top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
QN_Cat.JPG

TRẦN CẨM QUỲNH NHƯ

Cựu PTG-ĐTĐ Cần Thơ

Sài Gòn______________

TCQN_Chuyenchuachien.png

TỐNG LINH TRIỆT
Thương thương Trúc Lâm tự
Yểu yểu chung thanh vãn
Hà lập đái tà dương
Thanh sơn độc quy viễn
(Lưu Trường Khanh)

Dịch: Tiễn bạn Linh Triệt
Trúc Lâm chiều tím nhạt
Rời rạc tiếng chuông chùa
Nón lá còn vương nắng
Bạn về trong núi xa.
(Nguyễn Hữu Vinh dịch)


 

Bữa nọ tình cờ chat với nhỏ em FB dưới tôi ba lớp, nghe nó nói lúc đi tu nghiệp bên Úc, khi đi chơi chùa Nan Tien ở New South Wales, nó đã muốn ở lại đó luôn. 

Câu nói lưu lại trong lòng tôi nhiều ngày. Cứ ngẫm nghĩ, đời đưa đẩy tôi tới nhiều chùa chiền, tu viện, hầu như lần nào tôi cũng rất muốn ở lại, không phải với tư cách tu sĩ, chỉ đơn giản là muốn ở lại thôi...

Sao lại nói "đưa đẩy" ? Vì gia đình tôi tuy đạo Phật nhưng chỉ thờ Phật chớ không có đi chùa! Ngoại, Má vốn vậy, nên đám con nít lớn lên cũng theo nếp đó, không có thói quen đi chùa lạy Phật. Ngoại Má tuy là những người xa xưa thời trước, nhưng đã biết "Phật tại tâm", cũng hiểu chắc gì có Phật trong chùa?

Buồn, tôi muốn kể bạn nghe chuyện chùa chiền, những nơi tôi đã trải qua, bạn nghe chơi đỡ buồn. Không phải viết để đả phá công kích ai, cũng không phải theo trend sư Minh Tuệ, chỉ là tuổi già hay kể lể chuyện năm xưa tháng cũ như một cách tâm sự với chính mình, và để kịp ghi lại những hoài niệm xa xưa trước khi mọi thứ "trả có về không"!

 

1. CHÙA BẢO AN (Cần Thơ)

Ngôi chùa đầu tiên tôi bước chân tới, không phải để lạy Phật, mà để... dệt chiếu! Sau 75, tổ hợp này nọ khắp nơi mọc lên như nấm, ai cũng ráng chen chân đóng tiền để có một chân hội viên, vì nghe nói như vậy sẽ không phải đi kinh tế mới. Tổ hợp dệt chiếu của chùa nữ Bảo An (gần rạp hát Tây Đô của ông bà Văn - Ngọc) được đặt ở hậu liêu, khá rộng rãi thoáng mát. Mấy chị em tôi học nghề mau mắn, biết chạy dây trân, dệt được cả chiếu Nam lẫn chiếu Bắc. Thời đó ngoài sư Trụ trì chùa Bảo An là thầy MT, một thanh niên dễ thương, điềm đạm, nho nhã có nụ cười tuyệt đẹp với hai hàm răng trắng như ngọc, còn có Đại đức tên H, bậm trợn hơn và hay tếu táo nói chơi qua lại với các sư cô. (Cũng không hiểu sao chùa nữ lại có hai nam?).
Mà khai thiệt, giờ nghĩ lại mắc cỡ hết sức, tôi tới chùa đúng giờ tăm tắp chỉ là để dệt chiếu, rồi lát mới lên chánh điện lạy Phật sau khi đã ngồi dệt quá lâu mỏi mệt muốn đi lại một chút cho rảo cẳng!

Bạn cùng lớp tôi TH và HH cũng đã xuất gia tại chùa này một thời gian rất ngắn sau tháng Tư 75, nhưng lúc đó tôi gặp TH nhiều hơn, dường như vì sau đó HH đã chuyển về một chùa khác hay sao, lâu quá không nhớ. Có hôm tới dệt chiếu sớm, thấy trên bảng nguệch ngoạc mấy câu; "Kiếp sau xin chớ làm người, Làm người xinh đẹp cho trời đất ghen!". Tôi nhìn chữ biết liền ai là tác giả, chỉ cười khì trong bụng: Người viết hai câu này đã xuống tóc nhưng vẫn còn chưa dứt hết tục lụy thế gian, mà cũng còn kiêu mạn lắm, tự cho mình xinh đẹp nên nhiều người ghen ghét!
Chùa - có thể là chùa Bảo An đầu tiên mà tôi tới lui thời gian khá lâu đủ để biết những chuyện "thâm cung bí sử", cũng có thể đó là hiện trạng hầu hết các chùa hiện nay, mà còn hơn vậy gấp nhiều lần! - chỉ đơn giản là một xã hội thu nhỏ, đầy tham sân si, đủ hỉ nộ ái ố ai cụ dục! Một ni sư có tuổi là sư T, chuyên cho các ni sư khác vay tiền (tính lời hẳn hoi), còn hai sư cô TP và TÂ thì rất khắc khẩu, chửi lộn nhau mỗi ngày - không phải chửi kiểu thường tình, mà kiểu rất "anh chị": "Bữa nay nhứt định phải có máu mới được!".
Trong chùa còn có một sư cô tên H đẹp lắm, nhưng chỉ đẹp khi cô đội khăn vải lam, khi mở khăn ra thì đầu cô phần trên lớn quá khổ và có nhiều góc cạnh khiến cô kém đẹp hẳn, nên cô không bao giờ rời cái khăn lam!!! Cô hay khoe nhờ sắc đẹp mà cô đi đâu cũng được người ta thấy thương nên tự nguyện chen lấn mua vé xe giùm (thời đó mỗi lần muốn mua cái vé xe từ Cần Thơ lên Sài Gòn cũng phải đứng sắp hàng từ 3g khuya, thiệt trần ai khoai củ!!!)
Thầy Đại đức tên H có lần hỏi tôi ý nghĩa câu hát "Hoa mua ai bán mà mua", tôi thấy tánh thầy hay cợt nhã nên chỉ cười cười không trả lời.
Riêng thầy Trụ trì đứng đắn hơn, thấy chị em tôi học trò, còng lưng cóp cổ dệt chiếu một ngày có mấy đồng chẳng đáng tiền mua dầu xoa lưng, thầy tội nghiệp, hay giấm giúi cho khi thì bọc xà bông bột (chùa cũng làm tổ hợp xà bông, thứ xà bông thủ công thời đói khổ, bột lợn cợn hột trắng hột xanh, ít bọt mà nhớt nhợt, giặt lâu hai tay ngứa ngáy muốn lở), khi thì vài cái bánh ít chùa làm ngày rằm. Tín nữ "say nắng" Thầy trụ trì rất đông, kiểu mấy bà Thị Mầu khoái chọc ghẹo sư đẹp làm vui. Hôm đó mồng một khách thập phương tới chùa rất đông, có một cô ăn mặc lòe loẹt thơ thẩn đi lạc xuống hậu liêu gần gian nhà ngủ của mấy thầy, thầy trụ trì hỏi cổ đi đâu, cổ nói: "Thưa anh em đi chùa!". Làm tôi dệt chiếu gần đó cười chảy nước mắt.
Nhiều năm sau, khoảng tám mấy, thời gian tôi lưu lạc khắp nơi, nghe chị tôi nói thầy Trụ trì vì thất tình một anh chàng đang nồng thắm với thầy bỗng bỏ đi cưới vợ, thầy buồn khổ nhảy lầu không chết nhưng hai hàng tiền đạo vĩnh viễn ra đi. Ôi trời tôi tiếc hai hàm răng thầy đứt ruột, tôi con gái mà nước răng thua thầy xa lắc. Nghe nói mấy bà tín nữ xồn xồn có, già khú đế đại vương cũng có, vì tranh nhau chăm sóc thầy mà gây gổ nhau rùm beng trong nhà thương khiến bác sĩ y tá đều ứ hự! (Thôi dù sao con cũng xin chúc cho Thầy trụ trì và mấy bà tín nữ luôn được hạnh phúc!!!).


Ngôi chùa đầu tiên tôi biết trong đời đã không cho tôi một ấn tượng đẹp đẽ cho lắm, cho nên sau này tôi rất thận trọng khi có dịp bước chân vào mỗi nơi tu tập nào khác! Cũng từ đó tôi tới mỗi ngôi chùa đều bằng cặp mắt quan sát và thủ thế, chớ không như người ta luôn tới nơi thiêng liêng với lòng ngưỡng mộ và kính mến.

 

2. CHÙA PHƯỚC HẬU (Trà Ôn - Vĩnh Long)


Chùa Phước Hậu giờ đây nguy nga mênh mông với đền đài mái cong và vườn kinh đá nổi tiếng, hơn 40 năm trước im lìm lạnh lẽo lắm vì sau 75 rất nhiều tăng bỏ tu trở về cuộc sống bình thường hay đi nhậm chức ở địa phương.
Khi hai bạn tôi là TH và HH rời chùa nữ Bảo An về tu ở chùa Phước Hậu, tôi có đi thăm tụi nó một lần. TH dẫn tôi xuống bến đò ở bến Ninh Kiều, đi đường sông khá xa. Đó cũng là lần đầu tiên tôi đi đò trên con sông lớn dập dờn sóng ngụt bờ, mở đầu cho những chuyến đi vô vọng khác trên biển cả mênh mông...
Chùa Phước Hậu có hai cổng, một cổng chánh có thể đi đường bộ nhưng thời đó nghe TH nói đường nhỏ khó đi sình lầy trơn trợt, còn cổng phụ ngó ra sông Hậu, ngay khúc sông rất lớn năm nào cũng có người chết vì sóng lớn, vỏ lãi chở khẳm nên bị chìm, mấy thầy trong chùa thường phải bơi ra tiếp cứu. Có lần TH kể tôi nghe người ta chọc thầy Trụ trì, hỏi Thầy ơi nếu có cô gái và bà già đang chới với gần thầy thì thầy cứu ai trước? Thầy nói ai gần nhứt thì cứu trước, khéo hỏi!
Chùa lúc đó còn nghèo và vắng vẻ lắm. Vựa rau cải ở chợ người ta gọt tỉa cho đẹp để bán, phần bỏ đi người ta chở tới cho để chùa tuyển lại nấu ăn (!). Tôi nhìn hai con bạn lua cơm với tô canh cải lỏng bỏng nêm muối (chớ làm gì có bột ngọt mà nêm), không có tương chao cũng không có tàu hủ, lòng quá ngậm ngùi, thấy thương tụi nó gì đâu!
TH thấy tôi khó ăn, nó ra rào cắt mồng tơi vô nấu cho tôi một tô xanh um bắt mắt. Lần đầu tiên tôi ăn canh mồng tơi ui cha sao nó nhớt nhợt, chưa kịp nhai nó đã lọt xuống cổ! Tôi đành xin mấy hột muối cục ăn với cơm, vậy mà ngon (chắc tại đói quá cả ngày hổng có gì ăn!).
HH hay xoa xoa cái đầu trọc của nó, đổ thừa tại rửa nồi dưới sông mà cái đầu đen thui. Tôi chọc nó, nói "cô" trây lọ nghẹ lên đầu hay sao? (Từ hồi tụi nó đi tu thì tôi không được mày tao nữa, tụi nó bắt phải kêu bằng "cô" đàng hoàng, một đứa là cô D. Đức, một đứa là cô D. Đạo) Nó cười ngất: "Bậy, tui ngồi dưới sông, nắng rát đen thui cái đầu!".
Tôi nói với TH ý muốn ở lại chùa lâu lâu, nó nói một là tôi xuống tóc đi tu thật sự, hai là ở chùa thì phải chở vô chùa mỗi năm bao nhiêu giạ lúa đó tôi không nhớ, chớ chùa nghèo người lạ không ở lại được, mà mi ăn khó như quỷ, chẳng lẽ ở chùa mà đi ăn mặn??? Tôi nói tao ăn chao xào rau muống, ăn tàu hủ chiên giòn với bún chan nước tương. Nó nói thôi cho tui xin can! Chọc nó thôi, chớ cuối tháng tôi đã có chuyến đi rồi, nếu thành công thì lần này là lần gặp nhau cuối cùng! (Nhưng đời không như là mơ, tôi cứ thất bại hoài. Sau này TH ra đời, có chồng con, tôi về thăm nó một lần tại nhà riêng ở Đầu Sấu, và thăm nó lần cuối cùng ở bệnh viện Chợ Rẫy, sắp ra đi mà nó vẫn liếng thoáng, vẫn cà rỡn y như hồi học lớp C bên PTG, nó "quánh" L.Anh xỉu  bằng đôi găng tay không-bao-giờ-giặt của nó!)
Mà ngộ, tụi nó đi tu nhưng không chững chạc hơn mà vẫn cắc cớ liếng khỉ như hồi còn đi học: Gần chùa có nhà ông thầy bói, đông con lít nhít nuôi không nổi, tụi nhỏ đói quá thường cầm tô qua xin chùa cơm nguội. HH và TH hay xúm lại chọc tụi nhỏ đủ điều trước khi cho chút cơm. Những bờ môi nhợt nhạt vì thiếu đói, những đôi mắt mở tròn ngây thơ sao như lạc lõng trong tiếng chuông chùa thanh thản loang dài trên sông rộng trong ánh chiều dần buông...
TH, HH giờ đã lần lượt ra đi hết rồi! Có lẽ nhờ tụi nó có tu nên xả nghiệp sớm, bỏ cõi Ta Bà về nơi tốt đẹp hơn?

 

3. CHÙA VĨNH KHÁNH (Trà Ôn - Vĩnh Long)

 

Kê điền đồng vũ bán đồi khiên

Tát đỏa huề dư phóng hóa thành

Đại giác hải trung quân dị độ

Vô cùng môn lý ngã nan hành

(Lê Thánh Tôn - Đề Tu Mộng tự trụ khắc)

(Chùa cũ hoang sơ đã nửa phần

Cửa Thiền sư cụ dắt lên thăm

Dễ dàng Thầy vượt qua bờ giác

Vất vả tôi đi giữa cõi trần)

(?)

Tôi ở chơi với TH và HH hai ngày thì về. Nhân TH nói em gái nó (em họ?) đang ở chùa Vĩnh Khánh cách đó không xa, nên tự nhiên tôi muốn tìm tới. Giờ nghĩ lại thấy lạ, vì tôi không biết tôi muốn tới đó để làm gì, chỉ là muốn tới vậy thôi. Trong khi chùa Phước Hậu đi tới thiệt dễ dàng vì vừa bước lên bến đò là gặp liền cổng chùa, thì chùa Vĩnh Khánh thời đó, cha mẹ ơi, đâu có đường tráng nhựa rộng rãi dễ đi như bây giờ, mà từ chỗ đò cho mình lên bờ - một cái bờ vắng teo hoang dại hiu hắt tới rợn người, là con đường mòn lầy lội không một bóng người, xa xa mới thấy lụp xụp một nóc nhà tranh cũ kỹ. Ngôi chùa như trốn kỹ trong hàng hàng cây cối bụi lùm chằng chịt như rừng... Amazon, tiếng ve kêu râm ran vút âm âm trên những vòm cây cao, còn có cây cầu khỉ lêu nghêu thách thức cô gái thị thành. Tôi run bây bẩy khi bước lên cầu, tay vịn nhỏ xíu và thân cầu rung lên dưới mỗi bước chân...

Chùa Vĩnh Khánh trong trí nhớ tôi thật đơn sơ tới mức hoang vắng và đầy vẻ âm u trong vườn chanh bát ngát với chỉ một thầy Trụ trì chớm trung niên, cao ráo điềm đạm, ngày trước là một thầy giáo, và một ni sư già khắc khổ ít nói.

Thầy Trụ trì cho hay em gái TH trong đoàn Phật tử vừa ra về cách đó không lâu, vừa ngạc nhiên vừa có vẻ vui mừng trước sự có mặt bất ngờ của tôi lúc đó đang ngồi thụp trong sân chùa vuốt ve mấy con chó dễ thương rất hiền lành với khách lạ.

Chúng tôi nói chuyện có vẻ rất "hợp rơ", có lẽ do hiếm có thiếu nữ nào ngưỡng mộ lối sống ẩn tu trong một miền hoang vắng vì tất cả chung quanh đều toát ra một vẻ thiếu thốn khó nghèo, cũng có lẽ do Thầy hài lòng câu trả lời của tôi cho câu hỏi nghĩ sao về câu nói mà nhiều người không hiểu Phật pháp cho là Đức Phật vừa mới sanh đã kiêu mạn: "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn". Thầy khéo léo vừa kể chuyện vừa hỏi tới tới, xem tôi có biết tại sao áo nhà tu màu đất, tại sao có khi Quán Thế Âm Bồ Tát lại là đàn ông, tại sao đức Phật ra đời đi bảy bước, và tại sao ngài Duy Ma Cật cả đời chỉ là cư sĩ tại gia?... Sư tỏ vẻ thích thú khi một cô nhỏ mười tám tuổi mặt non choẹt như tôi nói lan man chuyện mùa Thu thuộc hành Kim nên lá vàng rụng hết, và chuyện ngày xưa những kẻ tử tội luôn bị đưa ra pháp trường trong chỉ mùa Thu! (Tôi cũng chẳng phải hay ho tài cán gì, mấy kiến thức này tôi có được chỉ nhờ lẻn vô lớp mấy chị lớn học dự thính anh Ba tôi!).

Thầy ngậm ngùi kể tôi nghe lúc phồn thịnh nhứt của ngôi chùa có gần hai trăm tăng trẻ tu tập, nhưng ngay sau tháng Tư 75 thoắt cái tất cả đều rời chùa trở về sống đời bình thường, mà đa số là cán bộ nằm vùng đi nhậm chức cao. Thầy cũng kể về khu vườn mênh mông nuôi sống thầy và ni sư già chỉ với những cây chanh xum xuê nhưng cho trái èo ọt. Bên bờ sông Hậu bát ngát phù sa đục lờ, sao Thầy không trồng cam, trồng quýt, trồng xoài cho giá trị kinh tế cao, mà lại trồng chanh? Thắc mắc đó tôi nhút nhát ngại hỏi, nên tới giờ vẫn không có câu trả lời.

Thầy đưa tôi ra cổng chùa, thoáng bịn rịn như một tri kỷ dù chỉ mới quen, hỏi bao giờ tôi trở lại thăm chùa?

Còn tôi trong lòng tha thẩn nghĩ thầm, nếu số mình mãi không đi được, có nên chăng mình trở lại sống hết đời trong chốn am nghèo???
 

4. CHÙA VĨNH NGHIÊM (SÀI GÒN)

(Trích vài đoạn từ "Tro Lạnh" của TCQN)

Phật nhìn ra núi xanh

Núi chìm vào mây phủ

Mây muôn đời bay lẫn mãi vào mây.

(Vũ Quần Phương)

Không hiểu lúc trước bà chị tôi nghĩ sao mà đem hũ cốt của ông bà Ngoại, Ba Má, anh tôi và thằng cháu nhỏ gởi hết vô chùa "Hột Xoàn" - biệt danh chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn. Lúc đó sau 75 nhiều năm rồi, gia đình tôi suy sụp rồi, nhưng có lẽ luân lưu trong huyết quản của từng đứa chúng tôi vẫn còn rần rật dòng máu "công tử Bạc Liêu", nên chọn một chỗ yên nghỉ cho người thân, bà chị tôi cũng đi chọn chùa "sang", với một lý do rất ư là chánh đáng : nếu một ngày đẹp trời các chùa bị "dẹp", thì đây gần như "quốc tự", chắc được giữ lại, ông bà không đến nỗi bị "vô gia cư"!

Khi nói đến "chùa", ta hay liên tưởng đến chuyện "miễn phí". Như coi phim chùa, ăn chùa, xài chùa... Nhưng một chỗ nhỏ vừa đủ đặt một hũ cốt trên kệ của tháp cốt chùa Vĩnh Nghiêm không hề "chùa"! Khu "chung cư cao cấp Phú Mỹ Hưng" này được chia làm ba tầng, tầng dưới là tầng VIP, sáng sủa đẹp đẽ, được ở kế sát tượng Phật Địa Tạng đen mun sáng loáng. Tầng hai âm u hơn, chật chội hơn, là của "thường dân". Tầng ba trên cao rất sáng sủa phong quang, dành riêng cho các tăng ni đã viên tịch. Tầng trên tầng dưới, kệ cao kệ thấp, hàng ngoài "mặt tiền", hàng bên trong "hẻm", tất cả đều có giá tiền khác nhau (giá cao hơn những chùa khác gấp nhiều lần, và gởi cốt ở đó rồi, người thân cũng phải thăm viếng cúng dường thường xuyên, nếu không hũ cốt sẽ bị cho đi "vư ợt bi ên" - nguyên văn).

Tôi thường đi viếng tro cốt người thân vào các ngày bất định trong năm. Không phải Thanh Minh, không phải Vu Lan, không rằm tháng Bảy cũng chẳng phải lễ Tết. Tôi không chịu nổi khói nhang và cảnh chen chúc khó thở vào những ngày đặc biệt đó. Tôi chọn một ngày rất bình thường để có thể hoàn toàn thư thả cúi lạy chư Phật ở chánh điện mà không sợ chúi nhủi vào người khác, để có thể ngồi yên ắng trên mấy bậc của cái cầu thang xoắn ốc trên tháp cốt và thì thầm nói chuyện với từng người thân. Những gương mặt thân quen mà sao vời vợi xa, những ánh mắt sao trong vắt mà u buồn đến vậy... Nói theo kiểu Trịnh Công Sơn khóc mẹ : "Nhìn vào thấy buồn, ngậm ngùi, và sự vô nghĩa của cái chết càng vô nghĩa hơn...".

Nỗi đau quặn thắt khi ta mất một người thân theo thời gian rồi có lúc cũng phai nhạt, chỉ còn lại nỗi ngậm ngùi bàng bạc, một niềm thương cảm cho những phận người sinh bất phùng thời trong phút chốc đất trời nổi cơn gió bụi...

Nói chuyện tro cốt, để kể bạn nghe. Tôi có nhỏ bạn thân từ hồi còn học đệ Thất. Khoảng năm 76, 77 nó lấy chồng là thủ trưởng của nó ở ngoải vô, lớn hơn nó gần hai mươi tuổi. Bạn bè từ hồi để chỏm, mấy mươi năm sau tôi gặp lại nó nhân dịp một đứa trong bọn gả con, lúc ấy nó đã cháu nội, cháu ngoại đầy đàn. Bốn năm con bạn già nằm gác chân lên nhau, nói chuyện suốt đêm, mấy bà già U.70 gọi nhau í ới bằng “hỗn danh” Tre Miễu, Hột Mít, Chim Sâu... và nhát ma nhau la í ới y như hồi còn đi học. Rồi nhỏ đó kể cho cả bọn nghe chuyện hồi nẳm lúc chồng nó thời trẻ đi bộ đội bên Campuchia, tối đóng quân ở một ngôi chùa, chồng nó không tin có ma, là người “chẳng sợ trời cũng không sợ đất” (nguyên văn), ổng mới cắc cớ tới chỗ bàn thờ cốt, nạy nắp hũ cốt của người ta ra rồi đổ tro cốt của người này qua hũ của người kia, giỡn với nhau rần rần, bảo “ông này qua hũ bà kia nằm chung cho ấm cúng”. Nó kể chuyện tỉnh bơ, vừa kể vừa cười hí hí, không có vẻ gì là chê trách, còn lộ vẻ tự hào lấy được ông chồng bạo dạn. Tôi ngỡ ngàng. Con bạn tôi mới ngày nào còn rất sùng đạo và duy tâm, giờ đây nó đem chuyện xúc phạm người chết ra làm chuyện tếu, thì có lẽ bạn tôi đã thay đổi quá nhiều???

Giờ lại kể bạn nghe một chuyện kỳ lạ xảy ra với tôi nhiều năm về trước khi tôi đi viếng hũ cốt người thân ở chùa Vĩnh Nghiêm. Như đã nói ở trên, tầng hai tháp cốt khá chật chội và âm u – chật chội không phải vì tháp không đủ lớn, mà vì tất cả các kệ đều chập chùng đầy ngập hũ cốt, chỗ trống hầu như không còn mấy. Một bàn thờ Phật nhỏ, thấp, được đặt ở giữa tháp, nhang khói mù mịt. Có bảng thông cáo yêu cầu không cắm nhang ở các hũ cốt, nhưng thấp thoáng đó đây vẫn thấy nghi ngút khói trên các dãy kệ (có lẽ do người Việt mình luôn "nổi tiếng" không ưa khuôn phép). Mùi trầm hăng hắc của nhang, mùi thơm nồng từ các vòng hoa lài trắng tinh chất vun dĩa trên bàn Phật và trên các hũ, mùi tanh tanh lành lạnh của âm khí… đã tạo nên một mùi rất đặc trưng nơi tháp cốt.

Các hũ cốt xếp san sát thành ba bốn hàng trước sau trên các kệ vòng quanh tháp. Nếu hũ nằm ở kệ trên, phải leo lên cầu thang xoắn mới thấy được người thân, nhưng không thể với tới. Do vậy, khi muốn lau sạch bụi bậm cho các hũ, mình không thể tự làm, mà phải nhờ thằng bé giúp việc trong tháp cốt, dĩ nhiên là kèm thù lao. Nó sẽ leo lên một cái thang cao ngất, phất phất lia miếng giẻ sơ sài qua loa. Thôi thì miễn bụi không phủ dầy che mờ ảnh chụp gắn trên hũ là được rồi. Có những chuyện mình không thể không chắt lưỡi cho qua, dù có bực bội ít nhiều.

Hôm đó tháp cốt khá vắng. Tôi ngồi trên bậc cầu thang xoắn, lầm thầm “nói chuyện” với từng người thân trong cái không khí nhờ nhờ lặng ngắt đó. Này là ông Ngoại tôi, giàu có vàng phơi bằng nia mà gương mặt khắc khổ như một lãng tử phong trần. Này là bà Ngoại tôi một phụ nữ cứng cỏi bản lĩnh. Kìa Ba tôi lừng lẫy một thời công tử Bạc Liêu, Má tôi đôi mắt buồn nửa đời u uất, anh tôi một đời tài hoa khẳng khái, đôi mắt sáng xếch nhẹ và nụ cười tươi, và cuối cùng, thằng cháu nhỏ của tôi đôi mày đen nhánh hai mắt tròn ngây thơ, nó cười toe toét răng còn chưa mọc đủ… Tất cả những cuộc đời khổ đau có, hạnh phúc có, phong lưu có, bất hạnh có… giờ chỉ là những nắm tro buồn tù túng ngột ngạt trong các bình sứ vô tri…

Giữa không gian trầm mặc đó, từ góc khuất xa nhứt của tháp cốt, một chuỗi cười thơ trẻ vang lên, khanh khách, vang vọng xa mà gần, giòn tan trong vắt, ngân như tiếng khánh. Tôi hoàn toàn không có ý niệm về sự sợ hãi, cứ cho là có đứa bé nào theo người lớn vào tháp rồi đùa giỡn cười vang.

Ngồi nãy giờ đã lâu, tôi xá người thân rồi đứng dậy xuống lầu ra về. Lúc đó chung quanh rất vắng lặng, xuống đến tầng dưới, chỉ đôi ba cụ già quỳ lạy Phật Địa Tạng, vị sư giữ tháp đang ngồi tại bàn lúi húi đếm tiền, tuyệt nhiên không có đứa trẻ nào. Tôi đi vòng ra phía sau tháp, chỉ là một khoảng đất rộng vắng người, cỏ dại lô xô lởm chởm gạch đá, ở góc tường năm bảy hình nhân xe ngựa chờ đốt, xa xa một đống rác lớn nghi ngút khói… Ai đã buông tràng cười giòn giã pha lê? Linh hồn trẻ thơ không vướng bận thiên hạ sự, bồng bềnh trong chốn u minh, chơi vơi theo tiếng kinh kệ, lòng thanh khiết đọng thành chuỗi cười vô tư?

Tôi làm đơn hiến xác cho Đại học Y Dược Sài Gòn từ khi còn rất trẻ. Mỗi tháng chạp âm lịch hằng năm, bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Dược đều có thơ mời tham dự lễ Macchabée tri ân những người hiến xác cho khoa học. Mấy năm sau này nghi lễ đơn giản hơn, chỉ tổ chức gói gọn trong sinh viên và các giáo sư bác sĩ. Chồng con tôi không ai đồng ý chuyện hiến xác. Mấy cha con không thoải mái khi nghĩ đến cảnh thân xác tôi bị mổ xẻ manh mún cho đến khi không còn xài được nữa sẽ được đem thiêu, sau đó tro cốt gởi trả về cho gia đình. Do vậy chuyện tro cốt của tôi thỉnh thoảng lại là vấn đề gây tranh cãi trong nhà. Tôi thì chỉ nghĩ đơn giản rằng, chắc rất có ích khi bọn sinh viên trường y mổ bung tôi ra để nghiên cứu một trường hợp khá là đặc biệt : một cơ thể đầy bịnh tật mà bề ngoài trông vẫn rất… hiên ngang !

Tôi không thích tro cốt của mình lưu lại nơi tháp cốt nhà chùa, ngột ngạt lắm những hũ cốt san sát, tối tăm... Rãi tro ra biển, lãng mạn, trữ tình ! Thân xác tung hê theo gió lộng. Mặt nước có lẽ cũng không nề hà chi nhúm tro tội nghiệp, mà cuộc đời bất đắc chí chẳng mong kéo dài chi cho đa thọ đa nhục.

O Mort !

Vieux capitaine, il est temps, levons l’ancre !

Ce pays nous ennuie.

O Mort ! Appareillons !

(Beaudelaire)

(Hỡi Tử thần !

Vị thuyền trưởng già ơi, đã đến giờ rời bến !

Cõi đời này ta đã ngấy.

Tử thần ơi hãy sửa soạn đi thôi !)

Quê Nội tôi ở Sóc Trăng, đất đai của Nội chạy dài tới Bạc Liêu, khu mộ gia đình ở miếng đất lớn khoảng giữa đường đi Kế Sách. Mộ ông bà Nội xây theo kiểu Tàu hình cánh dơi (ông Nội tôi là người Minh hương), dưới chân ông bà là con cái, cháu chắt nằm lớp lớp yên bình. Chắc chắn ở đó sẽ thiếu một chi họ là gia đình chúng tôi, những đứa cháu không may mắn, đã và sẽ gởi nắm xương tàn khắp bốn phương trời vì không có dịp quay về cố hương.

Riêng tôi, một ngày nào nằm yên nơi đáy nước, có lẽ đó mới là lúc cảm thấy an bình thật sự. Cởi bỏ hết những muộn phiền tiếc hận, tâm trí thong dong, lòng nghe thanh thản… Hạt tro là tôi bây giờ mới vô tư vươn mình đùa chơi cùng con cá nhỏ…

Trần gian bay biến vào hư ảo,

Ta sẽ mơ bằng tim đã tro…

(Pha Lê)

 

SG, 26/06/24

Trần Cẩm Quỳnh-Như

(Hình: Chùa Yên Tử, Quảng Ninh)

_____________________

Lại bình loạn :-))

 

Anh Thành mến, thầy Phạm Khắc Trí ở Mỹ năm 2014 có gởi về tặng QN bản dịch bài thơ “Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm” của nhà thơ Lý Thương Ẩn. Phần trên là nguyên tác của Lý Thương Ẩn và bản dịch của thầy Trí, phần dưới là bài “bình loạn” QN gởi cho Thầy.

 

-------------------------


Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm

Lý Thương Ẩn (813 - 858)
Ky tự quan quan dạ cảnh xâm
Cao song bất yểm kiến kinh cầm
Phi lai khúc chử yên phương hợp
Quá tận nam đường thụ cánh thâm
Hồ mã tê hòa du tái địch
Sở viên ngâm tạp quất thôn châm
Thất quần quái mộc tri hà hạn
Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm



Ngủ Đỗ Ở Đình Tấn Xương Nghe Tiếng Chim Hót Hoảng

PKT 03/15/2014


Trời tối dần , lòng kẻ ngủ đình nơi đất khách, ngổn ngang trăm mối
Qua cánh cửa sổ trên gác không khép, nhìn thấy một con chim bay hoảng
Bay lạc lõng xuyên qua đám khói vừa tụ lại ở đầu bến sông
Rồi mất dạng, khuất vào bụi cây rậm trên bờ đê ở phía nam
Văng vẳng nghe như tiếng ngựa Hồ hí, xen với tiếng sáo từ ải Du
Tiếng vượn Sở hú, lẫn trong tiếng chầy giặt quần áo ở thôn Quất
Lạc bầy ,lìa tổ , đêm phải ngủ treo ở trên cành cây, cho đến bao giờ đây
Chim ạ , ven trời xa cách , thân ta lúc này cũng như chim mà thôi



Một Tối Ngủ Đình

PKT 03/15/2014
Chiều tối , ngủ đình , dạ vấn vương ,
Cánh chim lẻ bạn , thoáng trong sương.
Xuyên quàng đám khói thưa đầu bến ,
Chúi lủi bụi cây rậm cuối đường.
Khúc sáo ải xa , sầu viễn xứ ,
Tiếng chầy thôn vắng, hận tha phương.
Lạc bầy, đất lạ , đời phiêu bạt,
Vò võ ven trời , ôi cố hương .

 

-----------------------------

 

Thưa Thầy,
Cảm ơn Thầy đã gởi cho em một bản dịch hay.

Bài thơ này em đã từng đọc được bản dịch của dịch giả Lê Nguyễn Lưu trên mạng như sau:

Trọ đình Tấn Xương, nghe con chim e sợ
Lữ khách đêm thâu dạ sắt se
Cửa cao chẳng đóng thấy chim e
Bay về bến ngoặt sương mù toả
Qua đến ao nam cây rậm che
Sáo ải ngựa Hồ xen lẫn vọng
Chày quê vượn Sở nhịp hoà nghe
Lạc bầy nương cội lênh đênh mãi
Lưu lạc lòng ta cũng rụt rè

Trong đó em để ý mấy câu:

1. Cửa cao chẳng đóng thấy chim e
2. Sáo ải ngựa Hồ xen lẫn vọng
3. Chày quê vượn Sở nhịp hòa nghe
4. Lạc bầy nương cội lênh đênh mãi
5. Lưu lạc lòng ta cũng rụt rè

Em thấy dịch giả gieo vần và đối khá chặt chẽ nhứt là trong các cặp Thực và Luận, nhưng vẫn cảm thấy đôi chút gượng ép (chữ "chim e" và "hòa nghe" ý ngô nghê ; chữ "rụt rè" diễn tả sự e dè nhút nhát, đâu phải tâm trạng "viễn cách thiên nhai cộng thử tâm", vì trong lòng tác giả đang chung tâm trạng thê lương với con chim lạc đàn ở nơi cách biệt ngàn trùng). Dù không bị "thất đối" nhưng toàn bài ý tứ chưa lột tả được tâm trạng u uất thương đau của thi hào Lý Thương Ẩn.

So với bài của Thầy, mấy câu này là:
1. Cánh chim lẻ bạn thoáng trong sương
2. Khúc sáo ải xa, sầu viễn xứ
3. Tiếng chày thôn vắng, hận tha phương
4. Lạc bầy, đất lạ, đời phiêu bạt
5. Vò võ ven trời, ôi cố hương

Rõ ràng vần gieo chắc mà âm điệu tràn ngập nét u buồn, ý tứ có hơi thoát nhưng quan trọng nhứt là "cái thần", vì lột tả được tâm trạng buồn thương của Lý Thương Ẩn, một người tài hoa nhưng định mệnh khiến xui cả đời lận đận nơi chốn quan trường, bất đắc chí lại thêm lúc nào cũng da diết nỗi nhớ quê xưa...

 

Các cặp đối "sầu viễn xứ, hận tha phương", "đời phiêu bạt, ôi cố hương" khá chặt chẽ, khiến cho người đọc dồn dập như sóng lớp sau lớp trước trào dâng nỗi niềm u ẩn của nhà thơ một đời lưu lạc...

Thưa Thầy, em thường viết văn xuôi chớ thật sự không rành về Đường thi cho lắm, em thường chỉ "thấm" một bài thơ bằng cảm nhận đơn giản về mặt âm điệu, tính văn chương và sự cảm thụ.
Em nghĩ cũng như một ca sĩ diễn tả bài hát bằng giọng xuất thần khi người ấy biết đặt mình vào linh hồn của bài hát và tâm tình của người soạn nhạc, cho nên nếu muốn dịch được bài thơ ngoại ngữ cho có hồn, chắc chắn Thầy đã đặt mình vào cuộc đời long đong và tâm sự ngổn ngang của Lý Thương Ẩn, và cũng như Thầy nói ở trên, đã trở về tuổi thơ tao loạn, nhớ đến thời gian trôi dạt đó đây, trải qua đôi lần ngủ lại nơi xa lạ, mới có thể "cảm" được tâm tình đó, mới có thể xúc động đến vậy khi nhìn cánh chim lạc bầy kêu xao xác hay nghe tiếng sáo vọng xa xa để dịch được những vần thơ này... Phải chăng đó cũng là phần nào tâm sự của Thầy trong "Khúc hát tha hương":

Vò võ một thân nơi xứ lạ
Vẫn còn đôi lúc được nhớ nhà
Làm người khách lạ trên quê cũ
Nước mắt còn không cho xót xa...

Em cũng có một kỷ niệm buồn tương tự, đó là mấy chục năm trước gia đình em bỏ thành phố lên rừng lập trại, khi đến nơi trời cũng vừa chập choạng. Em nhúm mãi không xong bếp lửa, vì củi ướt và vì bàn tay học trò vụng về. Nước mắt tuôn ràn rụa, vì khói mịt mù, và vì... đủ thứ... Lúc đó em chợt nhớ đến nhân vật khốn khổ của Jack London trong truyện ngắn "To build a fire" quờ quạng nhóm lửa với những ngón tay tê dại rồi cuối cùng cũng chết âm thầm giữa đồng tuyết mênh mông, làm mồi cho lũ sói hoang, rồi bật khóc vì liên tưởng tới phận mình... Khi đó có con chim gì bay ngang đập cánh nặng nề và kêu lên giọng buồn thê thiết, như một tiếng than vãn:

Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
Con sông nước sâu sao cứ chảy hoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây...

Giờ đây tất cả đã thuộc về dĩ vãng, cái dĩ vãng mà khi nhớ lại chỉ thấy có tan tác, mất mác, và tử biệt sinh ly... Có lẽ cũng phần nào đồng chung cảnh ngộ nên em luôn đồng cảm với tâm tình u ẩn của nhà thơ yểu mệnh Lý Thương Ẩn.

Một lần nữa em cảm ơn Thầy đã nhớ tới "đứa học trò ngang hông" mà gởi cho những vần thơ đẹp. Kính chúc Thầy dồi dào sức khỏe, tinh thần luôn minh mẫn phấn chấn như bây giờ, để em còn được thưởng thức thêm các tác phẩm dịch của Thầy.

 

Em Quỳnh Như

 

-----------------

 

PS. Thưa Thầy, mail này viết xong em đắn đo cả ngày không dám gởi, vì hậu bối xa lắc mà dám cả gan luận bàn chuyện thơ ca với bậc trưởng thượng kiến thức thâm sâu. Nên em xin phép dùng lại câu nói của Thầy trong bài "Trai Trung Xuân Vọng" để tự cười mình:
"Thật là... tôi hết chỗ nói nổi cho tôi rồi" !!!

 

TCQN
03/2014

tcqn_TinhBacDuyenNam2.jpg

Lý do bữa nay tui kể chuyện tình Lan và Điệp của tui cho bà con nghe, là vì lâu rồi, qua anh Trần Bang Thạch, thầy Nguyễn Duy Tài có gởi cho tui bài viết "Cái duyên Nam Bắc" của tác giả Nguyễn Hữu Huấn, vừa đọc vừa cười mỏi miệng. Chợt nhớ lại đoạn đường "tình Bắc duyên Nam" tui đã đi qua, biết bao nhiêu chuyện trớ trêu dở mếu dở cười, nên "gạch đầu dòng" gom bộ nhớ bốn chục năm lấy chồng xa xứ, từ từ kể lại bà con nghe.

Nói trước ba ngày Tết rảnh tui mới quyết định kể chuyện của riêng mình cho bà con nghe cười chơi, chớ tui hoàn toàn không có ý chọc ghẹo hay phê phán chuyện vùng miền địa phương gì hết nghen bà con.

*************

TÌNH BẮC DUYÊN NAM

Mùa mưa

Gió bay đời lá

Tôi bay đời tôi...

Và tôi biết em đã thế

Nơi thiên đường, nơi chốn trần gian

À ơi, cánh chim chiều côi cút

Xin mặt trời soi lối em qua!

(?)

1. MỞ

Nhỏ em Kim Phuong Truong Thi "đặt hàng" một truyện vui đầu năm. Tui nghĩ hoài, lui cui tìm mãi trong cuốn sổ đời mình thiệt hiếm chuyện vui.

Thôi để kể bà con nghe chuyện tình Romeo (R) và Juliet (J), toàn những chuyện trái cựa và trớt quớt, còn bà con cười hay mếu thì hên xui!

Số là, sau gần mười năm chinh chiến Đông Tây bất thành (vb), J lóp ngóp trở lại học Đại Học Tổng Hợp Sài Gòn (bây giờ là Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn), ở đó J gặp R.

R người Bắc 54, đạo Công giáo, sống với mẹ già, gia cảnh thanh bạch, trước 75 tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa SG, giờ trở lại học Anh văn để vừa đi học vừa dạy kèm kiếm sống nuôi mẹ.

Trước 75 đã có ĐHVK, nghĩa là hắn già đanh, sắp hóa cáo, nên con nhỏ J khờ me sập bẫy - dưới có chông, trên có lưới chụp! Có mà chạy đằng trời!

Sao lại đặt là R và J? Tự nhiên nó hiện ra trong đầu chớ thiệt ra cũng quá gượng ép vì không phải hai họ Montagne và Capulet có mối hận truyền kiếp, mà trong mối tình oan trái này chỉ có đàng gái là cực lực phản đối vì sợ con gái cưng sống khổ. Nhưng hơn bốn năm trời R lên núi Tà Lơn học được chữ nhẫn đeo đuổi mềm mỏng miệt mài không mệt mỏi, đàng gái đành "phọt-phe", không quên hăm mẻ răng: "Sau này khổ ráng chịu!".

(Mà ta nói chuyện đời nó trớ trêu ngang trái, mười đám bị hăm "Khổ ráng chịu" là y như rằng chín đám rưỡi nó khổ chết cha chết mẹ).

2. HÁT GIỌNG BẮC

Lúc mới chỉ là bạn, J thường tức cười vì anh Bắc cờ này không hề khéo ăn khéo nói như đa số người Bắc. Đã ăn nói vụng về, mà cứ cái gì dở ẹt của mình đều đem khai ra hết, vừa khai vừa cười hì hì, chẳng ngại trong lớp có biết bao nhiêu cặp mắt ganh ghét khó chịu luôn săm soi vì ngứa mắt cái cảnh R ngồi kế bên quạt cho J suốt giờ học.

Mà cũng ngộ, như một điềm báo, J vốn không mê cải lương như đa số dân miền Nam lục tỉnh, mà đặc biệt từ nhỏ học Nguyễn Công Trứ, J đã tò mò mấy thể loại hát cô đầu, hát chầu văn, hát xẩm, hát quan họ... Sau này khoái chí cứ nghe đi nghe lại "Trên đỉnh phù vân" (Phó Đức Phương), "Chiều phủ Tây Hồ" (Phú Quang), "Tơ Hồng" (Nhất Sinh)... là những bài hát mang hơi hướm nhạc dân gian miền Bắc.

Nhưng bắt chước giọng Bắc thì J dở thấy thương!

Vậy thôi người ta biết mình dở, cứ hát giọng Nam như ca sĩ Phương Dung cho mộc mạc dung dị đi! Hông, hát tân nhạc phải hát giọng Bắc mới le. Thế là tối ngày cứ ông ổng (thiệt tội nghiệp lối xóm), nào "chàn" và "nàn" (chàng/nàng), nào là "kon kín" (con kiến), ánh chăn cheo nghin nghin bờ các giài thêm hoan vắn (ánh trăng treo nghiêng nghiêng bờ cát dài thêm hoang vắng) làm con nhỏ bạn thân nó nghe nó chịu hết xiết:

- "Mày có chồng BK mà sao mày hát giọng Bắc dở dữ thần vậy Như!".

J cười ngất: "He he, đó là cái marque déposée của riêng tao đa!".

Mười mấy năm trước khi về Cần Thơ thăm lại bạn bè, tụi nó nói con QN bây giờ nói chuyện lai BK rồi. Ủa, có sao ta?

Ngồi ngẫm, lúc mới về nhà chồng, nghe bà má chồng nói: "Chị ấy tên Thắm hay Thấm, tôi quên rồi!". Bà phát âm chữ ă và chữ â thiệt rõ, làm J ngẩn tò te nói trong bụng: "Ủa, té ra 2 chữ đó đọc khác nhau hen?".

Có lần R nghe vợ nói chuyện với mấy đứa học trò: "Gồi gồi, ngày mơi lợi đi, có cô ở nhà", anh sửa:

- 'Em nên nói: "Rồi rồi, ngày mai lại đi, có cô ở nhà".

Mình dạy học phải ráng đừng phát âm kiểu địa phương'.

Đó là cả một sự cố gắng dài hơi, vì từ nhỏ tí bắt đầu mở mắt khóc oe oe đã nghe chung quanh nói "Con cá gô bỏ chong gổ nó kêu gột gột", cũng như một số người Bắc nói "Nính nùn neo nên nầu" (Lính lùn leo lên lầu) không thể sửa nổi.

Sau này khi đã sửa thành công, lúc nói chuyện với một người đồng hương xa lạ ở tiệm thuốc tây gần chợ Tân Định, J bị ông đó quở: 'Tui nghe cô nói chiện đâu có giống dân Sóc Trăng Cần Thơ? Cô bị "lai căng" gồi!'

Hic, sao cũng khổ !

3. ÔNG NÓI GÀ BÀ NÓI VỊT

("Dọc mùng" là đi rọc cái mùng ra)

Một lần phụ mẹ chồng làm bếp, nghe bà kêu đi lấy dọc mùng tước sạch cắt nhỏ, J nghệch cái mặt ngố lừa ra, trong lòng có chút sợ hãi vì mẹ chồng vốn không hiền, J hoang mang lắm vì không hiểu mình làm gì có lỗi mà bà giận dữ đòi đem mùng mền ra cắt nhỏ? Mà sao mặt bà cười cười tỉnh rụi, sợ quá dậy chời!

May sao có anh chồng giải vây kịp lúc: "Mợ kêu em lấy bạc hà rửa sạch cắt khúc cho Mợ nấu canh chua đó!" (R gọi ba mẹ là Cậu Mợ).

Oái, làm hết hồn! Hèn chi bà không có vẻ gì giận dữ, mình còn tưởng bà thâm!

Khi mẹ chồng mổ mắt cườm, J hè hụi nấu cháo cá, ráng tỉ mẩn lọc xương thiệt kỹ đem vô bệnh viện cho bà tẩm bổ. Coi bộ lạt miệng, bà dặn vói: "Mai mua ruốc đem vào cho Mợ!".

J nói: "Mợ ơi, mổ mắt không nên ăn ruốc!".

Bà mẹ chồng mới mổ, mệt, chép miệng, tay xua xua con dâu ngố biểu về đi, chả buồn giải thích!

Ra hành lang mét chồng liền: "Anh coi Mợ mới mổ mà đòi ăn ruốc!".

R cười ngất: "Lại nữa rồi! Ruốc là thịt chà bông đó, bà nội nhỏ!".

- Ủa vậy ha?

Lại một hôm Mẹ chồng nói chị chồng ốm rồi.

J hỏi ủa chỉ làm sao mà ốm lại hay vậy Mợ? (Vì bà chị chồng bả mập lắm).

Chồng phì cười, "dịch" lại: "Mợ nói chị cả bệnh rồi, lát rảnh mình chạy qua thăm".

À ra vậy, hèn chi không hiểu chỉ làm gì sụt cân nhanh vậy! Bất đồng ngôn ngữ khổ thiệt, người ta "ốm" mà mình còn khen hay, thiệt tình!

Mà kỳ nhen, cùng tiếng Việt mà sao mình cứ phải cần chồng làm thông dịch quài? Quê thiệt.

 

Một bữa J đang soạn bài thì R nói: "Anh khó chịu quá, em cạo gió cho anh đi!".

Cạo gió bằng tấm thẻ bài trơn, sáng bóng không tên họ, J vừa cạo vừa nghĩ tới những tấm thẻ bài khác, có tên, có số quân, có loại máu, dập vùi đâu đó trong bùn trong đất rải rác từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau. Tự nhiên sao thấy buồn buồn trong bụng...

Ông chồng nằm ẹo ẹo hết bên này tới bên kia, miệng nói : "Buồn, buồn...".

Nhỏ vợ đang trong cơn cảm xúc khôn nguôi, thấy anh chồng kêu buồn bỗng nhiên hơi quạu: "Chời ơi kêu khó chịu một cái là người ta bỏ bài vở đi cạo gió cho liền. Còn buồn cái nỗi gì?".

R cười khì khì: "Là anh nhột đó!"

Ôi trời, sao mà cắc cớ vậy! Nhột thì nói nhột, sao nói buồn!

Làm nhớ nhỏ Hiệp bạn học hồi mới vô Đệ Thất: - "Ê Như, mày biết ngoài Bắc kêu "nước trà" là gì hông? Là "nước già" đó!

J ngẫm nghĩ nói; "Sao nghe hơi kỳ kỳ?".

Con Hiệp làm tàng, cao giọng cắt nghĩa thêm: "Thì cũng như mình kêu "Ông Trời", ngoải kêu "Ông Giời" vậy thôi!".

À thì ra vậy he???

Lại một lần bà mẹ chồng đi chợ về, cô dâu lơn tơn chạy vô khoe chồng: "Bữa nay Mợ mua con lươn gõ bự!".

R kêu trời: "Dạ thưa em, một là nói "bự lắm", hai là nói "rõ to". Không ai nói "rõ bự". Tối ngày cù anh hoài, à mà cù là chọc cà lét đó!".

Cũng cái chuyện dùng chữ khác nhau giữa hai miền Nam Bắc, R kể cho vợ nghe lúc Cậu ruột mới di cư vô Nam, Cậu đi theo người ta làm thợ xây nhà. Khi dựng cột, đám thợ người Nam xúm lại kêu: "Chịu! chịu!".

Cậu không hiểu tưởng họ kêu buông, Cậu bèn thả tay làm cột kèo ngã nghiêng kéo theo cả đám chúi nhủi nháo nhào, bị cai thợ chửi vuốt mặt không kịp.

Chị của J thỉnh thoảng ghé biếu quà cho mẹ chồng J, bả cứ nói thẳng đơ theo kiểu người Nam: "Con đi qua bến bắc con thấy ổi xá lỵ ngon quá nên mua cho Bác".

Tình cờ J nghe lỏm mẹ chồng nói riêng với con trai: Người gì bất lịch sự, đem tặng quà phải nói "biếu", ai lại nói "cho" !

Đó là những bài học quý báu J luôn rút ra để sống ở cái đất SG này, vốn hội tụ đủ các gốc dân Nam Trung Bắc, không thể không để ý cẩn thận, nhứt là sau này mọi thứ đều có khuynh hướng dùng chữ theo Bắc, ngay cả tụi con nít, vì ảnh hưởng sách giáo khoa toàn ngoài đó soạn.

4. MÓN BẮC

Một ngày tới phiên J đi chợ, bà má chồng dặn mua nhớ nửa ký nhộng. J nghe xanh mặt. Ui trời J sợ nhứt cái con đó, lúc nhúc, có khoang, y chang cái bụng con gián! Sợ đến nỗi nhờ bà bán hàng để vô giỏ chớ không dám cầm.

Về nhà, bà mẹ chồng trổ tài cho con dâu học hỏi. Thành phẩm, nhộng thấm gia vị vừa ráo, thịt ba rọi từng thanh vuông xinh mỡ trong vắt, hành lá cắt khúc xanh mướt, rắc chút tiêu, dĩa nhộng thơm lừng. Vài con nhộng bể đôi lòi bụng trắng tươi như tàu hũ.

- "Con Rư (Như) sao không ăn, ngon lắm con, ăn thử xem!".

Vừa nói, bà má chồng vừa xúc một muỗng "gõ bự" đổ vô chén nàng dâu. Con nhỏ bủn rủn mặt mày xanh lét, dợm bỏ đũa chạy.

Mười năm, hai mươi năm sau, nhộng, canh cua mồng tơi rau đay, cà pháo mắm tôm, J xử ráo trọi trơn!

Còn biết nấu món giò heo giả cầy chan bún điệu nghệ, thậm chí lâu lâu còn thèm món tàu hũ chiên giòn chấm mắm tôm chanh đường!

Nhắc chuyện "đường" mới nhớ. Khẩu vị người Nam ăn hơi ngọt, món gì cũng dằn chút đường, chè thì ngọt ngay béo lự, trong khi nhà chồng nấu món kiểm, nước cốt dừa loãng loãng, vị măn mẳn thanh thanh.

 

Một bữa J thực tập nấu món canh mồng tơi cua giã thiệt thành công. Nước trong vắt, mồng tơi xanh thắm, vài miếng mướp non bên đám riêu cua nâu nâu chắc thịt. Bà má chồng húp thử một muỗng rồi kêu rầm lên: "Đã bảo đừng cho đường vào canh sao cứ cho hoài!!!"

Nàng dâu ngơ ngác: "Dạ con hông có cho hột đường nào. Mợ dặn con nhớ mà!".

Mẹ chồng cúi xuống ăn tiếp, tỉnh bơ như chưa hề có cuộc... rầy rà:

- "Ừ, không có thì thôi!".

Úy trời, còn có cái vụ mắng... "chận đầu" nữa chờ quơ!

 

Ờ mà sẵn vụ nấu canh cua, lại kể chuyện lần đầu nhìn mẹ chồng nấu món này để sau này bắt chước nấu theo.

Xưa nay nhà bên J vốn kỵ mấy món canh nhớt nhớt, (mà nhỏ lớn cũng chưa từng thấy tô canh riêu cua nó ra làm sao), cho nên hồi năm bảy mấy khi ghé chùa Trà Ôn thăm hai con bạn TH và HH tu ở đó, thấy tụi nó ăn canh mồng tơi lua cơm rột rột, J đành xin mấy cục muối hột ăn với cơm không!

 

Về nhà chồng, ui chời mồng tơi còn nấu với rau đay (đại hội nhớt), J phát rầu trong bụng. Mà cái tánh bà mẹ chồng rất đỗi nhiệt tình, món nào thấy nàng dâu ăn ít là bà cứ "Ngon lắm con, ăn đi con!", miệng nói tay tới, bà cứ múc đổ ùa vô chén cho!

Thời đó người ta không xay cua sẵn như bây giờ, mua về phải tự rửa tự làm rồi è ạch giã trong cối đổ mồ hôi hột. Bà bỏ xíu muối, lọc nước cua xong, bắc lên nấu thì chợt có khách thình lình nên bà bỏ đó giao cho con dâu, vừa đi vừa dặn vói: "Coi nó nổi lên thì vớt ra rồi cho rau vào".

Con dâu ngố lừa ngồi dòm cái nồi lom lom, chờ hoài không biết mẹ chồng biểu "chờ nó nổi" là cái gì nổi. Lát sau mấy dề nâu nâu nổi lên lềnh bềnh, í sao cặn gì dơ dữ dị ta? Mới vớt ra , mà hên quá, hú hồn, vớt bỏ vô tô để đó chớ chưa đem đổ thùng rác.

Bà má chồng tiếp khách chớp nhoáng, xong vô bếp thì thấy con dâu đã nấu xong mớ rau, nêm nếm vừa ăn, bà gật gù, mới hỏi ủa riêu đâu con?

- Dạ riêu gì Mợ? Có mớ cặn nổi lên con vớt bỏ đây nè!

- Ối giời ơi là giời, thế có chết tôi không chứ !

Hí hí. Nhớ lại còn quê một cục!

Nhưng mà, riêu vẫn còn đó, sạch sẽ cứng chắc trong tô, chỉ việc bỏ lại dô nồi thôi mà, mắc gì kêu trời dữ chèn?

Về nhà chồng không lâu, có lần J tình cờ nhìn thấy cái hũ đựng thứ gì trắng trắng trên kệ, tò mò đem xuống mở ra coi thử, nghe mùi chua lòm, úy trời nhìn kỹ nó bò lúc nhúc phát ghê, gai ốc nổi lục cục. Mới chạy đi mét má chồng: "Mợ ơi có cái hũ gì bị hư có giòi rồi!".

Bà mẹ chồng lắc đầu, chắt lưỡi: "Chậc, con mẽ đó, để nấu canh chua!".

Ý chèn, nào giờ chỉ ăn canh chua me chín, có biết con mẽ thằng chả gì đâu! Me chín ngâm mềm gợt lấy nước trong nấu canh chua thơm ngát, trong khi con mẽ đem lọc nấu canh chua nước đục lờ, mùi lạ lạ.

Sau này nấu giả cầy mới biết con mẽ là thứ không thể thay thế, vì vị chua thanh thanh của nó quyện với riềng và mắm tôm mới tạo nên được hương vị độc đáo của món ngon miền Bắc.

5. BÀ MÁ CHỒNG VÔ ĐỐI

Chân ướt chân ráo về làm dâu người Bắc, buổi sáng đầu tiên vừa mới bước xuống thang gác đã giựt mình hết hồn muốn té khi thấy bà má chồng ngồi phì phèo điệu nghệ điếu thuốc Đà Lạt khói um!

Thú thiệt là đầu óc J có chút (không phải "có chút", mà là rất nhiều) cổ lổ lạc hậu. Coi trên phim thấy mấy cô đầm hút thuốc phì phà, thấy cũng bình thường, mà sao tận mắt nhìn một bà cụ lam lũ ngôi kẹp điếu thuốc rít khè khè, sao thấy hơi phản cảm. Hèn chi mấy lần ghé nhà trước đây J cứ ngạc nhiên vì R không hút thuốc mà sao nhà hôi rùm mùi khói thuốc, nhưng cứ tưởng ông anh chồng tới chơi hút thuốc như cái ống khói xe lửa, chớ ai dè!

 

R phải cắt nghĩa cho vợ hiểu, một số phụ nữ miền Bắc hay hút thuốc lào vì trời ngoài đó quá lạnh, nên khi vô Nam, Mợ thỉnh thoảng hút chơi một điếu chớ không có ghiền!

J nhìn chồng ánh mắt đầy nghi ngại...

Mà thiệt, ở lâu mới biết bà má chồng hơn người ở cái khoản làm chủ bản thân trên cả tuyệt vời, e có khi các đấng mày râu còn phải tôn bà làm sư tổ: Bà hút một dạo rồi tự nhiên không hút nữa, rất bình thường không cần khổ sở cố gắng nhịn thèm kiêng cử.

Rồi một dạo khác bà ăn trầu mồm mép đỏ thẫm, phun nước cổ trầu xoèn xoẹt, rồi lại tự nhiên bỏ trầu, tỉnh bơ như không!

Cà phê đá, bà quất tì tì mỗi lần một "gô" đen đậm, không mất ngủ, không mệt tim. Một thời gian không biết nghĩ sao lại bỏ đứt, không thèm thuồng, không nhức đầu vì thiếu chất caffeine!

Thiệt là một phụ nữ đáng nể!

 

Mẹ chồng J thường tự hào về tài ăn nói lưu loát. Đúng là bà cũng có phần hoạt ngôn, chỉ đôi khi sa đà nên hay lạc đề. Lần đầu tiên má chồng đến nhà gặp má ruột của J, bà làm cho một hơi như súng liên thanh khiến bà má ít nói của J đâm ra bối rối đứng trơ, suýt quên cả mời khách vô nhà!

Một lần J đưa mẹ chồng đi làm răng. Bà sợ lắm, tay chân lạnh ngắt, nằm lên ghế cứ bấu vô tay J đau điếng. Mà lạ, càng lo lắng căng thẳng bà càng nói nhiều, líu lo đủ chuyện mà mình nghe không hiểu đầu cua tai nheo gì. Ông nha sĩ chờ hoài không thấy bà ngưng nói, đành vô phép cắt lời: "Bác phải ngừng nói thì con mới làm cho bác được chớ!".

 

Đối với R, mẹ là thánh nữ.

Thì cũng phải, Mẹ chồng một nách bốn con, còn dắt theo đứa em trai nhỏ gồng gánh dắt díu trên "con tàu há mồm" chở hàng triệu người Bắc di cư vào Nam, từ đó bươn chải nuôi chồng nuôi con nuôi em.

Ba chồng J là công tử Tây học Hà thành, thuở xưa một ngày dạo chơi miền quê đã phải lòng cô thôn nữ xinh tươi con nhà bần dân. Phớt lờ mọi can ngăn của gia đình chuyện không môn đăng hộ đối, vì tình yêu, ông chẳng tiếc của thừa kế ruộng cả ao liền, cùng người yêu phiêu bạt vào Nam xa xôi dựng xây tổ ấm.

Mà cái tổ này ấm được là nhờ cô vợ nghèo khó hay lam hay làm, tự cho rằng bổn phận mình là phải vất vả nuôi con một mình để cho chồng được ăn trắng mặc trơn!

 

Cho nên đối với R, cái gì Mợ cũng nhứt.

Sắc đẹp Mợ: Nam Phương Hoàng hậu tuổi gì! Món ăn Mợ làm trên cả tuyệt vời, buôn bán giỏi giang cũng Mợ là nhứt, việc nhà nhanh nhẹn gọn gàng không ai qua Mợ, đối nhân xử thế mồm miệng khéo léo Mợ số hai chẳng ai đáng số một!

 

Bù lại, đối với mẹ chồng, R mãi mãi là đứa con thơ trong lòng mẹ, cho tới khi tóc R đã muối nhiều hơn tiêu thì bà mẹ vẫn luôn thốt lên "Tội nghiệp thằng bé!" khi nó giúp vợ chút ít, vì bà vốn sẵn sàng bao hết việc nhà cho ông chồng công tử được thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

 

Nhà có lệ, năm nào cũng gói bánh chưng. Lúc còn dưới "triều đại" bà má chồng, bánh làm khi trật khi vuột hoài: có khi bỏ muối vô nếp xóc không đều, đầu năm xui xui ăn trúng cục muối, mặn mà cả năm.

Có năm tính gói bánh nhiều để đem biếu (dâu ngoan ghê hôn, giờ không dám nói "đem cho" nữa!), nồi nấu mọi năm e không vừa, bà má chồng lên gác xép soạn cái nồi "gõ bự", mà ác ôn cái, nồi đó hồi xửa hồi xưa nhà đựng khí đá! Bà cứ nghĩ đơn giản là cọ rửa sạch sẽ rồi không sao, dè đâu khi nấu bánh suốt mười tiếng đồng hồ, mùi khí đá len lỏi vô bánh, báo hại mấy chục cái bánh bỏ hết không ăn nổi!

 

Rồi một lần R "vùng lên": "Thôi năm nay Mợ nghỉ cho khỏe, để con lo chuyện gói bánh".

R cải tiến cách gói. J cải tiến cách xào đậu ướp nhưn.

Biết mình dở không gói tay được, J đi chợ Tân Định mua hai cái khuôn gỗ vuông vắn dễ thương, rồi nghiên cứu cách gói bánh chưng tám lớp lá từ một tài liệu nấu ăn báo Phụ Nữ. Bánh chưng từ đó năm nào cũng thành công ngoài mong đợi!

 

Cái bánh chưng của mẹ chồng gói những năm trước, vì bà nóng tánh làm gì cũng nhanh nhanh tay nên luôn túm tụm xộc xệch, khi siết lạt tre hay bị móp cạnh khiến bánh nấu xong thường bị nhão, nhưng khi bà đứng quan sát thấy con dâu quá cầu toàn, mày mò xếp góc lá bốn mươi lăm độ không cho lệch một li, thì bà phát nóng ruột đến nỗi phải bỏ đi chỗ khác cho đừng ngứa mắt mà mắng hoài!

Tánh nóng nảy là lý do duy nhứt khiến bà không bao giờ chiên được con cá cho nguyên vẹn (thời đó chưa có chảo chống dính) vì mặt dưới cá chưa se vàng bà đã thò cây sạn vô xúc lấy xúc để!!!

 

Tướng đi nhẹ nhàng đủng đỉnh của đứa con dâu cũng làm bà ngứa mắt. Bà đâu biết rằng tướng đi le te bươn bươn của bà đã khiến bà trở thành người phụ nữ tội nghiệp, ngày ngày vất vả kiếm sống ngoài chợ, còn lao tâm khổ tứ suốt đời vì chồng vì con! (Ủa mà sao tướng đi mình ung dung thư thái quá mình cũng làm Oshin cả đời vậy chời???)

Nhưng phải công nhận nhờ nhanh nhạy lanh lẹ bà mới buôn bán tảo tần nuôi được bốn đứa con khôn lớn, chớ Ninja rùa và cái đầu lúc nào cũng "người cõi trên" văn chương lơ lững bốn tầng mây như cô con dâu thì chắc mấy đứa con húp cháo dài dài!

6. MỜI CƠM

"Mời cơm trước khi ăn thể hiện phép lịch sự, sự tôn trọng những người lớn tuổi có mặt trên bàn ăn. Bên cạnh đó, còn cho thấy được bạn là một người có giáo dục, văn hóa tốt".

(Cẩm nang nấu nướng)

 

"Tục mời cơm của người Bắc là cả một nét đẹp trong văn hóa ứng xử. Chính những lời mời tưởng chừng như vô thức ấy đã huấn tập cho con người ta hiểu lẽ biết ơn, biết nhận diện những hạnh phúc đơn thuần, bình dị, cũng là để biết trân quý sự có mặt cho nhau.

Mở lời, khi mở lời mời được người khác, dù là người trong nhà, con trẻ đã học được sự tôn trọng ngay ở đó, ở trên bàn ăn. Giáo dục trên bàn ăn là việc không nên xem thường trong giáo dục gia đình. Nó luôn đóng vai trò nền tảng trong việc hình thành nếp sống và nhân cách con trẻ sau này.

(Thượng tọa Thích Tâm Hiệp)

 

Trên mâm cơm người Bắc, vừa ngồi xuống là phải mời cơm từng người lớn. Con mời ông bà xơi cơm ạ, con mời bố mẹ xơi cơm, em mời anh chị xơi cơm... Đến nỗi có một truyện vui nói (hơi ngoa) trong đám giỗ, khi nàng dâu mời hết vòng thì nhà chồng đã ăn gần xong!

Người Nam khi lên bàn ăn, chỉ có một việc cần để ý là người nhỏ nên cầm đũa lên sau người lớn, vậy thôi, chớ không có mời mọc gì ráo. Cho nên khi "nhập gia tùy tục", J ngượng nghịu mời cơm mẹ chồng mà vẫn luôn thắc mắc trong bụng: Lên bàn ăng là để ăng, chớ để mần chi nữa, mà còn phải mời cơm từng người?

Tới khi coi nhiều tài liệu trên mạng, mới thấy... hơi nhột. Cứ theo "Cẩm nang nấu nướng" và Thượng tọa Thích Tâm Hiệp nói như trên, thì người Nam hóa ra kém lịch sự lắm sao? Chậc, mỗi miền mỗi phong tục mà, nhưng mình phận dâu con thôi không bàn cãi, nghe lời cái cho lành!

 

Mẹ chồng luôn thấy J vụng ăn vụng nói, có sao nói vậy, không biết khéo léo đãi bôi. Bà đặc biệt rất ưu ái những phụ nữ nào nói chuyện ngọt sớt (bất kể ngọt đường cát hay ngọt đường hóa học), thảo mai và môi miếng giống bà. Thích đến nỗi cứ ước có thêm con trai để đi dạm hỏi những cô gái "khéo léo" đó cho con mình.

 

Mấy mươi năm sống với mẹ chồng cho tới khi bà mất, nhờ tánh J an phận và chịu đựng nên đã không xảy ra trận "thiệt chiến" (tranh luận, cãi lý) đáng tiếc nào. Khẩu chiến giữa mẹ chồng và nàng dâu đâu có đưa tới một kết quả tốt đẹp nào, chỉ làm người chồng đứng giữa thêm phần khó xử!

Nhưng từ từ, J bỗng trở nên ít nói hơn xưa. Có lẽ chỉ nhìn mẹ chồng nói là đã cảm thấy đủ "đô" trong ngày!

Mà công nhận thượng đế sinh ra cái ADN thiệt hết sức diệu kỳ: Càng về già, tính cách R càng giống mẹ như đúc. Long mẫu xuất long nhi!

 

7. NÓI LÒNG VÒNG

Nhớ Trịnh Hội lúc còn nồng thắm với Nguyễn Cao Kỳ Duyên, trên Paris By Night anh chàng có lần tố cô vợ người Bắc muốn gì không bao giờ nói thẳng mà cứ nói lòng vòng để mình thông minh thì tự hiểu mà làm. Thí dụ như muốn TH đi đổ rác thì KD nói: "Anh ơi xem giúp em rác đầy chưa?".

 

Y chang vậy luôn, R muốn J đi lấy thêm ớt thì chỉ nheo mắt ngó nghiêng keo nước mắm tỏi ớt làm sẵn: "Mắm ớt kỳ này dường như hơi ít ớt?"

Phải chi R nói: "Em à, lấy giùm anh vài trái ớt", nghe nó dễ thương biết mấy hôn? Hay là đứng dậy tự đi lấy, càng dễ thương hơn. Hổng biết sao hễ lên mâm cơm rồi là y như có keo con voi 502 dán dưới mông, cứ ngồi riết một chỗ thôi hà!

 

Khi muốn ăn món giò heo giả cầy thì hắn nói bâng quơ: "Trên mạng lúc này quảng cáo giả cầy dữ, mà họ nấu sao ngon bằng em!". Thay vì nói: "Em à bữa nào khỏe nấu món giả cầy ăn nhe!".

Thế là biết ý, mấy hôm sau J lọc con mẽ, đâm riềng, thêm muỗng mắm tôm ướp giò heo đã thui cạo sạch, để xíu cho thấm, chuẩn bị làm món... mình không ưa!

 

- "Em à Tết này đừng mua hồng khô với mứt me" (là hai món R "hẩu"). Biết tánh chồng, J vẫn mua để đó. và R cứ thế lấy ăn, không nghe cự nự gì!

 

Khi gặp một món mình không ưa, thì R bao giờ cũng nói: "Món đó anh không hợp", còn con nhỏ vợ cứ nói thẳng ruột ngựa: "Úi em ghét món này không thể tả!"

 

Khi vô bếp thấy hai cái lò đang đỏ lửa làm nhiệt độ phòng tăng cao mà J đang dở tay làm cá nên chưa bật quạt, R nói: "Em không nóng sao?". Trời ơi cảm thấy nực nội thì mần ơn vặn quạt giùm cho người ta nhờ cái đi ông ơi! Phát mệt hà!

 

Muốn hớt tóc, R đứng trước kiếng: "Cha, tóc dài dữ rồi!". Vậy là ngày mai J soạn khăn choàng, kéo, phấn em bé Johnson, kêu chồng ngồi lên ghế cao để hớt tóc. Từ hồi về nhà này tới giờ gần 40 năm, tiền "truy lãnh" hớt tóc cho cha con nó gom lại chắc cũng bộn, mà đòi hoài ai cũng lơ, hổng ai chịu trả cắc nào, coi bộ muốn quỵt luôn!

 

Mấy chục năm trước J có lần trở về Cần Thơ thăm Thầy, bạn, được nhỏ bạn chở xuống bến Ninh Kiều mua chục đòn bánh tét Chín Cẩm đem về SG vừa ăn vừa làm quà.

R vừa ăn vừa gật gù: "Công nhận không gì thú vị bằng... bánh chưng, nếp rền ăn hoài không ngán, còn bánh tét này vừa ngọt vừa béo, lại có cục mỡ to, nếp gói chặt cứng, ăn một khoanh đã phát ớn!".

Cần chú thích một khoanh của ổng là gần nửa đòn bánh tét của người ta! Người ta để dành lại mấy đòn ăn từ từ để hoài niệm tuổi thơ quê Ngoại, còn ổng chê đủ điều mà ổng cứ cắt bánh ăn tì tì. Ghét giấu biệt!

- "Ủa bánh tét hết rồi hả em?"

- "Chê quài, ghét, hông cho ăng nữa. Em ăng hết!"

 

Còn nhiều chuyện... vòng vo lắm, mà thôi, nói lát ông chồng khéo lại thành kép... phản diện!

 

8. KẾT

Ngày cưới, lúc làm lễ lên đèn, tuy không dị đoan nhưng J cứ tò mò nhìn lên đôi đèn long phượng trên bàn thờ, coi bên nào cháy trước, bên nào cháy nhanh.

Vì không muốn gả con nên bên sui gái mặt mày phẳng lặng không vui không buồn, tiếp đãi bên đàng trai lịch sự mức vừa đủ, vì vậy Má và mấy chị cũng không hết lòng chỉ bảo J ngố lừa phải làm thế nào cho đúng trong lễ lên đèn. Nhà trai đạo Công giáo cũng không quan tâm tới mấy chuyện tiểu tiết.

Rốt cuộc cô dâu chú rể cắm đôi đèn long phượng kiểu gì mà xong lễ rồi mới thấy con long ngó qua còn con phượng thì quay lưng lại, chớ hàm long mỏ phụng không giao nhau cho đúng cách.

Còn nữa, lúc lên đèn gió đâu ào ào tứ phía, khi đèn long cháy sáng, khi đèn phượng lóe rần, chẳng biết đường đâu mà đoán xem dâu rể ai ăn hiếp ai

Lên mạng coi ý nghĩa lễ thượng đăng, thấy nói trịnh trọng đốt lên đôi đèn là thể hiện lòng hiếu kính, lời hứa gìn giữ hạnh phúc gia đình, sự nhắc nhở về cách cư xử đúng mực của đôi vợ chồng cùng nắm tay nhau vượt qua mọi nghịch cảnh nếu có trong đời.

 

Không tài liệu nào nói rằng, đôi đèn long phụng còn một mục đích đốt chết đời nhau.

 

Kỷ niệm nào vương, thoáng qua lòng

Bay theo làn gió, thoảng hư không

Hương xưa thôi đẫm trang tình mộng

Trả lại bèo hoa, trôi nước sông

(Đài Trang)

SG, 15/02/2024 (nhằm mùng 6 Tết Giáp Thìn)

Trần Cẩm Quỳnh-Như

----------

(Chú thích: Hình đôi nhẫn là tui lụm trên mạng, chớ tụi tui lúc đó nghèo mạt, đôi nhẫn vàng mỏng lét để trên bàn không dám vặn quạt, sợ nó bay! ).

 

(Phọt-phe: forfait: chịu thua).

(marque déposée: nhãn hiệu cầu chứng tại tòa).

VĨNH BIỆT MỘT NGƯỜI TỬ TẾ

1. Tôi làm dâu người Bắc nên theo nếp nhà, năm nào cũng gói bánh chưng. Khi mẹ chồng tôi mất, và các con cháu của bà lần lượt xuất ngoại, ngày Tết chẳng còn ai tụ họp ăn uống, chỉ hai vợ chồng già với thằng con, nhưng năm nào cũng rục rịch gói bánh, dù chỉ vài cái đủ ăn ngày Tết.

Chồng tôi có cái thú nho nhỏ tức cười, thích ăn bánh chưng đã đành, ảnh còn rất thích ngắm bánh chưng mới nấu treo từng cặp trên cây sào gác bên kệ bếp, như ngắm thành tích "ghê gớm" của cả nhà sau hai ngày vất vả : 27 âm lịch rửa lá, lau lá, róc sống lá, ướp thịt, đãi đậu, xào đậu. 28 âm lịch ngâm nếp, gút nếp, gói bánh, nấu bánh, rửa bánh, ép bánh. Sáng 29 đã có mấy tấm bánh chưng thơm phức xinh xinh vuông vắn treo tòn ten...

 

Gói bánh chưng vui, nhưng cực thấy mồ tổ. Già, muốn dưỡng lão rồi, nhưng cái bọn bán bánh bất nhơn, nó bỏ cục pin vô nồi để nấu bánh cho mau chín, ăn rất độc hại. Ngoài ra, mình chẳng tiếc tiền đặt loại bánh ngon, nhưng có khi ăn vô nghe mùi thum thủm thịt ươn, muốn quăng cả cái bánh. Đó là hai lý do chính, khiến cho năm nào cũng muốn..."đào ngũ", nhưng nghĩ đi nghĩ lại, rằm tháng Chạp lại lụi cụi đi chợ mua đậu mua nếp cất lên để đó... Còn một lý do thứ ba, khai ra hơi mắc cỡ: hám danh! Năm nào con nhỏ bạn thân cũng có phần, nó ăn nó khen nức nở, vậy là... phổng mũi (bởi vậy mũi càng ngày càng... dễ thở!).

2. Trên đường đi chợ có một vựa than lớn, nhưng tôi không mua than nấu bánh ở đó cho tiện, mà năm nào cũng mua ủng hộ ông già bán than ở tận góc đường vắng cách chợ con hẻm nhỏ. Ông già lắm rồi, đâu khoảng tám chín mươi. Ốm, cao lỏng khỏng, gân guốc, đen nhẻm, ít nói cực kỳ, nhưng thiệt thà hiếm có. Có lần tôi trả tiền, một tờ 500.000 lẫn trong xấp tiền lẻ nhưng nó cũng xanh xanh như tờ 20.000 nên tôi vô ý đưa hết cho ông. Ông trả lại cho tôi, chẳng nói chẳng rằng. Năm trăm ngàn đó, ông bán than biết bao nhiêu ngày ? Nếu lẳng lặng lấy, ông mua được biết bao thứ cho cuộc sống thiếu thốn của mình!

Than có hai loại, loại thường và loại tốt. Khi mình tới nói: "Ông bán cho con 6 ký than tốt", ông tỉ mẩn lựa cho mình bao than đen nhánh, chắc nịch, nặng trịch như bao sắt. Than ông rất tốt, lửa đỏ rựng cháy yên ắng không bao giờ nổ xẹt. Ở thành phố nhà cửa chật chội, che được một chỗ ngoài hành lang nhỏ xíu để nấu được vài tấm bánh đã là kỳ công. Làm sao cho không có khói ngùn ngụt làm phiền lối xóm (nên phải nấu than, không dám nấu củi, ga thì chịu không thấu vì nấu tới 10 tiếng), nhứt là coi chừng than nổ rồi bắt cháy nhà, khỏi ăn Tết!

Tôi mua than của ông hơn hai chục năm nay, mỗi năm một lần vào đầu tháng Chạp để dành gần Tết nấu bánh, thấy ông bao năm vẫn vậy, không già đi, không ốm hơn, không mập ra, và lúc nào cũng kiệm lời, đôi mắt chỉ ánh lên mừng rỡ khi sáng 29 Tết tôi chạy ra tặng ông nửa cái bánh chưng mới nấu còn âm ấm. Cầm nửa cái bánh chưng đem biếu một người, xem ra keo kiệt quá. Mà khổ, bạn ơi, tôi yếu ớt không gói nhiều bánh nổi, vả lại ông có một mình không con cháu, thôi cũng coi như mình chia sẻ với ông chút miếng ngon ngày Tết...

3. Năm nay, mấy ngày cuối năm tôi gặp một chuyện may mắn vô cùng. 21 âm lịch, hai mẹ con tôi bị một đứa chạy ẩu nó đâm thẳng góc vô bánh sau, chưa kịp hiểu gì chỉ nghe rầm một tiếng, hai mẹ con đã nằm lăn dưới đất. Tôi nói may là vì lúc đó không có cái xe lớn nào chạy trờ tới, may là vì té một cái quá mạng mà xương già không gãy cái nào, cái kiếng cận cũng không hề hấn. Khi té, mặt chà xuống đường, tưởng đã văng hai hàng tiền đạo, nhưng thiệt may, răng cỏ còn y nguyên. Hai mẹ con chỉ bị trầy trụa, bong gân, bầm dập, chảy máu chút ít, chỉ tiếc đứt ruột đôi vớ y khoa một triệu sáu mới mua, bị rách chỗ đầu gối một lỗ tòe loe, thiệt là đau xót lý chim quyên!

Thằng nhóc sức thanh niên mấy vết thương mau lành, còn tôi, tới ngày gói bánh, tay phải bị bong gân vẫn chưa cử động được bình thường. Đi chợ, thằng nhóc phải đi theo xách giỏ. Làm bếp, tôi ngồi một chỗ như bà phủ bà huyện, chỉ đạo thằng nhóc đãi đậu xào nhưn. Ông xã thì lo rửa lá đặt lò nấu bánh cùng vài chục thứ linh tinh kỉnh kỉnh. Tôi ngồi gói bánh bằng bàn tay khoèo khoèo, nén nếp không chặt nên cứ thấp thỏm sợ năm nay nếp không rền, bánh không ngon... (rền : tiếng Bắc, nghĩa là dẻo đều, ráo).

4. Sáng 29 Tết, như thường lệ, bánh vừa ép xong là cất lên phần con bạn, phần còn lại treo lên sào (cho ông xã ổng ngắm mãn nhãn), rồi cắt nửa cái bánh gói lại bỏ vô giỏ, tính ghé chợ mua ký khổ qua về dồn thịt và bó glaïeul chưng bàn thờ, rồi sẵn ghé ông già bán than biếu ổng miếng bánh.

Bãi than trống trơn, vắng ngắt. Thấy tôi ngơ ngác, chị bán nước gần đó chạy ra: "Cô mua than hả cô? Ông già ổng chết rồi". Tôi bàng hoàng: "Ụa, sao mà chết vậy chị?" -" Biết đâu nà. Ổng ở tuốt Gò Vấp có mình ên, chết hổng ai hay, tới khi lối xóm phá cửa vô thì ổng cứng ngắc đời nào rồi".

Tôi cầm gói bánh chưng đứng tần ngần đó hoài. Dưới chân tôi, mặt đường đen kịt bụi than nhấp nhô, lung linh... Đó đây những mảnh than vương vãi đen óng lấp lóa ánh nắng... Thôi vậy cũng xong, hết vất vả cơm áo, hết già, hết bịnh, hết kiếp lam lũ, hết tuổi già cô đơn... Sẽ không còn thấy ông từ xa mảnh lưng trần ốm o đen đủi khòm khòm khó nhọc kéo sệt bao than. Sẽ không còn nghe giọng ông nho nhỏ chầm chậm hiền lành: "Bánh chưng cô làm ngon lắm, cô giáo à".

Vĩnh biệt ông. Và cầu chúc ông ra đi thanh thản. Còn tôi, mỗi cuối năm chắc sẽ rất nhớ ông, một con người nghèo khổ vô danh nhưng ngay thật và lương thiện hiếm có, dù biết linh hồn tử tế của ông chắc đang thư thái trên kia, giữa những vì sao sáng trong. Lòng tự hỏi không biết ông có đang nhìn xuống móm mém mỉm cười thương xót những con người nhỏ xíu tội nghiệp dưới kia đang oằn oại lúc nhúc bơi chòi quẫy đạp giữa bể thẳm phồn hoa vô vọng...?

 

TCQN

SG, 02/2013

(Tết Quý Tỵ)

QN_hondat.png

HÒN ĐẤT MÀ BIẾT NÓI NĂNG...

Tháng chạp loay hoay đào chớm nở

Tìm kiếm hình người khung kính vỡ

Ta buồn nhiều hơn tới tháng giêng

Lúc nhìn lại mình đời lỡ dở...

(Đỗ Duy Ngọc)

Mấy ngày trước trong khi lục tủ để bỏ bớt những món đồ từ thời Bảo Đại mấy chục năm chưa xài tới, tình cờ thấy lăn lóc cây xăm "Thượng thượng" duy nhứt còn sót lại trong ống xăm mấy anh em tụi tôi tự đẽo hồi nẳm để chơi xin xăm những ngày mưa buồn thê thiết ở rẫy rừng Long Khánh.

Chợt nhớ tới lần đi xin xăm chùa Ông gần sân banh Tham Tướng Cần Thơ, tôi bốc được quẻ xăm "Thượng thượng" và được người ở chùa giải là quẻ "Lưu Bị được đất Kinh Châu".

Do quá tin tưởng vô quẻ xăm, nghĩ mình... sắp được đất Kinh Châu tới nơi rồi nên lần đó tôi VB đem theo nhiều thứ quý giá nhứt, và đó cũng là một trong những lần tôi thất bại thê thảm tả tơi xơ mướp, may mà toàn mạng trở về!

Buồn, tôi ngồi nhớ lại vài lần đi coi bói hiếm hoi và cũng khá thú vị trong đời. Để tôi kể bạn nghe.

1. Thầy bói Hoàng Chiêm (Đà Lạt)

Các bạn ở thế hệ tụi mình sáu bảy bó trở lên, chắc ai cũng nghe tiếng thầy bói Hoàng Chiêm Đà Lạt lừng danh một thuở.

Nếu tôi nhớ không lầm đó là vào khoảng năm 79, 80, tôi lên SG ở nhà nhỏ bạn vài ngày chờ chuyến VB. Tình cờ trùng vào chuyến về quê Nội Đà Lạt vài ngày của nó, vậy là lần đầu tiên sau 75 tôi được trở lại Đà Lạt bằng xe nhà.

Đó là những ngày mưa dầm rả rích, ĐL lạnh như cắt da. Sương mù nhiều đến nỗi xe qua đèo phải nhích từng chút một vì không thấy rõ đoạn đường chỉ vài mét trước mặt.

Bác P, ba của nhỏ bạn tôi là bạn thân của chú Chiêm, dẫn hai đứa tôi tới nhờ ông coi tương lai, như một đặc ân vì thời gian trước đó ông học tập về đóng cửa không nhận coi cho ai hết.

Trên đường đi, bác P dặn tới dặn lui tụi tôi ngồi đâu ngồi đó không được đụng chạm tới bất cứ thứ gì trong phòng khách cũng như trên bàn. Bác nói nhà chú Chiêm có nuôi "ma xó" rất nguy hiểm, phải hết sức cẩn thận, nhứt là con nhỏ bạn tôi vốn tánh lanh chanh.

Tuổi hăm mấy tôi khờ khạo lắm, nghe nói một ông thầy bói đã từng là cố vấn cho bao nhiêu tư. ớng t. á SG thời trước, lại còn nuôi ma xó, tôi hăm hở biết bao chờ nghe thầy phán tương lai.

Nhìn tôi, chú Chiêm không hỏi muốn coi gì, cũng không coi chỉ tay, mà hỏi liên tiếp phủ đầu:

- "Có người đang theo đuổi cháu, tên chữ H. phải không?"

- "Cháu có một người chị kế mất khi lọt lòng phải không?"

- "Vợ bé của Ba cháu tên chữ Ch. phải không?"

Tôi choáng váng! Mấy chuyện này, ngay cả bạn tôi cũng không biết, nên không thể nghi ngờ nó kể trước với chú Chiêm! Tôi không có khoe với nó chuyện anh H. học tập về làm chung lò đường đang có nhiều cảm tình với tôi.

Tôi cũng chưa bao giờ kể cho nó nghe chuyện Ba tôi có vợ nhỏ. Số là sau cuộc nổi dậy "cáp duồn" của người Miên xảy ra ở Sóc Trăng quê Nội năm 1945, Má tôi ôm mấy anh chị tôi chạy về Ngoại ở luôn Cần Thơ. Ba tôi thuyết phục Má về nhiều lần không được, rất nhiều năm sau đó khi chúng tôi đã lớn hết, ông có bà nhỏ ở ST. Má tôi và anh chị em chúng tôi đều biết, nhưng để mặc.
 

Con bạn tôi nghe chú Chiêm hỏi vậy, nó ngơ ngác ghé tai tôi hỏi nhỏ: "Phải hông mậy? Phải hông?".

Tôi gật đầu lia lịa, trong bụng phục lăn, gai ốc nổi lục cục.

Ông nói tiếp, chắc nịch: "Cháu học giỏi, chịu khó, tốt tánh. Sang năm nhà có đại tang. Số giàu sang thành đạt rỡ ràng phương xa".

Tôi mừng muốn xỉu. Một quẻ bói tình thân (vì ông nể Ba của nhỏ bạn tôi mà coi cho, chớ không có tiền bạc quà cáp gì hết), khiến tôi ngập tràn hy vọng cho tương lai, lại lo lắng không nguôi về chuyện "đại tang".

Nói luôn kết quả về sau cho bạn khỏi sốt ruột:

- Sang năm nhà tôi không có cái tang nào.

- Tôi không đi đâu khỏi đít ông Táo.

- Tôi cũng chẳng thành đạt giàu sang rỡ ràng gì. Hai vợ chồng giáo viên, lương đủ sống là phước !!!

Nhiều năm sau đó tôi cứ thắc mắc trong lòng: Tại sao có những điều nhỏ nhặt ông Chiêm bói đúng thần sầu, mà chuyện tương lai tôi ông nói trớt quớt???

Sau này khi đã có tuổi tôi nghiệm ra, chắc ông Chiêm có nuôi ma xó thiệt, nên nó có thể cho ông biết được rõ ràng những chuyện thấp thỏi vụn vặt đã xảy ra, nhưng chuyện tương lai thì linh hồn nó quá nhỏ bé đâu thể biết được thiên cơ, vả lại sau 75, có lẽ thiên địa đã... bể nát ngũ hành !!!

2. BÀ CỐ NHỎ

Một thầy bói Hoàng Chiêm lừng lẫy một thời, bao nhiêu tư. ớng t. á và phu nhân sắp hàng luồn lụy để được mách nước (bởi vậy m. ất nư. ớc!), lại bói cho tôi trớt quớt, vậy mà một linh hồn bé bỏng chưa một ngày được làm người lại đoán trúng phóc, bạn có tin không?

Tôi kể một chuyện khác nhé.

Khi tôi 18 tuổi, cả nước như một cuộn phim "Les Dix Commandements" (Mười Điều Răn) quay chậm, chỉ có điều đại dương không hào sảng mở lòng rẽ nước cho dân Việt an toàn đi qua như ông Moses dẫn dân Israel xuyên qua Hồng Hải, mà chà đạp dập dùi dày xéo đến tan nát điêu tàn... Thế hệ chúng tôi đứa lao ra biển như những con thiêu thân, đứa còn ở lại hoang mang mất phương hướng, đối mặt với đói rách lầm than.

Chúng tôi, QN, MH, BN, TL, trước đây không thân nhau vì ngồi xa, và cũng vì tôi học Pháp Văn, tụi nó học Anh văn, tới giờ sinh ngữ tụi tôi tách lớp, tự nhiên những ngày đó lại tìm tới nhau như những con chim non ngơ ngác nương tựa vào nhau tìm chút hơi ấm cảm thông.

Trong bọn TL là đứa mê thầy bói phát cuồng, cứ ở đâu có thầy bà là có nó. Thời đó ai cũng khốn khổ tùy cung bậc, nhưng nghề thầy bói lại ăn nên làm ra vì ai cũng muốn biết tương lai mình ra sao, con cái người thân ra đi tới nơi chưa hay đã gởi mình theo rong rêu đáy nước...

Nhưng đặc biệt nhỏ TL chỉ thích coi bói đường tình duyên.

Có một lần nó rủ tôi đi với nó cho có bạn rồi dẫn tôi vòng vèo luồn lách miệt Bình Thủy, hơn 40 năm trước còn là nhà quê đúng nghĩa đầy cầu khỉ cầu dừa với bông trang vàng đỏ nở rộ trong mỗi sân nhà.

Khi chúng tôi vừa bước vào khoảng sân rộng, căn nhà tranh ọp ẹp đã vang vang giọng nói nhão nhoẹt đã đớt của một người lớn cố gắng giả giọng trẻ con. Nghe nói đó là "xác" của một em bé chết yểu khi vừa lọt lòng, nên gặp ai nó cũng kêu "Bà Cố ơi!".

Nó "vẽ" cho "Bà Cố TL" một cuộc tình viên mãn làm con bạn tôi khoái chí cười toe toét, không tiếc tay thưởng đậm, gương mặt ửng hồng đầy vẻ mừng vui.

Tới phiên "Bà Cố QN", nó lắc đầu ngao ngán. Vẫn giọng nói eo éo nhão nhoẹt, nó phán chắc nịch: "Bà Cố này đừng có ham đi đứng hoài chi cho 'mợt' (mệt), sau này gặp Ông Cố "chễ" lắm à nhe. Ông Cố ăn-cá-rô-cây, không cao lắm, có cái thẹo lớn trên cánh tay phải!".

Tôi dạ dạ, chờ lúc ra đường cười ngất. TL suỵt suỵt tôi, nó cự tôi vô lễ với "bề trên". Tôi nói tại mầy kéo tao đi, chớ tao đâu có tin mấy cái vụ lên đồng xuống đồng này!

Vài năm sau đó, TL kết hôn với người yêu rồi VB thành công, hiện đang sống ở Las Vegas, Mỹ.

Còn tôi, long đong với những chuyến đi vô vọng, lập gia đình khá muộn màng với ông xã tôi bây giờ, dân Bắc 54, "không cao lắm" (hai đứa bằng nhau 1m68), và bạn tin không: Trên cánh tay phải của ổng gần chỗ đeo đồng hồ có một thẹo lớn vì cái tội liếng khỉ trèo leo hồi nhỏ !!!

Vụ lấy chồng người Bắc lại là một chuyện khác nữa!

20 tuổi, tôi được anh Y. bạn anh Ba tôi ở cư xá Thanh Đa chấm tử vi. Ảnh nói con Như "Đào Hồng giáp mạng" ("giáp" chớ không phải "chiếu") nhiều người theo đuổi nhưng không truân chuyên nhiều mối tình, mà nó đi ọt đơ (un, deux) có một đường thẳng bon, và chắc chắn nó lấy chồng xứ lạ!

Lúc đó tôi chìm nổi liên miên với chuyện VB, nên cả nhà tôi ai cũng tin sái cổ rằng tướng tôi cao nhồng vậy, thế nào "qua bển" cũng lấy chồng nước ngoài! Ai có dè đâu, "xứ lạ" không phải là Pháp Mỹ Canada, mà là "xứ Bắc kỳ"!!!

Còn cái chuyện lấy chồng Bắc và sống với gia đình người Bắc ra sao, là câu chuyện dài, rảnh sẽ kể sau hen.

3. ÔNG SÁU CẦU BÔNG

(Đoạn này tôi trích từ truyện "Thằng Cón" tôi viết năm 1982)

Ông Sáu không phải là thầy bói, mà nghe nói là “xác” của đức Quan Thánh Đế Quân (Quan Công) ở trong một hẻm nhỏ gần cầu Bông Sài Gòn. Tôi vốn không tin bói toán, nhưng những năm 80 tôi hết sức hoang mang trên thân phận và chông chênh trong suy nghĩ nên tự nhiên muốn tới đó coi sao. Đó là một căn nhà lụp xụp tối tăm, chỗ “Ông về” kín đáo trên một căn gác ván ọp ẹp, vài chục người đa số là phụ nữ ngồi đông ken chờ đến lượt. Dưới nhà là bếp nên khói củi bay lên mù mịt. Mấy chục con người đi mua hy vọng ngồi bó rọ chen chúc chịu đựng, ai cũng sụt sịt vì khói bếp cay nước mắt nước mũi chàm ngoàm.

Xác “Ông” là một người đàn ông trung niên người Hoa cao to, gương mặt phúc hậu, tiếng nói lơ lớ. Hầu hết khách đến đều hỏi chuyện vượt biên thành bại hay tin tức người thân đã ra đi. Tôi cũng không ngoại lệ. “Ông” bảo tôi có quý tướng và nhiều phước đức của cha mẹ, nhất định tương lai sẽ suôn sẻ thành đạt.

 

Vui mừng khôn xiết (đó là do lời nói hợp ý mình chớ không phải vì có đức tin), tôi định kiếu về nhưng nhớ tới thằng bạn lối xóm người Tàu rất thân đã VB được một thời gian chưa có tin tức nên ráng hỏi thêm một câu: ”Con có thằng bạn tên Cón, tuổi Bính Thân bằng con, nó vượt biên lâu rồi chưa có tin về, Ông xem giùm nó đang ở đâu?”.

“Ông” nhíu mày trầm ngâm hồi lâu rồi phán một câu ngắn ngủn:

- ”Ló chết dồi!”.

Suốt đoạn đường về, tưởng tượng cảnh nó trôi giạt dập dềnh, tôi đã rơi nước mắt. Không phải chỉ khóc cho nó, mà còn khóc cho tất cả những ai đã gởi thân nơi ải giác thiên nhai, và khóc cho tôi nữa, vì biết đâu chừng trong đó cũng có tôi!

Sau đó nhiều năm "Mà má" với "Pà pá" thằng Cón cho hay nó đi tới rồi! Nghe nói nó đã định cư ở Canada và đang làm bảo lãnh cho gia đình.

 

Tôi bỗng muốn chép tặng cho nó bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, dù tôi biết ở phương trời xa, nó không bao giờ biết rằng có con bạn thời thơ ấu thỉnh thoảng vẫn nhớ tới nó như nhớ thời gian vô tư sung sướng bên gia đình với đầy đủ người thân, nhớ quãng đời ấm êm chỉ có tiếng cười vui thơ trẻ.

Bài thơ, tôi cũng muốn chép tặng cho những ai mãi mãi không thành giấc mơ làm “Ly khách” !

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng.

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn không về, bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Trời chưa vào thu tươi lắm thay

Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà xem như hơi rượu cay

Mây thu đầu núi, gió lên trăng,

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.

Ly khách ven trời vui muốn khóc,

Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm...

(Tống Biệt Hành - Thâm Tâm)

 

SG, 16/01/2024

Trần Cẩm Quỳnh-Như

___________________

Hổm kể chuyện chăn bò có hứa khai luôn chuyện chăn heo. Hôm qua bạn nhắc nên đăng lại cho bà con đọc cười chơi.

Bài này vốn là một trong những lá thơ gởi cho con trai của đứa bạn học chung bên Đoàn Thị Điểm. Thằng nhỏ này cùng tuổi với con trai QN, bị tâm thần nhẹ. Lúc trước mẹ nó nhờ mình thỉnh thoảng meo miếc qua lại với con trai nó, cho con nó vui... Nghĩ thương thằng nhỏ cùng tuổi với con mình, thông minh lắm mà cứ bị ảo thanh ảo giác hoài nên chuyện học hành đành dang dỡ, nên tui hay viết thơ kể chuyện này chuyện kia cho nó nghe... Sau đó nó cưới vợ, tui nghĩ có lẽ nó không cần đọc thơ bà già lẩn thẩn này nữa, nên tui thôi viết cho nó từ đó.

Lá thơ nhiều năm trước khoảng sáu bảy trăm chữ, sau này lục ra thêm cho đầy đủ, hơn ba ngàn chữ, gởi bà con đọc cho vui mấy ngày đầu xuân...

-----------------

    ỘT NHỎ

 

 

Từ nhỏ, vì nhà rộng, lại được cưng nên tui từng được nuôi khá nhiều thú cưng, từ chó papillon, mèo Xiêm, thỏ mắt ngọc (toàn thân lông trắng muốt, mắt đỏ hồng trong vắt như viên ngọc ru bi), rùa kiểng (nhỏ xíu bằng hai lóng tay), cho tới chim khuyên, gà tre (vóc nhỏ xíu, có thể ví con gà tre của loài gà cũng như con chihuahua của loài chó. Trời, bạn mà thấy cái cảnh con gà mẹ chỉ bằng nắm tay dẫn đám con lăng xăng đi bới đất, đứa nào đứa nấy vàng ươm nhỉnh hơn ngón tay cái, dễ thương làm sao!), gà ác (lông trắng thịt đen xám, dùng tiềm thuốc bắc), gà nhạn (nhỏ con như gà tre, lông trắng như chim nhạn), gà hát bộ (gà mặt đỏ lựng có râu đen dài gần chấm đất), thậm chí cả khỉ con và dế cơm (loại dế lớn bằng ngón tay, trắng muốt, hiền khô, giờ đã tuyệt chủng vì bị săn lùng làm món dế nhồi đậu phọng chiên giòn). Mỗi con vật từng nuôi qua là một người bạn thuở ấu thời, và vì vậy là cả câu chuyện dài mỗi khi nhắc đến.

Bữa nay tui kể bạn nghe chuyện con heo nhỏ của tui, một con "pet" bất đắc dĩ nuôi sau ngày giải phóng.

1976, lúc đó nhà tui sa sút lắm rồi, lại sợ đi kinh tế mới nên Má tui cho tui và thằng em út về sống với bên nội ở Sóc Trăng để giữ mười công đất ruộng, còn Má tui và bà chị ở lại Cần Thơ buôn bán vặt vãnh, cốt là để cố giữ căn nhà thành phố. Bạn hãy tưởng tượng ngay đúng ngay cái tuổi mười tám, đang được ăn học đàng hoàng và sống đầy đủ sung sướng bỗng nhiên đùng cái phải nghỉ học về ruộng sống với bà con, và phải làm ruộng với đôi bàn tay học trò xưa nay chỉ quen cầm viết! Và bạn hãy tưởng tượng một "tiểu thơ" chỉ biết nấu cơm bằng nồi cơm điện, giờ phải về ruộng nấu cơm với lá tre lá dừa, Trời Phật ơi lửa cứ ù lên rồi tắt ngúm, nấu xong nồi cơm ba từng trên sống giữa nhão dưới khét đen, khói mịt mù làm nước mắt nước mũi choàm ngoàm (mà cũng có khi là khóc thiệt) và tay chân mặt mũi lọ nghẹ đen thui như con khùng!

Về ruộng một thời gian, sẵn dịp heo của chú Bảy tui mới đẻ một lứa mười bốn con, cô Tám mới mua lại một con cho tui “nuôi rẽ” (khi có một người bỏ tiền ra mua heo, giao cho người khác nuôi, lúc heo lớn bán chia sáu-bốn hay bảy-ba gì đó, gọi là nuôi rẽ).

Đó là một con heo khoảng hai tháng tuổi, trắng hồng mủm mỉm hết sức dễ thương, tui hay gọi nó là Ột. Nghĩ tội nghiệp Ột còn nhỏ mà phải xa mẹ, tui hết sức tử tế dịu dàng với nó. Ột kén ăn lắm, nên tui cứ phải dỗ dành :"Ột chịu khó ăn đi, tội nghiệp em nhớ mẹ bỏ ăn rồi!". Bà Nội tui thấy tui hay nói chuyện với Ột lấy làm kỳ lạ lắm, bèn nói với mấy Thím "Con QN nó lạ lắm bây, tao thấy nó tối ngày cứ nói chuyện với con heo hoài, coi chừng nó bị "ông ứng bà hành" (ma ám), chớ người gì đâu mà đi nói chuyện với thú vật, thiệt kỳ cục quá !". (Hè hè, lúc đó Bà Nội chưa biết tui còn nói chuyện cả với cây cỏ, thí dụ đi ngang vô ý làm gãy một đọt mai, tui bèn chậc chậc xuýt xoa "Xin lỗi em nha, không cố ý mà"!).

Tui tắm mát cho Ột hằng ngày, giữ máng ăn của nó luôn sạch sẽ, chỗ lỗ tai bị khoan lỗ (để xỏ dây dắt đi) được xức thuốc đỏ đàng hoàng chớ không phải chỉ bôi dầu lửa sơ sịa như mấy cô mấy chú ở quê thường làm. Nhưng Ột đúng là ngu như… heo, cái lỗ vừa lành lặn kéo da non là nó giơ cả cái chân sình bùn dơ dáy của nó lên mà gãi cật lực, có khi vừa ị xong, chân dẫm lên phân dơ ẹ rồi giơ chân lên gãi liền, khiến chỗ xỏ lỗ tai lở loét làm mủ, bốc mùi thúi hoắc, ai đứng gần cũng quở, thiệt là tức chết với cái con này. Mỗi lần vậy tui phải lập tức xịt nước rửa liền, sau đó rửa lại bằng nước muối loãng rồi bôi thuốc, là bột Pénicilline pha vô thuốc đỏ (trời ơi thời đó kiếm mua một hũ péni của Liên Xô thiệt đỏ con mắt!), mấy tháng trời mới lành cái lỗ tai !

Nhưng mới tắm Ột đẹp lắm nghen, mủm mỉm trắng hồng, lông mướt trắng ngà óng ánh, bốn chân thẳng tắp, móng dựng đứng chớ bàn chân không bẹp xuống như mấy con heo cỏ trong chuồng chú Bảy, lưng cao vòng, cái đuôi xinh xinh ngoéo một vòng thật điệu !

Mỗi buổi trưa sau khi tắm cho Ột sạch sẽ, tui hay dẫn Ột ra bờ kênh. Vườn Nội rộng lắm nên Nội xẻ một con kênh chạy thẳng vô hông đất nhà, như con sông nhỏ, rồi từ con kênh đó rẽ ra vô số mương nhỏ chạy khắp vườn. Tui hay cột Ột vào gốc ổi, chừa một đoạn dây khá dài để Ột đi lại thong thả, rồi leo tót lên cây ổi hái trái. Giống ổi nhà quê, không phổng phau trắng muốt sang trọng như ổi xá lỵ, mà là ổi tám tháng, trái lớn bằng nắm tay con nít, ruột hồng hồng, chua ngọt đậm, thời đói kém chấm muối ớt ăn đỡ ghiền cũng thú vị tình thâm… Ột không khoái ăn chua, chỉ nhấp nháp chút ít rồi nằm ịt ịt nho nhỏ lim dim ngủ, còn tui thì ngồi tựa lưng vô gốc ổi đưa mắt ngắm mấy con cá lìm kìm nhỏ xíu trắng bóc rỉa mồi sát bờ, hay dõi theo mấy con cá thòi lòi lia mình đánh lộn trên bãi sình sát rào tre gai bên kia con kênh, hoặc ngó mông theo mấy giề lục bình trôi xa, dập dềnh mang theo những nhánh hoa tim tím ơi buồn, lòng thường tự hỏi không biết lục bình trôi về đâu, và đời mình trôi về đâu…

Nhưng khoảng thời gian mơ mộng thanh bình bên Ột thật quá ít ỏi. Vì Ột là một đứa không biết điều và không dễ thương chút nào. Nó hành tui trăm cách. Ăn uống thì kén cá chọn canh: cám mới xay thơm phứt, cơm mới nấu nóng hổi (dù là cơm nấu bằng gạo "đáy bồ" vàng mục, ôi cái thời sao mà khốn khổ!), rau muống ruộng non xèo mới xắt xanh um, vậy mà nó táp nhơi nhơi có mấy cái là lấy mỏ hất máng rầm rầm, bộ điệu du côn thấy ghét, cơm cám tung tóe khắp nơi, đã vậy hất máng xong cái mặt nó cũng hất lên nghinh nghinh, hai mắt ti hí nhìn tui kênh kênh như thể muốn nói :”E hèm, làm gì được nhau?”. Trời đất ơi ngày nào cũng phải nhẫn nhịn lau dọn bãi chiến trường cho nó hai ba lần, thiệt là gan lộn lên đầu!

Cùng một lứa, nhưng mấy anh chị em nó mau lớn như thổi dù được nuôi trong môi trường hết sức mất vệ sinh và phản khoa học, còn Ột của tui cứ bị Tào Tháo đuổi hoài, lại biếng ăn nên èo uột mãi, bốn chân cao nhồng, mỗi ngày càng “mình hạc xương mai”. Cái cách của nó "bỏ bom khủng bố" cũng phát tức chết : lần nào cũng vậy, nó đứng xoạc bốn chân “xuống tấn” rồi quay đít ba trăm sáu chục độ, ria rẹt một vòng như bắn súng tiểu liên, vậy là phân lỏng tóe tòe loe ra bốn phương tám hướng, thúi rùm, đồ đạc chung quanh bê bết tùm lum, thiệt kêu trời không thấu! Tức phát ách mà không nỡ đánh, ráng nghĩ tội nghiệp em nó còn nhỏ quá mà sớm xa mẹ nên... không được dạy dỗ tới nơi tới chốn ! Không làm gì được nó, tui bèn không gọi nó là Ột nữa, mà gọi nó “con Quậy” !

Nhưng trong vườn nhà Nội không phải chỉ mình Ột quậy, mà nó còn một "đại ca" ghê gớm hơn nhiều, Ột so với nó chỉ là nhãi nhép, đó là con heo nọc "Ông Ầm" của chú Mười ! Để tui kể thêm bạn nghe. "Ông Ầm" là một con heo thanh niên khỏe mạnh và rất... hư hỏng. Nó là con heo chuyên đi "gieo giống mướn" cho các nàng heo làng trên xóm dưới. Tui vẫn còn nhớ rõ hình ảnh thằng em họ đâu cỡ mười một mười hai tuổi cầm roi dẫn con Ông Ầm đi, mà vừa đi vừa khóc nức nở : thường thì công việc dẫn heo đi “bỏ nọc” là của chú Mười, nhưng hôm nào chú bận quá thì thằng em họ tui phải đi thay. Trước khi đi, nó phải cho Ông Ầm quất hai cái hột gà “tẩm bổ” rồi “nón mê, áo tơi” đau khổ dẫn heo đi, mà lần nào cũng bị con nít trong xóm chế giễu quá chừng nên thằng nhỏ mắc cỡ quắn người, cứ cúi gầm đầu giấu mặt dưới cái nón lá mà vừa đi vừa khóc tỉ tê thiệt tội nghiệp. Đám bạn tinh quái của nó đâu có dễ gì bỏ qua một trò đùa thú vị, tụi nó vừa bắt gặp thằng nhỏ trên đường là lập tức một lũ rồng rắn kéo nhau đi hàng một thành cái đuôi dài thòn đằng sau, mỗi đứa phe phẩy một cọng chuối còn chừa túp lá trên đầu, mạnh đứa nào nấy hát rống : “Kiếp sau xin chớ làm người, Làm con heo nọc cho đời đón đưa ha ha ha ha…”. Kể tới đây tui chợt nhớ tới nhân vật thằng nhỏ tội nghiệp, dường như là trong truyện "Chùm nho uất hận" (The Grapes of Wrath) của John Steinbeck thì phải : thấy nó hay đi học trễ, cô giáo bèn hỏi lý do, nó nói mắc dẫn bò đi phối giống, cô giáo nói việc đó sao không để cho Ba em làm (ý nói việc dẫn bò đi), thằng nhỏ nói "Chuyện đó Ba em không làm được, phải con bò mới được!". Thiệt là chết cười!

Mà cái con Ông Ầm này cũng ghê gớm lắm nghen, vì việc bỏ nọc phải diễn ra lúc sáng sớm, và phải ghé đôi ba lần cho chắc chắn là con nái đã được thụ tinh, có khi phải qua sông, vậy là cứ hễ ghé chỗ nào một lần rồi là lần sau nó nhớ như in, cứ đi đằng trước chủ như dẫn đường, tự động xuống bến sông ngồi gọn ơ dưới xuồng, kêu lên eng éc như giục chèo nhanh. Rồi khi ghé bờ, không chờ chủ dắt, nó cứ phom phom vô đúng nhà và đi thẳng ra sau, thân hình nặng nề lòng thòng hai "cục" bự chảng sau mông vậy mà phóc một cái ổng phóng vô chuồng gọn ơ không cần mở cửa ! Bạn thấy nó "ghê" hông?

Nhưng không phải cái sự "ghê gớm" này mà tui nói nói "hư hỏng", cũng không phải tự nhiên Nội tui gọi nó "Ông Ầm". Mà do chuyện khác. Đó là hễ mỗi khi nó "nổi cơn" (muốn vợ), là nó chạy như điên khắp vườn, đạp rào quần thảo nát vườn rau salade thím Sáu gieo vừa mới nhú, dẫm rạp hết đám mía chú Bảy, ủi mấy đứa con nít mới biết đi lẩm chẩm té ngã ngữa khóc thét, và ví đám gà giò chú Chín chạy tán loạn, táp được con nào là nhai rau ráu liền con đó, miệng nhe hai nanh đầy máu đỏ lóe như Dracula. Tới bây giờ tui vẫn không bao giờ quên được hình ảnh con heo hộc lên phát khùng chạy như giông như gió khắp vườn, miệng ngậm con gà giò chạy tới đâu máu nhễu tới đó, tiếng con nít khóc rân, tiếng mấy thím la bài hãi, tiếng mấy chú chạy rần rần ví bắt Ông Ầm...

Trở lại chuyện Ột nhỏ. Lúc Ột được gần ba tháng tuổi thì chú Bảy tui kêu thợ thiến heo tới để làm cái công việc thấy ghê là cầm một cây dao có lưỡi bóng loáng bén ngót hình tam giác rạch hai đường nhỏ chỗ hai hòn dái nặn tinh hoàn ra, đám heo con của mấy cô chú đau đớn kêu khóc rinh trời. Sau này tụi nó lớn lên chỉ là những con heo "thái giám", chỉ để nuôi thịt. Sao phải thiến heo? Tui hỏi mấy bà thím thì được cắt nghĩa : Nếu không thiến sớm thì sau này heo lớn xẻ thịt, thịt heo khi nấu lên sẽ bị hôi một cái mùi rất kinh hoàng, người ta gọi là “hôi nọc” hay “hôi hoi”. Bạn biết không, sau khi thiến xong, trong khi mấy cô chú nhét muối hột vào vết thương mỗi chú heo (chắc là để sát trùng? thiệt là ác ôn!) và bôi dầu lửa bên ngoài thì tui xót xa ẳm Ột về xức thuốc đỏ đàng hoàng, lại còn vuốt ve dỗ dành nó nữa chớ (!!!). Bà Nội rầy quá trời, biểu làm giống mấy Cô Chú vết thương mới mau lành nhưng tui cứng đầu nhứt định không chịu, càm ràm trong bụng : thử mấy người bị thiến rồi bị nhét muối hột vô chỗ đó, coi mấy có người chịu nổi không, hay là đau rát nhảy tưng tưng lên tới nóc nhà? Đừng có làm điều gì mà mình không muốn kẻ khác làm cho mình, hén !

Tui ở ruộng được một năm rưỡi, nhưng nuôi Ột thì chỉ năm sáu tháng thôi. Khi thấy cố giữ ruộng cũng không sống nổi, bao nhiêu tiền của đổ vô miếng ruộng, chi thì nhiều mà thu lại chẳng bao nhiêu, Má tui kêu về lại thành phố. Cô Tám thấy vậy bèn nói thôi để giao Ột lại cho chú Bảy nuôi. Tui dắt Ột xuống nhà chú Bảy ở cuối vườn, miệng lải nhải dặn nó suốt dọc đường : "Ột à, thím Bảy dữ lắm đó nghen, mầy ráng ăn cho giỏi, nhớ đừng có hất máng, đừng có bỏ bom theo kiểu... xờ-rao (surround), mầy mà hành thím giống như hành tao là mỗi ngày mầy đều ăn đòn nứt đít nghe hôn Ột !".

Đưa cọng dây dẫn Ột cho thím Bảy, tự nhiên thấy thương nó quá, dù biết rằng qua tay thím Bảy có lẽ nó sẽ khỏe mạnh mau lớn hơn ở với tui, vì thím Bảy là tay nuôi heo kinh nghiệm mấy chục năm, khi nó bịnh cũng chính thím Bảy bày cho cách đổ thuốc vào chai xá xị rồi ôm ngửa Ột lên mà dốc vô miệng… Mà Ột cũng thiệt bạc, nó nguẩy đít đi một hơi vô chuồng, tới chỗ này chỗ kia đưa mỏ hít hít đánh hơi mấy anh chị em nó lúc này đã lớn phổng, không một lần ngoáy lại nhìn tui…

Tháng sau tui trở xuống quê để dọn nốt những đồ đạc còn lại, hí hửng ghé chú Bảy thăm con Ột coi nó bao lớn, thì chú nói gọn ơ :"Tao quay nó rồi". Tui ngớ người ra :"Ủa, sao chú Bảy không để nuôi mà đem quay?" Chú chậc chậc : "Nó làm biếng ăn như quỷ, để nuôi lỗ sặc máu ha. Ối chết trước chết sau thì cũng chết ngắc, bộ bây tưởng nuôi nó được tới già sao. Mà công nhận con heo xương mềm lại mỏng da, quay ăn giòn rụm!!!".

Ôi Ột của tui ! Con heo nhỏ xấu nết mỗi lần ăn là lấy mỏ hất máng rầm rầm. Con heo nhỏ khó thương mỗi khi sút dây là chạy như ngựa phi, bắt lại lã mồ hôi hột. Con heo nhỏ ác ôn mỗi lần "bắn tiểu liên" là cả căn bếp ... eau de cologne ngan ngát hương hoa…!!!

Bây giờ nhiều khi nghĩ lại, tui tự hỏi chẳng biết một đứa con gái mười tám tuổi như tui lúc đó có abnormal không khi cứ chảy nước mắt vì một con heo bị đem quay lúc còn nhỏ xíu? Sau này mỗi lần đi ăn cưới có món heo sữa quay là tui lại nhớ tới Ột nhỏ, rồi nhớ tới khoảng thời gian cơ cực từng trải qua nơi ruộng đồng, nhớ tới những buổi đi nhổ cỏ lúa, lưng đau như dần, hai bàn tay ngâm lâu trong nước ruộng trắng bệch và xước máu, nhớ cả mỗi lần tay móc sâu trong đất bùn lôi lên cụm cỏ lác có chùm rễ y như cây cọ gợi nhớ chuyện học hành dang dỡ của mình mà nước mắt rưng rưng.....

Nếu Má không kêu về SG học lại đại học, nếu cả nhà kéo hết về ruộng và sống đến hết đời ở đó, nếu mình thành thôn nữ cả đời quần quật với heo bò, gà vịt... thì sao nhỉ? Biết đâu lại hay hơn? Suy nghĩ đơn giản, cuộc đời theo đó sẽ đơn giản hơn, có phải???

Về SG, đối diện nhà trọ ở Lăng Cha Cả là một lò heo, cứ ba bốn giờ sáng là giật mình mất ngủ vì om trời tiếng heo kêu chói tai. Buổi chiều, khi xe heo về, người ta quăng những con heo đáng thương bị trói bốn chân huỳnh huỵch từ xe tải xuống đất. Họ cứ liền tay quăng xuống như quăng những bao hàng, mặc kệ mấy con heo cắm mũi xuống đất sặc máu, hay lọi tay, gãy chân kêu la thảm thiết... Họ không cần gìn giữ cho chúng được lành lặn vì số heo đó sẽ bị giết mổ ngay trong đêm, những gương mặt lạnh lùng vô cảm lúc nào cũng nhanh nhanh tay cho được việc...

Chọn được một chỗ trọ vừa ý ở SG không dễ, nhưng tui đành bỏ đó mà đi tìm nơi khác vì không thể chịu nổi ngày nào cũng chứng kiến cùng một cảnh bức bối, đêm nào cũng nghe thấy cùng một âm thanh nhói lòng.

Lại nhớ Ột nhỏ tội nghiệp. Cầu mong nó đừng bao giờ trở lại kiếp heo...

TRẦN CẨM QUỲNH-NHƯ

11/12/2013

QN_OtNho.jpg
QN_ModomDom.JPG

MỘ ĐOM ĐÓM (Grave of the Fireflies 1988)

 

PHẦN 1

Older men declare war. But it is youth that must fight and die.

(Khai mào chiến tranh là người có tuổi. Nhưng chính thanh niên mới là người chinh chiến và hy sinh).

Herbert Hoover

U uất trong mưa gió lạnh đầy

Oan hồn tử sĩ giữa ngàn cây

Mồ hoang xương chất, phơi đầu núi

Lớp lớp khăn tang phủ trắng dài
(Đã lạnh rồi mây trắng ơi - Tống Ngọc Nga)

 

1. MỞ:

"21 THÁNG 9 NĂM 1945, ĐÓ LÀ CÁI ĐÊM TÔI CHẾT".


Một thiếu niên mặt mũi bầu bĩnh hiền lành dễ thương trong bộ quân phục tề chỉnh, cúi xuống nhìn mình chết gục bên cột nhà ga Sannomiya. Cái xác gầy còm, áo quần tả tơi, mặt mũi hốc hác, đôi mắt mở hé đờ đẫn... Đây đó ở những cột sân ga khác, ba bốn xác nữa, còng queo. Lầm than và chết chóc thời loạn lạc khiến cho mỗi người nấy lo phận mình, một chút tình người cũng không còn, đến nỗi những bước chân qua lại vẫn lạnh lùng vô cảm, và người ta tới dọn xác như một sự tất nhiên, không kinh ngạc, không một lời thương cảm, còn lộ vẻ bực bội vì không muốn cảnh dân lành thê thảm tột cùng khiến bẽ mặt trước quân đội đồng minh...
Đó là đoạn mở đầu, như một lời báo trước cho những thước phim buồn cho phận người nhỏ nhoi trong thời chiến, như ánh sáng xanh xanh ngắn ngủi của kiếp đom đóm lập lòe, là chủ đề xuyên suốt của bộ phim.

Chiến tranh là một sự kiện hết sức tồi tệ mà những người dân vô tội phải đau đớn trải qua, do chẳng đặng dừng phải tự vệ, do tham vọng cá nhân của những người lãnh đạo muốn thể hiện uy quyền, do lòng tham muốn cướp đoạt mọi nguồn tài nguyên của đất nước chiến bại, cũng do bản tánh độc ác bệnh hoạn thích nhìn máu và nước mắt của đồng loại làm vui.

Bao nhiêu ca khúc, bao nhiêu bộ phim phản đối chiến tranh, liệu có cải thiện được thú vui bệnh hoạn gieo rắc tai ương của một số người hung hăng gây bao đớn đau, mất mát và hủy hoại con người lẫn môi trường?

 

Tôi muốn giới thiệu đến các bạn kiệt tác MỘ ĐOM ĐÓM (Grave of the Fireflies), một phim hoạt hình của Nhật sản xuất năm 1988, khắc họa một nước Nhật điêu tàn kiệt quệ cuối Thế chiến thứ Hai. "Mộ đom đóm" không thuần phản đối chiến tranh, mà đưa lên những cảnh khổ đau đến tột cùng của những con người trong thời chiến bằng ngữ điệu khách quan và trầm mặc, có đôi chút bình thản, với thật nhiều u buồn nhưng tuyệt nhiên không nung nấu lòng th. ù h. ận s. ắt m. áu, không b. óp m. éo, không xá. ch độ. ng không nh. ồi s. ọ, không t. ẩy n. ão hay bôi bác tuy. ên truy. ền. Mạch phim cứ chầm chậm đưa ta đi, để ta tự thấy đau rồi nước mắt ta tự tuôn!

Xin báo trước phim buồn vô cùng, bạn nào chỉ thích kết phim vui xin đừng vào đọc. Thật sự là buồn lắm. Buồn đến não lòng. Buồn đến gây ám ảnh!

 

Trích Wiki:

"Mộ đom đóm (火垂るの墓 Hotaru no Haka?, Grave of the Fireflies) là một bộ phim hoạt hình Nhật Bản của hãng phim hoạt hình Ghibli sản xuất và được Toho phát hành năm 1988. Phim do đạo diễn Takahata Isao viết kịch bản và đạo diễn. Bộ phim được dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Nosaka Akiyuki vốn được tác giả viết dưới dạng bán tự truyện như là một lời xin lỗi với người em gái của chính tác giả. Giống như các tác phẩm khác của hãng Ghibli, bộ phim được chú ý nhờ đạt được chất lượng cao cả về mặt nghệ thuật và hình ảnh".
(Hết trích)

 

2. Truyện phim:

Lấy bối cảnh nước Nhật sắp thua cuộc cuối Thế chiến thứ Hai, giai đoạn tháng Sáu năm 1945, "Mộ đom đóm" kể về cuộc đời ngắn ngủi và chua xót của hai anh em đứa nhỏ mồ côi Seita 14 tuổi và Setsuko 4 tuổi phải tự xoay sở để sống sót qua thời chiến tranh đang tới hồi khốc liệt nhất. Hai anh em mất mẹ sau trận oanh tạc của Mỹ vào thành phố Kobe trong khi cha chúng đang chiến đấu cho Hải quân Hoàng gia Nhật.

Không thể nhờ vả người dì, Seita quyết định dẫn em tới một căn hầm trú bom bỏ hoang. Thức ăn thiếu thốn dẫn tới Setsuko suy dinh dưỡng nặng rồi từ từ lịm đi. Cùng lúc Seita nghe tin Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện và người cha có lẽ đã bỏ thây nơi biển cả, theo hơn 500 chiến hạm bị bắn chìm ngoài khơi. Seita rũ người nhưng không khóc, em lặng lẽ thiêu xác em gái rồi bỏ đi. Không lâu sau Seita lặng lẽ ngồi chết một mình tại nhà ga Sannomiya.

Bộ phim kết thúc với cảnh linh hồn hai anh em ngồi bên nhau, lành lặn, khỏe mạnh và vui tươi với đom đóm bay chấp chới chung quanh. Cả hai cùng nhìn về thành phố Kobe lúc đó đã được xây dựng lại đẹp đẽ và hiện đại như chưa bao giờ đi qua kiếp nạn đen tối nhất của lịch sử Nhật Bản.

------------

PHẦN 2

QN_domdom2.JPG

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế…

Bát Nhã Ba La Mật Đa

Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa.

Mê mỏi chuyến miệt mài,

Thoát lan từ tiền sinh.

Trùng trùng những lớp cửa liên hồi mở, đóng, mở.

Làm sao khỏi loạn tâm?

Người, hoa nhất thời của vĩnh cửu,

Từng ngày, từng ảo tưởng phai buông...
(Hành giả âu sầu - Tô Thùy Yên)

 

All the war-propaganda, all the screaming and lies and hatred, comes invariably from people who are not fighting.

(Tất cả các tuyên truyền về chiến tranh, tất cả những lời la hét, dối trá và căm thù, đều đến từ những kẻ không chiến đấu - George Orwell)

 

3. Người lao công nhà ga vừa động tới cái xác còng queo của Seita, một hộp sắt rỉ sét rơi ra. Đó là hộp kẹo trái cây của Setsuko, mà Seita đã dè xẻn cho em ăn từng viên một và tráng nước hộp rỗng để con bé có thể nếm được vị chua ngọt loãng nhách và mùi trái cây thoang thoảng lần cuối cùng.

Rất lạ lùng, bằng động tác của một người chơi bóng chày thiện nghệ khi ném banh, người lao công co một chân, xoay người và dùng hết sức quẳng hộp kẹo ra tít ngoài đồng cỏ xa. Một tiếng động khô khốc khi hộp kẹo chạm đất, nắp văng ra và những mảnh tro cốt nhỏ xíu của đứa em gái bé bỏng bất hạnh rơi ra lăn lóc. Từ đó thoắt cái hàng ngàn con đom đóm hiện ra sáng rực chấp chới soi tỏ đêm đen tăm tối, và con bé Setsuko bỗng ngồi nhổm dậy từ lòng đất, áo quần sạch sẽ tinh tươm, gương mặt tròn trĩnh ngây thơ trong sáng như một thiên thần. Nó tròn mắt sững sờ nhìn vào tít trong nhà ga âm u, nơi anh nó đang nằm, xác héo khô tiều tụy.
Nhưng một bàn tay ấm áp đã đặt lên vai bé, nó ngước nhìn rồi toét miệng cười. Kìa anh nó Seita đang đứng kề bên, lành lặn và khỏe mạnh đang nở nụ cười tràn ngập yêu thương. Seita cúi lượm hộp kẹo cũ kỹ tróc sơn, thoắt biến thành hộp kẹo mới nguyên khiến con bé cười vui hớn hở. Nó thú vị lắc lắc hộp để nghe những viên kẹo lanh canh. Seita dắt tay em gái bước lên chuyến xe lửa không một bóng người. Những toa trống không rầm rập đi ngược thời gian vào vùng sáng lóa, nơi đó vô số máy bay oanh tạc đang thả xuống thành phố của anh em Seita cơ man nào là bom...

4. Kobe trong biển lửa. Một vùng đỏ rựng chết chóc sáng rực cả bầu trời đêm khi nhìn từ bãi biển về thành phố. Không một tiếng khóc than... Trong cơn hoảng loạn còn nghe vang tiếng hô: "Nhật Hoàng muôn năm!" đầy kiêu hãnh một cách đáng thương dưới cơn mưa lớn cuốn theo bao nhiêu là tro tàn của một thành phố tan hoang sau trận mưa bom.

Và rồi nơi bệnh viện dã chiến Seita gặp lại người mẹ đang hấp hối vì phỏng nặng toàn thân, cả người quấn đầy băng trắng loang lổ máu tươi, ruồi nhặng bay vo ve chung quanh và giòi bọ rớt rơi đầy ván sạp. Trong chúng ta, từng tuổi này ai mà không đôi lần từng nhìn người thân mới đây vẫn còn nóng ấm giờ đã lạnh ngắt bỏ ta mà đi, lòng bấn loạn trống không như mọi cơ quan trong người đều tê liệt... Nhưng kinh khủng và đau đớn như Seita đang nhìn thấy tình trạng thảm thương và đau lòng của mẹ nó quả thật đã vượt ngưỡng chịu đựng của một con người!
Thằng bé không khóc, nó ra sân, cố gắng nhào lộn biểu diễn trên xà ngang để làm cho em gái vui lên: "Nhìn này, xem anh có giỏi không?". Setsuko hoàn toàn không để mắt. Nó ngồi thụp xuống bãi cát rộng, ôm mặt khóc nức nở: "Em muốn gặp mẹ!". Xa xa là những sợi khói bốc cao từ những gì còn lại của một thành phố điêu tàn... Ánh mặt trời chiều hắt lên bóng Setsuko bé nhỏ một đường dài trên cát, thanh mảnh và đơn độc...

5. Khi không thể sống được với người dì lạnh lùng và vô cảm, Seita quyết định bỏ đi. Nó dẫn em tới nương náu trong một căn hầm trú bom bỏ hoang bên bờ hồ cách xa thành phố. Những hình ảnh tương phản cứ đan xen, một bên là hầm trú tối tăm muỗi mòng và ẩm ướt, một bên là xanh ngắt cỏ cây ven hồ dưới nắng ấm, đàn chim nước chíp chíp theo mẹ bơi nhẹ theo dòng, một con nhái xanh nhảy vút từ chiếc lá tròn tỏm xuống nước mất tăm, dăm con chuồn chuồn nhỏ nghiêng cánh dưới nắng vàng, những cọng cỏ đuôi chồn lơi lả phất phơ... Thiên nhiên thơ mộng như khốn khó nghiệt ngã chưa từng ghé qua.

Những gì bán được đã bán hết. Những gì ăn được đã ăn hết. Seita một đứa nhỏ 14 tuổi đã phải đi trộm khoai mía ngoài đồng và bị đánh đập tả tơi để tìm cái ăn cho mình và em gái. Kể tới đây tôi bỗng nhớ, chúng tôi cũng trải qua một thời cùng khổ, đã phải bán đi từng bộ chén dĩa sứ Pháp đẹp long lanh mỗi bộ cả trăm món, bộ ngựa giáng hương của Ngoại dày dặn lúc nào nằm lên cũng nghe mùi thơm thoang thoảng, cái lục bình bằng sứ men xanh cao cả thước Tết nào cũng ôm cội mai vàng vươn nhánh kiêu sa, một thư viện gia đình toàn sách quý lớp xé, lớp đốt, lớp bị b.ắt đem nộp... Rồi cũng tới lúc "Những gì bán được đã bán hết...". Tới khi tận mắt nhìn những cuốn sách từng đem nộp, giờ đây tội nghiệp nằm sóng soài trên con đường bán sách cũ với chữ ký và dấu mộc gia đình ở mỗi đầu trang. Cảm giác như ruột gan đang xoắn lại, trái tim đập dữ dội và liên hồi như muốn bứt ra để được nằm yên không thoi thóp... Một hội ngộ nghiệt duyên nát lòng...

Tôi lạc đề rồi! 
Trở lại với căn hầm tối tăm và hai anh em đói khổ nương nhau lây lất với rau cỏ quanh hồ, những con nhái phơi khô và mớ bã đậu nành ôi thiu. Bầy đom đóm lập lòe ngoài bờ hồ khiến Seita nảy ra ý định bắt đom đóm về thả đầy "nhà", ở đó hai anh em nằm bên nhau ngắm đom đóm chấp chới in hình lên bầu trời đầy sao trong tiếng cười thích thú và trong vắt như những giọt thủy tinh của Setsuko. Seita liên tưởng tới chiếc tuần dương hạm của cha ngoài biển khơi, lấp lánh dây đèn sáng trưng với những chiếc đèn pha chiếu rọi bốn hướng trong cuộc thao diễn hạm đội của Hải quân. Trước mắt nó hình ảnh oai hùng của cha và đồng đội trong quân phục Hải quân Hoàng gia Nhật Bản, cùng với pháo hoa sáng rực cả bầu trời. Bất giác nó hát vang:
"Một pháo đài vĩ đại nổi trên mặt biển!
Bảo vệ quê hương chúng ta,
Khỏi những tên xâm lược ở gần và xa!"

Seitan làm động tác như đang cầm súng, miệng pằng pằng liên hồi khoái chí. Khi những ảnh ảo dần biến mất, nó nói: "Anh tự hỏi, không biết cha đang chiến đấu ở đâu?". Lặng yên, không có tiếng trả lời. Đứa em nhỏ đã ngủ say tự bao giờ, gương mặt thơ ngây cau cau buồn thiu...

6. Những khẩu hiệu oanh liệt và kiêu hãnh "Nhật Hoàng muôn năm!" vang lên đây đó trong không khí chết chóc của trận oanh tạc, hay lời nhạc mà thằng bé Seita oai hùng hát vang: "Bảo vệ quê hương khỏi những tên xâm lược" cho thấy dân chúng của cả một đất nước Nhật Bản thời ấy đều bị lừa dối bằng hiệu ứng "Bà mẹ Tăng Sâm" hay kiểu nhồi sọ của Gobel (Göbbels, Bộ trưởng Đức Quốc xã), nghĩa là ngày qua tháng lại họ cứ xuy.ên t.ạc và tuy.ên truy.ền mãi, mãi cho đến khi ai nấy đều tin rằng sự dối trá đó chính là sự thật, và rồi chính họ, những kẻ có ý đồ tẩy n.ão người khác, lâu dần cũng tin rằng họ mới là những nạn nhân đáng thương, trong khi chính nước Nhật thời đó mới là kẻ gieo bao tai ương cho các nước Đông Nam Á với tham vọng thống trị toàn Châu Á và Thái Bình Dương!
Cho nên khi bị chống trả, buồn cười thay họ nói họ phải "bảo vệ quê hương" và gọi quân đội đồng minh là "quân xâm lược"!!!

Rốt cuộc ai mới là nạn nhân? Đó là người dân Nhật phải gánh chịu hậu quả dưới mưa bom khi quân đội đồng minh phản công, để rồi, đau thương lên tới cực điểm khi Hoa kỳ thả hai trái bom nguyên tử Little Boy và Fat Man xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8 năm 45 sau khi Tuyên bố Potsdam của đồng minh bị Nhật Hoàng ngạo nghễ khước từ!

Tôi nhớ lúc trẻ từng đọc tác phẩm "Hiroshima trong cơn khói lửa" (có bản dịch "Hiroshima trong cơn ác mộng") của tác giả/bác sĩ Michihiko Hachiya. Trái tim nhỏ dại đã bao lần rung lên và quặn thắt trước bao thảm cảnh như địa ngục trần gian. Và vì còn quá trẻ chưa hiểu hết bối cảnh lịch sử nên đã từng trách Hoa Kỳ sao quá lạnh lùng nhẫn tâm!
Thử hỏi nếu không có hai trái bom nguyên tử để nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, liệu Nhật Bản còn gieo tang thương cho Đông Nam Á trong đó có Việt Nam cho đến bao giờ?
Nhứt là Trung Quốc cũng nên biết ơn sự kiện đó, để họ có thể thoát khỏi nanh vuốt kinh hoàng của đế quốc Nhật Bản, và để sau đó có thể trỗi dậy làm vương làm tướng ở những đất nước nhược tiểu lân cận !!!
Vậy mà "Mộ Đom Đóm" sau đó đã được công chiếu tại Mỹ và nhận được rất nhiều lời khen về một cuốn phim có giá trị cả về mặt nội dung lẫn hình ảnh, và bao cảm thương cho người dân Nhật vô tội bị cuốn vào vòng xoáy bi thống điêu linh. Điều đó cho thấy ở nước Mỹ một tinh thần cởi mở khách quan, không nhỏ mọn chấp nhặt bài bác.

--------------

PHẦN 3

QN_domdom3.JPG

... Chuyện kể cốt qua đêm, nề chi chuyện kể lại.

Chó tru miền xa tối rợn gai.

Nơi hốc đá, một cành hoa đợi sáng nở.

Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa.

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế…

(Hành giả âu sầu - Tô Thùy Yên)

 

War grows out of the desire of the individual to gain advantage at the expense of his fellow man.
(Chiến tranh sinh ra từ dục vọng của cá nhân muốn giành được lợi thế qua sự tổn hại của đồng loại - Napoleon Hill)

 

7. Trăm ngàn nhánh khổ vẫn chầm chậm đến với dân tộc Nhật trong đó có hai anh em Seita. Suy dinh dưỡng làm chúng gầy còm thảm thương, bệnh ngoài da làm khắp người chúng ngứa ngáy trầy trụa rướm máu. Setsuko bị tiêu chảy nặng. Không có cái ăn, không có thuốc uống, nó lịm dần đi trong căn hầm lạnh lẽo...
Cùng lúc Seita hay tin Nhật đầu hàng. Nó thốt lên đầy nghi ngại: "Đầu hàng sao? Đế quốc Nhật Bản vĩ đại bại trận sao? Vậy còn hạm đội?". Và người ta trả lời: "Mất hết rồi! Chìm hết xuống đáy đại dương rồi. Không còn chiếc nào đâu!".

Thôi hết... Sự kiêu hãnh dân tộc, niềm hy vọng về người cha là chỗ tựa nương cuối cùng. Thôi chẳng còn gì! Seita đau đớn đổ sụp xuống, nó lấy tấm hình cha từ trong túi, gọi: "Cha ơi!". Cùng với cơn đói bỗng trỗi dậy dày vò, nó khóc nấc...
Một máy bay dân sự bay ngang, như một phản xạ tự nhiên, nó thụp xuống sát đất tưởng như bom sắp rơi xối xả trên đầu. Chiếc máy bay hiền lành lờ lững bay xa, khuất dần sau đỉnh núi xám đen... Chiến tranh đã chấm dứt thật rồi!

Khi Seita về tới thì Setsuko đã lịm vào mê sảng. Nó mơ thấy những con đom đóm mà nó đã đắp cho chúng một nấm mồ và từng thắc mắc: "Tại sao đom đóm lại chết sớm vậy?" - Vì những niềm vui, những nụ cười, những gì đẹp đẽ trong đời sẽ không bao giờ tồn tại dài lâu!
Đom đóm, sinh vật bé nhỏ là ẩn dụ của đời sống mong manh, chúng ngắn ngủi phù du như cuộc đời bao nhiêu thường dân thời chiến loạn - càng đau đớn và cay đắng thay, đôi khi vào thời bình nó vẫn tiếp tục rẻ mạt như cỏ rác! 
Tương tự như người Việt thường cho rằng những đám lửa ma trơi (lửa lân tinh) chập chờn trong nghĩa trang hay trên những cánh đồng vắng là linh hồn của những người đã khuất, đốm lửa lập lòe của đom đóm ở gần những con sông (được gọi là Heike Hotaru) cũng được người Nhật cho là linh hồn những người đã mất mạng oan uổng trong những cuộc thủy chiến xa xưa.

8. Setsuko đáng thương không bao giờ thức dậy nữa. Khốn khổ và đói lạnh ra đi như cô bé bán diêm tội nghiệp của Anderson, nó trút hơi thở cuối cùng bên hộp kẹo rỗng không và con búp bê vải lem luốc cũ mèm...
Đêm xuống. Mưa bắt đầu rơi, phũ phàng, và gió hú ghê rợn bên ngoài căn hầm u tối. Seita nằm nghiêng người ngắm nhìn đứa em gái nhỏ đáng thương. Nó ngồi dậy ôm xác em vào lòng, lần cuối cùng, như e rằng em nó sợ hãi tiếng mưa tầm tã và tiếng gió rít ngoài kia trên những đám lau lã ngọn vật vã ngoài hồ... 

Hết chiến tranh, khắp nơi ai nấy mừng rỡ quay về căn nhà cũ để bắt đầu lại một cuộc sống mới. Bản tình ca từ chiếc máy hát đĩa than vang vang, loang ra tận mặt hồ phẳng lặng, nơi Seita âm thầm thiêu xác em gái. Lửa đỏ ngùn ngụt, cột khói trắng cao vút tận trời xanh...
Seita lặng lẽ cho những mảnh tro cốt bé nhỏ của em gái vào hộp kẹo rồi thất thểu bỏ đi trên con đường vô định.
Không lâu sau Seita mòn mỏi ngồi tựa cột hấp hối trong sân ga Sannomiya, áo quần rách bươm, mặt mũi hốc hác, rồi đổ gục xuống, còng queo, bên tai còn vẳng nghe tiếng em gái nó gọi mẹ. Tiếng nói cuối cùng thoát ra từ bờ môi xám xịt là gọi tên em gái Setsuka, như một lời hẹn ước "Anh đang tới với em đây, em gái bé nhỏ đáng thương!".

Cửa hầm trú bom, nơi anh em Seita đã từng nương náu, giờ đây nằm trơ trọi cây dù rách tả tơi,  lăn lóc những thùng thau móp méo, hờ hững chiếc xích đu đứt mất một bên dây... Giòn tan tiếng cười trong vắt của Setsuko vẫn còn vương vất đâu đây... Như vẫn còn lăng xăng bóng dáng nó nhỏ xíu lon ton, lưng địu con búp bê giống như bà mẹ tí hon đảm đang cầm chổi quét nhà, hoặc lủi thủi chơi lò cò một mình hay chơi oẳn tù tì với bóng mình trong nước, lúc anh nó vắng nhà đi tìm cái ăn.

Anh em Seita giờ đã được an lành bên nhau, không còn đói khát, không còn sợ hãi đạn bom... Hai linh hồn u ẩn đã thực sự thoát khỏi những niềm đau vô tận vô biên của con người. Setsuka ngoan ngoãn ngồi nép bên anh, gương mặt bầu bĩnh rạng ngời với hộp kẹo trái cây mới tinh đầy đặn cầm tay. "Đến giờ ngủ rồi, em ngủ đi nhé!". Con bé hiểu chuyện liền nằm xuống trong lòng anh, mắt nhắm nghiền, dần đi vào giấc ngủ thanh thản bình yên... Linh hồn Seita lặng lẽ nhìn xuống dưới triền xa, kìa thành phố Kobe kiên cường trong lửa đạn, từ những điêu tàn giờ đây trỗi dậy sáng rực ánh đèn đêm, những cao ốc cao vút hiện đại tinh tươm, trong khi anh em nó vẫn mãi ngồi đây, lạnh lẽo giữa đồng cỏ đêm muộn, với muôn trùng đom đóm lấp lánh chung quanh...

Những thước phim trầm buồn chầm chậm đau thương cùng nền nhạc dìu dặt nhẹ nhàng mang mang làm nỗi buồn bàng bạc ray rứt vây phủ người xem...
Ôi! Bao nhiêu tuổi trẻ xán lạn, bao nhiêu tài năng hứa hẹn, bao nhiêu tương lai tươi hồng, chưa kịp tỏa sáng hay chỉ mới vừa tỏa sáng, đã vì đâu một sớm một chiều oan uổng mai một lụi tàn, lây lất chấp chới như đom đóm lung linh buồn trong đêm trường tăm tối, mãi mãi, mãi mãi không bao giờ thấy được ánh bình minh sớm mai rạng ngời...

Hỡi ơi dâu bể không làm mệnh,

Mà kiếp trầm luân cũng bạc đầu...

(Hoài Khanh)

 

SG, 12/12/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như

______________

HẬU ĐÌNH HOA

Khuya, hai chân đau nhức, bao tử cũng quặn, chẳng thiết tha meo miếc với bạn bè... Ai nấy ngủ rồi, mình cứ ngồi bó gối nhìn ra cửa sổ. Đèn quảng cáo ở ngã tư sáng đến nỗi soi lên thấy mây. Dường như lâu lắm rồi không được thấy trăng sao gì. Bầu trời cứ bị cắt nhỏ bởi mái tôn và nhà lầu, muốn nhìn trời phải ngước lên mỏi cổ. Không gian như giếng trời, như cái lô-cốt vô hình, cứ hun hút dìm mình xuống. Đôi lúc chợt nhớ tới con ma trẻ con ác độc và tội nghiệp trong phim “The Ring”. Dưới giếng sâu, biết bao cô độc lạnh lùng... Trong lòng tôi bây giờ cũng gợn lên bao nỗi quạnh hiu...

Tiếng con dế lửa ông xã nuôi cứ gáy ra rả không mòn mỏi. Ổng mua dế cho con chích chòe cưng của ổng ăn, lộn trong đám dế choắt có con dế trống tiếng gáy quá oai hùng, vậy là ông già U.70 chợt nhớ lại tuổi thơ bắt dế giữa đồng, bèn để lại nuôi đặng nghe nó gáy chơi. Mà khổ, ổng quên rằng bà vợ già của ổng rất khó ngủ về đêm ! Nhưng khuya nay không phải tội con dế...

Đã bao đêm mình ngồi bó gối như vầy, vì tất cả những lý do trời ơi ? Trong vườn thượng uyển của Thái tử Siddhartha, người ta không để vàng một chiếc lá, không để héo một bông hoa, và kìa nỗi khổ của chúng sinh vẫn miên man không dứt...

Thoắt nhớ một đêm mấy chục năm về trước, cũng có lần tôi ngồi bó gối nhìn trăng như vầy. Đó là cái hôm cả nhà được lá thơ anh Hai lần đầu tiên gởi về từ sau những chấn song. Nửa đêm, không ngủ được, thấy trời sáng trăng, tôi ra phần sân ngăn giữa nhà trước và nhà sau ngồi ôm con chó nhỏ, trong lòng ngổn ngang trăm mối...

Bỗng rợn người, một tiếng hát trong vắt và lanh lãnh vang lên từ trời cao. Cách nhà tôi một con hẻm nhìn lên là hành lang một khách sạn bốn tầng. Trên đó một cô gái ngồi hát, giọng khỏe khoắn nhưng sao liêu trai buồn thảm. Ánh trăng nhờ nhờ, chỉ thấy mái tóc dài, hai cánh tay trần với bờ vai trắng nuột. Mấy câu hát cứ lặp đi lặp lại hoài, giọng bi ai thê thiết. Giữa những khoảng lặng là đốm thuốc lá lóe đỏ trong bóng đêm...

Hậu Đình Hoa, ơi Hậu Đình Hoa !

Ngàn năm mang mang hận sầu,

Bên sông thương nữ lả lơi...

Trời ơi, rờn rợn nổi lên từng đợt và nước mắt tôi chảy ướt mặt bao giờ không hay. Cô gái là ai? Cách ăn mặc hở hang với điếu thuốc trên tay ngồi trong bóng đêm một khách sạn, không cần suy nghĩ cũng có thể đoán biết. Nhưng sao cô gái lại hát khúc Hậu Đình Hoa ? Tình cờ nghêu ngao khi vắng khách mà không cần hiểu ý nghĩa của ca từ, hay hát để khóc than thân phận tuyết sạch giá trong, một chiều tao loạn đã sa vào nơi cát vẩn bụi lầm?

Con chó nhỏ bị nước mắt tôi rơi xuống liên tục xuống đầu xuống mặt nên nó khó chịu vùng vằng bỏ đi. Còn tôi vẫn ngồi bất động trong bóng đêm, khóc mùi, khóc cho tương lai vô định, khóc cho thân phận con người mỏng manh trong cơn gió bụi năm nào...

Trăng lẫn vào mây rồi. Tối đen.

Trần Cẩm Quỳnh Như

06/2010

_______________

CÁI MỀN LÔNG VỊT

(Phần 1 & Phần 2)

_______________________

CÁI MỀN LÔNG VỊT (1)

 

1. AI DE CHAI LÔNG DỊT!

Cái số tui nó bần. Mền lông cừu Úc, mền Mỹ hai da, thậm chí là mền "quân tiếp vụ" hồi xưa (trước 75) êm mềm xốp nhẹ tận mạng, mà tui vẫn cứ khoái đắp mền lông vịt !


Bà con bây giờ chắc đâu ai còn đắp mền lông vịt? Mền nhung mền nỉ Tung Của đổ đống bán lềnh khênh ngoài chợ, rẻ rề, mà coi bộ cũng “được gái” lắm, độc hại cỡ nào miễn bàn, chớ rờ vô cũng mướt rượt, êm ấm, màu sắc tươi sáng rực rỡ hay đằm thắm ôn nhu đều có đủ cho mọi gu người dùng.


Có ai cắc cớ đi kiếm mua cái mền lông vịt, nhìn bộ hiền khô, quê quê, hoa văn không đa dạng, quanh đi quẩn lại cái mền mỏng xanh lam hay đỏ bordeaux với hình rồng phượng vờn nhau ở giữa.

Nhưng đừng vội xem thường cái mền quê mùa! Cái mền nhà quê này giặt rất mau khô, và nữa, khí hậu miền Nam hiếm khi lạnh lẽo, cho nên gần sáng trời se se mà đắp cái mền lông vịt, vừa nhẹ, vừa ấm, lại vừa mát, thiệt "cảm khái" gì đâu! (bắt chước cách nói của nhà văn Hoàng Hải Thủy). Cái nhẹ của mền lông vịt nó không giống cái nhẹ của mền nỉ Tung Của. Nó phủ sát người nhưng rất thoáng, giống một thứ tình thương chân thật, nhè nhẹ, ấm hơi người rất cảm động, như ôm choàng cả thân thể lẫn tâm tư. Còn mền Tung Của nó nhẹ bân, bồng bềnh, hờ hững, môi miếng... như người dưng, rồi tới khi tích đủ nhiệt thì nó bắt đầu hừng hực nóng như thể mình đi tắm hơi!


Lâu lâu lễ lạt không phải dạy học cũng không phải đi chợ, trùm mền lông vịt nằm nướng tới muốn khét nghẹt luôn, mà dậy sớm quen mắt rồi, nên chỉ nằm quấn kén, thả hồn về miền kỷ niệm, ôi thôi nhớ đủ thứ chuyện xưa tích cũ trên đời... Thiệt thú vị không thể tả!

Nhớ hồi nhỏ hay thấy Má nhổ lông vịt xong gói lại bỏ đó bán ve chai. Cái nghề này bây giờ mất tiêu luôn rồi! Mền thì còn bán đó, nhưng không phải là mền lông vịt đúng nghĩa, họ pha nylon vô nhiều quá, đắp nóng mà qua một thời gian là xệu xạo déformé hết trơn hết trọi. Như cái mền của thằng nhóc con tui, nó dài đòn quá nên phải đắp xéo mới phủ chân, thỉnh thoảng soạn mền đem giặt, mới thấy cái mền của nó đã thành... hình thoi từ đời nào !


Ngồi buồn nghĩ lại, cuộc đời tui có khá nhiều kỷ niệm với cái mền lông vịt này. Để tui kể bạn nghe.

2. BÀ HOẠI NHỎ


Sau 75 gia đình tui sợ đi kinh tế mới, bỏ thành phố lên Long Khánh mua đất lập trại, chiều xuống ngoài rẫy sương lam chướng khí phủ giăng mờ mịt, thiệt đúng là:
...
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú
Hoa lá rụng buồn buồn...


(Hương rừng Cà Mau - Sơn Nam)

Nhiều tháng trôi qua , đôi khi còn giật mình ngơ ngác tự hỏi sao thoắt cái mình lạc loài đến đây? Sao mà đến nông nỗi này?


Đêm, mưa rừng như đem khí lạnh khắp nơi gom về, lạnh tới mức trùm khăn mang vớ, áo quần mặc mấy lớp như cái củ hành vẫn còn lạnh run. Một buổi tối cả nhà đang ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu nhắc chuyện ngày xưa, bỗng nghe tiếng người í ới ngoài rẫy. Lúc đó tui đang trùm cái mền lông vịt lên đầu y như mấy cô Ả Rập Saudi mặc veil, để nguyên vậy chạy ra coi ai. Tối thui, dáng một người cao cao nhập nhoạng xa xa.

- Hoại (Ngoại) ơi Hoại, có thấy con bò của con đi lạc vô rẫy hôn Hoại?

- Không thấy!

Tui la lớn, trong bụng vừa tội nghiệp vừa mắc cười, nói thầm trong bụng: Bà Hoại này mới có hai chục tuổi thôi con à!

Sáng ra, vừa tỏ mặt người, thấy anh chàng hồi hôm đang dắt bò ngang rẫy, gương mặt đen xạm mệt rũ mà hớn hở... Thiệt ngộ, ảnh lại gặp bà Hoại đang trùm cái mền lông vịt đứng giữa sân cho gà ăn! Lần này thấy mặt Hoại rồi, ảnh cười ngỏn ngoẻn, gương mặt rám nắng đỏ lựng tới hai mang tai, lẹ lẹ dong bò chạy mất!

3. THÚ VỊ TÌNH KHAI


Ở rẫy rừng có cái thú vui không gì sánh được, đó là rủ nhau cả đám đi nhát ma thiên hạ!

Buồn quá mà! Cả đám tụi tui là dân học trò bỏ thành phố lên rừng, đứa nào đứa nấy mặt mũi khờ me, ngày làm rẫy, đêm về học ôn tiếng Anh tiếng Pháp mai phục chờ ngày "vượt sóng". Đám con nít bản xứ thì ngoài việc chăn bò, lùng kiếm dái mít chấm muối, truy tìm mấy trái nhãn lồng núp đâu đó ngoài đồng cỏ hoặc trèo cây phá tổ chim chìa vôi, thì chẳng còn gì để giải trí cho đỡ buồn.

Thế là phe "bản xứ" bèn rủ phe "khờ me" rình rình mấy đêm không trăng đi nhát ma thiên hạ cho... khuây khỏa!

Phe bản xứ gồm thằng nhỏ chăn bò đâu chừng mười bốn mười lăm tuổi tên Hùm, nhưng tui vẫn kêu lén là thằng Hăng Rết (nói lái, vì hàng tiền đạo nó sún thấy thương) và con em nó chừng bảy tám tuổi, người ngợm đen thui như cục than hầm, ốm nhom ốm nhách tên con "Vịt Đẹt".
Phe khờ me gồm tui với thằng Út em tui.


Buổi chiều trước đó, khi dong bò về chuồng, thằng Hùm còn ghé ngang rỉ tai: "Chị Năm nhớ đem theo cái mền!".

Tui với thằng Út hào hứng lắm, dù chẳng biết đem mền theo làm giống gì, vì phe kia thần thần bí bí chẳng hở ra cho biết kế hoạch tác chiến ra sao.

Trời vừa chạng vạng, chị em tui đã xách cái mền lông vịt mò ra chỗ hẹn là ngã ba đường mòn, không quên nói xạo với người lớn trong nhà là đi qua bà Hai lối xóm mua mít về ăn (Bà Hai có em bò Loan Mắt Nhung mà có lần tui kể bạn nghe trong bài viết "Tui đi chăn bò" đó).

Đến nơi, phe bản xứ đã ngồi núp sẵn sau ụ mối lớn, kế bên mấy lùm cây dại um tùm. Tụi tui nhanh chóng thiết lập đội hình, nói cho le chớ thiệt ra là ngồi chùm nhum lại rồi trùm mền kín mít chỉ chừa hai con mắt. Hăng Rết cắt nghĩa trùm vậy cho đỡ muỗi cắn và cũng đỡ bị lộ. Nó suỵt suỵt con Vịt Đẹt đang luôn miệng mè nheo vì bị đè dẹp lép giữa đám tụi tui. Nó quẹt lửa xẹt xẹt tới bốn năm cây diêm mới cháy mấy cây nhang rồi lập tức che lại kín mít. Lại cắt nghĩa: Cho đỡ muỗi và lát nữa còn dùng làm "đồ chơi"!

Tối đen như mực, thiệt đúng là đêm ba mươi. Tiếng chó sủa dấm dẳng xa xa. Một hai tiếng cú rúc não nề làm ốc ác tui nổi lên lục cục. Lúc hai chân tui bắt đầu tê dại, còn con Vịt Đẹt ngủ gục lên gục xuống muốn trẹo cổ thì bỗng nghe tiếng dép quẹt lẹt xẹt từ xa. Hăng Rết thì thào: "Bà ba Đực bả đi bán dìa". Nó thoăn thoắt bẻ bỏ một phần chân nhang rồi cắn phần chân nhang còn lại giữa hai hàm răng, trườn sát đất. Ngay khi bà ba Đực vừa trờ tới, nó đưa đầu ra khỏi bụi cây, mặt ngước lên hết cỡ, nó rên lên một tiếng thiệt ma quái rồi dùng hết sức khè ra thiệt mạnh cho tia lửa từ đầu nhang bắn ra tung tóe, soi rõ gương mặt nó bành bạnh sưng sỉa (vì đang phồng mang trợn mắt thổi hết cỡ), hai mắt trợn ngược phát ghê. Bà Ba bả hét lên một tiếng lanh lãnh rồi quăng thúng mủng ba giò bốn cẳng chạy trối chết. Cùng lúc con Vịt Đẹt hổng biết sao cũng ré lên đinh tai. Tụi tui xà quần trong cái mền, quờ quạng tứ tung kiếm hoài hổng ra cái miệng nó ở đâu để mà bịt lại!!!

Tức thời "di tản chiến thuật" (tức là rút lui đó) chớp nhoáng ai về nhà nấy gọn ơ. Trời Phật ơi tiếng là đi nhát ma người ta mà chị em tui đứa nào đứa nấy mặt mũi xanh dờn, tay chân run lẩy bẩy. Anh Ba tui hỏi mít đâu bây. Lại xạo: "Bà Hai bả hết mít chín gồi!".


Cái mền dơ ẹ lấm lem cát đất đem quẳng một góc, buổi sáng bốc mùi ammoniac khai ngấy thấy ghê. Một cuộc "thẩm tra" được tiến hành ráo riết mới lòi ra thủ phạm là con Vịt Đẹt, lúc nó nghe bà ba Đực bả hét lớn như Trương Phi hét quân Tào Tháo ở cầu Trường Bản, nó liệu, nó hét theo, rồi tiện thể... nó tè... tí tách!!!

Sau này lần nào gặp con Vịt Đẹt tui cũng phì cười nhớ tới mấy câu tếu trong "Tướng mệnh khảo luận" của Vũ Tài Lục:

Thú vị tình thâm,
Cưới phải con vợ đái dầm,
Thú vị tình khai!

"Vụ án" đó được hai phe thề bán sống bán chết "sống để dạ chết mang theo", vì nạn nhân, bà Ba, là vợ ông Ba Đực Chủ tịch xã, nghe nói trước 75 hồi còn "công tác" ở trong rừng, ổng giữ chức vụ "Trưởng ban ám sát đặc khu Rừng Sát"!!!

Ngã Ba đường mòn từ đó về sau nổi tiếng vì... con ma khè!


(Còn tiếp)

TCQN

SG, 08/2016

( From FB TCQN)

CÁI MỀN LÔNG VỊT (phần 2)     

4. MỀN TRÔI BƠ VƠ

 

Phía sau trại, cách khoảng một cây số là một con sông, không lớn lắm nhưng lúc nào nước cũng cuồn cuộn đục lờ. Mùa mưa củi khô từ rừng trôi về nhiều lắm, nên một bữa thằng Út rủ rê: "Chị Năm, mình ra đó giặt mền đã lắm, vừa gom củi về chụm, một công hai chuyện!"

Không có nước máy, xách nước giếng lên giặt đồ khá cực, nên nghe nó rủ mình cũng bùi tai, dù cũng hơi sợ ma vì nghe đồn ngoài đó thỉnh thoảng thấp thoáng bóng áo lính ngoài rặng bần và tiếng lao xao như hồn tử sĩ thoảng về trong gió...

Đến nơi, tui chọn một gộp đá vững vàng ngồi giặt đồ, trong khi thằng Út đi dọc bờ sông mót củi gần đó. Khung cảnh hoang sơ đến lạnh lùng. Tiếng con chim gì quang quác đinh tai, rồi tất cả chìm vào tĩnh lặng. Chỉ còn duy nhất tiếng nước ù òa róc rách, tiếng giặt đồ sột soạt, lâu lâu vài tiếng hú cao vút xa xa của bầy vượn nhát người.

 

Yên ắng quá... Tưởng như thời gian đang chững lại. Tưởng như không gian đang đông lại, trong vắt, huyền hoặc ở một thế giới song song - nếu không có lá cây đang rì rào và nước sông đang cuồn cuộn chảy...

Cúi nhìn mãi những xoáy nước nhỏ như những cái phễu chung quanh gộp đá, tui lẩn thẩn tự nghĩ, có khi nào mình té xuống đây rồi trôi mãi theo dòng nước như câu hát về một cuộc tình bi thảm:

... Một người bèn ra ven sông buông theo nước cuồn cuộn mau

Một người chìm sâu trong khi mưa Ngâu bỗng ngừng ngang đầu...

(Hẹn hò - Phạm Duy)

Dù không phải là một kết cuộc có hậu, nhưng chẳng phải tốt hơn là ngồi lại mãi nơi này, bất lực nhìn tương lai trôi...

Tay vò chiếc mền lông vịt, tui chợt nhớ tới truyện ngắn "Chiếc chiếu hoa cạp điều" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhớ thằng nhỏ đắp chiếc chiếu rách mướp mà khoái chí: "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ".

Những người biết xấu hổ như tác giả giờ chắc gần tuyệt chủng hết rồi, chỉ nói dối một chút về chiếc chiếu mà đã cho là nỗi nhục cả đời, như ông đã viết:

"Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành..."

Đang suy nghĩ vẩn vơ, chợt ngay sát phía sau lưng tui có tiếng bước chân xào xạc trên đệm lá khô gãy giòn. Tưởng thằng Út trở về, tôi hỏi: "Củi nhiều hông?" Lặng thinh, tôi quay ngoắt lại, không một bóng người. Tui sợ điếng, gọi thảng thốt : "Út ơi!".

Trong cơn hoảng hốt, tay tui chới với quờ quạng làm rơi mớ đồ giặt xuống nước. Cái mền lông vịt! Tui với theo nhưng không kịp, tui lại không biết bơi. Dòng nước như cướp nó đi, cuộn trôi băng băng...

Khi thằng Út trở lại, tui đang ngồi khóc bên bờ sông. Nó điếng hồn: "Cái gì vậy? Chị Năm bị sao vậy?". Tui mếu máo chỉ tay ra xa: "Cái mền lông vịt, nước cuốn mất rồi!".

Tiếng thằng Út cằn nhằn: "Cái bà này! Làm hết hồn. Mất thì thôi chớ khóc cái gì, thiệt tình á!".

Tối đó thằng Út nằm võng tòn ten, e hèm rồi ca rống lên:

Mền (mây) trôi bơ vơ, mang theo niềm nhớ

Ánh trăng vàng úa soi bóng hình ai phương trời nào đây

Môi em thơ ngây, mái tóc buông dài, đôi mắt u buồn, lệ thẫm đêm nào ướt hoen khăn hồng ...

(Nhạc sầu tương tư - Hoàng Trọng)

Má hỏi tui nghĩ sao rớt mất có cái mền lông vịt mà đứng khóc mặt mũi tèm hem. Tui nói: "Con tội nghiệp nó quá Má ơi !", làm cả nhà phì cười. Cũng như có lần rơi mất cái khăn mouchoir khi đang vượt biên bằng đường bộ qua Miên, tui cũng đứng tần ngần, ngẩn ngơ, tội nghiệp nó phải bất hạnh lạc loài nơi đất khách!!!

Phải chăng tính cách "Lâm Đại Ngọc" này đã khiến tui cả đời buồn thương từ thân phận cánh hoa rơi tới tình người sao phù du mong manh...

5. QUÂN TỬ NGỒI RƯỜNG

Nhớ lại lúc mới về rừng, gia đình tui lập tức bị các ban bệ dưới Xã truy hỏi tới nơi tới chốn: "Mắc gì về đây làm chi? Tính chừng nào vượt biên? "Làm nông" nổi hông mà bày đặt làm?".

Họ kêu tụi tui là "nhà giàu Sài Gòn", mình xưng gia đình công chức, họ cười nhếch mép!

"Lâu rồi đời mình cũng qua", dần dần thấy tụi tui một đám cận thị trắng nhách mà chí thú làm ăn hết biết, năm này qua năm khác coi bộ an phận rẫy bái không có ý tò te (tại họ không biết thôi, xé lẻ "bơi" hoài hổng được phải dội trở dìa!), lại hiền lành lễ phép và nhứt là biết điều quà cáp điếu đóm hết cỡ, nên không lâu sau, tụi tui được chính thức nhập tịch làng rừng, ai nhắc cũng thương "tụi học trò Sài Gòn"!

Thương thì thương, lấn đất vẫn lấn, chó hở ra vẫn bị đập, quần áo mùng mền phơi ngoài sân vẫn phải canh như phơi vàng!

Giờ mới vô đề: Một bữa nọ anh em tụi tui kéo hết ra rẫy chỉ còn Má lúi húi nấu nước ở gian bếp.

Trước hết phải tả sơ cái nhà, bạn mới hiểu tại sao ban ngày ban mặt có người ở nhà, lại có chó, mà vẫn bị trộm.

Nhà là nhà tranh vách đất được xây theo kiểu lán trại, trải ra dàn hàng ngang chớ không có bề sâu như nhà bình thường, được chia ra nhiều gian thông nhau. Từ trái qua phải, gian đầu là phòng ngủ, kế tới phòng khách, rồi tới gian bếp, rồi gian chứa nông phẩm (để khoai mì, khoai lang, bắp, đậu phọng, mè... trong khi chờ kêu thương lái tới mua, hoặc lá bạc hà thu hoạch bữa trước, bữa sau rửa sạch cho vô cái nồi chưng cất bự chảng nấu tinh dầu), cuối cùng là gian nông cụ. Còn phòng tắm, toilette, chuồng gà và nhà chưng cất bạc hà cũng ở gần đó nhưng được xây riêng biệt.

Tui sẽ không kể chuyện tên trộm ác ôn thoa nước hành lá vô tay giả làm rắn hổ hành để gà sợ không kêu quang quác rồi nó ôm đi mất cả gia đình con gà trắng giống Úc mới mua mắc động trời (cả con trống Hùng Cường, con mái Mai Lệ Huyền và cả ổ trứng đang ấp) khiến cả nhà tui đau xót lý chim quyên..., tui chỉ kể chuyện bị ăn trộm mền.

Hôm đó là ngày thu hoạch lá bạc hà. Mười cô thợ rẫy, người nào người nấy thấp lùn, vai nở, bắp chân chắc nịch, sức làm việc hiệu quả và dẽo dai kinh hoàng. Thấy tui cắt lá bạc hà mới có vài sọt mà đấm lưng thùm thụp, họ xúm lại cười rần. Tới khi chịu hết nổi, tui đầu hàng, bỏ chạy vô nhà pha trà đá cho thợ.

Rẫy bạc hà khá rộng, từ đó có thể đứng nhìn bao quát lán trại từ xa. Khi đang chạy lúp xúp trong rẫy, chợt tui nhìn thấy nháng nháng một bóng người thì thụp ở cửa sổ đầu gian trái. Xa quá, mắt cận thị lên độ nên tui tưởng Má đem củi vô bếp, vì gần đó có đống củi lớn phủ bạt, kế bụi chuối lớn. Nhưng khi chạy vô tới hông nhà thì chẳng thấy ai, ngoại trừ một đống mền tung tóe dưới đất. Tui réo: "Má ơi, sao để mền tùm lum ở đây?".

Má chạy ra nhìn, vẻ mặt đăm chiêu: "Để kêu anh Ba tụi bây kiếm thêm vài con chó, một mình con Ki cột ngoài kia nó giữ nhà đâu xuể!". Tui thiệt ngố, nghe vậy mới biết nhà suýt bị trộm!

Có lẽ tui từ rẫy bạc hà chạy về trễ năm phút thôi là tối đó cả nhà đã không còn mền đắp!

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, tên trộm này coi bộ cũng "có nhơn", hắn thò tay qua song cửa sổ làm bằng thân cây đước lôi mền ra, chỉ lựa mền len thứ xịn mà lấy, còn mấy cái mền lông vịt thì chừa lại, chắc để cho khổ chủ khỏi phải chết cóng trong mấy đêm mưa rừng lướt thướt! Tui nói: "Cái thằng ăn trộm này khôn ghê chưa Má, chỉ lựa mền len, bỏ lại mền vải!". Má đột nhiên nói lớn: "Thôi đừng nói vậy, ai cũng khổ mà. Phải đi ăn trộm, người ta cũng khổ tâm. Thôi ôm mền vô đi con. Sau này nhớ đừng để mền gần cửa sổ là được".

Buổi tối khi việc gom lá bạc hà tạm xong, mấy cô thợ về hết, Má mới kể chuyện lại cho anh Ba và thằng Út nghe. Anh Ba nói chắc người quen, chớ con Ki rất thính hơi, sao nó lại im re?

Má nói ừ, quen.

Tụi tui tá hỏa: Trời đất, sao Má biết?

Má cười: "Lúc tao với con Như đứng đó, "nó" còn núp trong bụi chuối, mấy cái lá chuối khô đem vắt lên đầu! Thằng Út nói sao Má không hú tụi con vô lôi đầu nó ra!

Má nói thôi bỏ đi, nhà mình thân cô thế cô, gây thù kết oán làm chi, mà cũng tội, nó nghèo khổ quá mà!"

Mãi rất lâu sau này, khi anh Ba tui bị nạn, chính gã trộm này đã ra mặt giúp đỡ mọi bề. Lúc đó, hắn không còn là đứa chăn trâu cắt cỏ vô danh tiểu tốt nữa, mà đã nghiễm nhiên trở thành một nhân vật "đinh" dưới Xã...

Sau này khi về lại Sài Gòn, thỉnh thoảng nhắc lại chuyện xưa, tụi tui kêu "ông kẹ chê mền lông vịt" là "Vân Tiên đầu đội chuối khô"!

Ai cũng có thể đổi đời. Chỉ có điều, đôi khi sâu của giống ruồi lại xé kén trở thành loài bướm, dù nó chỉ là con bướm ngày, thô lậu, đen đủi, xám xịt.

Dù sao đi nữa, lòng nhân của Má tui đã được hồi đáp, mặc dù sự hồi đáp đó cũng không thể cứu được ông anh khẳng khái của tui thoát khỏi kiếp nạn năm nào...

Sau khi anh Ba tui mất sau những chấn song, thỉnh thoảng những đêm trăng sáng, tui hay thơ thẩn ra sân ngồi nơi thềm nhà. Trời lạnh căm, tôi trùm cái mền lông vịt, ôm con Ki, con Miu, mà nghe như trong gió thoang thoảng mùi thuốc lá anh Ba hút vào những đêm không ngủ anh ra đầu hè ngồi lặng im trong bóng tối suy gẫm chuyện đời. Như còn thấy nụ cười anh với hàm răng trắng lóa, như còn thấy rõ mồn một dáng anh ngồi đó, cao lớn đến tội nghiệp, lạc lõng trong kiếp người sinh bất phùng thời...

Anh ngồi mãi đó, một chấm nhân sinh

Có hay không có trong cõi vô tình

Anh ngồi mãi đó,

Anh ngồi mãi đó, một chấm nhân sinh...

Anh lại trở về bên bờ sông đó

Còn nỗi thương quê mất tròn tuổi nhỏ

Có phải mưa nguồn xóa phăng bờ cát.

Cơn lũ nào tuôn, triền dâu xơ xác.

Tuôn về biển mẹ sâu rộng muôn trùng.

Sông thì nhỏ bé, máu góp sao cùng.

Sông thì nhỏ bé, máu góp sao cùng ....

(Lời tiền thân của cát - Trầm Tử Thiêng)

TCQN

SG - 22/08/2016

QN_Daihocam.JPG

ĐẠI HỒ CẦM
 

Kể chuyện đờn địch của tui, bạn nghe chơi đỡ buồn.

1. ĐỜN BẦU
Hồi tui còn nhỏ, anh Ba tui một bữa hỏi mấy đứa con gái trong nhà thích làm gì nhứt. Chị Hai nói thích làm nhạc sĩ (bả mê nhạc Đoàn Chuẩn, Cung Tiến lắm), chị Tư thích làm ca sĩ (bà này tánh thực dụng, ước có giọng ca trời phú và dùng nó để hái ra tiền). Tui nhỏ hơn mấy anh chị nhiều tuổi lắm, lúc đó mấy ổng bả lớn rồi mà tui còn dưới Tiểu học, hai con mắt tròn vo đen thui như hai hột nhãn, hay đi đôi guốc vông kêu lách chách, đi học mặc áo bà ba trắng quần đen, ngực dẹp đép bụng ễnh ngược. Nhỏ vậy chớ ý thích thì không thua kém mấy anh chị lớn đâu ngheo. Tui tuyên bố chắc nịch: "Em thích làm văn sĩ mà giỏi đờn bầu!", bị anh Ba tui ký đầu: "Con mén này nhỏ mà tham dữ bây!".

Ờ làm văn sĩ coi bộ khó, chớ đàn bầu thì có tiền cứ vô học Quốc Gia Âm Nhạc (bây giờ kêu là Nhạc Viện). Người ta có khiếu học vài năm, mình ngu ngu học chục năm, rồi "đàn bầu ai gảy nấy nghe", mình đờn tửng tửng mình mình nghe, chớ có đi khoe khoang trình diễn đâu xa mà sợ bị nói tài chưa tới!

Ba tui dân Tây học mà cổ lỗ xỉ lắm, ổng không cho học đàn bầu. "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu", nghe còn không cho, huống hồ ngồi gãy! Ba hỏi sao con không học đàn tranh cho dáng ngồi đẹp dịu dàng. Tui nói thôi vậy Ba cho con học trống đi? Ông già mém xỉu! Ổng không ngờ đứa con gái út ngoan hiền chưa bao giờ biết cãi lời lại có những sở thích đối nghịch nhau ác liệt!!!
Chị Hai tui thì thùy mị đoan trang lắm, bả có cây sáo Nguyễn Đình Nghĩa bả cưng như vàng, mà hơi bả ngắn ngủn nên mỗi lần bả tập thổi éc éc là bầy chó nhà hàng xóm nó sủa rân trời!

Rồi nhà gặp biến cố lớn. Nhà cửa, đất đai, nhà máy... chỉ một đêm trôi hết qua kẻ tay! Cả nước cơm còn không có ăn lấy đâu có tiền học đờn!
Từ bỏ mộng hồ hải sau gần mười năm trôi giạt, tui trở về Sài Gòn tìm chỗ trọ và học lại Đại học, vừa dạy kèm Anh văn cho mấy nhà đại xì thẩu trong Chợ Lớn.
Buồn quá một bữa tự nhiên nổi hứng tui theo tờ rơi quảng cáo dạy đàn bầu, tìm tới một hẻm nhỏ đường Ngô Tùng Châu Phú Nhuận (giờ là Nguyễn Văn Đậu). Thầy dạy nhiều nhạc khí như Aspirine trị bá bịnh chớ không chỉ chuyên đàn bầu, cỡ tuổi dưới trung niên, tóc tai bờm xờm. Nghe nói căn bản nhạc lý tui chưa biết gì, thầy bèn trổ tài đờn cho nghe một bản, có lẽ là bản ruột của thầy. Tui dốt nhạc lý nhưng nghe tiếng đàn thầy lủng củng không mượt mà nên cảm ơn thầy rồi một đi không trở lại.
Mấy tháng sau tình cờ xa xa thoáng thấy thầy ngoài đường Lê Quang Định, thầy không ới, trò cũng làm bộ không thấy, mà nghĩ sao thầy lặng im chạy theo sau trò một đỗi dài tới tận nhà.
Má tui hay nhắc tới hai chữ "thầy đờn" với giọng kém tôn trọng, có lẽ vì bà già bị ảnh hưởng sâu đậm ấn tượng trai lơ của thầy Hai Khánh trong vở cải lương "Nửa Đời Hương Phấn" với câu nói đi vào lịch sử xài tới xài lui hoài với tất cả các cô gái thầy gặp: "Tui thương mà đâu có dám nói!".
Ông thầy đàn bầu này cũng vậy, tui không trở lại học do tay nghề thầy không nhuyễn, phần lớn cũng do ông thầy nói chuyện mà liếm môi bóng lưỡng và cặp mắt thầy cứ rảo khắp người tui từ khoảng dưới cổ xuống tới tận đùi!


2. ĐẠI HỒ CẦM
Sau âm thanh não nuột của đờn bầu, lớn lên tui còn bàng hoàng vì âm trầm buồn thảm và uy nghiêm của cello (trung hồ cầm) và contrebasse/contrabass (đại hồ cầm).
Anh Ba tui hay ghẹo: "Bây cao nhồng, 'phải thời' học Octabass (cỡ lớn nhứt dòng đại hồ cầm) coi bộ hợp! Mà đi lưu diễn các nước phải có HAI thằng tiểu đồng đi theo, lỡ cây đờn nó ngã nó đè thì có người lôi bây ra!". Ông anh tui là vậy đó, ổng ỷ ổng lớn hơn tui tới mười mấy tuổi nên ngày nào không chọc tui là coi bộ ổng ăn cơm hổng ngon.

Đại hồ cầm ngoài âm thanh dìu dặt, thế ngồi còn vững chãi tôn nghiêm, hầu như chỉ có mặt trong những buổi hòa nhạc bác học và quy mô lớn. Tui thích những cô gái ngồi đàn hồ cầm tóc thề suôn mượt đơn giản với bộ đầm trang nhã thanh lịch. Dường như hiếm thấy một nhạc sĩ hồ cầm nào ăn mặc khêu gợi hay lòe loẹt màu mè.

Stjepan Hauser nghệ sĩ cello nổi tiếng thế giới người Croatia có lần biểu diễn với một cello điện, dáng nhẹ nhàng thanh tú và tân kỳ, như thể nó kết hợp tất cả tinh hoa nghệ thuật của người tạo tác lẫn kỹ thuật công thái học để người đàn có thế ngồi đàn thoải mái hơn.
Nhưng sao tui cảm thấy đại hay trung hồ cầm kiểu truyền thống tuy bị mang tiếng nặng nề vẫn mang nét uy nghiêm khó thể thay thế, tiếng cũng trầm sâu trong khi đàn điện lại thanh trong hơn.


3. ÔI NHỮNG GIẤC MỘNG KHÔNG THÀNH!
Các bậc cha mẹ hay có một sai lầm là hay gán ghép những giấc mộng dở dang của mình vào con cái: Sau này tui hỏi con trai thích đàn bầu hay contrabass không?
Nó cười hà hà: "Mẹ đừng nói muốn con học đàn bầu nghe. Bố giỏi guitar vậy con còn hổng học, huống gì mấy cái đờn tỏn tỏn với ù ù!" (ý nó nói đờn bầu tỏn tỏn, còn đại hồ cầm ù ù).

Thôi, chơi không được thì mình nghe đỡ ghiền. Tui nghe ráo hết mấy clip đàn bầu của sư phụ Phạm Đức Thành (cái ông tóc dài hay đàn cho chương trình Thúy Nga By Night) từ Giọt Mưa Thu, Đêm Đông cho tới Con Thuyền Không Bến, Điệu Buồn Phương Nam...
Cello thì có Stjepan Hauser lừng lẫy với Ave Maria, The Swan, I Have A Dream, O Sole Mio, The Godfather, The Lonely Shepherd...

Tui thường chìm dần vào giấc ngủ bằng tiếng cello trầm buồn của giai điệu My heart will go on, nhắm mắt lại vẫn thấy rợp trời sao giăng giữa khung trời tím thẫm và con tàu Titanic lặng lẽ lướt đi trong băng lạnh.
Hay Unchained Melody với hình ảnh Sam (Patrick Swayze) mái tóc vàng nâu và gương mặt xương xương, đôi mắt trìu mến cố ngoáy nhìn lại người thương Molly (Demi Moore), vừa bước vào vùng sáng lóe tự trời cao rồi tan dần...


4. TIẾNG ĐÀN MA
Rồi một đêm, tui nghe tiếng đại hồ cầm văng vẳng... Chăm chú lắng nghe, dường như nó phát ra từ tầng trên cùng cao ốc gần nhà. Rồi ngày sau lại có cảm giác như nó ở ngay đây, trong căn phòng yên ắng. Tiếng đàn trầm buồn bi ai lẫn chút ma mị, khi khoan khi nhặt, lúc gần lúc xa...
Nhiều ngày qua, tui đâm ra nghi ngờ thần kinh của mình. Xưa nay tui vốn chừng mực, chưa bao giờ mê đắm thứ gì tới mức không kiểm soát và ám ảnh. Nhưng sao...

Nhiều ngày sau tiếng đàn liêu trai biến mất không tăm hơi. Cho tới một đêm khuya, khi tui mở toang cửa sổ để đón gió đêm, lập tức tui sững sờ vì lại nghe tiếng đại hồ cầm dìu dặt nho nhỏ rồi lớn dần, như thể một nhạc công đang ngồi rất gần tui đang say mê kéo vĩ. Có hơi thú vị, nhưng cũng rờn rợn... Mãi rồi tiếng đàn cũng tắt dần khi trời về sáng.
Cũng may tui đã ở căn nhà này hơn bốn chục năm trời, không phải nhà mới mua. Nếu không tui lại lẩn thẩn lậm mấy phim ma, tưởng tượng cảnh đôi vợ chồng ham căn nhà đồng quê thênh thang giá rẻ mà mua nhằm căn nhà rùng rợn kiểu Amityville!

Chờ con trai đi làm về kể chuyện, nó dặn hễ nghe tiếng đàn thì kêu nó, rồi nó quan sát từng ngóc ngách căn phòng, cuối cùng cười hí hí: "Mỗi lần vậy mẹ mở cửa sổ nhìn xuống dưới đường coi có ông già nào đang đờn ót ét để tỏ tình với mẹ hông? Ông này kỳ thiệt, chồng con người ta ràng ràng ra đó!".
Tui nạt: "Đàng hoàng coi!". Nó nói chắc nịch: "Cuối tuần con rảnh con đi bắt ông già đó cho mẹ, giờ mẹ thưởng thức tiếng đờn của ổng thêm vài ngày đi!".
Thứ Năm, thứ Sáu, rồi thứ Bảy, nhắc nó, nó nói giọng thần bí: "Để con đi mua mớ lông nheo về trừ tà!". Gì vậy trời, cái thằng ba trợn này!

Thừa lúc tui đang ngồi máy dạy học, nó lên phòng tui lúi húi làm gì không biết, lát dặn Mẹ để ý coi mấy ngày sau còn nghe nữa hông.
Hết dứt thiệt luôn! Tui thắc mắc: "Con làm sao hay vậy?".
Nó bèn dẫn tui tới cái khe cửa ngăn ngang phòng trước và phòng sau: "Đây ông già người yêu của mẹ đây: Là gió từ cửa sổ luồn dưới khe cửa sẽ phát ra tiếng trầm giống tiếng đờn. Con mua mấy thước dán khe cửa, trong nghề kêu là 'lông nheo', dán bít ở dưới là ổng hết đờn!".
Rồi nó còn dặn thòng: "Chừng nào mẹ ghiền quá muốn nghe lại thì lột sợi lông nheo ra, hen!"

Ôi trời thì ra vậy, làm tui quê một cục. Tối tối nghe vẳng tiếng đàn rờn rợn, tui cứ nhớ tới tiếng đại hồ cầm trong một phim kinh dị Nam Hàn, con nhỏ nghệ sĩ tài hoa bị đứa bạn giết hại để giành ngôi vị quán quân, nên nó hiện hồn về báo thù, và mỗi khi sắp giết một người trong gia đình nhỏ bạn, là tiếng đại hồ cầm lại vang lên ảo não thảm thê...


5. "LÀM LẠI"?
Có mấy ai đã đi qua cuộc đời này lại không ước ao mình có thể quay ngược thời gian để làm lại từ đầu! Cho nên mấy cái phim time-travelling đánh vô tâm lý đó, cứ cho nhân vật "làm lại" cả chục lần để "sửa lại" cái chết của một người thân, thậm chí còn "sửa lại" cả cuộc đời mình cách khôn ngoan và biết tính toán hơn!

Bạn ơi, nhiều khi tui trốn đời trong phút chốc để sống với nhân vật trong phim ảnh vào những đêm không ngủ, để rồi sáng dậy lại an nhiên như chưa từng ước mơ, chưa từng thất vọng, cố mà hài lòng với những-tương-đối-nào-có-vẻ-tuyệt-đối-nhứt của hiện thực đời thường!

Cùng với những thước phim cho phép "làm lại", tui luôn nhắm mắt tưởng như đang lắng nghe tiếng đại hồ cầm xa gần khoan nhặt gần bên, và tự an ủi rằng trong mỗi một cuộc đời, bao giờ tiếng đại hồ cầm bảng lảng trầm buồn cũng vang lên nhiều hơn và lâu hơn tiếng harmonica reo vui hạnh phúc!

SG, 20/07/2023

Trần Cẩm Quỳnh-Như

 

 

https://www.youtube.com/watch?v=3AUsZwck0_c 

The Godfather

https://www.youtube.com/watch?v=xpd5-KGcVmY

Serenade

https://www.youtube.com/watch?v=oC3PeBw3QVo

My heart will go on

_________________

TCQN_HoiTrungDuong.jpg

HỘI TRÙNG DƯƠNG

. Trần Cẩm Quỳnh Như

Như dòng sông ta miệt mài đi mãi

Ra biển khơi không quay lại đầu nguồn.

Trong lòng ta chất chứa những u buồn...

Lúc phẳng lặng...lúc sóng dâng cuồn cuộn...

Như chiếc lá rời cành bay theo gió

Bay về đâu ta chẳng biết về đâu?!

Một thoáng vui lặng lẽ vỡ tan mau

Chỉ lắng đọng nỗi niềm đau bất tận...

(Như dòng sông và chiếc lá - Huỳnh Ngọc Anh Kiệt)

-----------

 

MỞ

Để tôi nói chuyện bạn nghe đỡ buồn.

Tánh tôi hay hát dù không có chất giọng (nhưng không hiểu sao có lần thi hát thầy Lương Vinh Sanh cho hạng Nhứt? Chắc tại năm đầu Trung học, còn nhỏ quá nên Thầy chỉ cần hát đúng giọng là được. Mấy năm sau thì cái giọng xoàng xĩnh của tôi lập tức bị nhỏ bạn Ngọc Hân soán mất ngôi).

Nhưng thích hát là một chuyện khác! Hồi trẻ, rửa chén cũng hát rùm beng "Từ nay bèo trôi, cầu xiêu, con đò nát, Và mây đìu hiu cây rụng lá, thân mình về đâu?" (Vĩnh Biệt - Đoàn Chuẩn), ủi đồ cũng hò ông ổng "Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ, Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó... (Hương Xưa - Cung Tiến). Giờ nghĩ lại thiệt tội nghiệp lỗ tai những người xung quanh.

Sau 75, về ruộng, nhổ cỏ cũng hát, chăn bò tắm heo cũng hát, Histoire D'un Amour, Bang Bang, Poupée de cire, poupée de son... hát nhạc Pháp cho con bò con heo nó nghe!

Về già, viêm họng mãn tính, lại bị cắt amygdales, giọng đã dở càng dở tệ, thêm lá phổi mệt mỏi sự đời và mấy chục năm giảng bài rang rảng, giờ có nghe ca sĩ nào hát hay quá không nhịn được thế nào cũng bày đặt nhẩm theo, mà chỉ còn nước thều thào!

Tôi nhớ từ hồi nhỏ xíu, khi bắt đầu ê a hát theo mấy anh chị, thì "Hội Trùng Dương" đã là một trong những bài hát yêu thích nhứt của tôi, dù lúc đó tôi chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa của bài hát, không biết là của ai, cũng không biết nó được sáng tác từ trước 54, còn lớn tuổi hơn tôi!

Âm nhạc thật diệu kỳ, bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng khi nghe lại nó vẫn gieo vào lòng tôi bao nhiêu là thương cảm! Rồi tôi cứ nghe đi nghe lại mãi, cảm giác như mới được nghe lần đầu, mỗi lúc một thấm thía...

Người hoài cổ như tôi, dù biết thời gian phải trôi để cho mọi thứ được đổi thay và tiến hóa, nhưng sao tôi vẫn nhớ thương hoài một dĩ vãng êm đềm, một thời đại vàng son đã chảy xuôi không bao giờ trở lại... Tôi không chối giờ đây mọi thứ đều đủ đầy, mọi thứ đều hiện đại, nhưng đố bạn tìm lại được không khí thanh bình xưa...

 

Et puis la nuit m'est devenue peine et légère

Et je défie quiconque qu'pourra m'prouver l' contraire

Etincelles d'amour faites briller autour, vive la rivière sans retour

Etincelles d'amour faites briller autour, vive la rivière sans retour...

(La rivière sans retour - Chanson)

Phải, dù đêm đen mịt mù trở thành nỗi đau khôn xiết, dòng sông một khi đã chảy đi là không bao giờ trở lại.

Tôi bỗng muốn mãi trầm mình trong giai điệu "Hội Trùng Dương" để tạm quên đi đục trong phù thế, lắng nghe lòng mình, tìm lại chút hương xưa...

GIỚI THIỆU

"Hội Trùng Dương" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là tâm tình của ba dòng sông: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long được nhân cách hóa như ba thiếu nữ của ba miền Bắc Trung Nam, là một trong ba bản trường ca hào hùng bất hủ của nền âm nhạc Việt Nam trước 75, cùng với "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương và "Sông Lô" của nhạc sĩ Văn Cao.

Điểm đặc thù của "Hội Trùng Dương" ở chỗ, toàn cảnh không bẽ bàng xót thương cho thân phận con người trong cơn chính biến như "Hòn Vọng Phu", không có "sóng căm hờn", "bao đám xác thù" hay "tiếng súng trái phá" như "Sông Lô", mà nó là nét hài hòa giữa thơ và nhạc, mang âm hưởng đặc trưng theo từng địa phương, nhẹ nhàng diễn đạt tình ý theo hoàn cảnh từng miền, mỗi con sông là một âm điệu trầm hùng đầy nỗi niềm và khát vọng cứ lôi cuốn người nghe trong sóng nhạc trước sau từng đợt cuốn hút, tất cả đều mang tới cho người nghe một sự hào hùng của loại quân nhạc lãng mạn, một niềm hãnh diện vì miền đất ấm no trù phú, lẫn ngậm ngùi như một nhớ tiếc dằn vặt đau đáu khôn nguôi, mặc dù toàn bản trường ca đều thấp thoáng một không khí lạc quan, luôn tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng.

ĐOẠN MỞ ĐẦU

"Trùng dương, trùng dương, trùng dương ...

Trùng dương .....chốn đâу ngàn phương,

Có ba dòng sông cuốn xuôi biển Đông nhắc câu chờ mong..."

Những chữ "trùng dương trùng dương" được lặp đi lặp lại nhiều lần như từng đợt sóng trước sau nhẹ nhàng "Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi..." tới toàn cảnh "ngàn phương" đến "ba dòng sông cuốn xuôi" về ba miền rồi nhập vào nhau chảy về biển cả. Chưa bao giờ tiếng nhạc êm đềm lại tượng hình sinh động đến vậy!

"Nước non buồn vui

Đây hội trùng dương đầy vơi..."

Chỉ trong một dòng nhạc ngắn gọn mở đầu đã cho người nghe một ý niệm bao quát về nội dung nhạc phẩm, chuyện dân, chuyện nước, có vui vẻ có buồn thương, và toàn bản trường ca như một áng văn tự tình đầy vơi tâm sự.

SÔNG HỒNG

"Ϲhiều naу nước xuôi dòng đại dương,

Có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn..."

Nét nhạc chậm lại êm đềm như một tiếng ngân dài. Cách diễn tả sống động (vẩn vơ nắng quái, cô thôn mờ xa) vẽ ra những nét chấm phá cho thấy đời sống hiền lành của những ngôi làng thanh bình bên dòng sông đục phù sa ươm nắng vàng. Điệu Hò Dô Ta "Dô dô hò dô" nhịp nhàng vui tươi dồn nhanh dần như một hành khúc:

"Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa,

Có những cô thôn mờ xa đón bầу dân đánh cá..."

Một hình ảnh đầy thơ mộng khi nhạc sĩ ví con sông Hồng với thiếu nữ hững hờ gối đầu lên mảnh đất Lào Cai và Việt Trì, mênh mang xõa tóc theo từng bãi cát dài ven sông, nằm thả hồn mơ Thái Bình Sơn Tây. Và dù tả cảnh chiến chinh "đem thịt xương ngăn giữ nương đồng", nhưng vẫn nhẹ nhàng "Đem vinh quang thắm tô sông Hồng"!

Mây ký ức đã hoá mầu tóc bạc

Sóng thời gian còn u uẩn nỗi niềm

Những con thuyền xa mẹ đã bao đêm

Ngày trở lại sông vẫn đầy nước mắt

(Sông Hồng của mẹ - Nguyễn Việt Chiến)

SÔNG HƯƠNG

Sông Hương nước chảy hiền hoà,

Mà sao vẫn cuốn cả nhà Nguyễn trôi?

Rót đầy ly rượu mời hoa

Hỏi nhan sắc cũ, lụa là xưa đâu?

Tột cùng sao vội đắm sâu,

Lòng dân chẳng ở bền lâu với mình ?...

Sẩy chân vỡ giấc son vàng,

Cười khan bên những lọng tàn hẩm hiu.

Bần thần ngó mảnh sân rêu,

Nghe đâu thuở trước dập dìu công khanh

Dư thừa rượu thịt, yến oanh

Chỉ không thấy tấm lòng dân buổi nào

Phải chăng lúc ấy giặc vào ,

Cân đai nhốn nháo, luỹ hào ngửa nghiêng ?...

(Bên sông Hương cảm tác - Bùi Thụy Đào Nguyên)

Điệu buồn nỉ non ai oán chơi vơi trên con sông Hương trầm mặc bên phế tích hoàng thành, như thở than cho dải đất miền Trung bất hạnh mãi mãi kiếp đời lầm than "khiến đau thương thấm tràn...". Nỗi buồn cứ trải dài mênh mang từ phiên chợ Đông Ba cho đến bến Vân Lâu "thuyền vó đơm sâu", để rồi khi người hát xuống giọng thì đã thành "đơm sầu", giống như gợi bao nhiêu buồn thương đều gom tụ hết về đây...

Trong khi mảnh đất phương Nam hầu chưa từng khốn khổ vì lụt lội và hạn hán, thì miền Trung luôn "mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn", không chỉ vì "Trời hành cơn lụt mỗi năm" mà còn do chinh chiến "xương máu tuôn tràn", dù vậy giọng nhạc vẫn tràn đầy hy vọng một ngày mai tươi sáng:

"Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh,

Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên".

Thật sự có ai đâu ngờ, vừa hết nạn can qua, cảnh tử biệt sinh ly vẫn khốc liệt kéo dài theo năm tháng...

Xáng xề sông đổ về xa

Xáng xề phách nhịp đổ qua hồn mình

Ai ngâm khúc nhạc cung đình

Để ai thương cả Hoàng thành cỏ rêu...

(Đêm sông Hương - Thạch Quỳ)

Một điểm tài hoa của người nhạc sĩ, là vài âm ngữ thanh trắc dùng trong phiên khúc "Sông Hương" này được kéo oằn xuống thành dấu nặng theo ngữ điệu miền Trung một cách tài tình, cho nên người hát dù không phải người Huế vẫn có thể dễ dàng hát tròn âm hưởng miền này:

Đêm đêm khua ẠNH trăng vàng mà than

Phiên Đông Ba buồn quá CỰA chợ

Quê hương em nghèo LẶM ai ơi!

Trời rằng trời hành cơn lụt MỘI năm

Ai là qua là thôn VẶNG

Nghe sầu như mùa mưa NẶNG

BỆN Vân Lâu thuyền vó đơm sầu

Một nỗi ngậm ngùi cho miền Trung nói riêng và dân Việt nói chung, là chiến tranh liên miên, thống khổ không dứt, đến nỗi sự bất hạnh đã thành lẽ thường, và rồi người ta đã phải làm quen với nó, sống chung với nó. Sự chịu đựng triền miên đã thành bản năng, bình thường "như hai mùa mưa nắng", nên người người đều cháy bỏng ước mong một ngày đất nước thoát khổ nạn triền miên để người dân cùng vui tươi cất lời hoan ca:

"Hò ơi……

Ai là qua là thôn vắng,

Nghe sầu như mùa mưa nắng...

...Bao giờ máu xương hết tuôn tràn,

Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn,

Cho em vang khúc ca nồng nàn!"

SÔNG CỬU LONG

Nếu ở sông Hồng êm đềm, sông Hương ai oán, thì sang miền Nam, tiếng nhạc từ con sông Cửu Long như vỡ òa mở ra một vùng trời nước trù phú vui tươi với cảm giác thỏa thuê no đủ.

"Đây miền Nam!

Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long,

Cuộn chảy dâng trời Nam mạch sống...

Đời vươn lên thuyền ghé bến,

Sống NO NÊ dân quê một miền..."

Người dân miền Nam có lẽ chẳng bao giờ hiểu hết được ý nghĩa hai chữ NO NÊ, vì xưa nay luôn được thiên nhiên ưu đãi cho biển trời đầy cây thơm trái ngọt, cá thịt ăm ắp, lúa vàng bát ngát ngập đồng, nên mọi người đều cho rằng no ấm là điều hiển nhiên...

Cho tới khi miền Nam bị nạn đói tấn công!

Tôi nhớ năm tám mấy có anh bạn cùng dạy học, nghề tay trái là chụp ảnh dạo ở các chùa chiền, hai đứa con anh, nick ở nhà cháu lớn tên No, cháu nhỏ tên Nê! (bây giờ đã thành danh ở nửa kia trái đất, chắc vợ chồng anh vẫn còn rùng mình ám ảnh khi gọi tên con vì nhớ tới giai đoạn đói khổ kinh hoàng đó). Đủ biết mãnh lực ghê gớm của cơn đói khi ngày này qua tháng nọ toàn ăn độn bo bo và khoai mì, một điều khó tin khi miền Nam là vựa lúa của cả nước!

"Kìa nắng thương dân đây,

Nắng khô đồng lầy..."

Có dễ thương không, tới thiên nhiên cũng thương yêu hậu đãi người dân miền Nam, khiến cho nắng ấm khắp vùng, đồng lầy khô ráo!

Không chỉ trong nhạc phẩm Hội Trùng Dương, còn rất rất nhiều bài hát của các nhạc sĩ nổi tiếng đã ca ngợi một miền Nam hiền hòa ấm no và hạnh phúc dù ngày ấy hằng đêm hỏa châu vẫn còn sáng lòe lơ lửng tít trời cao: "Được mùa" Phạm Đình Chương, "Nắng đẹp miền Nam" - Lam Phương Hồ Đình Phương, "Khúc ca ngày mùa" - Lam Phương, "Mùa lúa chín" - Thu Hồ, "Hò lơ" - Phạm Duy, "Tình vui thôn trang" - Lê Trọng Nguyễn, "Lý Ba Tri" - Đinh Trầm Ca, "Hương yêu" - Hoàng Trọng, "Chờ một ngày" - Lam Phương, "Lúa mùa duyên thắm" - Trịnh Hưng...

Đó là lý do sau 75 khi đất nước thống nhứt, người từ các vùng Trung Bắc đổ dồn về miền Nam lập nghiệp sinh sống, mà chưa bao giờ ngược lại! Tôi vẫn còn nhớ như in gương mặt tươi cười của nhạc sĩ Nhất Sinh (gốc Trung) giữa miền quê trải dài cánh đồng lúa chín bát ngát và ánh mắt thỏa thuê của nhạc sĩ Trần Tiến (gốc Bắc) qua TV khi có dịp vào Nam nằm vắt vẻo đu đưa trên võng giữa vườn cây ăn trái mênh mông một tỉnh miền Tây!

Kèm vào điệu nhạc dồn dập phóng khoáng tươi vui, là điệu hát ru con mộc mạc quen thuộc của dân Nam đôn hậu:

"Ϲhẻ tre bện sáo cho dầу,

Băng ngang sông Mỹ ơ... có ngàу, ngày gặp em..."

Rồi đoạn kết, một khúc nhạc tươi tắn đầy ắp hy vọng với toàn cảnh sum họp hạnh phúc của ba con sông sau khi đã dặm ngàn dong ruổi, lại hòa vào nhau ở sóng nước biển Đông! Mấy chữ "tự do" được nhắc đi nhắc lại mãi xuyên suốt nhạc phẩm cho đến tận câu cuối cùng, cho thấy ước nguyện cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân Việt, là tự do và no ấm, hai khái niệm nghe đơn giản mà bao đất nước cứ mãi điêu linh không thể nào với tới!

"Ô hò ơi... ra biển khơi!

Trùng Dương...

Ba chị em là ba miền nhưng tình thương đã nối liền

Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duуên

Hẹn nhau...

Pha hòa sóng lan bốn phương trời...

...Dựng mùa vinh quang hứa đời tự do!"

Tại sao ba cô gái lại gặp nhau ở biển Đông và tại sao lại pha hòa sóng lan bốn phương trời? Có thể đây chỉ là một ý tưởng ngẫu nhiên ám chỉ một hình tượng hiệp nhứt, nhưng sao tôi vẫn hơi rờn rợn khi nghĩ câu hát sao giống như một lời s ấm, vì cách đây chưa lâu, biết bao thu yền nhân mọi miền đã trước sau bao đợt ra khơi, may mắn tản đi "bốn phương trời" cũng nhiều, mà bạc mệnh dập dờn dưới đáy biển Đông cũng không ít!

 

KẾT

Ôi, những dòng sông! Là dòng chảy vô thường đầy biến dịch thăng trầm với bèo nước lênh đênh, là những trải nghiệm đầy tính triết lý cho nhân vật Siddhartha ngồi chờ một tiếng "OM" huyền diệu ("Câu chuyện dòng sông" - Hermann Hesse), là lưu lượng đổi khác từng giây ("On ne se baigne jamais deux fois dans le même fleuve" - Héraclite), là đường đời vạn nẻo và cuộc sống mờ mịt ("Củi một cành khô lạc mấy dòng" - Tràng Giang - Huy Cận)...

Qua được bên kia sông, xem như đến được bờ (đáo bỉ ngạn) của triết lý Phật giáo, là buông bỏ tất cả để đạt tới sự hoàn mỹ của một tiểu ngã ("Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha" - "Vượt qua, vượt qua tới bờ bên kia, là Giác Ngộ rồi đó!" - Bát Nhã Tâm Kinh). Đó cũng là tính vô trụ (không bám vào cái gì hết) của dòng sông.

Cho nên gần 70 năm đã trôi qua, "Hội Trùng Dương" của nhạc sĩ Phạm Đình Chương vẫn như một tuyệt phẩm tự tình dân tộc trong sáng, hào hùng và nhiều ý nghĩa sâu sắc cứ tiếp tục mãi gieo hy vọng vào một ngày mai đúng nghĩa tươi đẹp cho một đất nước đã quá mỏi mòn vì những tháng ngày chịu đựng trăm cay ngàn đắng.

Bao giờ? Câu hỏi từ rất lâu đã mãi vang vọng trong lòng mỗi người dân Việt.

Câu hỏi không có câu trả lời.

Không biết đường cong sông Tiền Đường có giống đường cong sông Lam,

Mà ngọn sóng ở đây cứ cồn lên nỗi tang điền thương hải?

Ơi cánh chim bằng ba chìm bảy nổi!

Ba trăm năm là mấy đời người?

(Bên sông Lam nghĩ về Nguyễn Du - Xuân Hoàng)

SG, 18/06/2023

Trần Cẩm Quỳnh-Như

YOUTUBE: HỘi TRÙNG DƯƠNG:

Đức Tuấn: https://nhac.vn/bai-hat/hoi-trung-duong-duc-tuan-soLRPld?fbclid=IwAR2D9WZRGwdM4B8Azl96XsEO1aSAY82rGo9tAjZQzl416EtpqRO8X_qKXrs

 

Thái Thanh: https://www.youtube.com/watch?v=spncRuGG070

 

Ánh Tuyết: https://www.youtube.com/watch?v=CLKQIPGJjUc

TCQN_mottoihatbong.jpg

                                          .Trần Cẩm Quỳnh Như

Một vị thầy cũ có gởi cho tôi một link hay "Tuyệt vọng lên núi Nga Mi tự sát", và bảo "Em đọc xong ghi vắn tắt cho Thầy vài suy nghĩ". (Xem link ở cuối bài)

Tôi đọc bài, vừa đọc vừa khóc... 

Chuyện xưa hiện về, mồn một như mới đây.

Và đây là vài suy nghĩ tôi viết gởi Thầy, kể lại một trong ba lần tự vận không thành.

TCQN

 

N ow I'm a soldier, a lonely soldier

Away from home through no wish of my own

That's why I'm lonely, I'm Mr Lonely

I wish that I could go back home...

(Mr Lonely - By Bobby Winton)

https://www.nhaccuatui.com/bai-hat/mr-lonely-bobby-vinton.eaZWREHePB.html

 

Tôi rời Sài Gòn tới Bãi Dứa Vũng Tàu một ngày đầu tháng Chín. Nắng đã vàng hanh trên lũ sóng lao xao ngoài xa nhưng phố biển biếng lười vẫn như còn lặng yên ngáy ngủ.
Tôi chọn đại một nhà nghỉ vắng. Tháng Chín, hết hè, mọi nhà nghỉ và khách sạn đều vắng tanh. Dường như cả nhà nghỉ này chỉ có mình tôi: những người khách lẻ loi bỗng trở thành "thượng đế" thật sự, các nhân viên ai cũng xởi lởi tử tế, thậm chí họ còn đề nghị nấu ăn luôn cho tôi. Tôi cám ơn, nói chắc cũng không cần lắm, tôi ở có một ngày đêm.

 

Kế sát nhà trọ là một quán sân vườn phục vụ các món ăn đơn giản. Tôi chọn một góc mát, kêu tô hủ tíu nhỏ. Tôi không đem nhiều tiền, tôi không thiết ăn uống, và thêm một lý do nữa: Hết đêm này, tôi đã không cần ăn uống nữa rồi.

Sân vườn nhiều bóng rợp, mấy cây nhãn lá xanh rì, hàng sứ cùi thả bông trắng xóa xuống nơi tôi ngồi. Tôi thơ thẩn cầm lên một bông còn rất tươi, cánh dày trắng sữa, giữa ửng vàng ngọt. Tôi nhớ tới những cô gái Tahiti gợi cảm và mặn mòi với đóa sứ trắng giắt một bên tai, nụ cười rạng rỡ khoe hàm răng trắng tinh nổi bật trên nền da nâu khỏe mạnh. Dù lòng đang nặng nề, tôi bỗng hơi tức cười khi tưởng tượng nếu bây giờ mình giắt bông này lên tai, chắc bọn thanh niên thiếu nữ đang cười nói vui vẻ góc kia chúng nó sẽ phì cười và tội nghiệp cái bông trắng cài trên mái tóc nâu phờ phạc một thiếu phụ trẻ ốm o, héo úa và buồn rũ như khóm cỏ trong mưa. Đâu rồi mái tóc dài dập dờn như sóng theo mỗi bước chân đầy tự tin trong sân trường Đại học? Cái gì đã bào mòn nhanh đến vậy thời gian tươi đẹp của tôi, xuân sắc của tôi, nụ cười của tôi, tương lai của tôi???

 

Thôi thì thôi mộ người tà dương
Thôi thì thôi nhé.. đoạn trường thế thôi...

(Đưa em tìm động hoa vàng - Phạm Duy)

 

Một đứa nhỏ gầy gò trạc tuổi con trai tôi trờ tới để xấp vé số của nó vào lòng tôi rồi tự nhiên kéo ghế ngồi đối diện. "Nha nha cô!". Tôi phì cười với cách mời mua hàng lạ lùng của thằng nhỏ. Tôi nói cô không chơi vé số, nhưng con ăn sáng không, cô kêu cho một phần. Thằng nhỏ gật đầu lia lịa. Tôi ngồi nhìn nó ăn, gương mặt đen đủi tội nghiệp, đôi môi tái bóng mỡ, những gắp mì vội vã ngon lành... Không biết con trai tôi giờ này đang làm gì? Bố nó kêu nó dậy chưa? Cho nó ăn phần ăn sáng cuối cùng tôi làm cho nó và để sẵn trong lồng bàn chưa? Nhóc rất ngoan, nó biết ngày nào mẹ cũng đi chợ rồi quáng quàng đi dạy, rồi bố cũng dạy, nên nó ngồi một góc lủi thủi chơi một mình cách bà Nội không xa.

Trên đường đi, xe vùn vụt nhưng tôi cũng kịp thấy đôi ba trường Tiểu học khai giảng sớm, những bà mẹ trẻ tíu tít cầm tay đứa nhỏ áo sơ mi trắng tinh, gương mặt thơ ngây trầm ngâm như còn tiếc nuối những ngày hè ngắn ngủi... Tôi ngoáy nhìn mãi như muốn tìm hình bóng đứa con tôi, lủi thủi ôm cặp với vành khăn tang trắng trên đầu. Đôi mắt đã khóc quá nhiều sao vẫn còn lắm nước mắt đến vậy, tức tưởi, nghẹn ngào, nước mắt lại từng dòng âm thầm chảy... Cũng may tôi còn cái kiếng mát để che giấu hai mí sưng húp...

 

Buổi chiều, sau khi hỏi được một vài thông tin từ bàn tiếp tân, tôi thả bộ xuống con đường dọc bãi biển, ghé quầy tạp hóa bên đường bán kèm vài thứ thuốc cảm ho thông thường, hỏi cầu may một vỉ Mictasol Bleu. Khi con bé đưa ra vỉ thuốc, chưa kịp mừng đọc date thấy đã quá hạn cả tuần. Thôi cũng đành phải mua uống ngay lúc đó, vì bệnh nhiễm trùng đường tiểu của tôi bỗng nhiên tái phát chẳng đúng lúc. 

 

Như một hậu ái đầy cảm động, tôi gặp ngay ngôi chùa nhỏ bên đường, đó là tất cả những gì tôi mong đợi vào lúc này. Tôi vào ngồi thật lâu dưới tượng Quan Thế Âm, một tiếng, hai tiếng??? Đầu óc trống không, xơ cứng, lạnh ngắt. Sân chùa vắng tanh, một hai vạt áo vàng thấp thoáng lướt sau vòm cây xa... Tiếng con chim gì thánh thót liến thoắng như rót từng chuỗi thủy tinh xuống vạt nắng trong vắt dưới chân Phật Bà. Tôi ngước lên tìm kiếm, tiếng đập cánh thanh nhẹ xao xác tàng lá dày. Tôi chợt bắt gặp ánh mắt Phật, sống động đến nao lòng. Lạy Phật, xin chỉ cho con một đường đi. Con đã sai lầm một lần, giờ phải chăng con đang đem một sai lầm khác để sửa chữa sai lầm trước? Nhưng con đã tới bước đường cùng. Con giờ có gì? Gia đình có, người thân có, nhưng con không có một bến đỗ không sóng gió. Con cần một bến đỗ yên bình, dù cả đời hay tạm bợ... Từ một quyết định không đúng đắn, như một bánh răng trật, cả con tàu cuộc đời đã lao đi không kiểm soát, cuối đường là vực sâu tuyệt vọng và ngỡ ngàng - ngỡ ngàng vì người, tuyệt vọng vì mình...

 

Tôi lạy Phật lần cuối và rời chùa, thơ thẩn xuống bãi vắng. Biển động ầm ầm. Gió phần phật đến lạnh run. Thứ gió không thân thiện mặn rát thách thức kẻ lạ mặt ủ rũ đơn độc... Mây kéo xuống chân trời xám xịt, những hạt mưa to bắt đầu rời rạc rơi... Tôi rùng mình ớn lạnh, cảm giác như có những dòng điện nhỏ truyền xuống tận mấy ngón chân vì căn bệnh nhiễm trùng đang hành hạ...

 

Đêm về nhanh theo cơn mưa rả rích. Tôi ngồi thừ trước ly nước nóng rót từ bình thủy mượn của nhà trọ ban chiều. Trong vô thức, tôi bẻ từng viên thuốc ra khỏi vỉ... Hai trăm viên thuốc ngủ mua gom góp nhiều lần từ mấy tháng nay. Thời đó thuốc ngủ rất khó mua, và tôi cứ một điệp khúc "mua cho bà Má mất ngủ kinh niên". Mỗi nhà thuốc cho mua được một vỉ, cho tới khi đủ hai trăm viên, và cho tới khi giọt nước tràn ly, quyết định chín mùi...

Tôi yên lặng khuấy lên. Hai trăm viên thuốc trong một ly cối nước nóng hòa vào nhau thành một chất đặc sền sệt, mùi thuốc nhè nhẹ, lạ lẫm... Đưa lưỡi nếm một chút, không đến nỗi đắng như tôi tưởng. Mà đời mình còn chưa đủ đắng?

 

Cửa sau phòng trọ nhìn ra biển rộng. Bãi cát xa mờ hắt lên màu vàng nhạt nhợt lạnh lẽo. Mặt trăng tròn u buồn mờ đục trong mưa thưa. Tiếng gió, tiếng sóng ì ầm như đại bác đêm một thuở xa ngái... Và rồi dưới màn mưa mờ lướt thướt nhuộm trăng, đột nhiên nổi bật vạt áo trắng nhờ nhờ một đứa nhỏ câu đêm đơn độc trên ghềnh đá bãi biển vắng ngắt đến lạnh người.
Tôi ở cách nó một khoảng khá xa, bao gồm sân sau nhà trọ và bãi cát rộng, ánh trăng lu sau màn mưa làm mọi thứ đều nhập nhoạng, sao tôi vẫn thấy rõ mồn một miếng vá đụp trên đôi vai gầy còm, thấy rõ từng đường may vụng về vá víu, mảnh vá sơ sài lật phật theo từng cơn gió. Thằng nhỏ như tuyệt vọng khi liên tiếp quăng mãi dây câu vào biển đen gầm gừ, tưởng chừng như nó đang thách thức định mệnh khi chọn kiếm ăn vào một đêm biển động...


Áo vá... Cái áo vá làm tôi rúng động đến run rẩy khi nghĩ con tôi cũng có thể một ngày mặc chiếc áo vá đụp... "Không có cha ăn cơm với cá, không có mẹ liếm lá đầu đường". Tôi nỡ sao? Ngày đầu tiên đi học, con tôi mới vào lớp Một đã phải quấn trên đầu vành khăn tang?

Sao tôi đang tâm, sao tôi nông cạn, nỡ bỏ lại người chồng hiền lành và đứa con nhỏ nhít chỉ vì máu mủ bất nhân? Tôi muốn chết vì họ muốn tôi chết. Tôi muốn chết để họ hài lòng. Tôi muốn chết để họ phải suốt đời ăn năn... Và tôi cũng muốn chết vì tôi ương yếu vô dụng...

 

Đã nhiều lần tôi muốn đem con đi tới một nơi xa thiệt xa, vùng sâu (chớ không phải khu trung tâm) của Côn Đảo, Phú Quốc hay Tây Nguyên gì đó.
Cũng đã từng gởi thơ cho mấy tòa soạn tôi thường cộng tác (lúc đó chưa có máy tính để tìm kiếm thông tin) để hỏi xem, rằng tôi đang ở SG, với bằng cấp ra trường loại giỏi nhưng lại không có trong hàng ngũ giáo viên chính thức của Nhà nước (tôi chỉ dạy hợp đồng cho các công ty và vài trung tâm sinh ngữ), thì khi tình nguyện tới dạy những nơi xa xôi, tôi được đãi ngộ gì, tôi có được cấp chỗ ở, và con tôi có được theo vào hộ khẩu? Tòa soạn công khai trả lời trên báo, kêu liên lạc Sở Giáo dục ; kèm theo một chuyện khá tức cười, là sau đó có vài người gởi thơ liên lạc với tôi, trong đó có vài em gái ở tỉnh và một em trai đang đi nghĩa vụ ở xa, mong muốn được làm quen và viết thơ liên lạc qua lại, vì cảm phục tôi đang ở SG mà xung phong đi dạy nơi xa. Thật sự tôi đâu được lý tưởng đến vậy, nói cho cùng tôi chỉ là con thú cùng đường!

Rồi nghĩ lại thương con, nó đang ở ngay trung tâm thành phố, đang được hưởng những thứ tương đối tốt nhứt cho cuộc đời một đứa nhỏ: nhà riêng, đủ cha mẹ, bệnh viện lớn, trường gần... Tôi sanh nó ra sao tôi lại bất công, quyết định đem nó đi tới những chỗ xa xôi không có bất kỳ đồ dùng văn minh hiện đại nào... Và học vấn thì nếu về những nơi chó ăn đá gà ăn muối đó, có lẽ chỉ duy nhứt tôi mới có thể kèm cặp nó lên tới cấp Ba, mà rủi thay khả năng tôi chỉ có thể kèm nó được Việt văn, Anh văn và Pháp văn!

Thế là mọi dự định phá sản từ trứng nước...

 

Đêm nay tôi lại ngồi mông lung trong căn phòng xa lạ, suy nghĩ mãi về quyết định của mình, lòng thương con ray rứt... Không đâu, tôi không thể vì vài người thân nhẫn tâm đến cùng cực với tôi, mà trong một lúc phẫn uất nông cạn tôi lại đang tâm chối bỏ sự sống để con tôi phải chịu mồ côi. Không có mẹ đã khổ, có mẹ kế lại càng khổ hơn (ai biết được ngày mai?). 

Người thân của tôi, tuy cùng máu mủ nhưng gẫm ra có lẽ chỉ là những con nợ sanh cùng bụng mẹ để đầu thai đòi nợ lẫn nhau, cho nên họ sát phạt không chút dung tình, quyết tâm dồn tôi vào chỗ chết, sao tôi lại dại khờ cho họ toại nguyện, mà rốt cuộc nỗi đau chỉ mình con tôi gánh chịu? Nỗi đớn đau bị người thân phản bội này, tôi phải cưu mang cả đời để trả giá cho những gì tôi đã làm cho họ kiếp trước, biết đâu???

Và cả khổ đau trong đời vì những sinh ly tử biệt đã qua, những mất mác không thể kiếm tìm...

 

Tôi thở hắt một hơi dài, nhìn ra đứa nhỏ gầy gò ngoài kia, quyết định thả bộ ra đó... Nhưng khi mãi rón rén đi trên mặt cát trơn với đôi chân mỏi mệt vì cả buổi chiều thơ thẩn, ra tới ghềnh đá thì đứa nhỏ đã ra về tự bao giờ... 

 

Sáng sớm hôm sau tôi về lại SG, lòng thầm nghĩ những nhân viên phòng trọ chắc chắn sẽ hết hồn hết vía khi thấy trơ trỏng trên bàn ly thuốc đặc sệt của tôi!

Ôm con trong tay, tôi nức nở khóc... Bà Nội nói Kata cứ chạy ra cửa ngóng Mẹ... Bố cũng đã chạy tìm khắp nơi...

Đứa nhỏ ngây thơ hỏi Mẹ đi đâu lâu dữ tối không về ngủ với con! 

Ôi Mẹ xin lỗi con, Mẹ xin lỗi!!!

 

Nhiều năm sau đó, tôi chợt lóe nghĩ, phải chăng vì được Phật Bà Quan Âm độ mạng, nên đứa nhỏ câu đêm ngoài Bãi Dứa chính là Phật Bà Quan Âm thị hiện để kéo tôi ra khỏi vũng mê, vì tôi đã rúng mình bắt gặp ánh mắt Phật Bà trong sân chùa, đau đáu làm nao núng tận tâm can...

 

Cảm ơn chư Phật chư Bồ Tát đã kịp kéo tôi ra khỏi u minh, để con tôi có mẹ, giờ đây đã là một thanh niên chín chắn, biết nghĩ, và nhứt là tôi đã kịp góp tặng cho xã hội một con người tử tế. 

 

"Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, họ vẫn có thể dẫn dắt ta đi qua những cánh cửa chật chội của định kiến, chứng minh trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, người ta vẫn có thể đem lại ý nghĩa cho sự tồn tại của mình bằng tình yêu thương".
(Đặng Hoàng Giang - Hành trình cận tử)

 

SG, 09/06/2023
Trần Cẩm Quỳnh-Như

------------------------------

 

https://tansinh.net/bi-an/tuyet-vong-len-nui-nga-mi-tu-sat-cuoc-gap-go-ky-la-khien-toi-tin-rang-than-phat-thuc-su-ton-tai/?fbclid=IwAR3l_Wy0W9eSv-dwp8zWTIhWRCMco59_nE12gqI51nSIbSyAfw-iIlC1Bw4

QN_QTAtrong toi.jpg

(Hình: SenDecor)
 

QUÁN THẾ ÂM

 

"Cầu khẩn hay phụng thờ hình tượng Quán Thế Âm, không sao sánh được với việc trau dồi từ tâm"".

(Sư Toại Khanh)

 

1. Mấy câu đầu tử vi của tôi:

  • Mệnh: Hỏa - Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)

  • Phật Bà Quan Âm độ mạng

Nghe đáng mừng quá phải không bạn? Còn gì bằng một sinh linh nhỏ nhoi lại được Phật Bà Quan Âm độ mạng?

Như Đức Mẹ của người Công Giáo, Phật Bà Quán Thế Âm là một hình tượng đẹp đẽ, uy nghi, mầu nhiệm nhưng cũng không kém phần gần gũi với tất cả các tín đồ Phật giáo. Cho nên một ngày, tới khi nghe giảng Quan Thế Âm tùy hiện, có khi là đàn ông, tôi đã hết sức bất ngờ, vì Quán Thế Âm từ lâu đã tồn tại trong tâm thức nhân gian là vị "Phật Bà" thệ nguyện không thành Phật, mãi làm Bồ Tát độ trì chúng sanh cõi Ta Bà.

 

Từ khi còn nhỏ xíu được Má dạy ngồi khoanh tròn vo chắp tay niệm "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát", cho đến khi lớn hơn chút, lại được Má rủ rỉ bên tai mỗi tối trước khi ngủ truyện Quan Âm Thị Kính ngày ngày đi xin sữa về nuôi đứa trẻ mới sinh bỏ trước cổng chùa, truyện Quan Âm Diệu Thiện cỡi cọp thoát khỏi pháp trường của vua cha.

Má nói (dù mắt tôi đã ríu lại mất tiêu rồi) khi mình làm người tốt, sau này về già lúc ngủ, linh hồn sẽ bay về cõi Phật. Thời gian dài tuổi thơ tôi lúc nào cũng thắc mắc sao mà bay lên được, khi còn kẹt cái nóc mùng với cái nóc nhà? Má nói khi đó mình sẽ nhẹ nhàng bay lên như không có gì, tôi thì cứ hồi hộp sợ bay đại lên sẽ bị u đầu!!! Tuổi thơ ngốc nghếch thiệt dễ thương!

 

Sau 75 sợ đi kinh tế mới, Má tôi lên mua đất ở rừng Long Khánh, sân rộng lắm trồng nhiều mai vàng và mai tứ quý, giữa sân chúng tôi còn an vị một tượng Quán Thế Âm bằng thạch cao trắng cao khoảng mét rưỡi dưới bóng cây bồ đề xum xuê và bụi tre ngà thân óng ả vàng ươm. 

Từ nơi thành phố đô hội về giam đời thanh xuân dưới cái nắng rát bỏng ngày hè hay gió lạnh cắt da buổi lập đông, chúng tôi được bình an cho tới ngày bỏ đất ra đi, tôi cho là có sự nhiệm mầu che chở của Ơn Trên. Vùng đất vắng vẻ, nhà này cách nhà kia một hai cây số quy tụ đủ các thành phần kéo tới khai hoang, chúng tôi còn bị mang tiếng "nhà giàu SG" dù chẳng có gì ngoài mấy rương sách (có lẽ họ nghi rương vàng!). Nhà cửa chúng tôi thì khá hơn những nhà trong vùng, vách tường, mái fibro cement, nhưng họ mà muốn thì họ đạp cửa cái một. 

Một đêm tôi chìm trong giấc chiêm bao nặng nề, thấy mình đứng giữa vườn trăng, chợt xa xa một bóng người trăng trắng ẩn hiện thấp thoáng ở vườn điều (đào lộn hột) sân trước. Tôi là đứa chúa nhát, nhưng lúc đó sao tỉnh bơ chạy theo, thấy người đó lướt đi như bay rồi khuất bóng nơi bụi tre ngà sau tượng Quan Âm. Trăng sáng lạnh. Và thật kỳ lạ, rõ ràng cái bóng nhập vào tượng Phật nhưng không nhập hẳn, mà như một bản in lỗi, nó với tượng nhập vào nhau nhưng vẫn còn lại một đường viền mờ mờ cách nhau vài phân như khi ta nhìn lên mặt trăng trong thời gian nguyệt thực. Ngay lúc đó tiếng chó sủa điên cuồng, xích sắt kéo loảng xoảng. Tôi choàng dậy, nghe cả nhà theo thói quen lớn tiếng mắng mấy con chó cho biết chủ nhà còn thức, run rẩy nhìn ra cửa sổ kịp thấy hai bóng người cao lớn thình thịch chạy băng qua sân và nhảy vút qua hàng rào xa tít ngoài cổng.

Dù có là giấc mơ trùng hợp ngẫu nhiên, tôi vẫn muốn tin rằng Quán Thế Âm đã báo mộng cho chúng tôi kịp thời. Sáng dậy ra sân, những vết chân to bè còn in dấu trên đất nhão chạy dài ra phía cổng.

 

2. Có một thời bức tranh "Quan Âm quá hải" như một niềm tin mãnh liệt cho những ai nung nấu giấc mộng vượt biển, cùng lúc là nỗi ám ảnh đáng sợ đến nỗi nhắm mắt cũng thấy trước mặt Quán Thế Âm áo trắng tha thướt cỡi trên con rồng mặt mũi hung dữ, nó uốn éo chìm một phần thân dưới mặt nước biển đen kịt đầy sương mù và sóng bủa.

Lúc đó tôi còn trẻ lắm. Như bao người thế hệ đó, cố mà tin tưởng bám víu vào "Phật Bà", một mặt tin tức từ bên kia gởi về nào là trên tàu đói khát ăn thịt lẫn nhau, nào là hải tặc, nào là thủy táng... Có những người ra đi mãi mãi không về như em trai tôi, không một mảnh tin, có lẽ vì cả tàu đã chìm sâu trong cơn bão biển. Em gái chú bác tôi, vì nhường nước uống cho các em nó, nên nó đã không còn kịp nhìn thấy đất liền. Tôi cứ rơi nước mắt khi tưởng tượng ra hình ảnh chú thím Sáu tôi khóc ngất đến chết lịm khi người ta thả xác em xuống biển, vì em cứ dập dờn trôi mãi theo tàu một đoạn dài như không muốn xa lìa cha mẹ anh em...

Gia đình tôi, gia đình chú thím Sáu tôi đều sống tử tế và là những Phật tử thuần thành, đâu thể nói thiếu niềm tin tôn giáo, "Phật Bà" lại là "Quán Thế Âm tầm thinh cứu khổ", vậy những khổ đau mất mát của chúng tôi, của biết bao gia đình, rồi bao nhiêu trăm ngàn sinh linh chết ngoài biển Đông, biết giải thích sao? Chiêm tinh gia Huỳnh Liên, Maître Khánh Sơn hay Trùm tướng số Vũ Tài Lục vang danh một thời đã không thể coi "tướng tập thể" để thấy trước được cảnh "trăm ngàn nhánh khổ" đó sao?

 

Về già, đọc sách Phật, nghe pháp Phật, mới biết nghiệp lực chi phối định mệnh tới cỡ nào!
"Những vị 'thiện thần' họ thấy thương thì giúp, còn chuyện giúp được hay không còn tùy ở phước nghiệp của bản thân người bị nạn" (Sư Toại Khanh).
Cho nên tin vào Phật, sống tử tế, mọi việc đều tận tâm tận lực, còn lại xin tùy duyên tùy phận, nếu có va vấp hay bất hạnh, tôi tin đó là mình đang trả nghiệp từ kiếp trước. Thật sự có làm được gì khác, nếu không cố gắng tạo cho mình niềm tin này?

Giờ nghĩ lại tức cười, trước kia bao giờ tôi cũng khấn xin Quán Thế Âm vài thứ tùy tâm nguyện từng lứa tuổi: Hồi nhỏ xíu khấn Phật Bà xin cho con học bài mau thuộc, xin cho con chó Fidèle của con đi lạc trở về ; mười tám tuổi xin cho con đi trót lọt may mắn ; trung niên xin cho gia đình con khỏe mạnh bình an ; về già xin đừng cho con đầu thai làm dân nước nhược tiểu... (Nhưng đặc biệt là chưa từng xin thi đậu, vì tôi nghĩ mình chăm chỉ học hành thì thi đậu là điều... khó tránh!). Tôi hiểu pháp Phật thật đơn giản, hiểu biết để tự độ và độ tha chớ không phải chỉ biết khấn cầu, nhưng tôi cả đời yếu đuối và hoang mang trong mê lộ, nên tôi vẫn mãi cầu xin bình an!

 

Nhớ những ngày lênh đênh trên biển, tôi chỉ còn biết khấn nguyện Quán Thế Âm và không ngừng đọc kinh Cứu Khổ, xin cho "Nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần".
Rồi gãy láp, rồi đói khát... Như một định mệnh, con tàu nhỏ lòng vòng mãi không ra khỏi hải phận. Vậy mà ngày đầu tiên nhìn thấy biển xanh, sóng đập vào mạn thuyền những giọt mằn mặn... Nước biển mặn hay nước mắt tôi vui mừng quá sớm?

Đụn cát Phan Thiết mút mắt, cầu chợ Biên Hòa cao cao, sông Lòng Tàu Rừng Sác hoang dại chằng chịt dây choại, Mũi Ó Sóc Trăng nước lợ tưởng như chỉ cần với tay là tới biển, sóng nước Gành Hào mênh mông không thấy bờ, Cà Mau "muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lội lềnh như bánh canh", Biển Hồ sóng lô xô với những thiếu phụ người Miên kẽo kẹt võng trên nhà sàn với câu hát ru con buồn On shro lây boon tê, những cánh đồng hoang biên giới Việt Miên khô cằn mùa nắng hạn mênh mông oằn mình dưới mặt trời tháng Tư...

 

Những nơi đã từng in dấu chân tôi, chắc chắn chúng hãy còn nhớ một cô nhỏ cao nhồng và da trắng nhách đến nỗi phải bôi dầu cho đen, kiếng cận giấu trong túi nên nheo nheo nhìn mọi thứ mờ mờ nhân ảnh, và miệng không ngừng niệm Quán Thế Âm...

Đã từng giận dỗi, đã từng trách cứ con tạo đành hanh... Một ngày hiểu ra chuyện duyên nghiệp, tôi biết ơn Trời Phật đã dun rủi cho mình một đời bình an, dù không được thành danh rỡ ràng như bao người... Bao nhiêu năm mãi ngước nhìn và ngưỡng mộ những cuộc đời thành đạt bên kia đại dương, tôi đã quên mất những mảnh đời phiêu bạt sau khi bị hải tặc bắt đi... Ai biết những cô bé đáng thương đã phải trải qua bao nhiêu đớn đau và nhục nhã nơi đảo hoang hay phố đèn đỏ ở Thái Lan, qua bao nhiêu nhà chứa ở Ma Cao, và rồi bao nhiêu người đã bẽ bàng nằm lại muôn đời nơi đáy nước hắt hiu...

 

Sự thật vốn tàn nhẫn... Nhưng những thứ mà chúng ta thấy, chưa chắc đã là thế giới thực. Sống tới đoạn đường này, còn rất ngắn, tôi mới ngộ ra được một điều hết sức tầm thường nhưng vì u mê nên không sớm nhận ra, đó là mọi thứ trong đời tôi đã được xếp đặt, dù là một thành công hay một thất bại, một niềm vui hay một nỗi buồn, đều có nguyên do và mục đích riêng của nó.

Cho nên "Muốn nhìn thấy thế giới thực, cần dùng con mắt của trời nhìn trời, dùng con mắt của mây nhìn mây, dùng con mắt của gió nhìn gió, dùng con mắt của cỏ cây hoa lá  để nhìn cỏ cây hoa lá, dùng con mắt của đá để nhìn đá, dùng con mắt của biển để nhìn biển, dùng con mắt của động vật để nhìn động vật, và dùng con mắt của người để nhìn người". ("Thiên tài bên phải, kẻ điên bên trái"
Tác giả Cao Minh, Thu Hương dịch).

 

Đứng ở vị trí tha nhân để nhìn bằng con mắt của người đó, dù cùng tầng mây hay không, còn cần có sự hiểu biết và tỉnh ngộ.

 

SG, 05/06/2023

Trần Cẩm Quỳnh-Như

QN_Chuyenvothuong.JPG

Không biết từ hồi nào và do đâu-ờ mà thắc mắc làm chi, đã bảo là mọi sự mọi việc theo mấy ông thầy Tàu đều do... tiền định. Hay nói theo kiểu nhà Phật là do có nhơn duyên. Từ lâu rồi bữa nào cũng vậy, trước khi đi ngủ tui cũng tụng đủ Chú Đại Bi, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, và Chú Dược Sư, như mấy thầy trong chùa đã dạy !!! Hổng biết giấc ngủ có ngon hơn hông mà điều làm như mình in trí là đã làm đúng... thủ tục để dọn đường cho chuyến đi chỉ độc có vé đi mà chẳng có vé về.

Ờ mà nói chuyện kinh kệ thôi sẵn kể luôn vụ thang máy trục trặc hồi trước Tết cho bà con nghe đỡ buồn. Hú hồn tưởng đâu đã lên tủ ngồi !

Vốn là sau Tết tui bị trợt đốt sống lưng, bác sĩ cho tập vật lý trị liệu nhiều ngày liên tiếp để đốt sống giãn ra và trở về chỗ cũ. Phòng trị liệu mãi trên tầng sáu, nên ngày nào tui cũng phải đi thang máy lên.

Một hôm rút số rồi chờ kêu tên dưới tầng một, tui ngồi kế một sư cô trung niên thấp người, phốp pháp vui tánh.

Sư cô ghé mắt coi số thứ tự của tui đang cầm trên tay, nói sư cô kế ngay sau tui. Rồi từ đó sư cô nói suốt. Tui vốn vụng nói và không bặt thiệp, nên toàn dạ dạ miết. Bữa đó khá đông, còn tới 30 người mới tới tui, ý là tui đã thức sớm từ 5g30 sáng để nấu xôi gà cho cả nhà ăn sáng rồi mới vội vã rời nhà lúc 6g30. Trong khi chờ 30 người đó, tôi nghe sư cô khai bệnh, rồi hỏi tui bệnh sao, và xin địa chỉ chỗ bán đai lưng tui đang đeo, sẵn giảng cho tui nghe chuyện giúp đỡ người tu hành mới là phước báu lớn nhứt, rồi rủ tui góp duyên đi làm từ thiện với sư cô, và cuối cùng dặn tui lát đóng tiền xong thì nhớ chờ sư cô có giang thang máy. Sư cô làm tui nhớ tới mẹ chồng tui quá trời, vì mẹ chồng tui lúc sanh thời cũng nói nhiều y vậy, đến nỗi khi tui dẫn bà đi làm răng, ông nha sĩ lịch sự đứng chờ hoài không thấy mẹ chồng tui ngưng nói, ổng đành phải cắt ngang: "Bác phải yên lặng há miệng thì con mới làm cho bác được chớ!".

 

Nhập đề lỡ hơi dài! Giờ mới vô phần thân bài :

Bao nhiêu năm nay tui tới lui bệnh viện này, thang máy lên xuống và dừng êm ru không chút dằn xóc.

Nhưng hôm đó khi thang máy đang đi lên giữa chừng thì nó đột ngột xóc mạnh rồi dừng hẳn, đèn đóm tắt ngúm. Tui loạng choạng nhưng nhờ thói quen hay đứng tựa thanh tay vịn nên không té nhào, nhưng vì sư cô lúc đó đang hăng nói nên ngã chỏng gọng đè lên tui, cả hai té lăn đùn cục. Tui tuy cao lớn bự con nhưng trọng lượng vẫn thua xa sư cô, nên tui nhoi nhoi hoài không ngồi dậy được, phần tui viêm hai khớp cổ tay, còn thắt lưng vốn đang bị trợt đốt sống đau nhói đứng lên không nổi, tối thui, nên tui cứ mắc kẹt xà quần trong mớ áo vàng bùng nhùng của sư cô...

 

Rồi cuối cùng tui cũng ráng ngoi dậy được, tuy hết hồn nhưng cũng ráng nhớ lại lý thuyết phải làm gì khi thang máy trục trặc, tui lẩy bẩy mở điện thoại soi tìm nút emergency, nhưng không thấy, chỉ có nút interphone, nhấn thử chẳng xi-nhê, nhưng quả thật đâu cần bấm alert vì trời đất ơi lúc đó tiếng la ré thất thanh của sư cô nó vang dội còn hơn tiếng tàu xúp-lê, tiếng kèn xe chữa lửa hay cứu thương ! Công nhận phổi sư cô khỏe thiệt, chắc lá phổi nó dài xuống tới bàn chân hay sao á ? Giọng kim soprano trong, rền, the thé, vừa la trời vừa Mô Phật, nghe như tiếng chà xát vụn kim loại và thủy tinh với nhau, như tiếng đàn cưa trong phim kinh dị, làm ốc ác tui nổi lên cục cục... Tui ngăn không cho sư cô cung tay dộng đùng đùng vào thang máy. Nghe tôi nói làm vậy thang máy càng dễ rơi xuống hơn, sư cô hết hồn thu tay lại liền, nhưng miệng vẫn la chói lói. Tui đoán bên ngoài có lẽ cũng thất kinh và hỗn độn lắm khi nghe tiếng thét của sư cô. Thang máy có nhiều khe hở nên chắc chắn không đến nổi hết oxy để thở nếu tình trạng này kéo dài, nhưng sức nóng hầm hập từ người sư cô làm tui thấy dần ngột ngạt.

Trong đầu chợt xẹt qua hình ảnh diễn viên Hyun Bin trong bộ phim Nam Hàn "Secret Garden", nhân vật đẹp trai con nhà giàu tánh hợm hĩnh hay khoe áo hàng hiệu, anh chàng có bệnh sợ không gian hẹp, hễ bị kẹt trong thang máy là lên cơn suyễn như sắp tắt thở! Tui lùi xa sư cô, ngồi dựa vào góc thang máy im lặng chờ đợi... Tưởng tượng nó đột nhiên trôi tuột xuống phía dưới...

Tui không sợ chết nhưng... sợ đau ! Ơi chèn rơi tự do trong cái thùng sắt mà khi chạm đất nẩy lửa nó biến thành đống phế liệu méo mó bẹp dúm thì chắc chắn bên trong, tui với sư cô nạc xương lẫn lộn chẳng còn gì ngoài đống bầy nhầy xấu xí, còn gì cho bọn sinh viên nó mổ xẻ học hỏi ! (vì tui có làm đơn hiến xác cho Đại Học Y Dược). Thầy bói, thầy tướng số nào từng khen tui tướng mạo đoan chánh, nhứt kiến khả kính, hậu vận an nhàn, thì nên coi lại tay nghề đi nghen, vì giờ đây tui sắp sửa bất đắc kỳ tử, chết mềm ụi xấu hoắc không nguyên vẹn, chết "bất thiện chung" đây nè !!! Tui vẫn thường cầu nguyện Trời Phật cho tui được ra đi êm đềm như má tui, mệt mệt nằm chút rồi ngủ luôn không dậy... Nói nào ngay, bây giờ cái chết này thật sự cũng không tới quá sớm. Nó tới vừa vặn lúc con trai tui đủ lông đủ cánh rời khỏi tổ, và tui rau răm ở lại nhưng không có đắng cay mà hạnh phúc nhẹ nhàng vì vui niềm vui của con. Trước khi đi nó dặn mẹ giữ gìn sức khỏe ráng chờ con... Nhưng con trai, cái số mẹ không được hưởng thụ tuổi già sung sướng chờ con báo hiếu rồi. Mẹ sắp dúm dó ở lại nơi đây, trong cái thang máy hiện đại này, mà còn quyết tình níu theo hết ráo những bệnh tật hành hạ mẹ lâu nay cho chúng chết hết không còn một mống !!! Thôi thì cầu mong con ở lại khỏe mạnh bình an...

Móc điện thoại ra, mà ngẫm nghĩ hoài thấy cũng chẳng có gì cần dặn lại chồng con. "Mẹ thương con" ư ? Sến bolero quá, con trai thừa biết tui thương nó cỡ nào mà, cả cuộc đời hy sinh cho nó, lẽ nào phải nói ra nó mới biết ? Tiền bạc để chỗ nào ư ? Đời giáo viên thanh bạch, của nả dành dụm có là bao ! Có chút éc gởi ngân hàng thì cũng đã ủy quyền, vợ chồng minh bạch không có gì giấu nhau.

Chợt nhớ tới truyện ngắn "̣ĐI QUA KIẾP NGƯỜI" tui viết nhiều năm về trước, tưởng tượng sau khi chết rồi, linh hồn mình bồng bềnh bay lướt qua thân xác, nhìn lại người thân bè bạn đang khóc thương mình... Sẽ có dịp check lại coi những gì mình viết có gần với sự thật không, rằng bên kia thế giới có linh hồn không, và linh hồn tui chơi vơi lờ lững biết buồn thương chăng, hay thong dong tiêu sái mờ xa dần trong bốn chín ngày đầu tiên xa lìa trần thế...

Chỉ trong vòng không đầy mười phút (chính xác là bảy phút ba mươi giây) mà biết bao nhiêu ý nghĩ đã lướt qua trong đầu ! Khi cửa thang máy vụt mở, ánh đèn chói chang và không khí máy lạnh ùa vào, trong vắt và mát rợi... Sư cô mặt mày đỏ bừng bừng bóng lưỡng mồ hôi rên lên thảm thiết: "Lên máu rồi, lên máu rồi!" khiến cho mấy cô y tá lẹ lẹ ùa vô kè sư cô ra ngoài cho bác sĩ cấp cứu. Tui lần tay vịn trong thang máy đứng lên, cà nhắc ra ngồi ngoài hàng ghế đợi.

Có tiếng người lao xao: "Cô ơi cô có sao không cô?". Tui lắc đầu, cười nhẹ. Lòng mừng vì không phải chết đau đớn. Mà chẳng biết sao thiệt lâu sau đó tâm tình hơi ngơ ngẩn, không buồn cũng không vui...

 

Suy gẫm hai chữ "vô thường" luôn ở trên cửa miệng mọi người, sao giống ông lão tiều phu khốn khổ trong truyện ngụ ngôn "La Mort et le Bûcheron" của La Fontaine: Khổ quá chỉ muốn chết nhưng khi nhìn thấy thần chết rồi thì chỉ dám nhờ thần đỡ hộ bó củi lên vai !

Il appelle la Mort ; elle vient sans tarder,

Lui demande ce qu’il faut faire.

«C’est, dit-il, afin de m’aider

A recharger ce bois ; tu ne tarderas guère.»

 

(Hỡi thần Chết thương tình chăng tá,

Đến lôi đi cho đã một đời.

Chết đâu dẫn lại tức thời,

Hỏi già khi nãy kêu vời lão chi?

Lão tiều thấy cơ nguy cuống sợ:

Nhờ tay ngài nhắc đỡ lên vai)

- Nguyễn Văn Vĩnh dịch –

 

Chấp nhận "vô thường" quả không dễ, cho dù là tăng lữ hay phàm nhân !

 

Trần Cẩm Quỳnh-Như

______________________

__________________________________

NHÂN LỄ VALENTINE, KỂ CHUYỆN TÔI

Lên mạng tình cờ thấy quà Valentine bây giờ sang trọng và tiểu xảo đến mức chợt thấy đời sống hiện nay dường như có vẻ cao ngất, dư dả và hạnh phúc. Tôi mới lớ ngớ ngồi nhớ lại không biết trong cuộc đời thầm lặng của mình đã từng bao giờ có một lễ Tình Nhân?

Dường như là chưa.

Cho nên nhân Valentine mà tâm sự với bạn chơi, chớ thiệt tình tôi có biết gì về ngày lễ lãng mạn này mà lạm bàn!

Năm tôi mười tám tuổi, gia đình tôi suy sụp tan tác. Mười tám tuổi, tôi đang là con mọt sách cù lần hết mức. Đi học mặc áo dài, ngoài áo ngực còn một áo lót dày mo khiến cho vóc dáng cứng đơ - không phải sợ thầy Phan Thông Hảo chửi te tua, chỉ do tính cù lần, cộng thêm người lớn ở nhà kềm kẹp. Tụi bạn thì gọi tôi "L'horloge de la classe" vì tôi đi học đúng giờ tăm tắp: trống vừa đánh thùng đã thấy tôi ôm cái cặp bự tổ bố xuất hiện ở đầu dãy hành lang! (hồi đó trường PTG mình trống đánh hay chuông reo hả mấy bạn? Tự nhiên quên hà).

Cù lần quá nên không có mảnh tình vắt vai! Giờ nghĩ lại thấy ngoan quá cũng thiệt thòi ghê hen mấy bạn. Trời ơi puppy love dễ thương vậy mà!

Gần mười năm lận đận mới trở lại Sài Gòn dạy kèm kiếm tiền học đại học. ĐH Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn lúc đó còn là ĐH Tổng Hợp cũ kỹ và tăm tối với hàng ngọc lan um tùm ngát hương.

Con gái thời đó hiếm người cao, không như tụi nhỏ bây giờ mét sáu mét bảy là chuyện bình thường. Cho nên một đứa trắng nhách tóc xõa bồng bềnh cao mét sáu tám cộng với đôi giày sáu phân vị chi mét bảy bốn bỗng trở thành "hiện tượng" giữa sân trường.

Ha ha, cà rỡn thôi. "Hiện tượng" đây không phải tôi nghiêng thùng đổ nước gì, mà vì một vết nhơ trong đời học sinh mà mấy Thầy Cô ĐH hễ có dịp là nhắc lại cười hoài: Đó là chuyện con nhỏ sinh viên thường đạt điểm gần tuyệt đối các môn chính, lại rớt lạch bạch hoài môn Chính trị dù khi thi người ta cho giở sách! Báo hại Thầy NH (phân khoa Pháp văn) thấy tội quá phải đi cửa sau, "nói khó" với cô Nga dạy Chính trị, xin cho tôi nửa điểm để ra được cái Cử nhân cà khổ!

Và tôi đã gặp nhà tôi ở đó. Anh tốt nghiệp ĐH Văn khoa trước 75, trở lại học ĐH Anh văn chỉ với ước muốn đi dạy kiếm tiền nuôi cha mẹ già! Còn tôi thì muốn nối lại đường công danh dang dở sau gần mười năm nung nấu một giấc mộng không thành.

Có phải lương duyên hay không thật tình tôi chẳng rõ, nhưng dường như Nguyệt lão đã không se cho tôi hương tình yêu vào sợi xích thằng, mà lại cắc cớ cho tôi nhìn thấy nhà tôi qua hình ảnh người anh ruột đáng thương của tôi, lúc ấy đang sống đòi đoạn vật vờ sau những chấn song! Anh không có chút nào giống anh tôi, trừ chiếc áo mưa màu beige vai đôi y hệt chiếc áo của anh tôi ngày nào, loại áo mưa Đại Hàn viện trợ cho sĩ quan VNCH.

Thời đó giáo viên nghèo trắng mắt! Nghèo quá làm gì có thú vui trưởng giả tặng quà Valentine! Bạn sẽ nói: Uầy, tình nghèo thì quà tặng đơn sơ, như Vinh Sử tặng Nhẫn Cỏ vậy thôi. Vấn đề là trước Bảy Lăm không quá nhiều ngày lễ như bây giờ, kể cả ngày Nhà Giáo, ngày Phụ Nữ và Valentine. Tôi cũng quen rồi, nên ơ thờ không hề quan tâm tới lễ lộc. Tánh tôi vốn giản dị (có lẽ ông Trời đã cố ý trang bị sẵn để chuẩn bị cho tôi lấy chồng nghèo và an phận tới già). Tôi không quan trọng sinh nhật hay kỷ niệm ngày cưới, nên tôi nói với anh, tôi cần cư xử với nhau tử tế ba trăm sáu lăm ngày một năm, chớ không cần chỉ một ngày tặng bông tặng hoa làm gì cho tốn kém. Ông chồng tôi cũng thiệt ngoan. Nghe vậy nên đến mãi về sau, khi cuộc sống đã không còn khắc nghiệt, ở với nhau băm mấy năm trời ảnh chưa từng tặng tôi món quà. Mà nghĩ cũng tội, ảnh dạy học nhiêu đưa tôi đi chợ hết rồi, tiền đâu mua quà!

Người ta hay nói phú quý sinh lễ nghĩa. Tôi còn xa lắm mới với được phú quý, nhưng giờ tôi chừng như đã có thể học đòi làm sang chút ít được rồi nếu muốn, mà khổ, lòng không an nhiên, sống rời rộng chút, hay ăn miếng ngon chút, sao cứ mặc cảm tội lỗi với những người đã khuất???

Bạn khuyên tôi nên quên để sống. Tôi đã và đang cố gắng rất nhiều. Tôi quên được khá nhiều thứ bạn à, nhưng vẫn có những thứ tôi tự dặn lòng đừng bao giờ quên. Để làm gì nhỉ? Để phải nhớ mình là ai. Để lòng mãi hướng về những người thân yêu đã chết trong đói khát bệnh tật. Để chẳng bạc tình với quá khứ toàn những cảnh nước cạn bèo chấm đất...

Người ta dễ kêu gọi buông xả khi trên đường đời họ được nhiều hơn mất.

Người ta dễ hưởng thụ trọn vẹn khi lòng họ thanh thản vì chưa từng bị chà đạp dưới chân như một con trùn.

Nhà tôi nói tôi khổ là do tôi. Đồng ý. Sao tôi không vui vẻ họp bạn hằng năm, đi cà phê cà pháo với mấy đứa bạn già, không mua cho mình dăm bảy cái đầm mặc cho có xúng xính với người ta, không đi du lịch Hàn Quốc, Nhật Bản cho khuây khỏa tuổi già?

Tôi có đứng núi này trông núi nọ chăng khi cứ nghĩ rằng nếu được làm lại, tôi sẽ ở vậy để không tạo thêm một thế hệ giống tôi, bất lực và khắc khoải. Bất lực ngay cả trong mơ, những cơn ác mộng toàn bay la đà và nặng nề sắp rơi xuống mặt biển đen ngòm về đêm, hay bước chân lạc lối hoang mang giữa bọn người đang cười gằn ác độc lấp ló sau những chỗ khuất trong lối đi quanh co tăm tối...

"Bài viết không truyền chút năng lượng tích cực!". Bạn sẽ nói vậy. Đúng. Mỗi người quan niệm về cuộc đời tùy theo thứ mà người đó nhận được từ cuộc đời. Biết sao giờ. Trong một bàn cờ mới, những con người được nhiều hơn mất dễ nhìn thấy mọi thứ đều màu hồng, mọi thứ đều tình nghĩa, mọi thứ đều thần thánh, mọi thứ đều cảm động.

Những thứ tôi đánh mất đâu bao giờ trở lại! Tôi không mất chỉ một cái bóp để có thể đêm ngày chắp tay van vái Phật Trời dun rủi cho người tốt trả lại cho tôi. Những thứ quý giá tôi đánh mất, là mất hút. Mãi mãi. Vĩnh viễn. Rồi để lại cho tôi chi chít thẹo lồi , bên dưới đỏ lói âm ỉ ăn ruồng nhức nhối mỗi khi trở trời...

Xin lỗi bạn. Kỳ ha, lễ Tình nhân lãng mạn đã cho tôi cảm hứng kể lại chút đời mình, sao tôi lại đi tuốt luốt tới chuyện còn mất!!!

Dẫu sao tôi cũng luôn thầm cảm ơn Trời Phật đã cho tôi sống trọn đời bình an trong thầm lặng, trong nỗi cô đơn tuyệt diệu đến không nói thành lời.

Trở lại với anh, đôi chúng tôi đã đi cùng nhau một đoạn đường khá dài, không là tri âm cũng chẳng quá đỗi lạnh lùng. Loan với phụng đôi lúc hòa minh cũng nhiều khi khẩu chiến, vì chúng tôi song song bên nhau như hai thanh ray dài, đâu có cùng một mảnh ghép để có thể lắp thành một bức tranh hoàn hảo.

Cho nên Valentine chưa bao giờ liên quan tới tôi, cũng như vài chục ngày kỷ niệm và lễ hội khác, cùng những thư giãn xa xí, những câu chuyện như pháo nổ lúc trà dư tửu hậu, những yến tiệc sang trọng rôm rả... Chúng thuộc về thế giới khác, lồng lộng ở trên cao, mà hồn tôi oằn nặng dưới này, mãi mãi không bao giờ với tới!

Ai đâu trở lại mùa Xuân trước,

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng...

(Xuân - Chế Lan Viên)

Trở lại làm gì nhỉ? Đã đi đến tận mùa Thu của cuộc đời. Kìa tuyết rơi sắp khỏa trắng hết con đường ngập lá vàng... Mùa Thu, cùng với những chiếc lá chết, những tử tù cũng ra pháp trường để phủ phục trước đoạn đầu đài chuẩn bị lìa đời, chấm dứt bao thiện duyên và nghiệt duyên.

Biết bao duyên khởi để kiếp này được ngồi chung một chuyến đò! Dù vậy tôi vẫn thật lòng mong cho nhà tôi kiếp sau có thể gặp được một người khác bình thường hơn tôi, để cả hai có thể cùng nhau nắm chặt tay rong chơi trong lễ hội, thoải mái sôi nổi bàn luận cùng một đề tài tương hợp, nhứt là cùng một tôn giáo để cả hai có thể nuôi dạy con cái như nguyện và đồng điệu hơn với tôi bây giờ.

Không mong ràng buộc nhau kiếp tới, cũng là một cách nghĩ đến nhau và có tình với nhau!

You ask me where did I fall

I'll say I can't tell you when

But if my spirit is lost

How will I find what is near

Don't question I'm not alone

Somehow I'll find my way home

(I'll find my way home - by Gregorian)

https://www.youtube.com/watch?v=jyfeuRtkqgw...

SG, mùa Valentine 2022

Trần Cẩm Quỳnh-Như

QN_lo ngo.jpg

J'ai cueilli ce brin de bruyère

L'automne est morte souviens-t'en

Nous ne nous verrons plus sur terre

Odeur du temps Brin de bruyère

Et souviens-toi que je t'attends

(L'adieu- Guillaume Apollinaire)

1. Thu. Lãng mạn và bâng khuâng biết bao trong văn, thơ, nhạc! Nào "Tôi đi học" Thanh Tịnh, "The last Leaf" O'Henry, đến "Nature en deuil" Sybille Rembard, "Chansons d'Automne" Paul Verlaine, "L'adieu" Guillaume Apollinaire, "Sonnet 73" William Shakespeare, "To Autumn" John Keats, "Fall, leaves, fall" Emily Brontë, "Thu tịch lữ hoài" Lý Bạch, "Thu hứng bát thủ" Đỗ Phủ, "Thu giang tống khách" Bạch Cư Dị, rồi "Cây đàn cuối thu" Nguyễn Bính, "Gửi người dưới mộ" Đinh Hùng, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư, "Gió thu" Tản Đà, và "Buồn tàn thu" Văn Cao, "Thu vàng" Cung Tiến, "Giọt mưa thu" Đặng Thế Phong, "Thu quyến rũ" Đoàn Chuẩn, "Mùa thu Paris" Cung Trầm Tưởng - Phạm Duy...

Nhiều đến nỗi đã trở nên bình thường một tâm cảm mùa thu và nghệ sĩ. Và những-con-đường-thu-có-một-tôi-thơ-thẩn luôn là niềm mơ ước cho kiếp sau với trùng trùng lá chết...

Dans le parc aux lointains voilés de brume, sous

Les grands arbres d’où tombe avec un bruit très doux

L’adieu des feuilles d’or parmi la solitude

Sous le ciel pâlissant comme de lassitude

(Dans le parc - Albert Samain)

Rồi tôi được đọc "Thu, vàng mấy đỗi..." của tác giả không xa lạ gì Cao Vị Khanh. Bảo là quen, nhưng dường như lần nào tôi cũng ngạc nhiên như đọc lần đầu văn phong lạ lẫm một tác giả chưa quen. "Thu" vào tay Cao Vị Khanh đã không còn bình thường, nó mang dấu ấn ngọc với dịu vợi ngôn từ. Đến nỗi khi ông xã tôi hỏi bài viết (Thu, vàng mấy đỗi...) nói gì trong đó mà em bảo đọc hoài không chán? Tôi ngẩn người không biết trả lời sao: Ủa, trí nhớ mình già cỗi hết date không nhớ nổi nội dung bài viết vừa mới đọc, hay nó kỳ ảo đến nỗi khi đi lạc vào đó tôi lơ ngơ như kẻ đang đằm đằm trong cỗ máy thời gian muôn hồng ngàn tía, để rồi khi đã bước trở về thực tại, tôi vẫn còn lơ mơ chân thấp chân cao?

2. Cao Vị Khanh đã "lẩm rẩm" những gì mà có thể hấp dẫn người đọc như một thứ Love Lotion Number 9? Trước tiên là choáng váng với cách dùng chữ thần kỳ của ông. Trời đất ơi, văn thì đọc miên man mà thử lọc chữ dùng phát chóng mặt! Ai cũng biết, chỉ bắt đầu từ độ tuổi năm, sáu mươi, não bộ con người đã bắt đầu lão hóa làm rớt rơi từng từ vựng, nhớ mãi không ra tên gọi những thứ hết sức bình thường quanh ta, đành chỉ tay cái này, cái kia. Hội thoại hằng ngày kém sinh động vì cứ ư a đã đành, viết lách càng tệ hại khi nghĩ hoài không ra chữ đúng để diễn tả ý tưởng...

Chuyện đó không hề xảy ra với Cao Vị Khanh! Hãy xem đoạn mở đầu khi "Sương" tràn ngập từ tượng hình đến nỗi trong cái đầu-luôn-cự-tuyệt-những-con-số của tôi chợt bật lên một ý nghĩ cắc cớ: Để mình thử đếm xem Cao Vị Khanh đã sử dụng bao nhiêu chữ diễn tả "Thu", và hết hồn hết vía khi thấy trong một đoạn đầu ngắn xíu chiếm hết hai mươi mốt động từ tả "sương": nấn níu, là là, lả lả, mù mù, váng vất, len lách, lan man, lấp lửng, bay, rơi, tuôn, bốc, tràn, thổi, vắt, luồn, trườn, sà, nghiêng, vói, thấm!!!

Và một đoản văn không dài không ngắn chiếm không nhiều, chỉ tròm trèm... hơn năm mươi tính từ tả "Thu": bâng khuâng, xao xác, lãng đãng, nao nao, bảng lảng, nằng nặng, hiu hiu, ngan ngát, mang mang, băn khoăn, ray rứt, lê thê, lung linh, tiêu sơ, long lanh, lồng lộng, miên man, sẽ sàng, khắc khoải, tan tác, xào xạc, quạnh hiu, xốn xang, thăm thẳm, trìu trĩu, tàn phai, mỏi mòn, vv...Quá kinh khủng cho một cái đầu còn cực kỳ tinh anh ở tuổi ông. Và vô cùng tinh tế.

Sous ces rayons cléments des soleils de septembre

Le ciel est doux, mais pâle, et la terre jaunit.

Dans les forêts la feuille a la couleur de l’ambre ;

L’oiseau ne chante plus sur le bord de son nid.

(Les Soleils de Septembre - Auguste Lacaussad)

3. Tôi có một tật xấu, là khi đọc cuốn sách hay, hoặc xem một phim buồn, tôi cứ ở mãi trong đó không thoát ra được. Cho nên giờ đây, khi mơ ngủ, khi làm việc nhà, thậm chí khi đang dạy học (dĩ nhiên lúc học trò đang làm bài), tôi vẫn mãi mơ mộng về một mùa "Thu, vàng mấy đỗi" ngập lá phong vàng... Có vọng ngoại không khi tôi nói quanh tôi chỉ có xác lá tuôn đổ muôn chiều trong mưa làm những giọt nước mắt hòa với nước mưa đầm đìa ký ức của một dĩ vãng nhiều sinh ly tử biệt, tuyệt không có những chiều thu vàng xao động lòng người, những con đường hun hút đẹp đến nỗi tôi một tâm hồn đã chết từ bao độ chợt trỗi dậy niềm ước ao được tay trong tay với một ai đó chưa có chân dung, thong dong trên xào xạc lớp lớp lá chết mùa này mùa trước; hay được ngồi với tri âm trên băng đá bờ hồ một ngày thu, yên lặng ngắm những con thiên nga sang trọng và đĩnh đạc chớm di thê...

La couleur verte

tremble

entre les mains

de l’automne

La mort maquille

les feuilles

pour leurs noces

avec le givre

(Arrière-saison -Kamal Zerdoum)

"Sương" la đà len lách khắp chốn của Cao Vị Khanh cũng thoắt đưa tôi về đoạn phim bốn mươi năm trước một cô nhỏ tương lai vô định muốn tan trong sương mù một ngày bão bùng ở Đà Lạt, thành phố ngàn thông. Mưa lất phất và gió cắc cớ cứ chực lật ngược cây dù khốn khổ trong màn sương trắng xóa không tỏ mặt người trên con dốc chừng như đi hoài không hết, đến nỗi khiến cho cô cảm thấy mọi thứ dường như đều chống lại mình: Mưa, lạnh, gió, sương... Và định mệnh.

Một đóa dã tường vi đỏ thắm thẹn thò bên rào nhà ai run rẩy khóc, như giọt máu bầm loang lỗ trong làn sương trắng...

Oui, dans ces jours d’automne où la nature expire,

A ses regards voilés, je trouve plus d’attraits,

C’est l’adieu d’un ami, c’est le dernier sourire

Des lèvres que la mort va fermer pour jamais !

(L'automne - Alphonse de Lamartin)

4. Lá tan tác trong gió. Lá long lanh trong nắng. Lá muộn phiền trong mưa... Những chiếc lá của Cao Vị Khanh "xanh mướt, xanh rì, xanh ngát, đốm vàng, ửng hồng, dãi đỏ, hực vàng, lồng lộng, sáng trưng, hực hỡ, vàng lịm, tím thẫm, đỏ quạch, tung hê, tan tác"... Để "ngày vội vã". Để "đêm nơm nớp"... Những nhân cách hóa thâm trầm làm tôi chợt nhớ tới những chiếc lá tội nghiệp của tôi...

"Ở đó mỗi khi nhìn gió xoáy từ đầu dốc cuốn theo bao nhiêu lá vàng, để rồi khi xuống tới dưới triền thì tung lên trên không cơ man nào là xác bướm tơi tả, thì hồn mình như cuốn bay theo với lá, bỏ lại sau lưng những khổ đau chốn hồng trần, những "thiên địa vô nhân", những cảnh đời thất thế..." (Trích "Tôi đi chăn bò - TCQN).

Sao mà tội nghiệp? Vì chúng bị dập vùi cuốn hết xuống phía triền cỏ thoai thoải dưới kia để chôn đời trong một đầm nước quạnh hiu lau lách, ngàn đời trầm tích, ngàn đời lặng câm. Những chiếc lá cũng có một số phận hẳn hoi cách biệt, đời đời ngưỡng vọng những bạn lá thong dong la đà reo vui đáp xuống vai những bức tượng trắng trong khuôn viên Đại học mênh mông bên nửa kia trái đất, những bạn lá êm êm lót chân cho đôi tình nhân trên những con đường Thu hun hút giữa hai hàng cây kỳ bí thăm thẳm...

Une rose trémière restée un peu sauvage

A pleuré ses pétales sur les marbres et les croix.

Dans le vent qui gémit revient l’écho des voix

Des pauvres innocents trépassés avant l’âge.

(Toussaint en Bretagne - Antoine Livic)

5. Góp phần vào nét Thu buồn hoang hoải, là hình ảnh chú hề "cô đơn và lạt lẽo như một pho tượng cũ bỏ quên", một chấm phá sinh động âm thầm trong cảnh Thu. Phía sau lớp "son phấn ngây ngô" và nụ cười ngoác vô hồn, là cả một kiếp nhân sinh! Như một nghệ sĩ nghèo khi màn nhung đã khép, nợ cơm áo và nỗi cô đơn luôn thường trực vây quanh. Đâu rồi kèn trống dặt dìu, đâu những tiếng cười reo khoái trá, đâu rồi cờ xí rợp trời, đâu những tràng vỗ tay vang rền theo nhịp ngựa bước kiệu điệu đàng! Chỉ còn lại một hình người buồn bã, đã buồn như pho tượng, còn cũ kỹ và bị quên lãng, giữa vòng vây các thứ bừa bộn như phế tích chất chồng, "mếu máo", "xộc xệch", nhòe nhoẹt"...Mọi thứ đều buồn thảm, như đất trời lộng lẫy trước khi chớm tàn phai...

Thêm diễm lệ cho nàng Thu muôn vẻ não nùng, là những câu văn kéo dài sự thâm trầm bằng chỉ hai chữ cuối câu:

"Vói tay ngắt chiếc lá, cọ nhẹ vào môi nghe mềm mại, mặt lá ửng hồng túa ra li ti những đường gân nhỏ như ngàn mạch máu vân vi trên má ai ngày xưa, nhan sắc".

"Dứt mưa, nước thấm vào thân cây đen sẩm, tàng lá đã đỏ, ửng đỏ thêm, chòm lá đã vàng, hực vàng thêm, tuyệt tác".

"Rồi tới lúc đỏ con mắt mới thấy được một đốm xanh, lẻ mọn".

"Cái lộng lẫy rồi có phải, chẳng qua … cũng chỉ là tín hiệu của một sự tàn phai, sẽ đến".

"Những tình nhân e thẹn được dịp cũng muốn tung hê ra cho hết, một lần".

"Mang theo hết đi, mang theo hết đi, mùa thu".

Và phải chăng đây chính là những câu thơ được dệt bằng văn xuôi?

"... Thoáng như ráo hoảnh… Có một cái gì bảng lảng đâu đây. Có một cái gì chực hờ muốn nói ... mà môi không hở được ra lời".

"Có điều trời đất đó dưng không ra chiều lãng đãng. Gió mây đó bỗng nằng nặng nỗi niềm. Cũng là cơn gió quen nhưng trưa nay sao thấy hiu hiu. Vẫn là vạt mây đó sao hoàng hôn này lại ngan ngát. Có cái gì đó đang trở dậy, cựa mình, dù đã thúc thủ nằm yên từ lâu lắm trong cái góc khuất nhất của lòng ta".

"Ngọn đuốc cháy lập loè trên khuôn mặt sinh ly. Giọt nước mắt tử biệt khóc ngoài ngàn dặm. Ánh trăng xanh mướt một đêm mười bảy. Ngón tay ngoéo hờ giữa góc phố trăm năm".

"Ngày vẫn lên mà chừng như uể oải. Đêm mỏi mòn mỗi lúc một lê thê hơn".

"Rồi lắm khi những cơn mưa bất chợt, mưa bay nghiêng làm như nước cũng đổi màu".

"Ai đó đã qua đây, rồi có để lại gì không, kể cả một dấu chân đã dẫm lên mấy lần lá úa. Lá sẽ rơi lấp lên tất cả, con đường, bãi cỏ, ngõ phố, công viên, tiếng cười lanh lảnh một mùa hè, giọt nước mắt lẫn vào giọt mưa bất chợt, ngón tay cong như một lời hẹn vu vơ".

"Vàng thu chỉ là ảo ảnh. Và tình thu chỉ là một thứ đoạn trường".

"Để lại chăng, đôi khi chỉ là một chiếc lá vàng mà ai đó ép khô giữa hai trang sách cũ, rồi bỏ quên giữa mối mục thời gian…"

"Làm chi mấy lớp sương thu, để hai con mắt tôi mù hướng em. Tìm đâu thấy, dấu đã chìm? Có chăng trong xác lá lìm lịm khô…"

Ai chà! Trước đây tôi hay gọi Cao Vị Khanh "Nhà văn lan man những diệu kỳ". Giờ tôi muốn đổi thành nick "CVK, phù thủy của ngôn từ".

Nhứt định phải meo cho ổng hay mới được !

 

SG, 13/10/2020

Trần Cẩm Quỳnh Như

_______________________

QN_Tan manthang tu.png

Trần Cẩm Quỳnh Như

(Năm nào tới độ này cũng mất ngủ triền miên, tối nằm cứ thơ thẩn nhớ chuyện xưa... Gần năm mươi năm, quá dài cho tương lai một thế hệ, mà lại quá ngắn cho hồi ức một kẻ bất đắc chí...)

-----------------------

Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn.

(Nếu không chú ý, dù xem chẳng thấy, dù lắng chẳng nghe - Kinh Phật)

Sáng Chủ Nhật 29/4. Đạp xe lóc cóc đi chợ. Chưa lễ mà cờ đã bay lác đác phất phới suốt con đường. Vắng vẻ cách lạ lùng. Cảnh kẹt xe chen chúc khói bụi ngập ngụa còi xe inh ỏi thoắt cái biến mất như tan theo sương mù. Thành phố chợt mộc mạc, dễ thương và hiền hòa như "ngày xưa"...

Mấy cụ bà áo dài quạt giấy đi lễ nhà thờ. Lác đác vài người đi chợ sớm. Anh xe Grab khoanh tay ngủ gục dưới hiên nhà ai... Tiếng con chim chích chòe hót vang khỏe khoắn, như thể nó đã quên khuấy cảnh tù đày giam hãm nơi lồng son...

Gió sớm mai mát rượi. Chân vẫn đạp những vòng vô cảm. Lòng mang mang, trơ trơ...

Chợt nhớ hồi đi học có đọc một truyện ngắn đã quên tên, có anh chàng "anh hùng lỡ vận" phải đi làm kiếm sống trong một xưởng máy. A square peg in a round hole. Sau buổi làm việc đầu tiên, hai tay anh đầy mùi dầu nhớt nồng nặc, rửa bao nhiêu lần khi ăn cơm mùi dầu vẫn bốc lên đến lợm giọng. Dầu như thấm vào áo, vào tóc, vào người, và vào cả chén cơm đang cầm trên tay. Vậy rồi nhiều ngày sau, anh chợt khám phá mình không còn nghe thấy mùi dầu tởm lợm từ hai bàn tay và thân thể mình nữa. Như thể anh với dầu đã hòa làm một. Và anh bỗng thấy đau đớn, muốn òa khóc: Anh đã dần quên mình là ai, nên quen dần với cái mùi trước đây vốn xa lạ gớm ghiếc, như hình ảnh quãng đời tăm tối "lên rừng đốt than".

Có những lúc hồi ức quay về làm muộn phiền đến độ tưởng như có thể chết được vì trái tim ứ máu đến héo hắt. Mà lạ, mấy năm gần đây vào thời điểm này tâm tư sao cứ bàng bạc mơ hồ, cõi lòng thành trơ trơ...

Tôi bỗng cũng muốn òa khóc như anh chàng lỡ vận. Thì ra nỗi đau cũng có thể quen dần, đến một ngày ta và nó hòa nhau làm một, ta không còn nhận ra chân tướng nỗi đau. Nó khiến cuộc đời ta điêu linh hay ta làm cho đời ta điêu linh? Cùng hùa với nỗi đau, , ta đã làm chi đời ta?

Trần Cẩm Quỳnh Như

30/4/2018

-------------------------------

MANG MANG

6g sáng – Sáng bảnh rồi vợ chồng con cái còn chưa ra khỏi giường. Lâu lâu cả nhà mới được tận hưởng cái thú nằm nướng, là của hiếm của người thành phố. Không gấp gáp, tôi lọc cọc đạp xe đi chợ.

Con đường vắng cho cảm giác dễ chịu giống như đang ngồi trên cỗ máy thời gian trở lại sáu mươi năm về trước, lúc Sài Gòn còn mộc mạc hiền lành, chưa biết hối hả lòe loẹt như bây giờ. Thật cảm ơn những ngày lễ đã tử tế nhường lại chút thời gian thư thả để thiên hạ kịp hoàn hồn và kịp thở sau những bộn bề lo toan cơm áo dập dồn như sóng xô…

Lác đác cờ hoa phần phật trong gió sớm gợi về những hoài niệm không phai…

Không khí thanh bình như ngày mồng Một Tết. Tưởng chừng như mấy triệu người ngày ngày vẫn ùn ùn trên mọi nẽo đường, hôm nay bỗng nhiên kéo nhau biến mất, đại gia tiểu gia đổ xô về các nơi giải trí, khu resort, hay du lịch nước ngoài, một số dân lao động bươn bả về quê sau thời gian dài bôn ba kiếm sống nơi thành thị, tất cả đều tự nguyện làm mồi cho những cỗ máy chém nhân danh ngày lễ. Số còn lại bị đóng đinh trong cái thành phố oi bức này, vì không thích chỗ náo nhiệt, vì thu nhập thấp, hay vì chẳng còn quê để về… Tôi thuộc về cả ba trường hợp cuối cùng.

Quốc văn giáo khoa thư nói : "Quê hương là nơi đẹp hơn cả". Nhà thơ nói : "Quê hương là chùm khế ngọt". Nhà văn nói : "Quê hương là những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ". Người già nói : "Quê hương là mái nhà tranh mình sống, là mảnh ruộng mình cày, là bờ tre, là ao làng, là mồ mả ông cha, là bà con thân quyến"… Theo định nghĩa cuối cùng, tôi giờ không có quê hương, vì không còn quê để về, căn nhà tuổi thơ giờ người khác sống, ruộng quê cò bay thẳng cánh chỉ còn là kỷ niệm, bờ tre ao làng không còn nữa, mồ mả ông bà nội ngoại đã được mấy cô chú, dì cậu hốt cốt đem đi sang nửa vòng trái đất. Thế là tôi đành phải làm dân thành phố, như một định mệnh. Để sống chung với cát bụi thành đô, với lô cốt, với triều cường, với khói mù, với những âm thanh ồn ào vượt quá ngưỡng cho phép, để rồi thỉnh thoảng lại dừng chân bên đường, ngó chết cây khế nhà ai èo uột lá phủ trắng bụi đường nhưng vẫn gắng gượng cho những trái lơ thơ nhỏ xíu xinh xinh hình ngôi sao xanh biếc…

12g trưa – Mâm cơm mặn bình thường cho mấy cha con. Mâm cơm chay và trái cây dọn ngoài phòng khách cúng những người đã khuất trong ngày này. Thằng nhóc hỏi : “Sao phải cúng chay hả Mẹ?” – “Ừ thì không sát sanh tạo nghiệp mới cho người đã mất”. Nó lại hỏi vặn : “Vậy ghét người nào, mình cứ cúng mặn gà vịt heo bò tá lã, cho người đó gánh nghiệp đứt bóng luôn hen?” – “Ai lại đi cư xử hẹp hòi với người đã chết, cho dù là kẻ thù. Thất đức lắm đó con. Với lại cúng kiếng là thể hiện tấm lòng và sự thương yêu đối với những người đã khuất, và còn để cho tâm mình bình an, còn người ta có “hưởng” được hay không thì ai mà biết. Có ai chết thử rồi về kể lại đâu !” – “Chẹp chẹp, con có chết Mẹ nhớ đừng cúng chay, nhớ cúng cá viên chiên với khô bò, he he”. Cái thằng miệng mồm ăn mắm ăn muối. Ba nó đứng ngoài cuộc, cười hùn. Người Công giáo rất đơn giản trong việc cúng kiếng, vả lại có gì bất đồng ý kiến ổng cũng chẳng dại nói ra làm chi, sợ bị “chụp mũ” kỳ thị tôn giáo.

Ngồi trâm ngâm bên mâm cơm cúng, đầu óc tôi mông lung, lãng đãng. Những hình ảnh đầu Ngô mình Sở gần xa ẩn hiện. Hoài niệm bị đào xới hằng năm, trình tự dần rối rắm theo tuổi tác. Nhưng dường như ký ức tỷ lệ nghịch với thời gian nên nó không phai nhạt dần mà rõ nét như mấy mươi năm vừa mới hôm qua. Thuở ấu thơ tràn ngập tiếng cười, thời thanh xuân lận đận tha phương, tuổi thành niên khổ thân khổ tâm, về già, cuộc sống có thư thả hơn chút ít, nhưng sao cứ tâm viên ý mã, cái đầu không chịu ngủ yên. Dại khờ là kẻ nhớ nhung dĩ vãng, khôn ngoan là người biết đủ với hiện tại, thông thái là kẻ biết chấp nhận tương lai. Biết vậy nhưng sao cứ tự nguyện làm kẻ ngốc nghếch...

5g chiều – Trời về chiều vẫn còn nắng đẹp. Sài Gòn oi nồng cả khi mặt trời sắp lặn. Vậy rồi không một dấu hiệu báo trước, mây kéo cuồn cuộn, mưa đến sầm sập, gió táp ầm ầm như cơn giông xa giận dữ tràn tới, đập tung cửa sổ, luồn vào mái tôn xủng xoảng ghê người. Mười phút sau, mưa tạnh gió yên, nắng hửng lên ngỏn ngoẻn cười trước khi nhanh chóng rút về Tây. Thời tiết Sài gòn là vậy đó, mưa ầm ì liền sau nắng vàng tươi, như một con người đỏng đảnh, lật lọng, diễn rất nhiều vai với hàng tá mặt nạ vui buồn gian giảo. Chậc, con mắt kẻ bi quan thật tệ! Sao không biết mừng vì sau mưa dập gió vùi là nắng đẹp vàng ươm? Chợt nhớ mấy lời khuyên cảm động trong lá thơ người Thầy cũ dạy Văn gởi thăm tôi cách đây nhiều năm : “Ngẫm ngày xưa, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang, cùng một giấc mơ vàng trong vũ trụ (Tản Đà). Em à, mình không phải là kẻ tài hoa, tiết liệt, thì chuyện phù sinh gẫm lại có chi phải bận lòng”. Thầy bảo “đắc nhất nhật, quá nhất nhật”, nhưng sống giản dị thì dễ, mà nghĩ giản dị, Thầy ơi, sao khó quá !

Chiều thật rồi. Nắng nhợt nhạt cao tít trên kia. Dưới này, qua cửa kính pa nô, con hẽm nhỏ bỗng dìu dịu buồn sương khói…

Ở trung tâm SG hôm nay dường như có mấy sân khấu ngoài trời? Buổi tối dường như có bắn pháo bông dưới bến Bạch Đằng? Lạ, sao mọi ý niệm vui chơi giải trí mỗi ngày một lùi xa mờ mịt?

Chậc chậc, mình già thiệt rồi…

Trần Cẩm Quỳnh-Như

5/2012

TCQN_Dongchatcuaphong.JPG

 Nguồn: http://www.caovikhanh.com/pdf/ngay-tet-dong-chat-cua-phong-toi-lai-la-toi.pdf

 

Tết nữa rồi.

Người không an nên nhìn đâu cũng động, lòng không vui nên nhìn đâu cũng phiền.

Gió sớm mai lành lạnh luồn qua khe cửa, buồn.

Mây mùa Đông lúc tinh mơ bàng bạc những đàn cừu ngơ ngác, buồn.

Vọc tay vào thau nước lạnh ngắt sương đêm, buồn.

Ngắm cội mai nhà ai tích nhựa cho nụ chi chít đầu cành chờ ngày bung vỏ lụa, sao cũng buồn!

Đâu rồi những mùa Tết bình yên?

Tâm trạng giờ đây sao vẫn y như năm nào...

 

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?

Với tôi, tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

 

Ai đâu trở lại mùa thu trước

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?

Với của hoa tươi, muôn cánh rã,

Về đây đem chắn nẻo xuân sang! .....

(Xuân - Chế Lan Viên)

 

Bạn ơi, Tết nữa rồi ! Hồi nhỏ mỏi mắt mong Tết, sao cứ thấy một năm nó dài lê thê. Lúc trộng tuổi rồi, Tết cứ vùn vụt tới rồi vùn vụt qua ... Tôi để ý cứ hễ đầu năm, ăn Tết xong kể như sắp hè tới nơi, rồi quay qua quay lại là tháng chín tựu trường. Học trò vô học được vài tháng là tới Tết Trung thu, rồi Giáng sinh, Tết Tây ập tới, rùng rùng theo sau là Tết Ta với bao nỗi lo toan cho người lớn và cả chục bài tập về nhà thầy cô trong trường giao cho bọn nhỏ.

Chắc có người sẽ cười tôi : Con người gì mà bi quan dữ, chỉ thấy toàn gai trên cành hồng, chớ không thấy trên thân gai là đóa hồng đẹp lung linh ! Ờ, con người tôi kỳ thiệt. Có lẽ mấy mươi lần Tết buồn trong quá khứ đã bám chặt lấy tim tôi ... ...

 

Những đêm giáp Tết âm thầm chờ một chuyến đi nên ở xa nhà thiệt xa. Nhớ nhà, nhớ Má ... Cứ mỗi chạng vạng tàu về là gia nhập đạo quân mấy chục người làm cá khô ven biển, còm lưng cóp cổ, tay làm cá nhanh thoăn thoắt dưới ánh đèn dầu leo lét nơi bãi cá miệt Gành Hào, Hộ Phòng. Cá mối lớn bằng cườm tay, hình dáng như những con cá sấu nhỏ màu nâu, vun đống ngút ngàn. Cá đuối khổng lồ đường kính cả sải tay, cái đuôi dài như con diều lã lướt, thất thế và thoi thóp nằm dài ngổn ngang trên cát. Và kìa những đôi sam khắn khít từng cặp và hầm hừ như những chiếc xe tăng có đuôi, ánh thép bóng ngời, nặng nề lịch kịch lẻn tìm đường về biển cả và ngơ ngác đến tội nghiệp khi bị người ta chận đường túm quăng nghiêng ngửa lên bờ cao ... Thấp thoáng trải dài theo bờ cát, dăm bảy nồi lớn như thùng phuy nấu tép biển làm tôm khô, lửa đỏ rực bập bùng ... Gió biển lồng lộng, mùi cá biển tanh tưởi xộc vào tận óc, tâm tình hoang mang lo lắng, tay thì cứ kéo mãi cái lai quần che kỹ đôi cổ chân nhỏ xíu trắng trẻo học trò, mắt nhìn xa không rõ vì cận nặng mà lại giấu kỹ cái kiếng cận trong túi áo, nhưng vẫn cố nhìn ra biển xa ì ầm tối đen, như muốn tìm kiếm một con đường trong thăm thẳm vô vọng ...

 

Những ngày Tết bàn thờ lặng ngắt, không có mai vàng, không có bánh trái, chỉ có làn khói mỏng manh của mấy nén nhang Má tôi mới thắp, cầu xin ơn trên phò hộ cho những đứa con khờ khạo hiền lành đang chênh vênh trong cơn gió bụi. Và tiếng thở dài của Má u uất muộn phiền ... Tiếng khóc của ai như tiếng tôi, tuyệt vọng se thắt như con thú đến bước đường cùng khi đoán biết con đường học vấn bị cắt đứt từ đây...

 

Những ngày gần Tết ngồi cả tiếng đồng hồ rang cho thiệt khô chảo tàu hũ muối sả và làm gô mắm-ruốc-không-thịt gởi cho anh Hai anh Ba ...

 

Những ngày Tết không có người lớn, mấy đứa con nít : tôi, thằng em út, đứa cháu gái nhỏ, lon ton dắt díu kéo nhau ra ngồi ngoài bờ ruộng, chia nhau mấy cục thèo lèo nhai lóc cóc, đứa này hỏi đứa kia không biết giờ này Má mình chị mình đang làm gì trong căn nhà mênh mông ở Cần Thơ, có giữ được nhà hay mai mốt lại lôi thôi lếch thếch kéo nhau về đây... Những ngày Tết đi thăm mấy anh tôi qua những cánh đồng lau mút mắt, rồi tới những rẫy khoai mì xanh mướt bạt ngàn, thấp thoáng mảnh áo nâu của đoàn người u buồn cắm cúi nhổ cỏ. Kìa cánh rừng nhỏ bị khai phá loang lổ nham nhở, ở đó một nhóm người còm cõi đang lầm lũi đào đất làm một hồ nhân tạo khổng lồ cho công trình du lịch đầy hứa hẹn, trong khi những người khác è ạch khuân đá xanh từng tảng lớn xây thành hồ. Đôi người nhìn về phía chúng tôi, những đôi mắt buồn u ẩn bám chặt bước chân người đi ... Những ngày Tết lạnh tanh trong rẫy sâu, mấy anh em ngồi chùm nhum bên cây đèn dầu tù mù, mỗi đứa ăn một chén chè đậu xanh lỏng bỏng nấu với mấy tán đường móng trâu mà tưởng như đang húp yến sào vi cá ! Anh tôi nằm võng tòn ten, hắng giọng rồi ngâm một chiều rừng mưa, ba người anh từ chiến trường Đông Bắc, được tin em gái mất, trước tin em lấy chồng... Giọng ngâm anh sao buồn thê thiết. Hồi anh tôi còn dạy Đoàn Thị Điểm, ngày liên hoan tất niên mấy chị học trò hay yêu cầu anh ngâm thơ rồi cả lớp xúm lại vỗ tay rần rần. Tôi chọc anh, nói tại anh đào hoa nên mấy chị vỗ tay lấy lòng đó thôi. Nhưng những đêm nơi rẫy vắng, giọng ngâm của anh tôi nghe sao ngậm ngùi, sao mà thấm thía một nỗi bất lực, đau đáu một mối cảm hoài ...

 

Và còn nhiều ngày Tết sau đó, cũng trong rẫy trong rừng, cũng dưới ánh đèn dầu leo lét đỏ quạch, Má tôi và mấy chị em tôi mỗi người ngồi một góc chẳng ai nói câu nào nhưng tôi biết tim ai cũng đang rỉ máu khóc thương cho những người thân yêu đi mãi không về. Khi ấy con chó Ki bỗng ngóng mõm lên trời tru trăng thê thảm. Và con chim ục về khuya kêu lên ghê rợn ngoài bụi tre gai... Tiếng pháo đì đùng rất xa vọng về đâu từ thị trấn. Ở đó có ánh đèn, có Tết. Chúng tôi thì chìm đắm mãi trong tăm tối hiu quạnh, nên lâu rồi đâu biết Tết là gì...

 

Giờ đây cuộc sống bớt khó khăn rồi, sao nỗi buồn vẫn cứ còn nguyên hoài không thôi đeo đẳng ? Đêm giao thừa, tôi thơ thẩn ra phố, nhìn những người bán hàng ngồi buồn thiu bên hàng hoa còn đầy ắp mãn đình hồng, vạn thọ, cúc vàng đại đóa; những đống quần áo, xắc tay, giày dép bên đường chất chồng cao nghệu vắng người mua; đêm trăn trở lắng tai nghe tiếng bành bạch của những chiếc xe gắn máy thồ hàng qua lại vùn vụt ngoài ngã tư nửa đêm về sáng; và nữa, những đứa bé lang thang, đôi mắt trong vắt trên gương mặt xanh xao thiếu ăn, đôi bàn chân mốc thếch, ngày Tết đêm về vẫn ngủ bụi ngủ bờ; những bà cụ rụt rè đưa ra xấp vé số, đôi mắt đục ngầu mỏi mệt, chiếc lưng còng không gánh nổi thời gian...

Lòng tôi vẫn tự hỏi còn bao nhiêu người không bao giờ biết Tết ? Tôi nhạy cảm quá chăng sao cứ cho rằng Tết không phải dành cho tất cả mọi người? Sao cứ nghĩ rằng những người khốn khó, những kẻ buồn đau sẽ khốn khó hơn sẽ buồn đau hơn nhiều trong những ngày giáp Tết?

Giờ phút giao thừa thiêng liêng một năm mới có một lần, lòng tôi sao cứ trơ ra như gỗ đá, không vui, không buồn, tâm trí lơ lơ lửng lửng như lọt vào một khoảng không mênh mông, một lỗ đen tăm tối. Cứ quay, cứ rơi, cứ chơi vơi, cứ bồng bềnh, cứ lênh đênh, vô cảm ... Cũng chưa bao giờ có ý nghĩ kéo nhau chen chúc đi coi pháo bông đêm giao thừa. Tôi rất sợ đám đông, sợ không khí lễ hội ... Mười hai giờ đúng, tiếng pháo bông vang lên ì ùm xa xa từ bến Bạch Đằng gợi cho tôi nhớ tới những đóm mắt hỏa châu lập lòe trên bầu trời đêm một thời lửa đạn ... Bật tivi xem thiên hạ bu đen như kiến rừng ven sông Sài Gòn, ai cũng ngước mắt nhìn lên, hết ô tới a trầm trồ mỗi khi một hoa pháo nở đẹp trên nền trời. Có năm báo đăng Hà Nội hăm chín điểm bắn pháo bông, Sài Gòn tám điểm, Cần Thơ sáu... Một cái pháo bông giá bao nhiêu nhỉ ? Có ai đó làm giùm tôi bài toán nhân...

 

Bao nhiêu năm nay, ngày Tết của tôi bao giờ cũng y như ngày thường, có chăng không phải tất tả thu xếp việc nhà, việc dạy, không phải gân cổ giảng bài, không phải vui cười lúc giao tiếp, khi trong lòng không có niềm vui ... Ngày Tết, đóng chặt cửa phòng, tôi lại là tôi...

 

Trần Cẩm Quỳnh Như

_________________________________

QN_Ode tp my father.JPG

from blog caovikhanh.com:

ODE TO MY FATHER-tcqn.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
(Thu phong từ - Lý Bạch)

 

(Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.
Nhớ nhau không biết ngày nào gặp).

 

Phim mở ra với chú bướm trắng nhỏ xíu chập chờn bay và hai ông cháu nắm tay nhau đi trong một phố chợ sầm uất. Đứa cháu nhỏ hỏi ông nó: "Ký ức là gì hở ông?". Ông nó trả lời: "Đó là những gì ta không thể quên được!". Chợt một người đi ngang vô ý đụng mạnh làm người ông vuột tay đứa cháu gái. Không thể diễn tả sự kinh hãi bất thường trong ánh mắt trợn trừng khiếp sợ của người ông khi rời tay đứa cháu, chỉ xuất hiện một thoáng nhưng nó ánh lên tất cả sự sợ hãi, tuyệt vọng và ray rứt của ông khi ký ức hãi hùng của cái ngày định mệnh hơn sáu mươi năm trước thoắt hiện ra: Ông như sống lại giây phút rợn người năm xưa khi khám phá ra mình đã vuột mất đứa em gái bé bỏng trong dòng thác mười bốn ngàn người di cư của những thường dân Bắc Triều Tiên bằng tàu SS Meredith Victory của sư đoàn 7 đồng minh Mỹ trước đợt tấn công vũ bão của Trung Cộng vào một mùa đông lả tả tuyết rơi trên cảng Hungnam năm 1950.

 

Không phải ngẫu nhiên mà xuất phẩm "Ode to my father" (Lời Hứa Với Cha) của đạo diễn Yoon Je-kyoon đã làm khuynh đảo phòng vé tại Hàn Quốc năm 2014 với 14.2 triệu vé bán ra, đạt doanh thu lớn thứ hai chỉ sau "The Admiral" (đạo diễn Kim Han-Min) trong thời điểm công chiếu và đứng thứ tư trong lịch sử chiếu bóng Hàn Quốc! (Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Ode_to_My_Father).

 

Bộ phim với IMDb rating hấp dẫn 7.8, thời lượng hai tiếng sáu phút, trong đó ba sự kiện lớn trong lịch sử Hàn Quốc đã diễn ra trải dài theo cuộc đời của Duk-Soo, một bé trai mười tuổi cho đến sáu mươi năm sau khi đã trở thành một ông già tàn tật với con cháu đủ đầy và thành đạt: Biến cố di tản năm 1950 của thường dân Bắc Triều Tiên theo tàu SS Meredith Victory của quân đội Mỹ; việc xuất khẩu lao động y tá và thợ mỏ sang Đức năm 1960; và chiến tranh Việt Nam mà Nam Hàn là một trong các nước đồng minh tham chiến.

 

Trở lại với cậu bé Duk Soo đáng thương. Còn gì kinh khiếp cho bằng trong cơn biến loạn mạnh ai nấy cuống cuồng chạy thoát thân, đứa anh trai mười tuổi vừa chở che dắt díu đứa em gái nhỏ vừa cố gắng đuổi kịp cha mẹ mỗi người một nách con gồng gánh chạy phía trước. Rồi khi đã bươn bả leo hết cái thang dây sinh tử để lên được trên boong tàu trong dòng người tranh sống quyết liệt, thì hỡi ơi nó mới khám phá trên bàn tay níu chặt chỉ còn lại mảnh tay áo đứa em bất hạnh, trong chớp mắt đó thằng bé đã thấy được số phận khốc liệt của mình! Đó không chỉ mang ý nghĩa một sự chia cắt ngàn đời giữa hai anh em mà còn kéo theo hệ quả nát lòng là người cha phải leo xuống tàu trở lại tìm con, và đành phải để cho vợ con ra đi trước với lời hẹn sinh tử nếu sống còn sẽ gặp lại nơi cửa hàng Knot Bun của người chị gái đã định cư trước đó ở Busan, Nam Hàn. Và họ đã vĩnh viễn không gặp nhau kể từ ngày ấy!

 

... Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời…”
(Trường Sa Hành - Tô Thùy Yên)

 

Truyện phim kéo dài đan xen cuộc đời đầy biến cố, gian truân của thằng bé Duk Soo từ mười tuổi cho đến khi em út con cái đều thành đạt. Duk Soo giờ đây đã trở thành một ông già què quặt lọm cọm - ông bị đạn bắn vào chân ở chiến trường Việt Nam khi ông đang cố gắng cứu một đứa bé lên thuyền, như tự nhủ là đang cứu em gái mình, hay đang cứu chính mình khỏi cơn ác mộng mấy mươi năm - người đã hy sinh trọn cuộc đời hoa mộng của mình nuôi dưỡng mẹ và em, lòng canh cánh lời hứa với cha phút ly biệt: "Duk Soo à, hãy thay Bố làm trụ cột của gia đình, hãy làm chỗ dựa cho Mẹ và các em con!".

 

Cuộc di dân nào ở bất cứ đâu cũng y hệt nhau với từng đoàn thác người mỏi mệt gồng gánh, với cảnh bươn chạy giẫm đạp lên nhau xô tìm về phía hy vọng. Cảnh ly lạc với tiếng khóc trẻ con gọi mẹ xé lòng, tiếng người thảng thốt gọi nhau, những manh áo, những va li tung tóe; với máu loang, với xác người bầm dập khi bị đám đông ồ ạt giày xéo trên mặt đất; với xác người bồng bềnh thơ thẩn trên mặt sông loang dài nỗi tịch mịch, cố trôi trôi để nhìn theo con tàu đang gấp rút rời đi... Và bom đạn liền kề sau đó, ánh lóe khói lửa đau thương cùng thân phận người ở lại...

 

Phim dừng lại ở mức happy ending một nửa, khi tác giả kịch bản đã nhân từ bẻ ngoặt cuộc đời đứa em gái Mak Soon bé bỏng của Duk Soo một cách thần kỳ, tưởng chết chìm dưới mạn tàu, tưởng mục đời ở Bắc Triều Tiên, lại may mắn được một người tốt bụng đưa đến một cô nhi viện, rồi được hai vợ chồng người Mỹ nhận nuôi. Để cuối cùng, khoảnh khắc đoàn tụ của những gia đình ly tán do chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên đã được tái hiện vào năm 1983 trên sóng truyền hình Nam Hàn: Mấy mẹ con anh em gặp nhau trong nước mắt, cô gái đã quên mất tiếng mẹ đẻ chỉ biết nói tiếng Anh, vừa khóc vừa trách mãi anh mình "Sao anh lại buông tay em ra!". Và Duk Soo đã trả lời trong nghẹn ngào: "Lúc đó anh còn nhỏ quá, không đủ sức giữ em!". Buổi gặp mặt đã mang đi một nửa sự ray rứt cay đắng trong lòng Duk Soo, vì cuộc hội ngộ mà Duk Soo mong đợi cả đời đã không diễn ra: Người cha mà ông luôn khắc khoải, mong ngóng và thương nhớ, một lần biệt ly là cách xa mãi mãi. Bi kịch của chiến tranh với những thường dân tội nghiệp cứ mãi diễn ra khắp nơi trên mọi thời đại!

 

Đã vượt qua biết bao khó khăn, gian truân, tủi nhục, thương tật, đau đớn, đến tận lúc hoàng hôn của cuộc đời, Duk Soo đã ôm bức ảnh của cha và bật khóc: "Cha ơi, cuộc sống sao khó khăn đến vậy!". Sự trải lòng, lời tâm sự của một ông già với người cha có lẽ đã khuất, chắc chắn chỉ có những người cùng tâm trạng mới có thể hiểu được vì sao giờ đây không còn tủi nhục vì nghèo khó, con cái đã thành nhân chi mỹ, sao một người già không biết thương lấy thân mình, không an hưởng thành quả lao động cả đời và quên hết đi những ký ức đau buồn để thanh thản thong dong trong chuỗi ngày ngắn ngủi còn lại, họ vẫn cứ sống thật giản dị, ăn mặc thật giản dị, cư xử thật giản dị mà đầy lòng trắc ẩn, và cách nghĩ lại chẳng hề giản dị bao giờ!

 

Trở lại với câu nói của ông già Duk Soo ở đầu phim: "Ký ức là những gì ta không thể quên". Phải, làm sao có thể quên được những-bất-hạnh-không-thể-cứu-vãn ? Ai cũng kêu gọi buông bỏ, ai cũng khuyên nhủ ta quên. Chính xác trong trường hợp Duk Soo, làm sao ông có thể quên được giây phút rợn người khi khám phá ra ông đã làm rơi em gái mình xuống thăm thẳm dưới kia? Làm sao ông có thể quên được ánh mắt người cha đứt ruột gởi gắm cả gia đình cho đứa con trai mới mười tuổi. Sao ông có thể không cảm thấy gánh nặng đè mãi trên vai, dù không phải cố tình tạo ra ngang trái?
Sao một người có thể vô tư thưởng thức trọn vẹn một món ăn ngon, sao có thể an nhiên hưởng thụ sự an nhàn phong lưu khi nhớ tới người thân mình đã "bất thiện chung": chết vì bị thảm sát, bị hành hạ, đày đọa, chết vì bệnh không có thuốc uống, chết vì đói... ? Sao có thể buông xả tất cả khi nhìn lại một gia đình bị vùi dập, tương lai những trẻ nhỏ thành vô định, và những người già chết mà mắt mở trừng trừng vì không an lòng về cuộc đời những đứa con hiền lành tử tế lại phải chịu quá nhiều long đong thua thiệt?
Một số không ít thường hay nói "Thời đó ai mà chẳng khổ!". Không đâu, có thể bạn "khổ" nhưng bạn không "đau". Và "khổ" cũng có nhiều cung bậc, mà chắc chắn không phải "ai cũng khổ": có rất nhiều người vô cảm - và vô hạnh - đã biết nhanh chóng nắm lấy thời cơ "phất" lên như diều gặp gió trên máu và nước mắt của đồng loại ngay đúng khúc quanh định mệnh đó. Và họ chính là những người cực kỳ nhiệt tình khuyên ta nên quên!
Và rồi mọi thứ đều sẽ nguôi ngoai sao? Không! Duk Soo đã không thể nguôi ngoai khi chẳng bao giờ còn gặp lại cha! Cuộc sống đối với ông là một gánh nặng. "Cha ơi, cuộc sống sao mà khó khăn đến vậy!". Đó không chỉ là những vất vả mà ông phải cắn răng vượt qua vì một lời hứa với cha mà còn là nỗi ám ảnh và ray rứt khi ông ngày một đến gần hơn triền dốc phía bên kia cuộc đời mà người cha vẫn bặt vô âm tín, trong khi chính mắt ông nhìn thấy cảng Hangnam bừng lên tan nát dưới mưa bom của Trung Cộng khi con tàu chở người di cư vừa tách bến rời đi.
Khi Duk Soo quyết định cho bán cửa tiệm mà mấy chục năm nay ông cứ khư khư giữ lấy, đó chính là phút giây buồn thảm nhất của Duk Soo: Tuổi già chồng chất đã khiến ông không còn hy vọng người cha một ngày có thể tìm đến hội ngộ cùng ông!

 

Mười bốn ngàn người tị nạn trên chiếc tàu Meredith Victory là mười bốn ngàn gia đình bị chia cắt không trông mong có ngày đoàn tụ! Sự chia cắt không chỉ diễn ra cho số người may mắn được an toàn trên tàu, còn bao nhiêu xác người rơi xuống thang dây, đầu đập vào mạn thuyền và chìm sâu nơi đáy nước, còn bao nhiêu thi thể nát bấy dưới bom Tàu... Những bà mẹ già chờ con, đôi mắt khóc nhiều đến nỗi tròng mắt bạc màu. Những người vợ chờ chồng, mắt không còn lệ để khóc... Bao giờ vết cắt chéo vĩ tuyến 38 có thể nối liền trên bán đảo Triều Tiên, lúc đó mọi khổ đau u uất mới có thể nguôi ngoai, những vết thương chiến tranh vì sự chia cắt hai miền Nam Bắc mới thực sự liền da.

 

Cảm thương cho dân tộc Hàn, ta cũng thật lòng mừng họ vẫn còn may mắn khi Bắc Triều Tiên tôn trọng hiệp ước đình chiến (hay không dám không tôn trọng!). Nam Hàn thật sự bình yên vì “ai ở nhà nấy”, chưa bao giờ xảy ra chuyện bị phá hoại, giết chóc, thủ tiêu... Chính nhờ sự may mắn này, Nam Hàn ngày càng giàu mạnh, cùng với Nhật Bản đã vươn lên trở thành những con rồng thực sự của Á Đông.
Người dân Hàn Quốc từng trải qua nhiều khổ đau, chắc chắn họ vẫn nhớ về chiến tranh để biết tôn trọng từng ly hòa bình, thứ hòa bình chân thực trong đó chính quyền tượng trưng cho công lý và nhân ái, còn dân chúng thì biết vươn tới khát vọng làm một công dân tử tế và trung chánh, biết yêu nước và không hèn nhược!

 

Một chi tiết rất nhỏ chỉ diễn ra trong vài mươi giây đầu phim ít người để ý là cánh bướm trắng bay nhẩn nha suốt khu phố chợ Busan. Người Á Đông thường tin rằng bướm bay chập chờn quanh quẩn là linh hồn của người đã mất ghé về thăm nhà. Con bướm trắng phải chăng chính là linh hồn của cha Duk Soo đã tìm về nơi hẹn là tiệm tạp hóa Knot Bun để gặp lại vợ con? Cánh bướm phải chăng đang ve vẩy đôi cánh nhỏ ủi an đứa con trai thơ dại đã thay cha làm chỗ dựa cho gia đình?
Chi tiết này làm tôi nhớ đến nhánh lông vũ bay bay ở đầu và cuối phim Forrest Gump (vai chính Tom Hank). Chiếc lông trắng chao nghiêng nhẹ nhàng trong gió như lời chúc một cuộc sống an nhiên tự tại. Cánh bướm của "Ode to my father" phải chăng cũng là một ước nguyện tự do và hạnh phúc thật sự trong hòa bình cho mỗi con người!

 

Hai hạt sạn lớn một bộ phim không nên có: Nghệ thuật hóa trang đáng nể của Hàn Quốc đã không phát huy hết tác dụng khi hóa trang rất kém cho đôi vợ chồng Duk Soo khi về già. Và chiến tranh Việt Nam xảy ra tại miền Nam lại lồng giọng Bắc đặc sệt!
Dù vậy, hai điểm trừ trên vẫn không thể ảnh hưởng đến độ hot của phim! Xuất phẩm "Ode to my father" thực sự là một thông điệp mang ý nghĩa "nghệ thuật vị nhân sinh", là một trong số ít tác phẩm đầy tính nhân văn thành công vang dội cả về phương diện thương mại.

 

Sài Gòn, 02/08/2020
Trần Cẩm Quỳnh-Như

__________________________________

QN_mai.JPG

CHẬU MAI CON NHÀ NGHÈO

Thưa mấy anh Trần Bang Thạch, Cao Vị Khanh và Lương Thư Trung quý mến,

Cái phong trào nói chuyện đồng áng anh Trần Bang Thạch phát động quả là hấp dẫn. Nhưng em chẳng dại gì mà múa cây rìu giấy qua mắt mấy ông thợ cả đã lên tới chức nghệ nhân! Thôi để em kể mấy anh nghe chuyện chậu mai năm xưa của cặp vợ chồng giáo viên nghèo.

Vầy, mười mấy năm trước tụi em trên răng dưới dép, nói theo kiểu mấy ông bà già xưa là "nghèo có pa-tăng". Em với ảnh dạy đệ nhị cấp, đáng lẽ không đến nỗi nào vì môn sinh ngữ có thể dạy thêm kiếm tiền, nhưng lúc đó Má chồng em nằm một chỗ hơn năm năm trời, nào tiền bác sĩ tới nhà, y tá mỗi ngày thay băng chỗ loét, rồi tã giấy, sữa Ensure truyền ống, và thằng con còn học hai đại học một lượt, em lại ịch đụi bịnh tật suốt! Thuở đó tụi em phải cày cật lực để sinh tồn, nhưng nói ngay cũng nhờ bạn bè thương giúp đỡ nhiều.

Một tối giao thừa buồn (mà mấy chục năm nay có giao thừa nào vui!), hai vợ chồng em tự nhiên nổi hứng rủ nhau đi một vòng ngã tư Phú Nhuận gần nhà coi người ta mần ăn ra sao. Đường thưa thớt lắm, không còn xe cộ kìn kìn vì mạnh ai nấy mau mau về nhà cho kịp cúng Ba mươi. Quần áo may sẵn đổ đống buồn thiu, người bán ngồi ngủ gà ngủ gật. Cờ đỏ sao vàng cả ôm đỏ lòm cắm đầy kệ gỗ. Mãn đình hồng, cúc đại đóa, thược dược hồng, cúc mâm xôi, mấy chậu tắc chi chít trái, ôi thôi rực cả góc đường Phan Đăng Lưu (xưa là Chi Lăng), mà khách thì chỉ lèo tèo đếm đầu ngón tay. Lô mai vàng trước dãy Kim khí điện máy Nguyễn Kim còn thảm hơn, mai nở ráo, vàng rực, lẽ ra lộng lẫy biết mấy, mà vì nở không đúng lúc nên chỉ thấy vẻ thảm sầu trên gương mặt người bán!

Vợ chồng em đứa nào cũng mê mai lắm, nhưng biết thân, đi ngắm ké thôi chớ không tính mua, cũng không ưa thói lợi dụng ngày cuối để trả rẻ. Nhưng người bán đã mau mắn mở lời: "Anh chị mua giúp em, em bán nửa giá thôi. Đừng trả nữa tội nghiệp!". Anh chàng bán mai mặt mũi sáng sủa, áo sơ mi bỏ trong, giày xăng đan, giọng nhã nhặn dễ thương. Em chợt cám cảnh, tự đoán có lẽ cũng anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than chi đây, nên em thấy thương, bấm bụng mua đại.

Nhà tụi em nhỏ lắm, nên cái cầu thang lên gác vừa cao nghệu, vừa dốc lại hẹp. Hai vợ chồng em è ạch khiêng được chậu mai nặng tám tấn lên gác để vần ra cái lan can tí nị, trời ơi em mệt muốn tắt thở, xương sống muốn gãy cúp, nhìn lại ảnh cũng đang thở hào hển, còn gương mặt ảnh, xin lỗi mấy anh, đáng lẽ không nên dùng cái expression kém thanh tao này cho ông chồng dễ thương của em, nhưng đúng thiệt là xanh chành như đít nhái!

Khỏi nói mấy anh cũng biết hai đứa em cưng chậu mai tới cỡ nào! Cây cao chưa tới một mét, chập chùng theo thế Thiên-Địa-Nhân. Hoa đã nở nhiều, nhưng vẫn còn một ít búp, mỗi bông tám cánh thôi nhưng cánh tròn trịa hữu lực, màu sắc tươi sáng. Còn nụ thì đúng là loại "búp trâu"! Nói thiệt xưa nay em không cần ngắm mai nở, mà chỉ cần nhìn cội mai lún phún búp xanh mơn mởn là trong lòng đã cảm thấy xao động lắm rồi! Nhớ xưa một ông Tự Lực Văn Đoàn nào đó em quên tên rồi, tả lại cảm giác "dịu dàng như một cánh bướm non" của người cha trẻ khi ngắm đứa con sơ sinh, thì vợ chồng tụi em cũng cảm thấy y vậy khi mỗi ngày lên gác, ra cái lan can rộng bảy tấc ngắm cây mai sang trọng lạc loài trên căn gác nghèo!

Rồi đến sáng mồng Một, khi hai đứa lo cho Má chồng em truyền sữa rồi vệ sinh các thứ xong xuôi, mới chạy lên ngắm cây mai xíu cho đỡ mệt, thì trời đất ơi, hổng biết sao bông, nụ, rụng ráo trọi trơn! Giống như khuya qua có một kẻ tai ác lấy roi quất cho tan tác rụng rời. Em đứng như trời trồng. Giận thằng bán bông thì ít (vì tiền nào của ấy), mà thương cái cây thì nhiều!

Hai đứa em không tin dị đoan, nhưng ngay ngày đầu năm cây mai cưng của mình nó thê thảm rũ rượi như bị quánh ghen, thiệt quá đau lòng! Rồi em kể ông xã em nghe chuyện thằng bạn Tàu lối xóm thời để chỏm, "pà pá" với "mà má" nó mua một cây mai trĩu nụ mà ngay mồng Một Tết nó rụng trụi lủi, năm đó Tết Mậu Thân nhà nó trong khu Văn Hóa cháy rụi. Ông xã em gạt ngang nói bao nhiêu người chết thảm năm đó, chẳng lẽ do nhà họ mai rụng hết sao!

Ờ thì sẵn kể ổng nghe chơi, tại cái tật em hay nhớ bắt quàng, chớ em đâu có tin vô ba cái vụ coi tướng tập thể! Nhớ ông Vũ Tài Lục năm xưa trong cuốn "Tướng mệnh khảo luận", ổng bàn xa xôi, nói thấy giới trẻ VN mặt mày sáng láng, khí sắc tươi nhuận, chắc tương lai rạng rỡ, nước nhà bình yên. Ai có ngờ ổng hố quá mạng! Sau này không biết có ai cắc cớ hỏi ổng phải chăng sáng láng, rạng rỡ và bình yên với cả nửa triệu nhân mạng dật dờ nơi đáy nước? Và còn nữa, những Tiêu Phong không có đất dung thân, sống cúi đầu bơ vơ giữa Trung Nguyên và Khiết Đan, liệu họ có bình yên thanh thản?

Xin lỗi mấy anh, em lạc đề dữ rồi!

Trở lại với chậu mai đáng thương của tụi em, em chờ qua Tết nhà sách mở cửa, đi mua một cuốn kỹ thuật chăm sóc mai. Nhưng em không mát tay nên nó sống lay lắt (như người chủ mới) được vài năm, mỗi Tết cho em được dăm ba cánh èo ọt... Từ một nàng mai tám cánh yêu kiều và cao ngạo, nó trở thành đóa mai rừng chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay, năm cánh rời rạc mỏng manh ươn yếu, viền cánh run run nhăn nhúm buồn.

Rồi một ngày nó đi!

Thôi, chỉ là một cây mai thôi mà, cớ sao cứ buồn mang mang! Trong đời mình đã từng chứng kiến bao lần ra đi âm thầm và oan khiên của những người thân, thì sá gì một cây mai! Thôi cứ nghĩ họ đi tức họ về. Cho lòng đỡ đau!

Cái cây mai - mà suốt mấy chục năm sau 75 em chưa từng được chạm tới một cánh hoa tươi, chỉ còn sót lại những ký ức đẹp đẽ về một thuở vàng son với những ngày Tết xum họp xa xưa, có cội mai vàng kiêu kỳ nghiêng mình dáng thác đổ trên chiếc lục bình cổ men xanh man mác - tới lúc ấy mới mua được...

Cái cây mai mà mỗi chiều tưới nước em đều thủ thỉ nói chuyện với nó. Lan can hẹp quá muốn lách qua nó để tưới luôn mấy chậu vạn niên thanh và sử quân tử, phải thu người nhẹ nhàng kẻo đụng gãy đọt nó, mình lại mất công suýt xoa: "Xin lỗi em Mai"!

Nó ra đi rồi!

Nhĩ kim tử khứ nùng thu táng

Vị bốc nùng thân hà nhật vong

Nùng kim táng hoa nhân tiếu si

Tha niên táng nùng tri thị thuỳ?

(Giờ hoa rụng có ta chôn cất, Chôn thân ta chưa biết bao giờ. Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ, Sau này ta chết, ai là người chôn?)

(Hồng Lâu Mộng)

Thầy Lê Văn Quới trường Phan Thanh Giản và Thầy Hà Văn Bửu ĐH Tổng Hợp hay chọc em Lâm Đại Ngọc khóc thương cánh hoa tàn. Thật sự nếu em là Lâm Đại Ngọc chắc đã chết rũ đâu đó lâu rồi từ độ tang thương ấy... Nhưng trơ trọi lắm, một giao thừa không người thân bên mình... Có lẽ em đã chết một phần mà không hay...

Giờ thì tụi em đã "thoát nghèo". Không giàu có, nhưng đủ sống. Mẹ chồng em mất nhiều năm rồi. Hai vợ chồng em còn khoèo khoèo dạy học được lai rai. Thằng con đã ra đi làm, lương khá. Thuở đó em không chết, có lẽ bây giờ bất tử! Những người thân chết oan khuất chắc cũng phò hộ em nhiều, để em được sống những ngày còn lại thanh thản bình an.

Thưa mấy anh, đọc lại thấy "bài luận" này của em sao quá nhiều chỗ trớt quớt. Chắc mấy cây cổ thụ đang vừa đọc vừa chúm chím cười. Thôi kệ đi, biết sao giờ, từ lâu "viết trớt he" nó đã thành cái marque déposée của QN mất tiêu rồi, mấy anh hỉ xả hen!

Em chào mấy anh. Chúc mấy anh và gia đình luôn mạnh khỏe bình an.

Em Quỳnh-Như

SG, 12/12/20

TCQN

________________________

QN_codon.png

                                            CÔ ĐƠN