qua hàng rào xa tít ngoài cổng.
Dù có là giấc mơ trùng hợp ngẫu nhiên, tôi vẫn muốn tin rằng Quán Thế Âm đã báo mộng cho chúng tôi kịp thời. Sáng dậy ra sân, những vết chân to bè còn in dấu trên đất nhão chạy dài ra phía cổng.
2. Có một thời bức tranh "Quan Âm quá hải" như một niềm tin mãnh liệt cho những ai nung nấu giấc mộng vượt biển, cùng lúc là nỗi ám ảnh đáng sợ đến nỗi nhắm mắt cũng thấy trước mặt Quán Thế Âm áo trắng tha thướt cỡi trên con rồng mặt mũi hung dữ, nó uốn éo chìm một phần thân dưới mặt nước biển đen kịt đầy sương mù và sóng bủa.
Lúc đó tôi còn trẻ lắm. Như bao người thế hệ đó, cố mà tin tưởng bám víu vào "Phật Bà", một mặt tin tức từ bên kia gởi về nào là trên tàu đói khát ăn thịt lẫn nhau, nào là hải tặc, nào là thủy táng... Có những người ra đi mãi mãi không về như em trai tôi, không một mảnh tin, có lẽ vì cả tàu đã chìm sâu trong cơn bão biển. Em gái chú bác tôi, vì nhường nước uống cho các em nó, nên nó đã không còn kịp nhìn thấy đất liền. Tôi cứ rơi nước mắt khi tưởng tượng ra hình ảnh chú thím Sáu tôi khóc ngất đến chết lịm khi người ta thả xác em xuống biển, vì em cứ dập dờn trôi mãi theo tàu một đoạn dài như không muốn xa lìa cha mẹ anh em...
Gia đình tôi, gia đình chú thím Sáu tôi đều sống tử tế và là những Phật tử thuần thành, đâu thể nói thiếu niềm tin tôn giáo, "Phật Bà" lại là "Quán Thế Âm tầm thinh cứu khổ", vậy những khổ đau mất mát của chúng tôi, của biết bao gia đình, rồi bao nhiêu trăm ngàn sinh linh chết ngoài biển Đông, biết giải thích sao? Chiêm tinh gia Huỳnh Liên, Maître Khánh Sơn hay Trùm tướng số Vũ Tài Lục vang danh một thời đã không thể coi "tướng tập thể" để thấy trước được cảnh "trăm ngàn nhánh khổ" đó sao?
Về già, đọc sách Phật, nghe pháp Phật, mới biết nghiệp lực chi phối định mệnh tới cỡ nào!
"Những vị 'thiện thần' họ thấy thương thì giúp, còn chuyện giúp được hay không còn tùy ở phước nghiệp của bản thân người bị nạn" (Sư Toại Khanh).
Cho nên tin vào Phật, sống tử tế, mọi việc đều tận tâm tận lực, còn lại xin tùy duyên tùy phận, nếu có va vấp hay bất hạnh, tôi tin đó là mình đang trả nghiệp từ kiếp trước. Thật sự có làm được gì khác, nếu không cố gắng tạo cho mình niềm tin này?
Giờ nghĩ lại tức cười, trước kia bao giờ tôi cũng khấn xin Quán Thế Âm vài thứ tùy tâm nguyện từng lứa tuổi: Hồi nhỏ xíu khấn Phật Bà xin cho con học bài mau thuộc, xin cho con chó Fidèle của con đi lạc trở về ; mười tám tuổi xin cho con đi trót lọt may mắn ; trung niên xin cho gia đình con khỏe mạnh bình an ; về già xin đừng cho con đầu thai làm dân nước nhược tiểu... (Nhưng đặc biệt là chưa từng xin thi đậu, vì tôi nghĩ mình chăm chỉ học hành thì thi đậu là điều... khó tránh!). Tôi hiểu pháp Phật thật đơn giản, hiểu biết để tự độ và độ tha chớ không phải chỉ biết khấn cầu, nhưng tôi cả đời yếu đuối và hoang mang trong mê lộ, nên tôi vẫn mãi cầu xin bình an!
Nhớ những ngày lênh đênh trên biển, tôi chỉ còn biết khấn nguyện Quán Thế Âm và không ngừng đọc kinh Cứu Khổ, xin cho "Nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần".
Rồi gãy láp, rồi đói khát... Như một định mệnh, con tàu nhỏ lòng vòng mãi không ra khỏi hải phận. Vậy mà ngày đầu tiên nhìn thấy biển xanh, sóng đập vào mạn thuyền những giọt mằn mặn... Nước biển mặn hay nước mắt tôi vui mừng quá sớm?
Đụn cát Phan Thiết mút mắt, cầu chợ Biên Hòa cao cao, sông Lòng Tàu Rừng Sác hoang dại chằng chịt dây choại, Mũi Ó Sóc Trăng nước lợ tưởng như chỉ cần với tay là tới biển, sóng nước Gành Hào mênh mông không thấy bờ, Cà Mau "muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lềnh như bánh canh", Biển Hồ sóng lô xô với những thiếu phụ người Miên kẽo kẹt võng trên nhà sàn với câu hát ru con buồn On shro lây boon tê, những cánh đồng hoang biên giới Việt Miên khô cằn mùa nắng hạn mênh mông oằn mình dưới mặt trời tháng Tư...
Những nơi đã từng in dấu chân tôi, chắc chắn chúng hãy còn nhớ một cô nhỏ cao nhồng và da trắng nhách đến nỗi phải bôi dầu cho đen, kiếng cận giấu trong túi nên nheo nheo nhìn mọi thứ mờ mờ nhân ảnh, và miệng không ngừng niệm Quán Thế Âm...
Đã từng giận dỗi, đã từng trách cứ con tạo đành hanh... Một ngày hiểu ra chuyện duyên nghiệp, tôi biết ơn Trời Phật đã dun rủi cho mình một đời bình an, dù không được thành danh rỡ ràng như bao người... Bao nhiêu năm mãi ngước nhìn và ngưỡng mộ những cuộc đời thành đạt bên kia đại dương, tôi đã quên mất những mảnh đời phiêu bạt sau khi bị hải tặc bắt đi... Ai biết những cô bé đáng thương đã phải trải qua bao nhiêu đớn đau và nhục nhã nơi đảo hoang hay phố đèn đỏ ở Thái Lan, qua bao nhiêu nhà chứa ở Ma Cao, và rồi bao nhiêu người đã bẽ bàng nằm lại muôn đời nơi đáy nước hắt hiu...
Sự thật vốn tàn nhẫn... Nhưng những thứ mà chúng ta thấy, chưa chắc đã là thế giới thực. Sống tới đoạn đường này, còn rất ngắn, tôi mới ngộ ra được một điều hết sức tầm thường nhưng vì u mê nên không sớm nhận ra, đó là mọi thứ trong đời tôi đã được xếp đặt, dù là một thành công hay một thất bại, một niềm vui hay một nỗi buồn, đều có nguyên do và mục đích riêng của nó.
Cho nên "Muốn nhìn thấy thế giới thực, cần dùng con mắt của trời nhìn trời, dùng con mắt của mây nhìn mây, dùng con mắt của gió nhìn gió, dùng con mắt của cỏ cây hoa lá để nhìn cỏ cây hoa lá, dùng con mắt của đá để nhìn đá, dùng con mắt của biển để nhìn biển, dùng con mắt của động vật để nhìn động vật, và dùng con mắt của người để nhìn người". ("Thiên tài bên phải, kẻ điên bên trái"
Tác giả Cao Minh, Thu Hương dịch).
Đứng ở vị trí tha nhân để nhìn bằng con mắt của người đó, dù cùng tầng mây hay không, còn cần có sự hiểu biết và tỉnh ngộ.
SG, 05/06/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như

Không biết từ hồi nào và do đâu-ờ mà thắc mắc làm chi, đã bảo là mọi sự mọi việc theo mấy ông thầy Tàu đều do... tiền định. Hay nói theo kiểu nhà Phật là do có nhơn duyên. Từ lâu rồi bữa nào cũng vậy, trước khi đi ngủ tui cũng tụng đủ Chú Đại Bi, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, và Chú Dược Sư, như mấy thầy trong chùa đã dạy !!! Hổng biết giấc ngủ có ngon hơn hông mà điều làm như mình in trí là đã làm đúng... thủ tục để dọn đường cho chuyến đi chỉ độc có vé đi mà chẳng có vé về.
Ờ mà nói chuyện kinh kệ thôi sẵn kể luôn vụ thang máy trục trặc hồi trước Tết cho bà con nghe đỡ buồn. Hú hồn tưởng đâu đã lên tủ ngồi !
Vốn là sau Tết tui bị trợt đốt sống lưng, bác sĩ cho tập vật lý trị liệu nhiều ngày liên tiếp để đốt sống giãn ra và trở về chỗ cũ. Phòng trị liệu mãi trên tầng sáu, nên ngày nào tui cũng phải đi thang máy lên.
Một hôm rút số rồi chờ kêu tên dưới tầng một, tui ngồi kế một sư cô trung niên thấp người, phốp pháp vui tánh.
Sư cô ghé mắt coi số thứ tự của tui đang cầm trên tay, nói sư cô kế ngay sau tui. Rồi từ đó sư cô nói suốt. Tui vốn vụng nói và không bặt thiệp, nên toàn dạ dạ miết. Bữa đó khá đông, còn tới 30 người mới tới tui, ý là tui đã thức sớm từ 5g30 sáng để nấu xôi gà cho cả nhà ăn sáng rồi mới vội vã rời nhà lúc 6g30. Trong khi chờ 30 người đó, tôi nghe sư cô khai bệnh, rồi hỏi tui bệnh sao, và xin địa chỉ chỗ bán đai lưng tui đang đeo, sẵn giảng cho tui nghe chuyện giúp đỡ người tu hành mới là phước báu lớn nhứt, rồi rủ tui góp duyên đi làm từ thiện với sư cô, và cuối cùng dặn tui lát đóng tiền xong thì nhớ chờ sư cô có giang thang máy. Sư cô làm tui nhớ tới mẹ chồng tui quá trời, vì mẹ chồng tui lúc sanh thời cũng nói nhiều y vậy, đến nỗi khi tui dẫn bà đi làm răng, ông nha sĩ lịch sự đứng chờ hoài không thấy mẹ chồng tui ngưng nói, ổng đành phải cắt ngang: "Bác phải yên lặng há miệng thì con mới làm cho bác được chớ!".
Nhập đề lỡ hơi dài! Giờ mới vô phần thân bài :
Bao nhiêu năm nay tui tới lui bệnh viện này, thang máy lên xuống và dừng êm ru không chút dằn xóc.
Nhưng hôm đó khi thang máy đang đi lên giữa chừng thì nó đột ngột xóc mạnh rồi dừng hẳn, đèn đóm tắt ngúm. Tui loạng choạng nhưng nhờ thói quen hay đứng tựa thanh tay vịn nên không té nhào, nhưng vì sư cô lúc đó đang hăng nói nên ngã chỏng gọng đè lên tui, cả hai té lăn đùn cục. Tui tuy cao lớn bự con nhưng trọng lượng vẫn thua xa sư cô, nên tui nhoi nhoi hoài không ngồi dậy được, phần tui viêm hai khớp cổ tay, còn thắt lưng vốn đang bị trợt đốt sống đau nhói đứng lên không nổi, tối thui, nên tui cứ mắc kẹt xà quần trong mớ áo vàng bùng nhùng của sư cô...
Rồi cuối cùng tui cũng ráng ngoi dậy được, tuy hết hồn nhưng cũng ráng nhớ lại lý thuyết phải làm gì khi thang máy trục trặc, tui lẩy bẩy mở điện thoại soi tìm nút emergency, nhưng không thấy, chỉ có nút interphone, nhấn thử chẳng xi-nhê, nhưng quả thật đâu cần bấm alert vì trời đất ơi lúc đó tiếng la ré thất thanh của sư cô nó vang dội còn hơn tiếng tàu xúp-lê, tiếng kèn xe chữa lửa hay cứu thương ! Công nhận phổi sư cô khỏe thiệt, chắc lá phổi nó dài xuống tới bàn chân hay sao á ? Giọng kim soprano trong, rền, the thé, vừa la trời vừa Mô Phật, nghe như tiếng chà xát vụn kim loại và thủy tinh với nhau, như tiếng đàn cưa trong phim kinh dị, làm ốc ác tui nổi lên cục cục... Tui ngăn không cho sư cô cung tay dộng đùng đùng vào thang máy. Nghe tôi nói làm vậy thang máy càng dễ rơi xuống hơn, sư cô hết hồn thu tay lại liền, nhưng miệng vẫn la chói lói. Tui đoán bên ngoài có lẽ cũng thất kinh và hỗn độn lắm khi nghe tiếng thét của sư cô. Thang máy có nhiều khe hở nên chắc chắn không đến nổi hết oxy để thở nếu tình trạng này kéo dài, nhưng sức nóng hầm hập từ người sư cô làm tui thấy dần ngột ngạt.
Trong đầu chợt xẹt qua hình ảnh diễn viên Hyun Bin trong bộ phim Nam Hàn "Secret Garden", nhân vật đẹp trai con nhà giàu tánh hợm hĩnh hay khoe áo hàng hiệu, anh chàng có bệnh sợ không gian hẹp, hễ bị kẹt trong thang máy là lên cơn suyễn như sắp tắt thở! Tui lùi xa sư cô, ngồi dựa vào góc thang máy im lặng chờ đợi... Tưởng tượng nó đột nhiên trôi tuột xuống phía dưới...
Tui không sợ chết nhưng... sợ đau ! Ơi chèn rơi tự do trong cái thùng sắt mà khi chạm đất nẩy lửa nó biến thành đống phế liệu méo mó bẹp dúm thì chắc chắn bên trong, tui với sư cô nạc xương lẫn lộn chẳng còn gì ngoài đống bầy nhầy xấu xí, còn gì cho bọn sinh viên nó mổ xẻ học hỏi ! (vì tui có làm đơn hiến xác cho Đại Học Y Dược). Thầy bói, thầy tướng số nào từng khen tui tướng mạo đoan chánh, nhứt kiến khả kính, hậu vận an nhàn, thì nên coi lại tay nghề đi nghen, vì giờ đây tui sắp sửa bất đắc kỳ tử, chết mềm ụi xấu hoắc không nguyên vẹn, chết "bất thiện chung" đây nè !!! Tui vẫn thường cầu nguyện Trời Phật cho tui được ra đi êm đềm như má tui, mệt mệt nằm chút rồi ngủ luôn không dậy... Nói nào ngay, bây giờ cái chết này thật sự cũng không tới quá sớm. Nó tới vừa vặn lúc con trai tui đủ lông đủ cánh rời khỏi tổ, và tui rau răm ở lại nhưng không có đắng cay mà hạnh phúc nhẹ nhàng vì vui niềm vui của con. Trước khi đi nó dặn mẹ giữ gìn sức khỏe ráng chờ con... Nhưng con trai, cái số mẹ không được hưởng thụ tuổi già sung sướng chờ con báo hiếu rồi. Mẹ sắp dúm dó ở lại nơi đây, trong cái thang máy hiện đại này, mà còn quyết tình níu theo hết ráo những bệnh tật hành hạ mẹ lâu nay cho chúng chết hết không còn một mống !!! Thôi thì cầu mong con ở lại khỏe mạnh bình an...
Móc điện thoại ra, mà ngẫm nghĩ hoài thấy cũng chẳng có gì cần dặn lại chồng con. "Mẹ thương con" ư ? Sến bolero quá, con trai thừa biết tui thương nó cỡ nào mà, cả cuộc đời hy sinh cho nó, lẽ nào phải nói ra nó mới biết ? Tiền bạc để chỗ nào ư ? Đời giáo viên thanh bạch, của nả dành dụm có là bao ! Có chút éc gởi ngân hàng thì cũng đã ủy quyền, vợ chồng minh bạch không có gì giấu nhau.
Chợt nhớ tới truyện ngắn "̣ĐI QUA KIẾP NGƯỜI" tui viết nhiều năm về trước, tưởng tượng sau khi chết rồi, linh hồn mình bồng bềnh bay lướt qua thân xác, nhìn lại người thân bè bạn đang khóc thương mình... Sẽ có dịp check lại coi những gì mình viết có gần với sự thật không, rằng bên kia thế giới có linh hồn không, và linh hồn tui chơi vơi lờ lững biết buồn thương chăng, hay thong dong tiêu sái mờ xa dần trong bốn chín ngày đầu tiên xa lìa trần thế...
Chỉ trong vòng không đầy mười phút (chính xác là bảy phút ba mươi giây) mà biết bao nhiêu ý nghĩ đã lướt qua trong đầu ! Khi cửa thang máy vụt mở, ánh đèn chói chang và không khí máy lạnh ùa vào, trong vắt và mát rợi... Sư cô mặt mày đỏ bừng bừng bóng lưỡng mồ hôi rên lên thảm thiết: "Lên máu rồi, lên máu rồi!" khiến cho mấy cô y tá lẹ lẹ ùa vô kè sư cô ra ngoài cho bác sĩ cấp cứu. Tui lần tay vịn trong thang máy đứng lên, cà nhắc ra ngồi ngoài hàng ghế đợi.
Có tiếng người lao xao: "Cô ơi cô có sao không cô?". Tui lắc đầu, cười nhẹ. Lòng mừng vì không phải chết đau đớn. Mà chẳng biết sao thiệt lâu sau đó tâm tình hơi ngơ ngẩn, không buồn cũng không vui...
Suy gẫm hai chữ "vô thường" luôn ở trên cửa miệng mọi người, sao giống ông lão tiều phu khốn khổ trong truyện ngụ ngôn "La Mort et le Bûcheron" của La Fontaine: Khổ quá chỉ muốn chết nhưng khi nhìn thấy thần chết rồi thì chỉ dám nhờ thần đỡ hộ bó củi lên vai !
Il appelle la Mort ; elle vient sans tarder,
Lui demande ce qu’il faut faire.
«C’est, dit-il, afin de m’aider
A recharger ce bois ; tu ne tarderas guère.»
(Hỡi thần Chết thương tình chăng tá,
Đến lôi đi cho đã một đời.
Chết đâu dẫn lại tức thời,
Hỏi già khi nãy kêu vời lão chi?
Lão tiều thấy cơ nguy cuống sợ:
Nhờ tay ngài nhắc đỡ lên vai)
- Nguyễn Văn Vĩnh dịch –
Chấp nhận "vô thường" quả không dễ, cho dù là tăng lữ hay phàm nhân !
Trần Cẩm Quỳnh-Như
______________________
__________________________________
NHÂN LỄ VALENTINE, KỂ CHUYỆN TÔI
Lên mạng tình cờ thấy quà Valentine bây giờ sang trọng và tiểu xảo đến mức chợt thấy đời sống hiện nay dường như có vẻ cao ngất, dư dả và hạnh phúc. Tôi mới lớ ngớ ngồi nhớ lại không biết trong cuộc đời thầm lặng của mình đã từng bao giờ có một lễ Tình Nhân?
Dường như là chưa.
Cho nên nhân Valentine mà tâm sự với bạn chơi, chớ thiệt tình tôi có biết gì về ngày lễ lãng mạn này mà lạm bàn!
Năm tôi mười tám tuổi, gia đình tôi suy sụp tan tác. Mười tám tuổi, tôi đang là con mọt sách cù lần hết mức. Đi học mặc áo dài, ngoài áo ngực còn một áo lót dày mo khiến cho vóc dáng cứng đơ - không phải sợ thầy Phan Thông Hảo chửi te tua, chỉ do tính cù lần, cộng thêm người lớn ở nhà kềm kẹp. Tụi bạn thì gọi tôi "L'horloge de la classe" vì tôi đi học đúng giờ tăm tắp: trống vừa đánh thùng đã thấy tôi ôm cái cặp bự tổ bố xuất hiện ở đầu dãy hành lang! (hồi đó trường PTG mình trống đánh hay chuông reo hả mấy bạn? Tự nhiên quên hà).
Cù lần quá nên không có mảnh tình vắt vai! Giờ nghĩ lại thấy ngoan quá cũng thiệt thòi ghê hen mấy bạn. Trời ơi puppy love dễ thương vậy mà!
Gần mười năm lận đận mới trở lại Sài Gòn dạy kèm kiếm tiền học đại học. ĐH Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn lúc đó còn là ĐH Tổng Hợp cũ kỹ và tăm tối với hàng ngọc lan um tùm ngát hương.
Con gái thời đó hiếm người cao, không như tụi nhỏ bây giờ mét sáu mét bảy là chuyện bình thường. Cho nên một đứa trắng nhách tóc xõa bồng bềnh cao mét sáu tám cộng với đôi giày sáu phân vị chi mét bảy bốn bỗng trở thành "hiện tượng" giữa sân trường.
Ha ha, cà rỡn thôi. "Hiện tượng" đây không phải tôi nghiêng thùng đổ nước gì, mà vì một vết nhơ trong đời học sinh mà mấy Thầy Cô ĐH hễ có dịp là nhắc lại cười hoài: Đó là chuyện con nhỏ sinh viên thường đạt điểm gần tuyệt đối các môn chính, lại rớt lạch bạch hoài môn Chính trị dù khi thi người ta cho giở sách! Báo hại Thầy NH (phân khoa Pháp văn) thấy tội quá phải đi cửa sau, "nói khó" với cô Nga dạy Chính trị, xin cho tôi nửa điểm để ra được cái Cử nhân cà khổ!
Và tôi đã gặp nhà tôi ở đó. Anh tốt nghiệp ĐH Văn khoa trước 75, trở lại học ĐH Anh văn chỉ với ước muốn đi dạy kiếm tiền nuôi cha mẹ già! Còn tôi thì muốn nối lại đường công danh dang dở sau gần mười năm nung nấu một giấc mộng không thành.
Có phải lương duyên hay không thật tình tôi chẳng rõ, nhưng dường như Nguyệt lão đã không se cho tôi hương tình yêu vào sợi xích thằng, mà lại cắc cớ cho tôi nhìn thấy nhà tôi qua hình ảnh người anh ruột đáng thương của tôi, lúc ấy đang sống đòi đoạn vật vờ sau những chấn song! Anh không có chút nào giống anh tôi, trừ chiếc áo mưa màu beige vai đôi y hệt chiếc áo của anh tôi ngày nào, loại áo mưa Đại Hàn viện trợ cho sĩ quan VNCH.
Thời đó giáo viên nghèo trắng mắt! Nghèo quá làm gì có thú vui trưởng giả tặng quà Valentine! Bạn sẽ nói: Uầy, tình nghèo thì quà tặng đơn sơ, như Vinh Sử tặng Nhẫn Cỏ vậy thôi. Vấn đề là trước Bảy Lăm không quá nhiều ngày lễ như bây giờ, kể cả ngày Nhà Giáo, ngày Phụ Nữ và Valentine. Tôi cũng quen rồi, nên ơ thờ không hề quan tâm tới lễ lộc. Tánh tôi vốn giản dị (có lẽ ông Trời đã cố ý trang bị sẵn để chuẩn bị cho tôi lấy chồng nghèo và an phận tới già). Tôi không quan trọng sinh nhật hay kỷ niệm ngày cưới, nên tôi nói với anh, tôi cần cư xử với nhau tử tế ba trăm sáu lăm ngày một năm, chớ không cần chỉ một ngày tặng bông tặng hoa làm gì cho tốn kém. Ông chồng tôi cũng thiệt ngoan. Nghe vậy nên đến mãi về sau, khi cuộc sống đã không còn khắc nghiệt, ở với nhau băm mấy năm trời ảnh chưa từng tặng tôi món quà. Mà nghĩ cũng tội, ảnh dạy học nhiêu đưa tôi đi chợ hết rồi, tiền đâu mua quà!
Người ta hay nói phú quý sinh lễ nghĩa. Tôi còn xa lắm mới với được phú quý, nhưng giờ tôi chừng như đã có thể học đòi làm sang chút ít được rồi nếu muốn, mà khổ, lòng không an nhiên, sống rời rộng chút, hay ăn miếng ngon chút, sao cứ mặc cảm tội lỗi với những người đã khuất???
Bạn khuyên tôi nên quên để sống. Tôi đã và đang cố gắng rất nhiều. Tôi quên được khá nhiều thứ bạn à, nhưng vẫn có những thứ tôi tự dặn lòng đừng bao giờ quên. Để làm gì nhỉ? Để phải nhớ mình là ai. Để lòng mãi hướng về những người thân yêu đã chết trong đói khát bệnh tật. Để chẳng bạc tình với quá khứ toàn những cảnh nước cạn bèo chấm đất...
Người ta dễ kêu gọi buông xả khi trên đường đời họ được nhiều hơn mất.
Người ta dễ hưởng thụ trọn vẹn khi lòng họ thanh thản vì chưa từng bị chà đạp dưới chân như một con trùn.
Nhà tôi nói tôi khổ là do tôi. Đồng ý. Sao tôi không vui vẻ họp bạn hằng năm, đi cà phê cà pháo với mấy đứa bạn già, không mua cho mình dăm bảy cái đầm mặc cho có xúng xính với người ta, không đi du lịch Hàn Quốc, Nhật Bản cho khuây khỏa tuổi già?
Tôi có đứng núi này trông núi nọ chăng khi cứ nghĩ rằng nếu được làm lại, tôi sẽ ở vậy để không tạo thêm một thế hệ giống tôi, bất lực và khắc khoải. Bất lực ngay cả trong mơ, những cơn ác mộng toàn bay la đà và nặng nề sắp rơi xuống mặt biển đen ngòm về đêm, hay bước chân lạc lối hoang mang giữa bọn người đang cười gằn ác độc lấp ló sau những chỗ khuất trong lối đi quanh co tăm tối...
"Bài viết không truyền chút năng lượng tích cực!". Bạn sẽ nói vậy. Đúng. Mỗi người quan niệm về cuộc đời tùy theo thứ mà người đó nhận được từ cuộc đời. Biết sao giờ. Trong một bàn cờ mới, những con người được nhiều hơn mất dễ nhìn thấy mọi thứ đều màu hồng, mọi thứ đều tình nghĩa, mọi thứ đều thần thánh, mọi thứ đều cảm động.
Những thứ tôi đánh mất đâu bao giờ trở lại! Tôi không mất chỉ một cái bóp để có thể đêm ngày chắp tay van vái Phật Trời dun rủi cho người tốt trả lại cho tôi. Những thứ quý giá tôi đánh mất, là mất hút. Mãi mãi. Vĩnh viễn. Rồi để lại cho tôi chi chít thẹo lồi , bên dưới đỏ lói âm ỉ ăn ruồng nhức nhối mỗi khi trở trời...
Xin lỗi bạn. Kỳ ha, lễ Tình nhân lãng mạn đã cho tôi cảm hứng kể lại chút đời mình, sao tôi lại đi tuốt luốt tới chuyện còn mất!!!
Dẫu sao tôi cũng luôn thầm cảm ơn Trời Phật đã cho tôi sống trọn đời bình an trong thầm lặng, trong nỗi cô đơn tuyệt diệu đến không nói thành lời.
Trở lại với anh, đôi chúng tôi đã đi cùng nhau một đoạn đường khá dài, không là tri âm cũng chẳng quá đỗi lạnh lùng. Loan với phụng đôi lúc hòa minh cũng nhiều khi khẩu chiến, vì chúng tôi song song bên nhau như hai thanh ray dài, đâu có cùng một mảnh ghép để có thể lắp thành một bức tranh hoàn hảo.
Cho nên Valentine chưa bao giờ liên quan tới tôi, cũng như vài chục ngày kỷ niệm và lễ hội khác, cùng những thư giãn xa xí, những câu chuyện như pháo nổ lúc trà dư tửu hậu, những yến tiệc sang trọng rôm rả... Chúng thuộc về thế giới khác, lồng lộng ở trên cao, mà hồn tôi oằn nặng dưới này, mãi mãi không bao giờ với tới!
Ai đâu trở lại mùa Xuân trước,
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng...
(Xuân - Chế Lan Viên)
Trở lại làm gì nhỉ? Đã đi đến tận mùa Thu của cuộc đời. Kìa tuyết rơi sắp khỏa trắng hết con đường ngập lá vàng... Mùa Thu, cùng với những chiếc lá chết, những tử tù cũng ra pháp trường để phủ phục trước đoạn đầu đài chuẩn bị lìa đời, chấm dứt bao thiện duyên và nghiệt duyên.
Biết bao duyên khởi để kiếp này được ngồi chung một chuyến đò! Dù vậy tôi vẫn thật lòng mong cho nhà tôi kiếp sau có thể gặp được một người khác bình thường hơn tôi, để cả hai có thể cùng nhau nắm chặt tay rong chơi trong lễ hội, thoải mái sôi nổi bàn luận cùng một đề tài tương hợp, nhứt là cùng một tôn giáo để cả hai có thể nuôi dạy con cái như nguyện và đồng điệu hơn với tôi bây giờ.
Không mong ràng buộc nhau kiếp tới, cũng là một cách nghĩ đến nhau và có tình với nhau!
You ask me where did I fall
I'll say I can't tell you when
But if my spirit is lost
How will I find what is near
Don't question I'm not alone
Somehow I'll find my way home
(I'll find my way home - by Gregorian)
https://www.youtube.com/watch?v=jyfeuRtkqgw...
SG, mùa Valentine 2022
Trần Cẩm Quỳnh-Như

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
(L'adieu- Guillaume Apollinaire)
1. Thu. Lãng mạn và bâng khuâng biết bao trong văn, thơ, nhạc! Nào "Tôi đi học" Thanh Tịnh, "The last Leaf" O'Henry, đến "Nature en deuil" Sybille Rembard, "Chansons d'Automne" Paul Verlaine, "L'adieu" Guillaume Apollinaire, "Sonnet 73" William Shakespeare, "To Autumn" John Keats, "Fall, leaves, fall" Emily Brontë, "Thu tịch lữ hoài" Lý Bạch, "Thu hứng bát thủ" Đỗ Phủ, "Thu giang tống khách" Bạch Cư Dị, rồi "Cây đàn cuối thu" Nguyễn Bính, "Gửi người dưới mộ" Đinh Hùng, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư, "Gió thu" Tản Đà, và "Buồn tàn thu" Văn Cao, "Thu vàng" Cung Tiến, "Giọt mưa thu" Đặng Thế Phong, "Thu quyến rũ" Đoàn Chuẩn, "Mùa thu Paris" Cung Trầm Tưởng - Phạm Duy...
Nhiều đến nỗi đã trở nên bình thường một tâm cảm mùa thu và nghệ sĩ. Và những-con-đường-thu-có-một-tôi-thơ-thẩn luôn là niềm mơ ước cho kiếp sau với trùng trùng lá chết...
Dans le parc aux lointains voilés de brume, sous
Les grands arbres d’où tombe avec un bruit très doux
L’adieu des feuilles d’or parmi la solitude
Sous le ciel pâlissant comme de lassitude
(Dans le parc - Albert Samain)
Rồi tôi được đọc "Thu, vàng mấy đỗi..." của tác giả không xa lạ gì Cao Vị Khanh. Bảo là quen, nhưng dường như lần nào tôi cũng ngạc nhiên như đọc lần đầu văn phong lạ lẫm một tác giả chưa quen. "Thu" vào tay Cao Vị Khanh đã không còn bình thường, nó mang dấu ấn ngọc với dịu vợi ngôn từ. Đến nỗi khi ông xã tôi hỏi bài viết (Thu, vàng mấy đỗi...) nói gì trong đó mà em bảo đọc hoài không chán? Tôi ngẩn người không biết trả lời sao: Ủa, trí nhớ mình già cỗi hết date không nhớ nổi nội dung bài viết vừa mới đọc, hay nó kỳ ảo đến nỗi khi đi lạc vào đó tôi lơ ngơ như kẻ đang đằm đằm trong cỗ máy thời gian muôn hồng ngàn tía, để rồi khi đã bước trở về thực tại, tôi vẫn còn lơ mơ chân thấp chân cao?
2. Cao Vị Khanh đã "lẩm rẩm" những gì mà có thể hấp dẫn người đọc như một thứ Love Lotion Number 9? Trước tiên là choáng váng với cách dùng chữ thần kỳ của ông. Trời đất ơi, văn thì đọc miên man mà thử lọc chữ dùng phát chóng mặt! Ai cũng biết, chỉ bắt đầu từ độ tuổi năm, sáu mươi, não bộ con người đã bắt đầu lão hóa làm rớt rơi từng từ vựng, nhớ mãi không ra tên gọi những thứ hết sức bình thường quanh ta, đành chỉ tay cái này, cái kia. Hội thoại hằng ngày kém sinh động vì cứ ư a đã đành, viết lách càng tệ hại khi nghĩ hoài không ra chữ đúng để diễn tả ý tưởng...
Chuyện đó không hề xảy ra với Cao Vị Khanh! Hãy xem đoạn mở đầu khi "Sương" tràn ngập từ tượng hình đến nỗi trong cái đầu-luôn-cự-tuyệt-những-con-số của tôi chợt bật lên một ý nghĩ cắc cớ: Để mình thử đếm xem Cao Vị Khanh đã sử dụng bao nhiêu chữ diễn tả "Thu", và hết hồn hết vía khi thấy trong một đoạn đầu ngắn xíu chiếm hết hai mươi mốt động từ tả "sương": nấn níu, là là, lả lả, mù mù, váng vất, len lách, lan man, lấp lửng, bay, rơi, tuôn, bốc, tràn, thổi, vắt, luồn, trườn, sà, nghiêng, vói, thấm!!!
Và một đoản văn không dài không ngắn chiếm không nhiều, chỉ tròm trèm... hơn năm mươi tính từ tả "Thu": bâng khuâng, xao xác, lãng đãng, nao nao, bảng lảng, nằng nặng, hiu hiu, ngan ngát, mang mang, băn khoăn, ray rứt, lê thê, lung linh, tiêu sơ, long lanh, lồng lộng, miên man, sẽ sàng, khắc khoải, tan tác, xào xạc, quạnh hiu, xốn xang, thăm thẳm, trìu trĩu, tàn phai, mỏi mòn, vv...Quá kinh khủng cho một cái đầu còn cực kỳ tinh anh ở tuổi ông. Và vô cùng tinh tế.
Sous ces rayons cléments des soleils de septembre
Le ciel est doux, mais pâle, et la terre jaunit.
Dans les forêts la feuille a la couleur de l’ambre ;
L’oiseau ne chante plus sur le bord de son nid.
(Les Soleils de Septembre - Auguste Lacaussad)
3. Tôi có một tật xấu, là khi đọc cuốn sách hay, hoặc xem một phim buồn, tôi cứ ở mãi trong đó không thoát ra được. Cho nên giờ đây, khi mơ ngủ, khi làm việc nhà, thậm chí khi đang dạy học (dĩ nhiên lúc học trò đang làm bài), tôi vẫn mãi mơ mộng về một mùa "Thu, vàng mấy đỗi" ngập lá phong vàng... Có vọng ngoại không khi tôi nói quanh tôi chỉ có xác lá tuôn đổ muôn chiều trong mưa làm những giọt nước mắt hòa với nước mưa đầm đìa ký ức của một dĩ vãng nhiều sinh ly tử biệt, tuyệt không có những chiều thu vàng xao động lòng người, những con đường hun hút đẹp đến nỗi tôi một tâm hồn đã chết từ bao độ chợt trỗi dậy niềm ước ao được tay trong tay với một ai đó chưa có chân dung, thong dong trên xào xạc lớp lớp lá chết mùa này mùa trước; hay được ngồi với tri âm trên băng đá bờ hồ một ngày thu, yên lặng ngắm những con thiên nga sang trọng và đĩnh đạc chớm di thê...
La couleur verte
tremble
entre les mains
de l’automne
La mort maquille
les feuilles
pour leurs noces
avec le givre
(Arrière-saison -Kamal Zerdoum)
"Sương" la đà len lách khắp chốn của Cao Vị Khanh cũng thoắt đưa tôi về đoạn phim bốn mươi năm trước một cô nhỏ tương lai vô định muốn tan trong sương mù một ngày bão bùng ở Đà Lạt, thành phố ngàn thông. Mưa lất phất và gió cắc cớ cứ chực lật ngược cây dù khốn khổ trong màn sương trắng xóa không tỏ mặt người trên con dốc chừng như đi hoài không hết, đến nỗi khiến cho cô cảm thấy mọi thứ dường như đều chống lại mình: Mưa, lạnh, gió, sương... Và định mệnh.
Một đóa dã tường vi đỏ thắm thẹn thò bên rào nhà ai run rẩy khóc, như giọt máu bầm loang lỗ trong làn sương trắng...
Oui, dans ces jours d’automne où la nature expire,
A ses regards voilés, je trouve plus d’attraits,
C’est l’adieu d’un ami, c’est le dernier sourire
Des lèvres que la mort va fermer pour jamais !
(L'automne - Alphonse de Lamartin)
4. Lá tan tác trong gió. Lá long lanh trong nắng. Lá muộn phiền trong mưa... Những chiếc lá của Cao Vị Khanh "xanh mướt, xanh rì, xanh ngát, đốm vàng, ửng hồng, dãi đỏ, hực vàng, lồng lộng, sáng trưng, hực hỡ, vàng lịm, tím thẫm, đỏ quạch, tung hê, tan tác"... Để "ngày vội vã". Để "đêm nơm nớp"... Những nhân cách hóa thâm trầm làm tôi chợt nhớ tới những chiếc lá tội nghiệp của tôi...
"Ở đó mỗi khi nhìn gió xoáy từ đầu dốc cuốn theo bao nhiêu lá vàng, để rồi khi xuống tới dưới triền thì tung lên trên không cơ man nào là xác bướm tơi tả, thì hồn mình như cuốn bay theo với lá, bỏ lại sau lưng những khổ đau chốn hồng trần, những "thiên địa vô nhân", những cảnh đời thất thế..." (Trích "Tôi đi chăn bò - TCQN).
Sao mà tội nghiệp? Vì chúng bị dập vùi cuốn hết xuống phía triền cỏ thoai thoải dưới kia để chôn đời trong một đầm nước quạnh hiu lau lách, ngàn đời trầm tích, ngàn đời lặng câm. Những chiếc lá cũng có một số phận hẳn hoi cách biệt, đời đời ngưỡng vọng những bạn lá thong dong la đà reo vui đáp xuống vai những bức tượng trắng trong khuôn viên Đại học mênh mông bên nửa kia trái đất, những bạn lá êm êm lót chân cho đôi tình nhân trên những con đường Thu hun hút giữa hai hàng cây kỳ bí thăm thẳm...
Une rose trémière restée un peu sauvage
A pleuré ses pétales sur les marbres et les croix.
Dans le vent qui gémit revient l’écho des voix
Des pauvres innocents trépassés avant l’âge.
(Toussaint en Bretagne - Antoine Livic)
5. Góp phần vào nét Thu buồn hoang hoải, là hình ảnh chú hề "cô đơn và lạt lẽo như một pho tượng cũ bỏ quên", một chấm phá sinh động âm thầm trong cảnh Thu. Phía sau lớp "son phấn ngây ngô" và nụ cười ngoác vô hồn, là cả một kiếp nhân sinh! Như một nghệ sĩ nghèo khi màn nhung đã khép, nợ cơm áo và nỗi cô đơn luôn thường trực vây quanh. Đâu rồi kèn trống dặt dìu, đâu những tiếng cười reo khoái trá, đâu rồi cờ xí rợp trời, đâu những tràng vỗ tay vang rền theo nhịp ngựa bước kiệu điệu đàng! Chỉ còn lại một hình người buồn bã, đã buồn như pho tượng, còn cũ kỹ và bị quên lãng, giữa vòng vây các thứ bừa bộn như phế tích chất chồng, "mếu máo", "xộc xệch", nhòe nhoẹt"...Mọi thứ đều buồn thảm, như đất trời lộng lẫy trước khi chớm tàn phai...
Thêm diễm lệ cho nàng Thu muôn vẻ não nùng, là những câu văn kéo dài sự thâm trầm bằng chỉ hai chữ cuối câu:
"Vói tay ngắt chiếc lá, cọ nhẹ vào môi nghe mềm mại, mặt lá ửng hồng túa ra li ti những đường gân nhỏ như ngàn mạch máu vân vi trên má ai ngày xưa, nhan sắc".
"Dứt mưa, nước thấm vào thân cây đen sẩm, tàng lá đã đỏ, ửng đỏ thêm, chòm lá đã vàng, hực vàng thêm, tuyệt tác".
"Rồi tới lúc đỏ con mắt mới thấy được một đốm xanh, lẻ mọn".
"Cái lộng lẫy rồi có phải, chẳng qua … cũng chỉ là tín hiệu của một sự tàn phai, sẽ đến".
"Những tình nhân e thẹn được dịp cũng muốn tung hê ra cho hết, một lần".
"Mang theo hết đi, mang theo hết đi, mùa thu".
Và phải chăng đây chính là những câu thơ được dệt bằng văn xuôi?
"... Thoáng như ráo hoảnh… Có một cái gì bảng lảng đâu đây. Có một cái gì chực hờ muốn nói ... mà môi không hở được ra lời".
"Có điều trời đất đó dưng không ra chiều lãng đãng. Gió mây đó bỗng nằng nặng nỗi niềm. Cũng là cơn gió quen nhưng trưa nay sao thấy hiu hiu. Vẫn là vạt mây đó sao hoàng hôn này lại ngan ngát. Có cái gì đó đang trở dậy, cựa mình, dù đã thúc thủ nằm yên từ lâu lắm trong cái góc khuất nhất của lòng ta".
"Ngọn đuốc cháy lập loè trên khuôn mặt sinh ly. Giọt nước mắt tử biệt khóc ngoài ngàn dặm. Ánh trăng xanh mướt một đêm mười bảy. Ngón tay ngoéo hờ giữa góc phố trăm năm".
"Ngày vẫn lên mà chừng như uể oải. Đêm mỏi mòn mỗi lúc một lê thê hơn".
"Rồi lắm khi những cơn mưa bất chợt, mưa bay nghiêng làm như nước cũng đổi màu".
"Ai đó đã qua đây, rồi có để lại gì không, kể cả một dấu chân đã dẫm lên mấy lần lá úa. Lá sẽ rơi lấp lên tất cả, con đường, bãi cỏ, ngõ phố, công viên, tiếng cười lanh lảnh một mùa hè, giọt nước mắt lẫn vào giọt mưa bất chợt, ngón tay cong như một lời hẹn vu vơ".
"Vàng thu chỉ là ảo ảnh. Và tình thu chỉ là một thứ đoạn trường".
"Để lại chăng, đôi khi chỉ là một chiếc lá vàng mà ai đó ép khô giữa hai trang sách cũ, rồi bỏ quên giữa mối mục thời gian…"
"Làm chi mấy lớp sương thu, để hai con mắt tôi mù hướng em. Tìm đâu thấy, dấu đã chìm? Có chăng trong xác lá lìm lịm khô…"
Ai chà! Trước đây tôi hay gọi Cao Vị Khanh "Nhà văn lan man những diệu kỳ". Giờ tôi muốn đổi thành nick "CVK, phù thủy của ngôn từ".
Nhứt định phải meo cho ổng hay mới được !
SG, 13/10/2020
Trần Cẩm Quỳnh Như
_______________________

Trần Cẩm Quỳnh Như
(Năm nào tới độ này cũng mất ngủ triền miên, tối nằm cứ thơ thẩn nhớ chuyện xưa... Gần năm mươi năm, quá dài cho tương lai một thế hệ, mà lại quá ngắn cho hồi ức một kẻ bất đắc chí...)
-----------------------
Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn.
(Nếu không chú ý, dù xem chẳng thấy, dù lắng chẳng nghe - Kinh Phật)
Sáng Chủ Nhật 29/4. Đạp xe lóc cóc đi chợ. Chưa lễ mà cờ đã bay lác đác phất phới suốt con đường. Vắng vẻ cách lạ lùng. Cảnh kẹt xe chen chúc khói bụi ngập ngụa còi xe inh ỏi thoắt cái biến mất như tan theo sương mù. Thành phố chợt mộc mạc, dễ thương và hiền hòa như "ngày xưa"...
Mấy cụ bà áo dài quạt giấy đi lễ nhà thờ. Lác đác vài người đi chợ sớm. Anh xe Grab khoanh tay ngủ gục dưới hiên nhà ai... Tiếng con chim chích chòe hót vang khỏe khoắn, như thể nó đã quên khuấy cảnh tù đày giam hãm nơi lồng son...
Gió sớm mai mát rượi. Chân vẫn đạp những vòng vô cảm. Lòng mang mang, trơ trơ...
Chợt nhớ hồi đi học có đọc một truyện ngắn đã quên tên, có anh chàng "anh hùng lỡ vận" phải đi làm kiếm sống trong một xưởng máy. A square peg in a round hole. Sau buổi làm việc đầu tiên, hai tay anh đầy mùi dầu nhớt nồng nặc, rửa bao nhiêu lần khi ăn cơm mùi dầu vẫn bốc lên đến lợm giọng. Dầu như thấm vào áo, vào tóc, vào người, và vào cả chén cơm đang cầm trên tay. Vậy rồi nhiều ngày sau, anh chợt khám phá mình không còn nghe thấy mùi dầu tởm lợm từ hai bàn tay và thân thể mình nữa. Như thể anh với dầu đã hòa làm một. Và anh bỗng thấy đau đớn, muốn òa khóc: Anh đã dần quên mình là ai, nên quen dần với cái mùi trước đây vốn xa lạ gớm ghiếc, như hình ảnh quãng đời tăm tối "lên rừng đốt than".
Có những lúc hồi ức quay về làm muộn phiền đến độ tưởng như có thể chết được vì trái tim ứ máu đến héo hắt. Mà lạ, mấy năm gần đây vào thời điểm này tâm tư sao cứ bàng bạc mơ hồ, cõi lòng thành trơ trơ...
Tôi bỗng cũng muốn òa khóc như anh chàng lỡ vận. Thì ra nỗi đau cũng có thể quen dần, đến một ngày ta và nó hòa nhau làm một, ta không còn nhận ra chân tướng nỗi đau. Nó khiến cuộc đời ta điêu linh hay ta làm cho đời ta điêu linh? Cùng hùa với nỗi đau, , ta đã làm chi đời ta?
Trần Cẩm Quỳnh Như
30/4/2018
-------------------------------
MANG MANG
6g sáng – Sáng bảnh rồi vợ chồng con cái còn chưa ra khỏi giường. Lâu lâu cả nhà mới được tận hưởng cái thú nằm nướng, là của hiếm của người thành phố. Không gấp gáp, tôi lọc cọc đạp xe đi chợ.
Con đường vắng cho cảm giác dễ chịu giống như đang ngồi trên cỗ máy thời gian trở lại sáu mươi năm về trước, lúc Sài Gòn còn mộc mạc hiền lành, chưa biết hối hả lòe loẹt như bây giờ. Thật cảm ơn những ngày lễ đã tử tế nhường lại chút thời gian thư thả để thiên hạ kịp hoàn hồn và kịp thở sau những bộn bề lo toan cơm áo dập dồn như sóng xô…
Lác đác cờ hoa phần phật trong gió sớm gợi về những hoài niệm không phai…
Không khí thanh bình như ngày mồng Một Tết. Tưởng chừng như mấy triệu người ngày ngày vẫn ùn ùn trên mọi nẽo đường, hôm nay bỗng nhiên kéo nhau biến mất, đại gia tiểu gia đổ xô về các nơi giải trí, khu resort, hay du lịch nước ngoài, một số dân lao động bươn bả về quê sau thời gian dài bôn ba kiếm sống nơi thành thị, tất cả đều tự nguyện làm mồi cho những cỗ máy chém nhân danh ngày lễ. Số còn lại bị đóng đinh trong cái thành phố oi bức này, vì không thích chỗ náo nhiệt, vì thu nhập thấp, hay vì chẳng còn quê để về… Tôi thuộc về cả ba trường hợp cuối cùng.
Quốc văn giáo khoa thư nói : "Quê hương là nơi đẹp hơn cả". Nhà thơ nói : "Quê hương là chùm khế ngọt". Nhà văn nói : "Quê hương là những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ". Người già nói : "Quê hương là mái nhà tranh mình sống, là mảnh ruộng mình cày, là bờ tre, là ao làng, là mồ mả ông cha, là bà con thân quyến"… Theo định nghĩa cuối cùng, tôi giờ không có quê hương, vì không còn quê để về, căn nhà tuổi thơ giờ người khác sống, ruộng quê cò bay thẳng cánh chỉ còn là kỷ niệm, bờ tre ao làng không còn nữa, mồ mả ông bà nội ngoại đã được mấy cô chú, dì cậu hốt cốt đem đi sang nửa vòng trái đất. Thế là tôi đành phải làm dân thành phố, như một định mệnh. Để sống chung với cát bụi thành đô, với lô cốt, với triều cường, với khói mù, với những âm thanh ồn ào vượt quá ngưỡng cho phép, để rồi thỉnh thoảng lại dừng chân bên đường, ngó chết cây khế nhà ai èo uột lá phủ trắng bụi đường nhưng vẫn gắng gượng cho những trái lơ thơ nhỏ xíu xinh xinh hình ngôi sao xanh biếc…
12g trưa – Mâm cơm mặn bình thường cho mấy cha con. Mâm cơm chay và trái cây dọn ngoài phòng khách cúng những người đã khuất trong ngày này. Thằng nhóc hỏi : “Sao phải cúng chay hả Mẹ?” – “Ừ thì không sát sanh tạo nghiệp mới cho người đã mất”. Nó lại hỏi vặn : “Vậy ghét người nào, mình cứ cúng mặn gà vịt heo bò tá lã, cho người đó gánh nghiệp đứt bóng luôn hen?” – “Ai lại đi cư xử hẹp hòi với người đã chết, cho dù là kẻ thù. Thất đức lắm đó con. Với lại cúng kiếng là thể hiện tấm lòng và sự thương yêu đối với những người đã khuất, và còn để cho tâm mình bình an, còn người ta có “hưởng” được hay không thì ai mà biết. Có ai chết thử rồi về kể lại đâu !” – “Chẹp chẹp, con có chết Mẹ nhớ đừng cúng chay, nhớ cúng cá viên chiên với khô bò, he he”. Cái thằng miệng mồm ăn mắm ăn muối. Ba nó đứng ngoài cuộc, cười hùn. Người Công giáo rất đơn giản trong việc cúng kiếng, vả lại có gì bất đồng ý kiến ổng cũng chẳng dại nói ra làm chi, sợ bị “chụp mũ” kỳ thị tôn giáo.
Ngồi trâm ngâm bên mâm cơm cúng, đầu óc tôi mông lung, lãng đãng. Những hình ảnh đầu Ngô mình Sở gần xa ẩn hiện. Hoài niệm bị đào xới hằng năm, trình tự dần rối rắm theo tuổi tác. Nhưng dường như ký ức tỷ lệ nghịch với thời gian nên nó không phai nhạt dần mà rõ nét như mấy mươi năm vừa mới hôm qua. Thuở ấu thơ tràn ngập tiếng cười, thời thanh xuân lận đận tha phương, tuổi thành niên khổ thân khổ tâm, về già, cuộc sống có thư thả hơn chút ít, nhưng sao cứ tâm viên ý mã, cái đầu không chịu ngủ yên. Dại khờ là kẻ nhớ nhung dĩ vãng, khôn ngoan là người biết đủ với hiện tại, thông thái là kẻ biết chấp nhận tương lai. Biết vậy nhưng sao cứ tự nguyện làm kẻ ngốc nghếch...
5g chiều – Trời về chiều vẫn còn nắng đẹp. Sài Gòn oi nồng cả khi mặt trời sắp lặn. Vậy rồi không một dấu hiệu báo trước, mây kéo cuồn cuộn, mưa đến sầm sập, gió táp ầm ầm như cơn giông xa giận dữ tràn tới, đập tung cửa sổ, luồn vào mái tôn xủng xoảng ghê người. Mười phút sau, mưa tạnh gió yên, nắng hửng lên ngỏn ngoẻn cười trước khi nhanh chóng rút về Tây. Thời tiết Sài gòn là vậy đó, mưa ầm ì liền sau nắng vàng tươi, như một con người đỏng đảnh, lật lọng, diễn rất nhiều vai với hàng tá mặt nạ vui buồn gian giảo. Chậc, con mắt kẻ bi quan thật tệ! Sao không biết mừng vì sau mưa dập gió vùi là nắng đẹp vàng ươm? Chợt nhớ mấy lời khuyên cảm động trong lá thơ người Thầy cũ dạy Văn gởi thăm tôi cách đây nhiều năm : “Ngẫm ngày xưa, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang, cùng một giấc mơ vàng trong vũ trụ (Tản Đà). Em à, mình không phải là kẻ tài hoa, tiết liệt, thì chuyện phù sinh gẫm lại có chi phải bận lòng”. Thầy bảo “đắc nhất nhật, quá nhất nhật”, nhưng sống giản dị thì dễ, mà nghĩ giản dị, Thầy ơi, sao khó quá !
Chiều thật rồi. Nắng nhợt nhạt cao tít trên kia. Dưới này, qua cửa kính pa nô, con hẽm nhỏ bỗng dìu dịu buồn sương khói…
Ở trung tâm SG hôm nay dường như có mấy sân khấu ngoài trời? Buổi tối dường như có bắn pháo bông dưới bến Bạch Đằng? Lạ, sao mọi ý niệm vui chơi giải trí mỗi ngày một lùi xa mờ mịt?
Chậc chậc, mình già thiệt rồi…
Trần Cẩm Quỳnh-Như
5/2012

Nguồn: http://www.caovikhanh.com/pdf/ngay-tet-dong-chat-cua-phong-toi-lai-la-toi.pdf
Tết nữa rồi.
Người không an nên nhìn đâu cũng động, lòng không vui nên nhìn đâu cũng phiền.
Gió sớm mai lành lạnh luồn qua khe cửa, buồn.
Mây mùa Đông lúc tinh mơ bàng bạc những đàn cừu ngơ ngác, buồn.
Vọc tay vào thau nước lạnh ngắt sương đêm, buồn.
Ngắm cội mai nhà ai tích nhựa cho nụ chi chít đầu cành chờ ngày bung vỏ lụa, sao cũng buồn!
Đâu rồi những mùa Tết bình yên?
Tâm trạng giờ đây sao vẫn y như năm nào...
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang! .....
(Xuân - Chế Lan Viên)
Bạn ơi, Tết nữa rồi ! Hồi nhỏ mỏi mắt mong Tết, sao cứ thấy một năm nó dài lê thê. Lúc trộng tuổi rồi, Tết cứ vùn vụt tới rồi vùn vụt qua ... Tôi để ý cứ hễ đầu năm, ăn Tết xong kể như sắp hè tới nơi, rồi quay qua quay lại là tháng chín tựu trường. Học trò vô học được vài tháng là tới Tết Trung thu, rồi Giáng sinh, Tết Tây ập tới, rùng rùng theo sau là Tết Ta với bao nỗi lo toan cho người lớn và cả chục bài tập về nhà thầy cô trong trường giao cho bọn nhỏ.
Chắc có người sẽ cười tôi : Con người gì mà bi quan dữ, chỉ thấy toàn gai trên cành hồng, chớ không thấy trên thân gai là đóa hồng đẹp lung linh ! Ờ, con người tôi kỳ thiệt. Có lẽ mấy mươi lần Tết buồn trong quá khứ đã bám chặt lấy tim tôi ... ...
Những đêm giáp Tết âm thầm chờ một chuyến đi nên ở xa nhà thiệt xa. Nhớ nhà, nhớ Má ... Cứ mỗi chạng vạng tàu về là gia nhập đạo quân mấy chục người làm cá khô ven biển, còm lưng cóp cổ, tay làm cá nhanh thoăn thoắt dưới ánh đèn dầu leo lét nơi bãi cá miệt Gành Hào, Hộ Phòng. Cá mối lớn bằng cườm tay, hình dáng như những con cá sấu nhỏ màu nâu, vun đống ngút ngàn. Cá đuối khổng lồ đường kính cả sải tay, cái đuôi dài như con diều lã lướt, thất thế và thoi thóp nằm dài ngổn ngang trên cát. Và kìa những đôi sam khắn khít từng cặp và hầm hừ như những chiếc xe tăng có đuôi, ánh thép bóng ngời, nặng nề lịch kịch lẻn tìm đường về biển cả và ngơ ngác đến tội nghiệp khi bị người ta chận đường túm quăng nghiêng ngửa lên bờ cao ... Thấp thoáng trải dài theo bờ cát, dăm bảy nồi lớn như thùng phuy nấu tép biển làm tôm khô, lửa đỏ rực bập bùng ... Gió biển lồng lộng, mùi cá biển tanh tưởi xộc vào tận óc, tâm tình hoang mang lo lắng, tay thì cứ kéo mãi cái lai quần che kỹ đôi cổ chân nhỏ xíu trắng trẻo học trò, mắt nhìn xa không rõ vì cận nặng mà lại giấu kỹ cái kiếng cận trong túi áo, nhưng vẫn cố nhìn ra biển xa ì ầm tối đen, như muốn tìm kiếm một con đường trong thăm thẳm vô vọng ...
Những ngày Tết bàn thờ lặng ngắt, không có mai vàng, không có bánh trái, chỉ có làn khói mỏng manh của mấy nén nhang Má tôi mới thắp, cầu xin ơn trên phò hộ cho những đứa con khờ khạo hiền lành đang chênh vênh trong cơn gió bụi. Và tiếng thở dài của Má u uất muộn phiền ... Tiếng khóc của ai như tiếng tôi, tuyệt vọng se thắt như con thú đến bước đường cùng khi đoán biết con đường học vấn bị cắt đứt từ đây...
Những ngày gần Tết ngồi cả tiếng đồng hồ rang cho thiệt khô chảo tàu hũ muối sả và làm gô mắm-ruốc-không-thịt gởi cho anh Hai anh Ba ...
Những ngày Tết không có người lớn, mấy đứa con nít : tôi, thằng em út, đứa cháu gái nhỏ, lon ton dắt díu kéo nhau ra ngồi ngoài bờ ruộng, chia nhau mấy cục thèo lèo nhai lóc cóc, đứa này hỏi đứa kia không biết giờ này Má mình chị mình đang làm gì trong căn nhà mênh mông ở Cần Thơ, có giữ được nhà hay mai mốt lại lôi thôi lếch thếch kéo nhau về đây... Những ngày Tết đi thăm mấy anh tôi qua những cánh đồng lau mút mắt, rồi tới những rẫy khoai mì xanh mướt bạt ngàn, thấp thoáng mảnh áo nâu của đoàn người u buồn cắm cúi nhổ cỏ. Kìa cánh rừng nhỏ bị khai phá loang lổ nham nhở, ở đó một nhóm người còm cõi đang lầm lũi đào đất làm một hồ nhân tạo khổng lồ cho công trình du lịch đầy hứa hẹn, trong khi những người khác è ạch khuân đá xanh từng tảng lớn xây thành hồ. Đôi người nhìn về phía chúng tôi, những đôi mắt buồn u ẩn bám chặt bước chân người đi ... Những ngày Tết lạnh tanh trong rẫy sâu, mấy anh em ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu tù mù, mỗi đứa ăn một chén chè đậu xanh lỏng bỏng nấu với mấy tán đường móng trâu mà tưởng như đang húp yến sào vi cá ! Anh tôi nằm võng tòn ten, hắng giọng rồi ngâm một chiều rừng mưa, ba người anh từ chiến trường Đông Bắc, được tin em gái mất, trước tin em lấy chồng... Giọng ngâm anh sao buồn thê thiết. Hồi anh tôi còn dạy Đoàn Thị Điểm, ngày liên hoan tất niên mấy chị học trò hay yêu cầu anh ngâm thơ rồi cả lớp xúm lại vỗ tay rần rần. Tôi chọc anh, nói tại anh đào hoa nên mấy chị vỗ tay lấy lòng đó thôi. Nhưng những đêm nơi rẫy vắng, giọng ngâm của anh tôi nghe sao ngậm ngùi, sao mà thấm thía một nỗi bất lực, đau đáu một mối cảm hoài ...
Và còn nhiều ngày Tết sau đó, cũng trong rẫy trong rừng, cũng dưới ánh đèn dầu leo lét đỏ quạch, Má tôi và mấy chị em tôi mỗi người ngồi một góc chẳng ai nói câu nào nhưng tôi biết tim ai cũng đang rỉ máu khóc thương cho những người thân yêu đi mãi không về. Khi ấy con chó Ki bỗng ngóng mõm lên trời tru trăng thê thảm. Và con chim ục về khuya kêu lên ghê rợn ngoài bụi tre gai... Tiếng pháo đì đùng rất xa vọng về đâu từ thị trấn. Ở đó có ánh đèn, có Tết. Chúng tôi thì chìm đắm mãi trong tăm tối hiu quạnh, nên lâu rồi đâu biết Tết là gì...
Giờ đây cuộc sống bớt khó khăn rồi, sao nỗi buồn vẫn cứ còn nguyên hoài không thôi đeo đẳng ? Đêm giao thừa, tôi thơ thẩn ra phố, nhìn những người bán hàng ngồi buồn thiu bên hàng hoa còn đầy ắp mãn đình hồng, vạn thọ, cúc vàng đại đóa; những đống quần áo, xắc tay, giày dép bên đường chất chồng cao nghệu vắng người mua; đêm trăn trở lắng tai nghe tiếng bành bạch của những chiếc xe gắn máy thồ hàng qua lại vùn vụt ngoài ngã tư nửa đêm về sáng; và nữa, những đứa bé lang thang, đôi mắt trong vắt trên gương mặt xanh xao thiếu ăn, đôi bàn chân mốc thếch, ngày Tết đêm về vẫn ngủ bụi ngủ bờ; những bà cụ rụt rè đưa ra xấp vé số, đôi mắt đục ngầu mỏi mệt, chiếc lưng còng không gánh nổi thời gian...
Lòng tôi vẫn tự hỏi còn bao nhiêu người không bao giờ biết Tết ? Tôi nhạy cảm quá chăng sao cứ cho rằng Tết không phải dành cho tất cả mọi người? Sao cứ nghĩ rằng những người khốn khó, những kẻ buồn đau sẽ khốn khó hơn sẽ buồn đau hơn nhiều trong những ngày giáp Tết?
Giờ phút giao thừa thiêng liêng một năm mới có một lần, lòng tôi sao cứ trơ ra như gỗ đá, không vui, không buồn, tâm trí lơ lơ lửng lửng như lọt vào một khoảng không mênh mông, một lỗ đen tăm tối. Cứ quay, cứ rơi, cứ chơi vơi, cứ bồng bềnh, cứ lênh đênh, vô cảm ... Cũng chưa bao giờ có ý nghĩ kéo nhau chen chúc đi coi pháo bông đêm giao thừa. Tôi rất sợ đám đông, sợ không khí lễ hội ... Mười hai giờ đúng, tiếng pháo bông vang lên ì ùm xa xa từ bến Bạch Đằng gợi cho tôi nhớ tới những đóm mắt hỏa châu lập lòe trên bầu trời đêm một thời lửa đạn ... Bật tivi xem thiên hạ bu đen như kiến rừng ven sông Sài Gòn, ai cũng ngước mắt nhìn lên, hết ô tới a trầm trồ mỗi khi một hoa pháo nở đẹp trên nền trời. Có năm báo đăng Hà Nội hăm chín điểm bắn pháo bông, Sài Gòn tám điểm, Cần Thơ sáu... Một cái pháo bông giá bao nhiêu nhỉ ? Có ai đó làm giùm tôi bài toán nhân...
Bao nhiêu năm nay, ngày Tết của tôi bao giờ cũng y như ngày thường, có chăng không phải tất tả thu xếp việc nhà, việc dạy, không phải gân cổ giảng bài, không phải vui cười lúc giao tiếp, khi trong lòng không có niềm vui ... Ngày Tết, đóng chặt cửa phòng, tôi lại là tôi...
Trần Cẩm Quỳnh Như
_________________________________

from blog caovikhanh.com:
ODE TO MY FATHER-tcqn.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
(Thu phong từ - Lý Bạch)
(Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp).
Phim mở ra với chú bướm trắng nhỏ xíu chập chờn bay và hai ông cháu nắm tay nhau đi trong một phố chợ sầm uất. Đứa cháu nhỏ hỏi ông nó: "Ký ức là gì hở ông?". Ông nó trả lời: "Đó là những gì ta không thể quên được!". Chợt một người đi ngang vô ý đụng mạnh làm người ông vuột tay đứa cháu gái. Không thể diễn tả sự kinh hãi bất thường trong ánh mắt trợn trừng khiếp sợ của người ông khi rời tay đứa cháu, chỉ xuất hiện một thoáng nhưng nó ánh lên tất cả sự sợ hãi, tuyệt vọng và ray rứt của ông khi ký ức hãi hùng của cái ngày định mệnh hơn sáu mươi năm trước thoắt hiện ra: Ông như sống lại giây phút rợn người năm xưa khi khám phá ra mình đã vuột mất đứa em gái bé bỏng trong dòng thác mười bốn ngàn người di cư của những thường dân Bắc Triều Tiên bằng tàu SS Meredith Victory của sư đoàn 7 đồng minh Mỹ trước đợt tấn công vũ bão của Trung Cộng vào một mùa đông lả tả tuyết rơi trên cảng Hungnam năm 1950.
Không phải ngẫu nhiên mà xuất phẩm "Ode to my father" (Lời Hứa Với Cha) của đạo diễn Yoon Je-kyoon đã làm khuynh đảo phòng vé tại Hàn Quốc năm 2014 với 14.2 triệu vé bán ra, đạt doanh thu lớn thứ hai chỉ sau "The Admiral" (đạo diễn Kim Han-Min) trong thời điểm công chiếu và đứng thứ tư trong lịch sử chiếu bóng Hàn Quốc! (Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Ode_to_My_Father).
Bộ phim với IMDb rating hấp dẫn 7.8, thời lượng hai tiếng sáu phút, trong đó ba sự kiện lớn trong lịch sử Hàn Quốc đã diễn ra trải dài theo cuộc đời của Duk-Soo, một bé trai mười tuổi cho đến sáu mươi năm sau khi đã trở thành một ông già tàn tật với con cháu đủ đầy và thành đạt: Biến cố di tản năm 1950 của thường dân Bắc Triều Tiên theo tàu SS Meredith Victory của quân đội Mỹ; việc xuất khẩu lao động y tá và thợ mỏ sang Đức năm 1960; và chiến tranh Việt Nam mà Nam Hàn là một trong các nước đồng minh tham chiến.
Trở lại với cậu bé Duk Soo đáng thương. Còn gì kinh khiếp cho bằng trong cơn biến loạn mạnh ai nấy cuống cuồng chạy thoát thân, đứa anh trai mười tuổi vừa chở che dắt díu đứa em gái nhỏ vừa cố gắng đuổi kịp cha mẹ mỗi người một nách con gồng gánh chạy phía trước. Rồi khi đã bươn bả leo hết cái thang dây sinh tử để lên được trên boong tàu trong dòng người tranh sống quyết liệt, thì hỡi ơi nó mới khám phá trên bàn tay níu chặt chỉ còn lại mảnh tay áo đứa em bất hạnh, trong chớp mắt đó thằng bé đã thấy được số phận khốc liệt của mình! Đó không chỉ mang ý nghĩa một sự chia cắt ngàn đời giữa hai anh em mà còn kéo theo hệ quả nát lòng là người cha phải leo xuống tàu trở lại tìm con, và đành phải để cho vợ con ra đi trước với lời hẹn sinh tử nếu sống còn sẽ gặp lại nơi cửa hàng Knot Bun của người chị gái đã định cư trước đó ở Busan, Nam Hàn. Và họ đã vĩnh viễn không gặp nhau kể từ ngày ấy!
... Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời…”
(Trường Sa Hành - Tô Thùy Yên)
Truyện phim kéo dài đan xen cuộc đời đầy biến cố, gian truân của thằng bé Duk Soo từ mười tuổi cho đến khi em út con cái đều thành đạt. Duk Soo giờ đây đã trở thành một ông già què quặt lọm cọm - ông bị đạn bắn vào chân ở chiến trường Việt Nam khi ông đang cố gắng cứu một đứa bé lên thuyền, như tự nhủ là đang cứu em gái mình, hay đang cứu chính mình khỏi cơn ác mộng mấy mươi năm - người đã hy sinh trọn cuộc đời hoa mộng của mình nuôi dưỡng mẹ và em, lòng canh cánh lời hứa với cha phút ly biệt: "Duk Soo à, hãy thay Bố làm trụ cột của gia đình, hãy làm chỗ dựa cho Mẹ và các em con!".
Cuộc di dân nào ở bất cứ đâu cũng y hệt nhau với từng đoàn thác người mỏi mệt gồng gánh, với cảnh bươn chạy giẫm đạp lên nhau xô tìm về phía hy vọng. Cảnh ly lạc với tiếng khóc trẻ con gọi mẹ xé lòng, tiếng người thảng thốt gọi nhau, những manh áo, những va li tung tóe; với máu loang, với xác người bầm dập khi bị đám đông ồ ạt giày xéo trên mặt đất; với xác người bồng bềnh thơ thẩn trên mặt sông loang dài nỗi tịch mịch, cố trôi trôi để nhìn theo con tàu đang gấp rút rời đi... Và bom đạn liền kề sau đó, ánh lóe khói lửa đau thương cùng thân phận người ở lại...
Phim dừng lại ở mức happy ending một nửa, khi tác giả kịch bản đã nhân từ bẻ ngoặt cuộc đời đứa em gái Mak Soon bé bỏng của Duk Soo một cách thần kỳ, tưởng chết chìm dưới mạn tàu, tưởng mục đời ở Bắc Triều Tiên, lại may mắn được một người tốt bụng đưa đến một cô nhi viện, rồi được hai vợ chồng người Mỹ nhận nuôi. Để cuối cùng, khoảnh khắc đoàn tụ của những gia đình ly tán do chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên đã được tái hiện vào năm 1983 trên sóng truyền hình Nam Hàn: Mấy mẹ con anh em gặp nhau trong nước mắt, cô gái đã quên mất tiếng mẹ đẻ chỉ biết nói tiếng Anh, vừa khóc vừa trách mãi anh mình "Sao anh lại buông tay em ra!". Và Duk Soo đã trả lời trong nghẹn ngào: "Lúc đó anh còn nhỏ quá, không đủ sức giữ em!". Buổi gặp mặt đã mang đi một nửa sự ray rứt cay đắng trong lòng Duk Soo, vì cuộc hội ngộ mà Duk Soo mong đợi cả đời đã không diễn ra: Người cha mà ông luôn khắc khoải, mong ngóng và thương nhớ, một lần biệt ly là cách xa mãi mãi. Bi kịch của chiến tranh với những thường dân tội nghiệp cứ mãi diễn ra khắp nơi trên mọi thời đại!
Đã vượt qua biết bao khó khăn, gian truân, tủi nhục, thương tật, đau đớn, đến tận lúc hoàng hôn của cuộc đời, Duk Soo đã ôm bức ảnh của cha và bật khóc: "Cha ơi, cuộc sống sao khó khăn đến vậy!". Sự trải lòng, lời tâm sự của một ông già với người cha có lẽ đã khuất, chắc chắn chỉ có những người cùng tâm trạng mới có thể hiểu được vì sao giờ đây không còn tủi nhục vì nghèo khó, con cái đã thành nhân chi mỹ, sao một người già không biết thương lấy thân mình, không an hưởng thành quả lao động cả đời và quên hết đi những ký ức đau buồn để thanh thản thong dong trong chuỗi ngày ngắn ngủi còn lại, họ vẫn cứ sống thật giản dị, ăn mặc thật giản dị, cư xử thật giản dị mà đầy lòng trắc ẩn, và cách nghĩ lại chẳng hề giản dị bao giờ!
Trở lại với câu nói của ông già Duk Soo ở đầu phim: "Ký ức là những gì ta không thể quên". Phải, làm sao có thể quên được những-bất-hạnh-không-thể-cứu-vãn ? Ai cũng kêu gọi buông bỏ, ai cũng khuyên nhủ ta quên. Chính xác trong trường hợp Duk Soo, làm sao ông có thể quên được giây phút rợn người khi khám phá ra ông đã làm rơi em gái mình xuống thăm thẳm dưới kia? Làm sao ông có thể quên được ánh mắt người cha đứt ruột gởi gắm cả gia đình cho đứa con trai mới mười tuổi. Sao ông có thể không cảm thấy gánh nặng đè mãi trên vai, dù không phải cố tình tạo ra ngang trái?
Sao một người có thể vô tư thưởng thức trọn vẹn một món ăn ngon, sao có thể an nhiên hưởng thụ sự an nhàn phong lưu khi nhớ tới người thân mình đã "bất thiện chung": chết vì bị thảm sát, bị hành hạ, đày đọa, chết vì bệnh không có thuốc uống, chết vì đói... ? Sao có thể buông xả tất cả khi nhìn lại một gia đình bị vùi dập, tương lai những trẻ nhỏ thành vô định, và những người già chết mà mắt mở trừng trừng vì không an lòng về cuộc đời những đứa con hiền lành tử tế lại phải chịu quá nhiều long đong thua thiệt?
Một số không ít thường hay nói "Thời đó ai mà chẳng khổ!". Không đâu, có thể bạn "khổ" nhưng bạn không "đau". Và "khổ" cũng có nhiều cung bậc, mà chắc chắn không phải "ai cũng khổ": có rất nhiều người vô cảm - và vô hạnh - đã biết nhanh chóng nắm lấy thời cơ "phất" lên như diều gặp gió trên máu và nước mắt của đồng loại ngay đúng khúc quanh định mệnh đó. Và họ chính là những người cực kỳ nhiệt tình khuyên ta nên quên!
Và rồi mọi thứ đều sẽ nguôi ngoai sao? Không! Duk Soo đã không thể nguôi ngoai khi chẳng bao giờ còn gặp lại cha! Cuộc sống đối với ông là một gánh nặng. "Cha ơi, cuộc sống sao mà khó khăn đến vậy!". Đó không chỉ là những vất vả mà ông phải cắn răng vượt qua vì một lời hứa với cha mà còn là nỗi ám ảnh và ray rứt khi ông ngày một đến gần hơn triền dốc phía bên kia cuộc đời mà người cha vẫn bặt vô âm tín, trong khi chính mắt ông nhìn thấy cảng Hangnam bừng lên tan nát dưới mưa bom của Trung Cộng khi con tàu chở người di cư vừa tách bến rời đi.
Khi Duk Soo quyết định cho bán cửa tiệm mà mấy chục năm nay ông cứ khư khư giữ lấy, đó chính là phút giây buồn thảm nhất của Duk Soo: Tuổi già chồng chất đã khiến ông không còn hy vọng người cha một ngày có thể tìm đến hội ngộ cùng ông!
Mười bốn ngàn người tị nạn trên chiếc tàu Meredith Victory là mười bốn ngàn gia đình bị chia cắt không trông mong có ngày đoàn tụ! Sự chia cắt không chỉ diễn ra cho số người may mắn được an toàn trên tàu, còn bao nhiêu xác người rơi xuống thang dây, đầu đập vào mạn thuyền và chìm sâu nơi đáy nước, còn bao nhiêu thi thể nát bấy dưới bom Tàu... Những bà mẹ già chờ con, đôi mắt khóc nhiều đến nỗi tròng mắt bạc màu. Những người vợ chờ chồng, mắt không còn lệ để khóc... Bao giờ vết cắt chéo vĩ tuyến 38 có thể nối liền trên bán đảo Triều Tiên, lúc đó mọi khổ đau u uất mới có thể nguôi ngoai, những vết thương chiến tranh vì sự chia cắt hai miền Nam Bắc mới thực sự liền da.
Cảm thương cho dân tộc Hàn, ta cũng thật lòng mừng họ vẫn còn may mắn khi Bắc Triều Tiên tôn trọng hiệp ước đình chiến (hay không dám không tôn trọng!). Nam Hàn thật sự bình yên vì “ai ở nhà nấy”, chưa bao giờ xảy ra chuyện bị phá hoại, giết chóc, thủ tiêu... Chính nhờ sự may mắn này, Nam Hàn ngày càng giàu mạnh, cùng với Nhật Bản đã vươn lên trở thành những con rồng thực sự của Á Đông.
Người dân Hàn Quốc từng trải qua nhiều khổ đau, chắc chắn họ vẫn nhớ về chiến tranh để biết tôn trọng từng ly hòa bình, thứ hòa bình chân thực trong đó chính quyền tượng trưng cho công lý và nhân ái, còn dân chúng thì biết vươn tới khát vọng làm một công dân tử tế và trung chánh, biết yêu nước và không hèn nhược!
Một chi tiết rất nhỏ chỉ diễn ra trong vài mươi giây đầu phim ít người để ý là cánh bướm trắng bay nhẩn nha suốt khu phố chợ Busan. Người Á Đông thường tin rằng bướm bay chập chờn quanh quẩn là linh hồn của người đã mất ghé về thăm nhà. Con bướm trắng phải chăng chính là linh hồn của cha Duk Soo đã tìm về nơi hẹn là tiệm tạp hóa Knot Bun để gặp lại vợ con? Cánh bướm phải chăng đang ve vẩy đôi cánh nhỏ ủi an đứa con trai thơ dại đã thay cha làm chỗ dựa cho gia đình?
Chi tiết này làm tôi nhớ đến nhánh lông vũ bay bay ở đầu và cuối phim Forrest Gump (vai chính Tom Hank). Chiếc lông trắng chao nghiêng nhẹ nhàng trong gió như lời chúc một cuộc sống an nhiên tự tại. Cánh bướm của "Ode to my father" phải chăng cũng là một ước nguyện tự do và hạnh phúc thật sự trong hòa bình cho mỗi con người!
Hai hạt sạn lớn một bộ phim không nên có: Nghệ thuật hóa trang đáng nể của Hàn Quốc đã không phát huy hết tác dụng khi hóa trang rất kém cho đôi vợ chồng Duk Soo khi về già. Và chiến tranh Việt Nam xảy ra tại miền Nam lại lồng giọng Bắc đặc sệt!
Dù vậy, hai điểm trừ trên vẫn không thể ảnh hưởng đến độ hot của phim! Xuất phẩm "Ode to my father" thực sự là một thông điệp mang ý nghĩa "nghệ thuật vị nhân sinh", là một trong số ít tác phẩm đầy tính nhân văn thành công vang dội cả về phương diện thương mại.
Sài Gòn, 02/08/2020
Trần Cẩm Quỳnh-Như
__________________________________

CHẬU MAI CON NHÀ NGHÈO
Thưa mấy anh Trần Bang Thạch, Cao Vị Khanh và Lương Thư Trung quý mến,
Cái phong trào nói chuyện đồng áng anh Trần Bang Thạch phát động quả là hấp dẫn. Nhưng em chẳng dại gì mà múa cây rìu giấy qua mắt mấy ông thợ cả đã lên tới chức nghệ nhân! Thôi để em kể mấy anh nghe chuyện chậu mai năm xưa của cặp vợ chồng giáo viên nghèo.
Vầy, mười mấy năm trước tụi em trên răng dưới dép, nói theo kiểu mấy ông bà già xưa là "nghèo có pa-tăng". Em với ảnh dạy đệ nhị cấp, đáng lẽ không đến nỗi nào vì môn sinh ngữ có thể dạy thêm kiếm tiền, nhưng lúc đó Má chồng em nằm một chỗ hơn năm năm trời, nào tiền bác sĩ tới nhà, y tá mỗi ngày thay băng chỗ loét, rồi tã giấy, sữa Ensure truyền ống, và thằng con còn học hai đại học một lượt, em lại ịch đụi bịnh tật suốt! Thuở đó tụi em phải cày cật lực để sinh tồn, nhưng nói ngay cũng nhờ bạn bè thương giúp đỡ nhiều.
Một tối giao thừa buồn (mà mấy chục năm nay có giao thừa nào vui!), hai vợ chồng em tự nhiên nổi hứng rủ nhau đi một vòng ngã tư Phú Nhuận gần nhà coi người ta mần ăn ra sao. Đường thưa thớt lắm, không còn xe cộ kìn kìn vì mạnh ai nấy mau mau về nhà cho kịp cúng Ba mươi. Quần áo may sẵn đổ đống buồn thiu, người bán ngồi ngủ gà ngủ gật. Cờ đỏ sao vàng cả ôm đỏ lòm cắm đầy kệ gỗ. Mãn đình hồng, cúc đại đóa, thược dược hồng, cúc mâm xôi, mấy chậu tắc chi chít trái, ôi thôi rực cả góc đường Phan Đăng Lưu (xưa là Chi Lăng), mà khách thì chỉ lèo tèo đếm đầu ngón tay. Lô mai vàng trước dãy Kim khí điện máy Nguyễn Kim còn thảm hơn, mai nở ráo, vàng rực, lẽ ra lộng lẫy biết mấy, mà vì nở không đúng lúc nên chỉ thấy vẻ thảm sầu trên gương mặt người bán!
Vợ chồng em đứa nào cũng mê mai lắm, nhưng biết thân, đi ngắm ké thôi chớ không tính mua, cũng không ưa thói lợi dụng ngày cuối để trả rẻ. Nhưng người bán đã mau mắn mở lời: "Anh chị mua giúp em, em bán nửa giá thôi. Đừng trả nữa tội nghiệp!". Anh chàng bán mai mặt mũi sáng sủa, áo sơ mi bỏ trong, giày xăng đan, giọng nhã nhặn dễ thương. Em chợt cám cảnh, tự đoán có lẽ cũng anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than chi đây, nên em thấy thương, bấm bụng mua đại.
Nhà tụi em nhỏ lắm, nên cái cầu thang lên gác vừa cao nghệu, vừa dốc lại hẹp. Hai vợ chồng em è ạch khiêng được chậu mai nặng tám tấn lên gác để vần ra cái lan can tí nị, trời ơi em mệt muốn tắt thở, xương sống muốn gãy cúp, nhìn lại ảnh cũng đang thở hào hển, còn gương mặt ảnh, xin lỗi mấy anh, đáng lẽ không nên dùng cái expression kém thanh tao này cho ông chồng dễ thương của em, nhưng đúng thiệt là xanh chành như đít nhái!
Khỏi nói mấy anh cũng biết hai đứa em cưng chậu mai tới cỡ nào! Cây cao chưa tới một mét, chập chùng theo thế Thiên-Địa-Nhân. Hoa đã nở nhiều, nhưng vẫn còn một ít búp, mỗi bông tám cánh thôi nhưng cánh tròn trịa hữu lực, màu sắc tươi sáng. Còn nụ thì đúng là loại "búp trâu"! Nói thiệt xưa nay em không cần ngắm mai nở, mà chỉ cần nhìn cội mai lún phún búp xanh mơn mởn là trong lòng đã cảm thấy xao động lắm rồi! Nhớ xưa một ông Tự Lực Văn Đoàn nào đó em quên tên rồi, tả lại cảm giác "dịu dàng như một cánh bướm non" của người cha trẻ khi ngắm đứa con sơ sinh, thì vợ chồng tụi em cũng cảm thấy y vậy khi mỗi ngày lên gác, ra cái lan can rộng bảy tấc ngắm cây mai sang trọng lạc loài trên căn gác nghèo!
Rồi đến sáng mồng Một, khi hai đứa lo cho Má chồng em truyền sữa rồi vệ sinh các thứ xong xuôi, mới chạy lên ngắm cây mai xíu cho đỡ mệt, thì trời đất ơi, hổng biết sao bông, nụ, rụng ráo trọi trơn! Giống như khuya qua có một kẻ tai ác lấy roi quất cho tan tác rụng rời. Em đứng như trời trồng. Giận thằng bán bông thì ít (vì tiền nào của ấy), mà thương cái cây thì nhiều!
Hai đứa em không tin dị đoan, nhưng ngay ngày đầu năm cây mai cưng của mình nó thê thảm rũ rượi như bị quánh ghen, thiệt quá đau lòng! Rồi em kể ông xã em nghe chuyện thằng bạn Tàu lối xóm thời để chỏm, "pà pá" với "mà má" nó mua một cây mai trĩu nụ mà ngay mồng Một Tết nó rụng trụi lủi, năm đó Tết Mậu Thân nhà nó trong khu Văn Hóa cháy rụi. Ông xã em gạt ngang nói bao nhiêu người chết thảm năm đó, chẳng lẽ do nhà họ mai rụng hết sao!
Ờ thì sẵn kể ổng nghe chơi, tại cái tật em hay nhớ bắt quàng, chớ em đâu có tin vô ba cái vụ coi tướng tập thể! Nhớ ông Vũ Tài Lục năm xưa trong cuốn "Tướng mệnh khảo luận", ổng bàn xa xôi, nói thấy giới trẻ VN mặt mày sáng láng, khí sắc tươi nhuận, chắc tương lai rạng rỡ, nước nhà bình yên. Ai có ngờ ổng hố quá mạng! Sau này không biết có ai cắc cớ hỏi ổng phải chăng sáng láng, rạng rỡ và bình yên với cả nửa triệu nhân mạng dật dờ nơi đáy nước? Và còn nữa, những Tiêu Phong không có đất dung thân, sống cúi đầu bơ vơ giữa Trung Nguyên và Khiết Đan, liệu họ có bình yên thanh thản?
Xin lỗi mấy anh, em lạc đề dữ rồi!
Trở lại với chậu mai đáng thương của tụi em, em chờ qua Tết nhà sách mở cửa, đi mua một cuốn kỹ thuật chăm sóc mai. Nhưng em không mát tay nên nó sống lay lắt (như người chủ mới) được vài năm, mỗi Tết cho em được dăm ba cánh èo ọt... Từ một nàng mai tám cánh yêu kiều và cao ngạo, nó trở thành đóa mai rừng chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay, năm cánh rời rạc mỏng manh ươn yếu, viền cánh run run nhăn nhúm buồn.
Rồi một ngày nó đi!
Thôi, chỉ là một cây mai thôi mà, cớ sao cứ buồn mang mang! Trong đời mình đã từng chứng kiến bao lần ra đi âm thầm và oan khiên của những người thân, thì sá gì một cây mai! Thôi cứ nghĩ họ đi tức họ về. Cho lòng đỡ đau!
Cái cây mai - mà suốt mấy chục năm sau 75 em chưa từng được chạm tới một cánh hoa tươi, chỉ còn sót lại những ký ức đẹp đẽ về một thuở vàng son với những ngày Tết xum họp xa xưa, có cội mai vàng kiêu kỳ nghiêng mình dáng thác đổ trên chiếc lục bình cổ men xanh man mác - tới lúc ấy mới mua được...
Cái cây mai mà mỗi chiều tưới nước em đều thủ thỉ nói chuyện với nó. Lan can hẹp quá muốn lách qua nó để tưới luôn mấy chậu vạn niên thanh và sử quân tử, phải thu người nhẹ nhàng kẻo đụng gãy đọt nó, mình lại mất công suýt xoa: "Xin lỗi em Mai"!
Nó ra đi rồi!
Nhĩ kim tử khứ nùng thu táng
Vị bốc nùng thân hà nhật vong
Nùng kim táng hoa nhân tiếu si
Tha niên táng nùng tri thị thuỳ?
(Giờ hoa rụng có ta chôn cất, Chôn thân ta chưa biết bao giờ. Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, Sau này ta chết, ai là người chôn?)
(Hồng Lâu Mộng)
Thầy Lê Văn Quới trường Phan Thanh Giản và Thầy Hà Văn Bửu ĐH Tổng Hợp hay chọc em Lâm Đại Ngọc khóc thương cánh hoa tàn. Thật sự nếu em là Lâm Đại Ngọc chắc đã chết rũ đâu đó lâu rồi từ độ tang thương ấy... Nhưng trơ trọi lắm, một giao thừa không người thân bên mình... Có lẽ em đã chết một phần mà không hay...
Giờ thì tụi em đã "thoát nghèo". Không giàu có, nhưng đủ sống. Mẹ chồng em mất nhiều năm rồi. Hai vợ chồng em còn khoèo khoèo dạy học được lai rai. Thằng con đã ra đi làm, lương khá. Thuở đó em không chết, có lẽ bây giờ bất tử! Những người thân chết oan khuất chắc cũng phò hộ em nhiều, để em được sống những ngày còn lại thanh thản bình an.
Thưa mấy anh, đọc lại thấy "bài luận" này của em sao quá nhiều chỗ trớt quớt. Chắc mấy cây cổ thụ đang vừa đọc vừa chúm chím cười. Thôi kệ đi, biết sao giờ, từ lâu "viết trớt he" nó đã thành cái marque déposée của QN mất tiêu rồi, mấy anh hỉ xả hen!
Em chào mấy anh. Chúc mấy anh và gia đình luôn mạnh khỏe bình an.
Em Quỳnh-Như
SG, 12/12/20
TCQN
________________________

CÔ ĐƠN
- “Without great solitude, no serious work is possible.” (Picasso)
(Nếu không có sự cô độc lớn lao, không một tác phẩm tử tế nào được sinh ra)
- "Người không chịu nổi sự cô đơn sẽ chọn cách giao tiếp, còn người không chịu nổi sự hoạt ngôn sẽ chọn cách làm quen với cô đơn"
(?)
1. Con cá buồm hồng cô đơn của tôi
Tôi không hay suy nghĩ về sự cô đơn, vì nó không là vấn đề đối với tôi. Đối với một công việc, nếu xem nó nặng nhọc như một khổ dịch thì mình cứ nghĩ tới nó mãi vì muốn trăm phương ngàn kế thoát ra khỏi nó, nhưng nếu công việc đó là một sự hứng thú mình đang thưởng ngoạn thì ta cứ việc vui vẻ trầm mình trong nó, cần gì suy gẫm hoài về nó làm chi!
Rồi tôi nhiều lần đi thăm các Thầy học cũ, lần nào trở về cũng thơ thẩn mấy ngày. Tôi cứ ngẫm nghĩ trầm mặc mãi trong cõi cô đơn của mấy Thầy, thứ cô đơn có thể gặm nhấm từ từ rồi giết chết cả tinh thần lẫn thể xác một ai đó, thứ cô đơn mà ngược lại có thể cho tôi một không gian riêng tư và sự thoải mái không có chi sánh được.
Trước khi nói tới nói tới cảnh cô đơn của con người, tôi muốn kể bạn nghe chuyện con cá buồm hồng cô đơn của tôi.
Vào đợt hai Covid 19 giữa năm nay, thằng bạn của con trai tôi, một kiến trúc sư hay mày mò làm ra các món đồ khéo léo và hữu ích dùng trong nhà, sẵn làm cho nhà nó một cây đèn khử khuẩn chiếu tia UV Ozone, nó làm luôn cho nhà tôi một cây. Nguyên tắc sử dụng đèn khử khuẩn là trong khi chiếu đèn, trong phòng tuyệt nhiên không được có người vì tia cực tím rất có hại cho da và mắt, nhứt là cây đèn bóng mét hai này hiệu quả khử khuẩn rất mạnh nên thải khí Ozone mùi nồng nặc.
Nhưng kẹt cái hồ cá "đa quốc gia" với mấy chục sinh mạng gồm hai con chép đuôi dài vàng rực và lũ hồng kim, buồm hồng, buồm xanh và bảy màu, hồ lại vừa nặng vừa cồng kềnh biết chuyển đi đâu. Nhà chật lắm lẽ ra không nên bon chen, nhưng cái hồ cá này thật sự cứu vãn bầu không khí khô cứng của hàng hàng kệ sách cũ kỹ ảm đạm trong phòng dạy học. (Phải mở thêm cái ngoặc ở đây về mấy con cá, sở dĩ lâu nay chúng được khỏe mạnh phởn phơ uốn lượn khoe sắc, đó là nhờ ơn sư phụ Duc Nguyen đã tận tình "dạy hàm thụ" một khóa chăm sóc cá kiểng trong mùa mưa bão). Mà nhà chật như nêm vô phương đâu còn nơi để dời hồ cá, thôi đành lấy vải dày che lại mỗi khi chiếu đèn khử khuẩn, cứ nghĩ chắc hổng sao...
Thế rồi các liệt sĩ từ từ ra đi, trong vòng một tháng hy sinh hết mười bảy mạng vừa lớn vừa trung vừa tí nị. Còn lại năm em buồm hồng và một cụ tỳ bà (cá lau kiếng) trường chinh tử thủ. Tôi bắt đầu đem cho bớt học trò mấy bọc lăng quăng khô Thái Lan mua để dành, vì mấy trự còn lại tuy sống sót nhưng không còn tung tăng vui vẻ như trước nữa mà bơ phờ e dè núp sau đám rong và bắt đầu ăn ít như giữ eo! Rồi cứ cách ba bốn bữa lại làm lễ truy điệu cho một vị, cho tới nay còn lại duy nhứt một anh hùng bất khuất. Nó là con buồm hồng nhỏ nhứt bầy, hay bị bắt nạt nhứt, do vậy cũng nhút nhát nhứt.
Bàn viết của tôi kế bên hồ cá, nên thỉnh thoảng tôi hay buông viết quan sát cuộc sống đơn độc của kẻ sống sót. Giống buồm hồng vốn có cách hành xử rất lạ. Khi được cho ăn, chúng không vui vẻ xúm xít tụ lại ăn mồi như các giống cá khác. Chúng luôn tỉnh bơ khoan thai ở tầng nước thấp vờ như khinh khỉnh xem thường lũ tham ăn phàm phu tục tử trên kia đang lanh chanh tranh mồi xao động mặt nước. Rồi chợt vụt như mũi tên, chúng bắn vọt lên ngoạm một chấm mồi, đôi khi làm mấy con bảy màu thân phận nhược tiểu nhát hít nhảy tửng lên vì giật mình, rồi xẹt bắn mình xuống phía dưới tỉnh rụi như chưa từng có chuyện gì xảy ra, cứ thế cho tới khi no bụng. Giống y như những gã đạo đức giả lúc nào cũng khệnh khạng ra vẻ ta đây trong sạch mà âm thầm há mõm chấm mút trong chớp mắt, mà gương mặt lúc nào cũng nghiêm chỉnh cao đạo, miệng hô hào trong sạch, cao thượng và nhân ái!
Con buồm hồng còn lại trong hồ một mình một cõi thênh thang. Nó hay thong dong tha thẩn trong đám rong tím rong xanh hoặc núp mình thư giãn sau cái máy lọc nước, thỉnh thoảng lại thả người lơ mơ trong đám bọt không khí máy lọc vừa mới phun, để dòng nước cuốn nó lộn mèo đưa cái bụng trắng lấp lánh làm tôi hết hồn tưởng nó đã chết, rồi láu lỉnh xẹt nhanh lên đớp miếng mồi và như chớp lao xuống ẩn mình gọn hơ trong đám rong. Sinh vật cang cường độc nhứt sống sót sau thảm họa tia UV mà tôi là thủ phạm đáng trách vì không có chỗ dời hồ cá! Nó giờ giống y như anh chàng Will Smith trong phim "I'm Legend", đơn độc sinh tồn trong thành phố hoang tàn sau thảm họa Zombies. Nhưng nó sung sướng hơn Will Smith nhiều, vì nơi ở của nó đâu có hoang tàn, thậm chí còn trong sạch hơn; và nó được nuôi ăn, không phải xách súng đi săn giữa bao nhiêu kẻ thù ghê gớm. Nói theo kiểu nhà văn Hoàng Hải Thủy, nó được an toàn 500%! Một gã/cô nàng hạnh phúc!
Quan sát nó mãi, nhiều lúc tôi tự hỏi: Không có kẻ thù, nhưng không có bạn - bạn tâm giao, bạn tình, bạn đời - liệu nó có hạnh phúc??? Phải chăng ta vẫn có thể hạnh phúc trong cô đơn???
Depuis, elle me fait des nuits blanches.
Elle s'est pendue à mon cou,
Elle s'est enroulée à mes hanches
Elle se couche à mes genoux.
Partout, elle me fait escorte
Et elle me suit, pas à pas.
Elle m'attend devant ma porte.
Elle est revenue, elle est là,
La solitude, la solitude..
(Chanson - La Solitude)
2. Những cách nhìn "cô đơn"
"There is a big difference between solitude and loneliness. Loneliness is a negative state, marked by a sense of isolation. One feels that something is missing. ... Solitude is the state of being alone without being lonely (Dean Griffiths).
(Có sự khác biệt rõ ràng giữa "cô độc" và "cô đơn". "Cô đơn" là một tình trạng tiêu cực, hàm nghĩa bị cô lập. Thứ cảm giác có gì đó mất mác... "Cô độc" là tình trạng chỉ có một mình nhưng không cảm thấy cô đơn).
Ở đây xin nói trước tôi không tung hô cô đơn và dìm đi giá trị và sức mạnh của việc cộng tác hữu hiệu và sống hòa hợp với cộng đồng. Tôi chỉ muốn suy gẫm về sự cô đơn ở cả hai phương diện khách quan và chủ quan, nói khác đi tôi không định phân biệt hay chỉ trích sự "cô đơn không tự nguyện" (một người luôn thấy bơ vơ phiền não khi cảm thấy mình luôn bị cô lập giữa trùng trùng cách biệt với tha nhân), hay "cô đơn tự nguyện" (những người luôn cảm thấy dễ chịu khi ở một mình vì thích sự riêng tư và tĩnh lặng).
Dù tự nguyện hay không thì, theo nghiên cứu khoa học, người sống một mình, không giao tiếp xã hội thường xuyên hay có ít mối quan hệ cộng đồng, luôn có nguy cơ tử vong cao hơn 26% so với những người hoạt bát thích giao tiếp và tương tác xã hội thường xuyên (nhưng đây lại là một vấn đề khác: biết đâu có người quan trọng "chất" hơn "lượng", chỉ cần sống khỏe chớ không cần sống lâu!), thậm chí còn có thể đi tìm cái chết mặc dù đôi khi cuộc sống vẫn rực ánh hào quang: Ngôi sao màn bạc Marilyn Monroe, nhà văn Ernest Hemingway, họa sĩ Van Gogh, danh hài Robin Williams, Jiah Khan nữ diễn viên Ấn Độ, Kurt Cobain nghệ sĩ Mỹ, ca sĩ Thụy Điển Avicii...
Và thật đáng ngạc nhiên và tức cười, thống kê cho thấy hơn 60% số người cô đơn là những người đã kết hôn!
Pour avoir si souvent dormi
Avec ma solitude
Je m'en suis faite presque une amie
Une douce habitude
Elle ne me quitte pas d'un pas
Fidèle comme une ombre
Elle m'a suivi çà et là
Aux quatres coins du monde
Non, je ne suis jamais seul
Avec ma solitude.
(La solitude - Georges Moustaki)
Tôi có cô bạn ở Canada, một phụ nữ giàu có xinh đẹp và đầy lòng trắc ẩn, thường dành ra vài ngày trong tuần để làm việc thiện nguyện trong một Nursing home. Bạn nói đôi khi những ông bà cụ già dúi tiền vào tay mình để xin mình ở lại thêm một chút chuyện trò với họ. Dĩ nhiên bạn tôi luôn sẵn lòng ngồi lại mà không cần điều kiện gì để mang lại chút hơi ấm cảm thông cho những cõi lòng lạnh lẽo vì xa cách người thân. Bạn tôi nói Covid19 đã lấy đi cả trăm người già nơi đó, và rồi những mái đầu bạc ngày càng trắng xóa, những ánh mắt xa xăm lại càng xa xăm hơn khi tình trạng dịch bệnh lan rộng nên càng hạn chế thân nhân thăm viếng.
Càng giàu có, càng cô đơn! Bà lối xóm của tôi, đảng viên 50 năm, góa chồng, không con, cuộc sống sung túc thoải mái. Bà tốt bụng, rộng rãi, và rất sợ cô đơn, nên nghiễm nhiên căn nhà bà như cơ quan Việt tấn xã, là nơi tụ tập các bà tám, chuyên thu và phát tất cả những thông tin nóng hổi trong xóm. Bà không biết xài máy tính, điện thoại thì chỉ nghe gọi, ghét chó mèo, không thích cây kiểng, cũng chẳng mặn mòi gì với chuyện du lịch đó đây, sách báo thì chỉ đọc duy nhứt tờ Sài Gòn Giải Phóng của Phường phát tặng. Thương cho người quá ít thú vui riêng!
Ban ngày căn nhà bà luôn rôm rả tiếng cười nói của mấy bà lối xóm khi hết việc nhà rảnh rỗi tạt ngang góp chuyện. Nhưng khi đêm về... đó là lúc nỗi cô đơn phồng lên choán hết diện tích căn nhà, làm nặng trĩu trái tim èo ọt hay làm reo, hành hạ mấy cái khớp sưng vù vì không chịu nổi sức nặng toàn thân, kéo huyết áp lên chót vót, kèm theo triệu chứng rối loạn tiền đình trường kỳ khiến đầu nhức như búa bổ, và căn bệnh tiểu đường khiến bà phải nửa đêm bò dậy tự chích insuline... Cô đơn bệnh tật hành hạ kèm nỗi chán nản người thân xâu xé lợi dụng, bà cứ lăm le tự tử hoài...Một cuộc sống dư ăn dư mặc không cần lo cơm áo, không có trách nhiệm hay bổn phận gì với ai, hoàn toàn độc-lập-tự-do sao cũng không hạnh-phúc???
There you are
In a darkened room
And you're all alone
Looking out the window
Your heart is cold and lost the will to love
Like a broken arrow
(Ricky Martin - Nobody Wants to Be Lonely)
Nói chuyện cô đơn của người già, tôi lại nhớ tới người Thầy cũ trong lần thăm viếng vừa rồi, Thầy cứ cầm tay tôi trong hai bàn tay Thầy và lặp đi lặp lại câu nói: "Gặp em Thầy mừng lắm... Nói chuyện với em Thầy vui lắm...". Thầy còn dặn tôi thỉnh thoảng gọi cho Thầy, và nếu có thể, thu xếp đi thăm Thầy đôi tháng một lần!
Tôi hay tự hỏi không biết khi tôi đi tới cuối con đường, tôi có thể có cái nhu cầu bức thiết đó không, cái nhu cầu muốn có bên mình một người để cùng nhắc lại những kỷ niệm vàng son của một thời trai trẻ, để ủi an cho tạm quên đi những bệnh tật hành hạ khổ ải xác thân? (Với tính cách của tôi, tôi không chắc chắn lắm đâu!)
Tôi còn có một người Thầy khác, cũng cô độc lắm trong tuổi xế chiều. Thầy sống nội tâm nên thường cố cam chịu và chấp nhận cô đơn như lẽ tự nhiên của con người ở những ngày còn lại. Những mail Thầy gởi cho tôi luôn ẩn hiện sự chấp nhận lặng lẽ đó, và thấp thoáng những ý tưởng Phật pháp thông tuệ và sâu sắc, đi kèm với những ca từ đầy tính triết lý của Trịnh Công Sơn.
Hiển nhiên tôi nhìn thấy những thái độ đối với cô đơn hoàn toàn khác biệt, dù người nào cũng buồn bã quạnh hiu trong tuổi xế chiều.
Lonely, I'm Mr. Lonely
I have nobody for my own
Now I am so lonely, I'm Mr. Lonely
Wish I had someone to call on the phoneNow I'm a soldier, a lonely soldier
Away from home through no wish of my own
That's why I'm lonely, I'm Mr. Lonely
I wish that I could go back homeLetters, never a letter
I get no letters in the mail
I've been forgotten, yes, forgotten
Oh, how I wonder, how…(Mr. Lonely- Bobby Vinton)
https://www.youtube.com/watch?v=_zSecRAFM14
3. Tôi nhìn tôi "cô đơn"
Bạn ngạc nhiên không, vì trên đời này còn có một sở thích, đó là thích cô đơn!
Cô đơn cũng có mặt tích cực đối với một người thích được trầm mình trong bóng tối - bóng tối của đêm đen thật sự và bóng râm bên lề cuộc đời, nghĩa là không thích lộ diện ra ngoài xã hội. Thứ cô đơn không làm ta sợ hãi chán chường, mà là một môi trường luôn được mong đợi trong cõi yên bình cho minh triết và sáng tạo - một sự xa xỉ hiếm có gần như một phép màu nếu bạn sống giữa một thành phố đang bị nạn nhân mãn đe dọa, với tiếng ồn trăm kiểu vây quanh.
Hiếu kỳ, tôi đi tìm tôi trong những key words "thích cô đơn", và kinh ngạc khi thấy con người mình có tất cả những dấu hiệu không đáng khuyến khích: sợ đám đông và lọt thỏm giữa những cuộc vui, luôn muốn tách ra khỏi thế giới bên ngoài, giữ khoảng cách để cảm thấy thoải mái, cả về thể chất lẫn tinh thần, thích làm mọi thứ một mình, sống một mình nhưng không hề cảm thấy nhàm chán, trân quý mọi cơ hội được ở một mình, không cảm thấy thôi thúc phải liên tục giữ liên lạc với người khác trong thời gian dài, luôn thức rất khuya để xem một bộ phim hay trong đó có những cuộc tình trong sáng và cao thượng, hoặc đôi khi đơn giản là chỉ muốn hòa mình vào bóng tối, cứ nghe đi nghe lại mãi một bản nhạc, thích đi du lịch một mình, thích hưởng thụ những cuối tuần thoải mái không ràng buộc, ngại kết bạn và gặp gỡ người mới... Ôi chao!
Đôi khi tôi hay tự hỏi, chẳng biết mình có kỳ dị lắm không, trong khi bạn bè tôi dô dô vui vẻ ở những quán ăn sang trọng và tinh tế, tôi lại tha thiết muốn hưởng một buổi tối yên tĩnh ở nhà, mặc một bộ đồ ngủ thoải mái và xem bộ phim thú vị. Nó mang lại cho tôi niềm vui lớn hơn nhiều so với việc bỏ thời gian đi shopping hoặc làm đẹp, nên tôi luôn tận dụng thời gian ít ỏi còn lại để làm những gì mình thích và tận hưởng nó như một đặc ân lúc cuối đời. Cô đơn không làm khó được tôi vì tôi sống khép kín chớ không-thể-không-hòa-nhập. Và tôi nghĩ có thể tự tin về bản thân là một trong những tính cách đầu tiên của một người yêu thích cô đơn ở mức độ chấp nhận được không đi tới chỗ cực đoan.
Thật ra cũng thú vị lắm khi thỉnh thoảng được ra ngoài gặp vài đứa bạn thân để tán gẫu. Lúc đó ta đâu còn là những người lớn chững chạc nữa, mà trở thành những đứa trẻ sống lâu, tha hồ nhí nhố một trăm lẻ một chuyện trên trời dưới đất, và cảm thấy hạnh phúc khi vẫn còn được gặp hay liên lạc với những đứa bạn dễ thương, những người bạn của năm mươi năm về trước! Chia sẻ những trải nghiệm, cho hay nhận lời khuyên, tâm sự những điều u ẩn không thể nói với ngay chính những người thân của mình, những điều đó chúng ta chỉ có thể kể lể với đôi người bạn thân, do vậy ta cần "bạn" và không thích "bè". Quý hồ tinh bất quý hồ đa, bạn ít thôi nhưng thật lòng với nhau, không có cái cảnh "bằng mặt không bằng lòng", không có những nụ cười giả tạo, ngoài mặt nói cười thơn thớt mà ghìm nhau nhau từng chút để ganh ghét hay xem thường. Một người thích cô đơn chỉ cần bấy nhiêu, nên cuộc sống hiếm khi cảm thấy nhàm chán vì biết rõ mình thích gì, cần và không cần phải làm gì.
Đầu tháng Tư 2020, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, social distancing do nạn dịch Covid 19 diễn ra kéo theo bao nhiêu bức bối, trầm cảm và xung đột gia đình. Những người tánh hướng ngoại nào giờ đã quen sống bầy đàn, lúc ấy cảm thấy ngột ngạt tù túng thậm chí muốn phát điên khi phải quẩn quanh giữa bốn bức tường của chính căn nhà mình, ăn rồi ngủ! Trong khi những người đã quen với cuộc sống khép kín lại thấy chẳng có gì ghê gớm, thậm chí còn cảm thấy tiện lợi hơn vì khi ngại tới chợ là nơi đông người dễ lây nhiễm, giờ chỉ cần một cú nhấp chuột đặt hàng online là có người đem tới tận nhà. Rồi lợi dụng thời gian cách ly để có nhiều dịp sum họp gia đình hơn, đọc sách xem phim nhiều hơn, và hoàn thiện con người mình hơn qua những kỹ năng còn thiếu sót mà lâu nay cuộc sống cơm áo tất bật bươn bả không có nhiều thì giờ để trau giồi.
Như vậy, cùng một sự kiện, xấu hay tốt, khó chịu hay không, đều tùy tính cách và cách nhìn của mỗi người đối với sự kiện đó ra sao.
Dẫu sao, bản chất con người luôn có hai thôi thúc mâu thuẫn: chúng ta yêu và muốn được yêu, đồng thời chúng ta cũng khao khát sự riêng tư và độc lập. Cho nên trong giáo dục, phải chăng nên dạy trẻ nhỏ cách làm việc nhóm, nhưng cũng cần thiết dạy chúng chủ động dấn thân để tự mình thực hiện hoặc đeo đuổi một đam mê lành mạnh hay một ngành chuyên môn lâu dài và bền bỉ. Trong khoa học, sự hợp tác trong phòng thí nghiệm đưa đến những kết quả diệu kỳ, nhưng cũng có những nhà khoa học tính cách hướng nội lại rất cần yên tĩnh và riêng tư để có thể thăng hoa khả năng sáng tạo và hiệu suất làm việc tới mức tối ưu.
Khi tôi đọc về nỗi cô đơn, đoạn văn dưới đây làm tôi vừa thú vị vừa buồn cười:
"Tôi không cho rằng con người là một hòn đảo. Cuộc sống là vô nghĩa khi chúng ta không có tình yêu, lòng tin, và tình bạn.
...Và những người có khả năng sáng tạo phi thường nhất, trong nhiều ngành nghề khác nhau, phần lớn lại là những người hướng nội, dựa theo một nghiên cứu của hai nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi và Gregory Feist.Họ đủ hướng ngoại để chia sẻ và thúc đẩy những ý tưởng, nhưng họ luôn nhận thức về bản thân như là một cá nhân độc lập.
...Nói cách khác, một người ngồi yên lặng dưới gốc cây ngoài vườn (trong khi những người khác đang rôm rả cụng ly trong nhà) khả năng cao hơn sẽ có táo rơi vào đầu!" (Newton là một trong những người hướng nội vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: William Wordsworth đã miêu tả ông qua đoạn thơ sau: “Mãi mãi một trí tuệ/ Hành hương qua những biển cả xa lạ của suy tư, trong cô độc.”)
(New York Times)
Tôi vẫn còn nhớ quay quắt cái thời đẹp đẽ nhứt của tuổi thanh xuân tươi hồng, đã phải oan uổng chôn đời trong rẫy rừng, trong khi vẫn liên tục ném mình vào những chuyến đi vô vọng. Gần mười năm sau tôi mới trở lại Sài Gòn nối tiếp "giấc mộng con" ở Đại học Tổng hợp.Rảnh rỗi ngồi gẫm lại mới thấy những ngày miễn cưỡng làm thôn nữ, ngày nhổ cỏ trồng trọt tối học ôn dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu, tôi chưa bao giờ thèm muốn ánh sáng kinh thành (cái kinh thành đầy xa lạ và khốn khổ đó đâu còn là chỗ nương thân cho anh chị em chúng tôi!), cũng chưa bao giờ vì mặc áo vá mà thèm thuồng bộ váy rực rỡ và tiếc cho vóc dáng thanh xuân dần mai một nơi quê mùa. Chỉ có một thôi thúc duy nhứt là thoát khỏi lòng giếng tăm tối để được toại chí trong giấc mộng công danh dở dang tức tưởi! Trong thời gian gần mười năm trời đằng đẵng đó, nếu là người ham vui có lẽ tôi đã phát điên vì cái "mộng vuông" phải nằm bó rọ trong một "lỗ tròn" oan nghiệt (A square peg in a round hole). Vậy mà ngược lại, đó là thời gian duy nhứt tôi được thanh thản bên thiên nhiên xanh mút mắt, cách xa những sinh vật ác độc và đạo đức giả, sống hồn nhiên với heo bò gà vịt, chiều chiều nằm lăn trên trảng cỏ mênh mông mà giỡn tưng bừng với mấy con chó con mèo.
Cô đơn chăng? Rất nhiều, nếu cứ mãi nhớ về những ngày hạnh phúc ấm êm thoát cái tan đàn sẩy nghé, nếu cứ lạc lõng nơi xa lạ với những người lối xóm cứ chăm chăm để ý coi "nhà giàu Sài Gòn" làm ăn ra sao (đó là họ gọi mỉa mình vậy) và cười nhếch mép khi thấy mình làm ruộng làm rẫy chẳng ra hồn, nếu cứ nhìn mãi những bông dừa cạn tím buồn chìm dần trong hoàng hôn mà nhớ về những cành mai ngày Tết nghiêng mình kiêu sa trong cái lộc bình quý giá của Ngoại, và nếu cứ nghe tiếng pháo giao thừa mà ngỡ như tiếng uất nghẹn chớp bể mưa nguồn khi nhớ về những ngày cuối năm sum họp gia đình yên vui cũ...
Hò ơ... Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
Con sông nước sâu sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây...
Rồi mọi thứ cũng dần ổn định sau khi đã... chạm đáy! Càng về già, dù đã có thể thảnh thơi để đi đó đây chút ít, tôi vẫn lười ló mặt ra ngoài, dần sợ những mối quan tâm hời hợt, những mối quan hệ xã giao "có cho có", càng ngại ngùng những ồn ào quanh mình : tôi ghét một tiếng còi xe vô duyên chát chúa trong ngõ nhỏ, không ưa những tiếng động ồn ả, cho dù đó là âm thanh Karaoke ầm ĩ với giọng lè nhè ngang phè của đám người đang ngà ngà say cách đó vài căn, tiếng chuông mõ tụng niệm rền rĩ vào những lúc người ta cần nghỉ ngơi nhứt ở căn đối diện, hay tiếng hát thánh ca vang rền của cả gia đình sát nhà mà tôi bị bắt phải nghe mỗi hừng sáng (dù tôi vẫn lầm thầm đọc chú Đại Bi và Bát Nhã tâm kinh mỗi ngày và thỉnh thoảng cũng nghêu ngao nho nhỏ vài bài Thánh ca!) . Tôi trang bị cho căn phòng của mình dễ chịu tối đa, tương đối cách âm, để nó trở thành thế giới của riêng tôi, an toàn và tĩnh lặng, nơi đó tôi thu tôi vào một góc thoải mái, tha hồ cất kín tâm tư, gần như chỉ giải bày qua ngòi bút và những trang giấy. Một cuộc sống thụ động và gần như ẩn cư giữa những bộn bề nơi phố thị.
Sau những mất mát, tan tác, con chim trúng tên đôi lần mãi sợ cành cong.
Cho nên dù tôi có một gia đình yên ấm, một nghề nghiệp ổn định và được quý mến, những người bạn (online và offline) thật dễ thương, những mối quan hệ gia đình và xã hội khá tốt đẹp, nhưng tôi vẫn chỉ là người cô đơn với hạnh phúc một mình.
Life is a moment in space
When the dream is gone
It's a lonelier place
I kiss the morning goodbye
But down inside you know
We never know why
The road is narrow and long
(Woman in love - Barry and Robin Gibb)
SG, 1/11/2020
Trần Cẩm Quỳnh-Như
______________________

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
(L'adieu- Guillaume Apollinaire)
1. Thu. Lãng mạn và bâng khuâng biết bao trong văn, thơ, nhạc! Nào "Tôi đi học" Thanh Tịnh, "The last Leaf" O'Henry, đến "Nature en deuil" Sybille Rembard, "Chansons d'Automne" Paul Verlaine, "L'adieu" Guillaume Apollinaire, "Sonnet 73" William Shakespeare, "To Autumn" John Keats, "Fall, leaves, fall" Emily Brontë, "Thu tịch lữ hoài" Lý Bạch, "Thu hứng bát thủ" Đỗ Phủ, "Thu giang tống khách" Bạch Cư Dị, rồi "Cây đàn cuối thu" Nguyễn Bính, "Gửi người dưới mộ" Đinh Hùng, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư, "Gió thu" Tản Đà, và "Buồn tàn thu" Văn Cao, "Thu vàng" Cung Tiến, "Giọt mưa thu" Đặng Thế Phong, "Thu quyến rũ" Đoàn Chuẩn, "Mùa thu Paris" Cung Trầm Tưởng - Phạm Duy...
Nhiều đến nỗi đã trở nên bình thường một tâm cảm mùa thu và nghệ sĩ. Và những-con-đường-thu-có-một-tôi-thơ-thẩn luôn là niềm mơ ước cho kiếp sau với trùng trùng lá chết...
Dans le parc aux lointains voilés de brume, sous
Les grands arbres d’où tombe avec un bruit très doux
L’adieu des feuilles d’or parmi la solitude
Sous le ciel pâlissant comme de lassitude
(Dans le parc - Albert Samain)
Rồi tôi được đọc "Thu, vàng mấy đỗi..." của tác giả không xa lạ gì Cao Vị Khanh. Bảo là quen, nhưng dường như lần nào tôi cũng ngạc nhiên như đọc lần đầu văn phong lạ lẫm một tác giả chưa quen. "Thu" vào tay Cao Vị Khanh đã không còn bình thường, nó mang dấu ấn ngọc với dịu vợi ngôn từ. Đến nỗi khi ông xã tôi hỏi bài viết (Thu, vàng mấy đỗi...) nói gì trong đó mà em bảo đọc hoài không chán? Tôi ngẩn người không biết trả lời sao: Ủa, trí nhớ mình già cỗi hết date không nhớ nổi nội dung bài viết vừa mới đọc, hay nó kỳ ảo đến nỗi khi đi lạc vào đó tôi lơ ngơ như kẻ đang đằm đằm trong cỗ máy thời gian muôn hồng ngàn tía, để rồi khi đã bước trở về thực tại, tôi vẫn còn lơ mơ chân thấp chân cao?
2. Cao Vị Khanh đã "lẩm rẩm" những gì mà có thể hấp dẫn người đọc như một thứ Love Lotion Number 9? Trước tiên là choáng váng với cách dùng chữ thần kỳ của ông. Trời đất ơi, văn thì đọc miên man mà thử lọc chữ dùng phát chóng mặt! Ai cũng biết, chỉ bắt đầu từ độ tuổi năm, sáu mươi, não bộ con người đã bắt đầu lão hóa làm rớt rơi từng từ vựng, nhớ mãi không ra tên gọi những thứ hết sức bình thường quanh ta, đành chỉ tay cái này, cái kia. Hội thoại hằng ngày kém sinh động vì cứ ư a đã đành, viết lách càng tệ hại khi nghĩ hoài không ra chữ đúng để diễn tả ý tưởng...
Chuyện đó không hề xảy ra với Cao Vị Khanh! Hãy xem đoạn mở đầu khi "Sương" tràn ngập từ tượng hình đến nỗi trong cái đầu-luôn-cự-tuyệt-những-con-số của tôi chợt bật lên một ý nghĩ cắc cớ: Để mình thử đếm xem Cao Vị Khanh đã sử dụng bao nhiêu chữ diễn tả "Thu", và hết hồn hết vía khi thấy trong một đoạn đầu ngắn xíu chiếm hết hai mươi mốt động từ tả "sương": nấn níu, là là, lả lả, mù mù, váng vất, len lách, lan man, lấp lửng, bay, rơi, tuôn, bốc, tràn, thổi, vắt, luồn, trườn, sà, nghiêng, vói, thấm!!! Và một đoản văn không dài không ngắn chiếm không nhiều, chỉ tròm trèm... hơn năm mươi tính từ tả "Thu": bâng khuâng, xao xác, lãng đãng, nao nao, bảng lảng, nằng nặng, hiu hiu, ngan ngát, mang mang, băn khoăn, ray rứt, lê thê, lung linh, tiêu sơ, long lanh, lồng lộng, miên man, sẽ sàng, khắc khoải, tan tác, xào xạc, quạnh hiu, xốn xang, thăm thẳm, trìu trĩu, tàn phai, mỏi mòn, vv...Quá kinh khủng cho một cái đầu còn cực kỳ tinh anh ở tuổi ông. Và vô cùng tinh tế.
Sous ces rayons cléments des soleils de septembre
Le ciel est doux, mais pâle, et la terre jaunit.
Dans les forêts la feuille a la couleur de l’ambre ;
L’oiseau ne chante plus sur le bord de son nid.
(Les Soleils de Septembre - Auguste Lacaussad)
3. Tôi có một tật xấu, là khi đọc cuốn sách hay, hoặc xem một phim buồn, tôi cứ ở mãi trong đó không thoát ra được. Cho nên giờ đây, khi mơ ngủ, khi làm việc nhà, thậm chí khi đang dạy học (dĩ nhiên lúc học trò đang làm bài), tôi vẫn mãi mơ mộng về một mùa "Thu, vàng mấy đỗi" ngập lá phong vàng... Có vọng ngoại không khi tôi nói quanh tôi chỉ có xác lá tuôn đổ muôn chiều trong mưa làm những giọt nước mắt hòa với nước mưa đầm đìa ký ức của một dĩ vãng nhiều sinh ly tử biệt, tuyệt không có những chiều thu vàng xao động lòng người, những con đường hun hút đẹp đến nỗi tôi một tâm hồn đã chết từ bao độ chợt trỗi dậy niềm ước ao được tay trong tay với một ai đó chưa có chân dung, thong dong trên xào xạc lớp lớp lá chết mùa này mùa trước; hay được ngồi với tri âm trên băng đá bờ hồ một ngày thu, yên lặng ngắm những con thiên nga sang trọng và đĩnh đạc chớm di thê...
La couleur verte
tremble
entre les mains
de l’automne
La mort maquille
les feuilles
pour leurs noces
avec le givre
(Arrière-saison -Kamal Zerdoum)
"Sương" la đà len lách khắp chốn của Cao Vị Khanh cũng thoắt đưa tôi về đoạn phim bốn mươi năm trước một cô nhỏ tương lai vô định muốn tan trong sương mù một ngày bão bùng ở Đà Lạt, thành phố ngàn thông. Mưa lất phất và gió cắc cớ cứ chực lật ngược cây dù khốn khổ trong màn sương trắng xóa không tỏ mặt người trên con dốc chừng như đi hoài không hết, đến nỗi khiến cho cô cảm thấy mọi thứ dường như đều chống lại mình: Mưa, lạnh, gió, sương... Và định mệnh.
Một đóa dã tường vi đỏ thắm thẹn thò bên rào nhà ai run rẩy khóc, như giọt máu bầm loang lỗ trong làn sương trắng...
Oui, dans ces jours d’automne où la nature expire,
A ses regards voilés, je trouve plus d’attraits,
C’est l’adieu d’un ami, c’est le dernier sourire
Des lèvres que la mort va fermer pour jamais !
(L'automne - Alphonse de Lamartin)
4. Lá tan tác trong gió. Lá long lanh trong nắng. Lá muộn phiền trong mưa... Những chiếc lá của Cao Vị Khanh "xanh mướt, xanh rì, xanh ngát, đốm vàng, ửng hồng, dãi đỏ, hực vàng, lồng lộng, sáng trưng, hực hỡ, vàng lịm, tím thẫm, đỏ quạch, tung hê, tan tác"... Để "ngày vội vã". Để "đêm nơm nớp"... Những nhân cách hóa thâm trầm làm tôi chợt nhớ tới những chiếc lá tội nghiệp của tôi...
"Ở đó mỗi khi nhìn gió xoáy từ đầu dốc cuốn theo bao nhiêu lá vàng, để rồi khi xuống tới dưới triền thì tung lên trên không cơ man nào là xác bướm tơi tả, thì hồn mình như cuốn bay theo với lá, bỏ lại sau lưng những khổ đau chốn hồng trần, những "thiên địa vô nhân", những cảnh đời thất thế..." (Trích "Tôi đi chăn bò - TCQN).
Sao mà tội nghiệp? Vì chúng bị dập vùi cuốn hết xuống phía triền cỏ thoai thoải dưới kia để chôn đời trong một đầm nước quạnh hiu lau lách, ngàn đời trầm tích, ngàn đời lặng câm. Những chiếc lá cũng có một số phận hẳn hoi cách biệt, đời đời ngưỡng vọng những bạn lá thong dong la đà reo vui đáp xuống vai những bức tượng trắng trong khuôn viên Đại học mênh mông bên nửa kia trái đất, những bạn lá êm êm lót chân cho đôi tình nhân trên những con đường Thu hun hút giữa hai hàng cây kỳ bí thăm thẳm...
Une rose trémière restée un peu sauvage
A pleuré ses pétales sur les marbres et les croix.
Dans le vent qui gémit revient l’écho des voix
Des pauvres innocents trépassés avant l’âge.
(Toussaint en Bretagne - Antoine Livic)
5. Góp phần vào nét Thu buồn hoang hoải, là hình ảnh chú hề "cô đơn và lạt lẽo như một pho tượng cũ bỏ quên", một chấm phá sinh động âm thầm trong cảnh Thu. Phía sau lớp "son phấn ngây ngô" và nụ cười ngoác vô hồn, là cả một kiếp nhân sinh! Như một nghệ sĩ nghèo khi màn nhung đã khép, nợ cơm áo và nỗi cô đơn luôn thường trực vây quanh. Đâu rồi kèn trống dặt dìu, đâu những tiếng cười reo khoái trá, đâu rồi cờ xí rợp trời, đâu những tràng vỗ tay vang rền theo nhịp ngựa bước kiệu điệu đàng! Chỉ còn lại một hình người buồn bã, đã buồn như pho tượng, còn cũ kỹ và bị quên lãng, giữa vòng vây các thứ bừa bộn như phế tích chất chồng, "mếu máo", "xộc xệch", nhòe nhoẹt"...Mọi thứ đều buồn thảm, như đất trời lộng lẫy trước khi chớm tàn phai...
Thêm diễm lệ cho nàng Thu muôn vẻ não nùng, là những câu văn kéo dài sự thâm trầm bằng chỉ hai chữ cuối câu:
"Vói tay ngắt chiếc lá, cọ nhẹ vào môi nghe mềm mại, mặt lá ửng hồng túa ra li ti những đường gân nhỏ như ngàn mạch máu vân vi trên má ai ngày xưa, nhan sắc".
"Dứt mưa, nước thấm vào thân cây đen sẩm, tàng lá đã đỏ, ửng đỏ thêm, chòm lá đã vàng, hực vàng thêm, tuyệt tác".
"Rồi tới lúc đỏ con mắt mới thấy được một đốm xanh, lẻ mọn".
"Cái lộng lẫy rồi có phải, chẳng qua … cũng chỉ là tín hiệu của một sự tàn phai, sẽ đến".
"Những tình nhân e thẹn được dịp cũng muốn tung hê ra cho hết, một lần".
"Mang theo hết đi, mang theo hết đi, mùa thu".
Và phải chăng đây chính là những câu thơ được dệt bằng văn xuôi?
"... Thoáng như ráo hoảnh… Có một cái gì bảng lảng đâu đây. Có một cái gì chực hờ muốn nói ... mà môi không hở được ra lời".
"Có điều trời đất đó dưng không ra chiều lãng đãng. Gió mây đó bỗng nằng nặng nỗi niềm. Cũng là cơn gió quen nhưng trưa nay sao thấy hiu hiu. Vẫn là vạt mây đó sao hoàng hôn này lại ngan ngát. Có cái gì đó đang trở dậy, cựa mình, dù đã thúc thủ nằm yên từ lâu lắm trong cái góc khuất nhất của lòng ta".
"Ngọn đuốc cháy lập loè trên khuôn mặt sinh ly. Giọt nước mắt tử biệt khóc ngoài ngàn dặm. Ánh trăng xanh mướt một đêm mười bảy. Ngón tay ngoéo hờ giữa góc phố trăm năm".
"Ngày vẫn lên mà chừng như uể oải. Đêm mỏi mòn mỗi lúc một lê thê hơn".
"Rồi lắm khi những cơn mưa bất chợt, mưa bay nghiêng làm như nước cũng đổi màu".
"Ai đó đã qua đây, rồi có để lại gì không, kể cả một dấu chân đã dẫm lên mấy lần lá úa. Lá sẽ rơi lấp lên tất cả, con đường, bãi cỏ, ngõ phố, công viên, tiếng cười lanh lảnh một mùa hè, giọt nước mắt lẫn vào giọt mưa bất chợt, ngón tay cong như một lời hẹn vu vơ".
"Vàng thu chỉ là ảo ảnh. Và tình thu chỉ là một thứ đoạn trường".
"Để lại chăng, đôi khi chỉ là một chiếc lá vàng mà ai đó ép khô giữa hai trang sách cũ, rồi bỏ quên giữa mối mục thời gian…"
"Làm chi mấy lớp sương thu, để hai con mắt tôi mù hướng em. Tìm đâu thấy, dấu đã chìm? Có chăng trong xác lá lìm lịm khô…"
Ai chà! Trước đây tôi hay gọi Cao Vị Khanh "Nhà văn lan man những diệu kỳ". Giờ tôi muốn đổi thành nick "CVK, phù thủy của ngôn từ".
Nhứt định phải meo cho ổng hay mới được !
SG, 13/10/2020
Trần Cẩm Quỳnh Như
_________________________

SANG và GIÀU
Đã nói thôi bớt bớt FB lại, nghỉ dưỡng bệnh!
Rồi nằm khoèo buồn quá lại quơ cây viết xấp giấy, ngồi không nổi bắt thằng nhóc làm thơ ký gõ lóc cóc, nên bữa nay lại làm rối mắt bà con!
-------------------------------
Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ,
Anh hùng nan dữ mệnh tranh hoành,
(Xưa nay những giọt lệ anh hùng đều do không chống lại được số mệnh)
(?)
1. Kể bạn nghe, hồi tôi còn trẻ, có thầy tướng vốn là chỗ quen biết của Ba tôi, đã phán một câu như vầy: "Con QN này nếu may mắn lắm cũng chỉ có thể có quý, chắc chắn không bao giờ có phú!". Tôi cà rỡn: "Con muốn phú hè, con không cần quý đâu hu hu!". Mười tám tuổi lớn xộn rồi cũng chưa biết khi nghèo nó khổ tới cỡ nào, mà cũng không tin ông bà cha mẹ khá giả mình cũng cố công học tập sao mình lại nghèo!
Cho đến tuổi mười chín, gia cảnh suy sụp tan tác, tử biệt sinh ly, tài sản gia đình bỗng nhiên bị "mượn" đâu mất hết, chà lúc đó mới thật sự thấm thía "giá trị" của cái nghèo! Thật là một cuộc "đổi đời" ngoạn mục!
Khi không còn được sống phong lưu như xưa nữa, thỉnh thoảng tôi vẫn hay suy nghĩ về lời ông thầy tướng, gẫm lại câu nói đúng chóc "Tính cách làm nên số phận", rồi lại ngẫm nghĩ hoài về chuyện "phú" chuyện "quý", không biết cái "quý" nó khác cái "phú" nhiều thế nào, vừa "phú" vừa "quý" ra sao, có "quý" không "phú" thê thảm không, ngược lại có "phú" không "quý" giống con giáp nào?
Ngày xưa tôi hay nghe mấy người lớn trong nhà cắt nghĩa về một "famille hiển đạt" và luôn tỏ ý trầm trồ ngưỡng mộ, có lẽ ý muốn tôi cố gắng học hành chăm chỉ cho gia đình nở mặt nở mày. Trong trí nhớ non nớt của tôi thuở đó, một famille hiển đạt bao gồm "giàu gốc" (kiểu bên nội bên ngoại xuất nhập cảng hay điền chủ), con cái du học tự túc bên Tây tốt nghiệp Sorbonne, thế hệ thứ ba cũng học rất giỏi, hoặc tốt nghiệp Đại học trong nước, hoặc có bourse đi học bên Mỹ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ... (Tôi muốn nói đến trường hợp các học sinh giỏi du học nước ngoài trước 75, không nói chuyện sau này mấy đứa nhỏ ăn chơi đàn đúm học dốt như me, trong nước chuyên đội sổ, được cha mẹ mua nhà triệu đô ở nước ngoài rồi đẩy qua bển học cho le và để "giữ chân" cho cả gia đình một khi người lớn đã "hạ cánh an toàn"). Khi trở về, các trí thức thành đạt có địa vị, sống sang trọng trong giản dị (hay giản dị trong sang trọng) với cử chỉ lịch sự, thái độ hòa nhã, và đóng góp đáng kể thành quả học tập cho xã hội cộng đồng. Rõ ràng đây là giai cấp "vừa phú vừa quý"!
Tôi cũng muốn mở cái ngoặc ở đây, trên có nói về những người có xuất thân ông bà là điền chủ, là với nghĩa tốt, không phải "địa chủ ác ôn". Dĩ nhiên ở đâu cũng có người tốt kẻ xấu, nhưng một điều chắc chắn không phải ai giàu cũng ác ôn. Như thời trước điền chủ Tăng Khoánh, là người xếp hàng thứ tư trong bốn điền chủ giàu nhứt Sóc Trăng Bạc Liêu, là người xốc vác chơn chất, luôn ra ruộng làm chung với các tá điền, nhà có mấy cái citerne nước mưa rất lớn, mùa hạn hay cho bà con tới gánh nước miễn phí về xài, trong xã có ai nghèo khổ qua đời sẽ được ông cấp cho ít tiền, cùng hòm và chiếu.
Cần gì phải ác ôn mới giàu! Đất phương Nam cò bay gãy cánh chó chạy cong đuôi không sức mà cày, sản vật phong phú, nước ngọt tràn bờ (lúc đó chưa có mười một cái đập khổng lồ của Tàu, đồng ruộng miền Nam phù sa đỏ quạch quanh năm, đâu có bị xâm mặn hạn hán như bây giờ). Nếu miền Nam không trù phú phì nhiêu, tại sao ai ai tận ngoài Bắc ngoài Trung xa lắc tí tè quảy gói "tới đây" rồi "cũng ở lại đây", cắm rễ hoài không muốn trở về??? Những hình ảnh còn sót lại của một miền Nam dù trong chiến tranh vẫn văn minh thanh lịch cuộc sống dễ dàng những năm 60 - 70 đủ minh chứng cho điều đó.
2. Có "quý" không "phú" thê thảm không?
Văn học ta xưa từng miêu tả những ông đồ nghèo thất cơ lỡ vận chỉ vì khẳng khái không chịu "vứt bút lông đi giắt bút chì", nhận dạy vài đứa con nít ê a, ra đường vẫn cố gắng tươm tất, áo dài mòn mỏng đến nỗi không dám cử động mạnh, khuỷu tay và cổ áo sờn thấp thoáng những mủi vá khéo của người vợ tảo tần.
Sau 75, không phất lên như những kẻ cơ hội, có những giáo sư được đi dạy lại với đồng lương còm cõi, vẫn nghiêm chỉnh áo chemise trắng bỏ trong thẳng thớm dù đã ngả màu xỉn vì chỉ giặt nước tro hay xà bông kem vò hoài không ra bọt (mà cũng phải đứng chờ rồng rắn trước hợp tác xã lâu hơ mới mua được phần mình), quần tây thắt lưng da nút chót gài vào "vòng eo 58" vì quá đói khổ; nước da xanh lướt vì ăn cơm độn khoai mì ròng rã cùng với đọt rau muống chấm tương hột (thứ rau được gọi là "giành ăn với heo" vì mót lại từ bó rau muống của vợ nuôi heo trong căn nhà phố ngay giữa thị thành). Những giáo sư dù biết mình chỉ còn dạy vài tuần hay vài tháng là ra khơi, nhưng vẫn cố gắng truyền đạt kiến thức cho đám học trò còn ngơ ngác sau cơn chấn động lịch sử, giảng bài như trối để trang bị được bao nhiêu hay bấy nhiêu cho những đứa trẻ mới lớn đang hoang mang chập chững rẽ vào tương lai trăm nẻo...
Quả là có "quý" không "phú" vô cùng thảm hại trong thời đại "nước cạn bèo chấm đất"!
Nhưng rồi theo với thời gian mọi thứ dần sáng sủa hơn. Một người với số vốn tri thức phong phú khó thể khổ hoài! Nhưng trong xã hội mới này, chỉ tri thức thôi, cộng với sự gìn giữ lòng tự trọng và phẩm giá, có thể thoát được nghèo đói, chỉ vươn lên mức sống trung lưu chớ khó thể gia nhập vào hàng ngũ giàu có hay chữ mới bây giờ gọi chung là "đại gia" (xưa gọi "đại xì thẩu"), vì không thích và cũng không có "khiếu" làm ăn kiểu con buôn, và cũng vì có đầy lòng trắc ẩn, không thể sống thanh thản vô cảm trong dư dả khi nhìn thấy quanh mình toàn bất hạnh và bức bối, nên "sẻ chia" còn là một trong những phẩm hạnh của một người chỉ có "quý"! Lòng nhân ái nhân lên gấp bội, và đời sống bao năm vẫn không vượt qua ngưỡng thanh bạch. Họ luôn là những bóng mờ vô danh âm thầm đứng nép một bên đường, không khoe khoang, không tự sơn phết, không nói chuyện nhân nghĩa, không ăn mặc như con cá bảy màu, không có kiểu làm từ thiện mà lúc trao tặng, người nhận phải cầm bao thơ "đứng hình" thiệt lâu để kịp chụp hình và quay phim. Không gì cả. Họ chỉ là những người hết sức bình thường ngoài sở hữu tri thức, chỉ còn lại một thứ duy nhất là tấm lòng!
May mắn thay những trung lưu kiểu đó vẫn còn khá đông trong thời đại vỡ đê niềm tin này. Họ luôn là người biết phân định chánh tà, biết phẫn nộ trước bất công và cái ác, biết sử dụng động tiền chân chính vào những mục đích chân chính góp phần xoa dịu bất hạnh của con người.
3. Có "phú" không "quý" ra sao nhỉ?
Họ được gọi chung là giai cấp "nouveau riche", trọc phú, giàu nẩy, hay giàu xổi.
(Nouveau riche people are people from a low social class who have recently become very rich and like to show this publicly by spending a lot of money). Giàu xổi là người vốn từ giai cấp thấp kém bỗng một ngày trở nên giàu có nên hay thích khoe khoang tiền của. (Nguồn: https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/nouveau-riche)
Họ ở lâu đài dát vàng khóe chân còn vàng đậm màu phèn, bao gồm những con buôn nhờ làm ăn chụp giựt lừa đảo mà phất lên, hoặc những kẻ cơ hội lợi dụng thời cơ và quyền thế vơ vét cho thỏa, bù lại những ngày sống cúi đầu trong khốn cùng tăm tối.
Dễ dàng nhận thấy dân giàu nẩy qua bề ngoài cũng như tính cách: bộ sưu tập siêu xe, cặp kè với cả lố chân dài, đeo dây chuyền vàng như xích chó, có thể có hai ba đại học nhờ văn bằng chôm chỉa bán mua, dù ở nhà riêng hay nơi công cộng lúc nào miệng cũng bô bô lớn lối nước bọt bắn như mưa, vô nhà hàng ngồi như nước lụt, ăn xong xương và giấy ăn vương vãi khắp bàn và sàn nhà, thích chơi ngông và hám danh, ăn tiệc buffet như heo hục máng, cử chỉ và thái độ lố bịch hợm hĩnh, tự đắc khoe khoang, ăn mặc lòe loẹt như con đúm (búp bê vải đúm lại bằng nhiều miếng đủ màu) bất cần hòa hợp về gu màu sắc, tuổi tác, nước da hay dáng dấp, đeo đồ trang sức và phụ kiện như cây thông Noël; nuôi chó Tây Tạng, mèo Savannah vài chục ngàn đô để thể hiện đẳng cấp...
Không hoàn toàn dốt nát như trọc phú đời xưa, một số “giàu nẩy” bây giờ du học tận trời Tây, không rửa chén kiếm tiền học như du học sinh trước 75 mà được cha mẹ mua hẳn nhà đẹp ở nước ngoài, chè chén tiệc tùng ầm ỉ, vặt sạch cây trái của hàng xóm cách vô tư, sành điệu hợp thời trang và xài tiền như nước - thói thường đồng tiền không đến từ mồ hôi luôn rất dễ phóng tay!
Từ khi ra trường, tôi chỉ dạy cho các trung tâm sinh ngữ và dạy hợp đồng cho các cơ quan, sau này lớn tuổi thì dạy kèm ở nhà, và gặp một trường hợp vừa trí thức vừa giàu có mà cư xử rất ngộ nghĩnh làm tôi nhớ mãi: Đứa học trò lớp 11 mất căn bản tiếng Anh trầm trọng, gia đình giàu có nên bao nhóm học một mình, ông bà Ngoại tiệm vàng, ông bà Nội buôn nhà đất, cha mẹ đều là kiến trúc sư ăn mặc thời thượng, gặp thời thế nhu cầu xây dựng tăng vọt, nghe nó khoe ba mẹ nó mỗi ngày từ công trình về, tiền để chật cốp xe. Tôi luôn ngưỡng mộ những người trẻ tuổi ăn nên làm ra bằng chính công sức và tài năng của mình... Nhưng cái cách họ đối với thầy dạy con mình thì quả là cổ kim hiếm thấy: Không bao giờ nhớ ngày đóng học phí cho con, cứ dùng dằng trầy trợt trễ nãi, tới khi đóng tiền thì cầm một nùi mà đưa, không bao giờ có bao thơ, có khi tiền cũ rách đến nỗi làm tôi suýt tưởng mình đang giơ nón đứng cửa chợ! Chưa hết, thằng nhỏ học quá kém mà cứ nghỉ ngang vì cùng cả gia đình đi nghỉ mát ở resort, lúc đi về, họ đòi mình dạy bù! Mỗi khi thằng nhỏ nghỉ học đi dự sinh nhật bạn, hoặc đi đám cưới cùng với cha mẹ, họ gom các buổi đó lại để trừ tiền!
Dĩ nhiên là sau đó tôi cho nghỉ vì quá ngán ngẩm - một lợi thế khi dạy tự do. May mắn là trong đời dạy học, tôi rất hiếm khi gặp phải "phụ huynh lương hảo" kiểu đó. Chỉ tội nghiệp đứa học trò, cứ chứng kiến cách cư xử của cha mẹ, lớn lên chắc cũng chẳng cần tế nhị lịch lãm, coi đồng tiền bằng bánh xe bò - mà có khi nhờ vậy nó dễ thành đại gia!
Trường hợp này trí thức cũng cư xử tương đương trọc phú, thua xa một phụ huynh ít học đen đúa còm nhom vì tảo tần một nắng hai sương ngoài chợ, đóng học phí cho con đúng ngày tăm tắp, trên bao thơ còn ngoằn ngoèo dòng chữ: "Cám ơn Cô"!
"Du thanh nhiên nhi hậu đăng phương minh"! (Dầu sạch trong ngọn đèn mới sáng). Rõ ràng, "sang" không phải chỉ có tri thức, mà còn phải xuất thân nề nếp, được đào tạo bài bản và trưởng thành trong một môi trường có giáo dục, có tinh thần kỷ luật và cả tinh thần quốc gia! Hiển nhiên luôn phải có sự tương ứng về đạo đức, học thức và hành vi. Nói cách khác đó là sự kết hợp giữa vẻ đẹp của tri thức và cư xử đúng mực.
Hãy nhìn người dân Nhật Bản luôn điềm đạm, lịch sự và biết điều ngay trong khốn khó (không phải cứ hễ đói thì ăn vụng, túng thì làm càn), từ đứa trẻ tới người già, ai cũng bình tĩnh xếp hàng nối đuôi chờ tới phiên mình được phát hay mua thực phẩm, một hình ảnh văn minh đáng ngưỡng mộ nhất trong hoàn cảnh ngặt nghèo thê thảm của tai họa sóng thần năm 2011 (Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn. Chính phủ Nhật Bản cho biết tổn thất do động đất và sóng thần tàn phá miền Đông Bắc có thể lên đến 309 tỉ USD. Đây là kỉ lục thế giới về thiệt hại do thiên tai gây ra. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BA%A5t_v%C3%A0_s%C3%B3ng_th%E1%BA%A7n_T%C5%8Dhoku_2011).
Đem so với hình ảnh tranh cướp ấn đền Trần tại Nam Định, hàng chục ngàn người xô đẩy dữ dội, ùn ùn qua cổng Ngũ Môn, leo rào vào đền thờ, la ó chửi rủa hỗn loạn mông muội, cướp lộc trên bàn thờ, nhảy cả lên bàn thờ để đặt lễ (!)... Chao ôi là xấu hổ! Thật là dày dặn gương mặt người đàn ông cao lớn mặc veste xanh rêu , miệng toét cười hài lòng tay giơ cao nhánh "lộc" là một nhánh hoa giả màu vàng chóe vừa mới cướp được từ bàn thờ!
Như vậy rõ ràng những người "sang" Nhật Bản cũng làm nên văn hóa và thể diện một quốc gia!
4. "Sang" trọng "phẩm", "Tiện" trọng "lượng". "Sang" đi đôi với "quý", nhưng "giàu" có thể đi với cả "quý" lẫn "tiện"!
Người "giàu" mà "tiện" luôn xem miếng ăn làm trọng, làm ăn chụp giựt, cuộc sống tăm tối với những thú vui nhầy nhụa thấp kém, nếu có đi học cũng chỉ để dùng bằng cấp kiếm thêm lợi quyền, leo cao hơn phẩm trật chớ không phải vì muốn có thêm kiến thức.
Cho nên mỗi một trọc phú khi muốn khoe khoang hợm hĩnh nên tự hỏi mình do đâu mà giàu? Và mỗi một trí thức trước khi khoe bằng cấp đôi ba cái, cũng nên tự hỏi bằng cấp đó do đâu mà có, có phải do học hành chăm chỉ mà đậu, hay chỉ là thứ bằng cấp mua bán hoặc mì-ăn-liền: học "bồi dưỡng" dăm ba tháng nửa năm rồi lâu ngày tự huyễn hoặc rằng mình cũng bằng vai phải lứa với những bằng cấp đại học ròng rã bốn năm năm trời nấu sử sôi kinh!
Người "sang" kết bạn với những ai có cùng sở thích, tính cách, quan niệm và phẩm chất.
"Giàu xổi" thích kết bạn với kẻ quyền thế để mong nhờ vả, thích kết bạn với nhà giàu vì tự trong máu hàn vi đã khiếp sợ và ngưỡng mộ nhà giàu.
Người "sang" dùng tiền đúng mực để mua lấy sự thoải mái, tiện dụng và hiệu quả. "Giàu xổi" cái gì cũng quy ra tiền, luôn nghĩ hễ quăng tiền ra là có mọi thứ và mọi người phải cúi rạp trước mình. Thật sự giàu có và địa vị chưa chắc đã được mọi người tôn trọng, nếu có chỉ là sự phỉnh nịnh của kẻ tiểu nhân.
Mạnh Tử nói: "Nhân bất tự vũ nhi hậu nhân vũ" (Tự khinh thì người khác cũng khinh mình). Nhìn cử chỉ có thể đoán biết quý tiện dễ dàng. Người "quý" ánh mắt trong sáng, tướng mạo đoan nghiêm, cử chỉ đĩnh đạc, dáng vẻ an nhiên, ăn nói điềm đạm, nhận xét tinh tế, "nhứt kiến khả kính" (thoạt nhìn liền thấy kính nể), ngũ nhạc hài hòa, khí lượng bao dung.
Giàu có, địa vị, thành đạt mà ăn nói bổ bã, hời hợt suồng sã, thô tục phóng túng là do cốt tiện, "Nhứt kiến khả hỉ, tà đãng nhi dị dụ" (vừa trông thấy đã muốn cợt nhã, tánh tình tà đãng), tà thị du thị (trông lén nhìn trộm)...
5. Thế nhưng trên thế gian này đâu có nhiều người được trọn vẹn xuất thân nề nếp giàu sang, cùng bản thân thành đạt gồm thâu phú quý! Cho nên luận về việc kết bạn thì từ người giàu gốc đến kẻ giàu mới, từ người công thành danh toại đến kẻ nửa đường gãy gánh, ngay cả những người ít học nghèo khó làm nghề hạ bạc đều có thể là BẠN TỐT của mình nếu họ SỐNG TỬ TẾ. Bạn sẽ tủm tỉm cười. "Chỉ tử tế!". Giống như kiểu nói: "Tôi không cần gì ngoài hạnh phúc", mà hạnh phúc lại bao gồm tất cả: giàu có, may mắn, thành đạt, cả yêu và được yêu!
Bạn hãy yên tâm, cái great delicacy này tuy không dễ gặp nhưng chịu khó tìm sẽ thấy, trừ phi trong tử vi bạn, cung Nô Bộc (bạn bè, đồng nghiệp, cấp dưới) quá xấu, đi kèm Mệnh có Cự Môn, Hóa Kỵ! :-) Nhưng cũng không nên vì thế mà vội than "Ô hô ô hô thiên!". Cứ sống tử tế, đêm về không ác mộng vì mặc cảm tội lỗi, lòng luôn thư thái thong dong, tức đã là người hạnh phúc!
Sài Gòn, 11/09/2020
Trần Cẩm Quỳnh-Như


QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI
Phần 1: Quyền sách một đời Phần 5: Sông Gành Hào
Phần 2: Chiếc ghe ngo Phần 6: Con Bày đưa đò
Phần 3: Hòn Cổ Tron Phần 7: Miễu Bà Chúa Xứ
Phần 4: Hương rừng Phần 8: Một cuộc biển dâu
Phần cuối: Tình nghĩa giáo khoa thư
BẠN MẾN, ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ LOẠT BÀI PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG CÁC TRUYỆN NGẮN TRONG “HƯƠNG RỪNG CÀ MAU”, CHỈ LÀ NHỮNG Ý NGHĨ LAN MAN TRÊN TRỜI DƯỚI ĐẤT, NHỮNG LIÊN TƯỞNG ĐẦU NGÔ MÌNH SỞ CHỢT ĐẾN CHỢT ĐI TRONG ĐẦU KHI ĐỌC TRUYỆN, VÀ MÌNH GHI LẠI LÀM VUI. - QN.
Cám ơn thầy Phó Lễ Hùng và chị Lê Thị Hồng Cúc đã khuyến khích em ghi lại những cảm nhận năm xưa khi đọc tuyển tập truyện ngắn "Hương rừng Cà Mau" của nhà văn Sơn Nam.
---------------------------------------------------------------------------------
PHẦN 1:
QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI
Có những quyển sách lẽo đẽo đi theo con người suốt cả một đời. Với tôi, đó là quyển "Hương rừng Cà Mau" của nhà văn Sơn Nam.
Đêm, nằm nghĩ giờ này con nhỏ bạn đang ở sân bay, nó ra đi lẳng lặng một mình không chịu cảnh đón đưa, bỗng nhớ tới câu "Cái cảnh kẻ ở người đi sao mà buồn vậy" trong "Tình nghĩa giáo khoa thư", dù bây giờ việt kiều đi đi về về như đi chợ, cảnh biệt ly đâu còn sướt mướt kiểu "ra đi không hẹn ngày về" như hồi mấy chục năm trước nữa...
Mỗi lần ăn cháo lòng, lại nhớ tới "con Bảy đưa đò", lúc đã trở thành dì Bảy bán cháo, cổ nói luộc lòng cũng cần một tấm lòng! Ngộ hen, cái chuyện nhỏ mọn tầm thường như luộc mớ lòng cũng cần tới thứ xa xỉ này sao? Ngày nay, tấm lòng nếu có thì cũng "theo gió cuốn đi" thôi mà!
Nằm khoèo coi một phim Hàn quốc tình cảm trong sáng, lại nhớ tới mối tình tội nghiệp của hai đứa nhỏ trong "Cây huê xà". Rồi lại nghĩ lẩn thẩn, mối tình đau đớn này đẹp mãi trong lòng thằng Lợi, chớ nếu mọi thứ suông sẻ, tụi nó lấy nhau rồi, con đùm cháu đống, biết có còn thương yêu nhau như lúc ban đầu?
Mỗi dịp lễ lạt, nhìn đàn cờ sao bay phần phật trong gió sớm, lại nhớ tới tâm trạng khó tả của lục cụ khi được ban thưởng lá cờ Phú Lang Sa trong "Đua ghe ngo"...
Rồi mỗi khi tủi thân lúc lạc loài nơi rẫy vắng, lại nhớ tới cô Hoàng Mai chôn đời trong rừng sâu với câu nói: "Anh Tư nắm cái chéo áo thôi em cũng đủ vui rồi"...
Sao quyển sách đó lại ảnh hưởng quá nhiều đến tâm tình của tôi đến vậy? Phải chăng vì đó là cuốn truyện ngắn đầu tiên tôi được người lớn cho phép đọc - Và một đứa nhỏ thị thành thụ động nhút nhát như tôi, như được mở ra một chân trời xa lạ mà gần gũi, nó thơ thẩn lạc về nơi đồng quê mát rợi sông nước bao la, có khi là đảo xa ngút sương mờ trong mênh mông sóng vỗ, có những con người chơn chất mà trượng nghĩa, và cả những số phận ngậm ngùi mà khi xếp sách lại rồi lòng vẫn rưng rưng...
Bỗng muốn trở về tuổi thơ để sống lại cùng những trang sách cũ.
Bỗng muốn thở trong bầu không khí trong lành của sông nước miền Nam thời xa xưa đó.
Bỗng muốn cười và khóc với những con người giản dị hiền lương...
Và thật lòng, trong phút giây nào đó, muốn tìm lại chút yên bình, mong trốn chạy hiện thực bức bối thập diện mai phục, dù biết tỏng rằng làm vậy chẳng khác gã say cạn nghĩ đi tìm lãng quên nhất thời trong men rượu, ngủ vùi phó mặc ngày mai!
TCQN
SG, 19/09/2017


QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI (2)
CHIẾC GHE NGO
"Nếu người ta muốn đập phá bàn thờ tổ quốc, phải đi vào tận gia đình và phân tán tro tàn của nó. Nói đúng hơn là phải lục soát tận đáy lòng người và đánh bật những nguyên tắc sơ khởi của tình yêu".
(Jules Simon)
Năm 76, tôi với thằng Út bị "lưu đày" về tận Sóc Trăng quê nội. Hai chị em - đúng nghĩa học trò: kiếng cận và da trắng nhách, ai ngứa mắt xỉ trán một cái là té bật ngửa rồi - lon ton khăn gói về quê đi "mần guộng" (nghe thiệt le đời!). Trong thời gian lưu lại nơi đó, tôi được chứng kiến một sự kiện ngộ nghĩnh, đó là lễ hội "Đi Bơi".
Vầy, một hôm nghe xôn xao một âm thanh rất lạ từ xa, rồi tụi cousin, cousine nó hò ỏm tỏi từ sân phơi lúa: "Chị Năm ơi, ra coi họ "đi bơi" nè, vui lắm á, một năm mới có một lần, lẹ!".
Chị Năm là tôi lúc đó đang trùm mền rên hừ hừ vì rêm nhức cùng mình do bữa trước đi nhổ cỏ ruộng khom khom dang nắng cả ngày cái lưng muốn gãy làm hai, nên tôi hết xí quách nằm im re không ừ hử. Tụi quỷ sứ nó vô nó lôi mình ra cho bằng được! Cũng không đâu xa, ngay trên đường đất dọc theo con kênh lớn chảy xuôi vườn nhà Nội.
Đập vô mắt tôi là một cảnh tượng vừa long trọng huy hoàng, vừa vô lý đến kỳ cục, làm tôi cứ đơ người trố mắt ra khiến tụi nhỏ khoái chí vỗ tay ầm ỉ: "Đó, thấy hơm!".
"Hò khoan, hò bơi; hò khoan, hò bơi!"... Trong tiếng kèn trống ỉ eo và tiếng hò đồng loạt đầy phấn khích, một đoàn người đông ken dẫn đầu là các vị bô lão chức sắc áo dài khăn đóng cầm cờ phướn đủ màu, kế đó một bàn nhang đèn trái cây đầy vun, vờn theo uốn lượn uyển chuyển ngay phía sau là một con rồng vàng rực lấp lánh đến chói mắt do chục người điều khiển như múa rồng ngày Tết, rồi một chiếc thuyền lên nước bóng lưỡng khá lớn coi bộ nặng trịch được toán thanh niên vạm vỡ trần trùng trục hè hụi khiêng trên vai, theo sau là một đám khác, mỗi người một chèo dầm, vừa hò vừa chèo hươi nhịp nhàng trong không khí, và cuối cùng là rồng rắn đen nghẹt con nít người lớn, tất cả đều "hò khoan" cuồng nhiệt, tưởng tượng như mỗi người đều hò rống đến gân cổ nổi lục cục...
Tới khi đám rước lễ chỉ còn là đám bụi mù...
Tôi quá thắc mắc: "Ê nhóc họ làm gì vậy? Thuyền lủng khiêng đi vá hay sao? Thuyền hư mắc gì hò reo dữ? Sao cả đám chèo thuyền trên cạn làm chi?".
Bọn nhóc cười ngặt nghẽo khi nghe con chị ngờ nghệch chốn thị thành hỏi mấy câu dồn dập thiệt là... ngốlừa. Tụi nó cắt nghĩa: "Lễ cầu mưa mà, chèo vậy cho ông Trời ổng thấy ngược đời, ổng tức mình ổng mưa!".
- Vậy con rồng bương theo làm chi?
- Lát ra sông họ dìm đầu con rồng xuống nước, ý là bắt nó hút nước làm mưa cho mình.
Tôi cười ngất: Oái, dìm đầu rồng xuống nước, nó chết ngộp còn chi. Thiệt là ép người quá thể !
Tiếng bà Nội nạt: Con nít biết gì nói bậy nói bạ, ổng quở bây giờ!
Thắc mắc trong bụng, không biết "ổng quở" là ổng nào quở, mà thôi, hổng dám hỏi.
Trở vô nhà trong lòng cứ ngẫm nghĩ về ý tưởng chèo ghe trên cạn "chọc tức" ông Trời và cho rồng "sặc nước" để bắt nó làm mưa. Thật là quá đơn giản và có phần ngô nghê.
Chẳng biết giờ đây hơn bốn mươi năm sau, lễ hội cầu mưa kiểu đó hằng năm có còn tái diễn?
Hình ảnh chiếc ghe đen mun và con rồng vàng lóe uốn lượn uy nghi dưới nắng sớm cứ hiển hiện trước mắt làm tôi chợt nhớ tới chiếc ghe đua như "con rắn thần Naga" oai hùng lướt sóng băng băng trong truyện "Chiếc ghe ngo" trong “Hương rừng Cà Mau” với cảnh đua ghe sinh động đến ám ảnh.
"Hình ảnh con rắn thần Naga mà lục cụ giảng giải khi nãy hiện ra trước mặt chú. Hai con mắt ghe chớp lên. Toàn thân ghe như rung chuyển, ngời từng đốm xanh đỏ như vảy rắn. Lái ghe, đằng xa kìa, như quơ qua quơ lại. Gió thổi rào rạt vào trại lá. Ào ! Ào ! Hai tai chú nghe lùng bùng tiếng cồn, tiếng trống, tiếng hò reo. Ghe nọ run mình đòi phóng tới, gân cốt chuyển nghe răng rắc".
"Ngoài sông Cái Lớn, hai chiếc ghe ngo đã biến thành hai con rắn thần bay trên mặt nước...
Phó hương quản Hem vội chụp lấy cây dầm nhỏ, nâng lên cao, bơi trên gió như thu hút tất cả sức mạnh của trời, của đất. Ghe vượt qua. Ðoàn dũng sĩ ôm cán dầm sát vào ngực, ngã mạnh tới, chuyển tất cả nhân lực vào mái dầm. Nước bay trắng xóa".
Nhớ tới tiếng thở dài trong câm lặng của lục cụ khi nhận được lá cờ tam sắc của Phú Lang Sa như một phần thưởng "danh dự" cho đội về nhứt do ông Đốc Phủ tặng chùa.
"Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục, xót xa".
Ai bảo hễ xuất thế thì không còn liên quan gì đến chuyện trần thế?
Ai bảo một khi đã xuống tóc quy y cửa Phật là quyết lòng buông bỏ thân tâm và quên đi xã hội bên ngoài cổng chùa lầm than khốn khó?
Ai bảo đã quyết tâm xa lìa trần thế thì không có tinh thần quốc gia?
Nhớ tới chiếc ghe ngo cổ xưa nằm im lìm trong lòng đất như một linh hồn chưa tan từ sáu trăm năm trước. Nó như cũng trở mình thở dài cùng với sự trăn trở đầy nỗi niềm của lục cụ. Linh hồn chiếc ghe cổ và người tu sĩ già cùng đau lòng trước phận nước điêu linh, dù không làm được gì để chuyển động bánh xe lịch sử, nhưng ít nhất cũng không đến nỗi vô tri vô cảm như phường ca nữ bên sông Tần Hoài!
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.
(Bạc Tần Hoài - Đỗ Mục)
Ca nhi hận nước mặc ai
"Hậu đình hoa" vẫn ngân dài bờ khuya
(Bản dịch Lê Phụng)
Nhưng lục cụ là một cao tăng, như tác giả đã giới thiệu ngay từ đầu truyện: "Thiên hạ đồn rằng lục cụ Tăng Liên có phép mầu nghe được tiếng chim kêu, gió thổi và nghe cả đến tâm sự từng giọt nước, từng hạt bụi trong lòng đất".
Cho nên người đã thấy trước biết trước cảnh đời không mãi mãi chỉ là biển cả, rồi có ngày cái nơi sóng nước đùa mênh mông sẽ hóa nương dâu xanh bát ngát, có ngày giông bão dập vùi sẽ trốn vào cầu vồng nhường lại cho thế gian nắng ấm vàng tươi: "Hồi lâu, cụ lắc đầu, cười xòa rồi đỡ chú phó hương quản đứng dậy...Vạn vật đều biến đổi. Duy có nụ cười của đức Quan Âm bốn mặt... Bốn mặt của Ngài nhìn bốn phía để cứu khổ chúng sinh, khuyên ai nấy trầm tĩnh vì sự đời mãi đổi thay, thay đổi".
Phải, nếu không trông mong vào sự đổi thay của vạn vật, há chẳng quá uổng phí thời gian bao nhiêu năm đằng đẳng ta lưu lại đời này ???
TCQN
SG, 20/09/2017

QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI (3) - Hòn Cổ Tron
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
(Sơn phòng mạn hứng - Vua Trần Nhân Tông)
Phải, trái, niệm rơi hoa buổi sớm.
Lợi, danh lòng lạnh trận mưa đêm.
Hoa tàn, mưa tạnh, non yên tĩnh.
Còn tiễn xuân tàn, một tiếng chim!
(Người dịch: Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Bật mí bạn nghe, tôi bị kêu chết tên "Bà Từ Thông" do ông xã đặt cho, để phản đối quan niệm "vô gia cư" của tôi, với ước mơ lúc về già là được sống một mình ở nơi am vắng lưng chừng núi, gần thiên nhiên và xa cách con người.
Tôi tiếp nhận biệt danh đầy ý châm chọc đó một cách thú vị và khoái chí. Nhân vật ông Từ Thông trong "Hòn Cổ Tron" thật đáng mơ ước vì ông đơn sơ từ cách sống cho tới cách suy nghĩ:
"Ở hòn Cổ Tron giữa vời vịnh Xiêm La này, ông Tư Thông cơ hồ quên cả loài người và loài người cũng hầu như quên rằng mình có một đồng loại ở ngoài mỏm đá chơi vơi kia.
...Tóc của ông lốm đốm bạc, khi thì thả dài xuống khỏi lưng quần. Khi thì bới thành búi to sau ót, gài lại bằng một cọng gai kim quít. Một bộ quần áo nghĩ cũng hơi dư mặc đối với ông ! Nhiều khi năm ba tháng liên tiếp ông phơi lưng trần với nắng, bên mấy gốc săn đá cổ thụ, lá cành xơ xác vì những cơn gió triền miên của biển khơi. Khi trời nực thì có những khe suối trong veo đón mời. Ông cứ ung dung mà uống, mà tắm một cách tự nhiên, vô tình khuấy rối giấc mơ của đàn bướm trắng đang xao động bay lên chập chờn như muốn rời mấy nhánh mai hoằng lơ thơ cúi nghiêng mình chấm mí nước... Hôm nào vui cho bằng hôm mười bốn, hôm rằm ! Ông Tư Thông ra sau rẫy, đào lên củ khoai môn to lớn, đem luộc chín. Ngồi trên vồ cẩm thạch, ông chậm rãi ăn buổi chiều, thỉnh thoảng rứt từ miến khoai, thảy xuống nước. Loài cá nhỏ bu lại nhởn nhơ mỗi con khoe một vẻ riêng."
Nhưng cái đơn sơ đó không phải hời hợt và vô cảm. Ở nơi tận cùng hải giác thiên nhai đó, cách xa con người đến vạn dặm, ông vẫn đau đáu với số phận của đồng bào:
"Một mối buồn len vào tâm não ông Từ Thông. Ông nghe gió thổi bốn bề, lạnh lùng. Lương tri như rực sáng nhắc nhở ông món nợ gì đối với đồng bào, giang sơn. Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang. Ðôi mắt già của ông Từ Thông ngẩn ngơ nhìn muôn lớp sóng cồn. Chân trời u ám, mấy đám mây tang bay thấp là đà... Ông hổ thẹn, tủi bấy phận mình không bằng con đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải".
Từ tâm trạng đó của ông Từ Thông, ta có thể cảm nhận được đó đây nỗi lòng của rất nhiều những con người tuy hiếm khi nhiều lời phù phiếm nhưng luôn hướng trái tim của mình đến những bất hạnh của đồng bào, khi thưởng thức một món ngon hay bất chợt reo mừng vì một niềm vui nào đó, ngay sau đó lập tức bị xâm chiếm bởi mặc cảm tội lỗi với những người còn đang đói khổ hơn mình, những người đang sống mòn trong lao lý, những người bỗng dưng mất hết cách sinh sống, lơ ngơ không biết bất hạnh từ đâu giáng xuống đầu...
Mặc cảm đó, gẫm ra chẳng đáng một xu vì nó chỉ là cảm nhận thụ động không chút lợi ích cho bất cứ ai. Nhưng ít nhứt nó cũng nói lên được chủng loại của con người đó với phần "con" ít hơn phần "người", để phân loại cho thấy dù không trí thức cũng chẳng bạc tiền nhưng ông Từ Thông khác xa với loài vô cảm dẫm đạp lên bao nhiêu người khác để sống, ngất ngưỡng và hả hê với thành quả đạt được trên máu và nước mắt, luôn tự huyễn hoặc và huyễn hoặc mọi người bằng những giáo điều lúc nào cũng có vẻ rất đạo đức và đầy tính khoan dung!
Trở lại với thế giới của ông Từ Thông, một thế giới đáng mơ ước đối với riêng tôi, một con người đã quá ngán ngẩm tình đời và quá mỏi mệt với quãng đời còn lại. Một thế giới ầm ầm sóng vỗ nhưng rất lặng thầm và bình an. Một thế giới quá đơn giản đến mức hoang sơ nhưng lại cực kỳ "giàu có" với kho tàng kỳ quan của tạo hóa:
"Tận dưới đáy biển, loại sò, loại ốc, loại nhum đang há miệng, le lưỡi bò chậm chạp trên nền đá tím nổi gân vàng, trên nền đá vàng nổi gân trắng. Hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới nước ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm. Ðêm về, trăng mọc. Nơi thủy cung rộn rịp nào kém chốn trần gian ! Từng đợt rong chìm lững lờ mơn trớn, khoác thêm lớp xiêm lụa mỏng cho bầy cá hướng. Và muôn vì sao trên dải Ngân hà sa xuống đậu lấm tấm khắp nhánh san hô trắng bạc".
Còn thú vị nào bằng được ngồi một mình ngoài vồ đá cẩm thạch nghe sóng biển rì rào dưới chân, cảm nhận gió khơi phần phật tỏa nồng hương vị biển, thấm thía sự cô độc an bình khi trên trời là những vì sao còn dưới này ta chỉ một mình... (và ước chi thay vì củ khoai môn ông Từ Thông đang gặm là một smartphone để mình có thể lướt qua FB thăm mọi người) Ây da, bi kịch của con người trời sanh là thú bầy đàn, nên dù chán ngán muốn cách xa nhưng trong thâm tâm vẫn còn mong gắn bó với dăm người bạn dễ thương!).
Hình dáng ông Từ Thông ngồi bất động cắt những nhát sắc cạnh trên nền trời hoàng hôn đỏ rựng gợi nhớ đến hình ảnh một tăng nhân trên chót vót đỉnh núi tuyết của Không Lộ thiền sư, bất giác hú một tràng dài làm lạnh cả hư không:
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Ngôn hoài)
Giữa chốn long xà chọn một nơi
Nước non trời đất chỉ mình chơi
Đôi khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Cất tiếng kêu vang lạnh cả trời
(Người dịch: Cổ Mộ)
Tiếng hú đó phản chiếu một sự đốn ngộ để bản ngã hòa lẫn vào hư không, hay tiếng hú là sự phẫn nộ cho nỗi bất lực đằng đẵng của con người?
Rồi tới khi ông Từ Thông có giang tàu buôn vô thăm đất liền, mỗi nỗi thất vọng buồn phiền cứ chiếm lấy con người ông: "Chưa vô tới bờ chợ Rạch Giá là ông Tư Thông cảm thấy cuộc đời đảo ngược, từ địa vị hoàn toàn tự do đến chỗ mất tự do. Ông trung thành với đất nước nhưng cớ sao đất nước đối xử với ông quá bạc bẽo, ghẻ lạnh?"
Sao mà ghẻ lạnh? Té ra chỉ vì ông không có giấy tờ đàng hoàng mà bị giữ lại, nhưng ông được đi lại thong dong, còn được ông chủ quận cho mấy cắc bạc muốn ăn gì thì mua. Thời Pháp thuộc, sao ông Cò Tây, ông chủ Quận, ông xã trưởng, chú hương quản, chú hương tuần đều hiền khô?
"Người giam giữ và người bị giam giữ lần hồi cảm thông nhau. Chú hương tuần lo đặt rượu đế. Ông Từ Thông đi cắm câu, kiếm "mồi" về nhậu".
Ông Từ Thông đâu biết mình là người rất may mắn. Không có giấy thuế thân nhưng ông không bị bạc đãi, không bị tù đày đánh đập, cuối cùng còn được thầy hương quản tìm ghe cho quá giang mà về. Ánh sáng chỉ sáng trong bóng tối. Khi người ta lỡ sanh trong một thời mà mạng người ví như cỏ rác, mới thấy quý báu làm sao cái thời nhiễu nhương loạn lạc, con người phải bỏ xứ mà đi, phá rừng mở đất để chui rúc sống nhưng vẫn còn đó đây le lói chút tình người!
Tôi chưa bao giờ bị ám ảnh hơn bởi câu nói của hương tuần Hay: "Hơi đâu mà buồn. Xứ này chịu cảnh này không biết tự hồi nào, từ hồi chưa có giặc Xiêm lận. Riết rồi quen..."
Phải, dân xứ này "trước - cực, sau - khổ", hơi đâu mà buồn! Chịu nghèo, chịu khổ, chịu cảnh chiến tranh, hết chịu Tàu đô hộ tới chịu Tây ức hiếp, chịu cảnh người mình đè nén người mình, riết rồi... quen!!!
"Chiều chiều, khi ra bờ biển để câu cua, đẩy xịp, người ta nhớ ông Từ Thông như nhớ một cái vỏ ốc xà cừ ngũ sắc tấp vào bãi bùn. Như nhớ vài trang sách Phong Thần tình cờ lượm được trong ngăn tủ bỏ quên, những trang sách rách nát hơi khó hiểu vì thiếu hồi thứ nhứt và không có hồi sau phân giải".
Khi lìa đời, được mọi người nhớ tới như nhớ một vỏ ốc xã cừ ngũ sắc tấp vào bãi bùn, cũng là niềm hạnh phúc! Lại nhớ Tần Thỉ Hoàng, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, lúc sắp chết phải truyền người đắp bao nhiêu mộ giả, cũng tự biết mình tà ác, sợ người đào mồ cuốc mã băm vằm thân xác. Té ra hồi còn sống họ giết hại bao nhiêu người không chớp mắt, lúc chết rồi cũng biết sợ thân xác đớn đau khi nó chỉ còn là cát bụi !!!
TCQN
SG, 24/09/1017

QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI (4) - Hương rừng
Niễu niễu cổ đê biên,
Thanh thanh bất thụ yên.
Nhược vi ti bất đoạn,
Lưu thủ hệ lang thuyền.
(Ung Dụ Chi - Giang Biên Liễu)
Bên đê cổ tha thướt,
Liễu như vòm khói xanh.
Giá mà tơ chẳng đứt,
Giữ lấy buộc thuyền anh.
(?)
Long Khánh lập đông lạnh và buồn tê tái! Nắng lên rồi, ánh nắng vàng mong manh phơn phớt trên chóp lá mì, con chó Ki vẫn còn lười biếng cuộn mình trong thúng giẻ, đàn gà con còn luyến tiếc chỗ ngủ ấm áp, ăn ba hột rồi vừa quẹt mỏ vừa chạy u vào nấp trong cánh mẹ, những chiếc mỏ nhỏ xíu thấp thoáng líu ríu nũng nịu nho nhỏ.
Thằng Út em tôi thò đầu ra cửa phên léo nhéo:
- "Anh Tư chỉ cần nắm lấy cái tay áo là em đủ vui rồi!".
Tôi phì cười. Nó lặp lại câu nói của cô Hoàng Mai trong "Hương rừng" để chế nhạo khi thấy tôi trùm mấy lớp áo, tay áo dài phủ cả bàn tay.
So sánh cũng hơi khập khễnh. Tôi, cô học trò nhỏ đáng thương bỏ sách bỏ vở đi giam đời nơi rẫy rừng. Và cô Hoàng Mai, cô gái xinh đẹp dòng dõi quý phái bị bệnh phong cùi giấu mình nơi thâm sơn cùng cốc... Có chăng giống nhau ở chỗ cả hai đứa chúng tôi cùng bị số phận đánh cắp tuổi xuân!
Hồi còn đi học, đọc truyện "Hương rừng" chỉ thấy cảm thương cho cuộc đời cô Hoàng Mai bất hạnh với căn bịnh nan y, cho tới khi chính mình sống lưu đày vào tận chốn hoang sơ, nhìn hai bàn tay thô ráp nứt nẻ vì công việc rẫy bái, lúc đó mới thấm thía mới cay đắng nhìn tuổi xuân từ từ trôi đi trong oan nghiệt!
Trở lại với mối tình "mặt ngoài còn e" của cô Hoàng Mai và anh Tư Lập, âu cũng là bi kịch cho cuộc đời cô tiểu thơ mong manh lỡ vận! Cô gái đáng thương với thân thể đớn đau và héo hắt, nhưng trái tim thanh xuân vẫn khát khao một tình yêu dù thừa biết sẽ vô vọng như viên đá lọt thỏm vào lòng đại dương không mong có ngày dạt về bờ cũ. Sống trong đớn đau bệnh tật, sống để nhìn xuân sắc tàn phai, và sống trong mỏi mòn chờ đợi thinh không. Chỉ một trong ba điều trên cũng đủ giết chết tâm can một con người!
Hảo hoa bất thường khai
Hảo cảnh bất thường tại
Sầu đôi giải tiếu mi
Lệ sái tương tư đái
Kim tiêu li biệt hậu
Hà nhật quân tái lai?
(Hà nhật quân tái lai - lời Bối Lâm, nhạc Lưu Tuyết Am)
Hoa đẹp không thường nở
Cảnh đẹp không thường còn
Buồn đầy tan mắt cười
Lệ đẫm tràn nhung nhớ
Đêm nay xa nhau rồi
Bao giờ anh trở lại?
(?)
Khi Tư Lập nắm lấy chéo áo cô Hoàng Mai, "một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong : ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế. Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực".
Quả thật anh chàng Tư Lập này khá là thực tế và dứt khoát! Ở đây nếu tôi đòi hỏi một anh thợ ăn ong đem lòng cảm thương và luyến lưu mãi bóng hình thanh thoát thấp thoáng sau cội mai vàng cổ thụ và rồi anh chọn sống âm thầm bên cô như cái bóng để một ngày khóc nấc ôm cô trong tay khi cô trút hơi thở cuối cùng, có lẽ là tôi đã bị phim "ngôn tình" Hàn quốc ám ảnh quá nặng rồi!
Với hành động dứt áo ra đi ngay hôm sau, có thể nói Tư Lập rất tỉnh táo trong tình yêu. Phải chăng nên mạnh dạn chấm dứt khi thoáng cảm thấy có gì đó chông chênh không vững bền? Phải chăng thật sai lầm khi dấn sâu vào một cuộc hôn nhân không vẹn toàn, để rồi hối tiếc khi ngoái đầu nhìn lại? Và phải chăng sẽ là bi kịch khi ta chỉ nhận ra điều đó lúc màu tóc đã điểm sương?
Dù khó trách Tư Lập, nhưng cái cách cư xử kém lãng mạn của anh chàng này làm độc giả ít nhiều thất vọng... Nhưng không, hai năm sau anh trở lại nơi này, vì đâu? Phải chăng đúng như Tư Lập nói, "nghề ăn ong có nghiệp chướng", hay vì trong lòng anh vẫn còn xót xa hình bóng cũ, muốn quay về dù biết sẽ chẳng có gì thơ mộng đón chờ anh...
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
(Nguyễn Du)
Duyên cầm bằng đã đứt, hoài niệm tưởng phôi pha vẫn còn sợi tơ mong manh nắm níu vương vấn khiến xui anh trở về như để tìm lại ký ức oằn đau của một cuộc tình sáng trong chưa kịp bắt đầu đã vỡ tan tành không cách chi cứu vãn.
Mai đây khi dong rủi trường giang thâm sơn ngàn dặm, mỗi buổi chiều hiu hiu gió thổi, Tư Lập sẽ ngồi buồn ngui ngút nhớ rừng tràm lấm tấm bạt ngàn bông trắng tuyết, nhụy hoa ngọt chỉ ngửi thôi cũng đủ say lòng người nhưng cùng lúc cái dằm trong tim anh lại nhói lên từng giọt đắng ngắt, buồn tênh...
TCQN
SG, 28/09/2017

QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI (5) - Sông Gành Hào
Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy
Lãng hoa đào tận anh hùng
Thị phi thành bại chuyển đầu không
Thanh sơn y cựu tại
Kỷ độ tịch dương hồng
(Tam Quốc Diễn Nghĩa Ðề Từ - Dương Thận)
Cuồn cuộn Trường Giang về biển cả
Sóng hoa vùi cuốn hết anh hùng
Thị phi thành bại tan theo nước
Núi cũ bao chiều bóng tịch dương
(Thầy Phạm Khắc Trí dịch)
Những ngày bỏ phố lên rừng sống heo hút giữa thâm sơn cùng cốc thật buồn tẻ nhưng đó cũng là khoảng thời gian thanh tịnh, bình an và xum họp duy nhất trong đời mấy anh em tôi. Ban ngày chạy máy bơm tưới rẫy bạc hà mênh mông (lá bạc hà nấu tinh dầu, chớ không phải cây bạc hà nấu canh chua), nhổ cỏ rẫy khoai mì khoai lang, ban đêm cả nhà chỉ có hai cây đèn dầu leo lét, người lớn rì rầm đọc kinh Phật mong cho qua cơn mưa dầm để nắng lên cho vạn vật hồi sinh, con nít thì ôn lại sinh ngữ với hy vọng có cơ hội đắp vá lại tương lai e sớm lụi tàn.
Một buổi tối anh tôi dúi cho tôi cuốn kinh mỏng, bảo rảnh đọc đi nhóc, dễ hiểu mà thú vị lắm: Tôi biết "Na Tiên tỳ kheo kinh" của dịch giả Đoàn Trung Còn năm vừa tròn hai mươi tuổi.
Vừa đọc vừa cứ ngờ ngợ cảnh vua Di Lan Đà và ngài Na Tiên chắp tay xá nhau dường như quen thuộc lắm. Mấy ngày sau đang cho gà ăn mới sực nhớ ra, à thì ra chi tiết đó mình đã đọc qua trong truyện ngắn "Sông Gành Gào" (tập truyện Hương Rừng Cà Mau) của nhà văn Sơn Nam.
Chợt trong lòng tự nhiên có gì đó thôi thúc, muốn lục tìm để đọc lại, vì tôi tin rằng ở mỗi độ tuổi khác nhau, ta sẽ hiểu một quyển sách cách khác nhau rất nhiều. Khốn nỗi, sau đại dịch xé đốt sách xưa, nhà tôi đúng thật là khánh kiệt! Cả một thư phòng lớn với sách trên các kệ ăm ắp đủ thể loại đầy ứ lên tận trần nhà, mà mỗi lần lấy sách phải rê một cái thang, giờ chỉ còn leo queo dăm cuốn tự điển lãnh thưởng!
Mãi nhiều năm sau, sau khi lục lọi cả buổi ở chợ sách Đặng Thị Nhu, tôi mới tìm mua lại được quyển Hương Rừng Cà Mau với giá trên trời, có lẽ do tôi bị người bán "bắt thóp" khi thấy mình cầm cuốn sách có đóng con dấu tên anh tôi "TTD" mà mắt rưng rưng... Ngày nay sách đẹp in tràn lan, giới trẻ sẽ không bao giờ biết được tâm trạng ngẩn ngơ của một người, sau khi đã bị mất đi tất cả tài sản tinh thần (sách), có thể mừng rỡ và cảm động đến độ nào khi bất ngờ "trùng phùng" một quyển sách mình yêu thích, nhất là khi đó chính là một trong cả ngàn quyển sách lưu lạc của gia đình mình ngày xưa, có đóng dấu riêng ở trang đầu và mỗi mười trang, mà khi chợt nhìn thấy là lòng thảng thốt và nước mắt cứ chực trào!
Trở lại với câu chuyện "Sông Gành Hào" với ông Tây kiểm lâm Rốp và chú Tư Đức. Ở đây ta gặp một ông Tây không hề bóc lột hung tàn theo kiểu "thằng Tây ác quá" trong các sách giáo khoa, mà là một ông Tây hiền lành mộ đạo, đã đọc và biết trân trọng bộ kinh Na Tiên, nên cách cư xử với người dân bản địa có phần ôn hòa nhân ái. Tuy nhiên, thái độ xem thường dân An Nam của một kẻ đô hộ đối với người dân của một đất nước kém phát triển và dĩ nhiên là dân trí thấp là điều không thể tránh, nhứt là đối với người chở củi lậu như chú Tư Đức. (Sự miệt thị của người nước ngoài đối với dân Việt Nam cho đến ngày nay, thật đau lòng, ngày lại càng sâu đậm! Có nghĩa là xem ra mũi tên dân trí không tỷ lệ thuận với sự phát triển của đất nước trên biểu đồ!).
- "Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. Chú làm biếng, không chịu tạo lập".
- "Hồi 150 năm trước Thiên Chúa, phía bắc Ấn Ðộ có mấy ông vua Hy Lạp cai trị, giống như người Pháp cai trị An Nam bây giờ. Hồi đó, người cai trị với người dân bổn xứ thương nhau. Tại người dân bổn xứ tài giỏi quá, đâu phải như người An Nam bây giờ. Bây giờ không còn cảnh đó nữa ! Thí dụ tôi là vua Hy Lạp từ Âu Châu tới, chú là thầy tu Ấn Ðộ bị tôi cai trị. Chú có điều gì giỏi hơn tôi đâu mà hòng dạy lại tôi".
Vì đâu cuối cùng ông kiểm lâm Rốp từ xem thường chuyển sang thán phục và ví chú Tư Đức như ngài Na Tiên?
Sau khi chứng kiến người đàn ông mộc mạc chiến đấu với sấu dữ, giết ác thú nhưng sau đó lại thờ nó: "Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ... Ðể tỏ rằng mình sợ nó nhưng mà cũng... không sợ nó. Phải để cho nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát sanh".
Sấu thường đi một đôi, nhưng chú Tư Đức đã từ chối giết con kia:
"Mình giết một con đủ rồi, giết hết mình có tội với Trời Ðất. - Tội gì vậy, chú Tư ? - Tội sát sanh. Ðể con còn lại cho nó đi tu. Ðạo Phật của ông bà có nói lại như vậy đó".
Điều này cho thấy đức hiếu sinh của dân ta xưa, giết vì buộc phải giết để đem lại an lành cho con người, chớ không phải giết chóc vì tính hiếu sát, không phải để giải trí như đế quốc Anh xưa một thời đã xem Phi Châu là nơi săn bắn vô tội vạ, cũng không phải để chứng tỏ quyền sinh sát tối thượng đối với những sinh linh nhỏ bé và yếu ớt trong tay mình.
Và giết sấu không phải chỉ để cứu nguy cho người sống, mà còn: "Phen này tôi mừng vì cứu được vong hồn mấy người đã bị sấu ăn thịt. Theo lời tục truyền : họ thành cô hồn, sống vất vưởng trên lưng sấu. Lần lần cô hồn nọ bị sấu mê hoặc nên dẫn đường dắt nẻo cho sấu đi sát hại kẻ đồng loại. Bây giờ sấu chết, bao nhiêu cô hồn đã thảnh thơi, có thể tự do đi đầu thai trở thành người lương thiện".
Đến đây ông Rốp đã hoàn toàn bị chú Tư Đức khuất phục:
"Ông Rốp trầm ngâm suy nghĩ. Ông dè đâu người đốn củi lậu nọ có tài, có đức, biết thương người, thương cuộc đời đến mức ấy.
Ông chắp tay lại mà nói :
- Tôi khen chú nhiều lắm. Dân "An Nam" giỏi quá, hiền từ quá.
Ông Rốp giựt mình, nhìn lại bức tranh, tấm bản đồ Châu Âu, Châu Á rồi sực nhớ tới mấy lời nói hôm trước. Tấm hình nọ diễn lại cảnh đẹp ngàn xưa : hai ngàn năm về trước, tại hoàng thành của tiểu quốc nọ ở phía bắc Ấn Ðộ, lần đầu tiên người phương Ðông và phương Tây thông cảm nhau, cư xử bình đẳng. Giờ đây, qua bao cuộc luân hồi, hưng vong đầy nước mắt mà máu trên giải đất tận cùng của nước Việt Nam lại có hai người cũng đồng cảnh ngộ, đồng niềm thông cảm.
Ông Rốp buột miệng :
- Chú Tư Ðức là thầy tu Na Ga Sơ Na".
Ông Rốp đã tìm thấy nơi người An Nam vô danh nghèo khó một đức tính đáng quý, đó là sự khiêm cung, điềm đạm, nhân ái nhưng đầy mưu lược và dũng cảm, sẵn sàng đối đầu không nao núng với kẻ thù độc ác và hùng mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Và dù đã chiếm thế thượng phong nhưng không hề ngạo mạn hay say máu đối với con mồi, lòng dạ luôn ngay thật hiền lành, trong tiếng cười không có gươm đao. Đó há chẳng phải là đức-Dũng-của-thánh-nhân?
Và nữa, tuy nghèo nhưng chú Tư Đức luôn dửng dưng trước lời đề nghị hấp dẫn của ông Rốp:
- "Chú Tư họ gì, mấy tuổi. Ðể tôi chạy tờ về quan Tham biện chủ tỉnh xuất số tiền về thưởng công lao cho chú. Chú muốn làm lính kiểm lâm không? Tôi cho chú làm chức "bếp", ăn lương mỗi tháng mười lăm đồng bạc.
Chú Tư Ðức cười :
- Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có câu: "Kiến nghĩa bất vì vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng".
Thử hỏi có mấy ai không mềm lòng trước cuộc sống sung sướng no đủ, lại đi chọn nghề đốn củi cực nhọc thiếu trước hụt sau, tài sản chỉ là con thuyền rách? Về điểm này, người đàn ông An Nam nghèo khổ ít học ăn đứt vô số những kẻ giàu có, quyền thế hay trí thức "đáng kính" trong xã hội, bị vị tanh của đồng tiền khuynh loát, sẵn sàng chà đạp lên mọi sinh mạng, bẻ cong mọi giá trị đạo đức, đánh mất tư cách và nhân tính chỉ để được vinh thân phì gia!
Nhắc tới sông Gành Hào, tôi có một kỷ niệm khó quên. Khoảng năm 80 tôi tham gia một chuyến đi ở Gành Hào. Đứa học trò khờ khạo đi theo người trưởng đoàn trong "chuyến đi bão táp" từ Sài Gòn về tận Bạc Liêu. Chiếc xe cà khổ đầy ắp người vẫn dừng lại chớp nhoáng không dưới mươi lần để rước thêm khách, rồi chạy như giông như gió để "vượt trạm" (thời ngăn sông cấm chợ, trạm đặt ven đường chi chít để tịch thu gạo, vải, thịt heo, thuốc tây "lậu"). Một vài khách trên xe nôn thốc nôn tháo bắn ướt áo người ngồi bên. Trong chiếc xe đầy nghẹt người đứng chật lối đi, mùi hơi người, mùi xăng, mùi thức ăn nôn ra, mùi dầu gió lẫn với mùi mồ hôi... tất cả những thứ đó trộn lại thành một mùi kinh hoàng, nhớ tới còn rùng mình!
Xuống tới Hộ Phòng, lội sình một đỗi để leo lên tắc ráng, vượt thêm khoảng sông dài tưởng như Biển Hồ mênh mông không thấy bờ, chúng tôi tới Gành Hào lúc chiều chạng vạng. Lại lội bộ một đỗi nữa chừng cây số giữa hai bên sân rộng phơi cá tanh tưởi, vô tới nhà "vệ tinh" lòng mừng húm vì đã rã rời và đói lã. Đèn dầu leo lét đỏ quạch, mỗi căn nhà lá chìm trong tăm tối bí hiểm, phía sau là nhà sàn lé đé giáp mí nước, cách đó khoảng một cây số là cửa biển mênh mông u tịch như bị nén xuống dưới gầm trời chiều âm u xám xịt. Từng đoàn tàu đánh cá lũ lượt kéo nhau về nhộn nhịp, đưa sóng dập hết đợt này tới đợt khác ì oạp vào các cột gỗ làm cả gian nhà sàn sóng sánh đung đưa...
Cơm tối qua loa, đám con nít trong nhà "đi coi hát" đâu ngoài xã, người lớn vây quanh phân loại đống cá mới chuyển từ tàu. Đó đây những ụ muối trắng tinh nổi bật trong ánh sáng tù mù nhá nhem. Ngoài kia những thùng phuy tép nấu sôi trào bọt (để làm tôm khô), lửa bập bùng cháy sáng một vùng như những con mắt yêu tinh nhấp nháy trong đêm.
Tôi ngồi bó gối ngoài nhà sàn, mắt dõi nhìn biển xa tít ngoài kia đen kịt âm hiểm, lòng ngổn ngang trăm mối, nửa lo cho mẹ, chị, nửa lo cho phận mình. Tiếng con mèo con eo éo yếu ớt đâu đây... Trên cái sạp tre, con mèo mun mắt vàng ệch vô cảm ngoạm đứa con có lẽ vừa mới lọt lòng không lâu vất đó rồi bỏ đi mất. Đứa nhỏ còn chưa mở mắt, lông đen thui ướt nhẹp vì mới được nhả ra từ miệng mẹ, thân chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái, éo éo đến khản cổ và oằn oại lê la tìm mẹ như con sâu non gầy gò.
Trời đổ mưa mù mịt ngoài kia. Trong cuộc đời đứa học trò nệm ấm chăn êm, ngờ đâu có ngày ướt đẫm mưa biển với mưa rừng... Trong tiếng mưa đêm rì rào chen tiếng sóng ì oạp, con mèo con tiếng kêu giờ thành è è khản đặc oặt oại trong tay tôi. Hai linh hồn bé nhỏ tội nghiệp chìm sâu trong vùng sáng nhờ nhờ của ánh đèn dầu, viền bấc lụn tàn hấp hối...
TCQN
SG, 9/10/2017

QUYỂN SÁCH MỘT ĐỜI (6) - Con Bảy đưa đò
Nhân gian tối khổ, tối khổ thị phân ly
Quân ái ngã, ngã ái quân, thanh thảo ngạn đầu nhân độc lập
Họa thuyền đông khứ lỗ thanh trì
Sở thiên đê, hồi vọng xứ lưỡng y y
(Liễu Phú)
(Điều khổ nhất nhân gian là cảnh phân ly
Tôi yêu em , em yêu tôi , ngọn cỏ xanh mướt đầu sông một mình đứng ngóng
trông con thuyền lặng lẽ xuôi về bên đông , tiếng bơi chèo chầm chậm
Trời nước Sở nặng u buồn , người đứng vọng phía xa lòng cô tịch)
Sống tới từng tuổi này, thỉnh thoảng tôi vẫn tự hỏi: Tình yêu có thật sự tồn tại, hay nó chỉ là âm thanh?
Rồi sau đó luôn cảm thấy mình giống như con ve sầu tội nghiệp, sống không qua mùa Hè nên không tin rằng có mùa Đông!
Nhớ ngày còn đi học, đọc tới truyện "Con Bảy đưa đò", tôi hay thắc mắc với chị Hai tôi: Sao chỉ mới thoáng gặp nhau trên sông mà cô Bảy này đã dành cả đời để chờ đợi? Chị Hai cười tủm tỉm: "Vì đó là tình yêu, và nó đẹp vì không có đoạn kết. L'amour est seulement beau quand il est inachevé". Dường như vẻ đẹp não nùng của thứ tình dang dở đó vẫn còn giữ nguyên giá trị trong mọi thời?
Tôi hay tưởng tượng bóng cô Bảy đưa đò trong sương sớm, dáng nghiêng nghiêng uyển chuyển tay chèo, mắt dõi nhìn đám lục bình xa xa, mong mãi một bóng hình trong hy vọng mong manh. Sự tự nguyện đợi chờ của cô qua năm tháng đem mỏi mòn vào từng sợi bạc trên mái tóc ngày nào vẫn còn tươi xanh. Sao mà ủy mị đến vậy, phải lòng nhau qua một tiếng hò! Sao mà cảm động đến vậy, đi đem lòng yêu mến và chờ đợi cả đời một nhánh rong phiêu bạt, một chàng trai yêu nước vô danh!
Sự chọn lựa đợi chờ của cô Bảy đã được dứt khoát khẳng định dù ngay từ đầu người ấy đã thoái thác "Chí trai bốn biển là nhà". Tình yêu không phải chỉ phù du, tình yêu còn rất dại dột! Cho đến một ngày, "con Bảy" đã thành "dì Bảy": "Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ ? Còn đâu ánh trăng xưa ? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người ? Còn đâu bến sông "nhánh bần gie con đốm đậu" ? Và dì đã nói một câu bâng quơ không ăn nhập gì tới chuyện luộc lòng sao cho ngon: "Ở đây, hồi đó có người nói là cần "một tấm lòng"!
Tấm lòng của cô gái đưa đò hiện ra đẹp như lõi gỗ tạc thô sơ không sơn phết màu mè, không môi miếng bóng bẩy, cũng không hề nhân danh bất cứ thứ tình nào, chỉ đơn giản hiển hiện dài lâu, mỗi ngày một sâu đậm.
Câu truyện cũng đơn giản, hồi kết cũng đơn giản, nhưng đã lắng lại trong lòng bao thế hệ câu hỏi: Phải chăng tấm lòng là thứ đơn giản vô cùng, mà cũng hiếm hoi vô cùng???
Mảnh tình cô Bảy đưa đò gây ấn tượng mạnh trong tôi đến nỗi nhiều lúc tôi băn khoăn tự hỏi, có phải cô gái nào khi về già cũng có một câu nói để hồi tưởng về một bóng hình xưa cũ: "Hồi đó có người nói..."?
Riêng tôi, đó là câu: "Ở đây, hồi đó có người nói... đặc biệt thích nhạc phẩm Hương Xưa của Cung Tiến". Câu nói nửa đùa nửa thật kèm ánh mắt nheo nheo thăm dò, hàm răng trắng lóe và nụ cười nhếch kiểu Clark Gable lúc ấy đã cho tôi một cảm giác vô cùng bất an. Còn rất trẻ, tôi đã sớm nhận ra con bướm đuôi phụng đẹp đến nao lòng sẽ là mục tiêu không ngừng nghỉ của vô sốnhững kẻ yêu chuộng cái đẹp. Tôi thì không sẵn sàng dành cả đời mình để luôn luôn ở thế thủ và gìn giữ những thứ mà ai cũng thèm thuồng muốn tranh đoạt.
Thế là sau nhiều giông tố và lưu đày (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), "Hương Xưa" đã bay xa đến tận nửa vòng trái đất... Tôi chưa kịp chúc bướm đuôi phụng bình an và may mắn tìm được đóa hoa khác xinh đẹp giỏi giang hơn tôi, anh đã đột ngột ra đi trong một tai nạn thảm khốc, không kịp trở về tiếp tục dạy tôi môn Văn chương Pháp như anh đã hứa. Và vì mãi chen chân trong biển kiến thức mênh mông nên vẫn chưa kịp bay một vòng vườn hoa tươi thắm xứ người để tìm một đóa cho riêng mình...
...
Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi
Buồn sớm đưa chân cuộc đời
Lời Ðường thi nghe vẫn rền trong sương mưa
Dù có bao giờ lắng men đợi chờ
Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ.
Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó...