top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
TL_Butmuc.png

VIẾT CHUNG

Chúng ta cùng viết - Chúng ta cùng đọc              

THT_Đêm trở lại nhà.JPG

NHÀ VĂN TRẦN HOÀI THƯ

THỦ ĐỨC GỌI TA VỀ

 

TRẦN NGUYỄN

một bút hiệu khác của LHV - LCT - HVT...

cựu SVSQ/TB THỦ ĐỨC khoá 5/68

 

                                   lược đọc

  Tháng 2/2001, Thư Ấn Quán đã xuất bản tập THỦ ĐỨC GỌI TA VỀ, tác phẩm thư 13 của nhà văn quân đội Trần Hoài Thư. Tập sách dầy 158 trang với 13 bài viết chọn lọc mà tác giả đã dành biết bao tình cảm để lý giải về "ngôi trường lính", về tác phong đạo đức, về tình chiến hữu, tình đồng đội, về sĩ khí của một sĩ quan Thủ Đức, về những tình cảm sáng trong của mỗi người lính trong cuộc chiến đầy oan khiên và máu lệ. Mười ba tựa bài đã nhắc nhở trong mỗi cựu SVSQ xuất thân từ trường Thủ Đức có thể hình dung được: Tội nghiệp những cây mạ của vùng Tràn Tiên, May mà ta có em, Viết từ đồi Tăng Nhơn Phú, Đêm di hành đầu tiên, Nguyệt san Bộ Binh, Đêm Alpha, Cám ơn Thủ Đức, Thủ Đức gọi ta về, Thư về người đàn anh Thủ Đức, Những người muôn năm cũ, Một bài thơ được viết, Ngày cuối cùng với Thủ Đức, Nén hương cho người Thủ Đức.

 

         Xin nói rõ, đây không phải là bài viết mang tính "phê bình văn học" hay "khen chê tác phẩm", đó là công việc của những người cao kiến làm công tác lý luận phê bình, mà đây chỉ với tư cách một người "bạn" lược đọc cuốn sách của một người bạn mang ý nghĩa TÂM BÚT mà thôi. Chữ "bạn" mà tôi dùng với anh Trần Hoài Thư, dù chúng tôi không cùng quê quán, không cùng kỷ niệm thời thơ trẻ và cũng chẳng có thường gần gũi để xem nhau là "bạn bè" như người đời thường nghĩ. Tôi được biết đến Trần Hoài Thư trước hết qua những truyện anh đã đăng trên tạp chí Văn, Bách Khoa, Khởi Hành... xuất bản ở Sài Gòn trước 1975 mà tôi vốn thích cách hành văn và ý tưởng của anh trên từng tác phẩm.

         [Xin mở ngoặc để nói bên lề giao tình giữa tôi và anh Trần Hoài Thư. Khoảng đầu tthập niên 1974, dịp may văn đoàn Văn Nghệ VỀ NGUỒN tại Cần Thơ của chúng tôi phối hợp tổ chức giới thiệu tác phẩm thứ tư của nhà văn Trần Hoài Thư tại quán Thằng Cuội (do anh Phan Lương Năng làm chủ quán, đường Pasteur Cần Thơ) đó là tập truyện MỘT NƠI NÀO ĐỂ NHỚ do Con Đuông xuất bản; và cũng là lần đầu được tay bắt mặt mừng với anh và còn biết được anh là chồng chị cựu học sinh PTG Nguyễn Ngọc Yến, (tức anh là con rể của thầy Huyện Dưỡng làm việc trong trường Phan Thanh Giản đã nghỉ hưu). Sau năm 1975, trình diện theo lệnh gọi "tập trung cải tạo mang theo 10 ngày ăn" vào ở chung trong trường trung học Phan Thanh Giản gần hai tháng, chứng kiến cảnh họ đập phá, kéo sập bức tượng cụ PTG mới vừa dựng lên sân trường năm 1974, rồi sau đó chuyển lên Trung tâm huấn luyện Chi Lăng (Châu Đốc) để "học tập tẩy não", tôi lại được ở cạnh phòng với anh Trần Hoài Thư. Lúc đó có anh Nguyễn Văn Đông (tức nhà thơ Đạm Thạch), vợ là chị Huỳnh Hồng Huyên có bà con bên chị Yến, định cư ở California, chung phòng đội 3 với tôi; anh Thư ở phòng đội 4 cùng khung 5. Nhắc chi tiết nầy để anh Trần Hoài Thư nhớ lại chuyện, khoảng cuối tháng 12/1975, anh Nguyễn Văn Lập (chuyên viên tháo gở mìn bẩy) ở đội 3 đã đập trái đạn 105 ly để lấy cái ly nhôm làm quà cho con, ngoài vách doanh trại, ngay trên đầu nằm của tôi. Trái đạn nổ, anh Lập văng ra tới giữa sân, hai tay lặt lìa, máu thịt vung vải trên mái nhà chỗ tôi nằm, và đã chết. Còn tôi đang chợp mắt ngủ trưa (sau giờ ăn một nhúm bo bo) bị hất tung rớt cách chỗ tôi nằm khoảng mấy thước tây, trên đầu dính nhiều màu trắng - đỏ mà anh Đông và các bạn cùng la "anh V. bị thương đầu". Lúc đó, anh Thư phòng bên chạy qua rồi cùng anh em xúm lại đở tôi lên, thật tế tôi không bị thương mà đó là do "keo đựng cơm mẻ và chai thuốc đỏ để phía trên đầu nằm bị bể" văng tung toé lên đầu tôi. Còn ca inox đựng đầy nước muối để dành ngậm răng khi bị đau nhức cũng đỗ hết nước làm ướt tóc tôi; cái ca "dẹp lép" rớt đằng xa anh em cầm lên trông dễ sợ. Tôi đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc như vậy. Ra hải ngoại nầy, nhờ có sinh hoạt gia đình trung học Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm... chúng tôi được gặp nhau rất thân tình. Năm, 1998 khi tôi nhận làm chủ bút tạp chí Văn Hoá Việt Nam do Phạm Quang Tân làm chủ nhiệm đã mời được anh Trần Hoài Thư vào Ban Biên Tập, thì chúng tôi liên lạc thường xuyên hơn. Tạp chí VHVN tổ chức ra mắt tập truyện RA BIỂN GỌI THẦM của anh tại Houston, anh chị từ New Jersey xa xôi đã sang gặp gỡ bạn đọc rồi sau đó dự buổi họp mặt gợi nhớ hình ảnh Quán Văn năm xưa. Tôi cũng có dịp cùng các bạn văn nghệ lái xe từ Houston sang Louisiana tham dự buổi ra mắt sách của anh và Hoàng Ngọc Liên nơi đây tình nghĩa tràn đầy. Đặc biệt năm 2007 khi anh chị Trần Hoài Thư - Nguyễn Ngọc Yến về Houston TX tham dự Đại hội thế giới lần thứ XI của gia đình CHS Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ với số người đông nhất 686 người trong đó có 36 cựu Giáo Sư, chúng tôi vui vẻ với nhau suốt những ngày họp mặt (25, 26, 27 tháng 5), hậu đại hội vợ chồng tôi và vợ chồng anh cùng du hành đường biển 5 ngày đêm trong đoàn gồm 92 Giáo sư và Cựu học sinh về hướng Tây vùng biển Caribbean trên tàu Carnival (the Fun Ship từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 2 tháng 6 năm 2007) lưu lại nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Với công việc Thư Ấn Quán, anh Trần Hoài Thư đã giúp in một số tập sách của tôi và vợ tôi đểgiữ kỷ niệm trong Bản Thảo Lưu Lại: Những Chặng Đường Thơ (Thơ - 2008) Trôi Ngang Phận Mình (tập Truyện - 2009), Những Bạn Văn Nghệ Ngang Qua Đời Tôi (Tâm bút - 2010 - 2016), Những Trang Viết Tản Mạn Quanh Đời Tôi (Bút ký - 2010), Nối Sợi Dây Dài và Cát Bụi Thoảng Qua (Bút ký & Truyện vừa - 2012). In tập truyện thứ hai Nắng Nhạt Hoàng Hôn của Diễm Phượng (2009), tập đầu Giữ Lại Cho Đời Một Chút Hương (do cựu Đại tá Nguyễn Đình Tuyến giao cho Đại Học Đông Nam in và phát hành năm 1998)... Xin đóng ngoặc để vào trọng tâm bài viết nầy].  

 

         Để nói về niềm tự hào của một sĩ quan xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức, Trần Hoài Thư viết: 

         "Chúng tôi là những người tốt nghiệp từ Thủ Đức, một quân trường đào tạo trung đội trưởng bộ binh trong vòng chín tháng. Nó là nơi mà một ngài cựu đại tá tâm sự là sợ phải đâm lưỡi lê vào tim người nên không dám đầu quân vào bộ binh. "Đầu tiên, tôi được lệnh đi khoá Một Nam Định. Nhưng nghĩ lại cái cảnh phải mang súng trường gắn lưỡi lê đâm vào tim người dù là hình nhân đi nữa, tôi phát sợ. Cuối cùng tôi đầu quân vào đơn vị khác. Dầu là hiện dịch, nhưng chắc ăn". Nó cũng là nơi mà một cựu thiếu tá phải thú thật rằng, lý do ông không vào Thủ Đức, bởi vì ông sợ chết... Thủ Đức chết nhiều quá...".  

         "Vị đại tá kia có lý của ông. Bởi tâm ông là tâm hiền. Không thể bắt ông cầm súng gắn lưỡi lê để đâm vào tim người được. Cũng như vị thiếu tá kia. Ông dám nói sự thật. Thật về cái ý nghĩ, tâm trạng thầm kín nhất giữa lúc người ta không dám nói.    

         "Và đó là lý do chúng tôi phải tự hào thêm một lần nữa. Chúng tôi đã chấp nhận đến một quân trường mà hai ông sĩ quan cấp tá đã sợ và tìm cách xa lánh. Nó là nơi mà chúng tôi, những người cùng chung số phận, chung một định mệnh, đã nương tựa lẫn nhau, đã chia xẻ cùng nhau cái nghiệp của người thanh niên trong thời loạn.

         "Nhưng ai có thể dám nói rằng, những thầy giáo, những kỹ sư, sinh viên hay những kẻ thi rớt tú tài 2 là những kẻ khi đánh giặc thì ở đàng sau, khi tan hàng thì chạy trước? Xin hãy đọc giùm những hàng sau đây viết về ngày cuối cùng ở trường Bộ Binh Thủ Đức để hiểu rõ hơn:

         "... Chiếc T54 bắn một hồi rồi di chuyển về phía cổng số 9. Nhưng cổng này đã bị 4 chiếc xe đậu chặn ngang đường. Nó lại chạy ra cổng số 1. "Nó chạy ra kìa". Một sinh viên sĩ quan la lên. Các tổ M72 thi nhau nhả đạn. Chiếc chiến xa T54 lần này cũng may mắn không bị cháy nhưng bị đứt xích, nó cố gắng lết ra đến Niệm Phật Đường Quảng Đức Chợ Nhỏ quay pháo tháp vào trong trường và nhả đạn như mưa.

         "Trước tình hình nan giải này, hai khoá sinh chưa được gắn cấp hiệu alpha, đã tình nguyện mỗi người mang 4 trái lựu đạn lân tinh bò ra tiêu diệt chiến xa địch. Họ đã bò qua mấy đường hẻm ở Chợ Nhỏ tiến về phía sau Niệm Phật Đường. Bỗng một quả cầu lửa nổ tung, tiếng nổ long trời, một cột khói đen hừng hực bốc lên như hàng chục trái mìn chống chiến xa cùng nổ một lúc. Tiếng reo hò vang lên từ những vị trí phòng thủ: Chiến xa cháy rồi. Nó cháy rồi". (trích Ngày Cuối Cùng tại trường Sĩ Quan Thủ Đức của Minh Tân Lê Quảng Trị, báo KBC số 22) [TĐGTV từ trang 38 - 41].

 

         Nói về "Ngôi trường lính", Trần Hoài Thư đã viết:

         "Nhưng với một ngôi trường chiến tranh, kỷ niệm chỉ là những mồ hôi gian khổ, những khối nặng mang trên mình thì có gì để nhắc nhở. Không phải vậy. Phải nhớ. Nhớ bởi vì, nó khởi đầu cho một cái nhìn khác, suy nghĩ khác. Ta đã từng cầm súng gác đêm tại lô cốt số 6. Đêm nay hết một năm. Lại gác đêm giao thừa. Quê hương chừng rét lắm. Lất phất dưới làn mưa... Bây giờ ta mới thấm thía được ý nghĩa của những câu thơ mà ta không nhớ hết. Thời còn dân sự ta chỉ biết thưởng ngoạn nó, nhưng không cảm nhận nó. Bây giờ ta đang ở trong cuộc, ta cũng cầm súng canh gác, trời cũng lất phất mưa. Quê hương chừng rét lắm. Tâm hồn ta bỗng nhiên lớn  hơn, bao la hơn. Ta bay bổng khắp quê hương. Ta như người phi công trong một chuyến bay đêm, hãnh diện nhìn quả đất. Bây giờ ta mới hiểu tại sao người thơ lại dùng chữ lại, thì vì chữ được. Được mang ý nghĩa của niềm hãnh diện. Lại có ý nghĩa lại sự bắt buộc, là phải tuân hành. Nhưng tuân hành không phải là không làm tròn nhiệm vụ. Có lẽ quân đội chỉ cần người tuân hành. Bởi thế kỷ luật là sức mạnh, người ta luôn luôn nhắc nhở như thế. Nhưng tuân hành không phải để trở thành nô bộc. Người ta không thể lạm dụng hai chữ kỷ luật để bắt buộc thuộc cấp trở thành nô lệ, nô bộc. Sau này tôi đã hiểu rõ hơn về cái lạm dụng này. Khi người sinh viên chúng tôi được lệnh phải đánh giày thật bóng, xếp drap xếp mền thật kỹ, dọn tủ quần áo thật ngăn nắp, có nghĩa là chúng tôi được học bài học là một người sĩ quan, trước hết anh phải làm gương cho kẻ khác. Anh phải dấn thân trước hết. Làm sao tôi có thể biết là ngoài thực tế, có một vài đơn vị trưởng được xem như một ông vua nhỏ. Ngay cả một trung đội trưởng với cấp số trên dưới hai mươi người, còn được cấp một người mang gạo, nấu ăn, chẳng khác một người hầu không công, huống hồ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng. Chẳng những cho các ông mà còn cho vợ con các ông nữa. Thiên hạ sợ các ông, bởi vì dưới trướng của ông là súng ống, và binh sĩ, là đám cận vệ luôn luôn chứng tỏ trung thành tuyệt đối. Làm sao tôi biết, những người hầu kia, đã từng bị cấp chỉ huy bạt tai, đá đít vì đã quên đánh giày, giặt tất cho ông thầy hay để xe các ông bị dơ bẩn. Làm sao tôi có thể hiểu khi trường lính huấn luyện tôi phải một mình tự lực vươn lên, đừng bê tha cẩu thả, thì ngoài đơn vị, tôi trở thành thầy chủ. Con người sinh ra đều được bình đẳng. Không thể có tớ có thầy. Có phải vậy không?

         "Chúng tôi đã được huấn luyện để làm quen với cam khổ. Từ cam khổ con người mới hiểu được cái cam khổ của người khác. Chúng tôi đã được huấn luyện để hiểu thế nào là sức mạnh của kỷ luật. Từ kỷ luật chúng tôi mới có thể làm kẻ lãnh đạo chỉ huy. Nhưng trên thực tế, kỷ luật là con dao hai lưỡi. Nó tạo nên độc tài, độc tôn. Nó không cho phép kẻ cấp dưới được quyền nói lên tiếng nói. Nó dùng lon cấp để ra lệnh, mà người thuộc lấp không cần biết cái lệnh ấy hợp lý hay không hợp lý, đúng hoặc sai. Ta phải nhắm mắt.

         "Nhưng người Thủ Đức không phải chỉ biết nhắm mắt trong mọi trường hợp. Như trường hợp sau đây của một chuẩn úy khi anh yêu cầu Đại Bàng tản thương người chết và người bị thương ra khỏi vùng để rồi sau đó nhận được những lời của vị chỉ huy mặt trận:

         "... Tôi cầm tay Thảo. Cả tay chân anh mềm nhũng, hai mắt thâm đen và anh cũng không còn thấy được nữa. Hơi thở thoi thóp, miệng lắp bắp: "Thái ơi, Thái ơi ba chết!". Tôi lắc khẽ vai anh: "Thảo, Viện đây. Anh không sao đâu, trực thăng sẽ đưa anh về quân y viện ngay. Cố gắng lên!". "Thái ơi, Thái ơi! Ba chết!". Thảo cứ gọi tên đứa con trai cưng nhất của mình, hơi thở mõn dần, và anh đã trút hơi thở sau cùng lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 01 thán g 3 năm 1970. 

         "Thảo chết, Trung sĩ Trai bị thương với 4 người lính khác. Tôi báo ngay về trung tâm hành quân tại chi khu và yêu cầu phương tiện tản thương. Bạch Hổ bảo đã báo tiểu khu và chờ. Mặt khác lại ra lệnh:

         "- Đại Bàng chỉ định Victor (Viện) quyền Dzũng Chinh điều động các đứa con tiến chiếm các mục tiêu còn lại. Để một chấm (tiểu đội) ở lại trông chừng số "kilo" (người chết), "whisky (người bị thương).

         "Tôi trả lời qua máy là, không đồng ý bỏ lại dọc đường Dzũng Chinh và mấy đứa con bị thương, bởi em út họ không chịu đi nếu như việc tản thương không được thực hiên nhanh chóng. Bạch Hổ thông báo với Đại Bàng. Ông Đại Bàng bay lên vùng, và liên lạc thẳng với tôi:

         " - Đ.M.., tôi ra lệnh cho Dzũng Chinh phải tiến quân. Đ.M. cứ bỏ thằng "kilo" (người chết), với đám "whisky" (người bị thương) lại đó sẽ có  chuồn chuồn đến bốc. Bây giờ đám diều hâu đã vỗ cánh lên vùng, tất cả ưu tiên cho "Delta Quebec) (đỗ quân)... Đ. M. chú thi hành hay không? Đ.M. tôi đưa ra toà án mặt trận bây giờ.

         "Tôi nóng ran cả mặt. Một tư lệnh cuộc hành quân mà giải quyết sự việc với  những tính toán và ngôn ngữ như vậy khiến tôi bất bình, và chẳng hiểu xuất phát từ đâu, tôi đã nói qua máy:

         " - Đ.M. Đại Bàng chớ Đại Bàng đừng Đ.M. tôi như vậy. Ông muốn gì tôi thách ông đó. Bây giờ tôi nói dứt khoát với ông, tôi không đi cho đến khi nào có chuồn chuồn đến bốc Dzũng Chinh và mấy đứa con whisky của tôi..." .

         "Trên đây là một đoạn trong truyện (hồi ký) Điếu Thuốc Sau Cùng của Lê Cần Thơ đi trong đặc san Thủ Đức. Chúng tôi xin lược trích lại để chứng minh về sĩ khí của kẻ sĩ cùng tinh thần đồng đội của người lính VNCH nói chung cũng như người sĩ quan Thủ Đức nói riêng. Tại sao viên chuẩn úy của chúng ta lại có thái độ ngang ngược như vậy. Tại sao anh lại bày tỏ thái độ bất chấp như vậy. Bởi vì anh không thể bỏ rơi đại đội trưởng của anh và những ngưới lính của anh. Họ phải được cứu sống. Họ phải được đền bù sau khi họ đã hy sinh tất cả. Có lẽ bản chất của viên trung tá kia là người thô lỗ, nhưng không phải vì thế mà quên đi cái tình chiến hữu, đồng đội mà ông lẽ ra phải làm gương. Nếu như không có chiếc trực thăng xa lạ nào đó bay qua, thương tình đáp xuống để cứu độ thì có lẽ một hai mạng người sẽ kết thúc vì máu mất nhiều quá. Rõ ràng ông ta đã dùng oai quyền và lạm dụng oai quyền. Nhưng ông không hiểu con tim chúng tôi, những người sĩ quan trẻ tuổi tốt nghiệp từ quân trường Thủ Đức.

         "Con tim ấy tha thiết lắm. Nó đau cái đau của đồng đội. Nó hạnh phúc cái hạnh phúc của đồng đội. Nó làm tiểu đội, trung đội trở thành một mái nhà. Con tim ấy đã khiến người chuẩn úy khác dám bắn đàn bò của tư lệnh vùng, bởi anh thấy lính của anh gian khổ quá, đói rách quá:

       

       Ngày N. cộng sáu

quân lui về Nghĩa Hưng

áo quần đầy hương máu

tóc râu đầy hương rừng.

 

Đang đi, lệnh: đóng chốt

lập vòng đai an toàn

cho đại đội trừ bị

lùa bò cho tướng Toàn.

 

Bò mập lông vàng thẫm

rộn rịp tập xếp hàng

lính than thèm thịt quá

nổi máu, ta bắn càn.

 

Lon guigoz đầy giấm

củi rừng bắt lửa nhanh

miệng nhai lòng chảy máu

tự rủa mình gian manh.

 

Tướng Toàn không ký phạt

nhưng ta chẳng tha ta

một tuần không ăn thịt

không làm thơ ngắm hoa.

                    (Luân Hoán)

 

         "Đó là lý do tại sao chúng tôi hãnh diện. Với quê hương, chúng tôi đã mang trọn vẹn trái tim của chúng tôi để dâng hiến. Với đồng đội chúng tôi đã sống chết hết lòng. Ngay cả đối với những người có liên hệ với hàng ngũ bên kia, trái tim chúng tôi vẫn nảy nở lòng thương hơn là thù hận. Chúng tôi khác với đối phương, thay vì họ được nhồi sọ bởi Bác, Đảng, còn chúng tôi được học từ Chúa và Phật..." [TĐGTV từ trang 59 - 67].

 

         Xuyên suốt tập THỦ ĐỨC GỌI TA VỀ, vẫn lối văn thuật chuyện rất gần gũi thân quen, anh đã để cái tình đồng đội, cái tình con người vượt lên tất cả, Cái tình đó, ít nhất đã được un đúc trong con người một nhà giáo dạy công dân trước khi động viên vào lính do tình hình chiến sự ngày càng gia tăng ở miền Nam. Anh viết:

         "Đồi Tăng Nhơn Phú hay đồi 4100. Ai mang ta đến chốn này? Ai mang cả ngàn người cho mỗi khoá. Năm ấy, 1967, chiến tranh đã đến hồi cao điểm. Quân số Mỹ đã lên gần con số 500.000. Năm ấy, tháng giêng ngày 6, 16 ngàn nquân Mỹ và 14 ngàn quân VNCH đồng tấn công vùng Tam Giác Sắt, một mật khu bất khả xâm phạm của quân Cộng Sản. Ngày 29 tháng giêng, trực thăng Mỹ bắn lầm, giết 32 thường dân. Ngày 15 tháng 2, 13 trực thăng Mỹ bị bắn rơi trong một ngày. Ngày 14 tháng 4, tại Mỹ 10 ngàn người biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. 20 tháng 4, 20 phản lực Mỹ lần đầu tiên dội bom Hải Phòng. Ngày 19 tháng 5 máy bay Mỹ lần đầu tiên oanh tạc Hà Nội. 30 tháng 7, thống tướng Westmoreland tuyên bố sẽ chiến thắng nếu có thêm quân. Ngày 23 tháng 9, Nga ký thỏa ước viện trợ giúp đỡ tối đa Hà Nội. Ngày 26 tháng 9, Hà Nội bác bỏ đề  nghị Hoà Bình của Hoa Kỳ... Năm ấy, 1967. Năm mà những khí giới tối tân nhất của Mỹ, của Nga, Tàu được chuyển về miền Nam, trong khi người lính miền Nam vẫn còn thừa hưởng những khẩu súng trường bắn từng phát một từ đệ nhị thế chiến và đa số các tướng lãnh xuất thân từ quân đội Pháp. Năm mà những đứa học trò hay sinh viên ngồi trong lớp học hay giảng đường, thay vì chú tâm vào sách vở kiến thức thì phải nghĩ đến một hai thằng bạn thân đã tử trận. Năm mà cái chết không còn chừa một ai... [TĐGTV từ trang 24 - 26].

         Để rồi trong bài Ngày Cuối Cùng Với Thủ Đức, Trần Hoài Thư có đoạn đã viết:

         "Đêm cuối cùng bồng súng trước Trung Nghĩa Đài. Hai người một ca. Găng tay trắng. Dây biểu chương. Chiếc nón cat két chụp xuống mắt. Quai nón vòng quanh cằm. Đèn sáng thấy hình hai người sinh viên sĩ quan bắn cung. Tại sao ta lại muốn khóc. Không kèn, không trống, không điếu văn, không chiêu hồn tử sĩ. Chỉ có gió đêm. Gió của mùa hè năm 1967. Gió giữa vùng đồi lửa cát. Hồn tử sĩ gió vù vù thổi. Những người đàn anh của ta. Họ cũng đã một lần bồng súng đứng nghiêm như ta. Đêm mùa hè, trời trong, càng về đêm trời càng sao sáng. Ta đang đứng nghiêm nhưng con tim ta thì đang gọi. Hỡi người đàn anh, xin phù hộ cho người đàn em này. Gió càng về khuya càng lạnh. Cả một quân trường đang ngủ. Không, có những kẻ đang thức. Như ta, như khoá đàn em của ta.

         "Bởi vì họ thật sự gánh thế những tai ương mới. Họ không được may mắn. Và Trung Nghĩa Đài này, không phải được dành ra để tưởng niệm khoá đàn anh, mà cả khoá đàn em của ta. 5 sinh viên sĩ quan  khoá 25 đã chết vì bị mìn sau khi rời khỏi cổng số 9 chỉ cách đây không lâu.

         "Đêm cuối cùng, có ta là đứng canh cho người đã khuất. Trên bầu trời đen tối, giữa muôn vàn tinh tú kia, thỉnh thoảng một vài vì sao băng. Từ một chấm nào giữa cõi bao la, vì sao bỗng xẹt nhanh, từ đông sang tây từ nam qua bắc, từ cao xuống thấp. Hay là lúc này có những người đàn anh của ta đã tử trận, và linh hồn của họ đã rời khỏi vì sao định mệnh của họ rồi.

         "Ngày cuối cùng, nhét tờ sự vụ lệnh vào túi áo. Đại Đội 405 thám kích Sư đoàn 22 BB..." [TĐGTV từ trang 135 - 136]

 

         Đúng như vậy, người chuẩn úy vừa mới ra trường khoá 24 Thủ Đức ấy đã về đơn vị đầu tiên giữ chức vụ Trung đội trưởng thám kích thuộc đại đội 405, Sư đoàn 22 BB như phần tóm lược về mình ghi ở trang bìa 4 cuốn sách: "Trần Hoài Thư sinh tại Đà Lạt. Học Quốc Học Huế, Đại Học Huế và Sài Gòn. Động viên khoá 24 Thủ Đức. Giải thưởng sinh viên sĩ quan báo chí xuất sắc của khoá. Trung đội trưởng thám kích. Bị thương trận 3 lần. Bốn năm trong trại lao nhục. Cử nhân điện toán và Cao Học Toán. Hiện là chuyên viên điện toán IBM... (...).

         Và tại bìa sau của cuốn sách khác trước đó, tập Thơ QUÁN do Thư Ấn Quán ấn hành năm 2008 đã ghi:

         Trần Hoài Thư sinh 1942 tại Đà Lạt. Động viên khoá 24 Thủ Đức, phục vụ đại đội thám kích SĐ 22 BB từ năm 1967. Bị thương 3 lần. Từ 4-1975, sau 4 năm tù tội tại rừng khổ sai Trà Tiên, ông được thả về và mưu sinh bằng nghề bán cà rem dạo. Năm 1980, vượt biển và đến Hoa Kỳ. Ông trở lại trường, tốt nghiệp đại học với BS in Computer Sciences và MS in Applied Math. Và làm việc cho AT & T và IBM cho đến ngày về hưu. Trước năm 1975, ông có 4 tác phẩm truyện ngắn được xuất bản. Sau năm 1990, ông viết trở lại, và cho ra đời thêm 16 tác phẩm, trong đó có 7 tập thơ. Riêng thơ của ông thường xuất hiện trên Bách Khoa, Văn, Khởi Hành (trước 1975), và một vài tạp chí văn học ở hải ngoại sau 1975. Hiện nay ông chủ trương tạp chí Thư Quán Bản Thảo, cơ sở Thư Ấn Quán và Tủ sách Di Sản Văn Chương Miền Nam.

         Địa chỉ liên lạc: Thư Ấn Quán

                                    P.O. Box 58 South Brook, NJ 08880 USA

                                    Email: Sách Trần <tranhoaithu16@gmail.com>

 

         Cảm ơn nhà văn Trần Hoài Thư - một cựu SVSQ khoá 24 Thủ Đức, một con người xuất thân trường Bộ Binh Thủ Đức và trong lòng lúc nào cũng nghe lời thôi thúc để anh viết nên tác phẩm "THỦ ĐỨC GỌI TA VỀ", mà trong bài viết nầy, tôi đã trích dẫn rất nhiều đoạn văn anh đã viết [đặt trong dấu ngoặc kép (....)]. Nghĩ rằng anh cũng vui lòng cho tôi trích dẫn nhiều như vậy mới nêu bật được ngôn ngữ, văn phong tròn vẹn của anh, để giới thiệu trên đặc san của cựu SVSQ Thủ Đức khoá 5/68, một khoá đàn em của anh với 1752 SVSQ khắp bốn vùng chiến thuật vào trường Bộ Binh Thủ Đức theo lệnh Tổng Động Viên toàn quốc, với giấy gọi do Chuẩn tướng Bùi Đình Đạm, giám đốc Nha Động Viên ký tên tống đạt sau Tết Mậu Thân 1968. Tôi cũng nghĩ rằng, bài lược đọc nầy, anh cũng vui lòng cho phép tôi gởi đăng trên một vài báo khác viết kỷ niệm về đời quân ngũ như KBC, hay Chiến Sĩ Cộng Hoà năm xưa.

 

         Houston, ngày 20 tháng 5 năm 2009

 

           TRẦN NGUYỄN        

       một bút hiệu khác của LHV - LCT - HVT...

          cựu SVSQ/TB THỦ ĐỨC khoá 5/68

____________________

Sơ Quát về Năm Giai Vị Tu Tập trong Phật Đạo qua Duy Thức Học

Khánh Hoàng ____________________

 

Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả:  tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài  tụng, mỗi bài  có 4 câu, mỗi câu có 5 chữ (mỗi bài có 20 chữ); trong đó có 5 bài tụng (100 chữ), thuộc phần Duy Thức Hạnh đã nêu rõ về 5 giai vị tu tập trong Phật Đạo.  Đó là 5 giai vị với tên gọi là: Tư Lương vị, Gia Hạnh vị, Thông Đạt vị, Tu Tập vị, và Cứu Cánh vị. Năm giai vị này bao quát con đường tu tập đưa đến quả vị giải thoát cứu cánh trong đạo Phật. Bài viết sau đây chỉ là sự tổng hợp, góp nhặt, cảm nhận, suy luận có khi mang tính chủ quan  từ những điều đã thu thập được nơi một số kinh luận, các bài giảng thuyết; các giai đoạn tu tập cũng chỉ được nêu ra một cách rất khái quát  …nên chỉ có tính cách dùng để tham khảo.

             Giai vị đầu tiên của Duy Thức Hạnh là Tư Lương vị. Được gọi tên là "Tư Lương" vì đây là giai đoạn xây dựng, tạo lập hành trang, vật thực cần thiết cho các giai trình tu tập sau đó. Trong giai đoạn Tư Lương,  hành giả bắt đầu tìm tòi,học hỏi, suy nghĩ, tư duy, thắc mắc, lễ lạy và cúng dường Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) cùng các Thiện Tri Thức, luận bàn về Phật pháp nơi các kinh sách, các vị tôn đức tăng ni, các vị thiện tri thức nơi các tôn tự, các chùa, ,các phương tiện truyền thông có được...  Điều này tương hợp với Tam Huệ Học (Văn- Tư- Tu) trong giáo lý đạo Phật: Tư Lương vị chính là toàn phần "Văn" (học hỏi, tìm hiểu kỹ càng, tường tận giáo pháp qua nghe giảng pháp, đọc kinh sách...);  là một phần "Tư" (bắt đầu có được suy nghĩ, phân biệt, thắc mắc, xác định, phủ định, vấn đáp về giáo pháp) ; và là một phần  “Tu” (những bước tu tập sơ khởi như qui y Tam Bảo, thọ trì 5 giới, thọ Bát Quan Trai, ăn chay, niệm Phật, ngồi Thiền...).

        Bài tụng thứ nhất (Tư Lương vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Nãi chí vị khởi thức

            Cầu trụ Duy Thức tánh

             Ư Nhị Thủ tùy miên

             Do vị năng phục diệt"

       Tạm dịch:

             "Đến khi chưa khởi thức

              Mong  trụ tánh Duy Thức

             Còn hai Thủ tiềm ẩn

             Do chưa hàng phục, đoạn trừ"

       Ý nghĩa chi tiết 4 câu của Tư Lương vị được ghi nhận là:

       Câu 1: "Nãi chí vị khởi thức" (Đến khi chưa khởi thức): “Thức chưa khởi” ở đây chính là thức A Lại Da. Vì ở giai đoạn này, Ý thức (Thức Thứ Sáu) hiện có của hành giả cùng với Tiền Ngũ Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) còn đang dong ruổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) và còn bị ngăn che với A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) bởi Mạt Na thức (Thức Thứ Bảy).

       

      Tựu trung, thức A Lại Da có 7 đặc điểm chính yếu như sau:

             1. A Lại Da thức là thể trung gian,chuyển tiếp, cầu nối giữa Chơn Tâm (Giác Thể thanh tịnh, Chơn Như, Phật Tánh,  Như Lai Tàng…) và Vọng Tâm.  Vọng Tâm chính là 8 thức Tâm Vương bao gồm A Lại Da và 7 Chuyển Thức: Mạt Na thức, Ý thức, Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận (tác giả = tổ Mã Minh (80-150), Dịch giả Phạn- Hán = ngài Chơn Đế Tam Tạng(499-569), dịch giả Hán- Việt = Hòa thượng Thích Thiện Hoa(1918-1973), sự liên hệ giữa Chơn Tâm và A Lại Da thức được diễn tả như sau: "Do không thật biết pháp "Chơn Như" nên tâm Bất Giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có thật thể, nên chẳng rời Bản Giác".

            2. Do vì từ nơi A Lại Da thức mà có ra sự lưu xuất, hình thành nên 7 Chuyển Thức nên A Lại Da còn có tên gọi khác là Căn Bản Thức. Căn Bản Thức chỉ mới có 5 tâm sở sơ khởi, sơ khai có dụng năng còn rất yếu ớt gọi là 5 Biến Hành tâm sở bao gồm: Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng, và Tư. Vì thế, cảnh giới của A Lại Da thức được mô tả là "vô phú, vô ký" (không có chỗ nương tựa, chưa có phân biệt thiện ác) nên là rất nhẹ nhàng, bao la, mênh mang, hồn nhiên, không vướng mắc, không trụ chấp, không phân biệt thiện ác, dở hay, tốt xấu.

            3. Tuy nhiên, A Lại Da thức chính là cội nguồn sâu xa nhất của Vọng Tưởng vì là nơi khởi phát ra 5 tâm sở Biến Hành trong đó có tâm sở Tưởng và tâm sở Tư, bản chất cố hữu của các loại Vọng Tưởng.

            4. A Lại Da thức có công năng tích chứa chủng tử nghiệp thức nên  A Lại Da còn có tên gọi khác  là “Tàng Thức” ( hay Tạng Thức, Thức Tích Chứa, Thức Kho Tàng) hoặc là "Nhất Thiết Chủng Thức" (Thức Chứa Tất Cả Chủng Tử).  Các chủng tử đã được gây tạo bởi 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) rồi được tàng trử, tích chứa nơi A Lại Da thức thật an toàn, không bị mất mát, hư hao từ đời này qua đời khác trong vô lượng kiếp sống của tất cả chúng sinh.

           5. Với sự biến hành của kho chủng tử, thức A Lại Da còn có tên gọi là Dị Thục Thức. Do vì các chủng tử này chính là đầu mối của chu trình nhân quả luân hồi, nôm na gọi là "Quả Báo". Nhưng từ nhân đến quả có các điểm dị biệt về thời gian ("Dị Thời nhi Thục"), về hoàn cảnh ("Dị Biến nhi Thục"), và về phẩm loại ("Dị Loại nhi Thục").

           6. A Lại Da thức là tâm thức vi tế, sâu thẳm nhất, và bị ngăn che bởi 2 tầng lớp là Mạt Na thức (Thức tư lương chấp ngã) và Ý thức (Thức tư duy chấp pháp) nên rất khó nhận biết được trong đời sống thường nhật. Chỉ có các vị Thánh, từ giai vị Tu Đà Hoàn ( Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Sơ Địa ( Bồ Tát thừa) mới có thể thấy biết đươc từng phần mà thôi. Đây là các bậc Thánh đã hoàn tất giai đoạn Kiến Đạo, giai đoạn đã thấy biết rõ ràng về con đường Tu Đạo chơn chánh do đã hoàn tất đoạn trừ xong 5 Kiến Hoặc (Thân kiến, 2. Biên kiến, 3. Kiến thủ, 4. Giới cấm thủ, và 5. Tà kiến), đã ngộ nhập vào A Lại Da thức, đã mấp mé thấy được Chơn Tâm, Phật Tánh dù đây chỉ mới là từng phần, chưa là trọn vẹn. 

           7. A Lại Da thức chỉ được xả hết công năng chấp trì chủng tử nghiệp thức khi tu tập đạt đến giai vị A La Hán(Thanh Văn thừa) hoặc Bồ Tát Bát Địa (Bồ Tát thừa), các bậc đã hoàn tất tốt đẹp chặng đường Tu Đạo. Lúc này, A Lại Da thức được gọi tên là "Bạch Tịnh thức" hay là “Vô Cấu thức”.  

            

       Câu 2: "Cầu trụ Duy Thức tánh" (Mong trụ tánh Duy Thức): đây là nét đặc sắc nhưng rất quan yếu trong tu tập Phật đạo cho hành giả Tư Lương vị. Đó là hành giả cần phát tâm mong cầu thấy được, ngộ nhập được vào tánh Duy Thức, vào A Lại Da thức.  Điều này đương nhiên hàm chứa 2 ý nghĩa:  Ý nghĩa thứ nhất là hành giả cần có lòng tin chơn chánh (chánh tín) về Phật tánh và về tánh của thức A Lại Da. Hai tánh này vốn có tương quan gắn bó mật thiết với nhau như đã nêu ở phần trên. Ý nghĩa thứ hai là hành giả cần phát tâm ham thích, mong muốn, khát khao được hội nhập, an trụ vào thức A Lại Da. Tâm mong muốn, ham thích này cũng chính là bước khởi đầu của Dục Như Ý Túc, 1 trong 4 Thần Túc (Tứ Thần Túc : 1.Dục Thần Túc, 2. Tinh Tấn Thần Túc, 3.Tâm Thần Túc, 4. Quán Thần Túc), cũng là 4 trong 37 Phẩm Trợ Đạo, Đạo Đế của Tứ Diệu Đế, giáo lý căn bản của Phật Đạo.  Tâm ham thích ở đây có thể xem là một dạng thái của tâm tham nhưng  không phải là tâm tham phiền não , một trong 5 Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến) của thế gian,  vốn là tâm Ý thức bôn ba bám chấp, chạy đuổi theo 6 trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) ở bên ngoài. Trái lại, nó là tâm ngược chiều với tâm tham Ý thức phiền não vì là tâm hướng nội quay về hội nhập với A Lại Da thức. Do vậy, tâm ham thích hướng nội này  được xem là một dạng thái sơ khởi của Định (Tam Ma Địa), nên còn có tên gọi là "Dục Tam Ma Địa" hoặc tên gọi đầy đủ là "Dục Tam Ma Địa Đoạn Hành Thành Tựu Thần Túc”. Có thể nói nôm na đây là Tham để nhập Định, không là Tham phiền não, khổ đau luân hồi.  Như thế, ở giai đoạn Tư Lương, hành giả ngoài sự học hỏi, hiểu biết về Phật pháp, về Duy Thức còn cần phát khởi tín tâm chân chính và phát khởi lòng ưa muốn, ham thích ngộ nhập vào A Lại Da thức nữa.

        Câu 3 và câu 4: “Ư Nhị Thủ tùy miên, Do vị năng phục diệt” (Còn hai Thủ tiềm ẩn  Do chưa hàng phục, đoạn trừ). Thủ là bám giữ (thủ chấp). Hai Thủ gồm Năng Thủ (chủ thể thủ chấp) và Sở Thủ (đối tượng bị thủ chấp). Hai Thủ này được cảm nhận là công năng và tính chất chủ yếu của Mạt Na thức. Chúng là 2 dạng thể chuyển hành tinh khôi nơi tâm thức chúng sinh: Mạt Na thức (Năng Thủ) đã chấp thủ Kiến Phần của A Lại Da thức (Sở Thủ) làm bản ngã. Từ đây bắt đầu thấy ra có cái ta (Ngã) và có những cái không phải là ta (Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả). Như thế, muốn trở về hội nhập vào A Lại Da thức, Ý thức cần hoàn tất 2 việc: Việc thứ nhất là xa rời sự ràng buộc, tham chấp vào cảnh trần phiền não của Ý thức; đây được xem như tương ưng với công phu "Ly Sanh Hỷ Lạc" của cảnh giới Sơ Thiền. Việc thứ hai là cần vượt qua sự cản ngại của Mạt Na thức, nghĩa là cần khắc phục và đoạn trừ 2 thủ chấp, Năng Thủ và Sở Thủ, nơi Mạt Na thức. Việc thứ nhất cần được hoàn tất ở giai vị Tư Lương. Sau đó, việc thứ hai sẽ bắt đầu được hoàn tất ở các giai vị sau.  Nên bài tụng nói là ở giai vị Tư Lương, hai Thủ còn hiện hữu ở trạng thái tiềm ẩn, do chưa được hàng phục, đoạn trừ.

 

Bài tụng thứ hai (Gia Hạnh vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

              "Hiện tiền lập thiểu vật

              Vị thị Duy Thức tánh

             Dĩ hữu sở đắc cố,     

            Phi thật trụ Duy Thức"

      Tạm dịch:

              "Lúc này đã tạo được chút thành tựu

              Chưa là Duy Thức tánh

             Do đã có chỗ sở đắc

             Không là thật trụ Duy Thức"

      Ý nghĩa 4 câu của Gia Hạnh vị được ghi nhận là:

            Câu 1 và câu 2: " Hiện tiền lập thiểu vật Vị thị Duy Thức tánh " (Lúc này đã tạo được chút thành tựu,  Chưa là Duy Thức tánh): Ở giai đoạn này, hành giả đã tạo thêm được một số thành tựu trên con đường tu tập. Cảm nhận theo  Biện Trung Biên Luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt),  các thành tựu tu tập này bao gồm các thành tựu công phu tu tập về 4 Niệm Xứ, 4 Chánh Cần, 4 Như Ý Túc, 5 Căn, 5 Lực, và Tứ Gia Hạnh (tổng cọng là 22 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm). Theo luận Hiển Dương Thánh Giáo (Tác giả: Đại sĩ Vô Trước (310-390), Dịch giả Phạn- Hán: Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), Dịch giả Hán- Việt: Quảng Minh), và theo Biện Trung Biên luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt) , ý nghĩa của 22 phẩm này được ghi nhận tổng quát như sau:

       1) Tứ Niệm Xứ: là 4 chỗ qui huớng, tập trung tâm thức  để giảm thiểu bớt đi tạp niệm  và để tăng cường thêm sức Định, sức Huệ.  4 chỗ đó là:

             1. Thân: tâm niệm qui hướng về nhục sắc thân, theo sát và rõ biết về thân, về hơi thở vào ra nơi thân, cảm nghiệm được sự Bất Tịnh nơi thân của chính mình.

            2.  Thọ: tâm niệm qui hướng và rõ biết về các cảm thọ nơi thân và nơi tâm của chính mình. Có 5 cảm thọ chính là Ưu thọ, Khổ thọ, Hỷ thọ, Lạc thọ, và Xả thọ, nhưng tất cả rõ ra đều chỉ là khổ đau, não phiền.

            3. Tâm : tâm niệm qui hướng và rõ biết về các hành chuyển, các trạng thái Vô Thường, các sắc thái hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.

           4. Pháp: tâm niệm qui hướng và rõ biết về dạng loại, hành trạng, bản chất Vô Ngã của các pháp hiện khởi ra trong tâm thức của chính mình.

     2) Tứ Chánh Cần: bao gồm 4 pháp rèn luyện tâm thức qui hướng về chỗ thiện lành, lìa xa các nẻo ác trược. 4 pháp này là:

          1. Pháp ác đã sanh thì khởi ước muốn, nỗ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để đoạn trừ chúng,

          2. Pháp ác chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để giữ cho chúng không sanh,

         3. Pháp thiện chưa sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để phát sinh chúng,

         4. Pháp thiện đã sanh thì khởi ước muốn, nổ lực phát khởi Chánh Cần, giục tâm, giữ tâm để an trú, không quên lãng, tu viên mãn, tăng trưởng rộng lớn thêm.

     3) Tứ Như Ý Túc (còn gọi là “Tứ Thần Túc”) bao gồm 4 thứ : Dục Như Ý Túc, Cần (Tinh Tấn) Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc. Ý nghĩa Tứ Như Ý Túc được ghi nhận theo Hiển Dương Thánh Giáo luận là:

          1. Dục Như Ý Túc: là Dục Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Dục Như Ý Túc và ba Như Ý Túc còn lại đều là các loại Tam Ma Địa (Định). Dục Như Ý Túc được gọi là Dục Tăng Thượng Tam Ma Địa. Định này bắt nguồn từ công phu tu tập Tứ Chánh Cần, từ nơi tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên. Định sau đó được tiếp tục triển chuyển ra thành Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh.

         2. Cần Như Ý Túc: là Cần Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là tinh tấn, dũng mãnh, nhiệt thành, siêng năng tu tập 8 pháp Đoạn Hành để chứng đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh. Tám pháp Đoạn Hành là pháp tu căn bản của Tứ Như Ý Túc, đặc biệt ở 3 Như Ý Túc sau (Cần Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, và Quán Như Ý Túc). Tám pháp Đoạn Hành bao gồm:

        (1) Dục : là tâm mong muốn các ác pháp bị trừ diệt, không còn hiện hành và mong muốn các pháp thiện được hiện hành và tăng trưởng thêm lên.

       (2) Cần (Tinh Tấn): là siêng năng tu tập Xa Ma Tha (Chỉ) và Tỳ Bát Xá Na (Quán).           

       (3) Tín: là nhân tố để khởi Dục, là sở nhân cho Dục, do từ Tín mà có Dục sanh khởi.

      (4) An: là nhờ có Tinh Tấn mà thân tâm không còn nặng nề, thô nặng mà trở nên nhẹ nhàng, thư thái để có thể kham nhiệm.

      (5) Chánh Niệm: là phòng hộ tâm hôn trầm và trạo cử của Tùy Phiền Não khiến cho tâm ghi nhớ, không quên.

      (6) Chánh Tri: là tâm liền nhận ra, nhận thấy, nhận biết bất cứ khi nào có Tùy Phiền Não hiện hành.

      (7) Tư: là tâm tạo tác trong khi Tịnh Chỉ (tâm chán ghét các cảnh sở duyên nổi lên từ trạo cử) và khi Sách Cử (tâm phấn chấn trở lại sau khi hôn trầm).

     (8) Xả: là tâm bình đẳng, chánh trực, an trú Bất Nhiễm Ô, đã rời xa trạo cử, hôn trầm.

    3. Tâm Như Ý Túc: là Tâm Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là hành giả tu tập hạnh Xa Ma Tha, tư duy nội pháp (các Tưởng Uẩn, Hành Uẩn của 5 Uẩn), đắc Tâm Trú Nhất Cảnh Tánh mà thành tựu Tam Ma Địa.

   4. Quán Như Ý Túc: là Quán Tăng Thượng nên đắc Tam Ma Địa. Đây là do công phu tu tập quán sát mà thành tựu Tam Ma Địa: hành giả nghe học Chánh Pháp, ghi nhớ rồi dùng trí tuệ giản trạch, quán sát, biến giác quán sát mà đắc Tam Ma Địa”.

Các thành quả này là tiền đề cơ bản để xây dựng và hình thành nên hai phần tiếp theo trong tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm là Ngũ Căn và Ngũ Lực.

      4) Ngũ Căn (Năm Căn) và Ngũ Lực (Năm Lực): bao gồm Tín Căn và , Tấn Căn và, Niệm, Căn và, Định Căn và, và Tuệ Căn và. Chữ “Căn” ở đây có thể được xem là căn nguồn, cội nguồn, căn cứ địa, căn cứ xuất phát, nơi khởi phát ra 5 Lực, 5 khả năng, 5 trạng thái hoạt dụng thiện lành của tâm thức là Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ . Ý nghĩa của 5 Căn và 5 Lực được sơ lược ghi nhận như sau:

            1. Tín Căn và Tín Lực: là do Thế Gian Đạo khiến tâm thanh tịnh, trong sáng, không dơ bẩn, lìa Tùy Phiền Não, được trú Bất Động. Rồi sau cầu Thánh Đế Hiện Quán đễ vĩnh đoạn Tùy Miên, tu tập các phương tiện đối trị, nhờ đó tăng khởi Thượng Tín Căn, Thượng Tín Lực.

           2. Tấn Căn (còn gọi là Chánh Cần Căn) và Tấn Lực: là dựa vào Tín Căn và Tín Lực, tu tăng tiến dũng mãnh, cùng hành chuyển với Tín Căn và Tín Lực.

          3. Niệm Căn và Niệm Lực: là dựa vào Tấn Căn và Tấn Lực nên trí được sáng tỏ, không quên lãng, cùng hành chuyển với Tấn Căn và Tấn Lực.

         4. Định Căn (còn gọi là Đẳng Trì Căn) và Định Lực: là dựa vào Niệm Căn và Niệm Lực, Tâm Trú Nhất Cảnh, cùng hành chuyển với Niệm Căn và Niệm Lực.

         5. Tuệ Căn và Tuệ Lực: là dựa vào Định Căn và Định Lực, Tuệ giản trạch các pháp, cùng hành chuyển với Định Căn và Định Lực.

    5) Tứ Gia Hạnh: bao gồm 4 giai vị là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị, và Thế Đệ Nhất vị.

         1. Noãn Vị: (Noãn là ấm nóng) là giai đoạn tâm thức cảm thấy được ấm nóng do từ công phu tu tập 5 Căn, 5 Lưc. Đây là giai đoạn báo hiệu sắp có lửa, ánh sáng nơi Thánh Đạo. Ở giai vị này, hành giả quán thấy các pháp tự tướng, các pháp cộng tướng đều chỉ là ý ngôn mà hoạch đắc Trí Pháp Minh, quán sát được chân xác các cảnh sở duyên của các pháp.

         2. Đảnh Vị: (Đảnh là đỉnh đầu, đỉnh núi) là từ Noãn Vị được tăng trưởng rồi thành mãn mà chuyển lên.

         3. Nhẫn Vị: Nhẫn là xác nhận (nhẫn khả) các pháp chỉ toàn là duy tâm, nên từ đây không còn bị thoái đọa trên con đường tu tập nữa.

        4. Thế Đệ Nhất Vị: là thấy rõ cả thế gian chỉ là pháp hữu lậu. Trong các pháp hữu lậu này, pháp Hiện Quán của Bồ Tát là hơn cả nên gọi là Thế Đệ Nhất. Đến đây, Bồ Tát tu tập pháp Hiện Quán Thánh Đế, quán sát thành công nên thấu rõ được Lý Tứ Đế ở ba cõi (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới) mà có đủ được 16 Tâm (16 Trí) cần thiết để “Thấy Đạo”(Kiến Đạo), đắc Thánh vị. Bồ Tát hội nhập Cảnh Không, hòa nhập vào A Lại Da thức nên khiến 7 Chuyển Thức không còn phát sinh, làm điều kiện đưa đến Định Vô Gián để phát sinh Trí Vô Lậu, gọi là đắc nhập Kiến Đạo và Chánh Tánh Ly Sanh. Đắc nhập Kiến Đạo được gọi là đã chứng Thánh vị, đắc quả vị Tu Đà Hoàn (bên Thanh Văn thừa), tương đương với quả vị Bồ Tát Sơ Địa (quả vị đầu tiên trong 10 quả vị Bồ Tát Đăng Địa bên Bồ Tát thừa).

       Câu 3 và câu 4: “Dĩ hữu sở đắc cố, Phi thật trụ Duy Thức” (Do đã có chỗ sở đắc, Không là thật trụ Duy Thức): Chỗ thành tựu tu tập trong 24 phẩm Trợ Đạo vừa nêu trên được gọi là chỗ "Sở Đắc". Đắc chính là 1 trong 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành, được kể đến đầu tiên trong Duy Thực 24 Tâm Bất Tương Ưng Hành bao gồm: 1. Đắc, 2. Mạng Căn, 3.Chúng Đồng Phận, 4. Dị Sanh Tánh, 5. Vô Tưởng Định, 6. Diệt Tân Định, 7. Vô Tưởng Báo, 8. Danh Thân, 9. Cú Thân, 10. Văn Thân, 11. Sinh, 12. Trụ, 13. Lão, 14. Vô Thường, 15. Lưu Chuyển, 16. Định Vị, 17. Tương Ưng, 18. Thế Tốc, 19. Thứ Đệ, 20. Thời,  20.Phương,  22. Số, 23.Hòa Hợp, 24. Bất Hòa Hợp.  Được gọi là "Bất Tương Ưng Hành" vì 24 Tâm này không tương ưng, không lệ thuộc vào bộ ba "Căn-Trần-Thức" hòa hợp mà sinh khởi.  Nói cách khác, tâm thức của hành giả đã không còn bám đuổi theo 6 trần cảnh bên ngoài, mà quay ngược vào bên trong nội tâm, hướng về Mạt Na thức và ra sức vượt qua Mạt Na thức. Tựu trung, Mạt Na thức có 6 đặc điểm chính yếu, tạm nêu như sau:

                1. Mạt Na thức là thức đầu tiên của 7 Chuyển Thức triển chuyển từ A Lại Da thức (Thức Thứ Tám) nên nó còn có tên gọi là Thức Thứ Bảy. Mạt Na thức có tánh Hữu Phú Vô Ký; gọi là Hữu Phú vì nó có chỗ nương dựa vào nơi thức A Lại Da, gọi là Vô Ký vì nó không  có công năng phân biệt thiện ác như  Ý thức.

               2. Mạt Na Thức là thức trung gian giữa A Lại Da thức và Ý thức nên nó còn được gọi là Ý Căn (Căn nguồn của Ý thức). Gọi là Căn nguồn của Ý thức, vì Mạt Na thức có công năng đem các chủng tử từ Tạng thức A Lại vào nơi Ý thức, khiến Ý thức có thêm cơ sở cho hoạt dụng phân biệt cảnh trần. Ngoài ra, cũng chính Mạt Na thức đem các pháp hiện hành từ nơi Ý thức mà truyền ngược vào Tạng thức, biến thành chủng tử thêm cho kho Tạng thức, nên nó lại còn có tên là ”Truyền Tống thức”.

              3. Mạt Na thức có tánh chấp trụ, đầu mối của tâm phan duyên và tâm phân biệt:   Mạt Na thức chấp Kiến Phần của A Lại Da làm tự ngã nên có ra Ngã Tướng đầu tiên. Rồi từ Ngã Tướng này lại có sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) mà tiếp tục phát triển tựu thành 3 tướng còn lại là Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng. Sự tựu thành và phát triển ra 4 tướng (Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả) được cảm nhận là ý niệm về "Chúng Sanh Trược" ở kinh Thủ Lăng Nghiêm.

            4. Dưới ảnh hưởng tác động từ vô lượng chủng tử nghiệp thức, Mạt Na thức cũng có tánh tuôn chảy không ngửng nghỉ giống như ở A Lại Da thức. Nó thường được ví như tiếng nói thầm thì liên tục đêm ngày, lúc tỉnh thức và cả lúc mộng ngủ; hoặc ví như nước liên tục rỉ chảy từ ống nước ăn thông, nối liền vào biển lớn.

           5. Mạt Na thức cũng chính cưu mang sẵn trong nó tính chất phiền não. Điều này được thể hiện qua sự hiện diện nơi Mạt Na thức của 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não (Tham, Si, Mạn, Ác Kiến) và của 8 tâm sở Đại Tùy Phiền Não (Trạo Cử, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chính Tri). Tổng cọng là 12 tâm sở, chiếm đến 2 phần 3 trong 18 tâm sở cố hữu của Mạt Na thức (gồm 12 tâm sở Phiền não và có thêm 5 tâm sở Biến Hành cùng 1 tâm sở Biệt Cảnh Huệ).

          6. Mạt Na thức chính là lớp ngăn che ở giữa Ý thức và A Lại Da thức. Nó khiến tâm hành giả không thể cảm nhận, còn mờ mịt về A Lại Da thức và về Như Lai Tạng tâm nên nó cũng thường được nhà Thiền ví như Thùng Sơn Đen, Đầu Sào Trăm Trượng, Vô Thủy Vô Minh… Muốn cảm nhận và thể nhập vào A Lại Da thức, tâm thức hành giả cần phải vượt qua lớp rào chắn Mạt Na thức Vô Thủy Vô Minh, tức là vượt qua lớp rào chắn tư lương chấp ngã này. Khi đó, tâm hành giả không còn có chấp Ngã nữa, tâm được hòa nhập vào thức A Lại Da, trụ vào Duy Thức tánh.

       Do vậy, các thành tựu nơi Tứ Gia Hạnh vị này cũng chỉ được xem là "chút ít", chưa có thể hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức nên bài tụng nói " Chưa là Duy Thức tánh”. 

 

Bài tụng thứ ba (Thông Đạt vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Nhược thời ư sở duyên

            Trí đô vô sở đắc

             Nhỉ thời trụ Duy Thức

            Ly Nhị Thủ tướng cố "

       Tạm dịch:

              "Nếu khi đối trước cảnh

            Trí đều không có chỗ đắc

            Lúc đó trụ Duy Thức

            Đã lìa tướng Hai Thủ"

       Thông Đạt vị tương ưng với quả vị Kiến Đạo nơi Bồ Tát Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa), quả vị đầu tiên trong 10 Thánh vị Đăng Địa của Thập Địa Bồ Tát.  Bên Thanh Văn thừa, quả vị này tương ứng với Sơ Quả vị Tu Đà Hoàn. Gọi là Kiến Đạo bởi vì bắt đầu từ quả vị này, tâm Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, đã không còn có chấp Ngã nên Bồ Tát đã bắt đầu sống được với phần nào Giác Tánh, đã thấy biết  ("Kiến") rõ con đường ("Đạo") tu tập chơn chánh thâm sâu nhất trong Phật Đạo.  Bậc Sơ Quả Tu Đà Hoàn, còn gọi Nhập Lưu hay Thất Lai, nhờ vào tuệ giác có được từ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh nên đã tận diệt ba kiết sử Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ; nhưng các vị còn phải có bảy lần tái sanh trở lại vào Dục Giới để tiếp tục con đường tu tập tối thượng. Theo kinh Hoa Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: Đại sư Thật Xoa Nan Đà (652-710), Dịch giả Hán-Việt: Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Bồ Tát Sơ Địa được  goi tên là Hoan Hỷ Địa vì từ nay, Bồ Tát được vui mừng rất lớn (hỷ duyệt, hân khánh...) do đã bắt đầu khởi nhận được trí Bát Nhã, thấy rõ con đường Tu Đạo. Các Ngài mong cầu Phật Trí, luôn nghĩ tưởng về Tam Bảo, không còn tham luyến danh sắc, ưa thích thực hành Bố Thí Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), Bố Thí Nhiếp Pháp, Ái Ngữ Nhiếp Pháp (2 trong 4 Tứ Nhiếp Pháp), Tứ Vô Lượng Tâm (Từ Bi Hỷ Xả) nên tâm các Ngài được Vô Úy, không còn kinh sợ nơi thế gian, sinh tử.  Đây chính là " KIẾN ĐẠO KHỞI TU " (thấy ra con đường Đạo mà bắt đầu hành trì pháp Tu Tập tối thượng ) trong đạo Phật. Qui luật tất yếu ở đây là cần phải thấy ra con đường ("Kiến Đạo"), sau đó mới có thể bước đi trên con đường ("Tu Đạo").

 

           Qua Biện Trung Biên Luận và qua Hiển Dương Thánh Giáo Luận, giai vị Kiến Đạo Tu Đà Hoàn chuyên chú tu tập về Thất Giác Chi, 7 phẩm trong 37 Trợ Đạo phẩm sau khi đã hoàn tất tốt đẹp 22 phẩm ở các giai vị trước. Thất Giác Chi được định nghĩa là “Bảy chi hổ trợ cho Tuệ Giác”. Bảy chi này bao gồm:

                1. Niệm Giác Chi: là chi phần sở y cho Tuệ Giác, là tâm trí sáng tỏ Thánh Đế, không quên Thánh Đế. Đây là do đã có đủ thiện lực để Kiến Đạo hiện tiền, đắc nhập xuất thế Vô Công Dụng, Vô Phân Biệt.

                2. Trạch Pháp Giác Chi: là chi phần tự tánh của Tuệ Giác, là do đã có Tuệ Giác vô phân biệt, vô công dụng nên y chỉ nơi Niệm, cùng Niệm câu hành, vì thế hiểu rõ, giác ngộ Thánh Đế.

               3. Tinh Tấn Giác Chi: là chi phần xuất ly của Tuệ Giác, là sanh tâm dũng mãnh nơi Thánh Đế.

                4. Hỷ Giác Chi: là chi phần lợi ích của Tuệ Giác, là có tâm hỷ duyệt nơi Thánh Đế.

                5. Khinh An Giác Chi: là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, có thể là Tuệ tâm sở, là có thân tâm kham nhiệm ở trong Chân Đế Hiện Quán (Kiến Đạo ly Tam Giới), lấy tánh Kham Năng làm chỗ dụng công tu tập.

                6. Định (Tam Ma Địa) Giác Chi:  là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là chỗ sở y của Vô Nhiễm để có được Chuyển Y, là có tâm trú Nhất Cảnh Tánh ở trong Chân Đế Hiện Quán.

                7. Xả Giác Chi: cũng là chi phần Vô Nhiễm của Tuệ Giác, là tự tánh của Vô Nhiễm , là có tâm bình đẳng, tâm chánh trực, tâm không chuyển động ở trong Chân Đế Hiện Quán. Nơi Xả Giác Chi, các phiền não tạp nhiễm đều bị đoạn trừ nên hiển lộ tự tánh Vô Nhiễm .

Ý nghĩa 4 câu của Thông Đạt vị được ghi nhận là:

            Câu 1: " Nhược thời ư sở duyên " (Nếu khi đối trước cảnh): Câu này có 2 điểm quan trọng sau:

                   1. Chữ "Thời" trong câu kệ này cũng chính là một trong 24 món Tâm Bất Tương Ưng Hành pháp, giống như chữ "Đắc" đã đề cập ở phần trên: Còn có "Thời" là còn chưa vượt thoát khỏi tầm tác động, ảnh hưởng của thức A Lại Da dù trí Bát Nhã đã được hé lộ.

                  2. Cảnh sở duyên của Thông Đạt vị có thể được phân biệt ra 2 loại: Loại 1 vẫn còn là 6 cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) của phần Tư Duy nơi Ý Thức hướng ngoại; loại 2 là cảnh giới của A Lại Da thức chỉ với 5 tâm sở Biến Hành và với 1 Xả Thọ nơi Ý thức hướng nội đã vượt qua "thùng sơn đen" Tư Lương chấp ngã Mạt Na thức. Nói cách khác, Thông Đạt vị là bậc Thánh đã có thêm được Thiên Nhãn, Huệ Nhãn nhưng Nhục Nhãn vẫn không mất.

          Câu 2: " Trí đô vô sở đắc " (Trí đều không có chỗ đắc):

                 "Trí không có chỗ đắc" này được cảm nhận chính là trí Bát Nhã. Trí Bát Nhã tự hiển bày khi tâm hành giả đã có đầy đủ 5 Căn, 5 Lực, Tứ Gia Hạnh vị và khi A Lại Da không còn bị Mạt Na thức che khuất.  Tựu trung, trí Bát Nhã có 6 đặc điểm sau:

              1. Trí Bát Nhã là Trí của các bậc Thánh, của các Bồ Tát Đăng Địa (Thập Địa Bồ Tát), bắt đầu từ Bồ Tát Sơ Địa (tương đương với quả vị Tu Đà Hoàn bên Thanh Văn thừa) lên đến Bồ Tát Bát Địa (tương đương với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa). Trí này vượt hẳn qua trí tuệ thế gian: phàm phu và ngay cả các nhà bác học, thông thái của thế gian cũng không thể biết được Trí Bát Nhã khi chưa Kiến Đạo. Đến giai vị Thiện Huệ (Cửu Địa), không còn gọi là trí Bát Nhã vì Bồ Tát đã được thể nhập vào Phật trí bất tư nghì.

            2. Trí Bát Nhã là Trí đã khuất phục và đã vượt qua 2 chấp trụ cơ bản nhất của tâm thức:  Hai chấp trụ này là Ý thức tư duy chấp pháp khiến có sinh khởi ra mê mờ, phiền não (Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Căn Bản Phiền Não, Tùy Phiền Não...) và là Mạt Na thức tư lương chấp ngã khiến có ra 2 Thủ (Năng Thủ và Sở Thủ). Điều này khiến Trí Bát Nhã còn được gọi là Trí Vô Trụ, trí không có chỗ trụ (vượt qua ý niệm về không gian), trí không có lúc trụ (vượt qua ý niệm về thời gian) vì Thể và Dụng của trí Bát Nhã hằng hữu bàng bạc, mênh mang khắp không gian, khắp thời gian.

           3. Do đã vượt qua các chấp trụ nêu trên, Trí Bát Nhã là Trí sẵn có khả năng hội nhập, thể nhập vào A Lại Da thức. Nói cách khác, tầng bậc nhập Định của các bậc Thánh này có khi khiến tâm các vị chỉ còn có 5 tâm sở Biến Hành và Xả thọ của A Lại Da thức.

          4. Trí Bát Nhã là Trí thấy được Pháp thân (hay Pháp tánh, Phật tánh..) nên kinh Bát Nhã gọi Trí Bát Nhã là mẹ đẻ của chư Phật, chư Bồ Tát. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào mức độ tu tập: Ở Sơ Địa Bồ Tát (giai vị vừa được Kiến Đạo), Bồ Tát chỉ thấy được một phần Pháp thân mà thấy không rõ ràng; còn ở Bát Địa Bồ Tát (giai vị hoàn tất Tu Đạo), Bồ Tát thấy Pháp thân được trọn vẹn, toàn phần rõ ràng hơn.

           5. Do đã thấy ra Phật tánh, trí Bát Nhã là Trí tràn đầy thiết tha với Phật tánh nên đến lúc này, tâm Bồ Tát thực thụ chỉ hướng về Phật tánh, về Như Lai,về Vô Dư Y Niết Bàn mà không còn có chỗ bám víu,  chỗ sở đắc nào khác nên bài tụng nói là “Trí đều không có chỗ đắc”.

           6. Trong tu tập, trí Bát Nhã là Trí đã đã thấu rõ các hành chuyển, qui hướng, ưa thích...của tâm chúng sinh để giúp cho Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về Tứ Nhiếp Pháp  (4 pháp cấn thiết để nhiếp phục mà giáo hóa, hóa độ cho tất cả chúng sinh, bao gồm 1. Bố thí, 2. Ái ngữ, 3. Lợi hành, 4. Đồng sự);  và cũng là Trí thông thấu về 2 bờ, bờ bên này và bờ bên kia, để giúp Bồ Tát tu tập có hiệu quả tốt đẹp về 10 Ba La Mật,  10 pháp tu tập đưa qua bờ bên kia, bao gồm: 1. Bố thí, 2. Trì giới, 3. Nhẫn Nhục, 4. Tinh Tấn, 5. Thiền Định, 6. Bát Nhã, 7. Phương tiện, 8. Nguyện, 9. Lực, 10. Trí Huệ,  mà đi từ bờ bên này  (bờ khổ đau- sinh tử) qua đến bờ bên kia (bờ giải thoát- tịch diệt).

         Câu 3 và câu 4: " Nhỉ thời trụ Duy Thức ,  Ly Nhị Thủ tướng cố " (Lúc đó trụ Duy Thức,  Đã lìa tướng Hai Thủ):  "Trụ Duy Thức" là an trụ A Lại Da thức, là an trụ Duy Thức tánh vì A Lại Da chính là tánh của Duy Thức. An trụ vào A Lại Da cũng có nghĩa là tâm thức Bồ Tát đã vượt qua Mạt Na thức, vượt qua Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức. Như thế, đến đây tâm thức Bồ Tát đã hoàn toàn rời lìa được 2 tầng lớp mê mờ quan trọng: Tầng lớp 1 là các tâm thức mê mờ của Kiến Hoặc (Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới Cấm thủ, Tà Kiến) từ nơi Ý thức chấp thủ, bám víu vào thân tâm 5 uẩn và vào dụng năng Thấy- Nghe- Hay- Biết (Kiến Văn Giác Tri) của thân tâm 5 uẩn; tầng lớp 2 là tâm thức bám víu chấp Ngã, tâm thức cội nguồn của Nhị Thủ (Năng thủ, Sở thủ) của Mạt Na thức.  Chỗ này cũng chính là nền tảng cần thiết để Bồ Tát có thể tiếp tục tu tập đoạn trừ Tư Hoặc và xả bỏ A Lại Da thức trong các giai vị Tu Tập tiếp theo.

 

        Bài tụng thứ tư (Tu Tập vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

             "Vô Đắc bất tư nghì

            Thị xuất Thế Gian Trí

            Xả nhị Thô Trọng cố

            Tiện chứng đắc Chuyển Y"

Tạm dịch:

              " Vô Đắc không thể nghĩ bàn

            Đây là trí xuất thế gian

            Xả xong hai Thô Trọng

            Liền Chuyển Y chứng đắc"

        Tu Tập vị tương ưng với quả vị Tu Đạo, bao gồm 7 quả vị của Bồ Tát Đăng Địa từ Địa 2 (Ly Cấu Địa) đến Địa 8 (Bất Động Địa). Kinh Hoa Nghiêm khai thị về các quả vị này, được ghi nhận sơ lược như sau :

               1. Bồ Tát Nhị Địa (Ly Cấu Địa): các Ngài tu tập thiên về Trì Giới (1 trong 10 Ba La Mật); về Ái Ngữ Nhiếp Pháp( 1 trong 4 Nhiếp Pháp);  các Ngài không còn có Tham, Sân, Si; xa lìa Tà Kiến cấu bẩn , nên được gọi tên là “Ly Cấu”.

               2. Bồ Tát Tam Địa (Phát Quang Địa): các Ngài tu tập thiên về Nhẫn Khả Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Lợi Hành Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); thông thạo Tứ Thiền, Bát Định, xuất nhập các Tam Muội; thành tựu vô lượng sức thần thông cùng Trí Quán Tướng, quán được tướng chơn thật của các pháp Hữu Vi, nên được gọi tên là "Phát Quang".

              3. Bồ Tát Tứ Địa (Diệm Huệ Địa):  các Ngài tu tập thiên về Tinh Tấn Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về Đồng Sự Nhiếp Pháp (1 trong 4 Nhiếp Pháp); 10 pháp Minh Môn quán sát vào 10 Giới mà đắc được Trí Thành Thục, phát khởi Huệ phương tiện để Tu Đạo và Trợ Đạo, nên được gọi tên là "Diệm Huệ".

              4. Bồ Tát Ngũ Địa (Nan Thắng Địa):  các Ngài tu tập thiên về Thiền Định Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), về tất cả công hạnh của 4 Nhiếp Pháp; (kể từ Ngũ Địa trở lên, các Bồ Tát đều có tu tập, công hạnh đầy đủ trọn vẹn 4 Nhiếp Pháp để nhiếp hóa chúng sinh), đắc các Đế Trí,Tín Giải Trí,Phương Tiện Trí; biết như thật về Tứ Thánh Đế, thấu đạt được Tâm Bình Đẳng; là giai vị khó vượt qua, khó ngăn hoại nên được gọi tên là "Nan Thắng".

             5. Bồ Tát Lục Địa (Hiện Tiền Địa):  các Ngài tu tập thiên về Bát Nhã Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), quán thế gian sinh diệt với tâm Đại Bi, quán về Ngã chấp, về nhị biên Có- Không chấp,  thông tỏ lý Duyên Khởi cùng 12 Nhân Duyên, quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng , nên các Ngài được Giải Thoát hiện tiền, Bát Nhã hiện tiền, Không Tam Muội hiện tiền, do vậy được gọi tên là "Hiện Tiền".

            6. Bồ Tát Thất Địa (Viễn Hành Địa):  các Ngài tu tập thiên về Phương Tiện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật),  9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật, thành tựu 10 môn Phương Tiện Huệ; 4 Nhiếp Pháp, 37 phẩm Trợ Đạo, 3 môn Giải Thoát; lại có thể nhập- xuất Diệt Tận Định nhưng không tác chứng, gọi là đã viễn ly Vô Hành thậm thâm nên được gọi tên là "Viễn Hành".

            7. Bồ Tát Bát Địa (Bất Động Địa):  Giai vị Bát Địa bên Bồ Tát thừa chính là A La Hán bên Thanh Văn thừa, giai vị hoàn tất giai đoạn Tu Tập Phật đạo. Các Ngài tu tập thiên về Nguyện Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; đã thành tựu Phương Tiện Huệ, thành tựu về các Tánh Vô Sanh, Vô Khởi, Vô Tướng, Vô Tánh …; trong một niệm có thể dùng Trí Vô Công Dụng nhập cảnh giới Nhứt Thiết Chủng Trí.  Các Ngài đã lìa các tưởng phân biệt nơi Tâm – Ý – Ý thức, đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, được hạnh Vô Tránh, Tịch Diệt hiện tiền, bình đẳng 3 thuở (Sơ–Trung-Hậu), thanh tịnh các Đạo, khéo nhiếp trì Đại Nguyện lực, được Phật Lực gia hộ ban cho Như Lai Trí, Tự Lực khéo giữ gìn, Trí Nhẫn đệ nhất, thâm tâm Tuệ Giác, có thể khởi phát vô lượng, vô biên Trí sai biệt, như thuyền vào biển lớn chỉ cần theo gió mà đi, không cần tốn hao công hạnh  nên được gọi tên là "Bất Động" hay “Vô Sở Hành”, “Vô Công Dụng”, ‘Vô Sanh Pháp Nhẫn’...

 

       Ý nghĩa 4 câu của Tu Tập vị được ghi nhận là:

              Câu 1: “ Vô Đắc bất tư nghì”  (Vô Đắc không thể nghĩ bàn):

                   “Vô Đắc” là cảnh giới đã thoát qua khỏi ảnh hưởng tác động của Mạt Na thức và của cả A Lại Da thức, cảnh giới không còn có chỗ Sở Đắc, khách thể , hay cảnh Sở Đắc; cũng không còn có Năng Đắc, chủ thể,  hay khả năng có thể có thêm, tiếp nhận thêm bất cứ sự vật gì vào trong tâm thức vốn đã quá thanh tịnh.  Vô Đắc là hệ quả tất yếu của công phu tu tập xả bỏ thức A Lại của Tu Tập vị. Công phu này được diễn đạt rõ qua 4 câu tụng trong Bát Thức Qui Củ Tụng, tác giả: ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664), như sau:

                "Bất Động Địa tiền tài xả Tàng

                Kim Cang Đạo hậu Dị Thục không

                Đại Viên, Vô Cấu đồng thời phát

                 Phổ chiếu thập phương sát trần trung"

Tạm dịch:

                "Trước địa vị Bất Động  còn phải xả bỏ Tàng thức

                Sau Kim Cang Đạo, thức Dị Thục không có nữa

                Trí Đại Viên, thức Vô Cấu đồng thời phát

                Chiếu khắp mười phương vi trần quốc độ"

Cảnh giới Vô Đắc được cho là “bất tư nghì” (không thể nghĩ bàn) vì nó đã  vượt qua A Lại Da thức, vượt khỏi các tâm Bất Tương Ưng của A Lại Da thức là Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân. Ba Thân này chính là bản thể, là chất liệu căn bản của tất cả nghĩ bàn, bao gồm ngôn ngữ, văn tự, suy tư, hiểu biết, phân biệt cho muôn loài chúng sinh.

 

             Câu 2: "Thị xuất thế gian trí” (Đây là trí xuất thế gian):

Trí thế gian là trí chỉ có thể thu nhận, quán sát, phân biệt cảnh trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,Pháp) mà không thể thấy biết thấu suốt được, không hội nhập, ứng hợp được với cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc. Nhưng  đây không phải là cảnh giới Vô Ngã, Vô Đắc xuất ra khỏi thế gian trí mà chính là trí thế gian do không còn có sự ứng hợp nên tự xuất ly, tự cách ly ra khỏi cảnh giới u tuyệt, huyền nhiên, bất khả tư nghì này.

            Câu 3: " Xả nhị Thô Trọng cố” (Xả xong hai Thô Trọng):

            Trong  5 thọ, A Lại Da thức chỉ có duy nhất một Xả thọ. Các Bồ Tát Đăng Địa đã thể nhập, tương ưng vào A Lại Da thức nên các Ngài ứng hợp với thọ Xả này, công phu tu tập đầy đủ về Hạnh, Nguyện, Thiền Định khiến phát sinh các Đại Tâm, các trí tuệ thanh tịnh mà xả bỏ 2 thứ Thô Trọng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng.  Đây là hai rào cản rất vi tế và thâm sâu trong tâm thức, khiến tâm thức bị ngăn ngại không được thông thấu với Phật tánh, Bồ Đề trí, nên được gọi là "Chướng".  

 

             Phiền Não Chướng chính là 6 tâm sở Căn Bản Phiền Não bao gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến; trong đó 5 tâm sở đầu (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi ) được gọi là Tư Hoặc, còn Ác Kiến được gọi là Kiến Hoặc. Kiến Hoặc lại chia ra 5 loại là Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ và Giới Cấm Thủ. Do vậy, 6 Căn Bản Phiền Não cũng thường được gọi là Kiến Tư Hoặc. Gọi là “Hoặc” vì đây là Bất Giác, mê mờ, vô minh khiến chúng sanh phải chịu trầm luân sanh tử. Duy Thức Học minh định lý do sâu thẳm nhất khiến có ra Bất Giác chính là do còn có sự hiện hữu của kho tàng chủng tử tập khí nghiệp thức nơi A Lại Da thức. Nên chỉ khi nào kho tàng này bị xả bỏ hoàn toàn qua tu tập tối thượng nơi các vị Bồ Tát Đăng Địa, tâm thức mới có thể trở về tương hợp, ứng nhập vào với Chơn Tâm, Chơn Như bản hữu. Do vậy, lý Tứ Đế và lý Thập Nhị Nhơn Duyên ít nhiều có liên hệ đến bóng dáng và sự biến hành, tác động của kho tàng chủng tử này. Như phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa, Bồ Tát mới rõ thấu được Lý Duyên Khởi 12 Nhơn Duyên nhưng vẫn còn tu tập tiếp tục xả bỏ chủng tử Tàng Thức. Chỉ khi đến được giai vị Bất Động (Đệ Bát) Địa, Tàng Thức mới được xả bỏ xong; lúc này, Tàng Thức A Lại Da được đổi tên gọi là Bạch Tịnh Thức, hay Vô Cấu Thức; hành giả được xem là đã Kiến Tánh.

 

          Trong khi Phiền Não Chướng là chướng có liên hệ đến các chủng tử của 6 Căn Bản Phiền Não, thì Sở Tri Chướng được cảm nhận là chướng có liên hệ đến tất cả dạng loại chủng tử còn lại có trong A Lại Da thức. Đây là bao gồm tất cả các chủng tử có công năng tri giác, nhận biết, phân biệt vào một đối tượng nào đó; nôm na gọi là có chỗ trụ, có chỗ để tri giác, nhận biết (gọi là "Sở Tri" = "chỗ biết").  Còn có "chỗ" là còn chưa được bình đẳng, là còn trái với Giác thể Chơn Như vốn là bình đẳng, nhất như. Lý tánh bình đẳng, nhất như cao diệu này lại bị che lấp bởi các tâm thức chấp ngã và chấp pháp của chúng sinh.  Nên các Bồ Tát Đăng Địa phải tu tập đến giai vị Nan Thắng (Đệ Ngũ) Địa mới có được 10 Tâm Bình Đẳng,  rồi phải đến giai vị Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa mới quán chiếu thấu suốt được 10 Pháp Bình Đẳng.

 

                    Câu 4: " Tiện chứng đắc Chuyển Y” (Liền Chuyển Y chứng đắc):

                  "Tiện chứng đắc" được cảm nhận là có ý nghĩa rất vi tế, sâu sắc  vì chữ "chứng đắc" ở đây không đồng nghĩa với chữ "Đắc" nơi 24 Tâm Bất Tương Ưng nơi các giai vị tu tập trước. Câu tụng này là cảnh giới của Bồ tát Bất Động (Đệ Bát) Địa: sau khi đã hoàn tất công phu xả bỏ trọn vẹn kho tàng chủng tử nghiệp thức, xả bỏ A Lại Da thức; thân tâm các vị Bồ tát Bất Động Địa (tương ưng với quả vị A La Hán bên Thanh Văn thừa) đã được hoàn toàn thanh tịnh, lìa xa các Tưởng nơi Tâm, Ý, và Ý thức; nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ngoài ra, do sức bản nguyện rộng lớn, các Ngài còn được thấy vô lượng chư Phật hiện ra và được chư Phật ban cho Như Lai Trí...Như thế "Tiện chứng đắc" có thể được tạm giải thích là "sự tương ưng, ứng hạp tự nhiên được tiếp nhận ân phước từ chư Phật", nên đây tạm gọi là sự chứng đắc mà không có thêm vào, không có bớt ra, không có dụng công như sự chứng đắc thông thường ở các giai vị trước.

          "Chuyển Y" là chuyển đổi 4 chỗ Y chỉ, là chuyển đổi từ Thức sang Trí, bao gồm 4 chuyển đổi: Chuyển Ý thức ra Diệu Quán Sát Trí, chuyển Mạt Na thức ra Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Tiền Ngũ thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức) ra Thành Sở Tác Trí, và chuyểnA Lại Da thức ra "Đại Viên Cảnh Trí". Đây cũng là sự chuyển đổi tự nhiên, như nhiên, tự  hiện khởi sau khi đã Kiến Tánh mà không qua bất kỳ dụng công, tác ý nào.

 

              Bài tụng thứ năm (Cứu Cánh vị):  Duy Thức Tam Thập Tụng có 4 câu là:

                         "Thử tức Vô Lậu giới

                         Bất tư nghì Thiện Thường

                        An lạc giải thoát thân

                        Đại Mâu Ni danh pháp"

          Tạm dịch:

                       "Đây là cõi Vô Lậu

                        Thiện Thường không thể nghĩ bàn

                        Thân giải thoát, an lạc

                        Tên gọi Đại Tịch Tịnh"

 

                  Cứu Cánh vị là giai vị tu tập sau cùng của Duy Thức Học, bao gồm các địa vị từ Bồ Tát Thiện Huệ (Đệ Cửu) Địa, Bồ Tát Pháp Vân (Đệ Thập) Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, và Phật. Kinh Hoa Nghiêm khai thị về Thiện Huệ  Địa và Pháp Vân Địa, được ghi nhận sơ lược như sau :

                        1.     Bồ Tát Cửu Địa (Thiện Huệ Địa):  các Ngài tu tập thiên về Lực Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; thâm nhập Phật Tam Muội, quán sát bất tư nghì Đại Trí tánh; tu tập 10 Lực, đức Vô Úy và 18 Bất Cộng pháp của chư Phật, theo chư Phật chuyển Pháp luân; được 4 Vô Ngại Trí, khéo diễn thuyết hóa độ, điều phục chúng sinh; thể nhập Tịch Diệt, Giải Thoát, Phật Trí bất tư nghì nên được gọi tên là "Thiện Huệ".

                       2.     Bồ Tát Thập Địa (Pháp Vân Địa):  các Ngài tu tập thiên về Trí Huệ Ba La Mật (1 trong 10 Ba La Mật), 9 phần Ba La Mật kia thì tùy sức mà tu tập, trong 1 niệm có đủ 10 Ba La Mật; các Ngài thể nhập Phật cảnh giới, được Phật quán đảnh làm bậc Thọ Chức; tùy thuận công hạnh Tịch Diệt của Như Lai, thể nhập Tam Muội tối hậu, thể hiện được các quang minh của chư Phật; Bồ Tát hạnh ví như Đại Hải, có thể an trì, nhiếp thọ vô lượng Đại pháp của Như Lai; các Ngài dùng Tự Nguyện Lực nổi mây Phước Đức Đại Bi, chấn sấm Đại Pháp, nháng chớp Trí Huệ Vô Úy, nên được gọi tên là " Pháp Vân ".

 

           Ba  giai vị sau cùng (Đẳng Giác, Diệu Giác, Phật) không còn có dụng công tu tập nữa, cảnh giới chư Phật lại quá huyền diệu, quá nhiệm mầu, quá bất khả tư nghì nên kinh luận rất ít khi đề cập đến.

 

       Ý nghĩa 4 câu của Cứu Cánh vị được ghi nhận là:

                Câu 1 và câu 2:“ Thử tức Vô Lậu Giới, Bất tư nghì Thiện Thường

                   (Đây là cõi Vô Lậu, Thiện Thường không thể nghĩ bàn)

          Cảnh giới của chư Phật là cõi Vô Lậu, không còn bị rơi rớt trở lại vào thế gian. Cảnh giới này được tạm mô tả là cảnh giới cực kỳ thanh tịnh, không còn hiện hữu bất kỳ dấu vết, bóng dáng của chủng tử, nghiệp thức nên cũng không còn có bất cứ tỳ vết nào của phiền não, khổ đau,  đã tuyệt nhiên vắng bóng tất cả phân biệt, chấp trước nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thiện. Cảnh giới nhiệm mầu, như nhiên, tận xuất Thế Gian này lại cũng tuyệt đối thường hằng, đã siêu tuyệt, vượt thoát khỏi các chu trình biến hoại Sinh-Tử, Có-Không của thế gian nên được bài tụng gọi là Bất Tư Nghì Thường.

    Câu 3 và câu 4:“ An lạc giải thoát thân  Đại Mâu Ni danh pháp

                          (Thân giải thoát, an lạc   Tên gọi Đại Tịch Tịnh)

 

                  Thân an lạc, giải thoát tối hậu chính là pháp thân của chư Phật. Gọi là An Lạc vì đã tuyệt nhiên không có bất cứ vướng chấp phiền não, cũng là nghĩa của chữ “Tịch” (tuyệt nhiên vắng bóng);  gọi là Giải Thoát vì đã vượt thoát ra khỏi tất cả ràng buộc của kho tàng chủng tử nghiệp cảm nơi A Lại Da thức, cũng là nghĩa của chữ “Tịnh”(tuyệt nhiên trong sáng). Do từ ý nghĩa này,  2 chữ An Lạc và Giải Thoát cũng được gọi là Tịch và Tịnh. Tịch Tịnh cũng được gọi là Mâu Ni, là danh hiệu của đức Bổn Sư vậy.

 

                     Do bổn tánh Bình Đẳng và thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân an lạc và giải thoát vốn thường sẳn đủ, quang minh thường hằng biến chiếu nơi muôn loài chúng sinh. Nhưng theo Duy Thức Học, chúng sinh không thể thấy biết, thụ hưởng, sử dụng nguồn quang minh này là do còn bị ngăn che bởi 3 lớp màn che, rào ngăn chính. Lớp 1 là Tiền Lục Thức (Ý thức và Tiền Ngũ Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân:) tư duy chấp mắc vào cảnh trần (6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) khiến không ngớt gây tạo, phát sinh biết bao chủng tử phiền não nghiệp chướng.  Lớp 2 là Mạt Na thức, cội nguồn tư lương chấp ngã, đón đưa chủng tử nghiệp thức, gây tạo ra vô lượng phiền não, nghiệp chướng mà phải đến giai vị Kiến Đạo mới vượt qua được lớp màn che Ngã chấp này và mới rõ ra được con đường tu tập tối thượng (Kiến Đạo Khởi Tu). Lớp 3 là A Lại Da thức, cội nguồn tàng trử kho tàng chủng tử nghiệp thức; kho tàng này cần được xả bỏ hoàn toàn, gọi là Kiến Tánh, để chuyển Thức thành Trí và để cảnh giới, pháp thân an lạc- giải thoát tự hiện khởi trở lại.

 

                  Trong nhà Thiền có câu chuyện kể:  Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) đến Tào Khê tham yết Lục Tổ Huệ Năng (638-713).  Tổ hỏi: "Ở đâu đến?", Ngài thưa: "Ở Tung Sơn đến." Tổ lại hỏi: "Đem vật gì đến?", Ngài trả lời không được, bèn ở lại với Tổ. Sau tám năm, Ngài chợt có tỉnh, liền đến trình Tổ :"Nói một vật là không đúng". Tổ liền hỏi: "Lại có thể đạt đến chăng?" Ngài đáp: "Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được." Tổ bèn ấn chứng:  "Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đã như thế, ta cũng như thế".  Và khi đã trở về được với bổn tánh Bình Đẳng, thường hằng chu biến khắp pháp giới, pháp thân tịch tịnh, an lạc và giải thoát này thì "ai ai cũng như thế" vậy.

 

 

Khánh Hoàng

Plano _ January 15, 2024

THƠ TRẦN HOẰI THƯ

MÙA LŨ

Bốn năm, làm lính, sông Côn lội

Đêm tìm mồ mã mà viếng thăm

Trời gió nổi, hú trên đồng nước ngập

Lũ quỉ hiện hồn làm những kẻ ăn sương 

Cầm cơn lạnh trùm poncho dã chiến

Thèm quá thèm , điếu thuốc cầm cơn

Vùng nẫu bên kia, Tân Dân, An Cữu

Tọa độ bản đồ kẻ khác chấm dùm

Mỗi dứa ngồi nằm giũa hàng mồ mả

Bia mộ lưu đời ghi tuổi thanh xuân

Hãy ráng thức một giờ đừng ngủ gục

Để anh em dươc một giấc qua đêm

Có chột bụng hãy đi tìm chỗ xả

Kẻo bay mùi ghê tởm đến anh em

 

Mùa lũ, có khi hành quân chân núi

Men theo bờ sông nước lũ mà đi

Cám ơn chiến tranh cho ta dược thấy

Những con người dũng liệt, Tây Sơn

 

Bây giờ nhớ lại thời trai trẻ

Khi ngựa già lên một tuổi 82

Người ta thì nhớ một thời hoa mộng

Còn ta bồi hồi mùa lũ sông Côn

THT

Trần Hoài Thư

 

TA ĐI

Ta đi, tráng sĩ hề con kẹt

Nó chửi thề bởi nó cũng run

Khi không bắt nó lên An Lão

Xa cái lồng con nhỏ dưỡng quân

Ta đi, lời kệ vang trong miểu

Ông từ già nhắm mắt tụng kinh

Ông ạ, cho tôi nằm một lát

Để tôi mơ cực lạc thiên đàng

THT

Trần Hoài Thư

THƠ VÀ CHIÊM BAO

 

Nhiều người nghĩ thơ hay là chữ phải kêu, ý phải lạ, luật phải chỉnh hay được nhiều người đọc cảm nhận.
Còn tôi, dại cuồng nghĩ thơ là chiêm bao. Ngón tay gõ co nhiệm vụ biến thơ thành chữ. Còn chiêm bao nó biến thành cái đẹp. Và ít ai biết cái dẹp ây. Cứ hô hào, mỗ xẽ thi thể chiêm bao:

oOo
Lính giữ tiền đồn, đêm đêm nằm ngoài vòng đai
Chỉ mong sáng sớm rút về, ghé quán cà phê chợ huyện
Trời cũng thương tình một thằng lính làm thơ lãng mạng
Để hắn đi tìm thêm chiêm bao…
Bởi chiêm bao không mọc lên từ chiến hào
Mà đến từ đẳng sau màn khói thuốc
Chẳng hạn, cô hàng cà phê đang lui cui nấu nồi nước
Lửa reo vui, nước sôi reo vui,
Và bên ngoài, tiếng máy nổ đầu ngày của chiếc xe lam
Và bến sông vọng về tiếng ồn ào của người đi phiên chợ sớm
Niềm vui từ ngoài lan vào trong quán
Ghế đẩu, chiếc bàn, cả khẫu súng gát vào vách tường cũng thức dậy
chiêm bao !…
Khi cô hàng còn lười biếng ủ ê
Tóc chưa chải, và ngực chưa cài nịt vú
Có đôi má đỏ rực như than hầm mới đốt
Có chiếc quần lụa vãi bóng lởn tà dâm
Khiến con thằn lằn phải nằm trên vách chết trân!
Khiến ta nhấp hớp xây chừng sao mà ngon chi lạ!
***
Bây giờ ta đang ở xứ Mỹ
Nơi mà cà phê xem như thay nước lả
Nơi mà những loại cà phê danh tiếng mỗi ngày mời mọc khách hàng
Columbia, đến Brasil, rồi đến Pháp, đến Anh
Vậy mà ta cứ dùng dằng
Ôi, bình cà phê nào còn mang cho ta giấc chiêm bao
Để ta còn làm thơ

THT

Nov. 17, 2023

THƠ HỨNG TRẦN HOÀI THƯ

 

Lục bát THT (1)

Có phải sắp biệt cõi trần
Mà sao thân thể có mầm bi quan
Ngày xưa bảo vệ Sư đoàn
4 năm không để địch quân mò rình
Bây giờ bảo vệ một mình
Mà không giữ nổi chờ ngày bàn giao

Ngày lễ cựu chiến binh và con ngựa già
Không phải tôi yêu màu áo trận
Để nhang đèn thắp lại hàng năm
thằng thất trận chỉ còn con tim nến đỏ
Em bé Hoa Kỳ, cho tôi ké được không ?

Người cựu chiến binh Hoa Kỳ râu tóc bạc phơ
Có một khoảng trời để mà hãnh diện
Tôi cũng có khoảng trời núi rừng sông biển
gõ chuông mõ mình không phải đợi đến hôm nay

 

 

Về thành

(Tặng PVN, LVT, PCS, PCH và các bạn không bao giờ quên ở khu 6, Những bạn mài quần ở quán QN)

Cả đêm hồng ngoại rình du kích( 1)
Sáng sớm Qui Nhơn súng lận quần
Bà chũ cho xin ly xí nại
Và cái bàn, một chỗ của nhà văn

Người thơ văn toàn gái với toàn em
Ông Trời cũng mặc áo lụa hà đông
Giấy hồng mực tím pha trang giấy
Chỉ có ta gái mọi đen đồng

Chủ quán đừng nhìn ta lấm lét
Ta hiền mà, tại lính râu ria
Mũ rừng chụp trán, che đầu tóc
Ngại mấy chàng quân cảnh ngoài kia

Thơ ta toàn là Văn, Bách Khoa
Vậy mà chẳng ai đọc bao giờ
Hay chờ thi sĩ nằm yên ngủ
Thương xót cho ta cột báo vĩnh hằng

 

THT

(1) UV: ống nhắm hồng ngoại. Chỉ trang bị cho các đơn vị thám kích

TranHoaiThu_in hospital.JPG

Chia sẻ trong lúc cô đơn

Rả rích trong  đêm trời gõ mõ
Kinh tàn thu, mùa ly biệt trần gian
Hôm qua có hàng hàng khất sĩ
Về đây để căng dựng lều tang

Có dựng xin chừa ta ngoài gió
Ta đang vịn càng, vịn cán: mưu sinh
Cái nhau con cáo tha biệt tích
Thì sá gì cả một cuống gan

Hai tháng, ta nằm chờ dợi chết
Nhưng mà trời hởi, nhìn qua song
Tội lắm bầy nai về như khóc
ông thầy ơi, ông bỏ, ai làm thơ


Còn nữa, lá vàng ngoài sân viện
Lá dâp dìu, lá gọi hồn ai
NChỉ trừ em, càng ngày xinh đẹp
Mái tóc càng mun càng mướt đen tuyền

Trần Hoài Thư

Nói thêm về bức ảnh:

Sáng nay nhận email, thoạt thấy tấm ảnh bạn mình chằn chịt dây nhợ! Hết hồn, nghĩ rằng Kim Mao Sư Vương lại vào bịnh viện, email liền: Đọc thơ rồi nhìn hình! Sao mà buồn quá bạn mình ơi! Nhận lại trả lời: sao lai buồn? phải mừng vì u80 tôi vẫn mưu sinh và thoát hiểm.

Thì ra đây là ảnh 2 năm trước và chàng đã thoát hiểm, vẫn an nhiên tự tại. Mừng cho bạn.

HaiTrau_cover.JPG

MỜI ĐỌC:

1. HAI TRẦU LƯƠNG THƯ TRUNG: NHỚ VỀ NHỮNG NGÀY THÁNG CŨ

https://drive.google.com/file/d/1zLBW861z3J5LsK7bxo83EKIw6kg0eiHG/view?usp=sharing_eil_se_dm&ts=646030fb

2. TRẦN BANG THẠCH đọc Nhớ về những ngày tháng cũ của anh nhà quê già Hai Trầu trên Trang Nhà Trần Thị Nguyêt Mai:

https://tranthinguyetmai.wordpress.com/2023/06/21/doc-nho-ve-nhung-ngay-thang-cu/

Đọc Nhớ về những ngày tháng cũ

Mở đầu Nhớ Về Những Ngày Tháng Cũ (NVNNTC), ta hãy nghe lời thưa trước của tác giả, tự nhận là một người đọc nhà quê già: “… Nhưng rồi, tôi lại phải đi gom góp các trang ghi chép về đời sống nơi miền quê cùng vài hồi ức về những ngày xa xưa cũ…” Rồi người làm ruộng già này bộc bạch thêm: “… vì vốn là một người làm ruộng già, nên tôi chỉ mong những gì mình ghi lại nơi đây, trước nhứt là để mình có dịp sống lại những ngày tháng cũ của mình mấy chục năm về trước thôi, chứ không dám mơ văn hay chữ tốt gì nơi tập sách quê mùa này!”.

Ối trời! Lão già khú nhà quê này khôn quá mạng nghen. Ông có cái già, cái nhà quê quý như vàng mà làm bộ hổng biết! Càng già càng có nhiều chuyện để nói. Nhờ cái gốc nhà quê mà ông kể chuyện nhà quê mới hết sẩy! Người thật việc thật mà Anh Hai!

 

Thứ nữa là ông tưởng ông viết để mình ên ông sống lại những ngày tháng cũ của riêng ông thôi sao? Đối với riêng người đọc hèn mọn này, ông lão nhà quê ơi, ông đã khuấy động một vùng ký ức thật rộng, thật sâu của tui. Từng tấm hình, từng bài viết… là kỷ niệm của ông, là bến bờ ký ức đẹp của ông cũng là của tui nữa đó. Và biết đâu cũng của một số người khác.

Đối với người xa quê hương như tui và ông thì Ông Sơn Nam đã nói từ lâu rồi mà:

Năm tháng đã trôi qua,
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…

Mình là hạt bụi nhớ đất quê đó anh Hai ơi!

Lược sơ sơ nghe chơi nhen: Trường Thoại Ngọc Hầu, cầu Hoàng Diệu, Bắc Vàm Cống, Bến đò Châu Giang, Bồ đề Đạo Tràng, Lăng Thoại Ngọc Hầu, Bến Ninh Kiều, cầu khỉ, chiếc bắc, rừng Tràm, nhà lá, nhà bè cá, bầy vịt hãng… những nơi tui từng sống suốt hơn nửa đời người. Rồi những tắc ráng, xuồng, ruộng lúa, rừng tràm, đống rơm, con bò, … làm tui nhớ quá chừng thằng nhỏ nhà quê chưn phèn dính đất của mình. Ấy da! Rồi mắm Châu Đốc, xoài, cóc, ổi, mận, bông điên điển, bông súng, lục bình, tôm cá… càng nhắc càng thèm!

Cho thấy chưa đủ sao mà ông ỷ già chơi gác! Ông còn nhắc Sài Gòn, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên của tui. Ký ức của tui đã theo chân ông bước lùi về những nơi chốn này làm nhớ ôi là nhớ. Nhớ rồi thương thêm, rồi tiếc cho một thời vàng ngọc đã qua. Và sắp lùi dần vào hốc tối của đầu óc lão lai. Là mất hết!

Nghe ông lão nhà quê kể chuyện Sài Gòn nghen: “Nhớ Sài Gòn những năm tháng ấy là nhớ những con đường rợp bóng me mát rượi với những gánh cà phê pha bằng vợt giữa trưa nắng gắt ngồi dưới gốc me nhâm nhi ly cà phê đá mới pha với mùi cà phê thơm ngào ngạt mà thấy đời sao quá sướng, quá an nhàn”. Nói thiệt với ông nhen, thuở đó chắc ông chưa biết phì phà Bastos xanh nên chưa thấy ngầu thêm với tách cà phê đen không đường và sách Phạm Công Thiện dày mo trên tay. Tui hơn ông chỗ này; có lẽ hơn luôn cái mái tóc phủ ót bít-tơn nữa. Và hơn luôn cái mục cà phê dưới gốc me với kẹp tóc. Ơ ông này, ông dám nhắc cái Đại Học xá Minh Mạng của tui, cả trường Võ Khoa Thủ Đức. Ông làm tui nhớ thêm bánh bao bà Năm Sa Đéc bên đường rầy xe lửa Chợ Lớn-Mỹ Tho, nhớ Vũ Đình Trường, đồi Tăng Nhơn Phú, đồn quân cảnh 301. Tuổi thanh xuân của tui chôn ở đó khá nhiều. Rồi mấy con đường Nguyễn Huệ, Phan Thanh Giản, Cộng Hòa, Lê Lợi, Bà Hạt… Ông nói trúng phóc: “… rồi một ngày nào đó sẽ không còn, nào ai biết được có một thời những con đường quen tên ấy có biết bao người đã bao lần đi đi về về ngược xuôi trên những con đường xưa thân ái ấy”. Nhiều tên đường cũng theo số phận Sài Gòn mà mất tên sau cơn sóng dữ. Chắc ông cũng giống tui thời học trò nghèo chỉ biết có rạp Long Vân, Vĩnh Lợi, vừa coi vừa ngủ, dám đâu vào Rex, Eden. Ông già này đáo để lắm nghen: Ông nhắc quán sách báo ngoại ngữ trên đường Ngô Đức Kế nơi ông mua bộ tự điển Encyclopaedia Britannica mà làm bộ như quên nhắc ông mua luôn cô hàng sách, gái đẹp gốc Tân Châu tên “chị Bảy Bookshop”. Từ Sài Gòn ông dẫn tui qua bắc Vàm Cống, vào trường Thoại Ngọc Hầu. Ông còn cho tui nhìn lại hình ngôi trường tôi đã ở nội trú cả năm. Cái Vàm Cống này thì quen quá với tui mỗi lần từ Sài Gòn về Long Xuyên, Châu Đốc. Vàm gì mà thấy bờ bên kia trước mặt mà bắc chạy ngược xuôi theo con nước, lâu phát ớn! Ông nhắc tên trường Thủ Khoa Nghĩa, trường Nguyễn Hữu Cảnh, kinh Lò Heo… làm tui thấy như mình đang đưa tay ra là đụng, rồi ôm vào lòng những vật thể thiết thân một thời của chàng trai mới lớn “theo nàng về xứ lạ”! Ông nhắc vài nơi ông đã đi qua, sống qua… đọc cho biết thôi chớ mình không sống qua nên không có cảm nhận gì. Chỉ một tấm hình ông chụp ngồi với nàng ở bậc thang lên chùa ở Cam Ranh, kế bên là phiến đá ghi rành rành hàng chữ: “Xin đừng hái hoa” vậy mà ông có “care” gì đâu, ông ngồi khít rịt với nàng đủ biết hoa đã bị ông cò phạm luật hái rồi!

 

 

 

 

 

 

Bậc thang lên chùa Vạn Hạnh (Cam Ranh) năm 1970.

 

Ông già này độc nhen: Ông đưa người thanh niên đi từ Sài Gòn dìa Long Xuyên, Châu Đốc, qua mấy nơi xa Sài Gòn, rối thoắt một cái ông cho tui thành thằng nhỏ ở ruộng đồng An Trạch, vườn quê Bà Vèn của tui khi ông nói về những cây cầu khỉ, cái xuồng ba lá, cái lu, cái khạp, cái rế, cái nia, cái lờ, cái lưới, cái đăng… đồ chơi mà ăn thiệt hồi nhỏ của tui đó. Tui là vua câu rê mà. Nhưng bộ ông không biết con trâu sao vậy, không nghe ông nói tới? Chắc ông không có cái thú cỡi trâu như tui. Vui lắm ông ơi! Tắm ở vũng trâu nằm giữa nắng chang chang khoái hơn tắm hồ bơi Đô Thành, chỉ thiếu mấy cái bikini rửa mắt!

Có lẽ đây là cái chiêu độc đáo của lão nhà quê trên xứ cờ hoa: Ông đem được giống điên điển từ ruộng nước Châu Đốc, Long Xuyên cắm trên vườn sau của ông, lại điểm xuyết thêm ao lục bình trổ hoa tím, bông súng, bông sen… Cái Góc Việt Nam này của ông thật đáng đồng tiền bát gạo! Cái Hồn Quê của ông đó.

Nói bây nhiêu chưa hết đâu ông ơi. Chữ nghĩa của ông làm ruột gan tui lộn tùng phèo, thương thương, nhớ nhớ, quên quên, tiếc tiếc… đủ thứ. Lại mắc bịnh làm biếng nên trước khi ngưng tui muốn mượn thơ Kiên Giang để tặng ông:

Dầu xa cách mấy trùng dương,
Ở đâu cũng có quê hương trong lòng

Mấy lời thô thiển gởi tới Anh Hai, coi như hai lão nhà quê mình một buổi rảnh rang chuyện đồng áng, ngồi trên đệm lác khề khà bên hũ nếp than cho vui vậy mà.

 

Trần Bang Thạch
Houston, ngày 17 tháng 6 năm 2023

HaiTrau_HTchiBay.jpg
DTDB_Mauhoacaiao.JPG

THÔNG BÁO TẶNG SÁCH MỚI

của Winston Phan Đào Nguyên:

 

MỐI THÂM TÌNH CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU DÀNH CHO “QUAN PHAN” PHAN THANH GIẢN

Winston PĐN_Bia sach NgĐChiểu.JPG

Nhân dịp UNESCO kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu vào năm 2022, tác giả Winston Phan Đào Nguyên xin thân tặng tất cả các bạn đọc một nghiên cứu mới về nhà thơ, cuốn sách với tựa đề Mối Thâm Tình Của Nguyễn Đình Chiểu Dành Cho “Quan Phan” Phan Thanh Giản. 

 

Tác giả chỉ có một yêu cầu nhỏ là nhờ bạn thông báo về cuốn sách này và đường link download dưới đây cho tất cả bạn bè bà con muốn đọc:

 

 

https://app.box.com/s/p7e3mgfty0l1asrqkewxuck6bwqw7rny

 

 

Nếu bạn muốn sách giấy thì có thể order sách từ Amazon theo link này:

 

 

https://www.amazon.com/Th%C3%A2m-Nguy%E1%BB%85n-Chi%E1%BB%83u-Thanh-Vietnamese/dp/108803795X/ref=sr_1_1?crid=2K30ANBDPFUP4&keywords=moi+tham+tinh+cua&qid=1654557154&sprefix=moi+tham+tinh+c%E1%BB%A7a%2Caps%2C123&sr=8-1

 

 

"Năm 2022, nhân hai trăm năm ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu, UNESCO đã nhìn nhận ông như một danh nhân văn hóa của thế giới. Và lý do chính không phải vì lòng "yêu nước" của ông, mà chính vì những phương diện khác; như sự cố gắng vượt qua nghịch cảnh của ông, ý chí của ông, thi văn tài của ông. Nhưng có lẽ một phương diện tích cực khác của Nguyễn Đình Chiểu mà ta cần thấy rõ hơn là sự trung thực trong vai trò nhân chứng thời cuộc, đã được thể hiện một cách không dấu diếm trong thơ văn của ông. Là một con người của thời cuộc, của thế kỷ 19 ở xứ Nam Kỳ, là một nho sĩ trọn đời thờ vua, nhưng ông đã tạo ra một đường lối thơ văn đặc biệt của riêng mình, với một tấm lòng chân thật không chút điêu ngoa. Đối với người mà ông cũng như toàn thể dân chúng Nam Kỳ thương mến gọi là "quan Phan", Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng khâm phục trong hai bài thơ điếu Phan Thanh Giản, cũng như trong 10 bài thơ điếu Phan Tòng. Nhưng vì lý do chính trị, trong nhiều năm qua đã có nhiều tác giả trong nhiều bài viết cố tình bẻ cong sự thật để gán cho thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu tức ông Đồ Chiểu một âm mưu đê tiện là ngấm ngầm chửi rủa Phan Thanh Giản; cho dù bề mặt ngợi khen. Đã đến lúc phải trả lại sự thật nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của vị danh nhân văn hóa này. Đã đến lúc phải vạch ra sự cố tình xuyên tạc Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn cũng như con người của ông. Đã đến lúc phải nhìn nhận mà không có chút nghi ngờ nào nữa về mối thâm tình mà Nguyễn Đình Chiểu dành cho quan Phan - Phan Thanh Giản."

 

 

Trân trọng,

 

Tác giả Winston Phan Đào Nguyên

________________________________

Khanhhoang_quetla.JPG
TL_traikhoqua.JPG

KHỔ QUA
Nối thơ: Nguyễn Nam An, Trần Bang Thạch, Kim Phượng, Kim Oanh, songquang

Đến khi trái khổ qua đầu

Trên giàn kết trái tình đâu mất rồi

Anh ngồi tưới nước làm vui

Mà em như lệ khóc người đó đây .

 n g u y ễ n n a m a n
 

 Nối thơ:
 

khổ ai như nỗi khổ nầy

thì ra cái khổ đã đầy vườn tôi

khổ hoài sao chẳng chịu vơi 

chẳng ai ngoái lại để tui đỡ buồn?!

 

Nước tui cũng đã cạn nguồn

còn đâu để tưới cái buồn lỡ mang?!
Trần Bang Thạch
 

 

Khổ qua nụ trổ đầy giàn

Ới người gieo khổ chẳng màng để tâm

Sụt sùi trời đổ mưa dầm

Ới người gieo khổ trăm năm bạc lòng

Kim Phượng

Kim Oanh & songquang nối thơ Kim Phượng:

Cánh vàng nhụy điểm trắng trong 

Khổ qua kết trái đắng lòng người ơi

Oằn mình cam chịu ngậm lời

Ai hay ai hiểu cuộc đời khổ qua.

Kim Oanh

Khổ tôi lệ chảy thành dòng 

Người còn đi mãi …hết mong ngày về

Giọt buồn nỗi khổ lê thê

Tôi đâu quên được lời thề ngày xưa

Khổ qua vị đắng sao vừa

Xin người nhớ lại những mùa yêu nhau.

songquang 

20221124

(Ngày Thanksgiving 2022)

 

 

 

CÁCH VIẾT TRUYỆN NGẮN CỦA TRẦN BANG THẠCH

                                                                         

                                            Hai Trầu

LTT_QQCD.JPG

Một chút tiểu sử về nhà văn Trần Bang Thạch:

 

-Tên họ thật: Nguyễn Công Danh, 1942 sanh quán tại Cần Thơ.
-Làm thơ, văn, phóng viên...đăng trên các báo và tạp chí văn học trước 1975, bút hiệu Nguyễn Cát Đông. Từ 1980, tại Hoa Kỳ dùng bút hiệu Trần Bang Thạch.
-Trong nhóm Chủ trương Tạp chí Văn học Tiếng Động (Cần Thơ/ Sài Gòn) 1963-1965
-Tổng Thư Ký tạp chí Chỗ Đứng do Ban đại diện SV/ ĐHSP/SG chủ trương 1967-1969
-Trong BBT tạp chí VHVN, Houston Texas, từ 1998 đến nay
-Trong nhóm Chủ trương Tạp chí Văn học Thư Quán Bản Thảo từ ngày đầu, tháng 10-2001

-Tác phẩm:

Đường sang đất trích, 1966, kịch thơ, do Nhóm Nhân Văn ĐH Văn Khoa SG in ronéo (Tuyệt bản)
Tuyển Truyện Nguyễn Cát Đông, 1967, tập truyện, do Ban Đại Diện SV/ĐHSP/SG ấn hành, in ronéo. (Tuyệt bản)
Áo Mây Bay, thơ, chung với Huỳnh Phan, 1971, do nhà sách Nam Việt (Châu Đốc) xuất bản (Tuyệt bản)
Tuyển Tập Truyện 18 tác giả Miền Nam Trong & Ngoài Nước, 2003, Thư Ấn Quán xuầt bản.
Bên Trời (Tuyển tập Thơ 14 tác giả miền Nam, 2004, Thư Ấn Quán.
Tuyển Tập Thơ 7 tác giả Trong và Ngoài Nước, 2004, Thư Ấn Quán.
Quẩn Quanh Chuyện Đời, trập truyện, 2006, Thư Ấn Quán.
Truyện trước 1975 in trong Văn Miền Nam, Tập 4, Thư Ấn Quán, 2009.

​(Trích từ trang nhà : www.ptgdtdusa.com)

 

***

 

Truyện ngắn của nhà văn Trần Bang Thạch đăng rải rác trên các trang nhà “Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm” (www.ptgdtdusa.com), trang “Ái Hữu Đại Học Sư Phạm Sài Gòn”…, và đặc biệt tập truyện “Quẩn Quanh Chuyện Đời”(QQCĐ) của Trần Bang Thạch, do Thư Ấn Quán (New Jersey, Hoa Kỳ) ấn hành vào tháng 4 năm 2006, gổm 25 truyện ngắn, dày 274 trang, là những trang đời của những cảnh đời mà tác giả đã từng chứng kiến hoặc nghe thấy qua nhân vật có tên gọi như ông Phước, bác Trần Miệt Thứ, bà Hai Vàm Láng vân… vân…, hoặc có khi ngắn gọn hơn, nhân vật của Trần Bang Thạch thường xưng “tôi” ở ngôi thứ nhứt rất quen trong cách xưng hô của người Việt quê mình. Cách xưng hô với người đọc bằng “tôi” ấy nó có cái dễ mà cũng có cái khó. Dễ là ở chỗ nếu người đọc hơi lơ là một chút là sẽ bị tác giả dẫn mình đi lạc vào khu rừng với những loại dây leo như dây cổ rùa quấn chặt những thân cây cổ thụ hoặc như những loài dây bò như dây choại bò chen kín qua mấy lớp lá mục lâu năm của rừng tràm miệt Kinh Năm vùng Hỏa Lựu, Long Mỹ (Chương Thiện) thuở trước hoặc vùng U Minh vào những năm rừng chưa bị khai phá đề trồng lúa, trồng khóm…, và rồi mình lại cứ tưởng rằng câu chuyện mà nhân vật xưng “tôi” ấy đã tự thuật với mình chính lại là câu chuyện của tác giả; nhưng thiệt tình ra sự thật không phải lúc nào cũng là như vậy!

Cái khéo của Trần Bang Thạch khi chọn nhân vật ở ngôi thứ nhứt, xưng “tôi”, trong hầu hết các truyện ngắn của tác giả mà bạn nếu có dịp đọc, bạn sẽ thấy đây là một trong vài nét tiêu biểu về cách viết truyện của Trần Bang Thạch. 

 

Nét tiêu biểu kế tiếp là truyện ngắn của Trần Bang Thạch bao giờ cũng bắt đầu bằng một việc có thật hoặc được tác giả tưởng tượng giống như thật và nó đang có ngay trước mặt mình, ở thì hiện tại; để rồi từ đó tác giả mới nắm tay người đọc và dẫn bạn đi tìm căn nguyên nào mà nó lại có cái hiện tại ấy; thế rồi tác giả mới bắt đầu quay chậm lại khúc phim đời chìm nổi của nhân vật chính trong truyện của mình qua những phác thảo vừa đủ để người đọc tường lãm về một cảnh đời quanh quẩn bên mình…

 

Chẳng hạn như truyện “Thầy giáo làng” bắt đầu tác giả tả cảnh đám tang của ông thầy giáo làng; và rồi tác giả mới bắt đầu nhắc lại từ đâu mà ông thầy giáo ấy lại lưu lạc đến chốn này và vì sao ông lại làm cái nghề dạy học ở một làng quê miền sông rạch miền Tây mà không phải làng quê từ xứ sở của ông ở tuốt ngoài miền Trung và để rồi đến đổi ông giáo làng phải gởi xác thân của mình nơi xứ sở lạ hoắc lạ quơ ấy? 

 

Theo đó, hoàn cảnh của “Thầy giáo làng” của Trần Bang Thạch nó bi thiết giống như “ngôi mộ một ông nghè giữa cánh đồng Phú Xuyên (Sơn Tây)” mà nhà văn Nguyễn Hiến Lê có lần nhắc qua:

 

“Tôi còn nhớ hồi mười sáu, mười bảy tuổi, một buổi trưa hè bác tôi dắt tôi đi thăm ngôi một một ông nghè giữa cánh đồng Phú Xuyên (Sơn Tây).

 

Mộ nằm dưới một gốc cây đa cổ thụ, giữa một cái gò rộng khoảng dăm sào, nhìn ra một cánh đồng chiêm mùa đó loang loáng nước, xa xa bên mặt là núi Hùng và bên trái là núi Tản. Ngôi miếu ở trước mộ đã thấp lại hẹp, tường và mái đen những rêu, đôi câu đối chữ còn chữ mất. Hỏi thì bác tôi đáp rằng chỉ biết cụ nghè họ Nguyễn, sống vào cuối đời Lê, ở nơi khác lại miền này dạy học, họ hàng không có ai, khi mất dân làng nhớ ơn mà lập miếu.

 

Tôi bùi ngùi. Hiển đạt như ông nghè hồi xưa là tột bực, thế thì vì lẽ gì phải bỏ quê quán, lại nơi thô lậu này để gõ đầu dăm ba đứa trẻ rồi gởi luôn tàn cốt ở nơi này!” 

(Trích lời Tưa cuốn Cổ Văn Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, 2 cuốn, nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1966)

 

Và đây, một chút về Thầy giáo làng của Trần Bang Thạch:


“Ngày đó, thời thập niên hai mươi, cái thôn làng An Trụ chỉ là một thỏi đất rộng không đầy hai cây số vuông. Thỏi đất như một cục u nhỏ trên con sông Bassac, cách bến bắc Cần Thơ hơn ba mươi cây số theo đường chim bay. Dân làng An Trụ không làm ruộng mà chuyên làm rẫy nhờ nguồn đất phù sa màu mỡ. Cũng có những mãnh vườn trồng cây ăn trái như mãng cầu, vú sữa. Cư dân chỉ trên dưới năm mươi người già trẻ bé lớn, tất cả đều thất học. Chỉ có một người biết chút ít chữ nho, chữ quốc ngữ và có tài hốt thuốc nam mà người làng gọi một cách thân quen là ông Huế. Ông Huế có mặt ở làng này vào giữa những năm hai mươi. Thật sự không ai biết tên thật ông ấy là gì. Người ta truyền miệng rằng ông Huế có chân trong một phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục gì đó ở ngoài Trung kỳ, bị truy nã phải bỏ làng mạc vào thỏi đất ít người lai vãng này để mai danh ẩn tích. Dân làng không nhờ cái vốn chữ nho mà nhờ thật nhiều vào các món thuốc nam gia truyền của ông Huế. Người ta nhờ ông nhưng người ta không dám giao thiệp nhiều với ông một phần vì sợ dính líu đến chánh trị, phần khác người ta thấy ông không phải là "người mình" qua tiếng nói lạ tai và khó hiểu của ông. Đến giữa thập niên 1950, ngay sau khi Hiệp định Genève vừa ký kết, làng An Trụ có thêm một người khách từ miền Trung vào An Trụ tìm anh rồi ở lại lập nghiệp. Người thanh niên trán rộng, mũi cao, mang đôi kính gọng đồi mồi tên Tư Gấm lúc đó gần ba mươi, chính là em trai ông Huế. Người làng cũng coi anh Tư Gấm không phải là "người mình", lại có lý lịch không rõ ràng. Người ta còn đồn đãi rằng anh Tư Gấm bỏ xứ, bỏ vợ con vào đây là nằm trong kế hoạch "cài người" của phía bên kia để chuẫn bị cho cuộc tổng tuyển cử 1956. Điều này đã đưa tới một thiên tình sử đầy nước mắt cả mấy chục năm sau. Nghe nói anh Gấm đã đậu bằng sơ học yếu lược. Lần đầu tiên An Trụ có người biết nhiều chữ nghĩa. Cũng là lần đầu tiên An Trụ có một mái trường sơ cấp. Đó là nhờ công lao của thầy giáo Tư Gấm. Còn nhớ những ngày đầu xây dựng trường, đa số dân làng thờ ơ, thầy giáo Tư cùng với vài em trai lớn tuổi và mạnh sức dốc công ngày đêm cất lên ngôi trường chỉ có một phòng duy nhứt. Cổng trường uy nghi bằng bê tông cốt sắt có tấm bảng tên trường bằng xi măng nằm ngang với hàng chữ nổi là do công lao và hoa tay của thầy Tư. Có người phê bình là ngôi trường thì mái lá vách ván nhỏ bằng cái chén chun mà cái cổng thì như cổng của một toà lâu đài! Thầy Tư nói ngôi trường này sẽ lớn ra, sẽ mái ngói tường vôi nền gạch, làng An Trụ này cũng sẽ đầy chữ nghĩa. Các bàn ghế, bảng đen cũng do chính tài thợ mộc của thầy Tư mà có. Trường ốc đã xong, thầy Tư đi đến từng nhà năn nỉ cha mẹ cho con đến trường. Lớp học đầu tiên khai giảng với 1 thầy và 6 trò. Thầy Giáo Tư tiếp tục đến năn nỉ từng nhà cho con em đi học. Tuần lễ thứ hai có thêm 3 trò nữa.Thầy trò chuyên cần dạy và học. Lớp học nhiều khi là lúc rãnh tay ở ngoài rẫy dưa, hay bên cái đìa vừa tát cạn. Thầy Tư cũng sinh sống bằng nghề rẫy. Thầy dùng tiền của mình mua sắm dụng cụ cho trường và mua sách vở, giấy mực giúp đỡ những học sinh nhà nghèo. Sau ba năm thì chánh quyền công nhận trường Sơ cấp An Trụ và bắt đầu trả lương cho thầy giáo với số lương thật thấp của ngạch trật giáo viên xã ấp không có bằng sư phạm. Làng An Trụ có thêm nhiều cư dân mới. Lúc đó trường đã có 3 lớp học chung một phòng do thầy Tư dạy, sĩ số có lúc lên tới trên 20 mỗi lớp. Trường ốc đã đi vào nề nếp trong hệ thống giáo dục của quốc gia.

Nhưng năm đó cũng là năm có hai người sầu khổ vì tình tại làng An Trụ.”

 

Hoặc như vào truyện “Tương Phật”, mở đầu với một thực tại là bao thơ của một đứa học trò cũ từ quê nhà trao cho “tôi”, tác giả viết:


“Khi người học trò cũ từ quê nhà trở lại Houston trao cho tôi một bao thơ, trong có lá thơ thật dài của em gái tôi và một tượng Phật Bà Quan Thế Âm, tôi thấy mình choáng váng, muốn ngã quị. Đó là ngày gia đình chúng tôi làm cái thất thứ hai cho má tôi, tức là mười bốn ngày sau khi má tôi mất. Từ ngàn trùng tôi đã âm thầm khóc và cầu nguyện cho vong linh má tôi được sớm về cõi phúc. Bất ngờ nhận được tượng Phật, tôi nghĩ ngay rằng má tôi chưa đi đâu hết mà đang đến với tôi. Má muốn đem tượng Phật, đem cái may mắn đến cho tôi dù má đã xa đời. Trời ơi, người con bất hiếu là tôi đang biền biệt phương nào trong những giờ phút cuối đời của má, để vong linh má phải đi tìm tới tận nơi nầy. Còn nhớ hồi năm 2000 chúng tôi về thăm má tại quê nhà, má đã lẫn nặng, lúc nhớ lúc quên, nói năng khó khăn, thiếu đầu thiếu đuôi. Nhưng có một câu mà má tôi cứ hỏi tôi hoài: “Không biết đến lúc má già con có về được không?”. Mỗi lần nghe câu hỏi đó tôi đã vuốt đôi vai gầy của má, thế cho câu trả lời, vì nghĩ rằng xa xôi quá chỉ sợ về không kịp. Quả thật là không kịp. Má tôi ngã bịnh nhanh quá, ra đi nhanh quá và chôn cất cũng nhanh trước khi một năm mới sắp đến. Cũng là lỗi của tôi, cứ nghĩ má còn ở với con cháu lâu hơn nữa, cứ nghĩ vài tuần lễ nữa sẽ về, như lịch trình đã xin phép ở sở làm, chắc còn kịp. Tôi đã không về kịp thì hôm nay, qua tượng Phật, má tôi đã đến với tôi. Má bao dung của tôi chắc không trách, nhưng tôi thấy cái lỗi của mình quá nặng.

    Trên mười trang giấy đầy chữ em gái tôi kể lể từng chi tiết một kể từ ngày má trở bịnh cho đến giờ má nhắm mắt. Dòng cuối, em tôi viết: “Đúng 8 giờ 15 tối ngày 28 Tết má đã bỏ anh em mình mà ra đi!”. Tôi biết em gái tôi đã không cầm được nước mắt khi viết câu nầy nên bức thư phải chấm dứt ở đó, cũng như nước mắt tôi chảy nhiều hơn mỗi lần tôi đọc câu ấy.  Từ nhỏ cho tới giờ em gái tôi chưa hề sống xa mẹ, cho nên bên nầy tôi buồn một thì bên kia em gái tôi phải buồn mười. Mỗi lần nói chuyện với tôi trên điện thoại, em tôi chỉ khóc và khóc. Trên một tờ giấy nhỏ khác em tôi cho hay đã tìm thấy trong mớ tập vở cũ của tôi cái tượng Phật đã được để trong bao thơ với tên người nhận là tôi, nên em gởi sang cho tôi. Bị run tay và mất trí nhớ từ vài năm nay, má tôi chắc phải khó khăn lắm mới nhớ được và viết ra được tên tôi với nét chữ ngoằn ngoèo và dán thơ bằng cơm nguội. Chút cơm nguội khô còn dính trên bao thơ cho biết lá thơ nầy má dán không bao lâu trước ngày má mất. Má tôi trí óc đã lú lẫn mà ở những ngày cuối đời vẫn còn nhớ tới đứa con ở xa. Còn đứa con xa xôi nầy có bao nhiêu lần tưởng nghĩ tới má? Áp tượng Phật vào tim mình, tôi nghe hơi ấm của má. Tôi chợt hiểu rằng vĩnh viễn người mẹ luôn ấp ủ con cái của mình dù mẹ có đi tới đâu, dù con đang ở một chân trời góc biển nào. Và tôi cũng chợt nhớ rằng đã từ thật lâu tôi đã quên hết những cử chỉ, lời nói thương yêu đối với má. Bây giờ cầm tượng Phật trên tay, tôi như đang thấy má, muốn nói “má ơi con thương má” thì còn má đâu để mà nghe!”

(QQCĐ, trang 243)

 

Thế rồi tác giả mới đưa người đọc đi dần về quá khứ xa xăm của “Tượng Phật”, do đâu mà có và bức tượng ấy thân thiết, quan trọng biết bao khi tác giả kết từ bằng cả một tấm lòng của đứa con thương nhớ hiền mẫu của mình:

 

“ Những năm tháng còn sống trong gia đình, cứ mỗi lần sắp đưa ông táo về trời là tôi có bổn phận đánh bóng tất cả mấy bộ lư đồng, thích nhứt là được tỉ mỉ đánh bóng tượng Phật trên sợi dây chuyền của má. Tôi tẩn mẩn dùng bông gòn hay sợi chỉ thấm dầu bóng lau từ những kẻ ngón tay nhỏ bằng sợi tóc cho tới từng nếp áo, từng giọt nước cam lồ chảy ra từ cái bình nhỏ bằng hột gạo. Mỗi khi đánh bóng xong, tôi muốn được má khen và muốn tự mình đeo tượng Phật vào cổ má, để thừa dịp má không để ý, hun má một cái chụt rồi chạy mất. Còn nhớ năm đầu vào đại học trên Sài Gòn, má tôi đeo tượng Phật vào cổ tôi, nói là để được may mắn. Tới năm sau thì tự nhiên tôi cảm thấy mắc cỡ với đám bạn bè sinh viên của Sài Gòn hoa lệ, vì nghĩ rằng đàn ông con trai mà mang dây chuyền dây cổ với cái tượng Phật sao có vẻ quê mùa tỉnh lẻ quá, nên tôi trả về cho má. Càng lớn, đi học xa, rồi đi làm xa, tôi càng ít nghĩ tới  tượng Phật. Tôi không nhớ là đã bao nhiêu năm tôi không còn nghĩ tới tượng Phật nhỏ xíu ấy nữa. Hai mươi bốn năm ở xứ người, hình như tôi đã quên phứt cái tượng Phật mà hồi nhỏ tôi gọi là Má. Cũng quên luôn mình đã từng được má thương yêu gọi là Na Tra. Có lẽ tôi cũng ít khi nghĩ tới sẽ có một ngày rất gần mình phải mồ côi mẹ.

         Hôm nay thì tượng Phật đang áp sát trên ngực trái của tôi, ướt sũng những giọt nước mắt.”

(QQCĐ, trang 252)

 

Trong truyện “Ngoại tôi và dòng sông cũ”, tác giả tả chi li về bà ngoại hai và con rạch mang tên ông Cố:

 

“Từ đó, như một định mạng, con rạch mang tên ông cố tôi bây giờ là thế giới riêng của cô con dâu khốn khó của người. Không hiểu từ đâu mà ngoại hai tôi cứ nghĩ là cái đầu của ông ngoại tôi không trôi đi đâu xa, mà đang lẩn quẩn đâu đó trên con rạch của ông cha mình, đâu đó dưới gốc bần hay đâu đó trong bụi lát. Thật sự thì con rạch không dài, không sâu mà cũng không rộng. Nó chỉ là một nhánh của con sông cái bắt đầu từ cửa sông Bassac, chạy ngòng ngoèo qua thành phố Cần Thơ, chạy tuốt vô Cái Răng mới chia thành hai nhánh: một vào miệt Phong Điền, Cầu Nhiếm, một vào Cái Chanh, Cái Muồng. Rạch Ông Thìn nằm khoảng giữa Cái Răng và Cái Chanh, là ranh giới của làng Trường Phước và làng Trường Thành. Khu vườn cây ăn trái của ngoại tôi có hình dáng một hình chữ nhựt nằm ngay vàm Ông Thìn, một mặt có chiều ngang độ một phần tư cây số chạy dọc theo con rạch; mặt kia độ nửa cây số nằm trên bờ sông cái. Nhà việc của làng nằm trên khu đất của ngoại tôi. Từ vàm, con rạch dài gần ba cây số, chảy quanh co giữa vườn tược và gần trăm căn nhà hai bên, đa số là nhà lá, rồi bị cái đập đất chận ngang. Phía bên kia đập là cánh đồng lúa bát ngát của ông ngoại tôi. Bề ngang con rạch chỉ vừa đủ cho hai chiếc ghe chài chở lúa hạng trung qua mặt. Vào mùa khô, lòng rạch cạn gần tới đáy, một đứa con nít mười tuổi đứng không ngập đầu; còn mùa nước nổi thì nước tràn hai bên bờ, có khi mấp mé những nền nhà thấp. Từ ngày ông ngoại tôi chết, nước khô hay nước nổi thì ngoại hai tôi vẫn một mình một bóng trên sông. Một bóng trắng trên sông. Có lẽ còn một giọt nước trên sông là bà còn hy vọng. Nhiều khi đứng trên bến trước nhà, tôi thấy ghe ngoại hai theo con nước trôi ngang nhà, bà ngồi phía sau ghe, ơ hờ bẻ lái, mắt thì cứ liên tục nhìn dáo dác hai bên, thấy tôi bà cũng không nói lời nào. Mấy tháng đầu có vài lần tôi xuống ghe ngoại hai ngủ qua đêm, nhưng về sau hình như tôi hơi sợ. Tôi thấy ngoại hai thay đổi quá nhiều. Bà không còn cười hay chuyện trò với tôi hay với bất cứ ai. Nét mặt bà lúc nào cũng trơ trơ như thoa sáp, ánh mắt thì bao giờ cũng xa xăm, coi như không có ai trước mặt. Nhiều khi tôi có cảm tưởng bà sợ cả tôi.”

 

Hoặc như truyện “Người Mỹ chung tình”, mở đầu tác giả viết: 

 

“Gặp một người Mỹ chung tình trong cái xã hội văn minh, tiến bộ, giàu vật chất này thì khó quá phải không? Vậy mà tôi đã gặp một người. Có thể nói là tôi đã “sống”với ông hơn mười năm nay, thời gian chắc đã đủ để xác nhận ông là người Mỹ chung tình. Tôi đã muốn viết về ông từ lâu, nhưng tôi muốn chờ thêm, vừa để có thêm thời gian thử thách cái chung tình của ông, vừa để chờ một kết cục có hậu cho câu chuyện. Đến nay thì tôi không thể chờ thêm được nữa. Bài viết phải hoàn tất để đọc cho ông nghe trước khi ông hoàn toàn mất trí.” (QQCĐ, trang 236) 

 

Sau khi mở đề như vậy, tác giả bắt đầu kể lại cái duyên nào nhân vật xưng “tôi” làm quen với ông Mỹ ấy và dần dần Trần Bang Thạch kể tiếp cho đến khi lời tự sự ấy thôi thúc nhân vật xưng “tôi” không thể chờ đợi lâu thêm được nữa:

 

“Đến nay thì tôi không thể chờ thêm được nữa. Bài viết phải hoàn tất để đọc cho ông nghe trước khi ông hoàn toàn mất trí.”

 

Dường như truyện nào của Trần Bang Thạch, dù ngắn dù dài, cũng đều có cái bố cục tương tự như vậy. Từ đó, người đọc mới nhận ra thêm một điều nữa rất là Trần Bang Thạch; đó là tác giả, không biết vô tình hay cố ý, nhưng các trang văn của tác giả chính là những bức tranh xã hội được tác giả vẽ lại một cách rất sinh động qua nhiều màu sắc về nhiều phương diện dù xã hội với những cảnh đời loạn lạc sứ quân như truyện “Ngoại tôi và dòng sông cũ”, hoặc cảnh tượng Sài Gòn những năm sinh viên rầm rộ xuống đường biểu tình qua truyện “Cuộc tình lênh đênh” đầy trắc trở; đó là các truyên mang dấu tích xa xưa, còn truyện đời nay như chuyện “Vài chuyện nhỏ trong một nhà dưỡng lão” qua ba khuôn mặt: 

  • Chuyện Người Giám Đốc Không Giống ai.

  • Chuyện Người Di Tản Buồn.

  • Chuyện Con Lyly.

 

Từ đó, người đọc nhận ra thêm rằng, bên cạnh những cảnh đời rất quen ấy nhưng thật không quen chút nào với ai còn chút lòng trắc ẩn thương tưởng tới những người cô quạnh trong một nhà dưỡng lão như Bà Hai Vàm Láng, bác Trần Miệt Thứ lúc nào cũng nhớ chuyện quê nhà,“chuyện dăm cù bắt chuột, chuyện đặt trúm giăng câu của những ngày bác còn là nông dân ở Miệt thứ…”  Rồi bên cạnh đó, với “chuyện con Lyly”, tác giả khéo ghép chung con chó nhỏ ấy vào sinh hoạt của nhà dưỡng lão là một ngụ ý vừa tinh tế, vừa đau lòng… 

 

Dù là con chó nhỏ trong một nhà dưỡng lão ở một miền quê nghèo vùng Magnolia với dân số vào khoảng 2.000 người, ở ngoại ô thành phố Houston (Texas), cách downtown độ chừng 60 dặm về hướng Tây Bắc; nhưng chính nó, chính con Lyly ấy chứ không ai khác có lúc đã mang lại niềm vui cho những người già, mà những người già ấy lại là những người có một thời có gia đình êm đềm ấm áp với con cháu hạnh phúc đầy nhà nhưng lại cô quạnh ở những ngày cuối đời của một kiếp người nơi xứ người:

 

“… Lyly Từ 10 năm nay không ai nhớ được là Lyly đã làm bao nhiêu công việc lợi ích cho những thân phận già nua, cô đơn trong nhà dưỡng lão. Nhưng có một điều mà người ta vẫn nghĩ là những người già cả tội nghiệp từ nơi đây mà ra đi thế nào cũng mang ít nhiều hình ảnh dễ thương của con chó Lyly, một người bạn thân lúc nào cũng có mặt bên cạnh họ.” (QQCĐ, trang 195)

 

Thêm nữa, Trần Bang Thạch vốn là cựu sinh viên đại học Văn Khoa (Sài Gòn) từ những năm 1963 và là cựu sinh viên đại học Sư Phạm Sài Gòn (niên khóa 1967-1970), nhưng anh có cái ưu điểm là luôn giữ trong máu mình, trong hồn mình cái hồn quê, cái gốc gác chân quê của những ngày thơ ấu nơi làng Thường Đông của vùng Cái Răng (Cần Thơ) nên khi viết văn anh viết rất bình dị, rất tận tình; và khi dùng chữ anh luôn dùng chữ thật giản dị, chính xác và nếu có pha chút dí dỏm thì cái dí dỏm ấy phải có chút duyên và chừng mực như trong đoạn giới thiệu về cậu học trò tên Từ từ nhà quê lên Cần Thơ ở trọ đi học trong truyện “Cuộc tình lênh đênh”:

 

"Nhà thầy giáo Ba đối diện nhà tôi, hai nhà cách nhau con đường tráng xi măng nhỏ, chỉ rộng vừa đủ cho hai người đi song đôi. Ngay khi thấy mặt và tình cờ biết được tên của người con trai mới đến trọ học tại nhà thầy giáo Ba, thì tôi đã linh cảm được cuộc đời tình ái của tôi sau nầy rồi. Không hiểu sao lúc đó mới mười mí mà tôi nhạy ba cái chuyện người lớn dữ như vậy. Tôi mường tượng thấy nó sẽ ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh. Nguyên do là như thế này. Cái tên Ly của tôi, Trần Phương Ly, mà ghép vào với cái tên Từ của người con trai đó thì nghe sao bi đát quá chừng. Hai cái tên này mà đụng vào nhau thì không u đầu sứt trán thì cũng ruột tím gan bầm tim thổn thức. Thuở ấy tôi còn ngây thơ lắm vậy mà đã nằm lòng câu thơ: “Đưa người ta không đưa sang sông sao có tiếng sóng ở trong lòng”...  Cho nên Từ Ly hay Ly Từ thì cũng đều âm u, buồn bã, đớn đau, chua xót hết cả... Hình ảnh chàng tại Tương giang đầu thiếp tại Tương giang vĩ tuy hết sức thơ mộng trong thi ca, nhưng nếu cái đầu sông cuối sông ấy mà va vào phận số của mình thì chắc là buồn lắm. Yêu nhau thấu trời mà phải Từ với Ly thì chỉ có nước đi ... tu cho nhẹ lòng nhẹ dạ. Tên Ly của tôi thì vô phương sửa đổi rồi. Đó chắc phải là cái tên ba má tôi thích lắm; có lẽ ông bà đã nhiều đêm trong phòng vắng vừa tâm sự rả rít với nhau vừa tìm tên cho đứa con đầu lòng sắp ra đời, và lúc tôi gặp anh chàng thì cái tên Ly đó đã đi theo tôi mười ba mùa mưa nắng trên cuộc đời nầy rồi, dễ gì mà thay với đổi. Còn cái tên Từ được làm khai sanh cho thằng con út chắc ông bà ngầm thông tin với nhau rằng: Kể từ đây mình nên treo miễng chiến bài và giả từ vũ khí để còn có sức lực lo cho 8 đứa con nheo nhóc. Chớ cái điệu đầu năm sanh con trai, cuối năm đẽ con gái theo lời thiên hạ chúc ngày đám cưới thì chỉ có cách cả nhà uống nước sông cho no bụng. Cho nên cái chuyện đổi hay thay gì thì là ở cái nơi tạm cư của anh chàng đó. Thế giới này rộng thênh thang, tỉnh lỵ này cũng đâu có nhỏ, Thủ Đô Miền tây mà, tự dưng rồi Lê Văn Từ từ một làng quê nào đó chui vào con hẻm cụt nầy mà ở trọ; rồi chẳng biết ma đưa lối quĩ dẫn đường thế nào mà lại ở chường ngay trước mặt người ta. Phải chi anh chàng đến ở tại những nơi khác thì tôi đâu có quen biết gì anh chàng để mà thắc mắc và sầu đời. Phải, tôi đã sầu gần suốt cuộc đời này rồi đó quí vị ạ. Sầu quá kỹ cho nên mới trên năm mươi mà tóc bạc gần hết. Thì ai biểu quen biết với người ta làm chi để bây giờ dài dòng văn tự ?  Xin lỗi quí vị đừng phán như vậy. Quí vị đừng có binh vực người ta mà quá bất công với tui à nghen. Từ khởi thủy tui có muốn nhìn cái bản mặt cô hồn của anh ta đâu mà cho rằng tui muốn làm quen hay làm bạn; tui muốn làm lạ thì có. Nói trắng ra là những tháng đầu tôi thấy cái con người gì mà thật dễ ghét, quê một cục. Tình cờ chạm mặt người ta trên đường đến trường, cái cục quê này nào có thấy người ta đang tập mang đôi guốc cao gót Đa-kao hay cài con bướm bằng ny lông trên tóc, hay khi người ta ráng chịu đau cắn môi trên môi dưới cho môi thêm hồng thêm mọng, cái cục quê ngó lơ như bận tâm nhìn phố xá, hay cứ gầm mặt xuống mà đi, giống như người đi lượm bạc cắc ngoài đường; tui rủa anh chàng bữa nào đó đụng cây cột đèn u đầu gảy gọng để bọn con gái tụi tui cười cho đỡ buồn. Anh chàng ăn mặc còn bắt cười hơn nữa: cái áo sơ-mi trắng rộng thùng thình chồng vô thân hình ốm như cò ma, cái quần tây xanh gọi là quần dài mà cụt ngủn để lòi đôi ống chân cao lỏng nhõng, còn đóng phèn, mốc cời; bước đi thì kéo lê đôi giày săn-đan, làm như từ nhỏ đến giờ chưa từng biết mang guốc mang giày, mà chỉ biết quét đường bằng săn-đan không bằng; bước ra đường là có cái nón rơm che cái đầu hớt cua trông như trọc, nói năng chẳng biết thưa gởi là gì, phát âm thì cứ con-cá-gô-nhảy-chong-gỗ-kêu-gọt-gẹt-gọt-gẹt, tui nghe mà phát “gung” phát “ghét” phát “gầu” thúi “guột” thúi gan . Gần hết năm đầu thì tình hình có khá hơn một chút. Cái đầu hớt ca-rê phật được thay bằng cái đầu chải bảy ba tươm tất, nhiều khi có thêm chút bri-ăng-tin ba con năm và thêm cái ổ gà phía trước. Đầu năm chắc đã đếm cột đường nhiều quá rồi nên chán, giờ đây chịu ngước mặt nhìn lên tí chút. Cũng hỏng chừng chàng ta sợ cứ cuối đầu xuống hoài e rằng hột gà từ trên đầu rơi xuống lả tả thì hứng đâu kịp !!!" (Cuộc Tình Lênh Đênh)

 

Chắc chắn rằng những trang văn của Trần Bang Thạch dù muốn hay không, khi tác giả muốn đề cập đến chuyện đời quanh quẩn bên mình, tác giả đã có ý muốn vẽ lại nhiều bức tranh xã hội mà tác giả có dịp đã nhìn ngắm nó hoặc đã từng trải qua với kinh nghiệm đời, với chất liệu sống được tích lũy đầy một kho ký ức nên những trang văn của Trần Bang Thạch là loại văn vừa tả cảnh, vừa tả chân vô cùng hấp dẫn...

 

Về tả cảnh thì bút pháp của tác giả rất linh hoạt, trữ tình với óc liên tưởng vô cùng phong phú… Chẳng hạn như trong truyện “Tôi đi học”, tác giả bắt đầu tả cảnh trường UH (University Of Houston), nơi tác giả bắt đầu đi học lại sau nhiều năm bỏ ghế bỏ trường rồi chợt dưng ký ức của anh lại ùa về những ngày năm xưa của trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn vào những năm tác giả là sinh viên ở đó; xin mời bạn:

 

“… Toà cao ốc như một chiếc hộp khổng lồ trùm úp lên hàng trăm ngọn cây xanh trong khuôn viên trường đại học UH. Mấy mươi tòa nhà thấp hơn ẩn hiện giữa những lá, những hoa trên vuông đất rộng nhiều trăm mẫu. Đứng trên từng lầu cao nhất của đại giảng đường Holman, qua khung cửa kính tôi thấy bạt ngàn màu xanh của lá. Tôi cũng thấy màu nắng thật nhạt, thật ngọt ngào trên những dãy mây thấp. Màu chiều cũng lãng đãng quanh đây. Ngoài kia gió chiều chắc cũng đang mơn man từng cánh lá. Các sinh viên lũ lượt rời khỏi giảng đường. Bà giáo sư trẻ đang sắp xếp các giấy tờ, thu gọn các âm bản và máy chiếu. Tôi muốn đứng lại đây, một mình, giữa cái giảng đường rộng mênh mông, cao nghều nghệu như trên mấy tầng trời này. Tôi đang đứng trên màu xanh của lá. Lá. Lá.Lá. Nhìn đâu cũng thấy lá. Những dãy mây mỏng trôi chầm chậm trên đầu cho tôi cái cảm tưởng tôi cũng đang thông thả bước đi trên tấm thảm xanh của một tương lai mới chớm, một hy vọng mới hình thành. Có thật vậy sao? Có thật tôi đã trở lại giảng đường đại học ngày đầu tiên hôm nay? Có cái gì nghe quen thuộc, gần gũi quá mà cũng xa xôi quá. Ba mươi năm, một giấc mộng dài đang trở thành sự thật: Tôi đang tiếp nối những bước đi dang dở từ lứa tuổi thanh xuân. Ba mươi năm trước, tôi đã giả từ trường lớp, giả từ thầy, bạn, bước ra khỏi chiếc cổng xi măng màu gạch cua của một trường đại học nằm trên đường Cộng Hòa, đối diện với Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành, để “vào nơi gió cát”. Từ chiếc cổng vàng thếch, lỗ chỗ nhiều vết đạn, con đường trải đá xanh với hai hàng còng già sụ, da dẻ sần sùi dẫn vào dãy nhà trệt lợp ngói âm dương dùng làm câu lạc bộ và các phòng sinh hoạt sinh viên, rồi tới giảng đường SPCN to như một quả đồi con nổi lên giữa những gian nhà thấp. Trong cái giảng đường khổng lồ này hàng năm bảy trăm con người ngồi chen chúc trên các băng ghế được xếp thoai thỏai hình trôn ốc từ nền cho tới gần chạm trần nhà. Vị linh mục giảng dạy môn Sinh Vật với cánh áo dòng trắng tinh, một tay cầm chiếc micro không dây, một tay cầm phấn, vừa vẽ vừa giảng suốt hai tiếng đồng hồ mà không một lần nhìn vào bài soạn. Con đường trải đá xanh đó tôi đã tới tới lui lui hơn ba năm trời. Những buồn vui đã thật đầy như những chồng bài vở quay ronéo dày cộm. Hơn ba năm tôi nhìn cuộc chiến đang mỗi ngày một đến gần. Tôi nghe người ta hát Tôi có người yêu chết trận Pleime. Tôi biết có ông tướng phường tuồng mang theo cục đất khi lên máy bay rời đất nước.Tôi nhìn tôi muôn ngàn vất vả qua những kỳ thi, nhìn người-lính-tôi đang chực chờ ngoài cửa lớp, chỉ chờ một sơ xẫy của người-sinh-viên-tôi là xông vào, cuốn tôi đi theo chiều gió. Tôi nhìn em xanh xao vàng võ trong chiếc áo blouse trắng rộng thùng thình nơi phòng thí nghiệm sinh hóa. Tôi nhìn bạn bè tôi lăng xăng với những cuộc xuống đường, bãi khóa, những đả đảo, hoan hô, những hơi cay và nước mắt. Có những đêm dài tôi phải bó mình trong Đại Học Xá Minh Mạng để tránh lựu đạn cay. Các nhạc sĩ sinh viên Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng đi đến đâu là có dùi cui, có lựu đạn cay đến đó. Bạn bè tôi, những đầu bù, tóc rối, kiếng cận, quần loa ngồi gật gù thâu đêm bên tách cà phê đen, thuốc lá đen và đêm đen trong các quán Xuân Hương, Hầm Gió, Thằng Bờm. Tôi đã khóc trước linh cữu ông thầy dạy Cơ Thể Học bị ám sát trên đường Trần Hoàng Quân, ngay bên cạnh Đại Học xá Minh Mạng. Tin nơi nầy đánh lớn, nơi kia đánh nhỏ. Tin thằng bạn nầy ngã gục, thằng bạn kia vào Thủ Đức….

 

     Những biến động dập dồn trên cả nước đâu có dừng lại trước một cánh cổng trường nào đâu. Cho nên, giữa năm học cuối tôi đã bỏ lại tất cả để lăn vào cuộc chiến, bỏ lại tiếng vélo bình bịch của người em Sinh Hóa. Chiến cuộc và toàn thể Miền Nam bị chết tức tưỡi. Tôi cũng tức tưỡi chui vào tù; như một định mệnh đã an bày. . Cái hụt hẫng này phải đợi đến hơn hai mươi năm nơi xứ người, phải đợi đến hôm nay mới được tiếp nối.

 

    Chiều nay, đứng trên tầng cao của đại giảng đường Holman, tôi như thấy trước mắt con đường trải đá xanh với hai hàng còng già nua của ba mươi năm cũ đang lập lờ uốn lượn bên ngòai vuông cửa sổ. Và, ơ kìa, ở cuối tầm mắt, chỗ vòm cây xanh giáp với xa lộ liên bang I- 45, tôi bỗng thấy thấp thoáng một chàng thanh niên đang đứng dưới vòm cong của chiếc cổng thật quen. Chiếc cổng màu gạch cua trên đường Cộng Hòa mang nhiều thương tích. Chàng thanh niên dừng lại một chút rồi theo con đường trải đá xanh bước vào cái giảng đường to như một quả đồi non. Rồi quả đồi non ấy bỗng tan loãng vào dòng xe cộ hướng về phía Downtown.”

(Tôi đi học, QQCĐ, trang 19)

 

Thưa vâng, đó là một trong nhiều trang văn tả cảnh, còn phần tả chân trên các trang sách của Trần Bang Thạch, theo thiển ý của tôi, tác giả đã sở trường bút pháp tả chân này qua óc quan sát rất nhạy bén và qua kinh nghiệm ở trường đời rất già giặn nên tác giả có được những nét chấm phá rất xác đáng, nhưng chừng mực của mỗi cảnh đời riêng biệt, chứ anh không cường điệu quá một cảnh ngộ và anh cũng không bi thảm quá những phận người! Điều này cũng khế hợp với lời khuyên của cụ Nguyễn Hiến Lê trong bộ Luyện Văn:“Nếu tả toàn diện của một miền, một đời người, một thời đại, một xã hội thì quy tắc tả chân không cho phép ta được lựa riêng những cái đẹp hoặc những cái xấu” (Luyện Văn, quyển I, 1954, trang 167).

 

Tóm lại, qua các ghi nhận về cách viết truyện ngắn trong những trang sách của Trần Bang Thạch vừa rồi, ở đó cho người đọc nhà quê già như tôi được sanh ra rồi lớn lên ở nhà quê qua những mùa màng ngày cũ và có cùng tuổi đời với tác giả nên tôi thấy được rằng tác giả đã chọn một cách viết rất riêng của Trần Bang Thạch cốt sao ở đó tỏ lộ hết những ý tưởng, những suy nghĩ của tác giả về những cảnh đời mà tác giả đã có dịp được nhìn ngắm hoặc dự phần qua thời gian khá dài, có tới mấy mươi năm! 

 

Nghĩ thì nghĩ vậy thôi nhưng còn việc trúng hay trật, làm sao tôi dám chắc cho được! 

Phải vậy hông, thưa bạn?

 

Hai Trầu

Houston, ngày 12 tháng 8 năm 2022.

____________________________

THÔNG BÁO TẶNG SÁCH MỚI

của Winston Phan Đào Nguyên:

 

MỐI THÂM TÌNH CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU DÀNH CHO “QUAN PHAN” PHAN THANH GIẢN

Winston PĐN_Bia sach NgĐChiểu.JPG

 

 

Nhân dịp UNESCO kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu vào năm 2022, tác giả Winston Phan Đào Nguyên xin thân tặng tất cả các bạn đọc một nghiên cứu mới về nhà thơ, cuốn sách với tựa đề Mối Thâm Tình Của Nguyễn Đình Chiểu Dành Cho “Quan Phan” Phan Thanh Giản. 

 

Tác giả chỉ có một yêu cầu nhỏ là nhờ bạn thông báo về cuốn sách này và đường link download dưới đây cho tất cả bạn bè bà con muốn đọc:

 

 

https://app.box.com/s/p7e3mgfty0l1asrqkewxuck6bwqw7rny

 

 

Nếu bạn muốn sách giấy thì có thể order sách từ Amazon theo link này:

 

 

https://www.amazon.com/Th%C3%A2m-Nguy%E1%BB%85n-Chi%E1%BB%83u-Thanh-Vietnamese/dp/108803795X/ref=sr_1_1?crid=2K30ANBDPFUP4&keywords=moi+tham+tinh+cua&qid=1654557154&sprefix=moi+tham+tinh+c%E1%BB%A7a%2Caps%2C123&sr=8-1

 

 

"Năm 2022, nhân hai trăm năm ngày sinh của Nguyễn Đình Chiểu, UNESCO đã nhìn nhận ông như một danh nhân văn hóa của thế giới. Và lý do chính không phải vì lòng "yêu nước" của ông, mà chính vì những phương diện khác; như sự cố gắng vượt qua nghịch cảnh của ông, ý chí của ông, thi văn tài của ông. Nhưng có lẽ một phương diện tích cực khác của Nguyễn Đình Chiểu mà ta cần thấy rõ hơn là sự trung thực trong vai trò nhân chứng thời cuộc, đã được thể hiện một cách không dấu diếm trong thơ văn của ông. Là một con người của thời cuộc, của thế kỷ 19 ở xứ Nam Kỳ, là một nho sĩ trọn đời thờ vua, nhưng ông đã tạo ra một đường lối thơ văn đặc biệt của riêng mình, với một tấm lòng chân thật không chút điêu ngoa. Đối với người mà ông cũng như toàn thể dân chúng Nam Kỳ thương mến gọi là "quan Phan", Nguyễn Đình Chiểu đã bày tỏ lòng khâm phục trong hai bài thơ điếu Phan Thanh Giản, cũng như trong 10 bài thơ điếu Phan Tòng. Nhưng vì lý do chính trị, trong nhiều năm qua đã có nhiều tác giả trong nhiều bài viết cố tình bẻ cong sự thật để gán cho thi sĩ Nguyễn Đình Chiểu tức ông Đồ Chiểu một âm mưu đê tiện là ngấm ngầm chửi rủa Phan Thanh Giản; cho dù bề mặt ngợi khen. Đã đến lúc phải trả lại sự thật nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của vị danh nhân văn hóa này. Đã đến lúc phải vạch ra sự cố tình xuyên tạc Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn cũng như con người của ông. Đã đến lúc phải nhìn nhận mà không có chút nghi ngờ nào nữa về mối thâm tình mà Nguyễn Đình Chiểu dành cho quan Phan - Phan Thanh Giản."

 

 

Trân trọng,

 

Tác giả Winston Phan Đào Nguyên

tl_teardrop.jpg
TL_30thang4vaBoatPeople.jpg

Tưởng

nhớ

Nguyễn Thị Thanh Dương, Kim Loan, Cao Vị Khanh    

I'm a paragraph. Click here to add your own text and edit me. It's easy.

I'm a paragraph. Click here to add your own text and edit me. It's easy.

 

NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG:

 

 

 

 

 

 

Ai may mắn đi qua cầu Jetty,

Pulau Bidong làm người tị nạn,

Những người Việt Nam lìa quê vượt biển,

Đến Mã Lai chờ ngày đi định cư.

Chỉ là chiếc cầu gỗ dài đơn sơ,

Chiếc cầu lạ của người dưng xứ lạ,

Ngày đầu tiên đi qua cầu bỡ ngỡ

Ở lại đây cầu bỗng hoá thân tình..

Ai  có lúc đứng trên cầu một mình,

Biển mênh mông mà nhìn về một hướng,

Biển Bidong chân trời hoàng hôn xuống,

Nước mắt như biển mặn nhớ quê nhà.

 

Ai đã đón người qua cầu Jetty,

Thuyền nhân mới đến kẻ quen người lạ,

Chiếc cầu  chuyển thực phẩm và hàng hóa,

Chiếc cầu vui buồn đời sống tạm dung

 

Ai  đã rời cầu Jetty thân quen,

Ai đứng bên cầu Jetty bịn rịn,

Ngày đi định cư chiếc cầu đưa tiễn ,

Biển Bidong rào rạt dưới chân người.

 

Cám ơn biển đã đưa ta đến nơi,

Cám ơn đảo đã vòng tay mở rộng,

Thương chiếc cổng đơn sơ khi mới đến,

Thương: “Welcome to Pulau Bidong”.

 

Mong đi định cư sao chân ngại ngùng,

Sao bước chậm khi qua cầu đến thế,

Đến rồi đi. Chào cầu Jetty nhé,

Đến rồi đi cảm động lúc qua cầu.

 

Bao nhiêu kỷ niệm bỏ lại nơi này,

Đời tị nạn, một khoảng đời thương qúa…

Cầu tiễn ta đi về miền đất hứa,

Ta đi đâu vẫn nhớ chiếc cầu này..

    Nguyễn Thị Thanh Dương.

 

KIM LOAN

 

THÁNG TƯ CỦA NGƯỜI VƯỢT BIỂN

(Để nhớ những chuyến tàu ra khơi vì tự do)

 

Ai đã từng qua một lần vượt biển

Sau Tháng Tư, Một Chín Bảy Mươi Lăm

Tìm tự do nơi miền đất xa xăm

Trên những con thuyền với bao ước mộng?

 

Biển ban ngày dịu màu xanh hy vọng

Lòng kẻ xa nhà gợn sóng hoang mang

Bỏ lại quê hương, bỏ lại người thân

Và mẹ già đang từng ngày trông ngóng

 

Biển ban đêm, là màu đen hoang vắng

Bóng tối chập chờn nỗi sợ mênh mông

Thuyền bơ vơ trôi đi giữa biển đông

Mong trời sáng thấy bình minh ló dạng

 

Có khi biển chợt nổi cơn điên loạn

Sóng bạo tàn, gào thét khắp trùng khơi

Thuyền lênh đênh như chiếc lá chơi vơi

Biển bao la nào thấy đâu bờ bến

 

Cũng có khi biển lạnh lùng tàn nhẫn

Đồng loã cùng bọn hải tặc hung hăng

Gieo kinh hoàng và những tiếng khóc than

Trong giây phút, thuyền chao nghiêng rạn vỡ

 

Nhưng biển cũng mở lòng ra che chở

Những xác thân vừa nằm xuống đại dương

Mộng tự do mang theo cõi vô thường

Xin yên nghỉ nơi đây nghe sóng vỗ

 

Biển cũng đưa những con thuyền bé nhỏ

Vào đất liền trong bao nỗi mừng vui

Đói khát, sợ lo, hiểm nguy qua rồi

Nơi đất lạ, thắp lên niềm tin mới

 

Cám ơn Bidong, Galang, White Head

Panat, Sikiew, Palawan, Songkla…

Bỗng thân thương để ta gọi là “nhà”

Chốn tạm dung vẫn thấy lòng ấm áp

 

Cám ơn Cao Uỷ, cám ơn Red Cross

Cùng những đoàn thiện nguyện khắp năm châu

Vẫn còn đây trong cuộc sống nhiệm màu

Người với người trao nhau tình đồng loại

 

Ta nếm trải buồn vui đời tỵ nạn

Vẫn đau lòng nhớ chuyến hải hành qua

Biển hiện về, cay đắng lẫn thiết tha

Trong khuya vắng giữa những cơn mộng mị

 

Bốn mươi bảy năm! Biển mãi là kỷ niệm

Của những thuyền nhân vượt biển khi xưa

Thời gian qua, cũng chẳng thể xoá nhoà

Ký ức biển… Một thời ta đã có

 

KIMLOAN ___________________

 

CAO VỊ KHANH

Chiều tháng tư về qua sông Cổ Chiên

 

Gió quậy tư bề sóng nhọn hoắc

Thuyền quay như lá cuối mùa rơi

Người qua sông muộn tay ghìm chặt

Vực trống chìm sâu đến rụng rời

 

Nước chảy hung hăng lở sạt bờ

Tưởng ngàn vó ngựa sải qua mau

Người về từ cõi đầy xương sọ

Lòng bể trăm chiều miểng cứa đau

 

Nước vẫn tuôn tuôn, sầu cuộn cuộn

Ngó lục bình trôi tưởng rã hàng

Người xưa có đợi ? Chờ có muộn ?

Mà cứ trông chừng một bóng sang

 

Thuở nhỏ qua sông ý đã liều

Thách trời, kiêu ngạo cả hư vô

Hai mươi năm lẻ về vội vã

Nước mất, đường quê rặt bóng mồ

 

Gió đẩy thuyền đi, hận quá giang

Cồn xa bỗng lạnh rợn âm quen

Chiêng trống thời xưa gào xung trận

Trách kẻ đời nay để phận hèn

 

 CAO VỊ KHANH _____________

NGUYỄN THỊ THANH DƯƠNG:

NTTD_JettyBridge_2.png
CVK_TuyButThangTu.JPG

thơ Trần Hoài Thư                    

 

Ơn đền nợ trả
                   (trich từ Thơ làm ở tuổi 80)
1.

Ngày và đêm, đêm và ngày
Làm sao tôi biết thân này của tôi
Mẹ tôi cho tôi ra đời
Đao binh tôi xỏ đôi giày saut da
Hòa bình, đốn củi lợp nhà
Nợ nần tôi được hóa thân thú người
Tôi vay tôi trả cho đời
Giờ tôi 80 còn gì trả không?

Sao mà dạ cứ bâng khuâng
Sẹo hằn thân thể vẫn nằm ngủ yên
Này miễng lựu đạn màu đen
Này vết sẹo láng như viền album
Này đùi non, dấu chiến thương
Vậy mà vẫn sống sau mùa binh đao

Ơn này không biết trả ai ?

(thơ làm ở tuổi 80)

 

Chiêm bao

 

Bởi chiêm bao không mọc lên từ chiến hào
Mà đến từ đằng sau màn khói thuốc
Khi cô hàng cà phê má đỏ hồng trong bếp
Nồi nước sôi reo, hồn lính reo sôi
Trên vách nhà in bóng ba thằng lính phong sương
Thêm bóng khẩu súng trường lặng im,
nòng súng kề vai cùng ông thầy sống chết

Vây mà những hớp xây chừng sao mà đậm đà quá sức
Khiến ta cà đời nhớ quán sớm với bài thơ:

"Mở hàng. Súng  gát vào phên vách
Đôi giày bùn ướt còn bám đầy
Cô hàng ơi, xin ly xí nại
Mới ở mật khu về, thèm quá cà phê

Quán chật, mấy thằng ngồi cụm sát
Bỏ qua đêm trắng mắt bằng đồng
Nghe như mùi đất còn vương tóc
Lính bụi mà, em có thương không ?"

THT

YungKrall_audiobook_2.JPG
YungKrall_book.JPG

Danh sách tưa đề cho 44 chương của cuốn sách NGÀN GIỌT LỆ RƠI,

và link trên Youtube: 

 

  1. Lời giới thiệu cho cuốn sách. 

  2. Năm 1954chương 1https://www.youtube.com/watch?v=zFQePiAO1iU&t=1657s

  3. Người làm Cách Mạngchương 2Ahttps://www.youtube.com/watch?v=IiOboiAse3s

  4. Cuộc sống gia đình kháng chiến miền Namchương 2Bhttps://www.youtube.com/watch?v=6kwr7J9VaMI&t=3s

  5. Mẹ tôi và Ông Ngoại-chương 3Ahttps://www.youtube.com/watch?v=Iw7US75U81w

  6. Quyết định Chia ly-chương 3Bhttps://www.youtube.com/watch?v=HWWm_LdVk1c

  7. Giữa 2 lằn ranh-chương 4https://www.youtube.com/watch?v=uert1evHlz0

  8. Đi Saigon lần đầuchương 5https://www.youtube.com/watch?v=v7URrCzKNhU

  9. Rắc rối ở Saigonchương 6https://www.youtube.com/watch?v=ommGkoAIRZY&t=294s

  10. Tuổi thơ và Cần Thơchương 7https://www.youtube.com/watch?v=L1rRmmvFuqY

  11. Trở lai Saigon chương 8. https://www.youtube.com/watch?v=eyB15OAEjqQ

  12. Giấy khai sinh mớichương 9https://www.youtube.com/watch?v=4-PmiuGfDa8&t=131s

  13. Phải nói dốichương 10https://www.youtube.com/watch?v=alD_Qg9MkT0

  14. Tà đạo bủa vâychương 11. https://www.youtube.com/watch?v=6gKpTx_gung&t=4s

  15. Người Mỹ và làn sóng di cưchương 12https://www.youtube.com/watch?v=6LDCAJGidk0

  16. Vào Trung học Công lậpchương 13https://www.youtube.com/watch?v=79gZSuZS-Io&t=2s

  17. Nỗ lực tuyên truyềnchương 14. https://www.youtube.com/watch?v=Dj-8CzkwUHs

  18. Năm 1963- chương 15A. https://www.youtube.com/watch?v=UPaUHdpIjYM&t=3s

  19. Lý lịch và việc làmchương 15Bhttps://www.youtube.com/watch?v=XG0DfjGyFCM

  20. Biên tập viênchương 16https://www.youtube.com/watch?v=qrbwuIvDKlU&t=2s

  21. Thử tháchchương 17https://www.youtube.com/watch?v=W5tSGTm0Q-8&t=3s

  22. Phép lạchương 18https://www.youtube.com/watch?v=oZxUBEyvBzM&t=3s

  23. Người Quốc Gia - chương 19https://www.youtube.com/watch?v=NnKSmRImQFw&t=4s

  24. Gái Cần Thơ- chương 20https://www.youtube.com/watch?v=k3KXDSR89rM&t=11s

  25. Đi làm sở Mỹchương 21. https://www.youtube.com/watch?v=lrcFqyB9d_Y

  26. Cặp mắt xanh- chương 22. https://www.youtube.com/watch?v=OJmJ-09KSoY&t=32s

  27. Tết 1968chương 23https://www.youtube.com/watch?v=lvw5iqDmer4&t=27s

  28. Lấy chồng xa- chương 24. https://www.youtube.com/watch?v=ARcdX3NFmK0&t=1s

  29. Chí làm traichương 25https://www.youtube.com/watch?v=bqc-aEYz6hA&t=33s

  30. 1975- Tin dữchương 26. https://www.youtube.com/watch?v=hHDVPGVSvUs&t=366s

  31. Mạo hiểm về Saigonchương 27. https://www.youtube.com/watch?v=31dIM0_C8DY&t=66s

  32. Trùm CIAchương 28. https://www.youtube.com/watch?v=ltojyc3aYqo&t=10s

  33. Định mệnh bắt đầu- chương 29https://www.youtube.com/watch?v=95fy1EuGKVU&t=392s

  34. Đi Tokyochương 30. https://www.youtube.com/watch?v=58sYBwfbJOE&t=7s

  35. Tình Cha con- chương 31https://www.youtube.com/watch?v=F1c3SmtZnLI

  36. Lời con trẻchương 32https://www.youtube.com/watch?v=l5vABgEFois&t=2s

  37. Lá thưchương 33https://www.youtube.com/watch?v=_fLcTLmNpUM&t=2s

  38. Một chuyến đichương 34. https://www.youtube.com/watch?v=4sd4dpOofh0&t=2s

  39. Vào sứ quán giặcchương 35https://www.youtube.com/watch?v=iONNFk6XcLg&t=518s

  40. Giáp mặtchương 36https://www.youtube.com/watch?v=97iJffSYC8s&t=4s

  41. Ép buộc hồi hươngchương 37. https://www.youtube.com/watch?v=CrV1YF8m7r4&t=2s

  42. Sự lựa chọnchương 38 A. https://www.youtube.com/watch?v=yymr3LTh3pE&t=2s

  43. Đinh Bá Thichương 38Bhttps://www.youtube.com/watch?v=-_HcDLP5tNU&t=2s

  44. Huỳnh Ngọc Châuchương 39https://www.youtube.com/watch?v=f1fghFFL8_Y&t=6s

  45. Trương Đình Hùngchương 40https://www.youtube.com/watch?v=A0BrJUxJCXA&t=5s

  46. Chuyển đến Luân Đônchương 41https://www.youtube.com/watch?v=BmIupY0ruAc&t=9s

  47. Tình vợ chồngchương 42. https://www.youtube.com/watch?v=PE0-n4A7NFU&t=7s

  48. Tâm sự của Bachương 43. https://www.youtube.com/watch?v=dd9kTlrPBeU&t=3s

  49.  Viếng Thăm Chấm Dứt-chương 44Chương cuốihttps://www.youtube.com/watch?v=eL8DuNmKmBQ&t=6s

  50. Lời Bạt.(Chưa xong)

________________________________

THT_Tocboduoiga_1.jpg

Bạn bè khuyên tôi phải nghỉ ngơi, làm tuỳ sức, tuổi 80 rồi còn gì. Tôi cứ thắc mắc nghỉ ngơi nghiã là làm sao. Ngủ ? tôi rất khó ngủ, Đọc sách ? Phần lớn những sách tôi thích đều đọc trong thời tuổi trẻ. Sách bây giờ đọc càng nhức đầu thêm. Thiền ? Tụng kinh ? Gym ? đó cũng chỉ là những công việc đòi hỏi công sức. Vậy thì tôi phải làm gì đây để nghe lời khuyên của bạn bè thân mến.


Trưa nay con tôi chở tôi đến thăm mẹ nó ở Viện Dưỡng Lão. Thăm để thấy mặt, để càng đau lòng vì những con kiến càng, kiến lưả, kiến thợ của thời gian càng ngày càng đục khoét thân xác người bệnh. Vậy thì tôi phải làm gì, bạn khuyên tôi đi. Hay là tôi sẽ ngồi trưóc maý như bạn, xem youtube, hay 12 ngôi chuà đẹp nhất ở Huế... Trong khi cả thân hình tôi như xiêu đổ, tay chân tôi cuả thời mang giày saut giờ mang 2 caí cùm hay hai cục đá của thời gian. 

Bạn bè khuyên vì còn thương tôi. Có nghĩa là mấy lão trượng ấy chưa : “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Chúc mừng bạn vì bạn không bốc nhầm lá thăm xấu. Lá thăm ấy đã có kẻ khác bốc nhầm rồi.

Chỉ có một kẻ không khuyên tôi nghỉ ngơi như bạn. Kẻ đó là con trai của tôi. Thỉnh thoảng nó mang về thùng giấy nặng triủ, để tôi in ấn sách báo hay mang ra bưu điện những thùng sách báo nặng trĩu giúp tôi gởi trả lại thư viện Cornell hay những thân hữu order sách của tôi. Nó là bác sĩ chuyên khoa về cưú cấp tại một bệnh viện cách nhà tôi hai tiếng đồng hồ xe chạy. Chỉ có nó mới bắt tôi làm việc, không nghỉ ngơi. Cứ mỗi lần tôi nằm lâu trên giường, nó gọi bảo ba phải hoạt động. Đi trong nhà. In sách..

Hoạt động. Nó không phải là bác sĩ về therapy để dạy tôi hoạt động như thế nào. Phần ấy là do tôi đảm trách. Tôi tự nghĩ ra, và tự làm. Không ai có thể nghĩ như tôi. Để bây giờ dù qua phim MRI, cái cục maú như cái mô vẫn tồn tại. Nó không phát triển để làm tắt nghẻn đường dây thần kinh. Nó chừa một khoảng trống. Và dù muốn dù không, nó cũng ảnh hưởng it nhiều đến sự vận hành của trí nảo, tay chân, và cơ thể.

Cái toa thuốc ông bác sĩ cho tôi là uống baby aspirin mỗi ngày để làm loãng máu. Phòng ngừa stroke mới. Không có thuốc làm tan cục máu nghẻn. Ông nói với tôi như thế – trừ mổ. Nhưng với cục maú rất nhỏ mổ thì rất nguy hiểm. Nhân viên therapy tập tôi một tháng như tập đứa con nít. Nào là tập bước chừng 5 thước. Tập leo tam cấp. Tập mở cửa vào xe (phía hành khách). Tập ráp đồ..…

Và việc tập lâu hay mau tuỳ thuộc vào insurance. Insurance cho bao nhiêu thì còn tâp, hết cho thì tốt nghiệp.

Thú thật, có tiến bộ thật. Tiến bộ ở đây là cầm chiếc càng walker mà bước. Nhưng cầm đủa muỗng thì run. Cơm hay thức ăn thường hay vuơng vải ra ngoài. Nhiều lúc tủi thân muốn rưng rưng nước mắt.

Vậy mà bây giờ, tôi đã đánh maý xong 140 trang khi thực hiện Giai phẩm TQBT số 97. Phép lạ? Hồi phục ? Không phép lạ gì hết, Mà phải Cảm tạ ông ký giả Lô Răng vì ông viết tạp ghi quá hay. Và củng cái sáng kiến gõ thơ, gõ văn trên keyboard, đã khiến những ngón tay của tôi thuần nhuyễn diệu kỳ. Tôi có thể xỏ chỉ vào kim khi thực hiện bộ thơ 5  cuốn cho một độc giả bên Úc mới đây. Lúc naỳ tôi mới hiểu được sự mầu nhiệm do “gõ chữ” mang lại.  Cậu bác sĩ con tôi tấm tức khen. Cô nhân viên ở trung tâm Rehab cũng thú nhận: cách cuả ông tuyệt vời. Tôi nói quá lời chăng. Không. Bằng chứng là cuốn Giai phẩm TQBT 97 được hoàn tất, do một mình tôi bao dàn từ A-Z được phát hành sau khi Bộ cũ TQBT thường lệ đình bản. Bạn bè noí là tôi điên hay thêm một lần tội nghiệp cho tôi. Có người giận vì tôi không nghe lời họ. Phân trần cách mấy họ cũng không nghe. Thôi  đành chịu mất lòng bạn bè chứ sao .

Hôm qua, cha con tôi đi thăm Y.. Nhà tôi được người giúp việc đẩy xe lăn từ phòng ra ngoài phòng khách. Cha con tôi tiếp tục la gào em/mẹ biết ai không ? Stroke mới nhất đã đánh nhà tôi, lần này ác liệt. Bên ngoaì đôi mắt ấy là vô hình. Đàng sau đôi mắt ấy là vô ảnh. Tôi nói với con tôi, phải chi mẹ bị stroke lúc naỳ, ba sẽ cưú mẹ, như ba tự cưú ba.

Lợi dụng cơ hội naỳ, tôi tự tập physical therapy. Đoạn đường hành lang khá dài. Cuối hành lang là phòng Rehab (phục hồi), tôi nhìn vào. Những ngưởi đang ngồi đạp xe. Một ông giả hét tao không muốn chụp khi cô chuyên viên thảy quả bong bóng về phía ông ta. Hay trên hành lang 2 người nhân viên đang tập một bệnh nhân đi bằng walker. Tôi không cần người diù, vịn, bởi tôi có Y. , có xe tình. Tôi đẩy xe, hai chân bước thong thả. Y. đang ngủ. Tôi chợt bàng hoàng. Hôm nay người giúp việc cắc cớ cột sợi dây thun vào máí tóc, làm như kiểu đuôi gà. Tôi  nhớ lại những câu ca dao:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt có tình với ai.

Như vậy “tóc bỏ đuôi gà” được chiếm hàng đầu trong danh sách “anh thương”. Đừng chế nhaọ lão già này nhé. Cái đẹp là của chung mà. Cả một hình tượng trầm luân trước mặt bị che khuất vì tôi ở đằng sau lưng, chỉ thấy một giòng suối mun đen chảy trên lưng, óng ánh dướí ánh đèn nhiều nến. Đó là kiểu tóc bắt tôi mê mệt một thời. Nay nó đang trở lại, khiến đôi chân tôi bước mạnh thêm, con tim ấm áp thêm hơn bao giờ.

Tôi khoe với con tôi là hôm nay tôi đã đẩy xe mẹ đến 20 vòng. Tôi dấu việc máí tóc đuôi gà của mẹ đã giúp tôi đi khỏang 2 miles.

Trần Hoài Thư

KY_ChandungPTG_TVKy_2.JPG

CÁC BÀI VIẾT & TRUYỀN THANH

về CỤ PHAN THANH GIẢN và HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ

nhân 1 văn bản ngày 5/1/2022 của Ban Tuyên Giáo

Nguồn: VOA & SBS

KY_banTuyenGiao_vvPTGTrVKy.JPG

BÀI # 1: LS WINSTON PHAN ĐÀO NGUYÊN

(Trích từ VOA 22/1/2022: https://www.voatiengviet.com/a/phan-thanh-gian-truong-vinh-ky-tuyen-giao-trung-uong/6407031.html

Phan Thanh Giản Và Trương Vĩnh Ký

- hai đại trí thức Nam Kỳ cùng chung số phận.

 


Phan Thanh Giản và Petrus Trương Vĩnh Ký, hai nhà đại trí thức của xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh, tuy có xuất thân rất khác nhau, nhưng lại có rất nhiều điểm giống nhau.

Điểm giống nhau gần đây nhất là trong bản Công Văn số 2274 của Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, với chỉ thị cho các địa phương từ tỉnh đến thành phố không được dùng tên của hai nhân vật lịch sử này để đặt cho đường phố hoặc các công trình công cộng - do còn “những ý kiến trái chiều” về hai người này. Bản công văn nói trên được viết vào ngày 5 tháng 1, 2022 với chữ ký của Phó Trưởng Ban Tuyên Giáo Phan Xuân Thủy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương ngày 5/1/2022. Photo Sachhiem.

Theo bản công văn, vì cho đến nay “các cơ quan chức năng vẫn chưa làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký đối với lịch sử Việt Nam”, và Nghị Định Chính Phủ số 91 năm 2005 đã quy định rằng với những “nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử”, thì không cho dùng tên để đặt cho đường phố và các công trình công cộng. Do đó, chiếu theo Nghị Định này, Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký là hai nhân vật lịch sử đã được đặc biệt nêu tên trong bản Công Văn, với chỉ thị “cụ thể” là không được dùng tên để đặt cho đường phố tại các địa phương từ tỉnh tới thành phố.

Tóm lại, vì Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký là hai nhân vật mà còn có những “ý kiến trái chiều”, hoặc “ý kiến đánh giá khác”, “chưa rõ ràng”, cho nên theo Nghị Định Chính Phủ số 91 và thực hiện bởi bản công văn này, hai nhà đại trí thức Nam Kỳ đã được Ban Tuyên Giáo Trung Ương ra lệnh đặc biệt cấm các địa phương không được dùng tên đặt cho đường phố.

Hai nhân vật lịch sử của thế kỷ 19 này đều là người sinh quán ở tỉnh Vĩnh Long thuộc Nam Kỳ, và nay lại cùng thuộc địa phận tỉnh Bến Tre. Một già một trẻ thuộc hai thế hệ khác nhau và hai xuất xứ hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch nhau.

Phan Thanh Giản theo cái học cử nghiệp Khổng Nho và là Tiến Sĩ đầu tiên của nhà Nguyễn xuất thân từ Nam Kỳ. Ông làm quan qua ba triều nhà Nguyễn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Văn tài của ông đã được vua quan nhà Nguyễn khen tặng là “cổ nhã”. Sự nghiệp làm quan của ông thăng trầm lắm lúc, nhưng ông chính là rường cột và là triều thần được tin tưởng và trông cậy duy nhất của vua Tự Đức để đối phó với Pháp, khi họ tấn công nước Đại Nam của nhà Nguyễn vào thập niên 1860s.

Sau khi đại tướng Nguyễn Tri Phương đại bại tại chiến lũy Chí Hòa vào năm 1861 và Pháp lần lượt chiếm hết ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, cộng thêm thủ phủ của ba tỉnh miền Tây là tỉnh Vĩnh Long, thì con đường chống cự bằng quân sự của nhà Nguyễn đã trở thành bất khả thi. Và vua Tự Đức lúc đó chỉ còn trông cậy vào Phan Thanh Giản với tài ngoại giao của ông để cầm chân quân Pháp tại Nam Kỳ, ngõ hầu quân Nguyễn có thể quay sang dẹp loạn Lê Duy Phụng ở Bắc Kỳ. Và Phan Thanh Giản đã thành công cho mục đích này qua việc ký kết hòa ước 1862, hợp thức hóa việc mất ba tỉnh miền Đông cho Pháp cũng như bồi thường chiến phí. Nhưng bù lại, vua Tự Đức được rảnh tay ở Nam Kỳ để quay ra Bắc Kỳ dẹp loạn. Và hơn nữa, Phan Thanh Giản còn điều đình để đòi lại được tỉnh Vĩnh Long theo điều số 11 của hòa ước 1862. Đây là một thắng lợi về ngoại giao của Phan Thanh Giản mà không một sử gia nào nhắc đến.

Và chính vì những thành công về mặt ngoại giao đó, Phan Thanh Giản đã được vua Tự Đức liên tiếp trao trọng trách qua Pháp để điều đình về hòa ước 1862 nhằm lấy lại ba tỉnh miền Đông. Mặc dù đã gần 70 tuổi, Phan Thanh Giản vẫn lãnh đạo phái đoàn nhà Nguyễn qua Pháp vào năm 1863 và đã thương thuyết có kết quả. Nhưng những điều thương thuyết tại Pháp sau đó đã không được Pháp thi hành, và người Pháp quyết định chiếm luôn ba tỉnh miền Tây. Một lần nữa, vua Tự Đức đã phải nhờ đến Phan Thanh Giản với tài ngoại giao và uy tín đặc biệt của ông đối với người Pháp khi cử ông làm Kinh Lược Sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, với hy vọng mong manh là có thể giữ được ba tỉnh. Nhưng với quyết tâm của người Pháp và thế chênh lệch của hai bên, Phan Thanh Giản biết rằng không thể chống cự được. Rồi để tránh nạn binh đao cho người dân Nam Kỳ đã bao nhiêu năm khổ sở vì chiến tranh, ông đã viết sớ nhận tội với nhà vua và uống thuốc độc tự tử.

Do đó, có thể nói rằng Phan Thanh Giản chính là một người trung quân, và do đó, ái quốc tột bậc, không còn gì để tranh cãi. Còn về mặt đạo đức của ông thì danh tiếng thanh liêm của ông, lòng thương dân của ông đã vang lừng khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Người thường dân Nam Kỳ đã có thơ để khen ngợi ông, và toàn thể nhân dân Nam Kỳ lúc đó và cho đến sau này cũng đều thương mến ông, chứ không hề có một “ý kiến trái chiều” nào khác cả.

Trong khi đó, Trương Vĩnh Ký lại có một xuất thân hoàn toàn đối nghịch với Phan Thanh Giản. Ông là người theo đạo Thiên Chúa và từ thuở nhỏ đã theo học tại các chủng viện ở Cao Miên rồi Mã Lai để trở thành linh mục. Là một chủng sinh, học vấn của ông căn bản là Tân học, là cái học của phương Tây, ngược lại với Phan Thanh Giản. Trương Vĩnh Ký nổi danh là một thiên tài về ngôn ngữ, điều mà tất cả mọi người đều phải công nhận, mặc dù những ngôn ngữ mà ông biết được phần nhiều là do tự học.

Năm 1858, khi từ Mã Lai trở về Việt Nam để chịu tang mẹ thì Trương Vĩnh Ký đã bị triều đình nhà Nguyễn đưa vào một hoàn cảnh không có sự lựa chọn: họ lùng bắt ông để bỏ tù, hoặc để xử tử, chỉ vì ông là một giáo dân và hơn nữa là một người sắp trở thành linh mục. Ông phải chạy trốn cuộc lùng bắt này từ Cái Nhum lên Sài Gòn và sau đó ra làm việc cho người Pháp trong vai trò thông dịch viên. Nghĩa là triều đình nhà Nguyễn đã không hề cho ông có một sự lựa chọn giữa họ và Pháp. Và Trương Vĩnh Ký cũng chưa bao giờ là một người theo cử nghiệp với cái quan niệm vua là con trời, cũng như chưa bao giờ nhận ân huệ của nhà Nguyễn như Tôn Thọ Tường. Có thể thấy rằng ông là một loại “du học sinh” từ nhỏ đã rời xa xứ sở, và khi mới trở về thì đã bị chính quyền lùng bắt chỉ vì tôn giáo của ông.

Nhưng mặc dầu như vậy, Trương Vĩnh Ký đã không hề oán trách nhà Nguyễn với những nỗi gian khổ mà ông trải qua. Ông tin tưởng rằng đó là những thử thách của Chúa dành cho ông. Nhưng quan trọng hơn cả, ông phản đối việc quân Pháp đã mượn cớ cứu giúp các tín đồ Thiên Chúa Giáo để xâm lăng Việt Nam. Ông luôn luôn tự hào mình là người “An Nam”, và ông chính là người Việt đầu tiên đã nêu ra, đã thấy được cái “tình cảm dân tộc” hay cái “tinh thần dân tộc” của người Việt, khi mà chủ nghĩa dân tộc hoàn toàn chưa được biết đến tại Việt Nam. Cũng vì cái tinh thần dân tộc đó, ông đã kiên quyết từ chối không vào quốc tịch Pháp, cho dù người Pháp đã lắm phen yêu cầu.

Và Trương Vĩnh Ký còn có một phương châm sống vì người khác, sống để có ích cho những người chung quanh, hay nói đúng hơn, cho đồng bào của ông, được thể hiện qua câu Latin “sic vos non vobis”. Ông là người tiên phong trong việc dùng chữ quốc ngữ để dạy cho người Việt nhằm tiếp thu cái học phương Tây được nhanh chóng hơn. Ông đã sưu tầm, khảo cứu và lưu lại những tinh hoa trong kho tàng văn chương bình dân cũng như bác học của Việt Nam. Ông là ông tổ của ngành báo chí Việt Nam. Ông cũng chính là sử gia độc lập đầu tiên của Việt Nam. Có thể nói ngắn gọn rằng ông chính là ông tổ của nền học thuật tân thời nước Việt Nam.

Tóm lại, Trương Vĩnh Ký chính là người với chủ trương “dân tộc” đầu tiên, và chính là người đã tạo dựng nên nền học thuật tân thời của Việt Nam, với những đóng góp cực kỳ đa dạng về nhiều phương diện, từ văn chương, báo chí, giáo dục, đến lịch sử, phong tục, đạo đức …

Nghĩa là cả hai nhà đại trí thức xứ Nam Kỳ, Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, tuy có hai xuất xứ khác nhau, hai con đường tiến thân và trưởng thành khác nhau, nhưng họ lại có một điểm chung rất lớn: đó là lòng thương mến đồng bào của họ và việc họ đã làm hết sức trong khả năng để giúp đỡ và bảo vệ những người đồng bào này.

Cũng bởi điểm chung đó mà họ đã thông cảm nhau, cho dù họ thuộc về hai phe đối nghịch nhau. Cần nói cho rõ rằng hai phe nói trên là nhà Nguyễn (Phan Thanh Giản) và Pháp (Trương Vĩnh Ký), chứ không phải là “nhân dân” Việt và thực dân Pháp.

Rồi hai đối thủ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký đã gặp nhau trong chuyến hải hành mấy tháng trời trên đường qua Pháp vào năm 1863, trong chuyến đi nhằm điều đình xin chuộc ba tỉnh miền Đông của nhà Nguyễn. Lão thần Phan Thanh Giản lúc gần 70 tuổi, với vai trò Chánh Sứ của phái đoàn Đại Nam, đã gặp thanh niên Trương Vĩnh Ký, lúc đó mới ngoài hai mươi tuổi, trong vai trò Thông Dịch Viên cho phái đoàn Soái Phủ Pháp, trên cùng chuyến tàu. Theo những tài liệu còn lưu lại, Trương Vĩnh Ký đã đích thân thông dịch nhiều lần cho Phan Thanh Giản khi ông trò chuyện với trưởng đoàn Pháp là Henri Rieunier tức Lý A Nhi. Tại Pháp, tại Tây Ban Nha, tại Ý (Vatican), Trương Vĩnh Ký đã được phái đoàn Việt tin tưởng và giao cho trách nhiệm thông dịch, cho dù ông là người làm việc cho Pháp.

Cũng bởi cái tình tri ngộ đó mà sau này Trương Vĩnh Ký đã viết như sau về cuộc đời Phan Thanh Giản:

“Thương vì làm tôi vua đã hết lòng ngay, giúp việc nước đã hết sức bền, mà già không trót đời, chết không an phận ! Vì nước vì nhà mà quên sống ! Tưởng được tử ấm thê vinh. Ai hay tội-lệ vấn-vương. Công-nghiệp bấy lâu một phút phải rồi ! Mất hết mọi sự: chức-tước, ngôi-thứ, phẩm-hàm gì đều bị lột ráo; lại còn phải mang án xử tử giam hậu nữa.

Hèn chi Trương-lương mà chẳng tính bề minh triết bảo thân?

Làm người mà ham học, ít có như ông Phan-lương-Khê,
Làm quan mà thanh-liêm, ít có như ông Phan-lương-Khê,
Làm tôi vua hết ngay, ít có như ông Phan-lương-Khê,
Làm việc nước hết sức, ít có như ông Phan-lương-Khê.

Mà tội-lụy còn dường ấy ! thật đáng thương đáng tiếc!” (1)

Không hiểu có phải vì Trương Vĩnh Ký thấy được cái gương làm quan của Phan Thanh Giản cho nên đã học theo Trương Lương mà “minh triết bảo thân”? Nhưng có một điều chắc chắn là hai nhà đại trí thức Nam Kỳ đã có một sự thông cảm cho nhau.

Và hai nhà đại trí thức này có một điểm chung nữa là cả hai đã được toàn dân Nam Kỳ thương mến, cho dù họ đứng ở hai phe đối nghịch nhau, cho dù họ đi theo hai con đường khác nhau. Bởi, đối với người thường dân Nam Kỳ, tức “nhân dân”, thì người nào có quyền chức mà thương yêu họ và lo cho họ thì họ thương mến lại. Đó là lý do mà Phan Thanh Giản được người dân Nam Kỳ làm thơ khen tặng. Đó là lý do mà Trương Vĩnh Ký được người dân lục tỉnh Nam Kỳ góp tiền đúc tượng đồng, và đến 1945 khi toàn thể các tượng Pháp ở Sài Gòn bị giật sập thì không ai đụng đến tượng của ông.

Thế nhưng cả hai đều đã bị cuốn vào một cơn bão lốc chính trị sau năm 1954, khi chế độ miền Bắc chủ trương viết lại lịch sử để lên án tất cả những điều không có lợi cho cuộc chiến tranh với miền Nam của họ. Trong đó, hai đối tượng quan trọng nhất cần phải bị hạ nhục chính là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, hai nhà đại trí thức miền Nam. Suốt hai năm 1963 và 1964, trong mấy chục bài viết trên tờ Nghiên Cứu Lịch Sử, cơ quan ngôn luận chính thức của Viện Sử Học miền Bắc, hai nhà đại trí thức Nam Kỳ được toàn dân Nam Kỳ ngưỡng mộ đã bị các sử gia miền Bắc đem ra đấu tố.

Và đó chính là nguồn gốc của những “ý kiến trái chiều” về hai nhà trí thức này.

Nghĩa là chúng chỉ có từ những năm 1963-1964 tại miền Bắc.

Do các “sử gia” miền Bắc chế tạo ra.

Trước nhất, với Phan Thanh Giản, vì không kiếm ra được bằng chứng nào cho việc “nhân dân” đã lên án ông, ông Trần Huy Liệu, cựu Bộ Trưởng Tuyên Truyền đầu tiên của nước VNDCCH, tức là tiền thân của Ban Tuyên Giáo Trung Ương hiện nay, đã “sáng tạo” ra câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”. Ông tuyên bố rằng câu này đã được nghĩa quân Trương Định dùng để đề lên lá cờ khởi nghĩa. Nghĩa là ông đã tạo ra cái tội “bán nước” cho Phan Thanh Giản, và tạo ra cái “ý kiến trái chiều” này về Phan Thanh Giản.

Kế đến, với Trương Vĩnh Ký, các sử gia miền Bắc đã tạo ra cái tội làm “gián điệp” cho Pháp của Trương Vĩnh Ký, qua hai chuyến đi của ông. Chuyến đi thứ nhất ra miền Bắc năm 1776 và chuyến thứ hai ra Huế năm 1886. Họ cho rằng Trương Vĩnh Ký đã sử dụng hai chuyến đi này để do thám tình hình miền Bắc cũng như tình hình triều đình nhà Nguyễn. Trong khi vào năm 1776 thì Pháp đã chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất rồi trả lại cho nhà Nguyễn, và được quyền đặt toà lãnh sự ở đó. Tức là người Pháp đã có mặt tại Bắc Kỳ thường trực. Nhưng theo các sử gia miền Bắc thì họ phải sai Trương Vĩnh Ký làm một chuyến ra Bắc để “do thám tình hình” và báo cáo! Còn năm 1886 khi Trương Vĩnh Ký ra Huế thì kinh đô đã thất thủ và người Pháp đã lập vua Đồng Khánh lên làm ông vua bù nhìn dưới sự bảo hộ của họ. Triều đình Huế sau đó còn phong chức quan cho cả Paul Bert và Trương Vĩnh Ký để mua chuộc cảm tình. Và Trương Vĩnh Ký còn được Paul Bert cử làm thầy của vua Đồng Khánh. Tức là người Pháp đã nắm toàn bộ triều đình Huế. Họ chẳng có lý do gì mà phải cho Trương Vĩnh Ký làm “gián điệp” để do thám tình hình.

Nhưng cũng giống như cách đối xử với Phan Thanh Giản, các sử gia miền Bắc đã sáng tạo ra một tội danh nghiêm trọng để hạ nhục Trương Vĩnh Ký. Nếu như Phan Thanh Giản bị họ gán cho cái tội “bán nước” qua câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”, thì Trương Vĩnh Ký bị gán cho tội “gián điệp” qua hai chuyến đi nói trên.

Và đến khi một nhà nghiên cứu người Việt ở Mỹ là ông Vũ Ngự Chiêu tuyên bố đã tìm được một lá thư do Trương Vĩnh Ký khoảng năm 1858-9 viết và ký tên Petrus Key, kêu gọi người Pháp hãy đánh chiếm Việt Nam vì tình hình của quân đội nhà Nguyễn lúc đó rất yếu kém, lá thư này đã lập tức được nắm ngay lấy để làm bằng chứng cho tội làm “gián điệp” cho Pháp của Trương Vĩnh Ký ngay từ thời gian đó.

Thế nhưng như tác giả bài viết này đã viết nhiều bài báo và một cuốn sách để chứng minh, những tội danh “mãi quốc” và “gián điệp” nói trên chính là những sự ngụy tạo để kết tội hai nhà đại trí thức Nam Kỳ là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Và hai tội danh nói trên đều có xuất xứ từ một sự cố tình sáng chế và thao túng tài liệu lịch sử, nhằm hạ thấp uy tín của hai nhân vật được kính trọng này.

Câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” chính là một sản phẩm đã được tạo ra bởi ông Trần Huy Liệu, Viện Trưởng Viện Sử Học, và cũng là cựu bộ trưởng đầu tiên của Bộ Tuyên Truyền, tiền thân của Ban Tuyên Giáo Trung Ương. Bởi một câu như vậy không thể nào lại được “nghĩa quân Trương Định” đề lên lá cờ của mình như ông Trần Huy Liệu đã viết, với những điều kiện lịch sử trong thời gian đó.

Còn hai chuyến đi của Trương Vĩnh Ký đã được tờ Nghiên Cứu Lịch Sử của ông Trần Huy Liệu bóp méo cho biến thành hai chuyến đi “do thám” của “đặc vụ” Trương Vĩnh Ký. Cũng như lá thư ký tên Petrus Key đã được gán cho Trương Vĩnh Ký làm tác giả, cho dù chữ viết và nội dung hoàn toàn trái ngược với một lá thư khác do chính tay ông viết ngay trong thời gian đó.

Nhưng chỉ với sự ngụy tạo ra hai tội danh này thì các sử gia miền Bắc mới có thể hạ thấp được uy tín của Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Cũng vì câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” mà mặc dù đã có hai cuộc hội thảo về Phan Thanh Giản nhưng những người dân miền Nam, thậm chí cả những cán bộ gốc miền Nam, đã không thể phục hồi danh dự lại cho Phan Thanh Giản. Bởi ở cả hai lần hội thảo, mọi cố gắng minh oan hay phục hồi đều bị dừng lại bởi cái câu được cho là “dư luận của nhân dân” nói trên. Trong khi đó, cũng vì tội danh “gián điệp” cho Pháp mà nỗi oan của Trương Vĩnh Ký vẫn tiếp tục. Một cuốn sách về ông, cuốn “Petrus Ký, Nỗi Oan Thế Kỷ” đã bị cấm không được lưu hành.

Nhưng có một điều không thể chối cãi là cho dù sau 60 năm trời ngụy tạo tài liệu sử học, bẻ cong ngòi viết để lên án hai nhân vật lịch sử Nam Kỳ nói trên, đảng CSVN vẫn không thành công trong việc bôi nhọ họ. Bởi những người miền Nam vẫn thương yêu kính trọng hai nhà đại trí thức này và đòi hỏi công lý cho họ. Những sách báo nghiên cứu về hai nhân vật này vẫn tiếp tục được viết, được in, cho dù bị cấm.

Và tên của hai nhà đại trí thức Nam Kỳ này đã được tiếp tục dùng để đặt cho trường học, đường phố tại các địa phương miền Nam. Có lẽ đó chính là nguyên nhân cho sự ra đời của bản công văn số 2274 của Ban Tuyên Giáo Trung Ương.

Nếu như 60 năm trước, vì mục đích đánh chiếm miền Nam, và khi cần phải lên án sự “chủ hòa” của Phan Thanh Giản và việc hợp tác với Pháp của Trương Vĩnh Ký, cho nên những sử gia kiêm nhiệm vụ tuyên truyền của Đảng đã phải ngụy tạo ra tài liệu để bôi nhọ hai nhà trí thức Nam Kỳ này - thì đây là điều dù không thể chấp nhận được, nhưng có thể hiểu được.

Còn bây giờ đã 60 năm sau, và sau khi đã thống nhất đất nước gần nửa thế kỷ, mà Ban Tuyên Giáo vẫn phải ra công văn cấm đặt tên đường cho hai nhân vật này, chỉ vì còn “những ý kiến trái chiều”? Những ý kiến mà do chính họ chứ không phải ai khác đã tạo ra từ mấy mươi năm trước và đem vào nhà trường để dạy cho trẻ con?

Một điều có thể thấy rõ từ văn bản này là Ban Tuyên Giáo đã nhắm chính xác đến hai nhân vật tiêu biểu cho trí thức miền Nam, một cựu học, một tân học. Hai nhân vật mà tài đức đều được người dân miền Nam công nhận từ bao đời nay. Bản công văn không nói đến bất kỳ một nhân vật lịch sử nào khác, mà chỉ nói đến hai nhân vật đại diện cho trí thức Nam Kỳ.

Phải hiểu sự việc này như thế nào đây?

Chắc rằng người dân miền Nam đã thấy ra, đã quá chán ngán với những sự giả dối ngụy tạo lịch sử kiểu như “ngọn đuốc sống” Lê Văn Tám, và họ không muốn phải chấp nhận những điều giả dối đó nữa, nên họ đòi hỏi phải được quyền đặt tên đường phố cho hai danh nhân, hai đại trí thức miền Nam là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký. Giống như cha ông họ trược đây, người dân miền Nam không cần phân biệt giữa “ta” là bọn phong kiến thối nát hay “địch” là bọn thực dân xâm lăng. Họ chỉ biết rằng hai nhà trí thức nói trên là hai người có tài, có đức bậc nhất tại Nam Kỳ, và họ kính trọng hai người đó.

Nhưng có lẽ Ban Tuyên Giáo thì lại chỉ muốn dân miền Nam tin tưởng và sùng bái những “danh nhân” tưởng tượng như Lê Văn Tám hay thuộc giai cấp bình dân như Võ Thị Sáu mà thôi. Còn những người Nam Kỳ thuộc loại “có lý luận”, nhất là những đại học sĩ, học giả như Phan Thanh Giản, như Trương Vĩnh Ký thì không thể chấp nhận được.

Chỉ có như vậy mới hiểu được lý do cho sự ra đời của bản công văn 2274 do Ban Tuyên Giáo ký vào tháng 1 năm 2022.

Có thể là người viết bài này hiểu sai dụng ý của Ban Tuyên Giáo. Nhưng nếu như vậy thì Ban Tuyên Giáo nên công bố rõ ràng lý do và ý định của mình, kèm theo những chứng cứ và lý luận thuyết phục, chứ không phải là những “dư luận trái chiều” do chính các cơ quan tuyên truyền miền Bắc làm ra.

Winston Phan Đào Nguyên
19/1/2022

(1) Miscellanées (Sự Loại Thông Khảo) No. 5 - Sept. 1889 – No. 6 - Oct. 1889, Phan-Lương-Khê Tự Thuật Thế-Sự

BÀI #2: Từ VOA TIẾNG VIỆT

21/01/2022

Ban Tuyên giáo, cụ Phan, cụ Trương, tên đường và nỗi đau

Sau một loạt các kiểm duyệt trong ngành xuất bản liên quan đến các ấn phẩm viết về hai nhân sĩ lừng danh Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, nay Đảng Cộng sản Việt Nam lại ra công văn hướng dẫn các địa phương “không xem xét lấy tên hai nhân vật nêu trên (Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký) đặt tên cho đường, phố, công trình công cộng”. Giới nghiên cứu nhận định với VOA rằng văn bản này của Ban Tuyên giáo Trung ương đi ngược lại sự thật của lịch sử và gây hoang mang trong nhân dân, “sỉ nhục tiền nhân”, và “kỳ thị” trí thức miền Nam.

Phan Thanh Giản (1796-1867), một đại thần triều Nguyễn, làm quan trải qua 3 đời vua, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là một nhân vật lịch sử, nhà thơ, nhà sử học, đỗ Đại khoa tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), là một nhà bác học, nhà ngôn ngữ học tiêu biểu của Việt Nam trong thế kỷ XIX, người am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực lịch sử, ngôn ngữ học, văn học, báo chí.

 

Văn bản gây tranh cãi

“Cho đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký đối với lịch sử Việt Nam”, công văn đề ngày 5/1 do Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Phan Xuân Thủy ký, nêu lý do.

“Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì xem xét chưa đặt tên đường, phố và công trình công cộng,” công văn có đoạn.

Hai nguồn tin thân tín với các cấp ủy trong ban tuyên giáo ở các tỉnh, nơi tiếp nhận văn bản này, cho VOA biết rằng công văn này là có thật.

Ban Tuyên giáo Trung ương chưa phản hồi yêu cầu bình luận của VOA.

Sự đánh giá này là sự đánh giá mang tính chính trị. Dường như họ không đọc những nghiên cứu cả 100 năm nay về cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký và những đóng góp của họ đối với đất nước.

GS Ngô Vĩnh Long

Có lẽ các cấp chính quyền và các bộ ngành đã “quen” với việc tiếp nhận “chỉ đạo” kiểu này từ Ban Tuyên giáo Trung ương vì Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo “toàn diện” và “sát sao”, cho dù có phần lấn át vai trò của hội đồng nhân dân cấp tỉnh – cơ quan duy nhất có thẩm quyền theo luật định ra nghị quyết về việc đặt tên đường, đổi tên đường ở Việt Nam.

(Ảnh: Công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương ngày 5/1/2022. Photo Sachhiem).

Ông Ngô Vĩnh Long, Giáo sư khoa lịch sử của Đại học Maine, Hoa Kỳ, nêu nhận định với VOA về công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương:

“Sự đánh giá này là sự đánh giá mang tính chính trị. Dường như họ không đọc những nghiên cứu cả 100 năm nay về cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký và những đóng góp của họ đối với đất nước.

“Có thể họ cho rằng Phan Thanh Giản ký hiệp định với Pháp là bán nước, nhưng ông chỉ là người được vua cử đi đàm phán. Trong khi đó ông Trương Vĩnh Ký là một nhà khoa học lỗi lạc, biết bao nhiêu thứ tiếng, dịch nhiều sách và đóng góp rất lớn cho đất nước. Tại sao nói là “chưa rõ ràng”?

Giáo sư sử học nhận định rằng Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua, và vì vậy không thể quy tội “bán nước” hay “phản bội Tổ quốc”.

“Rõ ràng đây là hành động chính trị chưa được suy xét đàng hoàng. Nó làm mất mặt chính quyền hiện tại và mất mặt cho giới trí thức Việt Nam, trí thức Việt Nam đã thực hiện biết bao nghiên cứu, bài viết về hai ông mà họ bỏ qua hết.”

 

Từ California, nhà giáo Nguyễn Trung Quân, cựu hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản ở thành phố Cần Thơ trước năm 1975, nói với VOA rằng công văn của Ban Tuyên giáo vừa “không đúng đắn” về nội dung vừa “không có tính lịch sử”. Ông nói:

“Đó là một điều phi lý. Cụ Phan Thanh Giản mất tính đến nay là 155 năm, cụ Trương Vĩnh Ký mất tính đến nay là 124 năm, người Cộng sản chiếm miền Nam tính đến nay là gần 47 năm. Vậy cái cơ quan đó làm cái chi mà không làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản.

“Từ mấy mươi năm nay, qua các cuộc hội thảo ở Việt Nam và ở ngoại quốc, chúng tôi đã có những nghiên cứu đề cập đến vấn đề đó. Viện sử học Việt Nam trong văn thư ngày 20/1/2008 nói rất rõ rằng: Cụ Phan Thanh Giản có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên lĩnh vực văn học, sử học. Về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức để đánh giá một cách khách quan về cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến của ông đối với lịch sử dân tộc. Với nhận định mới trên quan điểm cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau.”

Nỗi đau xuyên thế kỷ

Các nhà nghiên cứu cho biết rằng chính quyền cách mạng ở miền Bắc từ sau Hiệp định Gevene 1954 đã không có thiện ý đặt tên đường mang tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, và quan điểm này cũng kéo theo sự thay đổi tên đường, phá vỡ hay di dời tượng đài của hai nhân vật lịch sử này sau khi chính quyền Nam Việt Nam bị mất năm 1975.

Thời Pháp thuộc, Hà Nội đã có đại lộ Phan Thanh Giản từ năm 1949, và đến năm 1954 thành phố Hải Phòng cũng có đại lộ Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sau khi miền Bắc “tiến lên” chủ nghĩa xã hội từ 1955 ở Hải Phòng con đường này được đổi tên thành Cù Chính Lan, và tại Hà Nội con đường mang tên Phan Thanh Giản cũng đổi tên thành Nguyễn Hữu Huân từ năm 1964.

Khi Đô thành Sài Gòn có tên mới là thành phố Hồ Chí Minh thì những con đường mang tên Phan Thanh Giản cũng không còn. Vào tháng 8/1975, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định quyết định đổi tên đường Phan Thanh Giản ở quận 3, có từ năm 1955, thành đường Điện Biên Phủ. Vài năm sau đó, một con đường Phan Thanh Giản ở quận Gò Vấp bị thay đổi tên thành Nguyễn Thái Sơn.

Tại Cần Thơ, từ năm 1917 đã có ngôi trường trung học mang tên Phan Thanh Giản (dành cho nam sinh) tọa lạc ngay trên đường Phan Thanh Giản. Sau năm 1975, trường này bị đổi tên thành trường cấp 3 An Cư và đến năm 1985 lại đổi tên thành trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm.

(Ảnh: Một góc trường Châu Văn Liêm ở Cần Thơ vào năm 2018, trước đây là trường Phan Thanh Giản. Photo Sunny Doan)

Nhà giáo Nguyễn Trung Quân chia sẻ nỗi đau khi ngôi trường mang tên Phan Thanh Giản do ông làm hiệu trưởng bị đổi tên và bức tượng Phan Thanh Giản ở giữa sân trường bị chính quyền mới phá vỡ. Sự việc xảy ra cách nay hơn 45 năm, nhưng đối với ông, “nỗi đau vẫn day dứt.”

“Từ khi những người cộng sản vào miền Nam vào tháng 4/1975, thì sang đến tháng 5/1975, họ đập vỡ tượng cụ Phan Thanh Giản ở giữa sân trường của chúng tôi. Họ hạ bảng tên để đổi tên trường nhằm như rằng để dằn mặt trí thức miền Nam.

Từ khi những người cộng sản vào miền Nam vào tháng 4/1975, thì sang đến tháng 5/1975, họ đập vỡ tượng cụ Phan Thanh Giản ở giữa sân trường của chúng tôi. Họ hạ bảng tên để đổi tên trường nhằm như rằng để dằn mặt trí thức miền Nam.

Nhà giáo Nguyễn Trung Quân, cựu hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản Cần Thơ

“Lối hành động đó chúng tôi biết là sai, chúng tôi mấy mươi năm nay đã liên lạc thẳng với họ chỉ rõ sự sai lầm lịch sử của họ... Chúng tôi gửi văn thư cho chính quyền Cần Thơ, chính quyền Trung ương hơn 20 năm nay.

“Cụ Phan Thanh Giản là một người yêu nước, tuẫn tiết để giữ vẹn chữ trung.

“Ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một người cộng sản mà còn tặng tượng cụ Phan Thanh Giản cho tỉnh Vĩnh Long để dựng tượng lên. Ông cũng cho rằng cụ Phan Thanh Giản là người yêu nước.

“Còn chúng tôi và những học sinh gắn bó với trường, chỉ yêu cầu làm theo đúng lịch sử - trả lại tên trường. Thế nhưng đến nay, họ vẫn có thái độ lập lờ, bởi vì họ dùng chính trị, chứ không phải lịch sử, nhằm mục đích hạ bệ cụ Phan Thanh Giản.”

Cũng sau năm 1975, đường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ bị đổi tên thành đường Phan Đăng Lưu và không lâu sau lại đổi tên thành đường Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Từ thời Pháp, ở Sài Gòn có trường Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký (Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký) được thành lập từ năm 1927, còn được gọi là trường Pétrus Ký, là nơi mà các ông Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang... từng theo học, sau này đi theo cách mạng và trở thành những nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

(Ảnh: Lớp Đệ Tam C, Petrus Ký, niên khóa 1957 – 1958. (Hình: Phạm Phú Minh cung cấp)

Năm 1937, nhân lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của Trương Vĩnh Ký, trường đặt tượng bán thân bằng đồng của ông tại giữa sân trường. Đây là tác phẩm của nhà điêu khắc người Pháp, thực hiện từ năm 1889, khi nhà bác học Trương Vĩnh Ký còn tại thế, theo báo Tuổi Trẻ.

Sau biến cố 1975, trường bị đổi tên, thay tượng. Tên mới của trường là Lê Hồng Phong, Tổng bí thư Đảng giai đoạn 1935-1936; và bức tượng đồng của nhà bác học Trương Vĩnh Ký cũng bị dời đi.

Trong khi đó, một bức tượng đồng toàn thân của cụ Trương Vĩnh Ký, đúc năm 1927, được nhân dân Nam Bộ góp tiền xây dựng nên và đặt ở vườn hoa trước Dinh Độc Lập, gần đường Alexandre de Rhodes ở quận Nhất, đến năm 1975 bị chuyển vào một góc hẹp ở Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh.

Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhận định rằng người có công đầu trong việc sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ là Alexandre de Rhodes, nhưng để chữ Quốc Ngữ phát triển như hiện nay phải kể đến công lao của Pétrus Trương Vĩnh Ký.

Ông Trương Minh Đạt, chắt của Trương Vĩnh Ký, người quản lý và trông coi khu lăng mộ Trương Vĩnh Ký trên đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, nói với Luật khoa tạp chí: “Người ta luôn nghĩ ông Trương Vĩnh Ký là Việt gian, vì cái tên Petrus Trương Vĩnh Ký nên người ta nghĩ Petrus là Pháp rồi nhưng thật sự theo đạo thì tên thánh đi trước, chứ ông đi xứ với Phan Thanh Giản vẫn mặc áo dài khăn đóng bình thường, ông không mặc đồ Tây. Pháp kêu theo quốc tịch Pháp vẫn không theo”.

“Ai công nhận thì cảm ơn, ai không công nhận thì thôi. Xấu cũng được, tốt cũng được, người sau hậu thế sẽ nhận xét. Như ông Trương Vĩnh Ký đã viết, về sau hãy để hậu thế nhận xét ông có tội hoặc không có tội,” Trương Minh Đạt nói.

 

 

 

 

 

 

 

Phan Thanh Giản và vụ án “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân”

 

Luật sư Phan Đào Nguyên ở California, tác giả khảo cứu “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân’”, nói với VOA rằng các sử gia tại miền Bắc Việt Nam đã sử dụng câu này liên tục từ thập niên 1950 đến nay, nhân danh “nhân dân” để kết tội bán nước cho hai đại thần triều Nguyễn là Phan Thanh Giản (Phan) và Lâm Duy Hiệp (Lâm); với sự chú trọng đặc biệt vào Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ.

Câu trên có nghĩa là Phan (Thanh Giản), Lâm (Duy Hiệp) bán nước, Triều đình bỏ rơi dân chúng. Lâm Duy Hiệp (1806-1863) là một quan đại thần triều Nguyễn.

Nghiên cứu của Luật sư Phan Đào Nguyên đưa ra kết luận, sau năm 1975 thì câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” đã được đem từ miền Bắc vào phổ biến ở miền Nam. Rồi từ đó, nó được coi như “một sự thật lịch sử trong cả nước”.

“Theo sự nghiên cứu của tôi thì “cái tội” lớn nhất mà các sử gia miền Bắc đã gán cho Phan Thanh Giản là “tội bán nước”, và họ dùng câu “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân” như là một bằng chứng mà họ cho rằng nhân dân miền Nam đã gán cho Phan Thanh Giản sau khi ông ký hòa ước Nhâm Tuất năm 1862.

“Theo nghiên cứu của tôi, câu “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân” không có nguồn gốc từ nhân dân miền Nam, và cũng không phải đã được dùng để đề lên trên lá cờ khởi nghĩa của Trương Định như các sử gia miền Bắc đã nói, mà câu này là một sản phẩm được chế tạo ra bởi ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học ở miền Bắc vào thập niên 1950-1960. Sau đó câu này được đem vào nhà trường dạy cho trẻ con ở miền Bắc và sau 1975 thì được dạy cho khắp cả nước.

Khi được hỏi liệu nghiên cứu của ông có phải là nguyên nhân, hay một phần nguyên nhân, đưa đến văn bản gần đây của ban Tuyên Giáo hay không, luật sư Phan Đào Nguyên nói, tám chữ nêu trên chính là nguồn gốc cho sự lên án Phan Thanh Giản trong suốt mấy mươi năm qua, và là “căn bản cho cái gọi là “ý kiến trái chiều” về Phan Thanh Giản”.

“Câu này đã tạo nên cái mà chúng ta có thể thấy trong công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương, trong đó có ghi “ý kiến trái chiều hay những đánh giá khác” về Phan Thanh Giản,” ông Phan Đào Nguyên nhận định.

Nhà giáo Nguyễn Trung Quân nêu nhận định tương tự:

“Quyển sách dài 384 trang của nhà nghiên cứu Phan Đào Nguyên đã khiến cho họ không thể trả lời được. Nó cho thấy rõ gian kế của người cộng sản và thực tế cách thức làm việc của người mà họ cho là “sử gia” miền Bắc.

“Hai vị Phan, Trương là hai học giả lớn của miền Nam, bị họ dồi dập lên xuống, rồi ra cái văn thư theo kiểu đòn thù thì thật không xứng đáng với cách thức làm lịch sử. Mà thật vậy, họ làm chánh trị, chứ không làm lịch sử.”

(Ảnh: Trường trung học tư thục Phan Thanh Giản ở Đà Nẵng (1969 - 1975). Photo Thuong mai truong xua.

Làn sóng mới từ sau Đại hội Đảng XII?

Tác giả Phan Đào Nguyên bắt đầu nghiên cứu về hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký trong vài năm gần đây và biết rằng chính quyền Việt Nam đã dùng “mệnh lệnh” miệng để cấm phát hành hai quyển sách viết về hai nhân vật này.

“Có hai quyển sách về hai nhân vật lịch sử này: Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ và Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc và người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời đã được in ra ở bên Việt Nam nhưng rồi đã bị cấm, và theo tôi hiểu trong đó có quyển bị cấm mà không có công văn gì cả.”

Vào tháng 8/2017, cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ” do nhà nghiên cứu lão thành Nguyễn Đình Đầu chủ biên, một công trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả xưa và nay, nói về học giả Trương Vĩnh Ký (1837-1898), bị thu hồi khỏi các hiệu sách và bị cấm phát hành ở Việt Nam.

Quyển sách trên được Cục Xuất bản cấp giấy phép với đầy đủ các thủ tục giấy tờ và đã qua thời hạn lưu chiểu theo luật định để lưu hành, được dự trù ra mắt tại Đường Sách Sài Gòn, nhưng đã bị hủy theo “một chỉ thị miệng” và báo chí được tin nhận cảnh báo không đưa tin về cuốn sách này, trang BBC dẫn lời tác giả Nguyễn Đình Đầu cho biết.

Cuối 2019 đầu 2020, cuốn sách “Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc và người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời (1862-1867)” của hai tác giả Phan Thị Minh Lễ và Pierre Ph. Chanfreau, do dịch giả Phan Tín Dụng chuyển ngữ từ tiếng Pháp, đã phải tạm dừng phát hành, theo trang Người Đô thị.

Trang này dẫn nội dung công văn số 09/CV/XBHN của nhà xuất bản Hà Nội viết: “Trong quá trình rà soát lại, NXB Hà Nội nhận thấy một vài nội dung cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể chỉnh sửa cho phù hợp hơn”, đồng thời đề nghị tạm dừng phát hành quyển sách công phu về nhân vật “gây tranh cãi” Phan Thanh Giản để hai bên cùng thống nhất và tổ chức chỉnh sửa.

Cuốn sách này về Phan Thanh Giản từng được nhà xuất bản L’Harmattan (Paris, Pháp) ấn hành vào năm 2002 có tựa đề “Phan Thanh Gian: patriote et précurseur du Vietnam moderne. Ses dernières années 1862-1867”.

Từ thành phố Hồ Chí Minh, tác giả trẻ Tôn Phi, người có ấn phẩm phát hành trên mạng Amazon, nêu nhận định với VOA:

“Cho dù hai ông Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản có như thế nào đi chăng nữa thì đó là những tên tuổi rất lớn, có nhiều đóng góp cho lịch sử và tiến trình văn hóa của nước nhà.

“Việc đặt tên đường phải thực hiện theo nguyện vọng của nhân dân và khi nhân dân yêu cầu trả lại tên đường thì chế độ cầm quyền buộc phải trả lại tên đường, nhất là tên những con đường đó vô hại đối với văn hóa xã hội.

“Ban Tuyên giáo Trung ương cố tìm mọi cách để thao túng tâm lý của một bộ phận dân chúng, song ngày nay với sự tiến bộ của Internet, không ai có thể giấu được bất kỳ điều gì, vì người dân đã rất ý thức về điều này”.

 

(Ảnh: Đường Phan Thanh Giản ở Mỹ Tho, Tiền Giang, tháng 12/2021. YouTube Mytho Around).

Giữ nguyên trạng? và ‘rút kinh nghiệm’?

Hiện tại ở miền Nam, vẫn có những ngôi trường và con đường mang tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, nhưng hầu hết là trường tư thục hay dân lập và là tên của những con phố nhỏ, ví dụ như đường Phan Thanh Giản ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, hay đường Trương Vĩnh Ký ở thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận.

Các nhân viên tại hai trường dân lập Trương Vĩnh Ký ở Tp. Hồ Chí Minh và ở Đồng Nai nói với VOA rằng nhà trường không có kế hoạch phải đổi tên và cũng không biết gì về công văn của Ban Tuyên giáo.

Có lẽ ngôi trường công lập duy nhất hiện tại mang tên Trương Vĩnh Ký ở Việt Nam là một ngôi trường trung học ở xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, sinh quán của nhà bác học.

(Ảnh: Trường trung học công lập Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre. Photo Bao Dong Khoi)

Trường được Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập vào năm 2009, sau khi thừa nhận kết luận của một cuộc tọa đàm của các nhà khoa học về những đóng góp to lớn của Trương Vĩnh Ký, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và ngôn ngữ. Vào cuối năm 2010, bức tượng đồng tạc nhà bác học Trương Vĩnh Ký do tạp chí Xưa & Nay quyên góp, được khánh thành tại ngôi trường này.

Trước đó, vào năm 2008, chính quyền tỉnh Bến Tre thành lập giải thưởng mang tên Trương Vĩnh Ký, do hội khuyến học đề nghị, để vinh danh các học sinh trung học xuất sắc trên toàn tỉnh.

Vào năm 2008, chính quyền tỉnh Vĩnh Long tổ chức lễ rước và an vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long – nơi Kinh lược sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết. Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng đúc bằng đồng, cao 85cm, nặng 250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh Miếu.

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng viết: “Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, Cụ đã tự làm án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đời thanh sạch, thật đáng để lại gương soi cho hậu thế… Tôi đã về thăm mộ cụ Phan Thanh Giản và đốt nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều.”

Một nguồn tin cấp ủy thân tín với ban tuyên giáo nói với VOA rằng chính quyền có thể sẽ cho giữ nguyên trạng những gì đã có, và sẽ “rút kinh nghiệm” trong việc lấy tên hai cụ để đặt tên đường, công trình công cộng trong tương lai.

Với công văn mới này của Ban Tuyên giáo Trung ương, có lẽ trường THPT Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre sẽ là ngôi trường công lập cuối cùng ở Việt Nam mang tên này, và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng là lãnh đạo cộng sản duy nhất và cuối cùng chính thức tôn vinh công lao của nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Nhưng Thủ tướng Kiệt đã qui tiên cùng hai cụ Phan, Trương mất rồi!

BÀI # 3: ĐÀI SBS VIỆT NGỮ, ÚC CHÂU:

Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản "không đủ tài đức" để được đặt tên đường!

                                                   Mai Hoa Phạm (SBS Radio Úc Châu)

(Nguồn: https://www.sbs.com.au/language/vietnamese/audio/truong-vinh-ky-va-phan-thanh-gian-khong-du-tai-duc-de-dat-ten-duong)

 

Là văn bản mới ra ngày 5/01/2022) của Ban Tuyên Giáo lệnh cho các tỉnh thành không được lấy tên hai vị đại học giả Nam Kỳ đặt tên đường hay các công trình công cộng. Lý do ‘chỉ đặt tên: “danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức có tài, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”‘. Các cựu học sinh trường Petrus Ký Sài Gòn và Phan Thanh Giản Cần Thơ hiện là các nhà khoa học và học giả uy tín tại Úc nói gì về điều này?

Văn bản mới ra vào đầu năn nay (5/01/2022) của Ban Tuyên Giáo lệnh cho các tỉnh thành không được lấy tên hai cụTrương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản đặt tên đường hay các công trình công cộng. Lý do ‘chỉ đặt tên: “danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức có tài, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”‘.

 

(Ảnh (xin xem ảnh ở trên: Văn bản Tuyên Giáo ra ngày 5/01/2022 yêu cầu các tỉnh thành không lấy tên Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản đặt tên đường và các công trình công cộng. Source: Sachhiem/VOA)

Cụ Phan Thanh Giản là người nổi tiếng thanh liêm từng giữ chức vụ Hiệp biện Đại học sĩ, đó là chức quan hàm tùng nhất phẩm, trên thượng thư một bậc. Cụ là Tổng tài phụ trách việc biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, là bộ Quốc sử đồ sộ, lớn nhất thời Nguyễn gồm 53 quyển.

Ông Trương Vĩnh Ký được biết nhiều về thông minh xuất chúng và giỏi nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng nếu người Việt mang ơn ông Alexandre de Rhodes trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt thì người giúp đưa chữ quốc ngữ đi tới đại đồng công chúng phải kể đến công lao của ông Trương Vĩnh Ký trong vai trò chủ bút Gia Định Báo – một trong những tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của người Việt, và giám đốc trường Sư Phạm (École normale) là trường Sư Phạm đầu tiên ở Việt Nam đào tạo các thầy cô giáo để dạy chữ quốc chữ cho thế hệ trẻ người Việt Nam.

Với những vai trò và đóng góp đó của hai vị tiền nhân đã không xứng bằng với vô số những nhân vật mà chính quyền Cộng Sản đặt tên đường, trường, thành thị và các công trình công cộng.

Văn bản mới ra vào đầu năm nay (5/01/2022) của Ban Tuyên Giáo đã khẳng định điều đó.

Vì sao đến giờ vẫn còn có loại văn bản này?

KY_VOA_Book.JPG
KY_SBS_ThanhTranHLV.JPG

Trong cuộc trò chuyện với Mai Hoa, Giáo sư Trần Thạnh từ trường đại học New South Wales (UNSW) – cựu học sinh Petrus Ký Sài Gòn, nói rằng không chỉ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký – hai vị đại trí thức của Nam Kỳ bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam hạ bệ mà công lao mở mang bờ cõi của Nhà Nguyễn cũng bị Cộng sản chối bỏ.

Tiến Sĩ Huỳnh Long Vân thuộc Nhóm Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai Cửu Long Úc Châu – nguyên là Nhà khoa học của CSIRO Úc Châu – cựu học sinh trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ trích lại câu thơ mà ông Hồ Chí Minh tự ví mình ngang với các vị Vua Hùng “Bác dựng nước, tôi giữ nước” để trả lời cho câu hỏi phải chăng lịch sử quốc gia và dân tộc Việt Nam là lịch sử được viết bởi người Cộng Sản cho Cộng sản?

Mời vào phần audio để nghe toàn bộ nội dung:

https://www.sbs.com.au/language/vietnamese/audio/truong-vinh-ky-va-phan-thanh-gian-khong-du-tai-duc-de-duoc-dat-ten-duong

KY_SBS_audio.JPG
THT_Đêm trở lại nhà.JPG

đêm trở lại nhà

 

Tài xế là một thanh niên Mỹ đen

Lòng xe là một cõi đen

Ngoài kia trời cũng tối đen

 

Đêm nay tôi trở lại căn nhà thân yêu

Trong cõi đen âm thầm hiu quạnh

Cuối cùng rồi cũng đã đến nhà

Thấy mập mờ chiếc xe thân yêu

Đã hơn một tuần nằm đợi chủ

 

Người thanh niên cố mang xe lăn lên thềm tam cấp

Mở giùm cánh cửa

Tìm dùm contact điện ở phòng khách

Chiếc xe lăn của tôi nằm đâu đó ở góc phòng

 

Tôi đang bám vịn vào màu đen

Màu da người và màu thủy tinh sơn đen lóng lánh dưới ánh điện nhà

 

Hình như có xấp thơ từ

Chở tình người phương xa âm thầm suốt hai mươi năm nay

Đang nằm trên bàn

Vậy mà khi chân tôi đứng lên từ xe lăn

Cơn đau nhức vô cùng tận

Gout lại hành

Khớp lại không tha

Lò cừ lại tiếp tục

 

Tôi tặng chàng Mỹ đen một số tiền típ hậu hĩnh

Khiến chàng cám ơn rối rít

Tôi muốn nhân danh một người viết văn làm thơ

đang bị thương hại

Em giúp tôi bật lại ánh đèn

Rồi tôi sẽ tập

Tập hoài

Tập đến hộc thở

Để được đứng dậy rời xe lăn

Để thăm nàng

Để siết tay nàng

Tôi chỉ cần bấy nhiêu

trong đêm trở lại

Trần Hoài Thư

(From Blog THT Nov 16, 2021)

NgHongTuyen_pic.JPG

Di cảo của Cố Đại Tá - Cựu học sinh PTG

THIÊN PHONG NGUYỄN HỒNG TUYỀN

           1933 - 2021

NgHTuyen_airplane.JPG

Người Ăn Mày Mé Láng

                      Thiên Phong

Một buổi chiều mùa hè, trời mưa khá to nổi bong bóng. Dòng nước cuốn dài theo bờ măng trên đường Lê Thánh Tôn chảy về phía đường Nguyễn Huệ kéo theo tất cả rác rến dân chúng xả ra đường che lấp các miệng ống cống thoát nước của đô thành, làm nước tràn thành vũng lên các bờ măng trên đường đi. Xe tôi ngừng trước cửa của hãng Hàng Không Việt Nam, tôi bước vào cửa cầu thang lên văn phòng. Cánh cửa vừa mở tôi gặp ngay ông già Tư Râu độ chừng năm mươi tuổi ăn xin thường túc trực hơn hai tháng nay nơi cột đèn trước cửa HKVN. Ông tìm sự giúp đỡ của tha nhân kẻ đi qua người đi lại để sống độ nhựt. Thân trần trùi trụi, lòi các ba sườn của người lớn tuổi thiếu dinh dưỡng, các vết thương nhiều đốm đen lớn nhỏ còn rỉ máu và nước vàng trên lưng. Phía sau hai cánh tay ốm tong teo chỉ còn da nhiều hơn thịt. Vừa thấy tôi bước vào ông vội lật đật ôm hành trang là chiếc bao bố tời gói ghém tất cả gia tài sự nghiệp của đời không nơi nương tựa trong tuổi xế chiều, định bước đi ra ngoài.

– Sao Ông Tư Râu, ăn cơm chưa, hôm nay có khá không? Ngoài trời mưa to gió lớn thổi lạnh lắm, đứng đó đi để tôi bảo ông Hai gác dan đem cho ông cái áo mặt đỡ lạnh…

– Dạ…

Tiếng run run có vẻ vì lạnh và các vết thương trên người đang hành ông. Tôi vừa bước cửa vào văn phòng thấy ông Hai đang quét dọn lau chùi bàn ghế.
– Chào ông Phó…
– Chào ông Hai. Soạn trong quần áo đánh tơ nít của tôi có cái áo nào ấm ấm và chiếc quần dài đem xuống cho ông Tư Râu mặt đỡ lạnh rồi bảo ông lên đây gặp tôi ở phòng họp.
– Dạ… Ông Hai gác dan đi ra mà chưa hiểu ý tôi nên hỏi lại. Ông Phó bảo tôi dẫn ông Tư Râu lên phòng họp?
– Ðúng rồi…

Tôi đợi chừng mười lăm phút, bước ra cầu thang nhìn xuống thấy ông Hai và ông Tư Râu đang dằng co, kẻ kéo tay người dằng lại, có tiếng của ông Hai: Anh Tư ơi! lên đi đừng để Ông Phó đợi trên đó… phiền lắm. Tôi liền bảo:
– Ông Tư Râu ơi, lên đây tôi có chút việc muốn nói với ông.

Chờ ông Tư Râu bước lên khỏi cầu thang, quần áo chỉnh tề vào phòng họp tôi chỉ ghế ngồi, ông còn chần chừ chưa dám ngồi, còn đứng xớ rớ lòng đang bỡ ngỡ nhìn chung quanh…
– Ngồi đi ông Tư Râu ơi!

Ông ngồi ghé ngoài mép bờ ghế và ôm trong lòng túi balô, nhìn tôi trong ánh mắt dò hỏi có chuyện gì đây…
– Ông Tư Râu nên ngồi tự nhiên đi, để cái balô xuống sàn, mình còn nói chuyện cùng nhau lâu lâu một chút.

Ông Tư Râu ngồi tử tế trên ghế, ông Hai đem hai tách nước trà vô, tôi mời ông Tư Râu dùng trà cho ấm. Tôi hỏi ông Tư Râu vài câu xin ông thành thật trả lời cho tôi thì tôi có thể giúp ông để chữa có thể lành các vết thương trên người ông. Hôm trước cách đây hai tuần, khi ông ngồi trước cột đèn vào buổi trưa, ông cởi áo ngồi khóc vừa rên vì các vết thương hành hạ ông.
Tôi có hỏi ông vì sao bị thương vậy, ông còn do dự không muốn trả lời. Tôi có nói thêm, ông nói đi tôi có thể giúp ông chữa bịnh mà không tốn tiền đâu mà lo.

Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt bơ phờ nửa tin nửa ngờ vực của người quá đau khổ trong tâm tư. Im lặng không một lời nói, nhìn lên trời cao xanh như đang tìm những dĩ vãng đau thương hay để đánh giá một tia hy vọng nào đó trong lời hứa của tôi cho cuộc đời ông.
– Hôm nay tôi xin lặp lại lời hứa hôm trước đó, ông Tư Râu suy nghĩ sao cho tôi biết ý kiến.

Ông Tư Râu mắt sáng lên như người đi lạc giữa rừng rậm hoang vu gặp được ông tiều phu chỉ đường ra khỏi cơn mê hồn trận mới chịu mở miệng:
– Ông Phó hứa… giúp tôi đây… không biết tôi lấy gì để đền đáp… công… ơn đó… (tiếng nói ông Tư Râu sùi sụt đứt khoảng hai hàng lệ rơi có lẽ vì quá cảm động), làm cho tôi cũng thấy mủi lòng. Nhờ thánh thần thiên địa phù hộ cho tôi gặp được quới nhơn giúp đỡ. Chẳng nói dấu gì với Ông Phó, tôi tên là Châu Văn Tư sanh đẻ 1920 tại quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh (vừa nói vừa cúi xuống balô mở ra lấy thẻ kiểm tra còn khá mới trong cái bóp da đã cũ kỹ đưa cho tôi xem). Lớn lên trong nghề đánh cá mùa gió êm, làm ruộng mùa mưa bão, sống với gia đình ở quân Ba Ðộng. Sau lấy vợ tên Ðào Thị Nở sanh năm 1924 ở làng Mé Láng cùng nghề làm ruộng. Thời cụ Ngô Đình Diệm làm tổng thống tôi có đi lính Địa Phương Quân, rồi được bầu làm xã trưởng một xã của làng Mé Láng quận Ba Động tỉnh Trà Vinh. Vùng thường đụng độ chết sống với tụi du kích địa phương để bảo vệ dân làng trong tám năm. Cũng có nhiều ân oán thù hận giang hồ, tôi có được hai người con trai sau cũng đi lính Ðịa Phương Quân, chưa lập gia đình cũng ở Mé Láng.

Ngày đầu tháng giêng ta năm 1962, một tiểu đoàn viêt cộng chánh quy từ miền Bắc xâm nhập bằng ghe máy đổ bộ lên làng Mé Láng trong một đêm mưa gió bão bùng. Làng báo cáo lên quận rồi quận lên tỉnh, sáng ngày sau cuộc hành quân từ tỉnh đổ quân xuống một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân tỉnh xuống làng Mé Láng, trời mờ mờ sáu giờ sáng cho đến mười giờ trưa hai bên dằng co với nhau làng Mé Láng thành tro bụi, dân làng, nghiã quân, địa phương quân, nhân dân tự vệ chết cũng nhiều trong đó có vợ và hai thằng con trai của tôi vì cháy không nhìn được xác. Vào khoảng mười giờ có một tiểu đoàn chính quy của bên ta Biệt động quân đổ xuống tiếp viện có máy bay săn giặc và đầm già đến yểm trợ cuộc hành quân đánh tụi nó tan tành banh xà rông. Lúc máy bay đến chúng tôi rút lui từ trong làng về hướng quân bạn ngoài ruộng lúa. Trời thần đất mẹ ơi, tụi nó đeo dính khắng theo, bị phi cơ thả một trái bom đầu tiên nổ ra vùng ánh sáng xanh chụp rớt xuống đụng đâu cháy đó, nước, cây cỏ, đất sình gì cũng cháy hết trơn hết trọi hà. Quỷ thần thiên địa ơi, tui là người chạy đầu, xa gốc trái bom nổ chụp ở ngọn trúng sau lưng tui năm mười ánh sáng thôi mà thấy nóng. Tui chui xuống nước còn nóng hơn nữa, đứng dậy cởi áo bỏ ra nhìn phía sau đám việt cộng bị cháy lên khói, chết quá xá cỡ thợ mộc… Tui cố gắng chạy trối chết về phía quân tiếp viện vvà bất tỉnh luôn… cho đến khi mở mắt ra thì thấy đang nằm điều trị ở bênh viện tỉnh Trà Vinh. Tui nằm úp mặt xuống, ở trần truồng nhòng nhọng mình mẩy tui được thoa một chất nhớt nhớt và đắp nước đá có rất nhiều mục đen chấm nhỏ nhỏ bằng đầu ngón tay út sau lưng, giây nhợ tùm lum tùm la… nhưng vẫn còn thấy nóng. Các ông y tá khi thấy tôi mở mắt mừng rỡ la lên: Ông Tư tỉnh rồi. Sau đó có hai vị bác sĩ một Mỹ, một Việt đến thăm có hỏi tôi còn nóng nhiều ít, tôi trả lời ít. Ông bác sĩ Mỹ nói, bác sĩ Việt dịch là tôi đã sống lại rồi, nhưng còn phải tinh dưỡng lâu lâu. Sau hai tháng ở bịnh viện tỉnh các mụt chấm đen nhỏ đã kéo da non tôi được xuất viện cho về nhà. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, ông Tư Râu nói trong tiếng nấc, vợ bị chết cháy không nhìn được xác và hai đứa con trai đều hy sinh trong trận đánh ở Mé Láng. Nhà cửa cháy rụi, bây giờ chỉ còn tấm thân tàn ma dại nầy trên cõi đời ô trọc thôi. Tui không thể trở về sống ở Mé Láng được vì lúc nầy tụi nó về đông lắm. (Tính ra ông Tư Râu mới có bốn mươi bốn tuổi mà thấy già như ông già sáu bảy mươi tuổi vậy.)

Từ đó tui rời bỏ xứ sở ra đi lên Sài Gòn để kiếm thằng em đi lính nhảy dù không ngờ nó đã chết trong trận Bào Sung. Không kiếm được việc làm vì các ông chủ thấy những vết thương tưởng đâu tôi bị bịnh cùi lở. Tui sống lây lất đầu đường xó chợ tha phương cầu thực, tối ngủ dưới các gầm cầu qua những đêm mưa gió bão bùng. Các vết thương lâu lâu nó nóng lên chảy nước vàng lở ra càng ngày càng lớn thêm có những đêm trời mưa lạnh nó nhức tận xương tủy chỉ còn có nước ngồi đâu đó dưới hàng hiên chợ Bến Thành chịu trận cho qua đêm.

Ðôi mắt ông Tư Râu mờ lệ nhìn ra cửa sổ như hồi tưởng lại những nỗi kinh hoàng trông đêm việt cộng tấn công tàn sát dân làng Mé Láng năm xưa. Khi ông Tư Râu dứt lời, tôi bảo:
– Trễ lắm trong tuần nầy tôi cố gắng tìm chỗ để chữa những vết thương cho ông Tư.

Tôi xách hộ cái balô của ông Tư Râu đưa ông xuống cầu thang, trời đã hết mưa, để ông ra chỗ cột đèn tiếp tục cuộc đời hành khất của ông. Ông nói cám ơn tôi với khuôn mặt vui tươi đầy hy vọng. Tôi trở lại văn phòng ngồi trầm ngâm lòng tôi se thắt lại, đau khổ cho dân tộc Việt sao quá nhiều thảm cảnh thương đau. Dân chúng giữa hai lằn đạn Quốc gia và Cộng sản quá tàn nhẩn và ê chề trong cảnh chiến tranh vì miền Bắc vô thần đem trận giặc vào Nam gây không biết bao nhiêu cảnh điêu tàn tang tóc cho dân tộc Việt.

Mé Láng một làng nhỏ của quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh. Tôi còn nhớ rõ một buổi sớm mai, trong phi vụ hành quân đời phi công khu trục, tôi bay cùng Ðại úy Faucett huấn luyện viên Không Lực Hoa kỳ của Phi Ðòan Farm Gate để định chuẩn ra phi tuần trưởng khu trục.

Mé Láng, lần đầu đời tôi mới nghe đến địa danh đó nếu không có trận chiến tranh Việt Nam. Một làng nhỏ bên trong nhiều thửa ruộng được cấy lúa lên màu xanh lơ nhiều miếng vườn cây ăn trái lá cành xanh um. Bên ngoài mé bờ biển giáp nối với Thái Bình Dương thật nên thơ ngoạn mục, nếu không có chiến tranh Mé Láng là nơi lý tưởng để sống cuộc đời an nhàn thanh tịnh.

Chúng tôi cất cánh từ phi trường Biên Hòa, một phi tuần nặng bốn phi cơ T28 mang bom WP (White Phosphorous, Lân tinh), và hỏa tiễn 2.75. Khi vừa đến, liên lạc được với phi cơ quan sát bắn trái khói màu chỉ điểm mục tiêu. Tôi nhìn xuống đó là một xóm làng độ chừng hai trăm căn, nhà lá có, nhà gạch ngói có đang cháy khói tỏa mịt mù thẳng lên trời vì hôm nay yên lặng không có gió. Sau khi đánh hỏa tiễn xong mục nói trên, chúng tôi bay về hướng tây cách Mé Láng chừng hơn hai cây số. Nơi quân bạn Biệt Ðộng Quân đang đụng độ với địch cố thủ trong một miếng vườn xanh tươi cây trái sum suê chừng năm mẫu tây. Quân địch đào hố và công sự phòng thủ kiên cố chung quanh là những miếng ruộng lúa lên xanh tươi đầy nước nên quân bạn khó tấn công vào mục tiêu vì không có điểm tựa. Ðại úy Faucett cho tôi biết mình sẽ đánh bom WP Lân tinh) và yêu cầu tôi báo cho quân bạn đừng vào chiếm mục tiêu sau khi đánh bom WP. Vì sợ lân tinh sẽ làm thương tích cho quân bạn, phải đợi ít lắm là một tuần lễ để lân tinh cháy hết rồi hãy vào. Ðây là lần đầu tiên dùng bom WP (Lân Tinh) trên chiến trường Việt Nam. Tôi thông báo cho phi cơ quan sát và quân bạn xong, chúng tôi nhào xuống thả trái bom WP đầu tiên nổ tỏa ra một vùng ánh sáng trắng xanh như hoa pháo bông bao trùm chừng năm mươi thước ngoài ngọn những đốm trắng li ti thật đẹp rớt xuống nước vẫn còn cháy lên khói… Phi tuần bốn phi cơ đánh trong vòng hai mươi phút miếng vườn cháy và lên khói hoàn toàn cây lá vàng đen cháy úa. Một bức họa chiến tranh điêu tàn khủng khiếp làm lòng tôi xốn xang đau xót cho người dân Việt phải chịu cảnh màn trời chiếu đất khi làng xã bị đốt cháy tan hoang.

Phi tuần đánh xong trở về căn cứ Biên Hòa vô sự. Tôi có hỏi Ðại uý Faucett tại sao quân bạn không chiếm mục tiêu liền được thì được trả lời: Phải chờ cho Lân Tinh cháy hết rồi mới vào chiếm mục tiêu vì rất nguy hiểm cho quân bạn có thể bị cháy nếu đạp lên Lân tinh. Tôi không ngờ ba năm sau tôi gặp lại ông Tư Râu nạn nhân của cuộc đánh bom Lân tinh ngày đó ở Mé Láng, làm lòng tôi ân hận đau xót nghẹn ngào thương cho người dân vô tội phải chịu trăm cay ngàn đắng trong cuộc chiến chống xâm lăng.

Chiều hôm nay tôi về sớm lên căn cứ Tân Sân Nhứt tìm ông bác sĩ Giụ, Y sĩ trưởng Trung Tâm Y Khoa KQ, xem ông có giúp đỡ gì được ông Tư Râu không. Bác sĩ Giụ bảo về vấn đề lân tinh lúc đó KQVN chưa có khả  năng chữa cho, ông đề nghị tôi ra ngoài Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd Field Hospital) của Mỹ đóng trước cổng Phi Long xem sao? Tôi ra tìm bác sĩ Newman y sĩ trưởng của Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ tôi thường liên lạc với ông trong những trường hợp cấp cứu khẩn cấp khi có phi cơ lâm nạn, lúc tôi làm chỉ huy trưởng căn cứ Tân Sân Nhứt vào năm 1964. Tôi được gặp ông Newman trình bày về tình trạng của ông Tư Râu, vì những vết thương từ trái bom Lân Tinh, ông bảo sẽ cố gắng chữa cho ông Tư Râu nhưng không dám hứa sẽ lành bệnh. 

Ðược lời như cởi bớt đau buồn, trên đường về nhà khu cư xá Hàng Không Việt Nam ở đường Ðinh Tiên Hoàng Ðakao. Tâm tôi cầu nguyện mong sao việc cứu chữa cho ông Tư Râu được kết quả mỹ mãn để lòng tôi vơi đi được chút tình buồn ân hận và lương tâm đỡ cắn rứt của đời phi công khu trục. Một đêm trằn trọc không nhắm mắt ngủ được, chỉ mong cho mau sáng để đem ông Tư Râu đi chữa bệnh. Vào lúc một giờ sáng nghe tiếng nổ của pháo kích và tiếng còi báo động hụ lên từng chập trong đêm khuya âm u như nhắc nhở dân chúng thần chết đang lảng vảng trên không phận Sàigòn. Tiếng còi xe cứu thương bí bo nghe lanh lãnh rợn người từ nhiều nơi đồng hướng về phía sân bay Tân Sân Nhứt. Sáng tôi đi làm đem theo một quần dài, một áo sơ mi, một áo thun lót và đôi dép cho ông Tư Râu thay để đi chữa bệnh. Sáng nay vào văn phòng tôi có bảo ông Hai chừng nào ông Tư Râu đến chỉ vào phòng tắm cho ông tắm rửa thay quần áo để đi chữa các vết thương trên người ông. Chừng nào xong cho tôi biết. Ngồi trên văn phòng từng hai của trụ sở Hàng Không Việt Nam nhìn xuống đường Nguyễn Huệ hôm nay thứ sáu trời đẹp nắng ấm. Trước cửa toà Ðô Chính cũng vắng bóng các sinh viên biểu tình yêu cầu ông thị trưởng Văn Văn Của thả các sinh viên ra về tội chống đối chánh phủ của người nghèo do Thiếu Tướng KQ Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung ương. Ở bên kia đường rạp hát bóng Rex dân chúng đi xem xuất mười giờ sáng khá đông, tuồng ‘Vertigo’ của Alfred Hitchkock do hai tài tử thượng thặng thủ vai nam chánh James Stewart và vai nữ Kim Novak. Ngày mai tôi dự định đem Nhỏ và hai con Thiên Nga và Hồng Hải đi xem phim Vertigo.

Tiếng gõ cửa ông Hai dẫn ông Tư Râu vào quần áo chỉnh tề tuy có hơi rộng, tóc chải cột phía sau, và râu đã cạo thành ra ông Tư không râu nhìn thấy như người trẻ ra hơn mười tuổi. Tôi bảo:
– Ông Tư cạo râu rồi trẻ ra mà đẹp trai nữa. Ông Tư cười vui ra mặt. Hôm nay tôi sẽ đưa ông Tư đi chữa các vết thương trong bệnh viện Mỹ ở Tân Sơn Nhứt. Bây giờ ông đem tất cả đồ đạc trong bao bố tời ra xem thứ quần áo gì cũ rách vá tả tơi và những dụng cụ như đôi đũa mun, cái muỗng bạc, cái ca và bi đông đựng nước của quân đội không cần thiết bỏ hết đi.

Cuối cùng tất cả quần áo cũ đồ đạc bỏ đi gia tài sự nghiệp chỉ còn lại một cái muỗng bạc, cái bóp cũ kỹ một gói cuộn giấy báo quấn giây thun và tấm ảnh. Ông Tư cầm ảnh lên rồi ôm vào ngực hai dòng lệ nóng chảy tuôn xuống đôi má hóp khô cằn. Ông nhìn ra phương trời xa xôi như muốn gởi lòng mình về tận hướng làng Mé Láng cố mong tìm lại hình bóng thân yêu của người vợ, một giọng nức nở nghẹn ngào… Trời ơi!!! em Nở ơi! Sao đời anh khổ quá vậy nè… Ông Hai bỏ đi ra ngoài, tôi cũng mủi lòng ngồi yên im lặng quay mặt đi chỗ khác để che dấu hai hàng lệ từ từ chảy như để chia sẻ nỗi đau khổ của ông Tư Râu mà lòng tôi tự hỏi: Vì đâu và tại sao Dân Việt… Hận thù nhau? Chém giết lẫn nhau. Oan Nghiệt ơi? Ðau thương ơi?.. Sau cùng nỗi buồn lòng đã lắng xuống ôngTư Râu cầm gói giấy báo vừa mở ra đưa cho tôi xem toàn là giấy một đồng, năm đồng, mười đồng, và nói:
– Chẳng nói dấu gì ông Phó, mấy năm nay tôi đi xin được cần kiệm gom góp một số tiền là hai ngàn hai trăm đồng để mong ngày nào đem về làng Mé Láng xây lại mồ mả cho vợ con.

Ông Tư Râu như còn luyến tiếc ngồi mân mê quần áo và các món đồ dùng trong balô vừa tính bỏ đi có lẽ các món hành trang đã theo ông để chia sẻ những nỗi buồn vui trong cuộc đời hành khất bao nhiêu năm qua vì họa chiến tranh. Tôi liền bảo:
–Thôi cái balô của ông cứ giữ đây và tôi cất giùm cho, chừng nào chữa bênh xong rồi về đây lấy lại. Tôi sẽ biếu cho Ông Tư bằng số tiền giấy lẻ đó, bốn tờ giấy năm trăm và hai tờ một trăm để bỏ vào bóp cho tiện. Còn số tiền lẻ đó ông Tư gói lại cho kỹ cất vào trong balô tôi giữ đây cho ông Tư để ngày nào chữa hết bịnh trở về đây nhận lại balô. Chờ cơ hội thuận tiện đem tiền đó về xây mồ mả vợ con.

Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt vẻ ngờ ngợ gật đầu hình như chưa tin được khi nghe những lời tôi vừa cho ông biết và lặp lại:
– Ông Phó cho tôi tiền chẳn và giữ lại số tiền lẻ sau khi tôi lành bịnh, ông Phó cho tôi về xây mồ mả vợ con… phải không?
– Ðúng rồi ông Tư ơi!!!

Ông Tư liền tuột xuống đất quỵ lạy tôi để tỏ cử chỉ cám ơn tôi vừa nói:
– Trời thần thiên địa ơi!.. Câu nói chưa dứt, tôi vội đỡ ông Tư đứng lên hai tay ông còn run vì quá xúc động và tôi nói:
– Ông Tư ơi, đừng làm vậy khổ lòng tôi! Thôi mình ra xe đi lên bịnh viện đừng để trễ giờ hẹn.
– Cám ơn ông Phó.

Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd Field Hospital)

Chúng tôi ra xe trực chỉ về hướng Tân Sơn Nhứt, tôi cho ông Tư Râu biết sẽ được vào bệnh viện Mỹ để điều trị. Tôi đã lo xong rồi ông Tư khỏi lo lắng gì hết cứ yên tâm mà chữa trị. Trên đường đi, tôi ghé tiệm phở bà Dậu để dùng trưa, nhìn ông Tư râu ăn tô phở nóng gắp từng miếng thịt, từng miếng bánh phở cọng rau thơm và húp muỗng nước lèo cuối cùng. Ông Tư uống ly chanh muối ngon lành làm lòng tôi vơi bớt nỗi ân hận buồn đau vì đã gây thương tích cho một người dân mà cũng là một chiến hữu đồng chiến tuyến với tôi. 


Chúng tôi đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ thấy có rất nhiều người Việt đứng lố nhố trước văn phòng. Kẻ khóc sướt mướt người than trách thánh thần, khi người thơ ký đưa vào ngồi chờ bác sĩ Newman. Chúng tôi mới biết trong đêm qua việt cộng pháo kích căn cứ Tân Sân Nhứt lạc ra khu phố đường Trương Minh Giảng cách Lăng Cha Cả vài trăm thước làm thiệt mạng bốn người lớn, sáu trẻ em và hơn hai mươi người bị thương toàn là đám người dân vô tội. Ông Bác sĩ Newman cùng nhân viên bệnh viện đang cấp cứu các nạn nhân bị thương tích trong một phòng riêng biệt phía cuối bệnh viện. Chúng tôi chờ chừng mười lăm phút, ông bác sĩ Newman trở về, bước vào văn phòng, nhìn ông trong bộ quần áo bác sĩ xanh mầu da trời dính đầy máu vì ông đã cùng các bác sĩ khác và ý tá của bệnh viện làm trọn đêm cứu cấp các nạn nhân bị thương tích vì pháo kích. Tôi đứng dậy bắt tay ông và giới thiệu ông Tư Râu. Chúng tôi được bác sĩ Newman đưa xuống phòng chữa bệnh nhiều bệnh nhân người Việt bị thương trong đêm qua. Y tá chỉ cho ông Tư một cái ghế bố trong phòng bệnh nhân có người y tá Việt thông dịch viên lại làm giấy tờ nhập viện cho ông Tư. Bác sĩ Newman bảo tôi cho ông Tư biết phải nằm đây chừng hai tháng để chữa vì phải lấy thịt các vết thương ra thử xem lân tinh có ăn thấu vào tới xương chưa. Cắt các vùng thịt bị nhiễm lân tinh bỏ đi rồi mới lấy da ở bụng và nơi đùi đắp vào các vết thương. Cả một công trình cứu chữa nhiều vất vả phải cần đến bàn tay các bác sĩ chuyên môn để chữa trị. Bác sĩ Newman nhờ tôi hỏi ý kiến ông Tư, vì ông còn mạnh khoẻ đi đứng được nên cũng giúp đỡ quét dọn trong phòng các bệnh nhân khi cần. Còn khi nào nằm chữa bệnh thì thôi. Tôi báo ông Tư biết và hứa sẽ vào thăm ông Tư hàng tuần hoặc khi cần thiết và ông Tư phải ký giấy tờ chịu trách nhiệm về việc cứu chữa vì không có thân nhân, và tôi ký tên làm chứng. Ông Tư thay đồ ra mặt quần áo bệnh viện lên nằm nghiêng trên ghế bố để y tá lấy máu các thớ thịt mẫu trên các vết thương đem thử nghiệm.

Tôi từ giã ông Tư và chào bác sĩ Newman ra về và không quên để số điện thoại lại khi có việc cần văn phòng thông báo cho tôi rõ. Trở về phần sở tôi theo đường Trương Minh Giảng vừa qua khỏi Lăng Cha Cả những nhà cửa còn bốc lên những đám khói cuối cùng mà các anh em sở chữa lửa đô thành đang cố gắng dập tắt.

Bên lề đường kẻ ngồi đang khóc cho người thân đã chết trong đêm qua. Người đứng khoanh tay rầu rĩ tiếc của nhìn cảnh nhà cháy tan tành đang lo cho ngày mai vợ chồng con cái biết lấy đâu để làm mái ấm, phải sống màn trời chiếu đất. Trường hợp người dân lành vô tội, như hoàn cảnh ông Tư Râu và dân tình Mé Láng, người dân thành thị đường Trương Minh Giảng, họ lưỡng đầu thọ… đạn địch và bạn, dân thành thi thì ăn… đạn pháo 122ly của đám giặc Hồ vô thần tàn ác, dân thôn quê thì hưởng… bom WP vô tình của quân bạn, thật trớ trêu cho cảnh người dân vô tội của một nước nhược tiểu phải chịu tai ách oan ương giữa hai giòng lý tưởng Tự do và Cộng sản đang tranh dành nhau trên mảnh đất Việt thân yêu. Còn những người Mỹ như ông bác sĩ Newman chẳng hạn, từ một phương trời xa lạ nào đó đã rời bỏ mái ấm gia đình vợ con để đến nơi nầy ra tay cứu chữa cho các nạn nhân bị pháo kích trong đêm qua. Nhưng thanh niên Mỹ ở những nơi đèo heo hút gió ngày đêm ghìm súng giữ giặc nơi Ashau, Alưới, Khe Sanh, U Minh, Chương Thiện, Ðổ Xá, Ðak Tô, Ðak Sút, Bình Ðịnh, Hoài Ân… những chiến trường dầu sôi lửa bỏng trên phần đất mà không phải quê hương của họ. Có khi hy sinh cả tánh mạng trong những phi vụ như Tr/Úy O’Connor đã gãy cánh cùng Th/úy Võ Trường Chí trên chiến trường đẫm máu miền đồng bằng sông Cửu Long trong buổi sáng mờ sương. Một Ðại/Tá Sauers ngày chót trong phi vụ cuối cùng tua cố vấn hai năm cho Sư Ðoàn 4 KQ VNCH đã về miền miên viễn cùng Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh Tư lệnh Sư Ðoàn 4 KQ. Nhưng mà họ đang giúp giữ hai chử ‘’Tự Do’’ trên mảnh đất miền Nam cho dân tộc Việt. Chỉ nói vì tình người xin đừng bàn về chánh trị, họ là các người anh hùng vô danh, họ hưởng được gì, phải chăng hưởng vài vòng hoa chiến thắng hoặc vài tấm bảng khẩu hiệu ‘’Hoan Hô’’. Nhưng cuối cùng họ hưởng không ít sự hận thù chửi rủa của những tở báo miền Nam thân cộng hay các nhà Sư, các ông Cha hòa hơp hòa giải và cả một số dân chúng hưởng được Mỹ viện trợ. Họ và chánh phủ họ không màng đến được trả ơn. Và khi họ dứt hai năm nhiệm vụ ở VN, khi trở về Mỹ được bọn phản chiến dẫn đầu là Jane Fonda và chồng Tom Hayden chào đón với những câu chửi rủa tàn tệ, nào kẻ giết trẻ thơ, giết ông già bà cả.

Tôi ngừng xe lại vì có hồi còi hụ của xe cứu thương chạy ngược chìều, đang sắp ngừng đậu trước một căn nhà tường gạch sụp đổ cháy tiêu tan. Người mẹ đang hớt hơ hớt hãi chạy theo một anh lính chữa lửa đang bồng trên tay một em bé đầu xanh vô tội chừng bốn năm tuổi máu me đầy người còn thoi thóp được tìm thấy dưới đống gạch vụn vách tường đổ vỡ.

Anh lính chữa lửa đang hối hả chạy đem ra xe cứu thương, các anh em y tá cho em thở oxy cửa xe đóng lại xe hụ còi inh ỏi chạy về hướng bệnh viện đô thành. Xe cứu thương xa khuất dần trên đường Trương Minh Giảng. Tôi rồ máy xe chạy đi mắt mờ, lòng bùi ngùi thương cảm tình cảnh người dân Việt đau thương, tội tự hỏi tại sao dân tộc tôi phải chịu nhiều cảnh ngang trái. Hận Thù ơi!!!… Ðau thương ơi!!!… Oan Nghiệt ơi!!!.. Cho đến bao giờ mới chấm dứt cảnh tương tàn. Những hình ảnh vừa qua làm tôi nhớ đến Nhỏ và các con tôi đang làm gì giờ nầy. Trên đường về sở làm tôi ghé xe qua nhà thăm một chút Nhỏ và con tôi. Xe vừa qua đường Ðinh Tiên Hoàng để rẽ vào cư xá Hàng Không Việt Nam, tôi vừa ngừng lại ở sân đậu trước nhà, nhìn ngoài bãi cỏ Nhỏ tôi và các con Thiên Nga, Hồng Hải ‘’Tímunchô’’ đang vui đùa trên bãi cỏ xanh trước nhà. Nhỏ tôi và Thiên Nga đang chơi cút bắt, còn Tímunchô đang tập đạp chiếc xe máy ông nội vừa mua cho trong tuần vừa qua, một bức họa thanh bình gia đình quá êm đẹp giữa mùa ly loạn đã làm ấm lại lòng tôi. Bước vội vã về hướng Nhỏ và các con tôi, Tímunchô vừa nhìn thấy tôi la lên: Bố dề… Bố dề… Tôi tới ôm Thiên Nga, Tímunchô và Nhỏ tôi vào lòng. Trong vòng tay tôi là cả một bầu không gian hạnh phúc tràn đầy mà tôi nguyện lòng sẽ cố gắng giữ mãi… Tiếng nói líu lo Thiên Nga, Tímunchô… Sao Bố dề sớm dậy… Sao Bố dề sớm dậy….Tímunchô ngước mặt nhìn tôi… Hai giọt lệ vô tình đã rơi vào mặt con… Sao Bố khóc dậy Bố… Không, Bố đâu có khóc đâu vì cái nón của Tínmunchô quẹt trúng vào mắt bố nên chảy nước mắt đó thôi. Nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi tiếng êm dịu hỏi… Có chuyện gì vậy Bố… Tôi tươi cười trả lời… Có chuyện… chiều nay đi xem hát bóng tuồng Vertigo… ở rạp Rex, suất bốn giờ cho đến chừng cỡ bảy giờ ra đi ăn cơm tiệm luôn, Nhỏ khỏi phải nấu cơm. Có tiếng đồng thanh hoan hô của Thiên Nga và Tímunchô.

Sau ba ngày, tôi được điện thoại chiều hôm qua cô thư ký ông bác sĩ Newman gọi cho biết lên gấp. Tình trạng ông Tư đang gặp khó khăn trong việc chữa trị khi đang mổ các vết thương để lấy các vùng thịt bị nhiễm lân tinh ra bỏ đi thì bị xốc bất tỉnh. Hôm nay sẵn dịp lênTân Sân Nhứt giải quyết vấn đề lương tháng mười ba cho các nhân viên HKVN. Tối ghé qua thăm ông Tư Râu xem tình trạng như thế nào, trên đường đi lên TSN lòng tôi như tơ vò trăm mối. Lo cho tính mạng Ông Tư Râu nếu có mệnh hệ gì muôn phần trách nhiệm về tôi. Lòng tôi muốn cứu ông Tư Râu đem đi chữa bịnh lại hại đời ông. Tôi tự hỏi sao Trời Phật, Chúa lại để cho đời tôi vào ngõ cụt, trong tình huống nghẹn ngào nghịch cảnh như thế nầy. Tôi không biết làm gì hơn vì ngoài tầm tay nhỏ bé của tôi, chỉ còn lòng kính cẩn dâng lời nguyện cầu xin Phật, Chúa phù hộ giúp đỡ cho ông Tư Râu tai qua nạn khỏi trong tình trạng thập tử nhứt sanh nầy. Sau nửa giờ xe đến cổng bộ Tổng Tham Mưu QÐVNCH, tôi rẽ xe vào hướng đến cửa Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ. Hôm nay bệnh viện có lẽ trở lại bình thường vì các nạn nhân bị thương trong vụ pháo kích vừa qua đã được chăm sóc trong lúc khẩn cấp và được di tản về các bệnh viện đô thành hết rồi. Tôi bước vào cửa văn phòng thư ký, ông bác sĩ Y sĩ trưởng Newman cũng vừa vào đến bắt tay tôi và bảo: Tất cả đều xong tốt cả rồi, ông Tư Râu đã tỉnh lại và đang được chăm sóc ở phòng hồi sinh.

Tôi theo chân bác sĩ Newman vào thăm ông Tư Râu, đang nằm thở đều đều được ghi trên máy đo tim. Giây nhợ tùm lum như người phi hành gia sắp lên cung trăng, mang ống hơi thở dưỡng khí, dây truyền máu vào tay. Sau khi bác sĩ Newman thăm nghe tim phổi và bảo với tôi mọi sự đều tốt cho ông Tư Râu. Tôi nhìn lên trời thầm cám ơn Trời, Phật, Chúa đã đáp lời cầu nguyện của tôi cho ông Tư Râu được bình an. Ông nằm sấp trên giường bệnh trải ra trắng, đầu nằm nghiêng qua bên tay phải thở đều đều, trên hai cánh tay và lưng những vết mổ được băng bó kỹ càng sau khi mổ xong. Tôi đếm được tám vết trên lưng và sáu vết trên hai cánh tay ông Tư Râu. Mười bốn vết hằn được ghi lại vĩnh viễn ngàn đời bằng lửa đạn… bạn nhầm lẫn, trên thân người chiến sĩ quốc gia, mà tôi chính là kẻ gây lên tai nạn đó. Lòng tôi đau buốt nghẹn ngào, tôi tới nắm bàn tay xương xẩu lạnh, hình như hơi ấm từ tay tôi chuyền qua làm ông Tư từ từ mở mắt nhìn tôi cố gắng mỉm cười trên vành môi tái xanh khô héo của người mới trở về từ cõi chết. Tôi nói:
– Bác sĩ vừa bảo với tôi ông Tư khỏe mạnh rồi đó ráng tịnh dưỡng đừng lo lắng gì hết có hại cho sức khỏe. Chừng tháng sau ông Tư sẽ được trở lại đời sống bình thường.

Tay ông Tư Râu bóp nhẹ tay tôi và gục gặc đầu như thầm hiểu những lời căn dặn của tôi và vì có lẽ quá cảm xúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống gò má khô cằn nhăn nheo của người dân vô tội qua quá nhiều đau khổ trong chiến tranh. Tôi tạm biệt ông Tư Râu và theo bác sĩ Newman trở lên văn phòng. Bác sĩ Newman cho tôi biết sớm lắm ngày mai ông Tư Râu sẽ được dời ra khỏi phòng hồi sinh. Khi đang mổ tới vết thương cuối cùng ở tay vì chất lân tinh đã thấm vào xương tủy nên phải cạo một ít xương ra cho sạch chỗ bị nhiễm lân tinh. Có lẽ vì yếu sức ông Tư Râu bị bất tỉnh nhưng tim vẫn đập đều và máu bơm vào đầu bình thường làm cho óc vẫn hoạt động. Tôi nói chân thành cảm tạ bác sĩ Newman và các nhân viên bệnh viện đã lo giúp đỡ và chăm sóc ông Tư Râu. Tôi kiếu từ bác sĩ Newman ra về lòng khoan khoái nhẹ nhõm như người vừa trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai trách nhiệm nặng nề về sự chết sống của ông Tư Râu.

Tôi thấy lòng sảng khoái hân hoan đến làm việc với anh em ở các phần sở Hàng Không Việt Nam trên Tân Sân Nhứt. Vào đến phòng họp còn năm phút trước mười một giờ, các anh em đại diện các phần sở nhân viên trên bốn trăm người trong phòng chật cứng. Ông Lâm Ngọc Diệp, Phó giám đốc nhân viên phi hành và không phi hành. Ông Việt Phó giám đốc kỹ thuật và ông… Phó giám đốc tài chánh đưa tôi vào bàn chủ tọa, sau ba hồi chuông reo vang tất cả hội trường đều an tọa, ông phó giám đốc Diệp đứng lên điều khiển đọc chương trình buổi họp hôm nay. Bắt đầu trước giới thiệu quan khách chủ tọa đoàn và các đại diện các phần sở liên hệ trước xin các quý vị sau đó rồi sẽ vổ tay, sau đọc chương trình buổi họp về lương tháng mười ba, có bốn mươi lăm phút để thảo luận và mười lăm phút ý kiến của ban giám đốc Hàng Không Việt Nam mà ông Phụ Tá Chủ tịch Nguyễn Hồng Tuyền đại diện Chủ tịch Tổng Giám Ðốc HKVN ông Phạm Long Sửu. Sau khi ông Lâm Ngọc Diệp giới thiệu quan khách, các phần sở liên hệ xong một tràng pháo vổ tay chấm dứt. Ông tuyên bố khai mạc và xin ông Phụ tá có đôi lời với tất cả các nhân viên và mời cô Vương Thúy Lan phó trưởng phòng tố tụng làm thơ ký buổi họp.
– Chúng tôi hôm nay lên đây trước để chuyển lời Chủ tịch Tổng giám đốc HKVN ông Phạm Long Sửu vì hôm nay ông có dự buổi họp cùng bên Bộ Giao thông Vân tải để bàn về việc bành trướng thêm các đường bay hải ngoại. Trước chào mừng tất cả quí vị và sau để cùng quí vị bàn luận về vấn đề lương tháng mười ba cho toàn thể nhân viên HKVN của niên lịch 1965 nầy. Chúng tôi trên ban giám đốc đã quan tâm đến việc làm tích cực của tất cả nhân viên trong ba tháng vừa qua và xin quí vị nghe lời báo cáo của ông… Phó giám đốc tài chánh thông báo cho quí vị biết rõ tình hình tài chánh của công ty, tôi xin giới thiệu ông Trình.

– Xin thông báo cùng quí vị, tình hình thu nhập tài chánh công ty rất khả quan, trong ba tháng vừa qua rất khích lệ tổng số thu gia tăng thêm 7% trên số thu dự định và nếu chúng ta tiếp tục như sự tiến triển trong ba tháng vừa qua cho tròn năm nay, thì tháng tưởng thưởng mười ba của tất cả các nhân viên không thành vấn đề. Ông phó giám đốc tài chánh dứt lời… tiếng vổ tay hoan hô vang dậy.

– Như vậy chúng ta chắc ai cũng đồng ý về lời trình bày về tháng mười ba của ông Phó giám đốc tài chánh, để rút ngắn thời giờ cho buổi họp hôm nay, chúng tôi có câu hỏi sau đây:
– Có ai không đồng ý nhận lãnh tháng mười ba xin đưa tay lên cho biết ý kiến.

Tất cả hội trường đều im lặng với nỗi lòng thoải mái và hân hoan vì chắc được tháng mười ba, chỉ có một người đứng lên… có tiếng ồn ào phản đối của tất cả hội trường… (có tiếng ai nói… Không muốn lãnh hả… để tui lãnh giùm cho… ngồi xuống đi cha nội ơi!!! Không lãnh hả để tụi tui lãnh đầu năm đánh xập xám cho vui nhà vui cửa…) Tiếng hội trường cười rộ lên làm vui nhộn cho buổi họp hôm nay. Ông Phó giám đốc Lâm Ngọc Diệp yêu cầu tất cả giữ im lặng để tiếp tục buổi họp, và xin người vừa đứng lên tự giới thiệu và phát biểu.
– Tôi tên là Henri Hoạt, trưởng ban đại diện công nhân công ty HKVN xin có ý kiến, nếu chủ tọa đoàn chấp thuận, anh xin tiếp tục. Ông Lâm Ngọc Diệp nhìn tôi như hỏi ý kiến, tôi gật đầu. Ông Diệp nói chấp thuận. Anh Henri Hoạt nói, nếu được lãnh tháng mười ba thì ban giám đốc cho chúng tôi lãnh ra sao? chia ra hai phần một phần lãnh trước kèm theo với tháng mười một và một phần lãnh kèm theo với tháng mười hai hay là lãnh trọn luôn trong tháng mười hai? Lại có tiếng ai đó nói lớn lên… có được lãnh tháng mười ba là đã sướng quá rồi, trước sau gì cũng lãnh lo lắng chi cho mệt… Bỏ qua đi tám!!!..)

– Ý kiến nầy phải hỏi lại ông Phó tài chánh mới được.
– Ðể tiện việc số sách cuối năm, tôi xin đề nghị ban giám đốc cho lãnh tháng mười ba tưởng thưởng cùng với tháng mười hai cuối năm thì rất dễ dàng tiện việc sổ sách cho văn phòng tài chánh, tiếng hoan hô ầm lên cả hội trường.

– Vậy để tiết kiệm thời giờ để các anh em còn trở lại làm việc, chúng tôi xin chuyển lời ông Chủ tịch Tổng giám đốc về quyết định của hội đồng quản trị, (hội trường im thin thít chờ nghe…) theo lời đề nghị của ông Chủ tịch tháng tưởng thưởng mười ba… đã được chấp thuận, tiếng hoan hô và tiếng cười rộn rã ầm vang cả hội trường. Còn hơn nửa giờ chúng tôi xin cho quí vị biết sơ qua các chương trình dự định năm năm bành trướng 1965/1970 công ty HKVN trong tương lai, nội địa thêm các tuyến đường bay Sài Gòn, Rạch Giá, Hà Tiên, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Phan Thiết, Phan Rang, Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi… Các tuyến đường bay hải ngoại hướng Ðông Bắc, tuyến đường bay nối dài qua từ Hồng Kông 1965/66 đến Seoul Nam Hàn và Tokyo Nhật Bổn, về phía Ðông Nam tuyến đường bay thẳng qua Sidney Úc Châu. Về phía Tây Nam nối tiếp tuyến đường bay từ Thái Lan đi đến Indonesia và Birmani trong năm 1966/67.

Ðể tăng cường về phi cơ sẽ mướn thêm cho nội địa của các hãng hàng không bạn như China Air Lines và Far Eastern của Ðài Loan. Mướn/Mua thêm Boeing 727 cho các tuyến đường bay hải ngoại và cùng hùn/chia vớí CAS (Continental Air Servises) 1965/1972 thay thế Air America, chỉ bay riêng cho các cơ quan hành chánh và tòa đại sứ Mỹ. HKVN lo sửa chữa và bảo trì các phi cơ. Vào cuối năm 1966/67, tăng cường mở đường bay Âu châu qua Pháp. Chuẩn bị nối liền Tokyo qua Mỹ San Francisco và Los Angeles nếu tình hình cho phép, chương trình liên lạc PanAm để mướn/mua 6 phi cơ 707/320 vừa chở hành khách và hành lý. Vào năm 1968 sẽ có hai chương trình:


1) – Là thành lập thêm công ty Hàng Không Chuyên Chở có tên VAT (Việtnamese Air Transport).
2) – Hùng vốn với Hilton Hotel xây cất một Hotel năm sao, sáu từng chừng hai ngàn phòng. Từng một với đầy đủ khu buôn bán lẻ, nhà hàng và bộ chỉ huy HKVN, trên miếng đất mà hiện tại Bộ Giao Thông Vận tải đang chiếm giữ. Bộ sẽ dời đi nơi khác vì nơi đây quá nhỏ cho sự bành trướng của Bộ Giao thông Vận tải trong tương lai.

Ðó là chương trình bành trướng công ty HKVN trong tương lai, sau cùng xin kính chúc quí vị có nhiều sức khỏe và cố gắng thêm lên trong công việc hằng ngày và giữ vửng lòng tin vì sự thành công của công ty HKVN nằm trong tay quí vị. Sau đây nhờ cô Vương Thúy Lan thơ ký buổi họp đọc laị biên bản, xin quí vị Phó giám đốc ký tên vào và chuyển về phòng hành chánh công ty HKVN để trình lên Ông Chủ Tịch Tổng Giám Đốc.

Buổi họp chấm dứt trong sự vui vẻ của tất cả đại diện cho các nhân viên phần sở. Khi ra về lòng được nhiều phấn khởi vì tháng mười ba tưởng thưởng đã thành sự thật không còn thắc mắc lo âu bàn cãi nữa trong giờ làm việc của các cơ quan liên hệ. Buổi họp được bế mạc trong niềm phấn khơỉ của tất cả nhân viên HKVN.

Trên đường trở về văn phòng, lòng tôi khoan khoái chi lạ, công tác cho hãng đã được kết quả mỹ mãn và việc ông Tư Râu hồi tỉnh lại đem đến cho tôi niềm vui nội tâm yên ổn thoải mái cho tình người phi công khu trục. Sau khi thông báo kết quả buổi họp cho Trương Ðăng Lượng chánh văn phòng, ông chủ tịch còn đang họp với Bộ Công chánh về việc xin Bộ Ngoại giao giới thiệu công ty HKVN đến các nước liên hệ để được mở thêm các tuyến đường hàng không trong tương lai.


Chiều nay về đến nhà cùng Thiên Nga, Hải Tímunchô và Nhỏ yêu của tôi đi ăn mì Cây Nhãn, chưa bao giờ tôi được sống hai ngày cuối tuần hạnh phúc tròn vẹn cùng gia đình nhỏ bé của chúng tôi.

Sau hai tuần công tác để mở thêm đường bay quốc tế ở Ðài Loan và Seoul Nam Hàn trở về trình bày cho ông chủ tịch công tác về việc bành trướng các đường bay được theo ý muốn. Chỉ chờ ngày ông Chủ tịch đi thăm viếng xã giao Ðài Loan, Nam Hàn và ký giấy tờ là xong. Anh tổng thư ký Trương Ðăng Lượng cho biết có điện thoại của văn phòng Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ gọi, và cho biết tình trạng sức khỏe của ông Tư rất khả quan. Ngày hôm sau trước khi lên thăm ông Tư, tôi ghé qua tiệm chú Khén mua tô hủ tiếu khô có nước lèo để riêng, và lại chỗ bánh mì Ba Lẹ mua hai ổ đem lên cho ông Tư. Đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ, tôi ghé vào văn phòng của Y sĩ trưởng gặp ngay bác sĩ Newman chào đón tôi và cho biết chừng một tuần lễ nữa để vá thêm bốn vết thương ở tay trái là xong, chờ lành thêm thời gian không hơn hai tuần nữa ông Tư có thể xuất viện.

Tôi theo chân bác sĩ Newman xuống thăm ông Tư nơi phòng nằm dưỗng bịnh chung với các binh sĩ Hoa Kỳ. Vừa trông thấy tôi, ông Tư ngồi dậy mừng rỡ và chảy nước mắt, vì có lẽ sợ tôi bỏ bê ông ta vì thấy hai tuần vừa qua tôi vắng mặt. Tôi ngồi xuống an ủi ông Tư, vì tôi bận công tác hải ngoại hai tuần, mới vừa về hôm qua nay lên thăm liền ông Tư đây. Tôi có mua cho ông Tư một quần Jeans và cái áo tay ngắn kiểu Hạ Uy Di, có thêm tô hủ tiếu và bánh mì thịt nguội Ba Lẹ nữa cho Ông Tư đây. Tôi biết chắc mấy tuần ở đây ăn cơm Mỹ ngán lắm rồi phải không. Ông Tư bước xuống giường theo tôi ra phòng dành cho thân nhân thăm viếng, chân, tay, lưng còn băng bó lổn ngổn nhưng gương mặt ông Tư có thần và hình như sức khỏe đã trở lại khả quan. Ông Tư ngồi xuống bàn và xin phép cho ăn hủ tiếu. Vừa ăn ngon lành tô hủ tiếu và ổ bánh mì Ba Lẹ, vừa nhìn tôi với đôi mắt thầm cảm ơn, ông Tư dùng xong tôi mới lời hỏi chuyện:
– Ông Tư thấy sức khỏe ra sao, và các vết thương còn nóng và đau nhức như hồi xưa không?
– Dạ hết nóng rồi, sức khỏe khá tốt hết còn nhức nhối khi trời nóng hay lạnh, ăn ngủ được ngon giấc, không còn thức giấc ban đêm vì các vết thương hết hành hạ rồi.

Ông Tư cho tôi coi ở đùi và ống chân các chỗ lấy da để ‘’vá’’ các vết thương trên lưng và tay cũng đã bắt đầu kéo da non. Nghe ông Tư nói lòng tôi thấy yên vui, nỗi đau buồn đã vơi bớt được phần nào trong tâm não, thầm cám ơn Trời, Phật, Chúa đã ban ơn cho ông Tư được thoát khỏi sự chết từ từ âm thầm đến trong những phút sống cuối đời phiêu bạt. Tôi từ biệt ông Tư ra về, ông Tư cám ơn các món đồ tôi mua cho và mong gặp lại tôi trong tuần tới. Trên đường về lòng tôi rối vò trăm mối, làm sao đây chỉ còn ba tuần nữa thôi. Khi Ông Tư rời bịnh viện, rồi về đâu, không lẽ tôi lại trả ông về cuộc đời hành khất nữa sao. Rày đây mai đó sống nhờ các tha nhân thương hại cho từng đồng bạc, hay vài chục xu. Ngày dựa cột đèn dơ tay xin chút tình thương của đồng loại, đêm về sống dưới gầm cầu mưa gió lạnh lùng cô đơn cho kiếp đời lang bạt. Không biết ông có dự định muốn trở về Mé Láng nữa không, nơi một lần chiến tranh đã phá nát gia cang, vợ con bị chết cháy thê thảm? Tôi phải tìm một ngõ đường sáng sủa hơn để ông Tư làm lại cuộc đời dang dở, mới thỏa lòng ân hận và đau xót của tình người phi công khu trục. Làm sao cho cuộc đời ông Tư Râu được bình thường trong tương lai, vì kiếp người như ông Tư chịu quá nhiều tai ương hoạn nạn tàn phá.

Mỗi tuần tôi đều có lên thăm ông Tư, tình trạng sức khỏe rất khả quan, đi đứng vững vàng, đã làm giúp bịnh viện trong các công tác như đem nước uống hay cà phê cho các thương binh Hoa kỳ, đốt thuốc lá, quét phòng… Tuần lễ thứ ba tôi được thông báo cuối tuần vào ngày thừ sáu ông Tư sẽ được cho xuất viện. Ngày thứ hai vào làm việc tôi bàn cùng ông Hai, người lo chăm sóc văn phòng, để tìm chỗ ở cho ông Tư Râu, và công việc thì sẵn Air Việt Nam đang trên đà bành trướng, việc cho ông Tư một chỗ làm chắc không khó. Làm nhân công khuân vác hành lý hoặc làm trong nhà nấu thức ăn cho các chuyến bay hải ngoại, hay nhân viên chăm sóc vệ sinh văn phòng. Ông Hai đưa ý kiến để giúp cho ông Tư, cho ở không tiền thuê cùng nhà ông Hai mướn trong ba tháng đầu, và sau đó chia 2 phần 5 tiền mướn. Tôi đưa tiền ông Hai đi chợ trời mua một cái vali cỡ trung và mua bốn bộ quần áo, khăn lông, một ghế bố và cái mùng chiến trận cho ôngTư Râu. Tuần lễ qua mau thứ sáu đến, tôi ghé nhà hàng Thanh Thế mua bốn chục tôm chiên lăn bột, bốn chục gỏi cuốn, bốn chục chả giò và sáu chai rượu chát: ba chai đỏ Cabernet Savignon và ba chai Chablis trắng, đem lên làm quà cho các bác sĩ và nhân viên của Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ. Tôi lên đến vào khoảng mười hai giờ cũng vừa bữa cơm trưa, tôi vào phòng làm việc của bác sĩ Newman nhờ cô thơ ký cho người tiếp tay tôi bưng những hộp đồ ăn vào, cũng vừa khi bác sĩ Newman vừa trở về phòng có dẫn theo ông Tư Râu. Trong bộ quần Jeans áo sơmi xanh nhạt cụt tay, mặt mày có da có thịt lanh lẹ tỏ ra người đã được chữa trị lành hết các vết thương của chiến tranh.

Không ai có thể nhìn ra ông Tư Râu hành khất ngày xưa, hôm nay là người thanh niên trai trẻ đầy sức sống. Tôi cũng vui lây. Ông bác sĩ Newman cũng lấy làm sung sướng đã chữa lành người bệnh nhân có căn bệnh khó tánh mà đây cũng là một trong những người đầu tiên ông ra tay cứu độ. Ông bảo cho tôi biết dù ông Tư Râu có vẻ khỏe mạnh nhưng chưa biết kết quả thực thụ trường kỳ trong tương lai ra sao. Còn phải theo dõi bệnh nhân và sau một tháng phải bảo ông Tư Râu trở lại khám bệnh. Tay chân còn yếu đừng cho làm việc gì nặng nhọc hoặc bưng sức nặng trên mười ký lô, đừng nên uống rượu nhiều có thể làm sưng hoặc ung thối những miếng da thịt vá các vết thương. Ông Tư Râu phụ bưng các món ăn qua phòng ăn của các nhân viên bệnh viện, bày ra trên bàn và khui rượu ra. Tôi mời bác sĩ Newman cùng tất cả các các bác sĩ chuyên khoa mổ xẻ và y tá nhân viên cùng nâng ly trước để nói lên sự biết ơn của ông Tư Râu và tôi, sau mừng người nạn nhân của chiến tranh mà bác sĩ Newman cùng tất cả quý vị có mặt hôm nay đã ra tay cứu độ được thành công tốt đẹp. Ông bác sĩ Newman cùng tất cả các nhân viên bệnh viện đồng chúc ông Tư Râu nhiều may mắn. Buổi tiệc bắt đầu, các món ăn chả giò, gỏi cuốn và tôm lăn bột chiên cùng rượu chát đỏ Cabernet Savignon được tất cả người bạn đồng minh rất khoái khẩu và hoan hô. Chúng tôi từ biệt ra về ông Tư Râu bắt tay từ giã các người bạn chân tình đã giúp chỉnh trang lại mảnh đời vô vọng thành một cuộc đời đầy tương lai và có ý nghĩa sống cho ông Tư Râu. Trên đường về văn phòng của tôi, ông Tư Râu nói cám ơn tôi với dòng lệ và sự lo lắng.

Không biết tôi chở ông về văn phòng làm gì đây, viển ảnh hành khất đen tối đang ám ảnh tâm tư. Ông khóc thành tiếng, cây cột đèn trước cửa HKVN quen thuộc hằng ngày, mái hiên chợ Bến Thành những trưa hè nắng cháy da, hay gầm cầu chữ Y trong những đêm cô độc lạnh buốt xương nằm nhìn đếm trăng sao… Tôi chia sẻ cùng ông và muốn ông Tư Râu nhờ dòng lệ tuôn ra cho hết tất cả tâm tư thầm kín đau khổ của mảnh đời vô vọng hành khất ngày qua để không còn đọng lại trong tiềm thức dù rằng chỉ một mảnh nhỏ bụi khổ đau của ngày qua… Ðể ông Tư Râu sống trọn đầy nghị lực mà ông đang phải bươn bả nhào vô chấp nhận đương đầu với cuộc sống mới trong tương lai…

Xe cũng vừa đến, thấy ông Hai đang quét dọn hàng ba trước cửa hãng Hàng Không Việt Nam. Ông Hai theo chân tôi và ông Tư Râu lên văn phòng, hai người rối rít hỏi thăm nhau, vào đến phòng khách ông Tư Râu đã thấy balô của ông đã có sẵn đó và cái vali nằm kế bên cùng ghế bố và chiếc mùng quân đội mà ông đã quen thuộc. Ông tư Râu hết nhìn tôi rồi đến ông Hai như tìm hiểu việc gì xảy ra đây cho cuộc đời ông trong tương lai? Thấy ông Hai và tôi cười vui, ông Tư Râu cũng cười với những giọt nước mắt lưng tròng và sự lo lắng thấm kín.
– Ngồi xuống ghế đi ông Tư Râu, ông xem lại balô coi còn đủ đồ như trước khi ông đi chữa bệnh không?


Ông Tư Râu nói một câu đầy ân nghĩa:
– Thưa ông Phó và ông Hai, tôi không xem lại và tôi chắc chắn đồ của tôi còn đủ và có thêm một tình thương vô bờ bến mà ông Phó và ông Hai dành cho tôi trong những ngày qua, lúc tôi được chữa bệnh.

Với cử chỉ lanh lẹ ông Tư Râu móc túi lấy cái bóp ra, lấy hai ngàn hai trăm đồng trả lại cho tôi.
– Ông Tư Râu ơi, giữ đó đi hôm nào về xây mồ mả cho vợ con. Ðây ông Tư Râu nghe kỹ, những gì tôi dư định cho cuộc sống trong tương lai, nếu ông Tư Râu thấy không vừa lòng thì cho tôi biết để tôi lo liệu sau. Bây gìờ về phần chỗ ở, ông Hai cho ông Tư Râu về ở chung trong ba tháng đầu không lấy tiền sau đó rồi sẽ tính sau. Công việc làm tôi đã lo xong rồi, cho ông Tư Râu vào làm với hãng Hàng Không Việt Nam trong nghề phụ bếp ở Tân Sơn Nhứt. Nhà ông Hai cũng ở gần đó, đi làm rất tiện lợi, như vậy ông Tư cho biết ý kiến ra sao?


Vừa nghe tới đó ông Tư Râu oà lên tiếng khóc trong sung sướng và nói:
– Tôi không biết nói gì hơn ngoài hai tiếng cám ơn từ đáy con tim. Những gì ông Phó và ông Hai đã chỉ bảo, tôi xin nhận với tất cả lòng hân hoan thành thật và sự vui mừng ngoài sự tưởng tượng của đời tôi.

Ông Hai mở vali ra, chỉ tất cả quần áo đồ dùng trong đó là của ông Tư Râu, cả mùng mền và chiếc ghế bố nữa đó. Tôi bảo ông Hai dẫn ông Tư Râu xuống văn phòng ông Chỉnh chánh sở nhân viên làm giấy tờ vào làm HKVN. Ngày mai, ông Hai chở giúp ông Tư Râu lên trình diện phần sở sản xuất phần cơm cho các phi vụ đường xa và ngoại quốc ở Tân Sơn Nhứt để bắt đầu cuộc sống mới.

Năm giờ chiều, văn phòng đóng cửa nhân viên ra về, tôi vừa xuống cửa cầu thang, nhìn thấy ông Chỉnh chở trên xe giúp ông Tư Râu chiếc vali, ghế bố và mùng. Còn ông Hai chở ông Tư Râu trên xe Mobilette trực chỉ hướng về Trương Minh Giảng, nhà ông Chỉnh và ông Hai gần bên nhau. Trên đường về với vợ con tôi cảm thấy lòng khoan khoái vô ngần, vì sự đau khổ thầm kín của đời người phi công khu trục được giải tỏa một phần nào. Khi nhìn hình ảnh ông Tư Râu ngày hôm nay đi đứng bình thường, sức khoẻ khả quan không còn dấu vết của ông già hành khất khổ đau vì bệnh tật, khập khểnh lê từng bước chân đi lần vào con đường cuối nhỏ hẹp của định mệnh quá khắt khe dành cho ông Tư Râu.

Tháng sau tôi chở ông Tư Râu đi khám bệnh lại và được bác sĩ Newman cho biết tình trang sức khỏe ông Tư Râu rất khả quan nhưng về sau coi chừng nhắc nhở ông để ý cánh tay phải vì vết thương ăn sâu nên coi chừng bị mục xương. Chiều đó về tôi được ông Chỉnh báo cho biết, giấy cảnh sát đòi ông Tư Râu ngày mai trình diện tại bót đô thành đường Trần Hưng Ðạo về vấn đề vì trùng tên sao đó và khai không đúng lý lịch là vợ chết, trong việc kiểm tra an ninh cho nhân viên vào làm ở Hàng Không Việt Nam. Sau khi đi trình diện cảnh sát xong ông Chỉnh chở ông Tư Râu về văn phòng gặp tôi, báo cho tôi biết vì cảnh sát đã truy tầm ông Tư Râu trong gần một năm nay mà không tìm ra tung tích. Trong cuộc hành quân càn quét của quân đội VNCH vào mật khu VC ở tỉnh Trà Vinh quận Trà Cú có bắt được nhiều người trong đó có một ngươì đàn bà hiện đang nhốt ở khám tỉnh đường Trà Vinh chờ điều tra và kiểm chứng. Khai tên Ðào Thị Nở là vợ của ông Châu Văn Tư làm xã trưởng Mé Láng bị việt cộng bắt lùa đi để dùng làm chị nấu ăn (chị nuôi) sau cuộc tấn công vào Mé Láng tháng giêng năm 1962. Ông Tư Râu đã chứng minh được mình là xã trưởng ở làng Mé Láng nhờ tờ giấy chứng nhận của ông cựu quận trưởng và thẻ kiểm tra mà ông Tư Râu còn cất giữ. Nên cảnh sát cho hai tuần lễ gia hạn để ông Tư Râu trở về Trà Vinh gặp người đàn bà khai là vợ, để kiểm chứng có đúng sự thật hay không? Sau lời trình bày của ông Chỉnh tôi nhìn thấy trên mặt ông Tư Râu nửa mừng nửa lo, mừng vì nghe tin người vợ còn sống, lo là không biết tụi VC lưu manh có lấy giấy tờ thẻ kiểm tra của vợ là Ðào Thị Nở ghép vào cho cán bộ của chúng nó để qua mắt nhà cầm quyền VNCH hay không? Tôi bảo ông Chỉnh làm giấy phép cho ông Tư Râu mười lăm ngày nghỉ để về lo việc gia đình.

Sau một tuần lễ ông Tư Râu trở lên Sài Gòn có dẫn theo một người đàn bà cỡ độ bốn mươi. Khi mới nhìn tưởng đâu cũng trên sáu mươi tuổi, có lẽ vì thiếu dinh dưỡng, tuy ốm yếu nhưng nhưng lanh lẹ, giới thiệu cùng tôi là vợ, và bà Tư cám ơn tôi:
– Nhờ Trời Phật phù hộ nên nhà tui đã gặp được ông Phó cứu giúp trong cảnh khốn cùng, được chữa lành bệnh và đi làm. Nếu không có… „chiện“ được đi làm… „diệc“ mà còn sống cuộc đời ăn mày thì tui chắc ở tù suốt đời vì chẳng bao giờ cảnh sát tìm ra tông tích được ông nhà tui đâu.

Tôi gọi ông Hai lên gặp bà Tư Râu, hôm nay có thêm khách ở nhà cho vui. Tôi cũng chúc cho ông bà Tư Râu được an vui và nhiều sức khoẻ. Ngày mai ông Tư Râu dẫn bà Tư đi đến cảnh sát để chứng mình đã lãnh vợ ra và điều chỉnh lý lịch trong tờ khai an ninh của hãng Hàng Không Việt Nam. Sau ba tháng ông bà Tư Râu chia sẻ tiền nhà cùng ông Hai và bà Tư được vào làm cùng sở với ông Tư Râu lo việc rửa các mâm và rau cải. Có lần tôi ghé thăm ông Hai và ông bà Tư Râu, thấy các ông đang nhậu bia Heineken và bà Tư Râu đang lo các món nhâm nhi. Thấy tôi bước vào, ông Hai khoe liền, từ ngày có ngườì em trai kết nghĩa và cô em gái ông Hai được an hưởng tình gia đình ấm cúng mà từ lâu nay ông đã mất đi sau khi vợ ông qua đời ở làng Ba Xe quận Long Tuyền Cần Thơ, trong một đêm Tây ruồng bố vào năm 1945. Ông Hai bỏ làng ra đi từ đó. Như trong gia đình bà Tư Râu lo cơm nước và rửa chén bát vệ sinh trong nhà.

Từ cuối năm 1967 tôi rời Air Việt Nam trở về Không Quân ra Nha Trang ở Căn cứ Huấn Luyện KQ rồi về vùng Bốn làm chỉ huy trưởng Căn Cứ KQ Sóc Trăng. Sau đó, 1971 trở lại vùng Hai làm chỉ huy trưởng Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ Phù Cát Bình Ðịnh cho đến ngày rời bỏ VN mến yêu ngày 30 tháng tư năm 1975. Khi ngồi viết lại những dòng chữ nầy tôi xin nhắn cùng ông Tư Râu về việc chính tôi là người phi công khu trục vô tình đã thả trái bom lân tinh gây nên những vết thương muôn đời trên thân thể ông Tư Râu mà ngày xưa tôi không đủ can đảm thú nhận chuyện đau lòng đó cùng ông. Ðến năm nay ông Tư Râu cũng đã chín mươi tuổi nếu còn sống trên cõi đời nầy hay đã hoá ra người thiên cổ rồi xin ông Tư Râu nhận nơi đây những lời chân thành tạ tội của một người phi công khu trục.

Có một lần vào năm 2006, khi đi dự đêm hội ngộ HKVN ở Westminster, Los Angeles có người bạn thuật cho tôi nghe một chuyện sau ngày mất nước ở HKVN. Trong buổi họp các nhân viên HKVN để cán ngố tuyên truyền, sau khi dứt lời một cán ngố bảo: Cách mạng đã về, thành công trong công việc giải phóng quê hương dưới sự kìm kẹp của Mỹ Ngụy. Các đồng bào hãy hồ hởi phấn khởi lên làm việc gấp trăm lần hơn Mỹ Ngụy để bảo vệ nền dân chủ tự do thành công của cách mạng. Có ai có ý kiến gì không?

Trong phòng im lặng không có ai lên tiếng trả lời, cán ngố liền chỉ bà Tư Râu, cụ bà phát biểu đi chứ! Bà Tư đứng dậy chậm rãi nói: „Nhờ Trời Phật Thánh Thần Thiên Ðịa phù hộ, hoan hô Cách mạng thành công… dìa thành… làm ơn ’’diệt’’ luôn tụi….’’diệt cộng’’… đừng để chúng nó pháo kích lung tung… „diết“… chết dân lành vô tội…“
 

Thiên Phong

________________

PTG_1_Bán thân màu.jpg

SỬ GIA TRẦN HUY LIỆU: ÔNG THẦY BỊA SỬ

                                                * Phan Thanh Tâm

 

“Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” là “một sản phẩm được chế ra bởi chính Viện Trưởng Viện Sử Học miền Bắc, Giáo sư Trần Huy Liệu”. Và chuyện “đề cờ” chung quanh câu này đã trở thành một thứ “sự thật lịch sử", “siêu tài liệu”, hay “siêu bằng chứng” là nhờ tài nghệ sáng tác cùng kinh nghiệm làm báo cũng như làm chính trị của “người anh cả” giới sử học Hà Nội. Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên đã xác định như vậy trong cuốn “Phan Thanh Giản và vụ án “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân”. Tác giả đã dành một năm nghiên cứu quá trình nguồn gốc tám chữ được dùng để hạ nhục cụ Phan "vì mục đích đánh chiếm miền Nam”.

Tác giả sách cho biết câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” xuất hiện lần đầu tiên tháng 8 năm 1955 trên số 9 tập San Văn Sử Địa tiền thân của tờ Nghiên Cứu Lịch Sử trong bài viết có tựa đề “ Việt Nam Thống Nhất Trong Quá Trình Đấu Tranh Cách Mạng” của ông Trần Huy Liệu. Tuy là bài nóí chuyện tại Câu Lạc Bộ Đảng Xã Hội Việt Nam, nhưng được coi như là một bài viết rất công phu với nhiều chú thích; riêng câu có tám chữ về cụ Phan thì ông Liệu không hề cho hay nguồn gốc câu đó ở đâu. Sinh năm 1964 tại Cần Thơ, là một thuyền nhân đến Mỹ năm 1980, Tiến sĩ Luật khoa Phan Đào Nguyên xác định câu này không có mặt trong cả nước trước 1954 và miền Nam từ 1954 cho đến năm 1975.

Khác với giáo sư Phan Huy Lê khi kể lại chuyện cây đuốc sống Lê Văn Tám là một nhân vật không có thật do ông Trần Huy Liệu chế tạo, giáo sư Lê đã không nói rõ, là Giáo sư Trần Huy Liệu đã nhắn nhủ với Giáo sư trong trường hợp nào. Đằng này, khi công bố chuyện sử gia Viện trưởng Viện sử học chế ra câu “Phan Lâm Mãi Quốc Triều Đình Khí Dân” với sự phụ hoạ của giáo sư sử học Trần Văn Giàu, tác giả Tiến Sĩ Luật Khoa Phan Đào Nguyên đã viết cả môt cuốn sách dày gần 400 trang. Sách được phát hành nhân buổi Hội Thảo và Triển Lãm về Nhân Vật Lịch Sử Phan Thanh Giản” và trao giải thhưởng Văn Học PhanThanh Giản 2021 tại Houston.  Buổi này do Gia Đình Cựu Học Sinh Trung Học Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm Cần Thơ tại Houston, Texas, tổ chức ngày 15/8/2021.

Trong sách Tiến sĩ Luật khoa Phan Đào Nguyên, Cử nhân khoa Lịch sử bằng danh dự năm 1987 tại UCLA, đã chỉ trích thế hệ giáo sư sử học ở Việt Nam do hai bậc trưởng thượng, ông Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu, đào tạo ra trong đó có “tứ trụ”  Hà Văn Tấn, Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, và Trần Quốc Vượng. Ba ông sau đã tiếp tay phổ biến câu “thần chú vạn năng” này. Cuốn sách là một thách đố cho các sử gia miền Bắc: “Họ đã không làm phận sự giáo sư bộ môn lịch sử – là phải tìm hiểu cặn kẽ về một câu có tầm vóc lịch sử. Giỏi lắm thì họ có đặt chút nghi ngờ về xuất xứ của câu này, nhưng rồi vẫn tiếp tục cho rằng đó là một nguồn dư luận cần phải được ghi nhận”. 

Phải phục vụ chế độ

Tại sao không nói đến xuất xứ tám chữ nói trên? Vì cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đề ra những phương pháp sử học cơ bản nhưng khi cần đạt được mục đích tối hậu thì sử gia cọng sản không làm nhiệm vụ của một sử gia là đưa ra những suy nghĩ vô tư dựa trên những tài liệu uy tín mà “ta chỉ thấy toàn những lời bịa đặt”. Tác giả Phan Đào Nguyên trang 348 trích dẫn tôn chỉ của sử gia Trần Huy Liệu khi ông chủ trương : chúng ta không phải nghiên cứu để nghiên cứu mà là nghiên cứu để phục vụ cho những công tác trước mắt; gắn chặt việc yêu nước với việc yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; chứng minh chế độ ta là một chế độ tốt đẹp hơn chế độ thối nát của Mỹ –  Diệm ở miền Nam. 

Trang 32 cuốn sách kể lại chuyện Giáo sư Trần Văn Giàu thổ lộ với nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh rằng “Đó là thằng Liệu, không phải tao” khi nghe nhắc tới chuyện khoảng năm 1960 – 1963 đảng Cộng Sản hạ quyết tâm dùng bạo lực cách mạng để giải phóng miền Nam.  Phan Thanh Giản là một nhân vật “chủ hoà” bị mang ra đấu tố. Trong phiên toà ông Phan đã bị kết án xử tử.  Ông Trần Huy Liệu trước khi dàn dựng phiên toà đấu tố trên tờ Nghiên Cứu Lịch Sử năm 1963 do ông làm chủ nhiệm và Tổng Biên Tập, ông đã nghiên cứu cách đấu tố điạ chủ ở miền Bắc 10 năm trước. Điều này được tiết lộ qua con trai ông là Trần Chiến viết trong cuốn “Cõi Người – Chân Dung Trần Huy Liệu” trang 367. 

Phiên tòa đấu tố là “một vụ xử án một chiều rất trắng trợn”. Tác giả Phan Đào Nguyên viết, câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” đã được đem ra để làm bằng chứng duy nhất cho tội “mãi quốc”. Nó chứng minh cho việc Phan Thanh Giản đã đi ngược lại “nguyện vọng của nhân dân”; từ đó bác bỏ việc xin khoan hồng cho tội “mãi quốc”. Quan toà tuyên bố bản án tối hậu cho cụ Phan mà chỉ dựa vào  tám chữ mà tám chữ đó lại do chính giáo sư sử học và là quan toà bịa ra. Phiên toà không có sự đối thoại hay tranh luận nào hết.  Có một độc giả Hải Thu viết bài “góp ý về Phan Thanh Giản” cũng đã miệt thị và buộc tội cụ Phan. Sau này người ta khám phá Hải Thu là bút hiệu của Trần Huy Liệu.  

Về tội “mãi quốc”, theo Luật sư Phan Đào Nguyên, đây là động từ cho thấy có sự trao đổi giữa kẻ bán và kẻ mua. Nếu cụ Phan bị tuyên án “mãi quốc” thì  quan toà Trần Huy Liệu ít nhất phải có một bằng chứng cho cuộc mua bán, đổi chác giữa cụ Phan và Pháp và đã là mua bán thì cái giá của sự trao đổi là gì? Có phải là tiền bạc, chức tước, hay đất đai cho chính Phan Thanh Giản hoặc con cháu gia đình ông để đổi lấy mấy tỉnh Nam Kỳ? Những điều kiện phải có cho tội danh “bán nước” đã không được đếm xỉa tới. Đó là chưa nói tới việc Phan Thanh Giản chẳng làm gì có quyền gì mà bán. Tất cả quyết định tối hậu là ở vua Tự Đức. Hoà ước 1862  ký xong trong vòng một năm phải được vua Napoleon III và vua Tự Đức chấp thuận.

 Điều 11 Hoà Ước 1862

Theo Luật sư Tiểu Bang California và Liên Bang Mỹ Phan Đào Nguyên các sử gia miền Bắc và sử gia Trần Huy Liệu không đọc hết hoà ước 1862 (Nhâm Tuất). Họ gọi Hoà ước này là “hàng ước” và Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp là những kẻ “đầu hàng” hay “bán nước”. Hoà ước có điều khoản 11, cực kỳ quan trọng. Viện trưởng Viện sử học và đàn em không bao giờ nhắc đến điều 11 vì “nó là một công trạng và thắng lợi về ngoại giao cũng như về chính trị của Phan Thanh Giản mà họ không hề biết, hoặc không muốn cho ai biết”. Theo điều này Pháp sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh Long cho vua An Nam, nếu vua An Nam ra lệnh và giải tán những lực lượng kháng Pháp tại hai tỉnh Gia Định và Định Tường.

Liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh bại Nguyễn Tri Phương tại đồn Chí Hoà năm 1861 và sau đó họ liên tiếp chiếm luôn bốn tỉnh lân cận Gia Đinh, Định Tường, Biên Hoà và Vĩnh Long chỉ trong vòng một năm. Gia Định là thủ phủ của ba tỉnh miền Đông. Vĩnh Long là thủ phủ của ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Do đó, việc mất tỉnh Vĩnh Long vào tay liên quân Pháp – Tây Ban Nha đồng nghĩa với việc sẽ mất trọn  Nam Kỳ. Lúc bấy giờ có những cuộc nổi loạn ở Bắc kỳ. Vua Tự Đức muốn rảnh tay đối phó với tình hình phiá Bắc, đành nhận chịu mất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Việc Pháp trả tỉnh Vĩnh Long cho Việt Nam là một sự nhương bộ của Pháp- Tây Ban Nha do tài ngoại giao của cụ Phan.  

Để lấy lại được Vĩnh Long, Phan Thanh Giản phải thực thi điều 11 của Hoà Ước. Ông buộc Pháp phải thực thi việc trả lại tỉnh này và cụ phải chứng minh cho người Pháp thấy là ông đã từng viết thư kêu gọi Trương Định giải giáp và bãi binh theo lệnh của vua. Đó là lý do tại sao khi Trương Định không chịu làm theo lệnh vua thì Phan Thanh Giản tuyên bố với phe Pháp là Trương Định là kẻ phản loạn để triều đình Huế hết chịu trách nhiệm về ông ta nữa. Nhờ sự khéo léo về chính trị của cụ Phan, nhà Nguyễn lấy lại Vĩnh Long trong vòng chưa đầy một năm sau khi ký Hoà ước 1862 mà không mất một mạng người nào. Các sử gia miền Bắc không đọc điều 11 nên tuyên bố cả 12 điều trong Hoà Ước là sự nhục nhã của nhà Nguyễn.

Trang 147 sách in lại Hịch Quản Định bản tiếng Việt của Petrus Trương Vĩnh Ký. Hịch Trương Định thông báo lý do ông đánh Pháp để đền ơn chúa và còn nói rõ ông tiếp nhận chiếu phụng của vua, nhận lãnh ấn Tống Binh của triều đình đồng thời thừa lệnh vua kêu gọi mọi người chiến đấu chống Pháp. Ngoài ra, cũng qua bài hịch, tác giả Phan Đào Nguyên viết “ta còn được chính tác giả Trương Định cho biết rằng lá cờ của ông đã đề sẵn bốn chữ “Bình Tây Đại Tướng” chớ không phải “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” như hai sử gia Trần Huy Liệu và Trần Văn Giàu đã kể.  Vẫn theo tác giả Phan Đào Nguyên, Trương Định biết cụ Phan cũng là “một phần tử của nhà vua đang tìm cách lấy lại đất bằng đường lối khác”.

Tại sao Viện Trưởng Viện Sử Học chọn Phan Thanh Giản làm mục tiêu tấn công và đem cụ làm nhân vật chính trong câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”?  Theo Luật sư Phan Đào Nguyên năm 1955 khi nhận thấy miền Nam không có tổng tuyển cử và miền Bắc chủ trương dùng chiến tranh để chiếm miền Nam thì Trần Huy Liệu chỉ trích đường lối ngoại giao của Phan Thanh Giản là “ảo tưởng” là “liều thuốc độc” và những người không chọn chủ chiến là thành phần “do dự hoang mang”.  Để tranh thủ người dân miền Nam và cán bộ tập kết phải cùng theo con đường đảng đề ra – ông Trần Huy Liệu răn đe – nếu không họ sẽ mang cái án bán nước, đầu hàng và cấu kết với giặc như Phan Thanh Giản bị kết án qua tám chữ nêu trên.

Cả nước ca ngợi quan Phan

Ngoài ra, vẫn theo Luật sư Phan Đào Nguyên, Phan Thanh Giản là một vị quan đức độ và có uy tín sâu rộng trong nhân dân Nam kỳ. Uy tín này có thể làm cho người dân Nam kỳ tin tưởng rằng đường lối ngoại giao của ông Phan là đúng. Do đó, ông Trần Huy Liệu phải chọn cụ Phan làm đối tượng phải diệt.Tiếp đó, ông ta đưa Phan Thanh Giản vào làm nhân vật chủ chốt hay là kẻ tội phạm đứng đầu sổ trong câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” mà đã do chính ông ta chế tạo ra.  Đây là một việc làm cần thiết cho mục tiêu tối hậu của ông Trần Huy Liệu- là giành lấy chính nghĩa và sự ủng hộ của dân miền Nam cho đường lối chủ chiến của phe ông ta ở miền Bắc trong cuộc chiến tranh đang diễn ra ở miền Nam.

Tiến sĩ Phan Đào Nguyên quả quyết, câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều đình Khí Dân” không có trong sách báo bằng chữ quốc ngữ của cả nước từ trước và ở miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Theo ông Nguyễn văn Trấn (1914 – 1998) còn gọi Bảy Trấn, là một nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động cách mạng chống Pháp, Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu 9 và giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc viết trong cuốn “Chợ Ðệm Quê Tôi” thì câu nói đó là câu nói của đàng ngoài: “Chớ tôi từng đọc sách sử, chưa thấy ở trong Nam này có sĩ phu bốc đồng nào nói ra câu bia miệng đó”.

Luật sư Phan Đào Nguyên cho biết sau khi Phan Thanh Giản (1796–1867) qua đời cụ đã được tất cả các sĩ phu và dân chúng miền Nam cũng như cả nước ngợi khen, như có thể thấy qua thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phạm Viết Chánh, Phạm Phú Thứ.  Chẳng có văn thơ nào lên án Phan Thanh Giản cả. Có một người duy nhất tạm cho là có giọng điệu phê phán quan Phan là Phan Văn Trị, với câu “ngậm cười hết nói nỗi oan (quan?) ta”. Câu này có thể diễn dịch là một câu trách móc nhẹ nhàng chớ không phải là một lời lên án hay kết tội gì cả. Chữ oan hay quan theo lối nói của người miền Nam thì hơi giống nhau.

Ở  Miền Bắc trước 1954 cũng không hề nghe nói đến câu này. Tác giả Phan Đào Nguyên đã cố tìm trong các báo có uy tín như Nam Phong Tạp Chí của Thượng Chi Phạm Quỳnh, và bộ Tri Tân Tạp Chí của Ứng Hòe Ngô Tất Tố cũng không thấy có bài nào chê bai hay lên án Phan Than Giản mà toàn là những bài viết ca ngợi về sự hy sinh và đức độ cũng như thông cảm cho hoàn cảnh của quan Phan. Ở trong Nam, những tác giả chuyên nghiên cứu về PhanThanh Giản như Lê Thọ Xuân, Trực Phần, Trường Sơn Chí, Khuông Việt  cũng không thấy nói về tám chữ ở đầu bài. Ông Lê Thọ Xuân đã cùng một người Pháp viết cả một cuốn sách với rất nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp về cụ Phan cũng không có chữ nào về Phan Lâm Mãi Quốc .

Sử gia hay sử tặc?

Miền Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975 không có sách báo nào viết chê bai cụ Phan. Tạp San Sử Điạ tại Sài Gòn không thấy có bài nào đề cập tới câu này. Có một trường hợp ngoại lệ là bài của sử gia Phạm Văn Sơn viết về câu này Phan Lâm bán nước, triều đình khí dân. Ông cũng đã chú thích ở cuối bài là tham khảo từ Lịch sử 80 năm chống Pháp của T-H-L  trang 32 và Nam kỳ chống Pháp của T-V-G trang 160.  Thời này một trong những con đường lớn nhất ở Sài Gòn là đường Phan Thanh Giản nay là đường Điện Biên Phủ. Cần Thơ và Đà Nẵng có trường Phan Thanh Giản coi như cùng cỡ với trường Quốc Học ở Huế hay trường Petrus Ký ở Sài Gòn. Ngoài ra, ở miền Tây cũng còn có một bệnh viện lớn mang tên Phan Thanh Giản.   

Nhà văn Sơn Nam kể lại, hồi xưa khi đi ngang qua miếu Văn Thánh học trò phải cúi đầu chào ông Phan. Nhà văn nói: ”Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm, Tử Lộ”. Nhà văn đề nghị, “trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý”. Cố học giả Vương Hồng Sển, trong cuốn Nửa Ðời Còn Lại, chương “Trở lại, thử tìm hiểu cảnh ngộ quan Phan khi đi sứ sang Pháp”, ông viết, “bấy lâu nay (1990), tôi nghe đầy tai lời trách quan Phan làm cho mất nước và vua Tự Ðức đứng đầu tội ấy. Thấp cổ bé miệng, tôi có dại gì cãi họ duy trong thâm tâm riêng tưởng họ chưa tới mắt cá quan Phan”.  

“Làm thầy thuốc mà sai lầm thì chỉ giết một người; làm chính trị mà sai lầm thì tàn hại cả đất nước; làm văn hoá mà sai lầm thì gây tai họa cho muôn đời.” Còn làm sử gia mà xuyên tạc thì sao đây? Người viết bài này khẩn thiết mong giới sử gia Bắc Hà nên lên tiếng về cuốn sách và ý kiến về “người anh cả” của mình. Cùng với chiến thắng trong việc đổi tên thành phố Sai gon, những ngụy tạo của ông Trần Huy Liệu đã được đưa vào dạy ở trong Nam sau 1975. Cây đuốc sống Lê Văn Tám và câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”đã thành một “siêu bằng chứng” mà mọi người Việt Nam đều nghe nói Sử gia Trần Huy Liệu (1901-1969) thực hiện vụ án này có chỉ đạo. Vì sự công bình của lịch sử và là hậu duệ của cụ Phan, người viết bài này đòi hỏi Viện Sử Học Việt Nam phải có lời xin lỗi và đền bồi danh dự cho gia đình họ Phan chúng tôi về những cáo giác khi lên án cụ Phan Thanh Giản. Qua bút hièu Hải Thu ông đã đã hạ thấp cụ xuống hàng súc vật, đòi nhốt cụ trong “chuồng”. Lừa cả nước khi tạo ra Lê Văn Tám, Ông còn phịa ra vụ án “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân”. Hơn 60 năm sau mới bị khui ra bởi Tiến sĩ Phan Đào Nguyên, Ông Trần Huy Liệu nên còn gọi ông là sử gia hay nên gọi là sử tặc?

Phan Than Tâm

California, tháng 8/2021.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

___________________________

HT_PTTam.JPG

TƯỞNG NHỚ NGÀY NẦY 20 NĂM TRƯỚC: 9/11/2001 - 9/11/2021

1.Như Không NNH:9/11 vài tấm hình kỷ niệm

2.Trần Bang Thạch: Tượng, Thơ và Tinh Thần Nữu Ước - Chuyện New York, một ngày

3.Cao Vị Khanh: Ở một chỗ rất gần sao

1. NHƯ KHÔNG NGUYỄN NHƯ HÙNG:

9-11 VÀ TẤM HÌNH KỶ NIỆM


9-11-2001 đến 9-11-2011. 

Từ ngày 9-11-2001, bọn khủng bố Al Qaeda phá xập tháp đôi cao chót vót của thành phố New York (NY), gieo rắc bao tang thương chết chóc đến hàng ngàn  gia đình người dân vô tội, đến nay, 9-11-2011, 10 năm trôi qua, khu tháp đôi vẫn còn là khoảng đất trống (ground zero). Phá hoại thì dễ, xây dựng mới khó.

 Hình ảnh kinh hoàng trên TV ngày 9-11-2001, máy bay đâm thẳng vào tòa tháp, tháp đôi ngùn ngụt bốc cháy, khói đen tỏa khắp bầu trời, rồi ..xụp đổ. Từ đó đến nay chúng ta không trông thấy tháp đôi vượt lên cao giữa bao cao ốc khác của NY nữa.

 Tôi tìm lại phim chụp cũ và phóng lớn treo trên tường. Tấm hình kỷ niệm đó nay trở thành tấm hình lịch sử đối với tôi và cũng có tiểu sử như bất kỳ một hiện vật nào khác.

Nhân chuyến qua miền đông nước Mỹ, hè 2000, ông bạn thân Mai-Đức-Trí đưa chúng tôi đi thăm tượng Nữ Thần Tự Do (NTTD) và thành phố NY. Khi phà rời bến New Jersey, đưa du khách ra thăm tượng NTTD, ông bạn tôi đứng chờ trên bờ. Chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt, cứ như Ông Tây Bà Đầm tiễn đưa nhau ở bến cảng Hải Phòng hay Saigon của những năm đầu thế kỷ trước. Tôi chợt nhớ lại là khoảng hơn 20 năm trước, 1979, chúng tôi cũng có dịp xuống tàu dời xa quê hương mà không có người thân nào vẫy tay chào tiễn đưa. Trời tối như mực, dắt díu đàn con nhỏ, chạy trốn loài quỷ đỏ, tâm trạng hoang mang lo sợ, còn lòng dạ nào mà ngó lên bờ chào vĩnh biệt quê hương yêu dấu; rồi tất cả già trẻ lớn bé bị đẩy xuống hầm tàu chật ních những người, thiếu không khí, mùi hôi nồng nặc… Đâu có thảnh thơi đứng giữa trời cao mây nước, thở không khí tự do, trên chiếc phà đi thăm tượng NTTD như thế này. Phà đang hướng về đảo Tự Do (Liberty Island) có tượng NTTD, xa kia là thành phố New York với tháp đôi cao vượt trội. Tôi đứng dựa vào cột sắt  trên tàu để giảm bớt độ rung, lấy máy bấm vài kiểu hình kỷ niệm. Phà tới đảo, tôi rảo bước thẳng đến tượng NTTD. Đứng dưới chân tượng, sao cảm giác vui sướng lạ lùng. Giấc mơ từ nửa thế kỷ nay, khi còn là cậu học sinh bé nhỏ, chỉ ngắm tượng NTTD qua hình mấy trang sách anh ngữ vỡ lòng, bây giờ mới thực hiện đươc. Cái chữ TỰ DO (Liberty), tên bức tượng, nó ám ảnh suốt cuộc đời và là niềm khao khát vô biên của con dân xứ nhược tiểu. Bức tượng Nữ thần vĩ đại đứng giữa cửa biển, giơ cao ngọn đuốc Tự Do, chào đón di dân từ mọi nơi đến. Tôi bấm máy lia lịa quanh tượng, đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải, từ dưới lên trên, chỉ tiếc không có trực thăng để có thể chụp từ trên xuống. Hướng nào cũng đẹp. Nhưng khi chui vào trong bụng tượng đài thì chẳng thấy gì đẹp nữa . Đấy cũng là một kinh nghiệm nho nhỏ cho những vị thích đi săn “cái đẹp”!

  Nghe đâu, tổng thống Obama sẽ đọc diễn văn nhân ngày 9-11-2011 để tưởng niệm khoảng 3000 nạn nhân xấu số, cùng tôn vinh các nhân viên cứu hỏa đã hy sinh trong thảm nạn này, cũng như vinh danh những chiến sĩ đã và đang chiến đấu tận diệt bọn khủng bố tại hai chiến trường Iraq và Afghanistan.

 

Như Không

Tháng 9-2011( Thêm hình Sep 2021)

NNH_NY 2000.JPG
NNH_Hình NY 2015_1.JPG
NNH_NY 2015_2.JPG
NNH_NY 2015_3.JPG
tl_NY9_11.jpg

2. TRẦN BANG THẠCH: 

 

TƯỢNG, THƠ

TINH THẦN NỮU ƯỚC

 

     Bạn thân,

      Trước hết mời bạn đọc nguyên văn bài thơ nầy:

Not like the brazen giant of Greek fame,

     With conquering limbs astride from land to land;

     Here at our sea-washed, sunset gates shall stand

A mighty woman with a torch, whose flame

Is the imprisoned lightning, and her name

    Mother of Exiles. From her beacon-hand

    Glows world-wide welcome; her mild eyes command

The air-bridged harbor that twin cities frame.

“Keep ancient lands, your storied pomp!” cries she

     With silent lips. “ Give me your tired, your poor,

Your huddled masses yearning to breathe free,

     The wretched refuse of your teeming shore.

Send these, the homeless, tempest-tost to me,

      I lift my lamp beside the golden door!”

        Tôi sẽ rất vô lễ với bạn và với chính tác giả nếu tôi không ghi lại nguyên văn bài thơ trên đây, một bài thơ được coi là tuyệt tác, vì nó đã nói đầy đủ ý nghĩa của pho tượng và thể hiện thật rõ tinh thần Hiệp Chủng Quốc, nên từ năm 1903 bài thơ đã được tạc trên một tấm đá đặt dưới chân tượng Nữ Thần Tự Do trên đảo Bedloe's Island, sau được đổi thành Liberty Island, ở New York . Tôi đã chép bài thơ này khi đứng dưới chân tượng đài. Bài thơ có tựa là “The New Colossus” do nữ thi sĩ Emma Lazarus (1849-1887), một New Yorker chính cống, viết năm 1883 để biểu tỏ niềm tin của mình vào một nước Hoa Kỳ tượng trưng cho thiên đường của những người bị áp chế. Bản thân của nhà thơ Lazarus cũng là một biểu tượng của tình người. Bà là người giàu tâm và giàu của, đã cống hiến những năm cuối đời mình và hầu hết tài sản của mình cho việc cứu trợ những người di dân Do Thái giáo nhập cư nước Mỹ. Họ đã từng bị đối xử tàn tệ tại nước Nga.

      Đọc những câu thơ của người xưa, rồi ngước mắt nhìn pho tượng đồng, tôi thấy mình có được một gặp gỡ vô cùng hiếm quí với hai biểu tượng của tính nhân bản cao vòi vọi.

      Trước hết là bài thơ. Kẻ hậu thế nầy hiểu thế nào thì xin được ghi ra như vậy, chớ không dám làm công việc dịch thơ:

Chẳng phải là tượng đồng của danh tướng Hy Lạp xưa,

kẻ chỉ biết vươn tay mà gồm thu đất đai thiên hạ.

Người đứng đó giữa trời mây sóng cả,

giương thật cao ngọn đuốc soi đường.

Mẹ là Mẹ hiền của người lử thứ, của kẻ tha hương,

Mẹ chong mắt, Mẹ vẫy tay mời gọi.

Hãy tụ về đây làm nên phố đông, bến mới.

Nhớ đừng quên quốc tổ ngọn nguồn.

Hãy bỏ những nhọc nhằn, nghèo đói, những dâu bể, tang thương

 Để được thở như chưa từng được thở.

Người đã bị đuổi xua nơi những bãi bờ đâu đó,

hay đang trong bão táp mịt mùng,

 Cứ theo ánh đuốc nầy mà ghé Bến Chung.

Cửa đã mở và ánh vàng đã lóe.

      Mình đã có lần mang khát vọng Tự Do lên thuyền nan vượt sóng. Biển cả thì trùng trùng mà bến đậu thì mù tăm. Hôm nay nghe ý tứ của thơ, chữ nghĩa của thơ sao thấy gần gũi quá, như có mình trong đó, và có trong đó hàng triệu triệu những di dân từ muôn phương đổ về vùng đất ghé tạm của đoàn hải hành Kha Luân Bố hồi năm 1492. Ghé tạm nhưng đã hình thành một đất nước của Tự Do, tiếp tục xây dựng một bến bờ của kẻ đi tìm Tự Do từ khắp xứ.

      Còn khối tượng đồng nặng gần nửa triệu cân, cao hơn 300 thước, người ta có thể theo 168 nấc thang bên trong tượng mà leo đến tận cái vương miện hay theo cánh tay mà leo tới ngọn đuốc; để từ đó nhìn khắp thành phố Nữu Ước. Nhìn từ xa, pho tượng như đứng trên triều sóng, trên đầu là những dãy mây xanh, khiến ta thấy pho tượng vừa uy nghi gần gũi, vừa lung linh thoát trần. Tượng thật đẹp và thật vĩ đại. Nhưng tính chất vĩ đại có lẽ ẩn tàng nơi ánh mắt của người mẹ hiền hướng về đại dương cùng với cánh tay mặt cầm ngọn đuốc chỉ đường cho những người đang lênh đênh trên biển cả, ngọn đuốc sáng rực ban đêm với 19 ngọn đèn tổng cộng 1300 watts. Cánh tay trái thì cầm phiến đá khắc ngày ra đời của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, July 4, 1776, ngày sinh của một quốc gia, cũng là bước nhảy xa của một nhà vô địch hoàn cầu. Dưới chân tượng là sợi xích sắt bị bẻ gãy, tượng trưng cho sự cáo chung củạ bạo tàn. Ân cần mời gọi, soi lối chỉ đường, cưu mang, chia sẻ, dân chủ, tự do... đã thể hiện hết trên The Statue of Liberty, một quà tặng của nước Pháp cho nhân dân Hoa Kỳ nhân ngày lễ Độc Lập July 4, 1884; sau đó được dựng thành tượng đài ngày 28 tháng 10, năm 1886. Hơn trăm năm nay Tượng Đài đứng đó giữa bốn bề sóng nước phải chăng cũng đã góp phần gìn giữ tinh thần Mỹ quốc xứng đáng với tên gọi, một quốc gia lúc nào cũng thể hiện dân chủ, tự do và biết tôn trọng công bằng, bác ái.

      Cảm ơn Thơ với Tượng đồng, những sáng tạo của nghệ thuật đã nâng ý nghĩa của hai chữ Tự Do cao tới mây và sáng như sao trời.

      Quý biết bao phút gặp gỡ của tôi với cái Ý của Thơ và cái Hồn của Tượng.

      Bạn thân,

      Không nhắc chắc bạn cũng nhớ còn vài hôm nữa là tới ngày 11 tháng 9. Chắc bạn cũng không quên hai năm trước vào ngày này lương tâm nhân loại đã bị rúng động với sự sụp đổ của 2 tòa nhà chọc trời ở Nữu Ước. Gần 3000 người chết thảm, chết trong hoảng hốt cực độ. Có người chết mà điện thoại còn trên tay, có người còn cầm tách cà phê chưa uống cạn. Bao nhiêu cái chết không toàn thây. Quĩ vương đã hiện hình ngay trước mắt loài người, ngay trước mắt Tượng Thần Tự Do, trước mắt những câu thơ chứa chan tình nhân loại. Ghé lại Ground Zero để thấy đá sỏi và bốn phía rào, thấy một bãi hoang mà 2 năm trước đây là nơi tọa lạc của hai tòa cao ốc song sinh tượng trưng cho nền kinh tế đứng đầu thế giới. Người ta treo trên hàng rào tấm bảng ghi danh những nạn nhân. Có quá nhiều cái tên, tôi không đọc hết được, nhưng có một câu chữ viết tay nguệch ngoạc trên khung ván của bảng danh sách nạn nhân mà tôi đã phải đọc đi đọc lại nhiều lần, đọc mỗi lần là mỗi thấy tim mình nhói đau. Chị bạn đi chung chỉ đọc một lần mà đã thấy nghẹn thở. Ai đó đã viết như thế nầy: “You have gone, but my heart has been dying”. Người đi, người đã đi rồi, lòng tôi chết điếng theo người, người ơi. Không biết hôm đó có bao nhiêu những người đang yêu nhau phải giữa đường gãy gánh, khiến người tình  còn ở lại phải thốt lên lời thống thiết, để chúng tôi nghe hôm nay giữa vuông đất đã chôn vùi xương thịt của mấy ngàn xác thân và mấy ngàn vong linh uỗng tử.

      Bạn thân,

      Có một bài thơ tựa là IF I KNEW tôi đọc được trên net sau ngày 11 tháng 9 thảm khốc đó. Bài thơ không ghi tên tác giả, dài 13 khổ, mỗi khổ 4 câu thơ. Chữ nghĩa của mỗi câu thơ thật là đơn giản. Nhưng ý tứ của mỗi khổ thơ là một nuối tiếc, một niềm hối hận đã bỏ lỡ dịp cuối cùng để biểu lộ tình thương yêu đối với người thân vừa mới đột ngột vĩnh viễn ra đi. Ra đi mà không kịp nói một lời vĩnh biệt:

       Nếu em biết đó là lần cuối anh bước ra khỏi ngưỡng cửa này, em sẽ ôm anh, sẽ hôn anh, sẽ kêu anh bước trở lại để em ôm anh, hôn anh thêm một lần nữa.

      “If I knew it would be the last time that I see you walk out the door, I would give you a hug and kiss and call you back for one more”.

      Cho nên nếu mình đợi đến ngày mai mới nói lên tình thương yêu này, tại sao không làm ngay hôm nay để không phải hối tiếc nếu ngày mai không bao giờ đến.

      “So if you're waiting for tomorrow, why not do it today? For if tomorrow never comes, you'll surely regret the day”.

     

      Tôi nghĩ rất nhiều người đã có dịp đọc bài thơ này và đã suy nghĩ cũng rất nhiều.

      Bạn thân,

      Tôi đã mời bạn cùng tôi đi phà sang Liberty Island để thấy biểu tượng của Nữu Ước. Đã mời bạn ghé mạn Nam của Manhattan đến đứng ngoài vòng rào của Ground Zero suy nghĩ một chút về tội ác để tôi có cớ mời bạn nhìn Tinh Thần Nữu Ước. Phải, hai tòa cao ốc sụp đổ nhưng Tinh Thần Nữu Ước không phải vì vậy mà không còn. Từ hàng trăm năm nay, với đôi tay rộng mở, Nữu Ước đã là đất lành cho hàng triệu triệu lưu dân tứ xứ. Họ đến một nơi biết trọng tự do và nhân cách của con người. Họ đến để lập thân và lập nghiệp và lập chí. Từ những khổ nhục, những đàn áp, những mất mát, những đớn đau “... tại quê nhà, họ đã tạo nên Thành phố Nữu Ước giàu mạnh. Từ những ước mơ nhỏ bé của những người chỉ muốn làm Người, họ đã tạo nên Tinh Thần Nữu Ước: hòa đồng để thương yêu nhau, nắm chặt tay nhau để cùng tiến tới, tôn trọng và bình đẳng”.

      Tinh thần nầy, thưa bạn, tôi đã thấy được, mọi người đã thấy được suốt 29 tiếng đồng hồ Nữu Ước bị mất điện từ xế chiều ngày 14 tháng 8. Gần ba mươi năm, Nữu Ước mới bị mất điện lần này, và là lần dài nhất trong lịch sử Nữu Ước. Chen chân giữa lòng phố lạ với hàng trăm ngàn người, thoạt đầu tôi thấy mình kém may. Tự dưng từ một thành phố cực nam làm một chuyến du hành cực bắc để xui xẻo đi vào đêm đen của một thành phố ánh sáng được mệnh danh là Thành phố Không Ngủ (Sleepless City), là Hạt Ngọc về đêm! Nhưng thưa bạn, người xưa nói trong cái rủi có cái may. Đúng lắm. Không có cái rủi đó làm sao tôi được sống cái ngàn năm một thuở hôm ấy hỡ bạn! Nhất là làm sao tôi thấy được cái Tinh Thần Nữu Ước.

      Thành phố Nữu Ước với trên 20 triệu dân, cộng với hàng trăm ngàn du khách mỗi ngày, có một hệ thống xe điện ngầm lớn nhất thế giới. Mất điện vào giờ tan sở nên người ta phải cần hơn 3 tiếng đồng hồ để đưa 350 ngàn người ra khỏi các toa xe dài ngoằn và các trạm xe điện, chui lên mặt đất, nhập vào với hàng triệu người ra đường từ các công, tư sở. Xe cộ bị tắc nghẽn . Chỉ có các xe của nhân viên công lực luồn lách trên đường phố. Những người đang ở trong các chung cư tránh cái nóng nên cũng túa ra đường. Rừng người. Cả thế giới đã thấy rừng người đó trên TV. Thưa bạn, trong rừng người đó có tôi. Có tôi người khách lạ trên khu phố Brooklyn, lần đầu tiên đến thăm Nữu Ước. Sau hơn một tiếng đồng hồ ngồi trong lòng xe buýt không thể lăn bánh và không có máy lạnh, tôi phải bước xuống xe và  phải đi bộ hơn 4 tiếng đồng hồ, vượt hơn  8 dặm đường, tới chỗ rồi còn  phải leo 25 từng lầu, dò từng bước một như đi trong hầm tối để lên căn phòng tạm trú qua đêm. Chúng tôi đã đi như vậy trên các khu phố lạ hoắc không một ánh điện. Khu chung cư cũng tối đen. Những vệt đèn xe cảnh sát hay xe cứu thương chỉ đủ cho người ta nhìn thấy mặt nhau trong thoáng chốc. Sợ là sẽ có những kẻ lợi dụng bóng đêm để cướp bóc, giựt dọc, vv.. . Không, không có gì hết. Không một tiếng nổ. Chỉ có tiếng trực thăng nghe rõ trên bầu trời đêm.Thành phố Nữu Ước bình yên. Người Nữu Ước, có lẽ đã học thêm được bài học 11 tháng 9 từ 2 năm trước, rất bình tĩnh và rất trật tự, không sợ hãi.  Họ tình nguyện giúp nhân viên công lực hướng dẫn xe cộ lưu thông, hướng dẫn người đi bộ, họ hỏi han, chăm sóc đủ điều. Tôi thấy có những em thiếu niên để người già lên yên xe đạp rồi dẫn đi. Có những cửa hàng cho không những chai nước uống.. ..Chúng tôi đi bộ tuy có xa nhưng không thấy mệt, có lẽ nhờ tinh thần lạc quan, thái độ thân thiện, giúp đỡ của người Nữu Ước.

Sau đêm đen Nữu Ước đó trở về nhà, trong đầu tôi lúc nào cũng chập chờn câu hỏi của một em bé không quen: Are you OK? I can help. Đêm đó tôi đã lắc đầu nhưng bây giờ thì tôi thấy quả tình em bé đã nối dài thêm cánh tay của Tượng, đã ghép thêm lời cho Thơ và đã kết thêm một bông hoa vào cành hoa hồng Nữu Ước. Cũng từ hôm đó, tôi thường nghe lại tiếng hát của Frank Sinatra: “New York, New York. I want to be part of it. I wanna wake up in a city that doesn't sleep…”.

Khi cái ác vẫn còn rình rập quanh đây thì làm sao mà Nữu Ước ngủ được. Và Tượng, và Thơ cũng sẽ thức hoài với Tinh Thần Nữu Ước.

Thượng tuần tháng 9/2003

TBT

3.TRẦN BANG THẠCH: 

 

CHUYỆN NEW YORK,

MỘT NGÀY

 

​(Từ Blog Caovikhanh: chuyen-new-york-mot-ngay-tbt.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

 

    Gần nửa đêm rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn mặt vuông là cái computer. Xung quanh chị  ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần chị Suzanne muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống nơi góc phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một giấc, rồi mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa xong chị cố nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi ghi chép, rồi lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một ngày thật quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của công ty nơi chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng thương mại với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới và khó nuốt, đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc. Thất bại lần này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản. Từ vài tháng nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng. Nhân viên lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa mới tới ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng trong các phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này. Còn cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không khá gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt. Nhiều khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn hẹn nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn dọn dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới.

    Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày mai chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người còn lại, trong đó có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh. Chứng dị ứng thời tiết cứ làm chị khốn đốn mỗi năm mấy tuần. Nhưng người chủ trực tiếp của chị là bà phó giám đốc Helen sau mười ngày đi Bắc Kinh, khi trở về tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm từ sáng hôm nay. Bà nói  kết quả chuyến đi của bà đến sớm không ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh sẽ đại diện chánh phủ đến Công ty duyệt xét toàn bộ vấn đề để chánh thức ký hợp đồng hay không. Hơn một tháng nay công sức của bà phó giám đốc Helen đã đổ quá nhiều trong cái dịch vụ này, nó không thể thất bại được. Công ty không thể chết được. Bà nói bà cần tới cái tài cung ứng tài liệu của chị Suzanne để trình với phái đoàn ngày mai. Đến gần sáng thì chị Suzanne đã có những printouts cần thiết với chi chít những con số và những biểu đồ đủ màu sắc để cung cấp cho bà Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời bàn giấy. Chị đi đến cửa sổ, vén màn rồi mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai hít thở không khí trong mát buổi sáng tinh mơ của New York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm, sang cả và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho mình một ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại tấm chăn, hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén nằm cạnh chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không thể nào mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của mình sau một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà hàng đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không thể tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn nên chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà nhìn. Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những cơn hắt hơi sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương và tội nghiệp vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép kẹp đó không biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp nhiều thứ quá: những tràng hắt hơi như cơn địa chấn nhỏ trong nội tạng và bao nỗi lo toan của một người đang gánh nặng cái gánh gia đình với hai đứa con nhỏ và người chồng thất nghiệp. Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank mặt mũi méo xệch nhận tờ giấy màu hồng của sở thông báo anh tạm nghỉ việc tại hãng hàn xì này thì  người vợ ốm yếu của anh phải mang thêm trên vai vài hòn đá tảng. Một cái xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền lương khiêm nhường của một nữ thư ký và chút ít tiền trợ cấp thất nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm đủ chi tiêu cho việc ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng tháng trả tiền thuê căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc mỏ này. Tuy vợ không nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng cho những ngày sắp tới, những ngày mà cả hai vợ chồng đều thất nghiệp. 

     Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ. Anh Frank đang mớm sữa cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén cereal trộn với sữa tuơi. Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong nhà, kiêm luôn người giữ trẻ. Người father mom này mỗi khi đi chợ búa hay đi xin việc đều có con bé chưa đầy tuổi trên tay và thằng bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới chân. Thấy mà tội nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm biệt chồng và hai con rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị Suzanne như phòng lên cao hơn so với bình thường, một phần vì giấy tờ quá nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm hy vọng của cả nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây chị Suzanne chợt mỉm cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle 8 tháng tuổi cũng cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của nó vào cái samsonite của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào lề, vẫn đúng giờ như thường lệ. Vẫn những tiếng hi, hi quen thuộc, thân mật, rộn rã. Một ngày như mọi ngày. Gió vẫn mát lạnh từ dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe cộ vừa thở vừa bò. Người bạn đồng hành người Á đông với mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn trên người mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường 14 rồi xuống xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu China Town trên đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành quen thuộc từ người Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời nào ông gặp trên xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà phát thèm sáng nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở băng cuối. Và cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết tin tức trang đầu của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi chị phải bước xuống, đó là toà cao ốc phía nam của Trung tâm thương mại thế giới. Từ dòng Hudson ở hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng khi  New York đang bước vào thu. Tượng Nữ thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao ngạo, vĩ đại, vừa thân thương, gần gũi.

    Một buổi sáng như mọi buổi sáng New York. Như mọi buổi sáng của người New York.

 

    Tuy giờ làm việc bắt đầu từ chín giờ nhưng khoảng  tám giờ rưỡi thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt. Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu, kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này. Chị còn cho  Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm bằng câu: I love you. See you soon, Honey.

    Vậy mà sau câu nói thương yêu đó họ không còn gặp nhau nữa. Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã mất nhau. Thật sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa vĩ đại phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng nổ kinh hồn, trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi chồng, gọi nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết.

    Rồi ầm ầm như sấm nổ, như sét rền, như đất chuyển trời rung. Như trời sập. Mọi người mạnh ai nấy chạy. Tiếng kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc. Có người chạy loanh quanh, không còn biết đâu là lối ra cầu thang hay thang máy. Trời đất tối sầm. Người ta dồn cục khắp hành lang.

    Ở một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng lên không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên bầu trời New York.

 

    Trong căn phòng khách ở tầng thứ 41 của tòa chung cư trên đường số 23, anh Frank thấy mặt thằng Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay trong không khí, mồm nói với anh mấy lời mà anh không nghe rõ; anh nhìn màn ảnh truyền hình trước mặt thì những chú thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay vào đó là một trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc. Anh Frank mở cửa chạy ra hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng hốt của người xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái lửa. Anh chạy vào nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền hình. Anh Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện thoại khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng trả lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt không khi thấy một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi vợ anh đang làm việc? Không, không thể nào có chuyện như thế được. Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là sấm động, phong ba. Cả dòng Hudson cũng là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng Nữ thần Tự do thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen.

    Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang bốc cháy. Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình, anh Frank bỏ hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống chỗ để xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi . Xe anh chỉ chạy được một đoạn đường thật ngắn thì phải dừng lại, không thể nhích thêm một thước nào nữa. Mọi người đang đổ ra đường. Tiếng la hét, tiếng còi hụ inh ỏi một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường rồi hai tay bồng hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để đến gần hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì anh hoàn toàn bị cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái lửa như con ác quỉ vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ trên vai anh, còn thằng Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng trên đường và cụm khói trước mặt. Không thể đi thêm được nữa, anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và trong hỗn loạn. Hàng ngàn người chen lấn trên cầu Brooklyn và cầu Manhattan. Vô số người đổ dồn về phía bến cảng số 11 để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người nhấp nhô. Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người phóng ra từ  cửa sổ của một từng lầu gần chót vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai toà nhà lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng, như hai người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên hào thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ khắp nơi và hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện Cựu chiến binh cách mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng về phía hai trái núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường West Broadway anh thấy khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn. Tro than bao trùm các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm cái áo len màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả là những áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không biết bây giờ là lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ. Cái điện thoại ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã bị cắt đứt từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó bâng quơ, anh Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm chặt hai con mà khóc.

                                                                   xXx

 

    Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn hai con đứng nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt anh và xung quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh vật ở đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của hai tòa cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng giữa lòng New York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp nơi là gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi, cong queo, ám khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như trời trồng, như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn u minh nào chợt tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính trên từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử với cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như cũng biết trông ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này nó nằm yên trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước mặt. Còn thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm nay thì tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn ruột. Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank  gọi vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn. Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ.

    Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng nấc của các oan hồn.

 

    Nữ Thần Tự Do từ đằng xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt.

Tháng 9 – 2001

Trần Bang Thạch

4. CAO VỊ KHANH

Ở MỘT CHỖ RẤT GẦN SAO

Có lần người bạn thi sĩ ở bên này bờ Hudson, phía New Jersey hứa mời tôi đi uống cà-phê ở một nơi rất gần với mấy vì sao. Những vì sao xa tít vốn dĩ là quê hương rất đỗi ngây thơ của những "Ông Hoàng bé ".

Thử cho anh coi lại điệu vũ của bầy sao đêm. Anh ta nói với tôi như vậy. Mấy lần điện thoại rủ rê, cứ hẹn lần hẹn lượt tôi vẫn chưa uống được tách cà-phê pha giữa trời sao đó lần nào.


Chỗ tôi đang ở cũng là một thành phố lớn, nằm chênh chếch về phía đông bắc lục địa. Những con đường ngang dọc từ trên cao nhìn xuống cũng y như mấy miệng vực hun hút giữa khu rừng cao ốc. Mỗi lần ra phố chỉ thấy từng hẻm mây buồn rầu. Thuở mới đến, có bận nhớ nhà, tôi hay len lỏi đi tìm ngó trăng sao. Và lần nào cũng buồn ngẩn buồn ngơ vì trăng sao cứ trốn đâu mất biệt. Thay vào đó là ngàn ngàn con mắt đèn như bầy đom đóm đeo dính mấy tấm vách thẳng băng ngước nhìn tới mỏi cổ. Hơn nữa chưa hết tầm nhìn đã chóa mắt giữa hằng hà sa số ngọn néon xanh xanh đỏ đỏ. Riết rồi thua buồn cũng quên lửng luôn những vì sao đã chắt chiu mang theo như để đánh dấu điểm đứng của quê hương. Vâng, có ngôi sao chỉ mọc ở phương nam. Chắc quê hương tôi ở hướng đó.


Thuở mười một mười hai tuổi, mỗi lần được cho về quê nội, cứ đợi chiều xuốnglà tôi trèo tuốt lên mấy đụn rơm cao ngất ngoài bìa ruộng, dang tay nằm ngữa đợi trời tối. Ngó lên là trời vòi vọi cao, không một bợn mây mà lại xanh mướt, xanh ngọt cả lòng. Thuở đó tôi đâu biết tả ra sao cái màu ngan ngát của buổi chiều đương chuyển sang đêm. Chỉ thấy nó lâng lâng đến nổi hồn nhỏ cũng muốn bay bổng. Rồi chiều lánh đi thư thả. Ðêm nhón chân tới, rất nhẹ. Rồi con sao thứ nhất bắt đầu ló ra. Cũng êm ru như đã ở đó tự bao giờ. Chớp lia chớp
lịa như để nháy gọi nhau, một chút nhẻo thôi là không biết ở đâu mà sao đã rảira đầy trời. Ðêm trước mắt bỗng lộng lẫy như tấm nhung đen đính hàng triệu kimcương hột mẳn đều như tấm, nhiều đến ngó không xuể. Có lần tính thử đếm chơi nhưng rồi cứ vuột khỏi mấy lần bàn tay nên chán bỏ. Nhưng mà lần nào cũng không quên ao ước hể thấy có một vệt sao băng. Mà rồi y như lần nào cũng trễ, thành ra không kịp có một lời nguyện nào cho tròn. Cho đến một lúc thằng bé chỉ chờ sao lên thôi cũng đủ. Mỗi vì sao như chiếc cầu vòng nhỏ xíu dắt nó vào một thế giới khác, thần tiên. Rồi càng lúc đêm sao lại càng nở ra, trùng trùng điệp điệp. Ðứa nhỏ, tấm lòng hả lớn đến hết cở như muốn hớp cả vào người cái cõi bao la và bí nhiệm đó. Nhưng mà lòng nó nhỏ quá, vũ trụ thì quả thật mênh mông. Có khi nó chảy nước mắt mà không biết vì sao.


Từ đó, bầy sao cứ lấp lánh theo tôi như những cặp mắt dõi theo từ quê nội, nấn níu chờ tôi lớn lên ở thành phố, đợi có ngày yên ổn rủ tôi trở về làng. Nhưng rồi cái ngày đó không có nữa. Tôi bỏ quê đi thật xa, xa đến mất luôn một lúc cả trời sao trăng nước ở một xóm nhỏ bên bờ kinh Bình Phụng. Bởi vậy mà chừng nghe lời bạn rủ rê đi ngó sao ở một chỗ thật gần, tôi náo nức lắm. Vậy mà rồi không kịp. Cái chỗ rất gần sao đó không còn nữa. Buổi sáng ngày11 tháng 9 năm 2001, lòng căm thù của con người đã làm nó nổ tung. Hai

tòa nhà cao cả trăm từng cùng với mấy ngàn sinh mạng nát ngứu ra thành bụi. Mấy triệu tấn sắt thép và thủy tinh cộng với tim óc của con người dựng đứng thẳng lên trời giữa lòng đảo Manhattan như một thách thức với thiên nhiên bỗng vỡ tan như cám vụn. Nó đã chống chọi với gió cuồng bão dữ không suy xuyển. Vậy mà lần này nó không chống nỗi với cơn bạo hành của ác tính. Phút chốc cả một khối sống hừng hực bỗng hư vô chẳng đáng một mảy may. Phút chốc lòng tin của tôi cũng thành ảo. Phút chốc cái có đó đã hóa không. Có. Có. Không. Không.
 

Không tưởng tượng nỗi. Cái đầu vốn vẫn thường nghĩ xa tới ngàn ngày, nghĩ rộng tới ngàn dặm mà vẫn như không đủ tầm cỡ để chứa được cái chuyện vừa xảy ra. Làm như cái việc vừa xảy ra trước mắt là không thể có được. Tôi sững sờ đến bất động. Cả ngày tôi cứ ngồi dán mắt vào máy truyền hình, nhìn cảnh máy bay đâm thẳng vào cái khối sắt thép lừng lững đó, rồi lửa khói bùng lên và sau hết cái nấm bụi khổng lồ bùng ra như một cơn lốc dữ mà bàng hoàng đến ngớ ngẩn. Miệng tôi không nói ra được một lời. Không có một lời nào nói ra được sự kinh khiếp đó. Sự hung dữ đó. Sự mù quáng đó. Rồi cảnh người sống chạy chết. Cảnh gạch đá sắt thép văng bay tứ tung. Còi xe cứu thương kêu rú in ỏi. Khói bụi bốc trắng mù mịt. Tôi ngồi chết trân nhìn trực tiếp cảnh tàn phá điên dại từ bàn tay con người. Con người. Tuyệt phẩm của thượng đế. Con người. Tuyệt phẩm của ma vương. Con người. Quả tình tôi không hiểu nỗi. Tôi muốn tắt máy mà lại cứ để mở. Nhìn ngó đến hãi hùng. Ống kính truyền hình thu không sót một góc. Nhưng có một cảnh mà máy không thu được. Một cảnh thiếu mất thốt nhiên nghĩ tới làm tôi hốt hoảng, chết điếng. Cùng một lúc, chớp mắt, mấy ngàn người tiêu ra tro bụi. Cùng một lúc, mấy ngàn người mới đó bỗng hư không. Một người cha, một người mẹ, một người con, một người tình... mới sáng đó còn hăm hở thức dậy sửa soạn ra đường, lái xe, đi métro, xe bus tới sở làm. Một tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở bước vào thang máy, cười với người quen này, nói đùa với người quen nọ. Nửa tiếng đồng hồ trước đó còn hăm hở ngồi vào bàn giấy, vừa đưa tay mở máy com-pu-tơ vừa bấm điện thoại gọi đến tiệm hoa nhắn gởi mấy cánh hồng cho người bạn gái. Năm phút trước đó còn vừa mở xấp hồ sơ vừa nghĩ đến bữa cơm chiều với vợ và bầy con nhỏ.
 

Một phút trước đó còn vừa lau sàn nhà vừa nghĩ đến số tiền sẽ gởi cho bà mẹ ở một xứ Á xa xôi... Vâng cái cảnh thiếu sót trong mấy bản tin quá đầy đủ đó nó chỉ có trong đầu tôi thôi liền khi tòa nhà thứ nhất sụp xuống. Rồi tòa nhà thứ hai sụp xuống. Bỗng chốc. Xương thịt. Tro than. Cái cảnh không ai thấy được mặc dù đã xảy ra sờ sờ, cùng lúc với khi mũi phi cơ tiếp giáp với khung sắt thép, cùng lúc với tiếng nổ của hàng trăm tấn dầu, cùng lúc với lòng thù hận biến con người thành thú dữ. Cái cảnh không có trong phim ảnh bởi vì không có máy nào chụp được nhưng nó thật sự có đó, có đó rõ ràng giữa hiện trường, càng lúc càng lớn ra, càng lúc càng lớn ra, lớn đến khủng khiếp. Cái chỗ trống hoang bỏ lại của mấy ngàn nhân mạng mất đi cùng một lúc. Cùng một lúc thất tung. Cùng một lúc biệt tích. Cùng một lúc tan tành. Thịt xương. Niềm tin. Hy vọng. Cái khoảng trống im ỉm của pháp trường sau khi bọn đao phủ đã bỏ đi. Cái khoảng trống điêu tàn của mặt đất không còn người ở. Cái trống hoác ghê rợn nổi lênngay sau khi lớp tro than đã lắng xuống. Không còn gì nữa. Có còn lại chăng là cái Trống Không khủng khiếp.
Có còn lại chăng, những ngày sau, là cái không vô cùng vô tận trong lòng tôi, trong lòng mọi người.


Mấy ngày sau, tôi thấy lại cái khoảng trống đó trên đường phố của một Nữu Ước thất thần, lơ láo trên những nến, hoa và nước mắt. Và đặc biệt trong những tờ giấy viết tay nhắc một cái tên, những tấm hình nhắc một khuôn mặt, những tiếng kêu thất thanh toát ra từ cặp mắt lặng lẽ của một người vợ tìm chồng, trong tia nhìn lạc lõng của một đứa con tìm mẹ, trong hai bàn tay bưng đầu bất lực của người lính cứu hỏa ngồi bệt xuống bên đường mếu máo, trong tiếng kèn đồng sầu thảm của người da đen vừa thổi vừa khóc khi chiều xuống ở một góc công viên... Cái khoảng trống lớn ra hoài không chặn lại được. Và sẽ còn lớn ra nữa.


Một tháng sau. Một năm sau. Nhiều năm sau nữa...


Bởi vì sau buổi sáng tàn khốc đó, tôi biết trong tôi sẽ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng. Tôi bỏ xứ ra đi đã hai mươi năm, sống lây lất ở xứ người như một thân chùm gởi. Tôi bỏ trời sao của tôi lại cho một lũ điên khùng chưa bao giờ biết trời sao là ân huệ của thượng đế. Tôi xa xứ mà lòng cưu mang từng chuyện thương tâm hai mươi mấy năm trước. Những chuyện thương tâm chưa bao giờ kể đủ về những đọa đày gây ra bởi sự cuồng bạo của mê muội. Tôi đi mà cầu trời khẩn phật cho có ngày đất nước tôi sáng lán, người ở quê tôi tìm lại được tình thương và niềm tin cậy giữa người và người. Tôi chờ mà cứ sợ không còn dịp.


Giao thừa năm trước, cả hoàn cầu mở hội hoa đăng đón kỷ nguyên mới. Người ta nắm tay nhảy múa ca hát, ôm nhau hôn mừng giữa trời đất mới nguyên. Dường như có một lúc tôi thấy mọi người đều hớn hở, tin cậy, nhiệt thành, lòng mở ra vượt quá biên cùng của lề thói hẹp hòi, của nhỏ nhoi và hèn mọn, của thù oán và ghét bỏ, của hiềm khích và đuổi xua, của phân chia và chấp nhất, của lừa đảo và phản trắc... Có lúc sao tôi thấy dường như ai nấy cũng thân ái, nồng nàn, độ lượng, khoan dung... Ai nấy cũng sẵn sàng chín-bỏ-làm-mười. Mọi tiếng nói đều cười tiếng cười giống nhau. Mọi màu da đều mừng nỗi mừng giống nhau. Và như vậy nghĩa là mọi tiếng khóc cũng giống nhau như hệt, mặc kệ đen vàng trắng đỏ, mặc kệ nam bắc đông tây, mặc kệ tư bản cộng sản, mặc kệ chúa, phật, hồi giáo, bà la môn giáo, ấn độ giáo ... gì gì nữa cũng chỉ là một. Chỉ có một tiếng khóc cho nên chỉ có một niềm vui. Cái này, cái kia, cái nọ chỉ có trong đầu óc giặc giã của ta. Kẻ này, kẻ kia, kẻ nọ chỉ có trong cặp mắt loạn lạc của ta. Chớ thật ra tất cả chỉ là MỘT. Cái một tròn trịa nguyên vẹn. Cái một hồng hào hạnh phúc. Cái một lấy CON NGƯOI làm đấng cứu thế. Lấy con người làm đối tượng cho cuộc cứu rỗi. Cho con người và vì con người. Không còn chủ nghĩa tôn giáo chỉ còn con người. Không còn biên giới chủng tộc chỉ còn con người. Sẽ không còn diệt chủng ở Rwanda. Sẽ không còn thảm sát ở Kosovo. Sẽ không
còn chôn sống ở Huế... Pháo bông bắn lên cao vút, lời nguyền bay lên cao vút, vụt khỏi mấy tầng mây, sáng át cả mấy chòm sao sáng nhất. Tôi thấy tôi trẻ lại. Và hy vọng. Và hứng khởi. Và tin tưởng. Kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của văn minh, của tiến bộ, của nhân ái. Những vòng tay cứ mở ra, mở rộng ra đến vô chừng tưởng như ôm giáp cả vòng lưng của địa cầu, ôm hết cả vòng eo của nhân loại. Tôi mừng như gặp lại tấm lòng " con đỏ " mà Lão Ðam đã mơ ướcmột đời. Biết đâu đất nước tôi cũng có cơ theo giòng vận hội mới... Tôi hào hứng
đến nỗi làm được cả thơ vui...Tim sẽ cùng tim nối nhịp liền. Mắt bồ câu thoáng hiện nhơn duyên. Em xiêm áo mới quàng vai chị. Ðón gió ngàn năm kỷ mới nguyên.


Nhưng rồi xiêm áo đó rách bươm buổi sáng tháng chín này. Cái vòng tay khít liền đó gãy vụn ra, tan nát. Người của thế kỷ hai mươi mốt giống y như người của thế kỷ hai mươi, giống y như người của thế kỷ thứ nhứt, thứ mười, thứ mười lăm, giống y như thời của pháp đình tôn giáo với giàn hỏa, giống y như thời "thánh chiến " đẩm đầy máu Jésus và Allah. Lịch sử chỉ quay vòng vòng như trò chơi rồng rắn. Và con người thì vẫn đắm chìm trong ngu tối, dốt nát và thù hận.


Ðã từ bao lâu, con người thôi ăn lông ở lỗ nhưng đâu thôi suy nghĩ và hành động như cái thời còn ở trong hang động. Chúa, Phật, Allah chắc cũng chỉ biết ngậm ngùi.
Hành động sát nhân một cách tỉnh táo của cái đám gọi là " tử vì đạo " đó làm tôi bần thần dã dượi suốt mấy ngày. Ðúng ra ai cũng có quyền dành cho mình một cái chết để phục vụ cho lý tưởng đã chọn. Nhưng lý tưởng nào để biện hộ cho việc lạnh lùng kéo nhập cục cùng một lúc mấy trăm người đồng hành và ngàn ngàn người vô tội khác vào chỗ chết một cách thảm khốc như vậy. Nhân danh - lại nhân danh! - một chủ nghĩa một niềm tin của người này để cướp lấy quyền sống của người khác có phải là phương thế để xây dựng một thế giới hoà bình, công bằng và bền vững? Có thượng đế nào chứng nhận được việc đó. Có cứu cánh nào biện minh được cho phương tiện cùng hung cực ác như vậy. Và nếu việc làm đó để nhằm vinh danh một phần nhân loại thì chắc cũng phải vì nhân loại mà phủ nhận sự vinh danh đó.


Nhiều ngàn năm rồi không đủ cải hóa con người. Thú tánh vẫn còn đó. Những thông điệp kêu gọi cảm thông, vị tha, hòa đồng cứ bay lượn đầy trời như những đàn bồ câu trắng. Và vẫn tiếp tục bay lượn hoài trong sự lãnh đạm trơ lì. Con đường đi xuống địa ngục gần nhất vẫn còn là con đuờng đi qua lòng người. Lời nguyện đêm giao thừa giữa hai thế kỷ có thay đổi được gì đâu. Con người vẫn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủng loại. Có dấu hiệu nào đâu để tôi còn mơ ước cho quê hương?

Những đêm như đêm nay, ở thành phố đó sao vẫn mọc đầy trời. Nhưng còn chỗ nào gần nhất để tôi leo lên vói bắt ước mơ tôi .

Cao Vị khanh

_____________

Nhớ Sài Gòn,

Qua Bài Thơ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1)

Lương Thư Trung

 

Giới thiệu chương trình nhạc chủ đề“Tình Ca Việt Nam” trên đài phát thanh Sài Gòn, vào đầu thập niên 1970, nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết:

“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời của một đời người, bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau.

Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”(2)

 

Vâng, đó là chương trình nhạc chủ đề mà hồi ấy, những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” (3), chúng tôi rất mê và ghiền lời giới thiệu các bản nhạc trong chương trình này mà nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã gởi đến thính giả; mà dường như cách nào đó, với Sài Gòn, nơi thành phố ấy của hơn nửa thế kỷ (55 năm) trước, chúng tôi có những lần hẹn hò với một cuộc tình rất tha thiết và nồng nàn mà giờ ngồi hồi tưởng lại đúng là thành phố ấy nó“làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đó là nhạc chủ đề, còn trong thơ ca thì sao? Xin mời bạn nghe Đỗ Hồng Ngọc (tức nhà thơ Đỗ Nghê), hơn bốn mươi năm trước, đã viết một bài thơ rất đằm thắm, thiết tha trong tâm trạng tiễn người bạn cũ giã từ để ra đi về “nửa vòng trái đất cõi người ta” trong bài thơ Mai sau dù có bao giờ…

Lâu nay đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc, ít khi thấy ông “thiệt thà” bày tỏ nỗi lòng riêng tư, nhưng với mai sau dù có bao giờ ta thấy thêm góc khuất khác của nhà thơ Đỗ Nghê vậy.

“Cám ơn em đã đến giã từ
Dù sao năm tháng vẫn chưa phai
Em cười mà mắt còn đẫm ướt
Hình như tối qua trời không mưa”

Lần đó, họ không nói với nhau một lời nào, mà chỉ trao cho nhau những nỗi niềm bằng ánh mắt; bởi lẽ trong những hoàn cảnh như vậy lời nói nào đủ nghĩa yêu đương cho bằng ánh mắt thiết tha:

“Tôi hiểu – em đừng nói gì thêm
Những lời không đủ nghĩa đâu em
Tôi sẽ đưa em thăm thành phố
Em không ngại là tôi cũng ghen 

Rồi họ cùng đi thăm lần cuối “một quê hương, một thành phố” nơi mà “cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương”…

Thành phố – nơi ta đã lớn lên
Nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên
Nơi ta hờn giận ta vui sướng
Thành phố – chân hôn mỗi bậc thềm!” 

Vâng, với nhà thơ, Sài Gòn là cả một vùng kỷ niệm chập chùng với bến Bạch Đằng ngày ấy, (Bạn còn nhớ Nguyên Sa: “hãy đưa tôi ra bờ sông, để tôi nhìn dòng nước chảy, tôi nhìn tôi bơ vơ…” không?) và cả ngôi trường Trưng Vương với màu áo xanh của các nàng nữ sinh thướt tha trong nắng sớm sân trường, với khung trời Đại học của một thời sinh viên nhiều mộng đẹp nữa …; nhiều và nhiều lắm… Những chữ “lối xưa xanh áo”, “mờ rưng rưng”… rất thiết tha và gợi lại biết bao nỗi nhớ mà con tim và tâm hồn của những người trong cuộc không khỏi bồi hồi, ray rứt, bâng khuâng …

“Tôi sẽ đưa em ra bờ sông
Sông Sài Gòn mà bến Bạch Đằng
Lối xưa xanh áo Trưng Vương đó
Mái trường Đại học mờ rưng rưng”

Nhắc tới Sài Gòn là nhắc tới những con đường tình rợp lá me bay như đường Gia Long, đường Lê Thánh Tôn và nhứt là con đường Nguyễn Du trong bài thơ, nhưng không thể không nhắc tới cái nắng của Sài Gòn, những cơn nắng làm “hanh đôi má” nàng, và “mồ hôi mặn”, nhưng với họ, những đôi tình nhân gắn bó ấy thì lúc bấy giờ họ không lấy gì làm khó chịu với cái nắng nóng ấy, mà còn “thấy thương ghê”… Mấy chữ “rợp mát bóng me che” trong câu thơ tả cảnh con đường Nguyễn Du dưới đây, thiệt là hết ý!

“Tôi sẽ đưa em ghé Nguyễn Du
Con đường rợp mát bóng me che
Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má
Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”

Qua con đường Nguyễn Du, một trong những con đường tình tiêu biểu của Sài Gòn, và dĩ nhiên Sài Gòn không chỉ có thế, mà Sài Gòn ai đã đến đó và ở đó dù lâu, dù mau đều nhận ra rằng Sài Gòn bên cạnh những con đường lớn, những tòa nhà cao, những khu mua bán sầm uất, nó còn có rất nhiều con hẻm nhỏ mà ở đó nhà nhà, người người chen chúc nhau kiếm sống lây lất qua ngày, dù tất bật, nhưng không thiếu tình chòm xóm, tình lân láng, tình người…: 

 

“Tôi sẽ đưa em về Bàn Cờ
Xóm nghèo nho nhỏ đường quanh co
Tình người thắm đượm từng nếp áo
Bà mẹ ngày nao em nhớ chưa” 

Nhớ lại hồi cách nay năm mươi lăm năm về trước, chúng tôi còn nhiều lắm những kỷ niệm qua bao lần nơi ghế đá công viên, những quán nước bên đường, những cà phê gốc me vào mùa mưa tháng Sáu của Sài Gòn; những rạp xi nê với các phim thời tài tử Alain Delon ăn khách một thời, nào rạp Rex, nào Eden, nào quán Tre quán Trúc nơi thương xá TAX thuở nào… với những hẹn hò mà chúng tôi không “làm sao quên” được, như nhà thơ muốn nói với người thương của mình: 

“Tôi hiểu em còn muốn đi thêm
Một đời chưa đủ phải không em
Chân bước đi mặt còn ngoảnh lại
Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!” 

Ở đây, nếu bạn để ý một chút, trong đoạn thơ trên chúng ta sẽ bắt gặp tác giả không cố ý làm cho câu thơ cao siêu, bóng bảy; trái lại ông rất khéo léo dùng một chút tâm sự của “kẻ ở người đi” trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư mà có lẽ ai ai trong chúng ta cũng có lần đã đọc qua mà có khi vì dòng đời tất bật quá, rồi lại quên:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại: từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường!”(4). Cái hay của ý thơ vừa rồi là nó rất gần, rất quen mà gợi đúng cái tâm trạng của “kẻ ở người đi” trong một lần từ giã. Là một người đã hơn một lần “giã từ” Sài Gòn, hơn một lần“giả từ” người thân yêu của mình, tôi rất thấm thía câu thơ này của tác giả, nó nói lên được tấm lòng của người ở lại lo cho người thân của mình, rồi ra ở nơi “Nửa vòng trái đất cõi người ta” ấy, em sẽ sống thế nào và em sẽ phải làm gì với đất trời xa lạ ấy?

“Thôi nhé từ nay em sẽ xa
Nửa vòng trái đất cõi người ta”

Giữa chập chùng những ý nghĩ vừa lo lắng, vừa ái ngại ấy, rất may, tác giả không quên nuôi trong lòng niềm hy vọng, như một niềm an ủi cho chính mình và cho người thương yêu của mình:

 

“Mai sau dù có bao giờ nữa
Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la”

Cái hay ở câu thơ “Mai sau dù có bao giờ nữa”, một phần rất Kiều (5), và một phần rất Đỗ Hồng Ngọc! Ở chữ “nữa” của Đỗ Hồng Ngọc, vốn là một trạng từ, mà tác giả cho vào cuối câu Kiều, nó vừa là niềm tin yêu và hy vọng, nó vừa là nỗi bịn rịn không rời như “nữa mai”, “nữa rồi”, “nữa khi”, “nữa là”…mà bàng bạc một tấm lòng! Chính những chữ “nữa” ấy là những chữ làm gợi dậy tấm chơn tình trong tình yêu thương có lẽ chưa bao giờ dứt được… Nó vừa nhẹ nhàng mà thân ái, nó vừa tha thiết mà nồng nàn, nó làm tim gan người trong cuộc nhiều khi muốn đứt ruột nhưng vẫn giữ cho lòng chút hy vọng một ngày nào đó còn có dịp gặp lại nhau dù cho bao lâu sau đi chăng“nữa”!!!


Vâng, với Sài Gòn, với thành phố ấy với những đôi tình nhân đã yêu nhau cách nay hơn năm mươi lăm năm ấy, rồi ra, vớichúng tôi, tôi chợt nhớ lại qua những kỷ niệm ngày nào quả quá đúng như nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói “làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”! Và với nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, khi tuổi đời giờ không còn trẻ trung gì, và đọc được bài thơ “Mai sau dù có bao giờ” này của ông, rồi tôi có dịp hồi tưởng lại những nơi chốn hẹn hò của những “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” với những con đường tình của Sài Gòn một thời, và nhìn lại lòng mình, tôi thấy ông nói quả quá đúng, không sai chút nào được khi ông viết:“Mai sau dù có bao giờ nữa!” thì Sài Gòn lúc nào cũng“Xao xuyến hồn ta – làm sao quên!

 

Hai Trầu Lương Thư Trung

Houston, ngày 21.07.2021 

 

Phụ chú:

1/ “Mai sau dù có bao giờ” của Đỗ Hồng Ngọc (1980)

(trích từ tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, Đỗ Hồng Ngọc, nhà xuất bản Trẻ, 1993)

[Theo trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai, ngày 16.07.2021]

2/ Trích CD Nhạc Chủ Đề Tình ca Việt Nam 1970 của Nguyễn Đình Toàn.

3/ “Ngày hai mươi tuổi, có những đêm chong đèn ngồi…” )[Trích trọng “Trên Đồi Là Lô Cốt” Lữ Kiều-Thân Trọng Minh, Thư Ấn Quán xuất bản, Hoa Kỳ, năm 2006]

4/ Trích “Kẻ ở người đi”, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Lớp Sơ đẳng) của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận, nhà xuất bản Thanh Niên tái bản, năm 2000. 

5/ Truyện Thúy Kiều của Nguyễn Du do Bùi Kỷ và Trần Trong Kim hiệu khảo, bản in lần thứ bảy (năm 1925). Nhà xuất bản Đại Nam (Hoa Kỳ) tái bản, (không thấy ghi năm).

_______________________

LTT_Cho hoa NH.JPG
THT_ChiYen_1.JPG
THT_Yen_2017_1.jpg
THT_Yen_2017_2.jpg

2 hình chụp 2017

THƠ TRẦN HOÀI THƯ

Giải lụa đào của em


Giải lụa đào của em giữa chợ  phất phơ
Anh như con diều hâu đói mồi lao chụp
Kinh nghiêm chiến trường vồ nhanh rút lẹ
Nên hội chợ đào anh đoạt một hoa khôi

Từ đó giải lụa đào em xẻ làm hai
Một nửa để dành may áo dài hôn lễ
Một nửa cho anh làm khăn choàng quấn cổ
Thay chiếc khăn choàng đơn vị thám kích diều hâu (*)

Chiếc khăn choàng theo anh trong suốt chiến tranh
quấn lấy đời anh, như giải lụa hồng đầy quyền phép
Giúp anh chạy giữa bom gầm đạn réo
Giúp anh lặn lành giữa lựu đạn mìn chông
Giúp anh lau những bụi khói mồ hôi
Giúp anh những giọt nước biển hồi sinh khi anh ở phòng cứu cấp

oOo

Bây giờ, Chiếc khăn choàng ngày xưa đã mất
Nhưng màu hồng  đào vẫn còn lại không phai
Tình cờ ngày hôm nay, trong viện nursing
em mặc áo hồng mắt cười rạng rỡ,
Anh nhớ giải lụa đào
bèn ra vườn sau, ngắt chùm hoa giấy đỏ
Cắm vào lọ bình nho nhỏ
tiếp tục những niềm vui…………

Trần Hoài Thư

___
(1) Màu khăn choàng cổ của đơn vị

HAI TRẦU                                        

 

ĐỂ TRẢ LỜI VÀI BA CÂU HỎI 


 

Thưa bạn,

Có lần bạn đã hỏi tôi “lúa mùa” là lúa gì?

Ở các nơi làm ruộng thuộc tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc… hồi đời trước, cách nay có tới sáu bảy chục năm, hồi đó nông dân làm ruộng mỗi năm chỉ có một mùa; bắt đầu cày phá đất vào đầu tháng ba âm lịch, cuối tháng ba cày trở, đầu tháng tư âm lịch bắt đầu có mưa thì bừa đất cho nhuyễn và sạ lúa, đến tháng chạp lúa chín lác đác và tháng giêng cắt gặt… Sạ chứ hổng phải “xạ” như có người viết chữ “x”. Do vậy lúa mùa còn được gọi lúa sạ vì người ta gieo giống bằng cách sạ lúa. 

 

Sạ lúa là cách người nông dân mang trước ngực những thúng lúa giống rồi dùng bàn tay hốt những nắm lúa giống vừa đi vừa quăng ra đều trên mặt ruộng. Nhưng muốn cho hạt giống được rải đều, trước khi sạ lúa người ta dùng lá dừa hoặc cây sậy cắm thành từng lối thẳng từ đầu ruộng tới cuối miếng ruộng, bề ngang vừa một sải tay, khoảng từ hai tới ba thước bề ngang, gọi là cắm rò; trong khi sạ, để cho chắc ăn người ta còn nhờ một người khác đi theo lối giữa hai hàng lá dừa ấy, đi rất chậm để cho người bưng thúng lúa giống vừa đi theo người này vừa hốt lúa đầy trong nắm tay rồi rải đều ra; và người dẫn đường cho người sạ lúa như vậy gọi là người lội rò.

 

Về lúa giống, người ta có thể dùng lúa giống khô sạ trực tiếp xuống ruộng hoặc ủ giống để giống lên mộng rồi mới mang lên đồng để sạ. Về phương pháp sạ thì có sạ khơi và sạ dập. Sạ khơi là sạ lúa xong rồi bỏ đó để hột giống hứng sương hoặc gặp mưa rồi hạt giống sẽ tự động nẩy mầm và mọc cây; sạ dập là khi sạ xong người ta sẽ dùng bò hoặc trâu bừa qua một tác để lấp hột giống lại. Sạ khơi có cái bất tiện là dễ bị chuột bọ ăn hột giống nên khi lúa lên cây lúa sẽ bị hao hớt; trái lại sạ dập dù tránh được nạn chuột bọ phá hại nhưng sạ cách này lúa cũng dễ bị đất đè lên và bị nghẹt, nhiều lúc ruộng cũng bị hao vì lúa lên hổng đều.

 

Cũng là lúa mùa nhưng có nơi làm lúa cấy. Các vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An người ta ưa dùng cách cấy lúa thay vì sạ như các vùng Long Xuyên, Châu Đốc. Làm lúa sạ có cái lợi là làm được nhiều, diện tích đất từ vài chục mẫu tới vài ba trăm mẫu; trái lại làm lúa cấy thì vì sức người có hạn nên diện tích canh tác cũng có giới hạn; tùy theo vùng đất nhiều hoặc đất ít và nhơn công cấy dễ mướn hoặc khó tìm thì số đất ruộng cấy được sẽ ít hoặc nhiều. 

 

Trong ruộng cấy có mấy giai đoạn như sau: trước nhứt là rải mạ. Người ta dọn một miếng đất thật bằng phẳng rồi cày bừa cho nhuyễn và đem giống ra rải lên miếng đất ấy. Vì rải mạ nên người ta cần sạ giống cho dày, vừa để tránh hao hớt vừa để sau này khi mạ đầy tháng còn nhổ mạ và chiết ra để cấy lại đất ruộng đang chờ để cấy. Bởi vậy trong dân gian khi có ai làm việc gì mà bị đổ đầy trên mặt bàn hay trên mặt đất người ta gọi rải mạ. Sau khi rải mạ như vậy mưa xuống hột giống sẽ lên dày bịt và đúng một tháng hoặc trồi sụt chút đỉnh là bắt đầu nhổ mạ và đem đi cấy. 

 

Nhổ mạ là nhổ nguyên một vạt đất như vậy và mỗi người nhổ mạ xong gom lại chừng hai nắm tay thì họ dùng dây lạt bó mạ lại ở phần gần ngọn cây mạ. Trước ngày cấy lúa trên đất đã cày bừa trục nhuyễn sẵn thì công việc kế tiếp là giang mạ. Giang mạ là người ta chở mạ hoặc gánh các bó mạ vừa mới nhổ xong bỏ đều trên miếng ruộng sắp cấy. Tùy theo muốn cấy dày hoặc cấy thưa mà mỗi công đất sẽ được phân phối số mạ nhiều hay ít. Trung bình người ta tính theo cây tầm đo đất, chiều dài 3 thước, gọi là tầm cấy hoặc tầm cắt. Mỗi tầm cấy như vậy cấy 12 bụi mạ, gọi là cấy dày; nếu cấy 10 bụi mạ, gọi là cấy vừa, còn cấy 6 hoặc 8 bụi mạ thì gọi là cấy thưa. 

 

Thông thường người đi cấy lúa mướn thì ba người họ lãnh cấy chung nguyên một công đất, tức là mỗi người cấy một phần ba (1/3) công, còn gọi tắt là một góc ba. Do vậy tâm lý giữa chủ ruộng và công cấy có những suy nghĩ trái ngược nhau. Chủ thì lúc nào cũng muốn công cấy cấy dày; còn công cấy thì muốn cấy thưa cho mau xong công đất để mau về sớm. Ở nhà quê có câu thiệu: “Bắt nhẻ, cấy thưa, tầm đưa vô đít”, ý nói “bắt nhẻ” là bắt mạ rất ít, (có lẽ do chữ “nhỏ nhẻ” mà nói trại ra), thay vì vừa tay cho một bụi mạ thì công cấy tách mạ rất ít để cấy cho mau khỏi mất công cứ lấy mạ hoài lâu rồi công. “Bắt nhẻ” như vậy có cái hại là gặp trời nắng nước ruộng bị nóng và bụi mạ khó bén rễ, có khi mạ bị chết và miếng ruộng này khi lúa lớn lên sẽ hao hớt, thưa thớt.

 

Về động tác cấy có mấy động tác chính như tay mặt vừa cầm nắm mạ vừa cầm nọc cấy, ngón cái bàn tay mặt vừa đẩy một ít mạ tách rời nắm mạ gọi là ra mạ, nếu ra mạ mà ít quá gọi là bắt nhẻ. Thay vì một bụi mạ tối thiểu phải bốn hoặc năm cây mà mình chỉ ra mạ có ba cây gọi là nhẻ.

 

Cũng là ruộng cấy nhưng ở miệt Cái Côn (Cần Thơ) người ta dùng chày tỉa để tỉa mạ. Chày tỉa là một cái cây làm bằng cây tràm hoặc bất cứ cây gì mà săn chắc bào cho láng, một đầu chuốt nhọn như trái vụ để khi cầm chày tỉa cắm xuống đất khi lấy chày lên sẽ để lại một cái lỗ nhỏ vừa với một nhúm hột giống để gieo mạ. Công việc tỉa mạ có hai người cùng làm, một người dùng chày tỉa xắn lỗ và người kia bỏ hột giống và lấp đất lại. Sau vài ba ngày tùy theo giống khô hoặc giống ngâm mà mạ mau lên hoặc chậm lên. Cái này cũng có cái lợi và cái hại tùy theo thời tiết. Gặp trời nắng nóng thì giống khô ít hao, lúa giống nằm đó chờ mưa hoặc hơi sương ướt rồi từ từ mọc mộng và lên cây; trái lại gặp trời mưa thì giống ngâm mau lên cây hơn, mạ ít hao. Sau khi cấy mạ được một tháng, người ta bắt đầu dùng tay nhổ mạ. 

 

Nhổ mạ như vậy rồi cũng dùng dây lạt để bó mạ nhưng chưa đem ra ruộng cấy liền, mà phải dọn sẵn một miếng đất khác để cấy số mạ này. Công đoạn cấy lần này gọi là cấy giâm. Cấy giâm có nghĩa là đem mạ còn non cấy lại một lần nữa cho cây mạ cứng cáp và nở thêm nhiều rồi mới bứng mạ một lần nữa và lúc bấy giờ mới giang mạ và cấy thiệt thọ trên miếng đất mà mình muốn trồng lúa. 

 

Sở dĩ gọi bứng mạ vì giai đoạn này phải dùng dao để xắn bụi mạ lên chứ không phải nhổ mạ bằng tay như mấy lúc trước. Con dao bứng mạ cũng chỉ là con dao yếm là loại dao thông dụng trong nhà bếp mà dân quê thường dùng để xắt thịt, làm cá nhưng với dao yếm bứng mạ thì mũi dao bản bự hơn loại dao yếm thường, đặc biệt là được mài rất bén. Thông thường một bụi mạ người ta phải xắn ba góc mới lấy bụi mạ lên được an toàn không bị đứt rễ nhưng với dân bứng mạ chuyên nghiệp người ta chỉ bứng hai nhát dao là bụi mạ lấy lên được khỏi mặt đất và không bị đứt rễ. Cái hay của chuyên môn là ở cách bứng mạ ấy vì nhờ vậy mà công việc bứng mạ mau hơn và đỡ mất nhiều công sức. 

 

Còn cấy giặm là cấy thêm những chỗ ruộng lúa bị hao hớt vì lúa chết hoặc cua kẹp. Dù làm lúa sạ hay lúa cấy gì khi lúa bị hao người ta hay mướn công cấy và chiết mạ từ những chỗ lúa dày để giặm vá vào những chỗ trống này.

 

Có bạn còn hỏi gom lúa là gì? Chất lúa thành cà lang là sao?

Để trả lời hai chữ dùng này cũng còn tùy. Nếu làm lúa mùa hồi đời trước có người làm năm ba chục mẫu ruộng, có người làm cả mấy trăm mẫu nữa nên ruộng đất nhiều, lúa tới mùa cũng nhiều, nên không thể ôm từng ôm, từng ôm lúa mang vô sân cùng lúc được do vậy phải dùng bò trâu kéo lúa vô sân, nên mới gọi là gom lúa. Nhưng trước khi gom lúa chủ ruộng kêu công cắt để cắt lúa; cắt lúa xong còn phải phơi lúa bông vài nắng nhằm mục đích cho bông lúa khô để khi trâu bò đạp lúa mau rụng hột; phơi lúa bông như vậy gọi là dan lúa. Khi thấy lúa vừa ráo bông, chủ ruộng kêu công chồng mớ lúa. Khi cắt lúa các thợ cắt lúa bỏ lúa từng mớ, từng mớ theo lối cắt của họ, những mớ lúa này nằm rải đều trên diện tích miếng ruộng nên khi chồng mớ lúa, người ta lội theo từng lối lúa cắt như vậy và ôm những mớ lúa bông này chồng lên nhau thành một mớ lúa vừa với người ôm khi gom lúa. Thường thường mỗi một ôm lúa bông như vậy tùy theo lúa mớ nhiều hoặc ít mà người ta gom lại bốn hoặc năm mớ lúa chất thành một ôm; không chất ôm lúa lớn quá mà cũng không chất ôm lúa nhỏ quá vì nếu lớn quá khi mình gom lúa, lúa bông sẽ dễ bị rơi rớt; còn nếu ôm lúa nhỏ quá thì lại tốn nhiều công sức mà việc gom lúa lên cộ sẽ bị chậm chạp, mất nhiều thì giờ. Dụng cụ để gom lúa này được gọi là cái cộ. Cái cộ là vật dụng làm bằng tre. Người ta lựa hai gốc tre già làm thanh cộ. Sở dĩ dùng gốc tre già vì nó vừa chắc mà cũng vừa tiện trong việc thanh cộ kéo trên ruộng trơn láng dễ hơn là dùng cây săn chắc làm cộ thường bị đất bùn làm chất gỗ lún xuống đất sâu rất nặng cho trâu bò. 

 

Tùy theo bạn dùng trâu hay bò để kéo cộ mà cái cộ dùng gom lúa có khác nhau. Nếu dùng bò thì phải dùng tới hai con bò vì bò sức yếu, nên gọng cộ là hai thanh cộ ở phần máng bò kéo cộ nhập lại làm một để mỗi bên máng một con; nếu bạn dùng trâu thì chỉ dùng một con trâu thôi, vì trâu mạnh hơn bò nên thanh cộ ở chỗ máng ách tách ra làm hai, và đặt trâu ngay vào giữa hai thanh cộ này, không nhập lại như cộ bò. 

 

Trên sàn cộ người ta dùng vạt tre lót làm sàn cộ và để tránh lúa rụng rơi rớt dọc đường, người ta lót lên sàn cộ một tấm đệm bàng, loại đệm nhà quê hay mua để làm nóp ngủ hoặc dùng để phơi lúa. Xung quanh cộ có làm thêm những thanh tre đứng để giữ cho lúa khỏi bị đổ. Thành ra, gom lúa là mình chất lúa lên cộ và cho trâu bò kéo lúa về sân. Vì lúa hồi xưa làm nhiều nên phải chất thành đống lúa rất cao thành hình chóp gọi là cà lang lúa.

 

Khi gom lúa và chất thành cà lang cao xong là tới giai đoạn dùng trâu hoặc bò đạp lúa, lúc bấy giờ người chủ ruộng mới mướn nhơn công dùng mỏ xải (1) để vích lúa trải đều ra xung quanh chưn cà lang lúa nhắm chừng bề dày khoảng từ ba tấc tới năm tấc, gọi là ra bã lúa; rồi cho bò hoặc trâu kéo cái trục đi vòng quanh lên lớp lúa vừa trải ra này gọi là đạp lúa; sau khi trâu bò đạp lúa một đỗi chừng nửa giờ hay lâu hơn tùy theo bã lúa dày hay mỏng, người chủ ruộng thấy các bông lúa rụng hột hết rồi, lúc bấy giờ chỉ còn là những cọng rơm bong ra và người ta tháo ách thả trâu bò ra cho chúng nghỉ và nhân công bắt đầu lấy mỏ xải vích lớp rơm khô này tấp ra bên ngoài bìa sân lúa, công đoạn này ở nhà quê gọi là làm bã lúa. Sau đó lấy trang cào lớp lúa hột này gom lại một chỗ và bắt đầu ra bã lúa tiếp theo và cho trâu bò đạp lúa tiếp cho đến khi nào hết cà lang lúa thì coi như xong vụ đạp lúa bông ra lúa hột.

 

Thường thường lúa hột trâu bò đạp ra như vậy vẫn còn rơm hoặc lúa lép lẫn lộn, do vậy mà nông dân phải dùng bốn cây tre dựng thành cái giàn tương đối hơi cao, chắc chắn, có chỗ cho một người đứng vững vàng; ngay dưới chỗ người đứng này có tấm vạt bằng tre hoặc một tấm đăng mỏng được trải ra và rồi mọi người cùng nhau xúc lúa vô thúng rê và đội lên giàn, để cho người ở đó bưng thúng lúa trút xuống tấm vạt để rê lúa với mục đích là làm cho lớp lúa lép, rơm, bụi bay đi hết và chỉ còn lúa hột chắc còn lại thôi; nên giai đoạn này gọi là rê lúa.

 

Sau khi rê xong hết đống lúa vừa kể, tùy theo miếng ruộng lớn hay nhỏ, có khi đống lúa hột này nhiều tới năm ba trăm giạ lúa là thường (1 giạ lúa= 40 lít) là tới giai đoạn dùng xe trâu kéo lúa về nhà nếu nhà tương đối gần miếng ruộng; còn trường hợp nhà xa ruộng, người ta phải dùng xe trâu kéo lúa ra bờ kinh; rồi từ bờ kinh, chủ ruộng mới dùng ghe xuồng chở lúa về nhà; giai đoạn dùng trâu bò kéo lúa từ trong ruộng ra bờ kinh để dùng ghe chở lúa về nhà gọi là lòi lúa. Qua kinh nghiệm làm ruộng lâu ngày, chủ ruộng biết sức lực của trâu bò, nên khi họ làm cộ để cộ lúa hay dùng cây đóng thành xe trâu để chở lúa về nhà, mỗi xe trâu như vậy sức chở tối đa là 25 giạ lúa; không ai làm xe trâu chở nhiều hơn số 25 giạ ấy vì quá con số này trâu kéo xe rất mệt và trâu bò làm quá sức thì mau kiệt sức, không bền đó là trong nhiều trường hợp trâu bò bị đuối sức, không cày bừa nổi nữa, người nhà quê gọi là bò trâu bỏ mùa.

LTT_Thung_Tao.JPG

Rồi bạn lại hỏi tôi về loài chim nhạn ở đồng ruộng mấy chục năm về trước lúc còn làm lúa mùa giống chim này có những đặc tính nào để mình dễ nhận ra loài chim ấy?

Xin thưa với bạn rằng, trước nhứt loại chim này nhỏ con với bộ lông màu trắng và ưa bay chung với nhau thành từng đàn, từng đàn mà rất hiền! Chúng có hai đặc tính mà ai ai từng làm ruộng lúa mùa ngày trước khoảng 1940-1960 hoặc lúa thần nông sau này những năm 1960-1990 đều biết là chúng biết chỗ nào có cá ở trong rong và chúng luôn bảo vệ cái ổ của chúng.

 

Trong đời sống thiên nhiên của chim nhạn trắng, hồi mấy năm tôi về quê làm ruộng, giăng lưới, giăng câu, buổi sáng sớm, tôi thường chống xuồng lên đồng nước ngập mênh mông, chỗ nào mà có bầy nhạn trắng bay vòng vòng trên bầu trời ngay trên đầu mình là tôi cắm xuồng dừng lại chỗ đó và bắt đầu dọn luồng bủa lưới, nhứt là lưới cá linh, thì sau khi bủa lưới một hồi, cỡ hút tàn điếu thuốc, rồi mình bắt đầu thăm lưới, bạn có biết sao hông? Cá dính lưới guộn viền luôn! Thành ra, theo kinh nghiệm người nhà quê tụi tôi là chỗ nào có nhạn bay vòng vòng trên trời là chỗ đó có cá linh nhiều lắm!

 

Còn nữa, vào tháng ba, tháng tư âm lịch, trên đồng đất khô nứt nẻ ở những cánh đồng lớn vùng Mặc Cần Dưng (Long Xuyên) hoặc sau này vùng đồng ruộng làng Tân Bình (Lấp Vò, Sa Đéc), chỗ nào mà nhạn bay vòng vòng hoài một chỗ là ngay mặt đất chỗ nhạn bay đó, mình đi tìm một hồi là có ổ nhạn đang đẻ trứng gần đó. Dân quê vùng ruộng dưới tôi ưa gọi loài nhạn này là "nhạn đất". Nhạn đất lấy rơm rạ làm ổ đẻ trên mặt đất, không lót ổ trên cây như các loài chim khác. Vui lắm! Tóm lại, so với các loài chim khác thì chim nhạn đất là loại chim rất hiền!

 

Rồi bạn lại hỏi, câu thơ của Phạm Thiên Thư mở đầu bài thơ Động Hoa Vàng: “Mười con nhạn trắng về tha”; sao tác giả không dùng hình ảnh con cò trắng hoặc con hạc trắng cũng có bộ lông màu trắng như chim nhạn vậy? 

 

Thưa bạn, về việc dùng hình ảnh “con nhạn trắng” này, thú thiệt với bạn, tôi là dân quê gốc gác làm ruộng nên rất dốt và chắc chỉ có tác giả Phạm Thiên Thư mới cắt nghĩa được câu thơ của ông thôi! Tuy vậy, có hai điển tích về chim nhạn trong tự điển Phật Học là “Ngũ bách nhạn quần văn Phật Pháp sinh thiên” (thuyết) và “Ngũ bách nhạn vi ngũ bách La-Hán (Bản sinh) cùng hai từ ngữ “Nhạn vương” gọi danh Đức Phật và “nhạn môn” chỉ cửa chùa (2), chắc có liên quan đến “con nhạn trắng” trong câu thơ mà bạn vừa hỏi! Và ứng vào dòng đời của nhà thơ Phạm Thiên Thư, có lúc ông xuất gia đi tu thời gian tới 9 năm với pháp danh Thích Tuệ Không (từ 1964-1973) (3) rồi hoàn tục, thì theo trí ngu của mình, tôi thiển nghĩ “con nhạn trắng” ở đây là ngầm hiểu là người xuất gia, người đi tu, người ở chùa mà cũng có thể để chỉ chính tác giả vì ông vốn là một tu sĩ nữa. 

 

Còn “cò trắng” và “hạc trắng” mỗi loài lại được dân gian và sách vở dùng để chỉ riêng cái nét tiêu biểu của chúng như cò trắng thì làm mình nhớ câu ca dao“con cò lặn lội bờ sông”, còn “hạc trắng” chỉ tuổi thọ như người đời ưa nói tuổi hạc, hoặc hạc tượng trưng cho sự nhàn nhã như Lâm Ngữ Đường có nói trong “Một quan niệm về sống đẹp” (Nguyễn Hiến Lê dịch).

 

Rồi bạn lại hỏi: “Sao lại chỉ “mười con nhạn trắng” mà hổng phải năm ba con?”Thú thiệt, câu hỏi này cũng như câu hỏi vừa rồi đều là những câu hỏi khó, mọi sự hiểu và trả lời đã có các bậc thức giả giải đáp cặn kẽ hết rồi; ở đây, nếu có thể được xin bạn nên hỏi tác giả vì chỉ có ông Phạm Thiên Thư là biết rành hơn ai hết! Nhưng chính tôi nhiều lúc tôi cũng bần thần thắc mắc là sao lại là “mười con nhạn trắng”? Giống như Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có nói “ở đây nhà thơ nói “nhạn” nhưng không phải “nhạn” và từ đó, tôi mới nghĩ Phạm Thiên Thư khi ông viết “mười con nhạn trắng” vậy thôi, chớ thiệt tình ra, có thể không phải số lượng là “mười con nhạn trắng” như người đời thường quen đếm số từ 1, 2, 3, 4… rồi tới 10. Chữ “mười” trong câu thơ vừa rồi, theo tôi, qua cái nhìn nhà quê của mình, ở đây chữ “mười” nó không phải là “số đếm” mà là “số từ”, là một trạng từ, như trong chữ “mười mươi” có ý nói lên sự chắc chắn về một ý nghĩ, về một quyết định quan trọng nào đó…  Điều suy nghĩ này nó cũng ứng hợp với ý câu thơ mà cũng khế hợp với dòng đời của tác giả Phạm Thiên Thư là “mười phần chắc mười” nhà tu rồi ra sẽ trở về một nơi khác, một cõi khác hơn cõi “nhạn môn”; tức là rồi sẽ rời cửa chùa để trở về nhà, trở về với cái thân ngũ uẩn của mình! Có như vậy ông mới có thể “lên non tìm động hoa vàng” được chứ! Phải vậy hông, thưa bạn? Ông làm bài thơ này năm 1971 và ông hoàn tục vào năm 1973 (3). Đại khái là vậy, và ở đây, tôi chỉ đoán mò thôi vì tôi không biết và cũng không rành việc chữ nghĩa thơ phú này, nên mong bạn thông cảm và đừng cười cho cái ý thô thiển này là tôi mừng rồi! Rất mong vậy!

 

Thưa bạn,

Qua chuyện kể về nhạn đất vừa rồi, chỗ nào có chim nhạn bay là chỗ đó có nhiều cá, nhứt là cá linh; rồi bạn lại hỏi sao gọi loại cá nhỏ này là cá linh?

Về điểm này, đã khá lâu, tôi có nhắc qua vài đặc tính về loại cá linh này trong các cuốn Bến Bờ Còn Lại (2000), Mùa Màng Ngày Cũ (2011, 2015), nên nay xin nhắc vài nét chính của loại cá này thôi, kẻo mình cứ lặp đi lặp lại hoài một việc thấy cũng hơi kỳ kỳ!

Số là vào tháng Năm âm lịch, khi nước các sông rạch vùng miền Tây nước sông Cửu Long có màu ngầu đục và chảy xiết, dân quê vùng này gọi là mùa nước đổ. Nước vào mùa này có màu ngầu đục như vậy vì phù sa của con sông Cửu Long từ trên Biển Hồ bên Cao Miên chảy xuống trong đó có mang theo cá linh non trôi trong nước thành từng bầy từng bầy, nhiều vô số kể! Cá linh non là cá linh mới nở hoặc đã nở mấy ngày, nên cá còn rất nhỏ, cỡ đầu đũa ăn, rồi trôi theo nước và lớn dần; khi xuống tới Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cao Lãnh… cá linh theo các kinh rạch và tràn lên đồng vào mùa nước lên tháng Bảy âm lịch rồi theo các cánh đồng lúa mùa ở các vùng ấy và lớn dần, lớn dần, cá lớn nhứt cỡ bằng ngón chưn cái, lúc bấy giờ dân quê gọi cá linh lớn này là cá linh già; tuy gọi là như vậy nhưng ít có cá linh nào lớn bằng nửa cườm tay; do vậy mà dân quê mới sắm các dụng cụ để bắt cá linh như đăng đó, vó cất, vải chài, giăng lưới, đóng đáy, đặt dớn… là những dụng cụ có lỗ rất nhỏ, nếu lưới thì lưới một phân hoặc lưới thưa hơn chút có lưới một phân rưỡi.

 

Có hai loại cá linh là cá linh ống và cá linh rìa. Cá linh ống hình ống tròn, vảy màu trắng nhuyễn; cá linh rìa hình dẹp vảy nhuyễn pha vài chấm nhỏ màu sẫm dọc theo hai sống lưng. Các đặc tính của cá linh khi chúng ở trên đồng nước ngập hằng năm vào tháng Tám, tháng Chín, tháng Mười âm lịch, chúng có chung những đặc tính sau đây:

  • Cá linh sống thành từng đàn, từng đàn; miệng cá rất nhỏ, chỉ ăn rong, và các phiêu sinh vật, nên ít ai sắm câu để câu cá linh, nên giăng lưới cá linh là chính. 

  • Thường thường vào giác sáng sớm và vào lúc gần khoảng sau giờ chùa công phu chiều là giăng lưới dính cá linh nhiều vì vào hai khoảng thời gian ấy cá linh ưa đi ăn nên dễ mắc lưới.

  • Giác trưa nắng, trời đứng bóng, lưới không dính cá như hai giác sáng sớm và giác chiều vì vào buổi trưa cá linh tìm các đám rong vào nghỉ mát...

  • Ở đồng quê vào mùa nước lên thì ngày nào nước cũng dâng lên tùy theo nước lớn hoặc nước nhỏ mà mực nước dâng lên nhiều hoặc ít; nhưng đến đúng ngày 25 tháng Chín âm lịch thì mực nước trên đồng bắt đầu dừng lại, không lên tiếp như mấy ngày trước, lúc bấy giờ dân quê gọi là nước phân đồng. Nước phân đồng kéo dài khoảng vài ba ngày thì tới khoảng mùng 10 tháng Mười âm lịch nước khắp các cánh đồng bắt đầu chảy mạnh ra các kinh rạch, dân quê gọi mùa này là mùa nước giựt.

  • Cá linh khôn lắm, khi nước mênh mông trên đồng bắt đầu nhớm giựt thì cá linh ào ạt rủ nhau rút xuống các cựa gà, các ngã ba kinh rạch và xúm nhau trở về sông…

  • Lúc bấy giờ người nhà quê biết cá linh theo nước rút ra sông, người ta mới bủa lưới, kéo vó cất, đóng đáy, đặt dớn hoặc vải chài khắp các ngõ ngách, các bến sông để chận bắt cá linh ra. Mùa này cùng với cá linh, các loài cá trắng khác cũng bắt đầu ra sông còn gọi chung là mùa cá ra. Vào các năm còn làm lúa mùa thì mùa này nước trên đồng do có nhiều phèn và nước cỏ nên cá dễ bị đỏ mắt và nổi đầy bèo mặt nước, nên hồi đó mùa cá ra này còn gọi là mùa cá dại. 

  • Cá linh rất khôn, khi trời nắng chúng cứ ào ào ra sông như vậy không cách gì cản chúng được nhưng tự nhiên thấy trên bầu trời có vài đám mây đen sắp kéo qua hoặc trời sắp chuyển mưa thì tự nhiên thấy cá linh dính lưới ít đi thì dân ruộng biết chắc là trời sắp mưa. 

  • Do các đặc tính của loài cá trắng nhỏ con này chúng biết khi nào nước giựt, khi nào trời nắng và khi nào trời sắp mưa mà người nhà quê gọi loài cá trắng nhỏ con này là cá linh là vì vậy. 

 

Đó là thực tế qua kinh nghiệm sống nơi nhà quê qua các nghề giăng lưới, kéo vó cất, vải chài, đóng đáy, đặt dớn, đăng đó … các thứ để bắt cá linh mà biết như vậy; còn theo sách vở của các bậc tiền bối kể về giai thoại chúa Nguyễn khi lưu lạc vô miền này bằng thuyền rồi lúc đang đi gặp loài cá này nhảy lên thuyền, chúa Nguyễn ra lệnh dừng đoàn tùy tùng lại không đi và nhờ vậy tránh được nạn nên chúa đặt tên cho loài cá trắng nhỏ còn vùng sông rạch miền Tây này là cá linh; thì đó là chuyện truyền thuyết, thực hư thế nào, kẻ hậu sinh như tôi thì hổng dám có ý kiến ý cò gì trong việc đặt tên cá linh này! Chỉ nhắc qua như vậy để bạn nghe chơi và tùy bạn liệu lượng!

 

Vừa rồi là vài nét đơn giản của công việc làm lúa mùa ngày xưa cách nay sáu bảy chục năm mà bạn đã hỏi; rồi mới đây bạn lại hỏi việc trồng trọt trong vườn nhà của tôi ngày nay sau cơn bão tuyết hồi đầu năm nay thì ra sao? Có cực lắm hông và khởi công gieo giống vào lúc nào và khi nào thì bắt đầu trồng?

 

Dà, việc này cũng hơi dài vì bất cứ việc bắt đầu nào rồi cũng rất khó nhọc và tốn công. Chẳng hạn như vườn nhà tôi trồng cam, quít, bưởi, xoài, mận, khế, cốc (4) (không phải “cóc”) …, là những cây xứ nhiệt đới, gió mùa và chịu nóng nên khi bị tuyết rơi rồi đông đá như hồi đầu năm thì cây nhiệt đới nào mà chịu cho nổi nên cây trong vườn 99% chết ráo trọi hà! Thêm nữa, ở quê tôi mỗi khi nói tới việc trồng trọt, kể cả làm ruộng, người nhà quê ưa nói: “Nhứt nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”; giờ ở đây câu nói này vẫn áp dụng được với việc làm vườn. Vả lại bài này cũng khá dài rồi, mà tôi lại mỏi lưng, mỏi mắt vì tuổi cũng hơi trộng trộng rồi, làm biếng bộn rồi nên đành bắt chước Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tôi xin mời bạn coi qua vài tấm hình chụp trong vườn với chú thích ở dưới mỗi tấm hình và chắc bạn không nỡ trách sao tôi lại hà tiện chữ để giải thích vì thú thiệt tôi vốn ít chữ và giờ cũng đâu còn chữ nào nữa mà gọi là hà tiện! Phải vậy hông, thưa bạn?

 

Dà, bạn hỏi hơi nhiều và cũng khó trả lời vì ở đây thời tiết không giống bên mình. Ở bên mình thời tiết nóng ấm quanh năm vì vùng Lấp Vò quê tôi nói riêng và cả miền Tây nói chung là thuộc vào vùng nhiệt đới gió mùa. Chính vì vậy ở quê tôi làm ruộng, làm rẫy là làm tùy theo mùa. Chẳng hạn như khi nước giựt tháng 11 âm lịch thì bắt đầu gieo hột và lo chuẩn bị tháng Chạp xuống giống. Còn ở đây, thời tiết có khác là vào tháng Chạp, tháng Giêng dương lịch trời còn rất lạnh, nên chưa gieo trồng gì được; phải đợi tới tháng Hai dương lịch mới bắt đầu gieo giống và khoảng đầu tháng Ba là lai rai xuống giống các loại như bầu, bí, hủ qua, mướp, dưa gang, dưa leo, ớt, cà chua, cà tím các thứ… 

Như năm này thì tôi có trồng một số cà chua loại trái lớn, rồi trồng bí rợ, bí đao, bầu, mướp và đặc biệt có hủ qua (còn gọi khổ qua). Trong các loại hủ qua mà tôi trồng có bốn giống khác nhau: giống hủ qua trắng, giống hủ qua xanh có gai nhọn, giống hủ qua xanh gai lạn và loại hủ qua trái tròn. Tất cả các giống hủ qua này là một tình cờ mà có các loại như vậy chứ tôi không biết trước vì ở đây có vài anh em cùng sở thích trồng trọt nên giống này hổng biết của ai cho và tới khi có trái thì mới biết giống hủ qua có nhiều loại như vậy! Nhưng tất cả các loại hủ qua này đều ngon dù mỗi loại có vị đắng khác nhau nhưng cùng chung cái hậu ngọt và mát, trị được chứng nóng nhiệt trong người! Vui lắm!

LTT_Bưởi ổi xá lỵ.JPG
LTT_Duagan.JPG
LTT_muophuongbidao.JPG
LTT_quítduong.JPG
LTT_khế ngọt.JPG
LTT_dualeodaubap.JPG
LTT_Duagan.JPG
LTT_Uongcaphe.JPG
LTT_huqua.JPG
LTT_càbídaơót.JPG

HAI TRẦU

Houston, Texas

_____________________________________

THƠ VĂN THÁNG TƯ ĐEN

Nhiều tác giả

TL_Tolichcu.gif

Trên Trang Mục nầy chúng tôi sẽ giới thiệu những bài viết về 1 thời Miền Nam trước cơn đại hồng thủy tháng 4/1975.

Thời nầy văn học Miền Nam như hoa nỡ rộ bỗng bị tàn úa theo cái ngày 30 tháng 4, 1975. Nên chúng tôi xin mượn dấu mốc lịch sử oan nghiệt nầy làm chủ đề cho Trang Mục Thơ văn Tháng Tư Đen.

       30-4-1975 - 30-4-2021

                   vết thương chưa lành      

TL_30thang4vaBoatPeople.jpg

Cao Vị Khanh, Kim Loan, Đoàn Xuân Thu, Kiên Giang Tiểu Thư, Anh Tú, Kim Oanh, Giáng Xưa, Trầm Vân, Nguyễn Đấu Lộc, Sông Thu, Đỗ Chiêu Đức, Mai Xuân Thanh

(còn tiếp)_________________________

 

1. CAO VỊ KHANH: Tháng Tư

Đọc thêm:

http://www.caovikhanh.com/book/thang-tu.pdf

http://www.caovikhanh.com/pdf/thang-tu-cvk.pdf

2. KIM LOAN: Truyện: Miền Nam mến yêu

                    Thơ: Thư gửi chồng cải tạo - Ý hợp tâm đầu là đôi ta

CVK_ThangTu_2.JPG

THÁNG TƯ

..................................................................................

 

Tháng tư như một vết sẹo gần

Tưởng quên rồi lại bồi hồi nhớ

Khi máu trong tim vụt trở trăn

 

Tháng tư ồ tháng tư xuân

Đâu đây lấp ló góc mộ phần

Nửa chìm lặng lẽ, nửa trồi hận

Ôi tháng tư gian dối vô nhân

Tháng tư ôi tháng tư thầm

Rền rền như từng nốt nhạc câm

Réo kêu đục đẽo dao tùng xẻo

Ôi tháng tư bạc bẽo vô nhân

Tháng tư, ờ tháng tư đen

Nám da nắng lửa tù thay ngựa

Kéo lết căn phần tội-tổ-tông

Cao Vị Khanh

 

MIỀN NAM MẾN YÊU

Dù chỉ được sống trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà vỏn vẹn 9 năm, nhưng ký ức về khung trời tuổi thơ yên vui tươi đẹp, của Miền Nam mến yêu vẫn sống mãi trong tâm tưởng của tôi. Thuở ấy, đầu thập niên 1970s, tôi là cô bé tí tẹo, với mái tóc fashion… “muỗm dừa hồi đó”, cái trán dồ và nick name Bé Tẹt (vì cái mũi tẹt).
Căn nhà mặt tiền của gia đình chúng tôi dùng làm quán nước giải khát do Má và chị Cả quán xuyến, vì Ba tôi là Cảnh Sát Quốc Gia đi làm cả ngày. Phía trước nhà là Trại Đoàn Dư Khương, tức là Trại Quân Cụ (Lục Quân Công Xưởng) của chính quyền VNCH. Đối diện Quân Cụ là một Club Mỹ giữa khu dân cư và hai trại gia binh. Chỉ trong đoạn đường hơn một cây số, đi từ trại Quân Cụ, còn có Trại Truyền Tin, Quân Nhu, Quân Trang là gặp ngã ba. Nếu rẽ trái là đến Thành Cổ Loa, Khu Thiết Giáp, và rẽ phải gặp ngã năm là Kho Đạn, Trại Quân Khuyển mà bà con gọi là Ngã Năm Chuồng Chó.

KL_McKL.jpg

Hướng ngược lại từ nhà của chúng tôi, đi vài trăm mét là ngã ba Thông Tây. Rẽ phải đi lên Xóm Mới, còn rẽ trái đi thêm sẽ gặp Nhà Thờ Hạnh Thông Tây, đi nữa sẽ thấy Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp (không phải Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà), cạnh Làng Trẻ Mồ Côi SOS. Nếu quý vị chưa mỏi chân, thì cứ đi tiếp lên Chợ Cầu, Trung Chánh và đến Quân Trường Quang Trung của những ngày cuối tuần rộn ràng “ hôm nay ngày chúa nhật, vườn tao ngộ em đến thăm anh”.
Đến tuổi đi học, tôi học tiểu học trường Nguyễn Công Trứ, nằm trong khuôn viên Khu Quân Trang, hiệu trưởng là một Sĩ Quan (Thiếu Tá) VNCH. Vì là trường học thuộc quân đội, nên lũ “học sinh là người Tổ Quốc mong cho mai sau” chúng tôi cũng được hưởng chế độ viện trợ của Mỹ. Cứ ba lần trong tuần, có xe chở sữa đẩy đến cửa từng lớp học, đến lớp nào thì cô giáo lùa học sinh ra xếp hàng, mỗi em được một ly sữa tươi và một lát bánh mì mà chúng tôi gọi là “bánh mì Mỹ”. Tôi còn nhớ đó là sữa hiệu Foremost để vào ly nhựa màu xanh lá cây, có in chữ f màu trắng thật to. Ông anh Năm của tôi, lớn hơn tôi vài tuổi, buổi sáng hay dúi vào tay tôi cái bao đựng cơm sấy của quân đội (đã dùng xong), dặn dò: “ Nếu em uống sữa không hết, nhớ bỏ vào bao đem về cho anh, nghe chưa! Sữa Mỹ thơm lắm, bỏ uổng!”.
Lần đó, năm học lớp Ba, chúng tôi được Giáo Sư Nhạc Sỹ Lê Văn Khoa đến trường dạy một vài tiết mục múa hát để quay trên Tivi. Tôi nhõng nhẽo đòi Má sắm cho tôi đôi giầy Bata mới toanh, mua thêm cái váy xanh áo trắng để tôi …lên sóng. Đến ngày lên Đài Truyền Hình, thầy Hiệu Trưởng cho một chiếc xe cam nhông chở cả đoàn diễn viên nhí tới Đài, cho ăn uống bồi dưỡng trên xe, thật vui. Buổi chiều thâu hình xong, xe chở về lại trường, mấy anh lính ra bế từng đứa xuống xe, có phụ huynh chờ sẵn. Riêng tôi chưa thấy người nhà thì thầy Hiệu Trưởng nắm tay tôi:
“Bé Tẹt em cô Thanh bán cà phê đây mà, để chút Thầy đưa về!”.
Tôi bé tí, nhưng cũng biết bắt chước mấy người lớn trong xóm, trả lời:
“Dạ, cám ơn chú…Thiếu Tá!”

Miền Nam bị “giải phóng” khi tôi chưa đầy 9 tuổi, nhưng những kỷ niệm ngọt ngào của những ngày tháng thanh bình (trong thời loạn) chưa hề phai nhoà. Bên cạnh những ký ức êm đềm khi đi học như vừa kể ở trên, còn là những ngày nghỉ hè, tôi đòi Má cho dậy sớm lúc 4 giờ sáng, để xem Má đổ sữa đặc vào từng ly, khoảng vài chục cái như vậy, rồi bỏ cà phê vào vợt, chuẩn bị đón những vị khách đầu tiên. Họ là những công nhân hoặc lính tráng của những trại lính xung quanh.
Là những ngày Tết nắng rực vàng, tôi mặc quần áo mới, đứng khép nép nơi bàn Ba tôi uống trà ăn mứt với khách, đợi tiền lì xì, rồi chạy xuống bếp tìm món thịt đông và chè kho, chạy qua phòng khách còn nghe tivi đang mở bài ca Xuân bất hủ: “ Chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành, sáng cuộc đời lành, mừng người vì nước quên thân mình ..”
Là những buổi chiều, lũ trẻ con chúng tôi được người khách quen của quán, trong bộ quân phục oai hùng của quân lực VNCH, đưa cả đám lên xe chiếc Jeep còn vương bụi bặm hành quân hoặc bùn lầy thao trường, chạy một vòng quanh khu phố.
Là những người lính đủ cấp bậc, đủ màu da (vì còn có lính Mỹ, Đại Hàn, Philippines …) vào quán nhà tôi uống bia Con Cọp, điếu thuốc Capstan trên tay, với ánh mắt buồn vui bất chợt mà đứa trẻ đa sầu đa cảm như tôi cũng mơ hồ hiểu được.
Và chẳng hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, buổi trưa hôm ấy, tôi theo Má trên chuyến xe lam đi Chợ Cầu dự đám tang gia đình một người quen vừa có người con tử trận tại trận địa Phước Long. Chiếc xe lam dừng tại Trung Chánh đón khách, trong tiếng ồn ào hỗn độn mời chào mua bán, một giọng hát ma mị từ chiếc radio của quán nước gần đó, rót vào hồn tôi và ở lại cho đến tận bây giờ, đầy cảm xúc chơi vơi:
“Mùa hè năm nay, anh sẽ đưa em rời phố thị đôi ngày …”.
Có lẽ đó là chút gam màu xám buồn trên bức tranh rực rỡ “Miền Nam Mến Yêu” của tuổi thơ, tôi nguyện sẽ ôm ấp suốt cuộc đời này!

Tháng Tư Đen 2021

KIM LOAN


THƯ GỬI CHỒNG CẢI TẠO

Anh ạ, từ khi anh vắng nhà
Hộ khẩu bốn người, nay còn ba
Gạo châu củi quế, đời vất vả
Thương lắm con thơ, tội mẹ già

Sổ lương thực, mỗi người 9 ký
Vừa gạo, vừa khoai, vừa bo bo
Qua ngày đoạn tháng đời dâu bể
Em chạy chợ trời, cũng tạm no

Mua miếng thịt, mớ rau, khúc củi
Xếp hàng cả ngày, vã mồ hôi
Cô mậu dịch bán hàng phách lối
Mặt xỉa mày sưng. Khổ thêm thôi

Chắt chiu, dành dụm chờ thăm nuôi
Tóp mỡ, tôm khô, nếp nấu xôi…
Lệnh đổi tiền bất ngờ giáng xuống
Mất hết gia tài rồi anh ơi

Bạn bè, người thân ít gặp nhau
Vì ai cũng đang mang nặng sầu
Thỉnh thoảng nghe tin người “đi thoát”
Mừng giùm họ, em lại ước ao

Đánh tư sản, rồi kinh tế mới
Xô đẩy bao thân phận lao đao
Chết tức tưởi trên rừng dưới suối
Em ngậm ngùi lo sợ mai sau

Công an khu vực, mắt cú vọ
Tạm trú tạm vắng, rình ngày đêm
Mỗi tháng hội họp tổ dân phố
Khủng bố tinh thần đám dân đen

Chân yếu tay mềm, nào yên thân
Phải đi thuỷ lợi, phải đào kênh
Con khóc, con đau cũng đành chịu
Bởi vì “lao động là quang vinh”

Mẹ già héo hon, rồi đổ bệnh
“Xuyên tâm liên” uống mãi chẳng lành
Mẹ xuôi tay một chiều mưa lạnh
Hơi thở sắp tàn, kêu tên anh

Và còn bao nhiêu điều khác nữa
Em không thể kể hết ra đây
Địa ngục trần gian đang vây bủa
Đồng bào Miền Nam trong đắng cay

Anh đọc thư này cẩn thận nha
Công em dấu kỹ trong gói quà
Quản giáo bắt được thì mệt đấy:
Vợ phản động! Chồng đi mút mùa!

Mai mốt em lại gửi thư “chui”
Nói hết những cảnh khổ khắp nơi
Anh cứ làm bộ “học tập tốt”
Chờ đọc thư em kể chuyện đời!

Edmonton Tháng 4 Đen 2020

KIM LOAN

Ý HỢP TÂM ĐẦU LÀ ĐÔI TA

Nhận thư anh, em đọc một mạch
Chưa kịp cảm ơn người đưa tin
Dân mình mến thương tù “cải tạo”
Nhiệt tình chuyển giúp dù không quen

Ý hợp tâm đầu, là đôi ta
“Giải phóng” vào, tan cửa nát nhà
Anh trong tù nhỏ, đành câm nín
Tù lớn ngoài đời, em xông pha

Tai hoạ ập xuống khắp Miền Nam
Nào đâu một mình em gian nan
Lá ngọc cành vàng, em đã trải
Giờ phải đổi thay, em sẵn sàng

Nên em đảm đang lắm anh ơi
Sáng cơm nước xong, chạy chợ trời
Bám trụ Nguyễn Thông, Huỳnh Thúc Kháng
Vài hộp thuốc tây bán kiếm lời

Họp tổ dân phố, em có mặt
Gật gù “đường lối” với “chủ trương”
Giơ tay “nhất trí” và “đồng ý”
Tranh cãi làm gì. Thời nhiễu nhương

Thuỷ lợi đắp đê, em không ngại
Đạt “chỉ tiêu” vỡ đất, đào kinh
Người ta làm sao, em làm vậy
Để khỏi bị “kiểm điểm, phê bình”

Đêm đêm giấc ngủ chưa tìm đến
Em mở băng cũ nghe nhạc vàng
Những tình khúc lãng mạn thời chiến
Một thuở Sài Gòn em với anh

Ngày mai trở dậy, lại lo toan
Chầu chực mua gạo, mua khoai lang
Anh đừng lo sợ em vất vả
Em đã biết “Cả Ngày Xếp Hàng”

Em vui vì biết anh nơi ấy
Không cúi đầu, không làm “ăng-ten”
Không bán anh em, không nịnh bợ
Giữa cuộc đổi đời, trắng thay đen

Phút nghỉ ngơi trong giờ lao động
Nhìn mây trời thương nhớ vợ, con
Anh đã nuốt vào lòng tiếng khóc
Buồn riêng và buồn chung nước non

Khinh thường bọn quản giáo, cán ngố
Dốt đặc cán mai, giỏi trả thù
Ngạo mạn cười lũ khỉ lên phố
Anh ung dung giữa chốn lao tù

Đợi em nhé, lần thăm nuôi tới
Mình lại gặp nhau, lén trao thơ
Anh cứ giả vờ “học tập tốt”
Thế giới bên ngoài để em lo

Chồng ở một nơi, vợ một nơi
Vẫn gần dù khoảng cách xa xôi
Vẫn nhắn nhủ nhau cùng “phản động”
Hai đứa mình thật là xứng đôi!

Edmonton, Tháng Tư Đen 

KIM LOAN

3. ĐOÀN XUÂN THU: Thơ: Lời thầy dạy!

Lời thầy dạy!

Con xa trường, chữ không đầy lá mít,

học ít, chơi nhiều, hiểu chẳng bao nhiêu,

rơi rớt hết, chỉ một điều, con nhớ:

“Nhân chi sơ tính bản thiện!” thầy khuyên!

Lời thầy dạy, hành trang, cuộc binh đao,

nơi máu đào, sao tìm ra cái thiện?

ai gây chiến tranh giống nòi dân Việt?

gọi đồng bào! sao mải miết giết nhau?

Con đã qua biết bao nhiêu làng, xóm,

đâu giọng ầu ơ, đâu tiếng học bài?

em thơ dại, võng đưa vào cõi chết,

ca dao buồn, ru sao hết bi ai!

Con đã qua bao giáo đường đổ nát,

duy chỉ còn ngơ ngác gác lầu chuông,

chuông gọi hồn ai? chiều thôi óng ả,

Chúa gục đầu, nhỏ máu, khóc tang thương!

Con đã qua bao ngôi trường đổ nát,

duy chỉ còn ngơ ngác trống trường xưa,

vết xé, đạn thù, tanh bành mặt trống

thì làm sao con gọi bạn tựu trường?!

Tháng Tư đau thương tìm về trường cũ,

cái thiện đâu? khi nước mất, nhà tan

lời thánh hiền, phấn, bảng, thầy ngã xuống!

cái thiện thua rồi, cái ác vênh vang!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

4. KIÊN GIANG TIỂU THƯ: Truyện: Tháng Tư, niềm đau còn đó

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TL_ThangTu.JPG

Tháng Tư, niềm đau còn đó

 

Cái thùng sắt cũ, bên ngoài đã rỉ sét vài nơi. Nó nằm ở một nơi thật khuất của tầng Basement. Bụi phủ một lớp thật dầy trên mặt, chắc cũng lâu lắm rồi chẳng ai buồn mở đến nó. Thế mà sáng hôm nay hai đứa con gái tôi dọn dẹp nhà cửa, tự nhiên hai chị em nó khệ nệ rinh cái thùng ra, và tôi nghe  loáng thoáng tiếng con Ty nói với em nó:  

- Đồ gì không hà,  My nói với Mẹ mình đem bỏ thùng rác đi. 


Tôi hốt hoảng chạy xuống. Thấy Mẹ, con My nhanh nhẩu đưa tay chỉ cái thùng và lên tiếng:

- Mẹ, con đem cái thùng nầy ra garbage nghe Mẹ, toàn là cái gì không hà. Sao Mẹ keep nó làm chi vậy. 


Tôi giật thật mạnh cái thùng từ tay con bé. Tôi nói lắp ba lắp bấp, nghèn nghẹn: 

- Con bỏ cái gì thì bỏ. Còn cái thùng kia và tất cả đồ đạc trong đó giữ nguyên cho Mẹ. 


Nhìn thấy cái cảm xúc tột cùng của Mẹ, hai chị em nó lấm lét đưa mắt nhìn nhau. Chừng như tụi nó không hiểu chuyện gì liên quan giữa Mẹ nó với cái thùng sắt cũ kỹ nầy. Con Ty khẽ bảo:

- Mấy cái đồ trong thùng cũ quá rồi. Còn dùng được nữa đâu. Mẹ để chi cho chật nhà. Như cái khăn nầy Mẹ coi nè... Vừa nói nó vừa kéo cái khăn trong thùng ra.


 Lâu ngày mùi ẩm mốc xông lên làm con bé quay mặt đi. Tôi ngồi bệt xuống. Hai tay ôm lấy đầu. Nước mắt ứa ra.Tay thẫn thờ ve vuốt từ cái nón, từ cái khăn mặt, từ bộ đồ hôm từ giã quê nhà trốn chui trốn nhũi  xuống tàu để ra đi. Tôi run run cầm cây muỗng ăn cơm hồi ở trại, cây muỗng mà  đêm tối để chuẩn bị sáng mai xuống tàu Má đã cẩn thận nhét vào túi xách. Má vừa sắp đồ mà nước mắt Má giọt ngắn giọt dài tuôn chảy. Má nói:

- Đem theo để sang bên đó có cái muỗng mà ăn cơm con ơi.

 

Tất cả vẫn còn đó. Như chứng tích của một đoạn đời nghiệt ngã đã qua. Tại sao tôi không quên hết đoạn đường giông bão ngày nào mà ngay lúc nầy bao nhiêu hình ảnh năm xưa hiện về và về thật rõ hơn bao giờ hết ....

 

 .... Cuối cùng rồi tàu cũng cập bến Mã Lai. Bến bờ đầu tiên tôi đến trên đường đi tìm Tự Do. Đây là một căn cứ của một trạm lính cũ. Nghe mọi người bảo vậy. Đầu óc tôi choáng váng. Lúc nầy một nỗi lo sợ tột cùng vây kín tôi. Trời ơi mới đó mà tôi đã thực sự xa hẳn quê hương tôi rồi sao? và tôi sẽ đi về đâu trong những tháng ngày sắp tới. Tôi bơ vơ hơn lúc nào hết và lúc nầy tôi thèm được úp mặt vào lòng Má và khóc. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà trong hoàn cảnh như thế nầy? mới buổi sáng cách đây mấy ngày còn thấy Má , còn cầm tay Má, còn nghe giọng nói nghẹn ngào của Má trong buổi sáng sớm lên đường.

- Con ơi! thôi con ở lại đi con đi Má khổ lắm. Để các em con đi một mình được mà. Tôi đã nao lòng khi nhìn những giọt lệ đầm đìa trên khuôn mặt người Mẹ thân yêu đã một đời vì con và trong lúc nầy đứa con như đã sắp rời bỏ vòng tay mình mà đi và ngày về biết đến bao giờ.

 Thế mà mới đó mà giờ đây ngàn trùng cách biệt. Tôi đang đứng trên đất trời của quê người. Tôi đã ở tại trại lính Mã Lai nầy hai ngày rồi. Hai ngày mà tưởng chừng như dài cả thế kỷ. Mấy ngày đến đây thần trí tôi như mù mờ nửa tỉnh nửa mê. Đàn bà con gái được ưu tiên cho vào trạm mà ngủ song chỉ chen chúc ngồi mà ngủ vì căn phòng nhỏ xíu mà số người con nít đàn bà đã gần 20 người. Hai ngày nay từ lúc trên tàu xuống đến giờ  tôi không ăn gì cả. Mà thực ra có gì mà ăn đâu. Đồ ăn đem theo của chủ tàu có lẽ còn nhiều song lúc nầy hình như sự chia sớt khó mà có nữa. Ai cũng phòng thân mình, còn đâu mà nghĩ tới kẻ khác. Hôm mới đến, cả tàu được mấy anh lính Mã Lai cho mấy hộp cá mòi nhỏ xíu. Mấy hộp cá bỏ vào soong cho thêm nước và muối làm sao mà chia đủ cho 49 người trên tàu. Thiên hạ tranh nhau giành giựt lẫn nhau vì miếng ăn la ó, chửi bới um sùm. Chưa bao giờ tôi chạm phải hoàn cảnh khốn cùng như lúc nầy.Tôi ngồi yên ở một góc phòng và khóc. Một  cô bé học trò cũ đến đây có lẽ từ mấy ngày trước  đem đến cho cô giáo chén cơm nhỏ xíu khoảng mấy muỗng và có một miếng cá mòi nhợt nhạt màu. Cô bé khẽ cầm tay tôi ngập ngừng  trao chén cơm và nói:

- Cô rán ăn một chút đi cô. Em rán tranh lấy được một chút cho Cô. Mấy ngày nay em thấy cô có ăn gì đâu. Đừng buồn nữa Cô. Em biết cô khổ lắm.

Tôi ôm chầm lấy em và nức nở khóc. Tôi tủi thân hơn lúc nào hết.

Con bé lấy khăn lau nước mắt cho cô giáo, chợt hỏi tôi: 

- Cô đi có một mình sao Cô?

Tôi thuật em nghe chuyến rời quê hương mấy ngày trước, chị em tôi lạc mất nhau, các em tôi đi từ buổi chiều hôm trước. Tôi còn nán lại để lãnh lương sau cùng  cuả tháng để lại cho má tôi. Bao nhiêu vàng vòng đều bán sạch để mua chỗ cho mấy chị em tôi. Tôi đi rồi má tôi mới sống làm sao đây...Khi tôi lên được tàu lớn thì chẳng thấy bóng dáng tụi nó đâu cả. Trên tàu kẻ lạc vợ, kẻ lạc chồng song tàu phải đi thôi không thể quay về. Con bé học trò cũng kể lễ:

- Em cũng lạc má em. Không biết má em có bị bắt không?

Vừa nói nó đưa tay quẹt nước mắt, thút thít khóc. Con bé đến đây một mình. Tôi cũng một mình. Cô trò tôi  gặp nhau trong hoàn cảnh đáng thương cùng cực  nơi đất trời lạ xa nầy. 

TL_Tau.jpg

Mấy ngày sau chúng tôi được chuyển sang trại Cây Dương, nơi đây rộng rãi hơn, nhưng chỉ cây là cây, không một bóng nhà. Thì ra đây cũng là một hòn đảo không người ở. Cô trò tôi theo người ta đi kéo lá về cất nhà để ở. Chẳng mấy chốc mà các túp lều che nắng che mưa được dựng lên để  mọi người có chỗ trú thân. Tôi kêu em về ở chung với tôi cho có bạn. Dù sao cô trò tôi cũng còn có nhau nương nhau để mà sống. Sáng nào hai cô trò cũng len lỏi vào rừng tìm coi có rau gì ăn được thì hái. Có lần gặp được một rừng rau dềnh. Tôi mừng quá đưa tay ngắt một lá và ngửi. Thì ra đúng y chang là mùi rau dềnh . Tôi mừng quá, kêu lên:

- Rau dềnh em ơi.

 Song là loại rau dềnh dại, không phải loại được trông nên màu xanh và hơi có lông chứ không màu tím thẫm như ở bên nhà. Hôm ấy sau thành quả hái được cô trò tôi ăn rau dềnh  luộc một bữa no nê từ sáng đến chiều. Nhớ lúc ăn con bé học trò chừng   như sợ sợ. Con bé  nói:

- Không biết phải rau dềnh không cô. Mùi thì y chang. Hỏng biết mình ăn có sao không nữa?

Tôi cười và bảo:

- Có sao  mai không thức dậy thì biết liền. Giờ thì tất cả đã vào trong bụng rồi. Sợ chi cho mệt hả em ?

Hơn 1/2 tháng không một cọng rau trong người nên mặc dù nói thế cô trò tôi chẳng mấy chốc thanh toán sạch sành sanh hết soong rau luộc.

Sáng hôm sau thức dậy mới biết không sao, mới biết là mình còn sống. Con nhỏ học trò cười khúc khích khi thức dậy và bảo:

- Cô với em gan thiệt, nhưng không sao cô há. Mai mình đi lại chỗ đó hái nữa nghe Cô ...

 

 Rồi cũng không có dịp đi hái rau dềnh lần nữa, chúng tôi được dời sang trại chính thức Cheratin trên đất liền. Nơi đây có chỗ sẵn để ở và Cao Uỷ Tị Nạn sẽ đến để phỏng vấn và bốc đi định cự Hình như là một căn cứ quân sự cũ của Mã Lai nên không phải lo việc cất nhà như bên Cây Dương. Thực phẩm được Hội hồng thập tự cung cấp, mỗi tuần có rau tươi, thịt tươi. Đời sống tương đối hơn, có miếng ăn để mà sống. Ai có tiền có thể nhờ tụi lính Mã Lai mua đồ bên ngoài vào ăn. Các thùng Supply cho người tị nạn thì là đồ hộp. Thùng nào may mắn có mì gói lúc đó là niềm hạnh phúc vô cùng. Chiều chiều cô trò tôi theo người trong trại xuống bến đón những thuyền mới tới hy vọng xem có gặp được người thân của mình. Hôm nay có một thuyền vừa cập bến. Mọi người nhốn nháo đổ xô xuống bến tìm người. Người từ tàu lần lượt lên đất liền như những bóng ma từ cõi chết trở về. Từng người , từng người  một. Không có em tôi. Người cuối cùng trong đoàn người trên taù lên là một cô gái  rất trẻ khoảng 18 thôi. Khuôn mặt em còn đầy nhừng nét kinh hoàng. Em đi như không vững , vừa đến bờ em quỵ xuống bất tỉnh. Người ta vây chung quanh em, đỡ em và  đưa em về bệnh xá. Tôi nghe loáng thoáng ai nói sau lưng "Tội nghiệp .Con nhỏ đó bị hải tặc ...".Tôi nghe mà rưng rưng, thương cho thân phận nữ nhi trong cảnh nước mất nhà tan. Sau hôm đó tôi đi tìm em tôi đem em về ở chung với tôi. Tôi vỗ về ẹm. Tôi săn sóc những  vết đau  còn trên thân thể em. Chiều nào cũng vậy, em một mình  ra bờ biển em ngồi. Em khóc. Có lần em bảo tôi  em muốn tự tử mà chết  để quên chuyện nhục nhằn đã  qua cho trọn với người tình ở lại. 

Em khóc mà bảo rằng:

- Em khổ lắm, không còn gì nữa cô ơi. 
Tôi vuốt tóc em, dịu dàng nói:
- Can đảm lên em ơi. Cả một đất nước điêu linh, không riêng gì chúng mình đâu em.


Rồi cuối cùng tôi cũng đi định cư. Em ở lại chờ giấy bảo lãnh. Nghe tôi xin đi Canada người ta hù tôi đủ chuyện nào là  bên ấy lạnh lắm sẽ chết chịu không nổi đâu. Bước xuống máy bay thở ra là đã đông thành nước đá song tôi bình thản vô cùng và tôi nghĩ rằng người ta ở được thì mình ở được và bất cứ nơi nào cũng khá hơn nơi chốn mà tôi đã bỏ đi, và trong tàu đi tôi là người đi định cư đầu tiên vì ai cũng chờ để đi Mỹ. Hôm từ giã để chia tay lên đường mỗi người mỗi ngã, ai cũng không cầm được nước mắt . 

 

Thế mà hơn bốn  mươi năm trôi qua. Chuyện ngày xưa của gần nửa thế kỷ qua như mới ngày nào.  Bao giờ cho tôi quên đây . Tôi mân mê từng kỷ vật còn lại của quãng đường đi tìm tự do ngày nào.... Từ  cái mũ đen. Từ Chiếc áo bà ba màu trắng ngày nào  đã vàng theo năm tháng, cái áo màu gạch tôm có thêu hoa cúc của em học trò tặng tôi hôm tôi lên đường định cự. Tôi nhớ hoài buổi tối hôm đó khi em ngập ngừng đến lều tôi ở trao chiếc áo cho tôi  mà nghẹn ngào nói:

- Mai cô đi rồi không biết có lần Thầy Trò gặp lại. Em có chiếc áo nầy em mang theo lúc vượt biên. Em xin tặng Cô để cô mặc tươm tất hơn bữa cô lên phi cơ nghe Cô, để mỗi lần cô thấy Nó cô nhớ đến em . Đó là Mai Xuân cô bé học trò Lâm Quang Ky  con của Cô giáo Mai trường Nam Tiểu Học ngày nào. Bây giờ 40 năm sau chiếc áo vẫn còn đây mà người học trò xưa  đã ra người thiên cổ bên trời viễn xứ ...

 

Con gái tôi ngồi yên lặng nảy giờ nghe Mẹ trầm buồn kể cho con nghe chuyện thật thương tâm mà đây là lần đâù con được nghe. Tôi thấy có giọt lệ nào đong đầy trên khóe mắt con tôi. Con tôi nắm tay Mẹ như san sẻ cùng Mẹ nỗi buồn mà người mang theo từ bao năm qua. Con nhẹ nhàng xếp lại những món đồ kỷ niệm của Mẹ vào thùng như cũ. Con khẽ bảo:

- Con hiểu rồi Mẹ. Con xin lỗi đã vô ý làm Mẹ buồn. 

Tôi ôm con tôi và tôi chạnh nhớ người con gái chiều nao trong chuyến đi định mệnh của em. Ngày ấy em cùng trạc tuổi con gái tôi lúc nầy. Không biết bây giờ người em gái năm xưa ra sao? Em ở đâu? em có hạnh phúc bên chồng con và  còn nhớ gì chuyện đau thương ngày cũ ...


Em còn nhớ không em?
Tháng tư ơi! Niềm đau ngày nào vẫn còn đó trong tôi.

TL_ThangTu_girlwalkinginrain.jpg

Kiên Giang Tiểu Thư

5. ANH TÚ: Thơ: Từ thuở đó

TỪ THUỞ ĐÓ...

 

Thuở nào tháng tư nắng nồng nhắc nhớ

Hè về phượng hồng rợp bóng sân trường

Gắng ôn bài thi cuối năm tròn điểm

Thầy cô khen và cha mẹ trọn thương

 

Nôn nóng chờ ba tháng hè hào hứng

Lãng mạn chia tay giã bộ luyến lưu

Với ai đó rưng rưng ghi lưu bút

Ngây ngô vào vai Chức Nữ Chàng Ngưu.

****

Thuở nào tháng tư, xuân còn quanh quẩn

Bảo giông bất ngờ cuồng nộ cuốn phăng

Ngày nắng mặt trời buồn không muốn chiếu

Đêm âm u sầu trăng lắm sao băng.

 

Từ thuở đó tháng tư luôn ảm đạm

Riêng mình tôi, thử hỏi có còn ai?

Dầu khi vui vẫn thấy màu bi thảm

Vết thương lòng này! Miên viễn không phai?

 

Anh Tú

Tháng Tư 2021

AnhTu_TuThuoDo.JPG

6. KIM OANH: Truyện: Thiên thu ngời sáng

KimOanh_soldiers.JPG

 - Con thức dậy đi con.

Mới 6 tuổi đầu, ăn chưa no lo chưa tới cho dù trời sập cũng không hay, mà má con bé cứ gọi nó thức hoài….

- Con ơi, dậy đi con, lẹ lên.

- Má ơi, con buồn ngủ quá.

- Dậy đốt đèn học bài đi con.

- Con học thuộc hết rồi má ơi, để sáng con dậy ôn lại.

Lăn qua trở lại trong tiếng trả lời nhừa nhựa, má con bé cũng cố nài nỉ …. kề bên tai nó.

- Dậy đốt đèn lên, lính đi hành quân về kìa con. Con dậy đốt đèn để người ta biết mình còn thức mà gõ cửa.

- Má nói Ba đi má, 

- Hổng được đâu con, ba con làm vậy ông kẹ bắt ba đi đó. 

 

Tiếng thì thào nhỏ xíu trong tai con bé, nhưng lần này con bé vùng ngồi dậy khi nghe hai tiếng “ông kẹ” nó sợ điếng hồn. Thì ra không sợ ông Trời sập mà con bé sợ ông Kẹ sao?!

- Mà chi vậy má?

- Con biết không con đốt đèn đem ra phòng khách ngồi, đọc bài cho lớn tiếng, để các chú lính biết nhà mình còn thức, họ mới dám gõ cửa xin nấu cơm nhờ nghen con. Tội nghiệp họ lắm khuya khoắt mà bụng dạ không có hột cơm…..

KimOanh_GMC.JPG

Con bé tỉnh táo ngay, nhanh chân thọt đôi guốc và đi đốt đèn, làm y như lời má nói. 

Trong ngôi làng Trung Ngãi nhỏ, mới 8 giờ tối đã yên giấc, xe nhà binh đổ quân về, tiếng hô tập họp điểm danh nghe…rụp…rụp…. ở nhà lồng chợ rõ mồn một. 

Đấy là lần thứ ba lính về làng và đến nhà con bé gõ cửa, mở cửa ra, nhìn những gương mặt quen thuộc của lần trước, nên chẳng những gia đình mà con bé cũng vui mừng khôn tả, như mỗi mùa hè anh chị nó từ tỉnh về, được dịp vòi vĩnh bánh kẹo và nghe chuyện cổ tích ngày xưa.

- Dạ, chào hai bác.

- Dạ, chào các cháu. Tiếng cậu lần đầu đã thay vào tiếng cháu thân thiết.

- Hai bác làm ơn cho chúng cháu tá túc ngoài hiên và cho xin chút lửa củi nấu cơm được không bác.

Trung Uý Hùng vừa hỏi, tay xoa đầu con bé. Các anh khác cũng cười tươi và nhìn con bé trìu mến.

- Các cháu cứ tự nhiên, tối nay bác không khoá cửa, để các cháu có thể sử dụng nhà bếp với giếng nước sân sau.

- Cám ơn hai bác nhiều.

 

Chưa kịp xoay lưng đi, má con bé hạ giọng nói nhỏ, các cháu cứ đốt củi lên cho có khói đi, khỏi nấu gì hết.( vì sợ bên kia biết được thì nguy) Hai bác có sẵn cơm và thức ăn đó nghen.

Trong ánh mắt ngạc nhiên, con bé ra dấu cho chú lính cúi xuống thì thầm “ Anh biết không, hồi nãy lúc các anh vừa xuống xe, ba em đốt lò dầu nấu cơm hết rồi”

Các anh phì cười, vuốt tóc con bé và khen ngoan.

- Mà sao em thức khuya vậy?

Con bé lại làm ra vẻ quan trọng, “ em ngủ rồi nhưng ba má kêu em dậy đốt đèn làm bộ học vì sợ các anh không dám gọi cửa đó chứ”. Ánh mắt các anh nhìn ba má con bé chứa chan lòng biết ơn và xúc động.

- Thôi các cháu ra giếng tắm rửa đi rồi ăn kẻo đói.

Sau khi ăn xong, má con bé lấy những chiếc gối thêu trắng tinh để dành cho khách đến nhà ngủ qua đêm, sắp sẵn trên hai bộ đi-văn ở nhà khách và nhà ngang cho các anh ngả lưng. Nhưng các anh từ chối vì không được phép vào nhà dân ngủ. Chỉ tá túc ở hàng ba.

- Các cháu cứ tự nhiên đi, cực khổ lắm rồi về được nhà thì cứ hưởng chút nào hay chút đó đi các cháu.

 

Bắt đầu từ đêm đó cho những đêm khác, con nít được tha hồ chơi giỡn mà không sợ “ông kẹ’ nào, đi học qua cầu Giồng Ké không phập phồng mìn nổ, không lo súng đụng độ ở Phú Tiên, bỏ lớp bò càng tránh lằn đạn oan nghiệt.

KimOanh_soldiers_2.JPG

Lần đóng quân này, vào dịp hè, nên các chị của con bé từ Vĩnh Long về nghỉ hè, phụ ba má trông em, nên con bé được các anh cưng gấp bội. Nhưng cũng cực hơn vì làm con én đưa thư…

Con bé hồi đó nhỏ xíu có biết gì, các anh bảo đưa thư cho chị rồi cho bé quà, quà mà con bé thích nhất là phần lương thực khô của các anh…hi..hi…

Mà rầu nhứt là thư các anh đi mà thư chị thì không về (ngày xưa nhát quá mà), nên con bé bị các anh hạch hỏi đủ điều, làm con bé không được nhảy dây, chơi chòi với bạn. 

 

Trong trí nhớ nhỏ của con bé thời ấy, Trung Úy Hùng đưa thư cho chị Ba, chị không trả lời là con bé bị kềm chân không được đi, cho đến lúc chị ba đi tìm bé kèm tiếng Pháp… thì Trung Úy Hùng mới được dịp trò chuyện với chị. Mà hai người nói gì con bé có hiểu đâu, anh chị nói toàn tiếng Pháp không hà.

Anh Thy thổi kèn tập họp thì để ý chi Năm.Chú Lùn ( bị gọi vậy luôn) trên cánh tay xăm chữ “ Xa quê hương nhớ Mẹ hiền”, chú Lùn để ý chị Sáu, chú hay hát vọng cổ vì chú thích nghệ sĩ Mỹ Châu. Chú rút tấm hình trong túi nói “anh thích chị Sáu cũng như vầy nè….”

Anh Bá thì thương con nhỏ nhứt, mỗi chiều con bé chơi nhảy cò cò hay nhảy dây đều nghe anh nói với má con bé.

- Bác biết không, con ao ước khi nào giải ngũ, có gia đình được một đứa con ngoan và xinh như con bé, con cưng hết biết luôn. (làm con bé mắc cỡ đỏ mặt)

Anh Bá thường kể chuyện đời xưa cho con bé nghe, anh Nhuận,Trung Sĩ già (các anh gọi vậy đó) dạy con nít hát, kể chuyện vui.

 

Mấy người hàng xóm nói má con bé.

- Chị Mười gan nhe, nhà chị con gái lớn hết mà chị cho lính ở, không sợ sao?

- Sợ gì, mấy cậu đó hiền khô và họ đàng hoàng lắm. Có họ về làng mình đâu có nhà nào đóng cửa, đâu có trộm cắp. Ban đêm ngủ ngon giấc tới sáng béc mà. Phải không?

- Ờ hé, chị Mười nói tụi tui mới để ý nghen.

 

Mà thật có sai đâu, các anh lính Sư Đoàn 9 Bộ Binh ấy rất hiền lành, có ăn học, còn rất trẻ, lòng hy sinh vô bờ bến đối với Quốc gia dân tộc. Hình ảnh ấy, ai mà không ngưỡng mộ chứ!

Làng có các anh về, trẻ con được cắp sách đến trường không lo lắng. Người dân buôn bán tấp nập không sợ sệt. Một cảnh sắc an bình và đầy sức sống. 

 

Sáng sáng ba má con bé dậy rất sớm, làm đủ thứ bánh để các anh ăn sáng, các anh ngại ngần từ chối nhưng làm sao từ chối được tấm lòng yêu lính của ba má con bé.

Mà lúc nào má con bé cũng nhắc “ các cháu thay phiên vào nhà ăn đừng ăn ngoài sân, kẻo không các cháu đi rồi, bác trai bị nguy” 

Ngày các anh đi, lúc nào cũng có những túi lương thực khô ba má con nhỏ làm sẵn nhét vào ba lô các anh đi. Túi gạo rang ngào đường, tôm khô, muối tiêu rang, nấm rơm phơi khô….

Con bé thì được các anh nhét vào tay bánh kẹo…vui nhiều mà buồn không ít…

 

Từ những năm 66 trở về sau, lúc nào con bé cũng nghe những điệp khúc mà ba má thường nói với con “Đời lính chiến sống nay chết mai, phải thương họ nhe con. Ra đi vậy đó chớ không biết có trở về không. Mình phải biết nhớ ơn họ nhe các con”

KimOanh_soldiers_3.JPG

Thời gian trôi… trôi đi con bé trở thành thiếu nữ, những hình ảnh người lính in đậm trong trái tim và khối óc của nó, con bé đã yêu lính tự bao giờ. Đêm đêm học bài bên chiếc radio, chương trình Dạ Lan đã mang những người lính từ rừng sâu, nước đọng đến gần con bé hơn. Dù những người chưa biết mặt biết tên, nhưng tình yêu vô hình ấy đã làm tâm hồn cô bé dậy thì những nỗi nhớ và niềm thương vương vấn.

Chương trình nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi của Nhật Trường cũng đã khơi vào lòng con bé những hình ảnh hiên ngang và anh dũng của các anh. Họ là thư sinh sớm rời ghế nhà trường, hy sinh tuổi trẻ, ước mơ, lặn lội bùn sình nơi rừng thiêng nước độc mang ấm no, an bình cho mọi người. Hình ảnh Người Lính Việt Nam Cộng Hòa kiên cường, bất khuất đã khắc sâu vào lòng con bé một cách mãnh liệt.

Thơ gửi ra chiến trường từ căn lớp nhỏ cũng đủ ấp ủ giấc mơ hồng của người em gái nhỏ hậu phương.


Rồi mai nếu ... anh không về nữa
Em bên thềm tựa cửa chờ trông
Bức thơ xưa nét bút viết rong
Trong ngăn cặp một thời áo trắng

 

 

Nhờ các anh mà quê hương thanh bình, con bé được hai buổi đến trường, áo lụa quần là, cặp sách vui vẻ hồn nhiên. Má thấy con gái lớn lên thường nhắc nhở “ Con gái lớn rồi, ra đường có bị lính chọc đừng khinh chê người ta nghen con, mỗi khi họ đi hành quân về có chọc ghẹo là lẽ thường, cho họ xã căng thẳng đi”

 

Tấm lòng của ba má cũng thấm dần vào tấm lòng của chị em con bé… từ từ lớn dần và lớn dần theo thời gian, không bao giờ phai nhạt.

Tiếc là sau trận Tết Mậu Thân, làng cháy rụi ra tro, gia đình con bé bỏ làng ra đi, không còn được gặp các anh và nghe được tiếng nói cười trìu mến xa xưa. các anh không còn được ba má con bé chăm sóc ân cần sau những buổi hành quân trở về. Hay trước phút lên đường.

 

Rồi nếu mai ... anh không về nữa
Con đường xưa im vắng bước chân
Người dần xa... tình vẫn rất gần
Nghe hơi thở lâng lâng nỗi nhớ
………………
Nếu ngày mai... anh không về nữa
Tình bạc đầu.. gõ cửa thiên thu!!!

KimOanh_nghiatrangQD.JPG

Tháng Tư 1975, tình cảm ấy càng đậm nét hơn, niềm mơ ước của con bé vẫn mong tìm được người bạn tâm đầu là lính Cộng Hòa xưa.Dù họ đã ngã ngựa, không còn gì nhưng họ lại có tất cả nét kiêu hùng và trọn tình với Tổ Quốc với toàn dân. 

Ngày Ba má sắp ra đi, vẫn ao ước nói với các con,“ ráng có dịp tìm lại được mấy người lính hồi xưa đóng quân ở nhà mình nghen con, không biết bây giờ sống chết ra sao.” Sau câu nói của má là tiếng chép miệng thở dài não nuột…. đôi mắt buồn xa xăm…..

 

Tình thương yêu tha thiết ấy, nên mỗi tháng Tư về lòng đau thật là đau. Nghe đoạn nhạc, đọc lời văn, câu thơ, xem hình ảnh nói về các anh, những ngày tháng gian nguy của các anh, không thể cầm được nước mắt… nghẹn ngào….

 

Thật không biết giờ đây các anh ấy ở đâu và có còn không? Hy vọng nhỏ nhoi, lời tâm tình này được Trời cao đưa đến các anh. Các anh chắc cũng không quên ngôi làng Trung Ngãi, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Nơi những người dân quê mộc mạc chân tình mãi mãi nhớ đến các anh và tình thương yêu này cũng dành cho tất cả những người chiến sĩ thuộc các binh chủng khác ở khắp mọi miền đất nước Việt Nam ngày nào. 

Cho dù nay họ biệt xứ ra đi, người lưu đày ở lại, hay là một phế binh nhưng đối với con bé ngày xưa mãi mãi anh là vì sao tỏa sáng.

Một nén nhang lòng tri ân những vị Anh Hùng… Thiên Thu Ngời Sáng. 

Nén nhang cầu nguyện Hòa Bình, Tự Do cho Việt Nam, cầu cho tất cả Người dân Việt khắp nơi được an lành trong nỗi đau … Tháng Tư.!

 

 

Người Lính Chiến! Anh không bao giờ chết
Thương yêu này xin dành hết cho anh
Yêu màu áo anh pha xanh rừng lá
Yêu núi rừng với tất cả nhớ mong

Tình Lính Chiến bay vút cao trời lộng
Thơm hương đời gối mộng ngủ nghìn thu
Dù mưa âm u nắng úa sương mù
Người Lính Chiến vẫn thiên thu ngời sáng!

 

 

Kim Oanh
Úc Châu, viết cho 30-4-2013

7- GIÁNG XƯA & TRẦM VÂN: Thơ tranh: Nỗi buồn Tháng Tư

GiangXua_VIET CHO THANG TU GOI NGUOI O L
TV_Nopi buon ly biet.png

8- NGUYỄN ĐẤU LỘC: Thơ: Tiếng quốc kêu...

Tiếng quốc kêu ... 

“dậy đi anh, quê hương đang réo gọi,

đồng bào ơi, mau thức dậy lên đường.

giăc bên ngoài, đang o ép chiếm biên cương,

thù trong nước, luôn cúi lòn dâng lảnh thổ!” 

cảm ơn em, người thư sinh tuổi trẻ, 

nhưng có trái tim nhân dũng lớn vô cùng,

biết đau buồn theo vận nước điêu linh

dám đứng dậy khi núi sông kêu gọi! 

cảm ơn em đã gọi tôi thức dậy, 

bao năm dài, luôn sợ hãi trốn trong chăn,

ngại hiểm nguy, sợ tù tôi khó khăn, 

nên nhắm mắt nằm im ”chờ sung rụng”! 

cảm ơn em đã gọi tôi thức dậy, 

chia sẻ với bạn bè bao vấn nạn của quê hương.

nắm chặt tay nhau, cùng đứng dậy, kiên cường 

thắp sáng niềm tin, phá màn đen tìm ánh sáng. 

nguyễn đấu lộc 

XƯỚNG HỌA: SAU THÁNG TƯ

Sông Thu, Đỗ Chiêu Đức, Mai Xuân Thanh

SAU CHIẾN TRANH

 

Tôi đã đi qua các xóm làng

Chiến tranh tàn phá đến tan hoang

Những khu rừng cũ cây trơ trụi

Những hố bom xưa cỏ úa vàng

Những trẻ cút côi mong mảnh áo

Những người cô phụ chít khăn tang

Mả mồ hiu quạnh không hương khói

Và một nỗi buồn như vết loang...

 

                                         Sông Thu

                                         ( 12/04/2021 )

 

Họa Vận :

 

       SAU CHIẾN TRANH

 

Chiến tranh tàn phá khắp thôn làng,

Lập lại "hòa bình" vẫn phế hoang!

Cấm chợ ngăn sông phường chủ đỏ,

Đói cơm rách áo lũ dân vàng.

Vượt biên lắm kẻ thà chôn xác,

Cải tạo bao nhà chịu tóc tang !

Sao chẳng thương đồng bào ruột thịt?

Vết thương dân tộc cứ dần loang!...

 

                                     Đỗ Chiêu Đức

                                      04-12-2021

 

Họa Vận : Hòa Bình Lập Lại...!

 

( Qua thơ " SAU CHIẾN TRANH " - SÔNG THU )

 

Hòa bình lập lại khắp buôn làng

Cuốc bẫm cày sâu vỡ đất hoang

Bắt bớ "thuyền nhân" nơi biển nóng

Giam cầm "công chức" phía cờ vàng

Cô nhi cực khổ lo cơm áo

Quả phụ tảo tần chít vải tang

Cửa nát, gia đình phân tứ tán

Nhà tan lệ đỗ máu đào loang...!

 

                                       Mai Xuân Thanh

                                          April 13, 2021

 

 

__________________________

HAI TRẦU đọc Thơ Nguyễn Cát Đông

 

Nguồn:

http://thatsonchaudoc.com/banviet2/HaiTrau/HoiKy/TGTP_VaiCAmNghiSauKhiDocThoNCD.htm

VÀI CẢM NGHĨ SAU KHI ĐỌC THƠ NGUYỄN CÁT ĐÔNG

 

 

 

 

 

Chân dung nhà thơ Nguyễn Cát Đông - Trần Bang Thạch.

[Nguồn: Trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ)]


Nhà văn Trần Bang Thạch, trước 1975 ký bút hiệu Nguyễn Cát Đông. Thuở nhỏ, anh học các lớp Sơ học, Tiểu học ở làng quê, lớn lên học trường Trung học Phan Thanh Giản  (Cần Thơ), rồi tiếp tục lên Sài Gòn học Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Sài Gòn; ra trường 1970, được bổ nhiệm về dạy tại trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa (Châu Đốc), trường Cao Đảng Sư Phạm Long Xuyên (địa điểm trường Thoại Ngọc Hầu cũ).


Nguyễn Cát Đông, vốn là một người được nuôi dưỡng bằng chất liệu phù sa vùng đồng bằng làng Thường Thạnh Đông, quận Châu Thành (Cái Răng), tỉnh Cần Thơ, nên người đọc bắt gặp nhiều ký ức của tác giả qua những vần thơ viết về miền sông nước ấy từ những ngày thơ ấu theo mẹ tản cư chạy giặc trên những cánh đồng đầy đưng, lác:


“Giữa tiếng đạn bom mỗi lần chạy giặc
Giữa lác, đưng, đỉa, muỗi Trà Lồng
Đôi tay mẹ như mây trời bát ngát
Một cánh cò vất vả nuôi con.”


Và rồi, những địa danh thân thiết tự thuở nào của một vùng quê hương lại hiện diện trong thơ anh như dòng nước ngọt nuôi dưỡng những mảnh vườn, những cánh đồng xa xăm cùng những bến sông nhộn nhịp mà sung túc, trù mật ấy của một thời:


“Ngun ngút đồng xanh Thác Lác, Bà Đầm

Tấp nập ghe xuồng Ngã Bảy, Ngã Năm

Cam ngọt Trường Long, khóm thơm Long Mỹ

Rộn rịp hát đình Bình Thủy, Cái Răng”

 (Mẹ Cần Thơ)


Vốn là một một giáo sư còn rất trẻ vào cái thuở mới bước chân vào đời, rất yêu nghề và thương học trò, người thầy cũ giờ cũng ôm ấp trong lòng nỗi nhớ những phấn trắng, những bảng đen, những trường lớp và những học trò cùng biết bao kỷ niệm êm đềm nhiều khi “mắt ướt giữa sương khói chiều” nào!


“Nghe sao lạ những ngói vôi
lạ em giữa lớp, lạ tôi giữa trường
hạt mưa nào rớt qua đường
hay tôi mắt ướt giữa sương khói chiều!”

(Khúc lạ trường)


Có những khi nắng sớm mưa chiều, có những lúc vì dòng đời dời đổi …, thế rồi, nghề dạy học không còn được như ngày nào vừa cao thượng vừa hoa mộng, vừa cần thiết mà bổ ích, nên có lúc người thầy cũ nghe lòng mình bồi hồi nhớ lại những gì thân ái của một thời yêu dấu ấy:


“Em trong cửa lớp nhìn ra
Ta ngoài cửa lớp thấy ta một thời
những thầy,

những bạn,

những tôi
những cơn mộng cũ

ngồi nơi góc nào?!”

(Khúc lạ lớp)

Để rồi từ đó, người thầy cũ chợt nhớ lại mình có lúc cũng đã từng say sưa giảng cho nhiều lớp học trò về những vần thơ tiễn chồng ra mặt trận với “trống trường thành lung lay bóng nguyệt” vừa hùng hồn vừa cảm động, mà nay sao lòng cảm thấy mình lại lạ lẵm với chính mình:


“Vẳng nghe tiếng trống trường thành
với câu chinh phụ còn quanh chỗ ngồi
người xưa?

người đã đi rồi!
còn đây tiếng phấn nhẹ rơi giữa ngày!”

(Khúc lạ thầy)


Các cái “lạ” mà tôi vừa mời bạn cùng tôi lướt qua vài “khúc lạ” ấy cũng chính là những niềm hạnh phúc của một khoảng đời của người thầy cũ! Nỗi nhớ ấy dường như nó bàng bạc đâu đó trong trái tim, trong tâm hồn của người thi sĩ ấy chừng như tha thiết lắm, như một từ-khúc xé lòng của bàn với ghế, của thầy với trò, của hôm qua và hôm nay…, mãi hoài không lúc nào có thể quên đi được…:


“Ghế với bàn là kỷ niệm xưa

hay kỷ niệm ghi trên bàn ghế?

Ngồi xuống đi em. Ngồi lâu lâu nhé

để nâng từng kỷ niệm lâu lâu


Có thật là tuổi trẻ qua mau

hay tuổi trẻ đang ngồi ở đó

giữa ghế bàn im và khung cửa nhỏ

chờ ta về dẫu có trăm năm


Những ảnh những hình tưởng đã biệt tăm

bỗng trở lại bằng xương bằng thịt

một ít chỗ kia, chỗ nầy một ít

cũng no đầy một dãy hành lang


Người trở về dẫu nếp da nhăn

dẫu phiêu bạc chân trời góc bể

Vết phấn xưa nghe chừng vẫn trẻ

Tiếng nhỏ đọc bài ngọt sớt như xưa


Bất kể là người về tới hay chưa

vẫn nghe tiếng trống trường giục giã

vẫn tiếng guốc cầu thang thong thả

vẫn thân tình tiếng gọi mầy tao


Em bây giờ vẫn nét xanh xao

của sách vở tú hai tú một

dẫu em có quần bò, áo mốt

thì cũng em guốc mộc áo dài


Kính mời em dừng lại nơi đây

chỗ tay vịn cầu thang tới lớp

Đứng bên em vẫn nghe hồi hộp

Như ngày xưa hồi hộp bên em


Có điều gì em muốn nói thêm

muốn cười, khóc... hay chi cũng được

Bàn ghế đó: khung trời buổi trước

sẽ theo ta cười, khóc trọn đời


Ghế với bàn, bàn với ghế ta ơi!

Cứ ngồi đó chờ ta trở lại.


(Bàn Với Ghế Ta Ơi)


Xưa nay, dường như không có thi sĩ nào làm thơ hay mà không biết mơ mộng… Hồi còn nhỏ mới ê a học thơ vài ba bài lúc còn ngồi ghế nhà trường, tôi thường nghe thi sĩ Hàn Mặc Tử rao bán trăng:“Ai mua trăng, tôi bán trăng cho…” Vâng, chính cái điều không tưởng tượng nổi có người muốn rao “bán trăng” vì quá đa tình ấy, làm người đọc thế hệ chúng tôi cứ mỗi lần nhắc tới Hàn Mặc Tử là cứ nhớ câu thơ rất quen thuộc nằm lòng!


Nhưng với nhà thơ Nguyễn Cát Đông, anh không muốn rao bán trăng như Hàn Mặc Tử nữa vì, trước nhứt, anh không muốn bắt chước người nổi tiếng; thứ nữa là việc rao bán trăng như vậy đã thuộc về cái thời dĩ vãng qua lâu rồi, không còn hợp thời của Nguyễn Cát Đông của thời buổi bây giờ … Vả lại, nếu anh muốn bán, thì “trăng xưa” của Nguyễn Cát Đông cũng đã “lạc” mất lâu rồi, còn đâu nữa để một lần mà rao với bán!


“Khi người về dẫm dấu chân xưa

có nghe tiếng đìu hiu rất lạ

Lau lách cũ bên dòng kinh ngọn lã

chừng như quen, như lạ người về


Vẫn ngàn năm con cuốc gọi hè

Tiếng bìm bịp nghe trầm con nước lớn

Người dẫu thấy lời chim đoài đoạn

Cũng không ngờ người đoài đoạn hơn chim


Con trăng nào vẫn đậu mái tây hiên

Khăn lụa tím còn phơi bờ giậu

Đã thật xa một mùa trăng cũ

sao trên khăn còn giọt vắn giọt dài


Bếp thẩn thờ nhả khói chiều nay

hồn thục nữ chìm sâu bến đợi

Tình buổi ấy cũng buồn như khói

nên thành mây lạc bến xa bờ


để người về mất dấu trăng xưa

Chim vườn cũ nghe chừng cũng lạc

thì đừng trách lầu không hoàng hạc

chỉ còn nghe lá rụng hiên ngoài


Mỏn một đời đá nát vàng phai

Tàn một cánh hường nhan phận bạc

nên nửa mảnh trăng thề đã khác

đã phôi pha tự buổi xuân tàn!”


(Trăng xưa cũng lạc)

Trần Bang Thạch


Xin mở ở đây một dấu ngoặc để lướt qua một chút về cách dùng chữ “Mỏn một đời”  trong đoạn kết bài thơ vừa rồi của tác giả quá đặc sắc; trước nhứt vì nó quá giản dị, quá gần gũi mà khó dùng vì nó không chứa chút gì chất thơ với thẩn trong đó nhưng nó lại rất là thơ; thứ nữa, nhóm ba chữ ấy nó mang lại cái tứ thơ rất lạ mà hàm súc bởi lẽ “mỏn một đời” là diễn tả được cái cùng cực của một phận người như người ta thường nói “mỏn chí, mỏn dạ, mỏn hơi, mỏn lòng, mỏn sức…” thì ““mỏn một đời”, theo tôi, nó bao hàm tất cả ý nghĩa của những chữ mà tôi vừa lược kể vậy. Bạn không thấy tác giả rất cực khi lựa chọn những chữ này cho câu thơ của anh sao?


Giờ xin trở lại, trong dòng đời trôi, cứ trôi đi mãi không ngừng ấy, đôi lúc “nửa mảnh trăng thề đã khác/ đã phôi pha tự buổi xuân tàn!”,  có lẽ vì để “trăng xưa” mà “ cũng lạc”  nên Nguyễn Cát Đông bị trăng bắt đền, nên anh phải làm rất nhiều thơ về “trăng”.

Chẳng hạn, có một lần, tác giả đã“say trăng”:


“Dù em là nguyệt hay trăng

Thì em cũng vẫn là Hằng Nga tôi

Cao sang em ngự cõi trời

Tôi tên tục tử suốt đời say trăng”

(Say trăng)


Rồi chàng thi sĩ Nguyễn Cát Đông của làng Thường Thạnh Đông của Cái Răng, Cần Thơ thuở ấy, có lần lại ngủ giữa vườn trăng chìm ngập những trữ tình, những lãng đãng của một thời say đắm với ánh trăng treo trên lá trên cành hoặc trăng trôi trên dòng sông trăng bất tận với những cánh bướm, những nụ hoa vàng bông cải cùng tiếng chim sẻ bên hiên nhà chợt thức giấc, cùng những “nụ tình ngập ánh trăng chơi”…:


“Em vô tình

thả rớt một dòng trăng

để cánh bướm vườn khuya mất ngủ

luống cải tàn đông

cũng ngậm trăng mà xôn xao kết nụ

tôi cũng nghe mình đầy ứ một vườn trăng


trăng chảy ngọt ngào

trăng chảy mênh mông

đôi chim sẻ bên hàng hiên chợt thức

chợt chấp chới môi tìm môi ướt

trăng đậm như tình

trăng mộng như thơ


một cánh cửa hồn tôi bỗng hé, đâu ngờ

để em dạo gót hồng thư thả

Em là hương, là trăng

là sóng vàng rộn rã

chảy hiền từ

qua từng ngõ ngách tôi


tôi ngủ hiền từ

giữa nhánh trăng trôi

giữa một vườn em

vườn trăng tình tự


có một lúc, hình như, bỗng nở

mấy nụ thơ tình ngập ánh trăng chơi


Em, một vườn trăng

Vàng một vườn tôi”

(vườn trăng)


Với tám chữ bình dị, mộc mạc mà đơn giản, không trau chuốt cầu kỳ gì mà thi nhân vừa thay lời kết cho những vần thơ vừa kể về trăng, ở đó trăng và người hòa quyện lấy nhau không rời quả là quá đẹp, quá trữ tình và quá lãng mạn:

“Em, một vườn trăng

Vàng một vườn tôi”


Thêm nữa, trong thơ Nguyễn Cát Đông, người đọc bắt gặp trăng lúc nào cũng chan hòa vào một hình tượng có thật như là tóc, như là bông để chúng ta có những câu thơ vẽ nên bức thanh thủy mặc mà giàu cảm xúc, lung linh, sống động…

Xin mời bạn, dưới đây là mấy vần thơ về “tóc trăng” ngọt ngào mà tha thiết:


“Em về tóc nhuộm màu trăng
Tôi mòn con mắt giữa hằng hà sao
Áo hoa hay má em đào
Nghe trong sắc lụa có hào quang em
Ngọt câu tình tự lời chim
Hay lời tôi nghẹn giữa im lặng chờ
Bước em. Bước khẽ. Bước hờ
Em mông lung để vật vờ bước tôi

Cuối đường tóc chảy trăng trôi
Em trong cửa khép. Tôi nơi cõi ngoài

Trăng về ngủ muộn trong mây
Tóc em ngủ muộn trên ngày tháng tôi”


(Tóc trăng)


Và, bài “trăng hoa” với câu thơ ngắt nhịp từng chập, từng chập mà bồi hồi…:


“Rừng bỗng thấp
Thấp
Mù đại lãnh
Núi khốc khô
Đá rớt
Địa tầng
Mầm bỗng nhú từ nghìn thu đọng
Phút định hình hoa động tình trăng.”
(Trăng hoa)


Dường như nhà thơ Nguyễn Cát Đông không có in thơ thành sách, nhưng thơ anh còn rất nhiều, nhiều lắm, rải rác trên các trang mạng, phần nhiều ngự trị trên trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) mà anh là người chủ bút, hầu hết đều tha thiết, như trong những bài ​“Tháng tư, nhớ Sài Gòn”, “Tiếng cười em”, “Hạt tình”, “ Cây si”, “Ví dầu”, “Nước mắt”, “Thu rơi”, vân… vân… và còn nhiều nữa; nhưng ở đây tôi muốn mời bạn cùng thưởng thức thêm một bài thơ của Nguyễn Cát Đông rất giản dị mà đẹp; đẹp cả hình thức lẫn nội dung, bài “Chuỗi Ngọc”, mà theo thiển ý của tôi, một người nhà quê già, bạn chỉ cần liếc mắt qua một chút với chừng ấy thôi, là bạn đã nhận ra được thế nào là quý báu và hạnh phúc trong tình chồng vợ, nghĩa phu thê mấy chục năm gắn bó với nhau rồi!


Xin mời bạn:


Chuỗi Ngọc

 
“Chợt thấy tình như chuỗi ngọc châu
để anh đếm từng ngày châu ngọc
Hạt chuỗi đầu: em huyền mái tóc
Cho thơ anh suối chảy miên truờng
 
Có chút gì như chút dễ thương
Chút mộng, chút mơ, chút hờn, chút dỗi
Chỉ một chút của em mà lòng anh bão nổi
Nghe sao thương giọt nắng bên thềm
 
Nghe ngọt ngào từng hạt mưa đêm
để anh thức làm thơ. Và làm thêm nỗi nhớ
Rồi từng hạt ngọc châu tình yêu tuổi nhỏ
nối dài thêm xâu chuỗi ân tình

Một đoạn đường dài, vạn nẽo chông chênh
Ta nắm chặt tay vượt ngàn thương khó
Hương lửa ba sinh ngọt ngào từng hơi thở
Hun tình yêu nồng thắm đến bây giờ

Tạ ơn Người Tình-Người Vợ-Người Thơ
Đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc”

(Nguyễn Cát Đông- Trần Bang Thạch)


Tóm lại, sau khi đọc một số các bài thơ của nhà thơ Nguyễn Cát Đông-Trần-Bang Thạch trên trang nhà Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm, tôi nhận ra được ở những trang thơ ấy cái hơi thơ của tác giả nó phảng phất cái nét văn chương rất uyên bác của một nhà mô phạm mà khiêm cung, bình dân và ân cần; cái giản dị của chữ dùng mà bàng bạc một tấm lòng chơn chất của người con xa quê không lúc nào quên mình là nhà quê, là dân vườn, là dân ruộng. Thêm nữa, Nguyễn Cát Đông còn là một người học trò già luôn ghi khắc trong tâm tấm lòng nhớ ơn thầy cũ của mình và chính anh lại là một người thầy cũ nhớ trường, nhớ lớp, nhớ bàn, nhớ ghế, nhớ bạn và nhớ học trò ngày nào của anh nữa, không dứt…. Đặc biệt, tác giả còn là một người bạn đời chung thủy rất mực với “Tạ ơn Người Tình-Người Vợ-Người Thơ/ Đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc”!


Ôi, đẹp biết bao!


Hai Trầu

Houston, ngày 17.01.2021

_____________________________

ba.JPG.w300h453.jpg

Hai Trầu

 

VÀI VẬT DỤNG CẦN THIẾT TRONG ĐỜI SỐNG Ở NHÀ QUÊ

 

Lời mở

 

Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, trang nhà Thất Sơn Châu Đôc của chị Nguyễn Thị Lộc Tưởng, cảm ơn nhà văn Khiêm Cung –Dương Văn Chung đã phác họa hình cái đáy bắt cá và đặc biệt cảm ơn bạn Thái Lý đã bỏ thời giờ quí báu đi sưu tầm và chụp cho nhiều hình ảnh (chiếm khoảng 96%) cho bài viết này. Nếu không có những hình ảnh của các anh chị và của bạn Thái Lý thì bài viết dưới đây chắc chắn là rất khô khan và vô cùng thiếu sót.

 

Một lần nữa xin thành thật cảm ơn các anh chị và Thái Lý nhiều lắm.

 

Trân trọng,

Hai Trầu

Houston-Lấp Vò ngày 27.12.2020

---

 

VÀI VẬT DỤNG CẦN THIẾT TRONG ĐỜI SỐNG Ở NHÀ QUÊ


 

Nhắc tới nhà quê ở miền Tây là nhắc tới những làng mạc nằm dọc theo các kinh rạch chằng chịt với hình ảnh các cây cầu khỉ, cầu ván nằm rải rác khắp mọi nơi; đồng thời nhắc đến đời sống ở nhà quê vùng sông nước này cách nay sáu bảy chục năm, tức là nhắc tới đời sống nông nghiệp nên không thể không nhắc tới những dụng cụ cùng các vật dụng cần thiết mà mỗi nhà đều phải có dù ít hay nhiều tùy theo công việc đồng áng cùng điều kiện tài chánh gia mỗi đình mà dân quê cần mua sắm để có mà dùng tùy theo mỗi vụ mùa; mà ở nhà quê lại có rất nhiều mùa (*) nên việc nhắc lại các vật dụng cần thiết ngày trước mà ngày nay ít người còn nhớ qua những ký ức nghèo nàn của một người nhà quê già có lẽ là một việc cũng nên khuyến khích… 

haiTrau_cầu ván cầu khỉ.JPG
hai Trầu_Cầu rạch Tân Bình.JPG

I/ Lu hũ khạp…

 

Trước nhứt, là việc nước nôi cần trong đời sống mỗi ngày. Mặc dù làng mạc miền Nam, làng nào cũng nằm cặp theo các dòng sông rạch nên nước sát bên bến sông nhưng bạn cũng cần phải có những dụng cụ để chứa nước dùng trong việc nấu nướng, ăn uống hoặc tắm giặt. Do vậy mà dân quê cần có những lu hũ, những ảng, những khạp để chứa nước. Rồi hồi xưa làm gì có máy bơm để bơm nước lên chứa trong các lu khạp ấy, do vậy mà dân quê mới chế ra cách đan những chiếc gàu bằng tre, rồi trét chay lên những chiếc gàu ấy vừa để nước không bị chảy ra mỗi khi dùng gàu gánh nước vừa để chiếc gàu được dùng lâu mà không bị hư hao. Gàu thì phải có cặp, có đôi, và phải gánh đôi gàu lên vai mà gánh nước từ dưới sông lên nhà; từ đó có thêm cái đòn gánh làm bằng tre cật, mỏng, cứng chắc lấy từ gốc tre già làm đòn gánh. Nước gánh lên nhà ở nhà quê chứa vào các lu khạp này, rồi lóng phèn chua nhằm làm cho bùn lắng xuống để nước trong mà dùng.

 

Trong các lu chứa nước, thì cái lu nước uống ngay mái hiên mỗi nhà từ ngoài sân bước vào, thường nhà nào cũng dùng cái kiệu còn gọi là cái ché để đựng nước. Cái kiệu màu da lươn, gần miệng kiệu có đắp hình con rồng cho có vẻ vừa đẹp vừa thanh bai, sạch sẽ. Ở gần đáy kiệu hơi tóp lại, gần miệng kiệu phình ra và miệng kiệu thì hơi túm lại một chút. Trên miệng kiệu có nắp bằng thiết hoặc bằng ván để đậy miệng kiệu hầu tránh bụi bặm và có một cái gáo dừa hoặc có cái ca bằng nhôm úp lên nắp kiệu để múc nước.

 

Tiếp đến là các loại lu lớn, lu nhỏ dùng chứa nước hoặc đựng muối mắm trong nhà. Lu lớn chứa cỡ ba giạ trở lên gọi là mái để phân biệt với lu nhỏ. Những loại lu gọi là mái này có hai loại là mái đầm và mái vú. Mái vú là loại lu có sức chứa khoảng từ ba giạ lúa hột trở lên, các lò sản xuất có đấp thêm bốn cái núm gần miệng lu để dễ nắm, để vịn vào khi di chuyển. Loại mái đầm là loại lu lớn nhưng không có núm như mái vú và thấp hơn. Các vùng nước mặn hoặc vủng nước pha chè miệt gần biển người ta dùng các loại lu lớn này để chứa nước mưa vì nó chứa được nhiều nước. Các vùng khác, nhứt là các vùng nước ngọt người ta không cần chứa nước nhiều như các vùng miệt nước mặn nên mái đầm, mái vú được sử dụng trong việc chứa lúa giống, giú chuối hoặc dùng để đựng mắm; nhứt là các vùng Mặc Cần Dưng, Cầu Số Năm, Vĩnh Hanh, Cần Đăng, Trà Kiết, Định Mỹ, Ba Bần, Phú Hòa thuộc Long Xuyên hoặc các vùng An Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Tân Châu thuộc Châu Đốc người ta dùng các loại lu lớn này để làm mắm vì các vùng vừa kể tới mùa tát đìa, tát mương, làm lóng cá đen, cá đồng rất nhiều, lu khạp nhỏ chứa mắm hổng đủ.

 

Khạp da bò là loại lu có màu da bò, trơn láng, miệng và đáy tương đối gần bằng nhau, đường kính của miệng khạp khoảng 8 tấc tây, bề cao cũng khoảng chừng cao hơn đầu gối. Mỗi khạp đều có nắp đậy. Các loại khạp này có lúc dùng chứa nước nhưng thông dụng nhứt ở các vùng có cá linh người ta dùng khạp da bò để ủ nước mắm cá linh vào mùa cá ra sông vào tháng 10, tháng 11 âm lịch. Mỗi khạp da bò có thể ủ được một giạ rưỡi cá linh tươi mới bắt lên khỏi mặt nước. Với số lượng cá như vậy, tùy theo kinh nghiệm mỗi người mà dùng lượng muối cho vừa nước vừa cái; thông thường trung bình là năm lít muối cho một khạp ủ 1 giạ rưỡi cá linh thì nước mắm ngon; nếu quá lượng muối này thì nước mắm bị mặn hoặc lượng muối ít hơn thì mắm bị trở, bị hư. Cách ủ mắm thì cứ một lớp cá, rải một lớp muối và cứ rải đều như vậy, đậy nắp kín, để ngoài nắng, sau khoảng ba tháng mở nắp ra xem thấy mắm có mùi thơm là có thể múc mắm ra nồi nấu cho nước mắm sôi lên, để nguội và múc mắm trong nồi đổ vào cái rổ thưa có trải khăn lượt để lượt nước mắm. Nước mắm mới lượt này gọi là nước nước mắm nhứt, nước mắm nguyên chất, rất thơm và ngon. Để tiết kiệm, người ta đổ nước thêm và nấu xác mắm vừa lượt xong nầy thêm một lần nữa và khi nồi nước mắm này sôi cũng múc ra rổ lượt như lần trước gọi là nước mắm nhì; tuy nước mắm nhì nhưng hồi đó ở nhà quê bà con vẫn thấy nước mắm nhì còn rất ngon dùng để kho cá, kho thịt còn tốt hơn ngày nay dùng nước mắm đựng trong chai bán ở các chợ… thiếu hẳn chất cá nguyên chất.

 

Tiếp nữa, còn có những lu nhỏ hình ống, miệng và đáy lu có đường kính cỡ ba tấc và có sức chứa khoảng 20 lít, da lu màu sậm, thường dùng để đựng đường mía ở các lò đường hoặc chứa mắm muối dùng trong nhà; loại lu nhỏ này được gọi là hũ như hũ đường, hũ mắm. Còn cái ảng là một dụng cụ bằng sành, đáy lớn, miệng rộng, chiều cao khoảng khỏi đầu gối, dùng để chứa nước đặt tại các cầu tắm giặt nơi ao hồ hoặc các bến sông trước nhà để tiện múc nước chứa và tiện dụng luôn thể. Hồi đời trước vào mùa hè trời oi bức thường hay có các dịch bịnh, ở nhà quê người ta dùng các ảng miệng lớn này pha nước vôi để trẻ nhỏ tắm khỏi bị bịnh.

Hai Trầu_Lu nuoc.JPG
Hai Trầu_DHNgoc và chiếc kiệu.jpg
haitrau_kiệu.jpg
Hai Trầu_Khạp.JPG

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bên kiệu đưng nước uống ở Bình Quới (Sài Gòn) [Trang nhà Bs Đỗ Hồng Ngọc  ngày 20.11.2020]

II/ Vật dụng trong nhà

 

Vì đời sống ở nhà quê là đời sống nông nghiệp mang tính tự túc, tự lực; nên hồi đời xưa mỗi nhà tự xay lúa lấy gạo để nấu ăn nên nhà nào cũng phải sắm một cái cối xay lúa. Cối xay lúa thường thường làm bằng tre và xảm đất sét cho cái cối có trọng lượng khá nặng để khi mình đẩy giằng xaythì sức nặng ấy ma sát vỏ lúa và làm tróc mấy vỏ lúa này, gọi là trấu. Mỗi cối xay lúa gồm có hai thớt. Thớt dưới cố đinh, thớt trên xoay quanh một cái trục có chiều cao chừng năm phân tây, trục cố định này có tên gọi là ngỗng cối. Thớt trên có hai tai cối đối xứng nhau và mỗi tai cối có lỗ tròn để khi xay lúa mình máng cái giằng xay vô cái lỗ tròn này để xay lúa. Cái giằng xay hình chữ T (còn gọi cần xay hay cán cối xay dài), nơi đầu giằng xay có hình ngang chữ T được buộc lên đòn tay nhà, hoặc trính nhà hay buộc lên nhánh cây lớn vững chắc; còn đầu giằng xay kia cúp xuống thành góc vuông làm thế nào để giằng xay ở thế cân bằng khi nằm ngang; ở đầu này có gắn một khúc sắt nhỏ dài cỡ một tấc được đặt vô một trong hai cái lổ tròn chỗ hai tai cối xay. Thế rồi, muốn xay lúa người ta đổ lúa vô cối xay và đứng ở cuối giằng xay và bắt đầu đẩy giằng xay theo chiều kim đồng hồ; khi cối được chuyển động như vậy thì hột lúa bắt đầu được rút xuống và hai thớt cối với các răng cối ngược chiều nhau làm vỏ lúa từ từ trốc ra và còn lại hột gạo theo các kẽ của răng cối đẩy ra chiếc đệm lót sẵn dưới đáy cối để hứng gạo. Xay hết cối lúa này người ta đổ thêm lúa vào và xay tiếp cối lúa khác cho đến khi nào số lúa mình muốn xay đã xay xong thì thôi. Muốn xay lúa cho khỏe, thường có hai hoặc ba người luân phiên nhau để đẩy giằng xay hầu tránh bớt việc mỏi tay. Sau khi xay lúa xong, người ta phải dê bỏ vỏ trấu còn sót để lấy gạo. Các công đoạn xay lúa, dê trấu đều dùng đệm bàng để hứng gạo và trấu thì do gió hoặc dùng chiếu để quạt gió khi dê, cho nên trấu bay ra ngoài trên mặt đất. Sau khi dê trấu và bụi bặm bay hết rồi, lúc bấy giờ chỉ còn lại gạo và gạo này dân quê gọi là gạo lứt vì hột gạo còn lớp vỏ mỏng sậm chưa tróc nên ở nhà quê phải giã gạo này cho tróc vỏ lứt để thành gạo trắng. Sau này, mấy năm cuối thập niên 1940 các vùng Bình Hòa (Long Xuyên), Lấp Vò (Sa Đéc) và nhiều vùng khác mỗi nơi đều có nhà máy xay lúa với ống khói cao khỏi nóc nhà nên việc xay lúa lấy gạo đỡ cực hơn hồi trước nhiều nhưng gạo xay tay thì ngon cơm hơn.

 

Trong việc giã gạo thì có cối giã gạo làm bằng cây, thường thường người ta lựa khúc cây lớn rồi đục bỏ cái ruột cây để làm cối giã gạo bằng chày vồ; loại cối này vừa nặng, vừa bền ít khi bị bể hoặc xứt mẻ. Ngày xưa người ta thường giã gạo chày đôi, tức hai người đứng đối diện hai bên cối giã gạo, mỗi người cầm một cái chày, người này giã chày xuống và vừa lấy chày lên thì người kia tiếp theo quết chày xuống và cứ tuần tự như vậy mà không bị quết trúng lẫn nhau cho tới khi nào cối gạo được giã trắng thì thôi. Có trường hợp những đêm trăng sáng tụ họp vui chơi có thêm người thứ ba nữa, các động tác quết chày xuống và lấy chày lên cũng luân phiên liên tục như vậy, người ta gọi là giã gạo chày ba. Để cho vui, những đêm trăng ở nhà quê cùng nhau giã gạo vui lắm! 

 

Gạo giã tùy theo mình muốn giã trắng thì giã hơi lâu và nặng tay một chút, còn muốn giã lứt thì giã nhẹ tay hơn để lớp cám mỏng còn dính lại chút ít nơi hột gạo; sau khi giã gạo xong là tới màn sàng gạo để loại các loại tấm cám ra và chỉ còn lại gạo trộng. Muốn sàng gạo như vậy, trước tiên phải sắm cái sàng. Sàng được đan bằng trúc hoặc tre mà các rẻ tre trúc này phải được chẻ mỏng và chuốt cho bóng láng. Có hai loại sàng: sàng thưa và sàng dày. Sàng thưa để bắt thóc, và sàng dày để bắt tấm. Cử động khi muốn sàng bắt thóc hay bắt tấm người ta cầm cái sàng bằng hai tay và cứ xoay cái sàng nửa vòng tròn qua tay mặt rồi qua trở qua tay trái một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng và cứ lắc như vậy cho tới khi thấy trên sàng còn lại gạo nguyên hột gọi là gạo trộng. Hết sàng này bắt đầu trúc gạo vô thúng và sàng tiếp cho tới khi nào xong thì thôi.

 

Thường thường khi muốn sàng gạo người trả trải dưới đất một chiếc đệm bàng để hứng tấm hoặc cám; nhưng có khi người ta không dùng đệm mà lại dùng cái nia hứng bên dưới, vậy nên trong nhà phải sắm thêm cái nia. Cái nia được đan ( còn gọi là đương) bằng tre hay trúc, đáy nia cạn, có vành cứng, đường kính chừng 8 tấc đến một thước tây hoặc lớn hơn tùy ý thích của mỗi người. Thường thường nia, rổ, sàng do chính chủ nhà chẻ tre trúc để đan, nhưng có người cũng ra chợ mua các dụng cụ này; những loại rổ, sàng, nia mua ở chợ dân quê gọi là “đồ hàng” tức là những đồ vật làm sẵn, mau hư, không bền như mình tự làm lấy. Vì dùng nia hứng tấm cám nên trong dân gian có tục ngữ “Lọt sàng xuống nia” là do vậy.

 

Ngoài cối xay lúa, nhà quê còn sắm thêm cối xay bột bằng đá. Cối có hai thớt, thớt trên và thớt dưới; miệt núi Sập, núi Ba Thê thuộc Long Xuyên chuyên sản xuất loại cối xay bột bằng đá này.

 

Ngoài ra, trong nhà bếp còn có thêm nhiều cái rế để lót nồi trách cho khỏi dính lọ vì ở nhà quê nấu ăn bằng củi nên nồi có nhiều lọ dính bên ngoài. Rế thường thường đan bằng tre hoặc trúc. Ở nhà quê người ta tự chẻ tre hoặc trúc để đan rế dùng trong nhà, nhưng có người cũng ra các tiệm bán rế đan sẵn mà mua về dùng để lót đáy nồi.

 

Về củi chụm trong bếp có hai loại củi tiêu biểu ở nhà quê là củi tre và củi săn. Củi tre là các nhánh tre được chặt ra rồi phơi khô bó lại thành từng bó để dùng trong việc nấu nướng; dân gian có câu tục ngữ “củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài”; còn một loại nữa là các nhánh cây săn chắc được cưa thành từng khúc rồi bửa ra đem phơi khô, bó lại thành từng bó rồi chất vào thành từng cự để dùng trong việc nấu nướng; loại củi này dân quê gọi chung là củi săn. Những loại cây ở nhà quê ưa làm củi săn gồm các nhánh cây trồng trong vườn hoặc mọc hoang ngoài bờ mương, vườn tre như cây bần, cây gáo, nhánh sao, nhánh dầu, cây bằng lăng, cây mù u, nhánh xoài, cây me nước…, cây nào cũng có nhưng nếu các loại cây nhánh ấy trước khi muốn làm củi mà được ngâm trong nước dưới mương, dưới ao cá hoặc dưới hầm một thời gian rồi mới vớt lên làm củi thì củi cháy rất tốt, dân quê gọi cháy rất “đượm”. Các nhánh chà người ta chất trên sông, sau khi mãn mùa chà nếu đem số chà này làm củi thì hết sẩy! Lửa cháy đượm lắm, hổng có khói!

 

Tóm lại, vì cần phải cưa cây, bửa củi nên trong nhà phải sắm thêm cây cưa và vài cái búa nữa. Cưa thì có cưa tay; búa thì có búa nhỏ bửa củi, búa tài-xồi (ở nhà quê còn gọi là “búa kinh”) tức là loại búa lưỡi lớn, cán dài, phải đứng cầm búa mới bửa những khúc củi lớn ra thành những miếng củi vừa phải; rồi dùng búa nhỏ vừa với tay cầm để chẻ những miếng củi này ra từng miếng củi nhỏ để dễ chụm trong cà rang.

 

Ở nhà quê có cái vui là trước khi có đám tiệc lớn như đám giỗ hằng năm hoặc sắp có đám hỏi, đám cưới người ta chuẩn bị cưa cây hoặc mé nhánh cây sao, cây dầu rồi đem ngâm nước cho rụng hết lá rồi vớt lên chặt ra làm củi để chụm lửa trong việc nấu nướng đám tiệc. Hồi đời trước có tục đi làm rể; tức là sau khi chàng trai đi hỏi vợ rồi, chờ tới ngày làm lễ cưới có khi vài ba năm mới làm đám cưới được vì chờ ngày tháng cho hạp, thì chàng rể tương lai phải qua nhà gái làm rể; nhứt là mấy tháng gần tới ngày cưới, chàng rể tương lại phải ở lại nhà gái làm những công việc như tiếp bửa củi lo đám cưới, tiếp che nhà khách vân.vân… Có nhiều nhà gái có ý muốn thử sức chàng rể bèn đem những gốc bằng lăng, gốc sao, gốc mù u là các loại gốc cây rất dẻo nên rất khó bửa để cho chàng rể thử bửa làm củi. Sau khi cưới được vợ về rồi sau này có con cháu đầy đàn trong lúc gia đình họp mặt vui vẻ người ta mới ngồi nhắc lại chuyện đời xưa ba đi làm rể bên ông bà ngoại bửa củi gần chết rồi cùng nhau cười rất vui và hổng có trách móc gì.

 

Thêm nữa, trong bếp lúc nào cũng có vài ba cây chổi để quét nhà. Có hai loại chổi mà ở nhà quê ưa dùng là chổi tàu cau và chổi ráng. Chổi tàu cau người ta lấy tàu cau khô trong vườn rụng xuống rồi đem tước bỏ các lá mỏng đi chỉ chừa cái cọng cứng thôi và kết nhiều tàu cau lại để làm chổi. Chổi ráng là lọai chổi làm bằng cây ráng; loại cây ráng này mọc hoang trong các vùng rừng tràm hoặc vùng nước mặn, lá dày, thân cứng; sau khi chặt ráng về người ta phơi khô và ép cho lá ráng cùng nằm một chiếu và bó lại nhiều nhánh ráng như vậy làm thành chổi. Miệt Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc không có cây ráng, nên các miệt dưới như Cà Mau, Rach Giá ghe buôn ưa chở loại chổi ráng này lên miệt trên để bán cho cư dân ở đây mua về dùng rất tiện và bền. Ngoài hai loại chổi tàu cau và chổi ráng, mấy năm sau này còn có loại chổ bông cỏ, ngọn chổi mềm, mịn thường dùng để quét các nhà có lót gạch tàu, gạch bông rất tiện.

 

Nói tới bếp núc mà không nhắc nồi trách thì còn thiếu. Dường như nhà nào cũng có một cái giàn bếp đắp bằng đất hoặc xi măng trên cái khuông bằng gốc tre hoặc bằng cây gỗ, cao cỡ chừng một thước tới 1thước 2, trên đó để được khoảng ba bốn cái cà rang hoặc vài cái lò; loại cà rang và lò làm bằng đất nung ngoài Phú Quốc (Rạch Giá) thì xài rất bền, lâu bể và có ghe buôn họ chở loại cà ràng này vô bán khắp các làng mạc vùng này. Thêm nữa nhà nào cũng có đủ thứ nồi bằng đất như nồi đất nhỏ dùng nấu cơm; nồi đất lớn hơi túm miệng, đáy bầu, hông phình, nhỏ hơn cái trã dùng hấp bánh gọi là cái trách; còn cái trã là cái trách lớn, là thứ nồi tròn bằng đất nung, đáy bầu, hông phình rộng ra, miệng trã lận vành chắc chắn có ý cho khi mình nhắc cái nồi lên xuống bếp dễ dàng và không bị xứt bể, thường dùng để nấu bắp, hấp bánh tét, bánh ú, hoặc nấu nếp quết bánh phồng dịp Tết nhứt. Ngoài ra còn có cái mẻ để kho cá. Hồi xưa, ngoài những nồi trách bằng đất, đời cố cựu còn có loại nồi đồng, mâm thau; rồi sau này mấy năm 1950 có các loại nồi nhôm, mâm nhôm, rồi tới thời kỳ có nồi làm bằng gang (gang là loại sắt có từ 2,5%  đến 6% các-bon, giòn và cứng hơn sắt) … nhưng hổng có nồi nào nấu cơm ngon cho bằng nồi đất nấu cơm gạo lúa mới và mẻ cá kho khô bỏ thêm vài chùm tiêu non đăm nhuyễn, mẻ cá kho vừa thơm vừa ngon hơn nữa! Gặp lúc bụng đói là ăn cơm hết nồi luôn!

 

Ở nhà quê do nhà nào cũng làm ruộng nên ở dân quê phải có thúng dê, thúng giạ, thúng dê đong, thúng giạ đong, thúng giạ rưỡi. Thúng dê là loại thúng nhỏ dùng để dê lúa; thúng dê đong là loại thúng dùng để xúc lúa vừa đủ 20 lít mỗi khi cần bán lúa người ta dùng thúng này để đong lúa bán bằng thùng hay bằng táu 20 lít. Còn thúng giạ là loại thúng đựng được từ một giạ lúa trở lên; thúng giạ đong là thúng dùng xúc lúa để đong bán cho bạn hàng (loại thúng này gọn nhẹ, khi xúc đầy thúng lúa để đổ vào cái giạ 40 lít khi đong lúa bán thì vừa đủ 1 giạ, hoặc dư chút ít, chứ không dư nhiều như thúng giạ thường, nên gọi là thúng giạ đong); thúng giạ rưỡi là thúng chứa được 1giạ rưỡi lúa hột. Hồi đời trước bán lúa tính bằng giạ nên các nhà có ruộng nhiều cỡ vài ba mẫu tới vài chục mẫu thường sắm thêm cái giạ lít, vừa đúng 40 lít, để đong lúa bán; ngoài ra còn sắm thêm cái táu nhỏ (còn gọi cái thùng) đựng được 20 lít, bằng nửa giạ; rồi có thêm cái lít để khi cần đong gạo, đong cám, đong đậu; một lít như vậy bằng 4 lon sữa bò hiệu con chim hồi đó hoặc hiệu ông thọ sau này! 

 

Về vật dụng trong nhà cũng không thể thiếu các loại rổ thưa, rổ dày để tiện dụng tùy theo từng công việc. Rồi thêm nhà nào trồng nhiều xoài phải có thêm vài ba cái lồng làm bằng ngọn tre xiêm, tre bông dùng để bẻ xoài; có cần xé đựng xoài; cần xé thì có cần xé đít vuông, cần xé đít bầu và hơi tròn ở bên hông, và nhiều thứ lặt vặt khác nữa…. 

Có thêm cái rổ lớn gọi là rổ xúc, vành rổ cứng, đường kính cỡ 8 tấc, đáy sâu cỡ 4 hoặc 5 tấc tây, thường dùng để xúc lùm chỗ nước sâu; và cái sịa bằng tre (viêt với chữ “s”), lỗ sịa nhỏ, đáy cạn, đường kính từ 1 thước tây trở lên dùng để xúc tép chỗ nước cạn hoặc phơi cau khô, chuối khô và còn nhiều lắm, kể hổng xiết! 

 

Tóm lại, việc nào vật nấy, dân quê cố gắng sắm sửa sao cho vừa túi tiền để có vật dụng đủ dùng trong nhà khi cần để đỡ phải mất công cái gì cũng chạy đi mượn ở hàng xóm láng giềng là rất mừng. 

 

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

Hai Trầu_chổi_vài vật dụng.jpg
Hai trầu_cần xé, rỗ.JPG
Hai Trầu_Nia, xề.jpg
Hai Trầu_Đệm bàng, xề,,,.jpg
Hai Trầu_táu, cối xây bột, ché, cà ràng.

III/ Vật dụng làm vườn, làm ruộng

 

Ở nhà quê nhà nào cũng có chút vườn, không nhiều thì ít nên nhà nào cũng sắm vài dụng cụ cần thiết để làm công việc trồng trọt, ruộng vườn này. Trước nhứt muốn lập vườn phải có cái len để đào đất. Có hai loại len: Len miểng và len thùng. Len miểng đào đất khô trên vườn; len thùng vít đất bùn dưới mương, dưới rạch bơi lên bờ chứa ở một góc nào cho đất bùn khô lại và khi đất khô lấy đất này bồi bổ mấy gốc cây ăn trái trong vườn, vì vậy, người ta còn phải sắm thêm đôi ki đan bằng tre để gánh đất hoặc phải sắm thêm cái xuổng để bứng cây con hoặc để dùng đào chuột. Xuổng thì có loại lưỡi rời bằng sắt, người ta mua về từ chợ hoặc đặt ở lò rèn họ rèn rồi đem tra cán bằng cây săn chuốt bóng để khi cầm cái xuổng không bị phồng tay; có khi người ta dùng nguyên ống sắt tròn, dài cỡ tám tấc hoặc một thước rồi nhờ lò rèn chẻ ra một đầu rèn thành cái lưỡi xuổng và cán xuổng là phần ống sắt còn lại, rất tiện lợi.

 

Việc ruộng nương rẫy bái cần thêm các dụng cụ như cái cày, cái bừa để cày phá đất, cái trục để trục đất; cái bừa thì có hai loại là bừa răng và bừa muỗng; bừa răng với răng bừa nhọn làm bằng cây hoặc bằng sắt; bừa muỗng với răng bừa bằng sắt có hình dáng như cái muỗng. Hồi đời trước nhà nào cũng có nuôi trâu bò để làm ruộng thì có thêm các vật dụng để nuôi bò như cất chuồng bò để bò ở tránh mưa tránh nắng; còn trâu thì không cần chuồng cứ có gò cao cho trâu nghỉ chưn nằm ngủ và có hầm cho trâu nằm tránh muỗi chích là được;  có thêm dây dàm (viết với chữ “d”) để cột bò trâu; có cộ trâu, cộ bò để gom lúa bông về sân; có xe trâu, xe bò để kéo lúa hột từ trên đồng về nhà; có mỏ xải (dân quê đọc trại thành “mỏ sảy”) để vít rơm, làm bã lúa khi bò trâu vừa đạp xong một bã lúa ra lúa hột; có cái bừa cào (dân quê gọi trại là “bồ cào”) để cào rơm, cào cỏ; có lưỡi hái để căt lúa, cắt cỏ bò; có cái phãng để phát cỏ (phãng có nhiều loại như phãng cổ cò có cái chuôi eo lại dùng phát ruộng sâu; phãng gai loại phãng hơi ngắn dùng để chặt bố; phãng giò nai là loại phãng có cái chuôi dài dùng để phát ruộng khô hoặc ruộng cạn đều được); có cù ngoèo (đọc trại là cù nèo, cù ngoéo) dùng để vừa kéo cỏ gom lại để phát cỏ cho dễ mà cũng vừa để đỡ lưỡi phãng không bị trượt trúng vô chưn, vô giò; có vài cái chét đễ dành giẫy cỏ sân lúa, cỏ vườn, cỏ rẫy bắp, rẫy đậu... Ngoài ra, còn có thêm cái cuốc để cuốc đất vô chưn mía hoặc cuốc đất lên giồng trồng khoai lang; cuốc thì có cuốc tai tượng là thông dụng vì nó bén và hơi bủm (hơi trũng lòng) nên xúc đất được nhiều; sở dĩ gọi cuốc tai tượng vì lưỡi cuốc có bề mặt lớn cúp vô giống như lổ tai voi; bên cạnh có có cái cúp với lưỡi cúp thẳng để xới đất cục cho nhỏ ra.

 

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

Hai Trầu_Xuỗng tai chuột.jpg
Hai Trầu_Lưỡi cúp.jpg
Hai Trau_Rỗ các loại.jpg

IV/ Vật dụng chuyên chở, đi lại

 

Ở nhà quê vì là miền sông rạch chằng chịt nên phương tiện đi lại thông dụng đời xưa là xuồng bộng, ghe cộ. Xuồng thì có nhiều loại xuồng và bơi xuồng bằng giằm (viết với chữ “gi”, hổng phải “dằm”). Chẳng hạn như xuồng nhỏ thì có xuồng ba lá, xuồng câu, xuồng lườn (là loại xuồng người ta dùng nguyên một khúc cây và đục bỏ cái ruột cây đi, có mũi và lái thon nhọn, nhẹ bơi, lướt nhanh trên mặt nước); xuồng cui thì mũi và lái hơi cao lên, nặng chở dùng để chở lúa, chở vật nặng. Ghe thì có ghe tam bản, ghe cà-vom, ghe cui với mũi và lái gần bằng nhau, ghe đục tiện cho việc chuyên chở cá từ nơi này đi nơi khác mà cá vẫn còn sống vì nhờ hai bên hông ghe có đục lỗ cho nước ra vô thông thương tự nhiên với hai đầu mũi ghe và lái ghe thì có hai tấm bửng ngăn cho nước không vô được và nhờ vậy mà ghe lúc nào cũng nổi trên mặt nước như cái phao, không bị chìm. Miệt Châu Đốc còn có ghe lườn, ghe mui lón; hồi đời xưa nhiều nhà giàu có như điền chủ thường có ghe hầu, tức là loại ghe tam bản nhưng có mui dài từ trước ra sau được chạm trỗ, sơn phết chim cho đẹp để khi cần các chủ điền nay dùng loại ghe hầu này đi du ngoạn. 

 

Nguyên tắc, khi đi xuồng trên sông thì bơi bằng cây giằm, một người bơi lái, một người bơi mũi; nếu là hai vợ chồng cùng đi trên một chiếc xuồng thì vợ thường thường ngồi bơi lái, chồng bơi mũi. Người biết chuyện, ít có ai để vợ bơi mũi. Khi đi trên đồng lúa vào mùa nước ngập thì xuồng được chống bằng cây sào vì nếu bơi thì vướng lúa, xuồng đi rất chậm. Cây sào chống xuồng được làm bằng cây tầm vông phơi khô và uốn cho thẳng, láng để khi cầm sào chống tay mình không bị phồng. Còn ghe thì không bơi được mà phải chèo vì be ghe nổi lên cao, cách mặt nước rất xa. Tùy theo ghe lớn hoặc ghe nhỏ mà ở mũi ghe có một một chèo và ở phía đằng cuối chiếc ghe có hai cột chèo. Ngoài ra vì ghe lớn nên việc đi trong sông rạch gặp nhiều trở ngại nên trên ghe lúc nào cũng có vài cây sào để phòng hờ khi cần có sào để chống đỡ cho khỏi bị va chạm hoặc đụng vô đầu cầu hay những xuồng ghe khác, nhứt là lúc tấp vô đậu nơi các bến chợ đông đúc dễ bị va chạm với nhiều xuồng ghe khác. Tục ngữ có câu“Đứng mũi chịu sào”. 

 

Trường hợp ghe xuồng muốn đi xa, từ tỉnh này qua tỉnh khác, thì có tàu kéo ghe đường dài chừng nào muốn đi mình xin giòng ghe theo họ và trả tiền công. Nhiều lúc có nhiều tàu kéo một đoàn ghe xuồng dài có tới cả mấy trăm chiếc buộc dây nối đuôi nhau như vậy. Tới mùa cắt lúa, công cắt từ các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh muốn lên miệt Long xuyên, Châu Đốc lãnh công cắt lúa mướn, các bà con này luôn luôn phải giòng ghe xuồng theo các đoàn tàu kéo này; đến lúc mãn mùa cắt lúa, bà con từ từ bơi xuồng hoặc chèo ghe chở theo đầy lúa hột về nhà, mà trong bụng mừng vui dữ lắm vì được mùa cắt lúa trúng! Sau này, khi có máy đuôi tôm đặt sau lái ghe thì người ta mua máy gắn sau lái đi đây đi đó đỡ phải chèo ghe mỏi mệt, mà lại đi nhanh nữa

 

Khoảng cuối thập niên 1950, ở Rạch Giá có kiểu xuồng ghe nhỏ, đít bằng, mũi hơi thon và cất cao lên được gọi là ghe tắc ráng; loại ghe này gắn máy đuôi tôm ghe chạy lướt trên mặt nước rất nhanh nhờ mũi ghe cơi lên khỏi mặt nước; lúc bấy giờ ghe chạy nhanh như rắn lãi chạy và dân quê đặt tên cho loại ghe này “vỏ lãi”.

 

Tới thời kỳ cơ giới hóa nông nghiệp với máy cày, máy suốt lúa thịnh hành, để chở những chiếc máy này với sức nặng có tới cả mấy tấn, các trại đóng xuồng ghe nghĩ chế ra cách đóng các chiếc trẹt với be ván rất dày, bề ngang rộng bề dài vừa với chiều dài các chiếc máy cày, máy suốt với bề đáy cạn và di chuyên qua các kinh rạch rất thuận tiện. Ngoai việc vận chuyển máy móc như vừa kể, trẹt còn được dùng để đưa đò ngang qua sông rất thuận lợi vì chở được nhiều người như đưa rước khách bộ hành, đưa học trò qua sông đi học , mà chiếc trẹt nó cũng vững vàng nữa vì cái đáy nó bằng và lớn nên không bị lắc qua lắc lại như ghe nhỏ và nếu bến sông rộng có thể gắn máy đuôi tôm để chạy qua chạy lại mỗi chuyến cho nhanh. Hồi đời trước, ở nhà quê có sắm xe đạp để làm phương tiện đi lại trong làng, tới đầu thập niên 1950 có xe gắn máy, xe mô tô nhưng cũng ít nhà có sắm xe gắn máy; mãi tới thập niên 1960-1970 thì xe gắn máy hiệu Honda của Nhựt rất thịnh hành.

 

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

hai Trầu_trẹt, tam bản.png
hai Trầu_ xuồng, chèo đò.png
Hai Trầu_ghe cà dom, kinh Vĩnh Tế.jpg
hai Trầu_Xuồng_3.jpg
Hai Trầu_Tac rang, xuong ve chai.jpg
Hai Trầu_xuồng úp, thợ.jpg

V/ Vật dụng bắt cá tôm

 

Ở nhà quê mà lại là nhà quê miền sông rạch nhiều, mùa nước lên thì đồng ruộng mênh mông nước ôi thôi là nước nên cá tôm nhiều lắm; thành ra sống ở nhà quê nhà nào cũng sắm một ít dụng cụ giăng bắt cá tôm để làm thức ăn trong gia đình mỗi ngày; nếu có dư còn có thể mang ra chợ bán để thêm chút tiền mua dầu lửa, mua mắm muối…

 

Trước nhứt là các loại câu giăng, câu cắm, câu thả. Câu giăng thì nhà nào cũng có năm ba gắp câu giăng, mỗi gắp khoảng 100 lưỡi. Có hai loại lưỡi câu thông dụng đó là lưỡi câu uốn và lưỡi câu đúc. Lưỡi câu uốn người ta dùng dây kẻm nhỏ hoặc vừa để uốn lưỡi câu; sở dĩ người ta dùng dây kẻm vì dây kẻm cứng mà chắc, khi cá dính câu ít bị hoác, còn dây chì thì mềm nên khi gặp cá lóc lớn ăn câu câu dễ bị hoác và khi lưỡi câu mà bị hoác như vậy cá sẽ sẩy. Ở gần chợ Cái Sao (Long Xuyên) có cả một dãy chòi bên lề đường liên tỉnh số 9 chuyên môn uốn lưỡi câu các loại để bán; còn lưỡi câu đúc do nhà máy chế biến thì bán ở chợ chỗ các tiệm chuyên bán chài lưới lưỡi câu có đủ các loại lưỡi câu mà dân quê ưa dùng. Trong hai loại lưỡi câu này người ta thường uốn theo hình dáng dấu chưn con ó, hoặc hình dáng chữ U, cả hai loại lưỡi này đều có ngạnh để khi cá dính câu cá khó bị sẩy.

 

Lưỡi câu dấu ó vì giọng câu nhỏ, nên hợp với các loại cá miệng nhỏ như cá trê vàng, cá trèn, cá thác lác; lưỡi câu đúc giọng câu lớn, thích hợp với các loại cá lớn như cá lóc, cá bông, cá lăng, cá kết, cá trê trắng, cá ngác, cá tra, cá bông lau, cá vồ, cá hô, cá leo, cá kết...

 

Khi bạn có đủ dụng cụ gồm lưỡi câu, giường câu, nhợ câu (nhợ câu là loại dây gai, dây gân có độ mềm hơn giường câu, chẳng hạn giường câu dùng chỉ đậu 9, thì nhợ câu đậu 6, đậu 7, nhằm mục đích để nhợ câu dịu dàng hơn khi lưỡi câu nằm trong nước nhằm làm cho cá dạn ăn) và gắp câu, rồi thì bạn chỉ cần lấy nhợ câu dài khoảng 3 tấc và tóm lưỡi câu lại ở ngay cái chuôi của lưỡi câu; kế tiếp khi đã tóm câu xong xuôi đâu đấy thì bắt đầu buộc các lưỡi câu đó vào giường câu; để cho câu không bị rối, lúc vừa buộc câu vào giường câu xong người ta lấy lưỡi câu máng vào gắp câu; và rồi buộc tiếp lưỡi câu khác và máng vào gắp như trước cho tới khi nào xong 100 lưỡi cho mỗi gắp như vậy là xong. Nhớ là khoảng cách giữa hai lưỡi câu chia đều nhau, thường thường là khoảng cách chừng 1thước hoặc 1 thước 2 tây cho một lưỡi để khi cá ăn câu các con cá khác không bị nhát, vẫn cứ kiếm mồi và có thể ăn câu tiếp, vị chi nếu mình muốn một gắp câu gắp được 100 lưỡi thì giường câu với sợi dây nilon hoặc dây gai đậu 8 hoặc đậu 9 phải dài cỡ hơn 100 thước vừa trừ bì hai đầu giường câu để còn một khoảng cách khoảng dư cỡ 1 thước là được để khi bủa câu mình buộc vô hai cây đài cấm ở hai đầu giường câu.

 

Xin nói thêm về gắp câu hình dáng là một miếng cật tre già và dày, bề dài khoảng một gang tay tức khoảng hơn hai tấc. Sau khi kiếm miếng cật tre dày như vậy người ta mới dùng mác vót bén khoét miếng cật tre ấy thành cái rảnh nhỏ làm thế nào để khi mình máng lưỡi câu vô cái gắp nó không bị kẹt cứng mà cũng không bị lỏng qúa; vì chật quá thì khi mở lưỡi câu ra để bủa câu, câu sẽ dễ bị chậm, trở ngại; còn nếu quá lỏng lẻo, lưỡi câu dễ bị rớt ra ngoài và bị rối nùi.

 

Đó là những luồng câu dài giăng bắt cá trèn, cá thác lác, cá trê bằng mồi trùn, mồi tép và bủa trên những vạt đất rộng theo luồng giữa đồng có nhiều rong đuôi chồn hoặc mã đề vì mấy vạt đất này các loại cá này ưa ở. Còn nếu giăng câu cặp mé vườn thường thường mỗi luồng câu chỉ có khoảng 5 hoặc 10 lưỡi câu là tối đa vì giăng câu cặp mé vườn không phải chỗ nào cũng bủa câu được mà phải lựa chỗ nào êm mà mình biết là cá ưa tới đó tìm mồi; thường thường giăng câu cặp mé vườn người ta dùng mồi chạy như mồi cá linh non, mồi nhái, mồi cá sặt non, cá rô non thì loại câu này ưa dính cá lóc, vì vậy phải canh làm sao cho lưỡi câu vừa chí mí mặt nước thôi để cho con mồi chạy nhảy, bơi lội nơi mặt nước và cá thấy mồi tung tăng như vậy là chúng thích lắm và nhảy lên táp miếng mồi liền hà! Nếu để ngầm lưỡi sâu quá, cá mồi sẽ bị vướng cỏ không lội được thì có khi cá mồi sẽ bị ngộp nước và con mồi bị chết, cá hổng khoái lắm nên câu ít dính cá là do vậy. 

 

Vào tháng 9, tháng 10 âm lịch, muốn giăng câu cá lóc lớn, người ta giăng câu ngầm mùa nước nhớm giựt. Muốn giăng câu ngầm người ta phải lội xuống nước dùng lưỡi hái cắt cỏ cho trống và dọn một cái luồng dài tùy theo số câu mình muốn giăng, có khi một luồng câu dài cả mấy trăm thước. Sở dĩ dọn luồng câu vào mùa này vì câu ngầm giăng bằng mồi ốc, mồi cua nhỏ, nên có luồng trống như vậy để cua bò tới bò lui dễ dàng mà không bị vướng cỏ và cá dạn ăn câu và luồng câu cứ để một chỗ hoài, không phải dời luồng như mùa nước ngập mênh mông đầy đồng.

 

Ngoài câu giăng, ở nhà quê còn dùng câu cắm, câu thả hoặc câu rê, câu phượt, câu nhắp.

Câu cắm thì mỗi cần mỗi lưỡi và cắm dọc theo các mé mương, bờ kinh, hoặc các giồng ranh với mồi chạy hoặc mồi ốc để bắt cá trê, cá lóc; tùy loại cá, và tùy mùa có khi dùng mồi trùn, mồi cắt thì cá mới ăn nhứt là vào mùa lạnh, cá bị ê răng nên mồi cắt là thích hợp nhứt. Câu thả là loại câu người ta buộc lưỡi câu và một khúc sậy hoặc ống trúc cỡ ba bốn tấc nhằm mục đích làm cái phao cho câu nổi trên mặt nước; sau khi móc mồi xong mình mới lựa chỗ nào êm êm nhắm có cá là vạch lỗ trống để thả lưỡi câu xuống chỗ đó; khi cá đi kiếm ăn gặp mồi đang treo lơ lững dưới nước là nó ăn liền rồi bắt đầu cá lội lung tung để tìm cách thoát ra, và rồi bị vướng vô cỏ nằm đó đến khi người ta thăm câu gặp cá dính chỉ cần lấy rổ hoặc lấy vợt xúc cá vô rổ và gỡ cá thôi. Thường thường có người thả mỗi lần như vậy khoảng 100 lưỡi câu hoặc nhiều hơn và có hôm may mắ trúng chỗ cá nhiều họ kiếm được cả giỏ cá chứ hổng ít. Vui lắm!

 

Câu nhắp với với cần câu là ngọn tầm vông vừa phải và gọn chuốt cho láng; ở đầu ngọn cần câu tóm nhợ câu ngắn có chiều dài khoảng vài 2 hoặc 3 thước tây, lưỡi câu lớn; vào mùa nước giựt, người ta đi theo các gốc cây lớn dưới sông hoặc ngồi nơi mũi xuồng cầm cần câu với mồi chạy như cá linh, cá rô đồng còn nhỏ, cá sặt hoặc mồi nhái còn sống và bỏ gần mấy gốc gáo, gốc bần và nhấp nhấp, nhử nhử như vậy, mấy con cá trú ngụ theo mấy gốc cây thấy mồi lội tới lội lui chúng nhào lên ăn mồi và dính câu; người ta nhanh tay giựt mạnh cần câu là dính cá.

 

Câu rê thì cần câu là một ây trúc dài làm cần câu; ở đầu ngọn cần câu người ta tóm một nhợ câu với lưỡi câu đúc lớn để bắt cá lóc. Sở dĩ gọi câu rê vì khi quăng câu với mồi chạy móc sẵn người câu cá cầm cần câu rê qua rê lại nhằm nhử mồi cho cá thấy mồi và ăn câu. Còn câu phượt thì cũng y loại câu rê nhưng nhợ cầu dài hơn và người ta quăng lưỡi câu thật xa trên mặt kinh, mặt hồ nghe tiếng nhợ câu xé gió một cái vút vậy đó và rồi mới kéo lê nhợ câu vô mình, trên đường kéo nhợ câu cá lóc ở gần đó thấy mồi đang di chuyển là nhảy lên táp mồi liền hà; và người câu giàu kinh nghiệm khi biết cá cắn câu là họ giựt mạnh một cái là dính cá và từ từ kéo cá vô bờ rồi bắt cá. Ham lắm! Cả hai loại câu rê và câu phượt khi móc mồi người ta lấy cọng rau muống móc vô chỗ mũi lưỡi câu choàng tới chuôi lưỡi câu nhằm khi mình rê câu hoặc quăng câu rồi kéo câu rề rề trên cỏ câu không bị vướng cỏ mắc gốc.

 

Câu cần thì lưỡi câu loại nhỏ để câu cá nhỏ. Cần câu làm bằng ngọn trúc và loại câu cần nhỏ này câu nhiều loại cá như lòng tong, cá he, cá thỉu, cá rô đồng, cá rô biển, cá trèn, cá thác lác, cá dảnh, cá mè vinh; tóm lại là cá gì câu cần câu cũng được nhưng có hai loại cá miệng nhỏ và ít ăn câu là cá linh non và các sặt. Muốn bắt cá linh thì có nhiều cách như đăng đó, giăng lưới, đóng đáy, vó cất; còn muốn bắt cá sặt non thì đặt lờ hoặc giăng lưới. Hồi đời trước, dường như ở nhà quê nhà nào cũng có vài ba cần câu trong nhà để câu cá ăn mỗi ngày.

 

Câu tôm cũng là một trong những thú nhàn ở nhà quê. Ngoài việc đặt lọp, đặt lờ bắt tôm, người ta còn câu tôm bằng cần câu. Câu tôm bằng cần câu có hai loại, một loại câu có lưỡi và một loại câu không cần lưỡi. Câu có lưỡi thì lưỡi câu nhỏ và không có ngạnh vì tôm chỉ ngậm miến mồi chứ hổng có nuốt mồi nên không lưỡi câu cần ngạnh. Câu không có lưỡi người ta dùng một cọng dây chì và mồi câu là mồi trùn; loại trùn dân quê thường dùng làm mồi câu tôm là trùn hổ đất. Người ta xỏ các con trùn vô cọng dây chì  sau đó cuốn cọng dây chì này lại thành một cục mồi lớn cỡ bằng trái chanh hoặc lớn, rồi ngồi nơi mũi xuồng lựa bến vắng thả mồi và câu tôm. Cả hai cách câu tôm bằng lưỡi câu hoặc không có lưỡi dân quê đều có thêm cái lồng đèn bánh ú, cái vợt với cán dài vừa làm mái giằm vừa để vớt tôm khi tôm ăn mồi. Thí dụ bạn lựa chỗ nào nước vận, tức chỗ dòng nước vừa chảy qua rồi dội cái doi đất và nước chảy vận lại là chỗ tôm ưa ở; thế là thả câu và ngồi chờ; bạn sẽ nghe tôm nhâm nhi miếng mồi ngon lành, dao động cần câu, lúc bấy giờ bạn từ từ kéo nhẹ cần câu lên nhắm vừa tới gần mặt nước và tay kia bạn cằm sẵn cây vợt đưa nhẹ xuống nước và nhẹ nhàng hứng tôm vô vợt; mọi động tác như kéo lưỡi câu lên và đưa vợt vớt tôm bạn phải làm vừa nhanh vừa nhẹ nhàng là bạn sẽ có tôm đầy rộng, vui lắm! 

 

Còn lưới thì hồi xưa người ta đương lưới bằng chỉ, bằng gai, sau này có ni-lon người ta đương lưới bằng ni-lon. Lưới thì tùy theo loại lưới bắt cá nào thì có tên loại lưới cá nấy. Chẳng hạn lưới giăng bắt cá rô thì có lưới ca rô; lưới giăng bắt cá linh thì gọi lưới cá linh; lưới giăng bắt cá trắng thì gọi là lưới cá trắng (hoặc gọi lưới thưa vì cá trắng như cá mè vinh, cá dảnh có bề ngang lớn, có khi 6, 7 hoặc 8 phân, nên lỗ lưới cũng phải lớn theo kích thước của cá, và gọi chung là lưới thưa; trường hợp muốn giăng bắt cá hô, cá bông lau ở sông cái thì lỗ lưới cỡ một tấc tây trở lên mới bắt được mấy loại cá lớn này). Hồi đó, trung bình nhà nào cũng có ít nhứt bốn năm tay lưới mỗi loại và mỗi tay lưới dài chừng từ 50 thước tới 100 thước là thường.  Cách giăng lưới cũng tùy loại lưới mà giăng; chẳng hạn muốn giăng lưới cá linh thì lựa chỗ đồng trống, chỗ mấy cựa gà bủa lưới đón cá đi; giăng lưới cá rô thì bủa theo đường mòn giồng ranh cá rô ưa vô đó kiếm mồi; giăng lưới cá trắng trên đồng thì dọn luồng băng qua những vạt rong đuôi chồn, vạt bông súng hay mã đề các loại cá trắng ưa ở mà bủa lưới…

 

Bắt cá mùa mưa cá sắp lên đồng hoặc mùa cá ra sông vào tháng 10, tháng 11 âm lịch thì người ta dùng vó cất. Trong các nghề bắt cá thì làm nghề vó cất là nhàn nhứt. Chỉ cần hạ vó xuống và cất vó lên là có dính cá, không cần mồi, không cần dời chỗ; cứ cố định tại một địa điểm mà bắt cá hết mùa này sang mùa khác; khi nào hết mùa thì cuốn vó lại và đem phơi cho vó khô và chờ tới mùa đem ra móc vó lên bốn cái càng có sẵn và hứng cá! Trung bình từ khi hạ vó xuống tới khoảng 20 phút hoặc nửa giờ là cất vó lên một lần là có cá dính trong vó! Nhàn dư lắm!

 

Ở nhà quê, còn có nhiều dụng cụ bắt cá khác như lọp đặt bửng để bắt tôm, lọp đặt tép, lọp bắt cá chạch; rồi lờ tôm, mùa tháng 5 chạy dài tới tháng 10, tháng 11 âm lịch; tháng 5 thì đặt lờ dưới sông theo các mé cỏ dọc theo các con kinh, con rạch nhỏ; khi nước nhiều tháng 8 tháng 9 âm lịch thì dời lờ tôm lên đồng đặt mấy chỗ cựa gà nước vận tức là nước chảy qua rồi chảy vận lại là chỗ tôm ưa bò tới bò lui kiếm mồi. Nhà nào cũng sắm sửa một ít lọp, một ít lờ như vậy để đặt lọp đặt lờ bắt cá tôm. Nhà nào cũng sắm một bộ đăng đó để đuổi cá linh, cá ròng ròng và thêm một ít ống trúm để đặt lươn. Cái nôm thì cũng rất cần khi soi cá hoặc khi nước kém cần nôm cá dưới rạch lúc nước ròng sát. Trúm thì làm bằng ống tre gai loại tre có lóng dài, ruột tre bộng, lớn, chiều dài chừng 1,5 thước, một đầu để trống làm miệng trúm, một đầu chừa cái mắt bít kín làm đáy trúm, các mắt tre ở giữa thì dùng cây nhọn như cây tràm hoặc cây sắt thụt các mắt tre nhằm làm các mắt này bị bể ra để khi lươn chun vô không bị vướng lại; miệng ống trúm có một cái hom nhỏ vừa với ống tre được xỏ qua bằng một cây ghim tre nhằm giữ cái hom trúm cho khỏi bị rớt ra ngoài, đồng thời cái ghim này cũng có công dụng là khi mình đặt trúm ghim ống trúm xuống đất ống trúm không bị nước làm trôi hoặc nổi trồi lên mặt nước; đáy ống trùm cất cao lên với góc chừng 30 độ hoặc 35 độ so với bề mặt nước nằm ngang, nhằm mục đích cho lươn chun vô không bị ngộp; do vậy ở đáy ống trùm người ta nướng cây sắt tròn và giùi một cái lỗ hoặc dùng cái đục khoét một đường dài chừng một tấc nhằm làm chỗ thóat hơi để khi lươn chui vô ống trúm chúng có chỗ để thở và không chết ngột. Ngày nay, người ta chế ống trúm bằng ống nhựa, hoặc có người còn dùng rẻ tre rồi bện lại như cái lọp nhỏ, có hom và cũng có cây ghim cắm xuống đất giữ cái lọp này ở thế như đặt ống trúm ngày xưa… Tôi hổng biết đặt loại này có dính lươn nhiều hông thì thú thật tôi hổng rành và loại mới này xem ra hổng hấp dẫn cho lắm! 

 

Ngoài ra, còn có lọp đặt cua. Hồi đời trước ít ai ăn cua đặt lọp bằng mồi vì cho rằng cua mà ăn mồi thì dơ, và chỉ ăn cua vô lờ tôm vì cua này ăn mồi dừa rất béo, hoặc ăn cua đặt lọp đường ven, cua đặt bửng hoặc bắt cua trên đồng vào mùa mưa để ăn, cua sẽ sạch và ngon hơn. Ngày nay vì cua ốc khá hiếm nên có người chế ra các lờ, lọp để chuyên đặt cua đồng. Loại lờ lọp này thì nhìn vào dễ biết vì nan lờ hoặc rẻ lọp to và thô không bóng như lờ lọp đặt tôm cá. 

 

Vì muốn cá, lươn, tôm… còn sống, nhà nào cũng sắm cái rộng để rộng cá. Đại khái có mấy dụng cụ cần trong việc bắt cá tôm như vậy, xin mời bạn xem qua vài hình ảnh tượng trưng do bạn Thái Lý sưu tầm và chụp được mới đây.

 

Vài hình ảnh tiêu tiêu biểu:

Hai Trầu_vó cất, xuồng câu.jpg
Hai Trầu_cửa hàng, bắt cá rô.jpg
hai Trầu_vợt, rộng.jpg
Hai Trầu_Lưới cá, mê bồ.jpg
hai Trầu_Nôm, cần câu.jpg
Hai Trầu_Lọp.jpg
hai Trầu_Lọp đặt chồn.jpg
hai Trầu_Lọp cua.jpg
haiTrầu_sơ đồ lọp.jpg

VI. Thay lời kết

 

Qua vài nét rất sơ lược về các vật dụng cần thiết trong đời sống ở nhà quê mà tôi cố gắng nhớ và lược kể lại với bạn chỉ là một phần rất nhỏ so với thực tế đời sống ở làng quê cách nay bảy tám chục năm thôi, vì còn có nhiều loại vật dụng mà tôi không biết rành hoặc tôi không nhớ được hết do đầu óc của tôi bây giờ nó già cỗi nhiều rồi và chữ nghĩa cũng không có được mấy chữ nên không thể nào diễn tả hết ra đây được. Ngày xưa ông bà mình thường hay nhắc “nhà giàu còn thiếu mẻ kho”; và với những hồi ức này tôi chỉ có một mơ ước rất nhỏ là muốn mang tặng cho bạn cái “mẻ kho” của những ngày rất xa xưa ấy vậy!


 

Hai Trầu

Houston- Lấp Vò, ngày 27-12-2020

 

PHỤ LỤC:

 

(*) Vài mùa màng tiêu biểu ở nhà quê có thể lược kể ra trong cuốn “Mùa Màng Ngày Cũ” như dưới đây:

 

1. Mùa xoài

2. Mùa cày bừa và phát cỏ

3. Mùa dưa leo, dưa hấu, dưa gang

4. Mùa chuột

5. Mùa làm lóng, tát mương, tát đìa, làm mắm, làm khô

6. Mùa bắt lươn, bắt lịch

7. Mùa sạ lúa

8. Mùa cấy lúa

9. Mùa bắp, mùa đậu

10. Mùa bắt cóc, nhái và ếch

11. Mùa xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa

12. Mùa cá về đồng

13. Mùa xuống bửng, đặt lọp, đặt lờ

14. Mùa câu cá và giăng câu

15. Mùa giăng lưới

16. Mùa cá dại, chất chà , dỡ chà

17. Mùa đặt rù, kéo bò, chận ụ, làm mùng

18. Mùa bông súng, bông sen, củ co

19. Mùa màng tháng Chạp

20. Mùa cắt lúa, đạp lúa, mót lúa

21. Có những mùa chim

22. Mùa cuốc khoai lang

23. Mùa trồng kiệu

24. Mùa cua ốc

25. Mùa nước lên và nước giựt

26. Mùa ngồi tum và vớt tràm lụt

27. Mùa làm gạch

28. Mùa trồng mía và ép đường

29. Mùa trồng khóm

30. Mùa dựa rơm và đốt đồng

31. Mùa cắt cỏ cho trâu bò

32. Vài ba mùa khó quên qua năm ba vùng đất cũ.


 

                                                  =======

 

HAI TRẦU

ĐỌC VÀI BÀI THƠ CỦA ĐOÀN XUÂN THU (*)

 

Đoàn Xuân Thu, là tác giả mới đến với Thất Sơn Châu Đốc vào những ngày cuối tháng 10 năm 2008, vậy mà ông đã có 36 bài thơ trên trang nhà này. Điều đó cho thấy Đoàn Xuân Thu chuyên chú làm thơ hơn là viết văn dù ông có vài ba bài tùy bút ngắn vẽ nên nỗi niềm của mình qua những chặng đời.

 

Theo tiểu sử ghi ở phần “vài hàng về tác giả”, Đoàn Xuân Thu còn rất trẻ. Ông sanh năm 1951, tại Mỹ Tho; quê nội gốc người Chăm vùng Châu Giang. Thuở nhỏ học trung học Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) và Trương Vĩnh Ký (Sài Gòn). Ngoài ra, được biết ông có học Đại học Văn Khoa và Sư Phạm Cần Thơ, rồi dạy học, đi lính và  làm thơ như bao chàng trai ngày ấy nhiều mộng mơ một thời lãng mạn.

 

Trong một bận hành quân ngày cũ, lúc tác giả mới chập chững quân hành, nhưng cũng nhận ra đời lính mong manh với khói thuốc lung linh vào một buổi chiều mưa ướt đồng bằng Tân Phú Trung vùng Bình Đại, Bến Tre : 

 

“Chiều! chiều mưa nhiệt đới đẫm đồng bằng,

trùm kín poncho về Tân Phú Trung

giọt ngắn, giọt dài xuôi triền nón sắt

bàn tay che khói thuốc đời mong manh.”

 (Tân Phú Trung)

 

Nhóm chữ “đẫm đồng bằng”, “xuôi triền nón sắt”, “đời mong manh” làm cho câu thơ lắng xuống, ý thơ mang mang và tứ thơ có thần hồn khiến người đọc dễ đồng cảm cùng những suy tư và nỗi niềm của tác giả.

 

Rồi người lính trận ấy cũng như bao chàng trai trẻ ở tuổi đôi mươi của thời chinh chiến cũ ấy khi bước vào đời là họ mang trong lòng cả một trời yêu dấu thiết tha với những mối tình rất lãng mạn mà chơn thật, rất ngọt ngào hương vị qua nụ hôn đầu, mà mỗi mảnh đời phiêu lãng nào mà không qua một lần những nụ hôn đầu thân ái ấy:

 

“Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

vị măng cụt, nụ hôn đầu hai đứa

ngọt hóa đời ta, bớt những đắng cay.

 

Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

múi măng cụt, một vầng trăng, vằng vặc

dõi theo ta trong đạn lửa quê nhà.”

(Măng cụt)

 

Chia nhau nửa trái măng chin ngọt ngào như chia nhau nụ hôn gói trọn tình nồng, người con gái vườn măng ngày ấy như cánh hoa đời tươi đẹp để cánh bướm Đoàn Xuân Thu cột chặt hồn mình với hương đồng cỏ nội ấy mãi mãi những ngày :

 

“Vườn măng cụt em đưa ta qua

trái chín đầu mùa, em chia ta một nửa.

mủ măng cụt giữ chân con bướm dại

từ phương nào sao lại lạc đến đây?”

(Măng cụt)

 

Nhưng thực tế dòng đời, nếu chỉ có thế, tức là yêu nhau rồi gần nhau và sống bên nhau trọn kiếp thì thi sĩ làm gì có những bài thơ bất hủ như “Hai sắc hoa tigôn” của TTKH, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, và nhiều bài thơ khác trong vườn hoa văn học. Thế nên, Đoàn Xuân Thu cũng có những cách trở và những chia lìa cuộc tình lãng mạn nơi vườn măng cụt vào những mùa binh lửa cũ: 

 

“Thôi vĩnh biệt em! vĩnh biệt vườn măng!

ta lại băng mình trong sóng gió

vườn măng cụt: mối tình đầu ta đó 

xót tình ta, vận nước chẳng dài lâu

trúc mai chẳng được bạc đầu với nhau.

 

Nhớ mùa măng chín càng đau!”

(Măng cụt)

 

Trong một đoạn thơ khác, tác giả hé lộ cho người đọc một cách nhìn đời gần hơn về tuổi trẻ và chiến tranh, về chiến tranh và hòa bình, về chết và sống bằng những suy tư rất gần với dấu binh lửa mà rất thâm trầm trong nghĩa lý của đời sống : 

 

“Ta, đời lính, cạn ngàn ly rượu đắng

hiệp định Paris; ngày mai ngừng bắn?

chiến tranh? hòa bình? chết? sống? hư không!

buồn chi em! vạn thọ đã vàng bông!

 

Trời cuối năm, giáp tết,

sống sót đã là may!

ly rượu này, cạn hết 

cùng ta say đêm nay.”

(Cùng ta say đêm nay)

 

 

Khi dòng đời trôi, với người chân lắm tay bùn, người ta chỉ lo làm lụng cày bừa có lấy miếng cơm, họ ít mơ mộng; nhưng với tâm hồn nghệ sĩ, tác giả không khỏi bồi hồi ngồi nhớ lại tuổi đi học ngày nào. Những tà áo trắng của các cô nữ sinh trường trung học Nguyễn Đình Chiểu dịu dàng mà thanh khiết ấy là những bóng hình của một thời chôn chặt trong lòng khi chuyến tàu ra khơi rời xa bến phà Rạch Miễu mà hồn tác giả vẫn không nguôi tưởng nhớ khi chợt nhớ về một chuyến vuợt biển ngàn trùng:

 

“Nguyễn Đình Chiểu của thời áo trắng,

Mỹ Tho mình- sớm nắng, chiều mưa.

súp lê xa bến phà Rạch Miễu, 

chung thủy Mỹ Tho, em vẫn chờ.” 

 

Lạc Hồng, cây đa đà trốc gốc, 

trôi rồi ra biển tuổi xuân anh.

cái thời tuổi trẻ anh yêu dấu,

đã chết lâu rồi bởi chiến tranh.”

(Mỹ Tho)

 

Để rồi có một bận ngồi nơi một bến bờ xa nào cách dòng sông cũ ngàn trùng, tác giả gợi cho ta một trời thương nhớ ấy

 

“Anh trầm tưởng nhánh sông quê

bao nhiêu nước đã trôi về những đâu?

bao nhiêu nước chảy qua cầu?

thời gian, phương thuốc nhiệm mầu, lãng quên?

Không! anh chẳng thể nào quên!

sáng ngơ ngẩn sáng, chiều xiêu xiêu chiều.”

(Một nhánh sông quê)

 

Đoàn Xuân Thu có cái chung tình của một người đi xa nhớ về những bóng hình... Tác giả nhớ tà áo trắng của cô học trò trung học, nhớ nụ hôn đầu nơi vườn măng cụt, nhớ nhánh sông quê và rồi tác giả lại nhớ Thu, một bóng dáng cố nhân của vùng sông nước Bến Tre và mấy mươi năm qua vẫn chưa một lần hội ngộ:

 

“Thơ bất chợt như cơn mưa mùa hạ

gợi ta về vùng quê, Thu đã xa: 

Em sương khói... vườn dừa mơn xanh lá

tóc mai dài em bay mãi trong ta

Sông nước Hàm Long, chiếc xuồng ba lá 

ta xuôi dòng Tiên Thủy, bến sông xa.

Hôn từ biệt em đỏ bừng đôi má 

Em Bến Tre, bông bưởi trắng sau nhà...

 ...............................................................    

                

Thôi vĩnh biệt! em lấy chồng! Thu nhá!

nụ hôn xưa theo gió đã bay rồi

Anh phiêu bạt cuối trời, đời luân lạc

hạnh phúc tìm, đâu có? có thinh không!”

 (Bến sông- Thu)

 

Là người giàu lòng cảm xúc, Đoàn Xuân Thu khi nghe tin quê nhà mưa tràn lũ lụt, tác giả không khỏi bồi hồi thương cảm cho một bóng dáng thân yêu nơi nước lụt quê nhà :

 

“Chiều quê người

em ơi! 

mùa nầy lá rụng

mà đời anh là chiếc lá bay bay.

 

Chiếc lá bay bay 

về đâu? về đâu?

có về quê cũ

cho anh gởi về em

về Cần thơ quê mình

đang chìm trong mùa lũ

niềm thương nhớ khôn nguôi.”

(Thương em, quê mùa lũ)

 

Lòng chung thủy ở Đoàn Xuân Thu còn có cả mái ngói rêu phong của ngôi trường cũ, nơi mà tác giả nhớ lớp, nhớ thầy, nhớ bạn bè và cả những vật vô tri trong lớp như bàn ghế bảng đen cùng phấn trắng mà sao như có linh hồn mời gọi người học trò cũ nhớ về, tha thiết lắm những mùa xa trường đằng đẵng mấy mươi năm:

 

“Thưa thầy!

ngàn dặm xa con bay qua biển bắc

tay con nắm chặt chiếc khăn tay

nước mắt con rơi dài theo biển

Thái Bình ơi! biển mãi chẳng êm đâu!

 

Thưa thầy!

cho con vào lớp cũ

ngồi lại chiếc bàn xưa”

(Trường xưa)

 

Những người “thầy xưa ấy” giờ cũng đã là những “người của muôn năm cũ”, “hồn ở đâu bây giờ”, mà tác giả vẫn nhớ. Điều đó, tượng trưng cho đức chung thủy bền bỉ, không mờ nhạt. Để rồi, người của hôm qua tâm tình cùng tuổi nhỏ hôm nay như một lời nhắn gởi tha thiết, bồi hồi, đầy xúc cảm:

 

“Này em yêu! em gái!

em là tôi của thời thơ dại

thuở áo dài tóc xỏa chấm bờ vai

thuở thơ tình giấu hoài trong vở

tím tình yêu tím cả giấc mơ phai ..

 

(…..)

 

Này em yêu! em nhé!

đông dẫu dài nhưng xuân đà đến ngỏ

em sẽ có những điều em muốn có

cơm áo tự do!

nhưng có một điều rất khó

tuổi học trò theo gió sẽ bay đi.”

 (Trường xưa)

 

Trong bài thơ “Cánh diều của đôi ta”, người đọc bắt gặp mối tình chân quê thời niên thiếu giữa vùng quê êm ái ngày xưa với hai đứa bé chơi thả diều; để rồi chàng trai quê ấy không còn cần những “cánh diều của đôi ta” nữa và chia ly một cuộc tình. Đọc thơ Đoàn Xuân Thu mà ta nghe như chuyện huyền thoại, nhưng ai sống nơi chốn quê mùa chắc chắn không nghĩ rằng câu chuyện tình của đôi trai gái quê này là huyền thoại bao giờ, mà là chuyện thật, có thật, và cảm động:

 

“Cuồn chỉ may của má,

tờ nhựt trình của ba,

bụi tre già của ngoại,

hồ dán của anh hai,

anh, em, thời thơ dại,

cánh diều của đôi ta.

 

Trời quê ta gió nổi 

em chạy, đuổi theo anh

ngã xuống lại đứng lên

anh ơi! chờ em với!

Em chạy, đuổi theo anh 

suốt một thời thơ dại;

em chạy, đuổi theo anh 

suốt một thời con gái;

anh! cánh diều đôi ta

bay xa! đừng băng nhá! 

Rồi một ngày tình ta thôi đã hết!

đốn đủng đỉnh về, anh kết chữ tân hôn

chẻ lá dừa, em giúp anh dựng rạp

anh đâu biết rằng dao cứa nát tim em.

thôi vĩnh biệt! dẫu còn yêu anh mãi!

anh! cánh diều thời thơ dại đã băng.

 

Em trả lại má cuồn chỉ may 

bởi cánh diều đôi ta không còn bay, bay nữa.

em trả lại ba tờ nhựt trình

đăng lời mừng anh: hương lửa ba sinh.

bụi tre già của ngoại lại lên xanh

đâu biết được lòng em đà héo úa.

em trả lại anh hai hồ dán

bởi tình ta đà keo rã, hồ tan.

 

Đêm hợp cẩn, giao bôi 

nếu anh nhớ tình ta thời thơ dại?!

quà cưới em đi, anh hãy mở ra

anh sẽ thấy: cánh diều của đôi ta

và em, ngàn giọt lệ!”

(Cánh diều của đôi ta)

 

Khác với anh chàng nhà quê xa cô gái quê quên “những cánh diều đôi ta”; lần này người tình nhỏ quên giữ lời hẹn ước:

 

“Nhỏ đưa anh, mặt mày ủ dột;

Mỹ Tho buồn, rớt hột, lâm râm…

xe lô Minh Chánh, vừa lăn bánh,

nhỏ lấy mù soa, chấm chéo khăn!

 

Chấm chéo khăn, sao ngăn dòng lệ?

“Xa anh rồi chẳng… dễ gì quên!

nhỏ xa anh, ngọn đèn vàng võ,

biếng châm dầu, lu, tỏ, thâu đêm?!”

 

Thâu đêm, nhỏ mươi lần căn dặn:

“Sài Gòn! đèn ngọn đỏ, ngọn xanh

học hành nha, đừng mê bóng sắc; 

bướm ong gì! nhỏ vẫn chờ anh?!”

 

“ Chờ anh…” rồi phụ anh đi biệt! 

cách mặt xa lòng, mới bốn năm;

lặng lẽ, nhỏ ôm cầm thuyền khác;

“ vẫn chờ anh…” rốt cuộc, anh lầm!!

 

Tình ta đâu phải tuồng cải lương!

“Sao vai nhỏ - đào thương - rất đạt?

đã vong phụ, lại còn vớt vát:

tiếng ru buồn, nhỏ hát bên song!”

 

“Ngày đi lúa chửa đơm bông

ngày về em đã con bồng con mang”*

chữ tình một dở hai dang

duyên ta thời có, nợ mang mang sầu.” 

 (Cay đắng)

 

Dẫn ra hai câu chuyện tình trái ngược, để thấy Đoàn Xuân Thu luôn góp nhặt những mảnh hồn cô lữ làm thơ mình thêm chút duyên thầm. Nó như cái bóng trăng làm mặt nước trên mặt hồ lung linh màu trăng sáng vằng vặc. Thơ không có tâm sự, thơ không hồn, dù nhiếu người khó tính cho rằng thơ nhiều tâm sự sẽ làm người đọc dễ nhàm chán. 

 Nhưng đến khi “lau lệ mình ên”, những câu thơ ở đây không còn là tâm sự thường tình nữa, mà là tâm sự của một người con xa mẹ già và khắc khoải nhớ về. Ai dám bảo lòng thương cha nhớ mẹ là chuyện thường tình không cần nói ? Tôi nghĩ, ở đây, tác giả giữ được cái đạo làm con dù xa bao nhiêu dặm, già bao nhiêu tuổi đời mà lòng vô tâm không nhớ cha mẹ già canh cánh bên lòng nhớ mình, thì làm thơ hay để làm gì khi cái tình mẫu tử thiêng liêng mà ta dám nhẹ quên như nắng sáng mưa chiều hoặc gió tạt bên hè cây quên gió cuốn lá xa cành !?:

 

 

“Em còn có mẹ già bên đó!”

tiếng thơ buồn như tiếng thở than !

anh đọc thấy : “ ...hai hàng lụy nhỏ...

...có mẹ già biết bỏ cho ai ?!”*

 

“Anh cũng có mẹ già bên đó!”

mẹ anh đã nằm dưới mộ sâu.

Cỏ trên mồ chắc xanh thương nhớ;

mẹ chắc nhớ anh, nhớ để rầu.

 

Hai lăm tháng chạp về tảo mộ;

hẹn lần, hẹn lửa, hẹn năm sau.

Năm nào cũng vậy, tiền không có;

không tiền, không có vé máy bay!

 

Ngày khánh tận mà anh khánh kiệt;

chỉ biết tàng xe đến phi trường.

“Ai về xứ Việt, quê hương đó 

cho ké, dùm tôi, nỗi đoạn trường!”

 

Nỗi đoạn trường, áng chừng em khóc;

vẫn còn ai đó vỗ về em,

ai đó làm em không khóc nữa,

nỗi buồn nhớ mẹ, chắc rồi quên.

 

Anh nhớ mẹ, rồi anh cũng khóc;

Melbourne buồn, anh lau lệ mình ên! 

(Lau lệ mình ên) 

 

Tình mẫu tử thiêng liêng đó, Đoàn Xuân Thu nhiều lúc bất lực trước những chữ dùng; bởi chữ nghĩa nào nói hết cái tình mẫu tử thiêng liêng, bao la bất tận ấy !

Xin mời bạn nghe tác giả diễn đạt lòng nhớ mẹ già qua “ Ngọn đèn chong mắt”:

 

“Con xa rồi đất quê,

đêm xuống thuyền vượt biển;

có ngọn đèn chong mắt,

đăm đăm đợi con về.

 

Con đã qua 

mùa đông quê người

lạnh thấu xương!

để con nhớ

quê nhà ta

cả một trời nắng ấm.

Con đã qua 

mùa hạ quê người

cháy rát da!

để con nhớ

quê nhà ta

cuối năm trời chớm lạnh;

đất quê người, 

thân con, đời cô quạnh,

tha thiết hoài, 

nỗi nhớ má, thương quê.

 

Xưa bến cũ con đi;

nay bến cũ con về

mòn mõi má đợi mong,

trong sức tàn, lực kiệt:

đèn khô dầu, lụi bấc

đôi mắt khép lại rồi.

 

Lá rụng phải về cội!

Sao con lạc lối về?

bởi ngọn đèn chong mắt

giờ đã tắt thiên thu.”

(Ngọn đèn chong mắt)

 

Tình cảm ấy với một người con coi đạo hiếu là trọng, còn mãi dạt dào trong lòng nỗi khát khao nhớ tưởng của đứa con của má:

 

“Lẽ công bằng có cho và có nhận, 

má chỉ cho chưa có nhận bao giờ; 

má cho con cà một đời lận đận 

nhận của con nếu có chỉ là thơ.

 

Ngàn pho kinh sách con đã học,

hữu hạn vô cùng chữ nghĩa ơi!

cho vô hạn một đời lao nhọc,

những lầm than, má đã cưu mang!

 

(…..)

 

Ôi! má của con, má của con!

từ nay thôi chắc chẳng còn ai,

thương con như thế nữa?

bếp lửa chiều hôm chợt tắt rồi, 

mờ bóng má chập chờn trên vách lá,

má về đâu? sinh, tử: cõi vô thường.

 

Ôi! má của con, má của con!

từ nay thôi chắc chẳng còn ai,

thương con như thế nữa?

xiêu lạc tha hương, phiêu bạt sầu, 

côi cút bay giữa đời giông bão,

ước vọng tương phùng là ảo vọng 

má thương ơi !!!

(Nhận của con nếu có chỉ là thơ)

 

 

Tình mẫu tử thiêng liêng ấy cũng chính là tình yêu quê hương chan chứa tấm chân tình nơi tác giả:

 

“Chiều cuối năm nhớ quê nhà, nhớ má…

nhớ vô cùng bông mận, trắng vuờn xưa;

phiêu bạt bao năm, cùng trời cuối đất,

con vẫn muốn về gánh mận má ơi!

 (Con vẫn muốn về quê gánh mận)

 

Rồi nào là bóng dáng xuồng ba lá, chiếc cặp đệm, nắm xôi nếp rặt, ngọn khói nấu cơm, đồng bưng, cỏ lác, ruộng vườn…, mỗi mỗi làm nên nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết biết dường nào ! 

 

“Suốt một thời thơ ấu con mang theo:

cặp đệm má đương, nắm xôi má nấu 

xôi nếp một, bếp bình minh khói toả

đường mía lau thơm, vị ngọt quê nghèo!

 

Xuồng ba lá má là con đò dọc

hai lượt: đến trường, tan học, đón, đưa

(ngày tựu học con trốn về với má

số phận, dù không muốn, vẫn tha phương?!)

 

Con lớn lên, con đi vào chiến trận

hành quân hoài mấy bận lội đồng bưng

sao vòng vọng nhịp chày xưa, má giã ?!

giã cỏ bàng, đương cặp đệm, nhớ thương!

 

Nhớ má đồng bưng, ruộng, vườn, rẫy bái

chưn sình lầy, lúa nếp, cánh đồng mưa 

chiều dừng quân, trợn trạo lua cơm sấy 

con bùi ngùi, nhớ lại nắm xôi xưa.

 

Má đồng bưng rưng rưng tình mẫu tử

thương má nhiều, thương cặp đệm, nắm xôi!”

 (Cặp đệm, nắm xôi)

 

 

 Nhà văn J.M.Guyau gọi “Cái đặc quyền của nghề làm thơ là không cần phải chứng minh, không cần phải viện chứng, mà vẫn thâu nhập vào trí não ta những điều mà ta không thể chối cãi được. Vì không gì hơn tình cảm con người (….) Đó là tất cả các điều mà ta đã tư tưởng, đã cảm giác, đã luyến ái từ xưa. Nhà thi sĩ chân chính đích thị là người biết gọi những tiếng vang trong đáy lòng ta vậy.”(**) 

 

Qua nhận định của J.M.Guyau vừa dẫn và qua vài bài thơ của Đoàn Xuân Thu tình cờ mà tôi đọc được, không thể có một cảm nhận nào khác hơn là trong thơ Đoàn Xuân Thu chan chứa nỗi niềm. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ bạn, nhớ trường, nhớ người yêu cũ và đăc biệt nỗi nhớ thương mẹ già nay không còn, tất cả làm thành một hồn thơ miên man nỗi nhớ. Thơ Đoàn Xuân Thu không mới; chữ dùng không cố trau chuốt cầu kỳ, vận thơ không chạy theo trào lưu làm mới thơ như nhiều tác giả, nếu không muốn nói tác giả là một người làm thơ còn nặng phần cổ điển, nhưng nhờ tác giả đã tích lũy nhiều chất liệu qua dòng sông đời mấy mươi năm nhiều sóng gió nên thơ ông gần gũi với những thế hệ già và lưu lạc. Chính vì vậy, thơ Đoàn Xuân Thu trầm lắng và buồn, tứ thơ không lạ mà làm người đọc dễ rung động, hồn thơ mang mang nỗi nhớ về một thời xa lắm, trải dài hơn năm mươi năm !!! Và Đoàn Xuân Thu đã “biết gọi dậy những tiếng vang trong đáy lòng ta vậy!”

 

 

Hai Trầu

Houston , ngày 06-02-2009

Đọc lại, ngày 24.12.2020

 

 

Phụ chú:

(*) Tất cả các câu thơ dẫn trích từ trang nhà Thất Sơn Châu Đốc, mục Thơ, tác giả Đoàn Xuân Thu.

(**) Nguyên văn lời trích bằng tiếng Pháp, trong bài “La poésie” của J.M.Guyau : “C’est le privilège de l’art que de ne rien de’montrer, de ne rien prouver, et cependant d’introduire dans nos  esprits quelque chose d’irre’futable. C’est que rien ne peut pre’valoir contre le sentiment. (…) C’est ce que vous avez pense’, senti, aime’ . Le vrai poète est celui qui re’veille ces voix.”(Trích trong quyển 100 bài dịch Pháp Văn lớp Đệ Nhị của Vũ Quý Mão, Đoàn Rạng, Trần Như Thuần, nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1959)

_______________________________________

                              Hai Trầu                                                               

                              TRÒ CHUYỆN VỚI

                             TRẦN THỊ NGUYỆT MAI,

                              TÁC GIẢ CÁC BÀI THƠ TRÊN BÁN NGUYỆT SAN                                            “TUỔI HOA”, SÀI GÒN, NHỮNG NĂM 1970-1975 (1) 

                                 _______________________________         

HaiTrau_self.JPG

Thưa bạn,

 

Dịp lễ Tạ Ơn, ngày 25.11.2020, nhà văn Vũ Thất, tác giả tiểu thuyết Đời Thủy Thủ, gởi cho tôi và Trần Thị Nguyệt Mai một email:

 

“Thưa anh Hai Trầu,

 

Anh cứ phi lộ rằng anh già rồi....

Đọc các bài viết gần đây của anh, tôi thấy trí nhớ của anh còn tuyệt vời hơn trí nhớ thuở năm mươi. Nghĩa là những ghi nhận văn chương của anh càng đậm đà, sắc sảo. Chắc cần thêm một ấn phẩm Người Đọc & Người Viết...


Nguyệt Mai thân mến,

 

Nhân mùa Lễ Tạ Ơn, được Nguyệt Mai cho thưởng thức các bài thơ từ thuở "Tuổi Hoa" khiến vừa ngạc nhiên, vừa thích thú vừa cảm phục.

Xin Tạ Ơn Người. Tạ Ơn Đời. Tạ ơn Mạng Lưới Internet.

Thân chúc mọi người trong gia đình quý bạn luôn an lành.

 

Thân mến,

Vũ Thất

Ngày 25.11.2020”

 

Từ lời cảm thán ấy của anh Vũ Thất về thơ Nguyệt Mai, tôi lò mò vô trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai đọc thử, thì ra mới biết Nguyệt Mai đã làm thơ khá lâu rồi, từ những năm còn đi học ở Sài Gòn, mà từ khi được làm quen với Nguyệt Mai qua giới thiệu của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, có lẽ cũng năm bảy năm gì rồi, nhưng tôi chưa lần nào nghe Nguyệt Mai nói có làm thơ dù trên trang nhà của Nguyệt Mai, đôi lúc tôi thấy thỉnh thoảng có thơ của bạn nhưng dường như rất ít. Giống như anh Vũ Thất, tôi cũng “vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, vừa cảm phục” khi đọc được các bài thơ của Nguyệt Mai từ thuở bán nguyệt san “Tuổi Hoa”, Sài Gòn, những năm 1970-1975.

 

Ngày nay tuổi tôi đã quá già, cái thuở tuổi thơ của những ngày “Tuổi Hoa” không còn nữa, nhưng qua thơ của Nguyệt Mai, dù cách nay tròn nửa thế kỷ, sao nghe ra như ngày ấy của tuổi học trò bé bỏng của tôi thấp thoáng đâu đây! 

 

Nguyệt Mai có thể kể một chút về những ngày đầu làm thơ ấy của bạn được không?


Trần Thị Nguyệt Mai (TTNM):

 

Anh Hai kính mến,

Cảm ơn anh Hai đã quan tâm đến chuyện làm thơ của em.

Đúng như anh nhận xét, em làm thơ không nhiều. Khi nào hứng lắm mới viết.

Về những ngày đầu làm thơ và thơ đăng báo Tuổi Hoa, em đã có lần tâm sự với các bạn ở các comments trên trang này, anh vào xem nhé:

https://123hoang.wordpress.com/2011/08/25/th%c6%a1-tr%e1%ba%a7n-th%e1%bb%8b-nguy%e1%bb%87t-mai/

Kính chúc anh Hai và chị Bảy luôn sức khỏe, an vui.

Nguyệt Mai

 

Hai Trầu (HT)

 

Qua tìm kiếm, tôi đọc được bài thơ dưới đây, Nguyệt Mai kính tặng cô giáo Ngô Thị Vân của trường nữ Trung học Lê Văn Duyệt, Gia Định, ngày xưa:

CÒN MÃI TRONG TIM

Kính tặng Cô Ngô Thị Vân – Giáo Sư Anh Văn
Trường Nữ Trung Học Lê Văn Duyệt – Gia Định


Với chúng em, đây là niên học cuối
một cuộc thi chấm dứt thuở học trò
chỉ còn lại chút dư âm tiếc nuối
những tháng ngày rất đẹp, rất nên thơ…

Ngày cuối cùng Cô giảng xong bài học
dặn những điều cần thiết lúc đi thi
em đã thấy, ở Cô, giòng lệ ngọc
biết bao tình trong giây phút biệt ly

(Em vẫn biết còn học trò áo trắng
là vẫn còn giữ những nét dễ thương
đời mai sau sẽ có nhiều bóng nắng
tìm đâu ra khoảng mát chốn học đường?)

Và Cô ơi! suốt đời em mãi nhớ
giòng lệ nào tràn ngập những thương yêu
một khoảng trời màu hồng trong tim nhỏ
bục gỗ, bàn Thầy, bóng dáng chắt chiu…


Trần Thị Nguyệt Mai
1972

 

Và bài thơ viết về mùa Thu, mùa của những ngày tựu trường:
 

CŨNG LÀ MÙA THU

Khi lá ngoài đường rụng đầy ngõ phố
và bầu trời như thấp xuống – nhiều mây –
mùa thu nào me âu yếm nắm tay
dẫn con gái nón nghiêng che đi học

gió heo may len lén hôn lên tóc
em thẹn thùng nép dưới vạt áo dài
cô bé mang chiếc cặp nhỏ trên vai
và chợt nghĩ mình bây giờ đã lớn!

con đường đi vương đầy sương buổi sớm
những bé như em chúng cũng đến trường
cơ hồ như một niềm vui ngát hương
đang ngự ở trong tim em bé bỏng

ồ trường kia nơi em đang mong ngóng
tí nữa đây me sẽ dẫn em vào
chọn cho con ngồi ngay ở bàn đầu
“me muốn con đầu lớp luôn đó nhé!”

rồi trống trường điểm lên ba tiếng nhẹ
cô giáo bước vào với áo hồng tươi
trên môi cô trang điểm những nụ cười
cô bé thấy thương cô làm sao lạ …

oOo

Và bây giờ khi mùa thu rụng lá
vẫn đến trường lòng vương chút bâng khuâng
cố ngăn đi giòng nước mắt bao lần
em vào lớp, ngôi vị chừ thay đổi

vẫn bảng đen, vẫn phấn còn hương mới
nhưng bàn thầy – chỗ ngồi của em đây
mi mắt sao bỗng dưng lại cay cay
khi nhìn xuống bàn học trò xưa đó

những em bé trước mặt là tập vở
còn thơm mùi giấy trắng thuở ban đầu
nắn nót từng hàng và viết từng câu
bài học mới cô giáo vừa giảng dạy

những gương mặt ban đầu còn ái ngại
len lén nhìn xem cô giáo dữ hiền
(hành động xưa được lặp lại y nguyên)
em bỗng nhớ ngày vàng son thơ ấu …


Trần Thị Nguyệt Mai

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 208, phát hành ngày 1-9-1973)


Năm 1972, Nguyệt Mai làm bài thơ cho cô giáo, rồi sau đó, năm 1973, Nguyệt Mai viết bài thơ cho học trò, giữa hai vị thế ấy, Nguyệt Mai thích vị thế nào?

 

TTNM:

 

Kính thưa anh Hai,

Cảm ơn anh đã "theo dõi" rất sít sao.

Em thích ở cả hai vị trí; 

1) Là học trò, được hồn nhiên học hành, vui chơi, không phải lo lắng gì cả.

2) Là cô giáo thì được truyền lại những gì mình học hỏi cho thế hệ sau.

Thực sự, em không theo nghề sư phạm. Nhưng hồi nhỏ, như các bạn gái khác, rất thương & kính phục Thầy Cô nên đã từng mơ ước lớn lên mình sẽ trở thành cô giáo. Em nhớ hồi đó hay kêu bạn hàng xóm đến nhà chơi & "làm cô giáo" dạy học khi chơi trò cô giáo & học trò. Hồi xưa, em có kèm vài em ở tư gia. Chính thức đứng bục gỗ sau 1975 thời xóa nạn mù chữ, dạy cho các bác, cô chú đọc và viết, em là phụ, có một bác thực sự làm nghề giáo là người chính đứng lớp. Lúc ở trại tị nạn Bataan, Philippines em có làm Assistant Teacher, chủ yếu là thông dịch lời cô giáo nói cho các bạn học viên.

Hy vọng em đã trả lời câu anh hỏi.


HT:

 

Hồi đời xưa, mỗi lần nhắc tới bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, người ta hay nhắc câu thơ của Trạng Trình-Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”

(Cảnh Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
 

Nguyệt Mai có những vần thơ về các "mùa" riêng của mình. 

Chẳng hạn: Với mùa Đông thì có:

HƯƠNG MÙA ĐÔNG - Trần thị Nguyệt Mai


EM, ĐÊM THÁNG CHẠP

tiếng chuông xa đổ vang rền
kinh cầu nào nguyện giữa đêm vô cùng
thấy mùa đông đến bao dung
em chiên ngoan nhỏ ngập ngừng lễ đêm.

HÔM QUA

sương khuya rơi ướt áo vàng
mùa đông đã đến bàng hoàng tim em
hôm qua ai bước qua thềm
thổi vào hồn ngọn gió đêm lạnh lùng.

MƯA ĐÔNG

cơ hồ ngày tháng vây quanh
nhớ chi đến thuở lâm hành quan san
mimosa đã nở vàng
mưa rơi đủ nhỏ cho hàng lệ sa.

HOAN CA NGÀY VỀ

đường khuya gió lạnh buốt vai
xin lời thánh sủng mãi đầy trong tim
chim bay về đêm giáng sinh
cất cao tiếng hót giữa thinh không buồn.


TRẦN THỊ NGUYỆT MAI

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 229, ra ngày 1-12-1974)

Với mùa Xuân thì có:


BÊN TRỜI THÁNG GIÊNG

Những cành lộc mới đùa trong gió
Bé đứng bên trời Xuân, tháng giêng
Nghe lòng một chút hương hoa cỏ
Xanh ngát hồn thơ trổ ý hiền.



LẬP XUÂN

Có con chim én về mừng tuổi
Nắng lụa trải đường cho bé đi
Anh thấy trong mây trời buổi sáng
Mắt bé màu xanh ngát lưu ly...



SUỐI NGỌT

Tặng me một đóa cúc vàng
Khi mùa Xuân đến dịu dàng trong con
Tình thương mãi đậm tim non
Me là bóng mát, suối nguồn bao dung.


Trần Thị Nguyệt Mai

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 231, Tết Ất Mão, ra ngày 25-1-1975)

Với mùa Thu thì có bài:


CŨNG LÀ MÙA THU - Trần thị Nguyệt Mai 

(Có ghi bên trên)
[Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 208, phát hành ngày 1-9-1973]

Và với mùa Hè thì có:


SẦU MƯA THÁNG HẠ - Trần thị Nguyệt Mai

Rồi mùa hạ trở về cùng bóng phượng
Cùng tiếng ve, cùng mưa ướt đầu mùa
Bé nghe lòng bỗng dưng mà xao xuyến
Dội trong hồn vang vọng mấy âm thưa!

Mưa tháng hạ sao hồn mềm quá đỗi
Bé có hay đã tàn hết cuộc vui
Rồi mỗi người một đời sau trôi nổi
Còn lại chăng chút kỷ niệm ngậm ngùi?

Mùa hạ, lỡ tay chào cách biệt
Thì bé ơi mòn mỏi đến bao giờ
Mùa hạ, lỡ gọi người tha thiết
Những cung buồn rụng xuống cõi hồn thơ...


TRẦN THỊ NGUYỆT MAI

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 224, ra ngày 1-7-1974)


Từ những ngày xa xưa cách nay 50 năm, qua thời tiết mỗi mùa, Nguyệt Mai ghi lại những cảm xúc rất riêng của mình giữa cái mưa và cái nắng của Sài Gòn vào những năm 1970-1975 ấy, nếu ngày nay có dịp cảm tác lại những vần thơ về mỗi mùa ấy chắc Nguyệt Mai sẽ viết khác đi nhiều vì hôm nay không phải là hôm qua... Nếu quả thực nó là như vậy, Nguyệt Mai sẽ thêm gì và sẽ bớt gì trong trời đất của mỗi ngày mùa thuở ấy?
 

TTNM:

Năm 1970 là năm em có thơ đăng báo đầu tiên. Hình như em đã bắt đầu chập chững viết từ một năm trước đó, viết rồi xé, xé rồi viết.

Mỗi tuổi đương nhiên có cảm nhận khác nhau.

Bây giờ em nhìn mỗi mùa đi qua như đời người.

Mùa xuân là khi còn trẻ, tâm hồn phơi phới

Mùa hạ là lúc đã lớn, đã va chạm, có lúc trời nóng rất khó chịu thì cũng giống như những thứ bất như ý đã xảy ra trong đời.

Mùa thu là mùa lá rụng như tuổi mình đã về chiều, rồi cũng như lá, sẽ lần lần rơi rụng

Mùa đông lạnh lẽo, mùa cuối của năm cũng là lúc tàn một kiếp người.

Có lẽ do đã hết tuổi học trò, nơi em đang ở cũng không có cây phượng, không có ve sầu nỉ non để nhớ chăng? 

Thơ từng mùa bây giờ thường nhìn về ngày cũ, nhớ quê hương...

Em gửi anh những bài thơ mới làm sau này để anh xem. Đặc biệt không có một bài thơ mùa hạ nào. (2)

 

HT:

 

Nguyệt Mai là người làm thơ về “tuổi hoa” trên bán nguyện san “Tuổi Hoa” từ đầu những năm 1970 và có lúc giúp đọc bản thảo của nhiều tác giả; qua nội dung của các trang bản thảo ấy và qua tiểu sử của nhiều tác giả mà Nguyệt Mai tiếp cận, Nguyệt Mai có suy nghĩ gì về văn chương dành cho tuổi thơ?

 

TTNM:

 

Hồi nhỏ em được Ba Má mua cho Sách Hồng (Cái ấm đất, Chiếc áo vua ban, ...) cũng như những truyện cổ tích ngoại quốc dịch lời Việt có hình vẽ màu mè rất đẹp như Bạch Tuyết bảy chú lùn, v.v... để đọc.

Theo em, tất cả sách truyện dành cho thiếu nhi nên là những cuốn sách đẹp, lời văn hay, kết thúc có hậu gợi tính thiện, cho các em thấy ác giả ác báo, để giáo dục, hướng các em đến việc làm điều tốt, điều thiện, tránh xa điều ác, sai trái.

Đó là lối giáo dục ở cả nước trước năm 1954 và ở tại miền Nam từ 1954-1975. Nhờ lối giáo dục này mà Văn chương miền Nam thời chiến (1954-1975) là một nền văn chương nhân bản.

 

Chẳng hạn:

 

Cho tôi đổi một trăm chiến thắng

Lấy một giọt nước mắt kẻ thù

(Giọt Nước Mắt Kẻ Thù – Trang Châu)

 

Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác?

Súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày

(Đêm Kích dưới chân đồi Pá – Nguyễn Dương Quang)

 

Và với riêng em, bài thơ “Bao giờ mới thấy” ghi lại cảnh tượng được chứng kiến trên màn hình TV về vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường (viết vào buổi tối ngày 12.3.1974), ở những câu thơ cuối cùng:

 

Tôi vẫn hằng mơ ước

Ngày quê hương thanh bình

Nhưng bao giờ mới được

Thấy ngày hội hoa xinh?

(Bao giờ mới thấy - Trần Thị Nguyệt Mai)

Tuổi Hoa số 221 ngày 1-4-1974

 

Anh đã không thấy một lời nào thóa mạ người bên kia chiến tuyến. Chỉ là mơ ước hòa bình mau đến, không còn chiến tranh, để những cảnh chết chóc, đau thương này không còn xảy ra.

 

Sau này em được biết viết về vụ Cai Lậy còn có bút ký chiến trường "Cánh diều trên đồng cỏ" của anh Trần Hoài Thư, mà phần kết luận cũng rất hiền hòa:

 

Ngày hôm nay, tôi lại bay qua cánh đồng cỏ cũ. Trời vào hè, nắng vàng rực rỡ, chói lòa cả những áng mây xa. Con tàu như quen thuộc hạ xuống 100 bộ. Tôi không còn thấy em bé thả diều nữa. Chỉ còn cánh đồng cỏ màu vàng sậm mênh mông bát ngát. Tôi nghe một nỗi buồn đến đắng cay đầu lưỡi. Một nỗi buồn tê tái như khi nhớ lại chiếc cặp với trái xoài non, những chiếc nắp ken, và con diều, cuộn chỉ vấy máu trên sân trường… 

(Cánh Diều trên đồng cỏ - Trần Hoài Thư)

 

Nếu sự việc này xảy ra với người phía bên kia thì chắc chắn khác hẳn, họ sẽ chửi rủa và kêu gọi "máu phải trả bằng máu", v.v...

 

Đó là cái đẹp của văn chương miền Nam.

 

Cảm ơn anh Hai Trầu Lương Thư Trung rất nhiều đã bỏ thời gian để tìm hiểu về thơ của em ngày ấy, mà chúng em, các bạn Tuổi Hoa, thường gọi là một thời xanh, rất đẹp, rất nên thơ.

 

Trần Thị Nguyệt Mai

29.11.2020


 

Thay lời kết:

 

Văn chương xưa nay vốn lấy cái đẹp và sự trong sáng làm gốc. Theo thiển ý của tôi, một người đọc nhà quê già mà tuổi đời cũng hơi trộng-trộng rồi, thơ Trần Thị Nguyệt Mai từ những ngày bắt đầu đăng trên bán nguyệt san Tuổi Hoa ở Sài Gòn những năm 1970-1975 cho dĩ chí đến hiện tại, đã đạt được hai yếu tố làm nền ấy; chẳng những thế, mà thơ Trần Thị Nguyệt Mai còn tiêu biểu cho một thế hệ được giáo dục rất mẫu mực nữa đó là lòng hiếu thảo với cha mẹ, kính anh, thương em, mến bạn, thương người và yêu kính thầy cô giáo đã bỏ công dạy dỗ mình từ những ngày tuổi thơ cho chí đến lúc nên người! Có lẽ nhờ những chất liệu làm nền ấy nên thơ Nguyệt Mai vừa giản dị mà trong sáng, vừa thành thật mà cảm động; và nói cách khác, trong thơ Nguyệt Mai vừa có “tình” mà lại vừa có “thần” là vậy!

 

Nói như nhà văn Vũ Thất đã nhận xét ở bên trên: “Nhân mùa Lễ Tạ Ơn, được Nguyệt Mai cho thưởng thức các bài thơ từ thuở "Tuổi Hoa" khiến vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, vừa cảm phục.”, tôi cũng “vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, vừa cảm phục” về những vần thơ của Trần Thị Nguyệt Mai từ những năm cách nay có tới 50 năm y như vậy!

 

Hai Trầu

Houston, ngày 29.11.2020



PHỤ CHÚ:

 

1/ Thơ Trần Thị Nguyệt Mai thời 1970-1975.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HƯƠNG MÙA ĐÔNG - Trần thị Nguyệt Mai


EM, ĐÊM THÁNG CHẠP

tiếng chuông xa đổ vang rền
kinh cầu nào nguyện giữa đêm vô cùng
thấy mùa đông đến bao dung
em chiên ngoan nhỏ ngập ngừng lễ đêm.

HÔM QUA

sương khuya rơi ướt áo vàng
mùa đông đã đến bàng hoàng tim em
hôm qua ai bước qua thềm
thổi vào hồn ngọn gió đêm lạnh lùng.

MƯA ĐÔNG

cơ hồ ngày tháng vây quanh
nhớ chi đến thuở lâm hành quan san
mimosa đã nở vàng
mưa rơi đủ nhỏ cho hàng lệ sa.

HOAN CA NGÀY VỀ

đường khuya gió lạnh buốt vai
xin lời thánh sủng mãi đầy trong tim
chim bay về đêm giáng sinh
cất cao tiếng hót giữa thinh không buồn.

 
Trần Thị Nguyệt Mai
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 229, ra ngày 1-12-1974)

 

Nguồn: https://tuoihoandmore.blogspot.com

 

THƠ XUÂN 1975 - Trần thị Nguyệt Mai 

 

BÊN TRỜI THÁNG GIÊNG

 
Những cành lộc mới đùa trong gió
Bé đứng bên trời Xuân, tháng giêng
Nghe lòng một chút hương hoa cỏ
Xanh ngát hồn thơ trổ ý hiền.


LẬP XUÂN
 
Có con chim én về mừng tuổi
Nắng lụa trải đường cho bé đi
Anh thấy trong mây trời buổi sáng
Mắt bé màu xanh ngát lưu ly...
  

SUỐI NGỌT
 
Tặng me một đóa cúc vàng
Khi mùa Xuân đến dịu dàng trong con
Tình thương mãi đậm tim non
Me là bóng mát, suối nguồn bao dung.

 

Trần Thị Nguyệt Mai  

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 231, Tết Ất Mão, ra ngày 25-1-1975)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

 

RU GIẤC ĐÔNG XƯA - Trần thị Nguyệt Mai 

Em ngủ trong mùa đông
Giấc mơ ươm nụ hồng
Hạnh phúc là hơi thở
Sưởi ấm những cõi lòng
 
Me ru em nho nhỏ
Trong giấc ngủ đông xưa
Em má hồng môi đỏ
Hạnh phúc đã mấy mùa
 
Một mai rồi em lớn
Ngày hồn nhiên sẽ qua
Để một chiều một sớm
Thấy đời những xót xa
 
Tay đan xanh giấc nồng
Bây giờ một mùa đông
Cô bé mắt nai ướt
Có chợt thấy bâng khuâng?


Trần thị Nguyệt Mai
(Trích từ Bán Nguyệt San Tuổi Hoa số 220, ra ngày 1-3-1974)

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com
 

CÔ GIÁO - Trần thị Nguyệt Mai 


tay cô dính đầy bụi phấn

áo cô hồng tô cuộc đời

cô khuyên "không nên thù hận

các em bé nhỏ thương ơi!"

 

nghề cô như là nghiệp dĩ

cô thương ghê lắm trẻ thơ

đôi mắt sáng ngời bao ý

cô giáo một lần mộng mơ…

 

mai sau các em khôn lớn

những cánh chim non rời trường

một lần về thăm chốn cũ

hẳn là ánh mắt nhớ thương

 

các em đi tìm cô giáo

môi cười nhắc lại ngày xưa

lúc ấy mắt cô mờ lệ

mừng cho trái nở đúng mùa

 

và thầy và trò không nói

nhìn nhau lệ đẫm bờ mi

những câu chào mừng han hỏi

giờ đây còn có nghĩa gì...

 

cô giáo say sưa giảng bài

lòng thầm nghĩ đến một mai

cô khẽ mỉm cười sung sướng

với những học trò thơ ngây

 

Trần Thị Nguyệt Mai

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 219, ra ngày 15-2-1974)

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

 

NGÀY XƯA - Trần thị Nguyệt Mai 

Khi xưa đi học em dốt toán
Mắc cỡ với cô, với bạn bè
Em thấy buồn buồn,em lo lắng
Làm sao phải giỏi toán mới nghe...

Ba thì đi lính trận miền xa
Lâu thật lâu mới về thăm nhà
Còn me tần tảo lo buôn bán
Gánh hàng lên tận chợ đường xa

Nên anh thay ba làm thầy giáo
Mỗi tối bên đèn dạy kèm em
Em nhớ lời anh thường khuyên bảo
"Làm toán nhiều em sẽ giỏi thêm..."

Mấy tháng học hành em tấn tới
Có bảng mầu hồng đem khoe anh
Khoe me,me khen rằng con giỏi
Em thưa: "Đó là nhờ công anh"

Me thưởng anh em mình hai chục
Mình mua me ngào với bánh đa
Còn tiền chiều đến ra chị Thục
Chén chè mè đen vị đậm đà

Bây giờ em đã xa tuổi nhỏ
Anh nối gót ba chí hải hồ
Nhưng có bao giờ anh còn nhớ
Thiên đường mật ngọt thuở ấu thơ?

 
 Trần thị Nguyệt Mai
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 226, ra ngày 1-9-1974)

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


CŨNG LÀ MÙA THU - Trần thị Nguyệt Mai 

 

Khi lá ngoài đường rụng đầy ngõ phố
và bầu trời như thấp xuống – nhiều mây –
mùa thu nào me âu yếm nắm tay
dẫn con gái nón nghiêng che đi học

gió heo may len lén hôn lên tóc
em thẹn thùng nép dưới vạt áo dài
cô bé mang chiếc cặp nhỏ trên vai
và chợt nghĩ mình bây giờ đã lớn!

con đường đi vương đầy sương buổi sớm
những bé như em chúng cũng đến trường
cơ hồ như một niềm vui ngát hương
đang ngự ở trong tim em bé bỏng

ồ trường kia nơi em đang mong ngóng
tí nữa đây me sẽ dẫn em vào
chọn cho con ngồi ngay ở bàn đầu
“me muốn con đầu lớp luôn đó nhé!”

rồi trống trường điểm lên ba tiếng nhẹ
cô giáo bước vào với áo hồng tươi
trên môi cô trang điểm những nụ cười
cô bé thấy thương cô làm sao lạ …

                      oOo

Và bây giờ khi mùa thu rụng lá
vẫn đến trường lòng vương chút bâng khuâng
cố ngăn đi giòng nước mắt bao lần
em vào lớp, ngôi vị chừ thay đổi

vẫn bảng đen, vẫn phấn còn hương mới
nhưng bàn thầy – chỗ ngồi của em đây
mi mắt sao bỗng dưng lại cay cay
khi nhìn xuống bàn học trò xưa đó

những em bé trước mặt là tập vở
còn thơm mùi giấy trắng thuở ban đầu
nắn nót từng hàng và viết từng câu
bài học mới cô giáo vừa giảng dạy

những gương mặt ban đầu còn ái ngại
len lén nhìn xem cô giáo dữ hiền
(hành động xưa được lặp lại y nguyên)
em bỗng nhớ ngày vàng son thơ ấu …


Trần Thị Nguyệt Mai
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 208, phát hành ngày 1-9-1973)

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com
 

DỖ EM - Trần thị Nguyệt Mai 


Mưa đổ xuống rồi
Em ơi ngủ say
Kẹo bánh đừng vòi
Má mình đi tự sớm mai…

Kìa em nhìn xem
Những bong bóng nước
Rơi ở bên thềm
Em cười nghiêng nghiêng… mắt ướt…

Thương má cực khổ
Nắng mưa dãi dầu
Thương em còn nhỏ
Đói khóc, no cười, hiểu đâu…

Trời mưa, trời gió
Chị ru nho nhỏ
Em hãy ngủ đi
Ngoan ngoan khép mi, đừng khóc…

   Trần Thị Nguyệt Mai
(Trích từ Bán nguyệt san Tuổi Hoa số 210, ra ngày 1-10-1973)

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


 

SẦU MƯA THÁNG HẠ - Trần thị Nguyệt Mai 


Rồi mùa hạ trở về cùng bóng phượng 

Cùng tiếng ve, cùng mưa ướt đầu mùa
Bé nghe lòng bỗng dưng mà xao xuyến
Dội trong hồn vang vọng mấy âm thưa!

Mưa tháng hạ sao hồn mềm quá đỗi
Bé có hay đã tàn hết cuộc vui
Rồi mỗi người một đời sau trôi nổi
Còn lại chăng chút kỷ niệm ngậm ngùi

 

Mùa hạ, lỡ tay chào cách biệt   

Thì bé ơi mòn mỏi đến bao giờ
Mùa hạ, lỡ gọi người tha thiết
Những cung buồn rụng xuống cõi hồn thơ...

 

Trần Thị Nguyệt Mai
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 224, ra ngày 1-7-1974)

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com



2/ Vài bài thơ Trần Thị Nguyệt Mai hôm nay

 

LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY VỌNG GIÁNG SINH 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Buổi sáng bình an chờ ngày sinh Chúa
Cà phê ấm áp lúc tháng năm tàn
Mong ngày Giáng Sinh yêu thương mang đến
Tình Chúa sáng ngời cho khắp thế gian…

 

Trần Thị Nguyệt Mai

24.12.2018



CUỐI NĂM

 

Ta đón Xuân sang từ viễn xứ
Nơi đây tuyết trắng lạnh kinh hồn
Gió thổi càng làm thêm buốt giá
Lòng người xa xứ nỗi hoài hương…

 

Quê hương hai tiếng xa vời vợi
Của những ngày xưa yêu dấu thơ
Của những ngày Xuân trời ấm áp
Nắng lụa mềm trải nhẹ như tơ

 

Em năm mới rộn ràng hơn pháo Tết
Áo đỏ xanh khoe với xóm giềng gần
Phong bì đỏ tươi bên cành lộc biếc
Cùng mai vàng rạng rỡ trời Xuân

 

Nhớ lắm nồi bánh chưng thịt mỡ
Ngoại chuẩn bị làm từ 25
Củ kiệu, dưa hành không thể thiếu
Thịt đông, bánh tráng, cá thu kho…

 

Rồi đến 30 – đêm trừ tịch
(Đêm yên lành trong tất cả đêm)
Ngoại bày bánh mứt, hương, hoa quả…
Dâng cúng Đất Trời, tạ Tổ Tiên

 

Những ngày Tết ấy giờ xa lắm
Người của ngày xưa cũng không còn
Quanh đây chỉ có màu tuyết trắng
Phủ ngập một trời nỗi nhớ thương…

 

Trần Thị Nguyệt Mai
31.12.2014


 

NGÀY XUÂN

Như trong truyện cổ tích
Một bà tiên hiện ra
Cầm đũa thần gõ nhẹ
Úm ba la… ba la…

 

Bỗng thấy mình nhỏ lại
Thuở còn thơ bé thơ
Xúng xính quần áo mới
Tóc ngang vai, cột nơ

Cây mai nở vàng rực
Trước sân nhà khoe bông
Cùng cúc vàng, thược dược,
Thắm tươi với hoa hồng

 

Tủ thờ lư sáng loáng
Mâm ngũ quả đong đầy
Bánh chưng xanh, dưa hấu
Mừng năm mới sum vầy

 

Vòng tay con chúc Tết
Ông bà cùng mẹ cha
Đồng tiền thơm mừng tuổi
Con sung sướng hít hà

 

Xa xa vang tiếng pháo
Giòn giã nơi nhà ai
Ngày xuân tươi vui quá
Mong xuân cứ đến hoài

 

Chợt giật mình thức giấc
Ô! Giấc mơ mà thôi
Soi gương đầu đã bạc
Cô bé xưa xa rồi…

 

Trần Thị Nguyệt Mai


 

NĂM SẮP MỚI

 

Năm sắp mới*
Đang đi tới
Người phơi phới
Tình yêu đời
Mong mọi người
Luôn sức khỏe
Hồn tươi trẻ
Tâm thân an
Quý hơn vàng
Khi năm mới
Đang đi tới…

 

Trần Thị Nguyệt Mai

 

* Trích trong câu chúc của Bs Đỗ Hồng Ngọc

1.1.2017
 

Tết Ly Hương

CÀNH MAI NGÀY TẾT

Thương tặng chị Thái Kim Lan

 

Ngoài vườn sân tuyết ngập
Giá băng lạnh buốt hồn
Trong nhà mai rực rỡ
Ấm áp tết ly hương


Trần Thị Nguyệt Mai
11-2-2018

 

HOA ĐÀO TỪ SANTA ANA

Thương tặng chị Khánh Minh

 

Từ Tiểu Sài Gòn* nắng ấm
Hoa đào nhà ai nở rồi
Màu hồng tươi môi thiếu nữ
Mang Xuân đến cho mọi người…

 

Trần Thị Nguyệt Mai
11-2-2018

(*) Little Saigon, California, USA

 

NỒI BÁNH CHƯNG

Mến tặng anh chị Phạm Cao Hoàng

 

Xa quê nhưng vẫn nhớ
Nồi bánh chưng giao thừa
Màu xanh xanh của lá
Dẻo bùi của nếp thơm
Mà mẹ đã chọn kỹ
Những nguyên liệu thật ngon
Thêm tình yêu trong đó
Gói thành bánh cho con.

 

Trần Thị Nguyệt Mai
11-2-2018


 

TẶNG NGƯỜI SINH NHẬT MÙA THU

Thân mến gửi chị Thanh Lương

 

Sinh nhật mùa thu, sinh nhật mùa thu
mùa đất trời nên thơ rất đỗi
nàng nhẹ bước vào cõi nhân gian
lấp lánh ánh sáng màu xanh biếc
của ngôi sao trên bầu trời diễm tuyệt
nàng là ai nàng là ai
cho đất lành mang mầm xanh
cho cây nở hoa và kết trái

cho thương yêu khâu vá lại tim người (*)
chúc mừng sinh nhật ngày vui
thanh lương yêu nhé một đời bình an...

 

Trần Thị Nguyệt Mai

10.1.2020
(*) những dòng chữ nghiêng lấy ý từ Bài Kinh Ca Tụng Đất Mẹ của Làng Mai.

 

KHẤN NGUYỆN

Mến tặng chị PTC

 

Chúng mình quen nhau mùa Xuân
Hoa cỏ trỗi mình trở dậy
Sau mùa Đông trời lạnh cóng
Cho thêm ấm áp mùa Xuân

Chúng mình yêu nhau mùa Xuân
Hoa nở bừng khoe sắc
Chim líu lo giọng hót
Anh nghe hồn lâng lâng

 

Chúng mình đi qua mùa Hạ
Trời xanh, xanh những áng mây
Không thiếu những ngày nắng nóng
Thương thêm ngày dịu mát này

 

Để khi mùa Thu nhẹ tới
Lá xanh bỗng trở vàng ươm
Thoáng chốc thành màu ủ dột
Còn đâu em thắm môi son?

 

Mùa Thu mùa rơi rụng lá
Anh nhìn từng Thu đi qua
Chắp hai tay anh khấn nguyện
Em đừng vội bỏ đi xa

 

Đừng như mùa Thu rơi lá
Hãy còn ở mãi bên anh
Đừng như mùa Thu tan tác
Tình chúng mình mãi tươi xanh.

 

Trần Thị Nguyệt Mai

5.7.2020

____________________________

TTNMai_noilongcohoctro.jpg
TTNMai_Rugiac.jpg
TTNMai_emthangchap.JPG
TTNMai_TuoiHoaGiangSinh.JPG
TTNMai_TuoihoaXuan.JPG
TTNMai_TuoiHoa220.JPG
TTNMai_TuoiHoa226.JPG
TTNMai_TuoiHoa210.JPG
TTNMai_TuoiHoa224.JPG
TTNMai_LeKyThuongDoHongNgoc.JPG
TTNMai_Tuoihoa208.JPG
HaiTrau_self.JPG

                  HAI TRẦU _______________

 

                          VÀI GHI NHẬN RỜI RẠC

                          SAU HAI CHỤC NĂM ĐỌC LẠI 

                         “QUÊ HƯƠNG XA MÃI NGÚT NGÀN”

                          CỦA LÊ CẦN THƠ

Tôi vốn thích đọc sách viết về công việc đồng ruộng, cày bừa, cắt gặt, giăng câu, giăng lưới ở các tỉnh miền Tây Nam phần, vùng sông nước Cửu Long, lúc còn ở trên Boston, Massachusetts, tôi đã đọc quyển “Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn” của nhà văn Lê Cần Thơ (2000) và nay sau hai chục năm, tôi lai rai ngồi đọc lại quyển sách này nhằm mục đích vừa giải trí giữa mùa dịch bịnh covid lây lan khắp mọi nơi vừa tìm lại chút tình quê qua các trang sách của tác giả. 

 

1/ Về tác giả.

 

Bìa sau của quyển sách “Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn” xuất bản năm 2000, phần tiểu sử, tác giả Lê Cần Thơ ghi: “Sinh tại một quê nghèo miệt Cần Thơ; học Trung học tại trường Phan Thanh Giản; Đi lính khóa 5/68 trường Bộ Binh Thủ Đức” và “Tập tành viết lách để tạo cho tinh thần bớt đi căng thẳng trước cuộc sống và tình đời”

 

Mặc dù nói vậy, nhưng qua phần bút danh và phần báo chí mà ông tham dự thì tác giả Lê Cần Thơ viết báo từ thời ông làm Thư ký tòa soạn nguyệt san Triều Sóng Xanh của trường Phan Thanh Giản (Cần Thơ) năm 1966; rồi làm Tổng thư ký tạp chí Văn Nghệ Miền Tây tại Cần Thơ do Ngũ Lang chủ biên năm 1967-1968; từ năm 1988 tới năm 2019 là Chủ bút tạp chí Văn Hóa Việt Nam do Phạm Quang Tân chủ nhiệm; ngoài ra, tác giả còn có rất nhiều bút hiệu khi làm thơ viết văn, cho thấy tác giả Lê Cần Thơ là nhà báo chuyên nghiệp với hơn nửa thế kỷ trong nghề!

lttrung_LCT_3.JPG

2/ Về làng Trường Long, Phong Điền, Cần Thơ

 

Trở lại với cuốn Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn của tác giả, ở phần “Vào Tập” (Thay lời tựa), tác giả nói rõ hơn về quê quán của mình: “Tôi đã sống trong miền quê Trường Long nghèo khó từ thuở mới chào đời, đã hít thở không khí thôn dã quê mùa, nên trong cách nhìn, cách nghĩ của mình cũng không thoát khỏi cái phong vị nơi mình chào đời.” (trang 9). 

 

Từ đó, người đọc biết quê tác giả là làng Trường Long và nổi tiếng về món cam ngọt mà trong thơ của Nguyễn Cát Đông- Trần Bang Thạch có lần đã nhắc:

“Ngun ngút đồng xanh Thác Lác, Bà Đầm

Tấp nập ghe xuồng ngã Bảy, ngã Năm

Cam ngọt Trường Long, khóm thơm Long Mỹ

Rộn rịp hát đình Bình Thủy, Cái Răng...”

 

Theo sách Địa Chí Hành Chính Các Tỉnh Nam Kỳ Thời Pháp Thuộc (1859-1954) của tác giả Nguyễn Đình Tư xuất bản năm 2017(*), theo thống kê năm 1939, thì làng Trường Long thuộc tổng Thới Bảo, quận Ô Môn gồm các làng: Định Môn, Thới Đông, Thới Lai, Thới Thạnh, Trường Lạc, Trường Long, Trường Thành, và ngày nay thuộc quận Phong Điền (Cần Thơ); còn quê của nhà văn Trần Bang Thạch (Nguyễn Cát Đông), theo thống kê năm 1939, là làng Thường Thạnh Đông, tổng Định Bảo, thuộc quận Châu Thành, tức quận Cái Răng. Cả hai tác giả Trần Bang Thạch và Lê Cần Thơ là hai nhà văn tiêu biểu vùng Cái Răng và Phong Điền (Cần Thơ).

 

3/ Về cái tình quê của tác giả

 

Sở dĩ chúng tôi đi tìm quê quán như vậy nhằm tìm ra cái chất sông nước ruộng vườn nơi quê nhà lúc tác giả sống ở đó hồi còn nhỏ phần nào rất ảnh hưởng tới văn phong của tác giả trên những trang sách. Ví dụ, tả về “dòng sông quê tôi”của mình, tác giả, Lê Cần Thơ viết:

“Dòng sông quê tôi (…) nó tiếp giáp sông Cần Thơ vào Cầu Nhiếm, đến ngã ba chợ Phong Điền thì rẻ trái vào Vàm Bi, để từ đây có thể đi Giồng Riềng (tỉnh Kiên Giang). Bà con quen gọi là ngã cái. Bởi ngã cái chạy dọc uốn quanh năm bảy cây số còn có nhiều nhánh con tua tủa hai bên giống các rễ con của một thân cây đeo vào rễ cái, như Kinh Chợ, Rạch Vông, Mương Củi, Cai Cẩm, Mương Điều, Trà Ết, Mương Cau, Rau Muôi, Ông Hào, Cần Đước, Mương Kinh, Xẻo Lá…”

(Dòng Sông Quê Tôi, trang 111)

 

Từ dòng sông quê tôi với nhiều kinh rạch chằng chịt như vậy, tác giả dẫn người đọc tới cái “nghề đăng cá” của gia đình mình qua bài thơ Ghe đăng, có đoạn:

 

“Miền tây sông rạch đan màn lưới

Ba sống nghề đăng cá dưới sông

Hơn nửa kiếp đời thân khó nhọc

Thương con…ba khổ biết khôn cùng.

 

Ba khổ từ khi vừa gặp má

Nhà nghèo, ruộng đất kiếm không ra

Phát thuê, đập mướn từng công đất

Để kiếm tiền mua gạo, muối cà…

 

Từ lúc xóm làng bừng lửa giặc

Cõng con, dẫn mẹ khắp miền quê

Ba lo chạy đói - cơm từng bữa

Khoai bắp thường hơn gạo lúa giê.

 

Rồi ba học được nghề đăng cá

Lặn ngụp từng đêm dưới rạch sâu

Năm năm tháng tháng quen sông nước

Quen nỗi buồn đau kiếp dãi dầu.”


(Ghe Đăng, trang 114)

 

Niềm mơ ước của tác giả rất đơn sơ mà tha thiết: “Ước vọng của tôi là muốn được về bên chiếc ghe đăng cá, là về với dòng sông quê hương, về với kỷ niệm ấu thơ đậm sâu dấu ấn trong cuộc đời mình, vì ở đó đã luôn gợi nhớ trong tôi hình ảnh của Ba suốt đời gian khổ để tạo cho anh em chúng tôi có cuộc sống nên vốc nên hình.”

(Dòng Sông Quê Hương, trang 116)

 

4/ Về cách diễn tả những nỗi niềm khi có nhiều cảm xúc

 

Dường như ngoài những trang văn xuôi, tác giả Lê Cần Thơ khi cần diễn tả tấm chơn tình của mình với nhiều cảm xúc, ông lại mời người đọc bước vào hồn ông qua những vần thơ khá mộc mạc mà chân tình! Những cuộn khói đốt đồng mịt mù ngày nào thuở tác giả còn là những đứa trẻ chạy giỡn theo những cánh diều bay bay trên bầu trời thơm thơm mùi rơm rạ ấy; những cuộn khói ấy nó lùa theo gió vây phủ một khoảng trời, câu thơ của ông rất đơn sơ, mộc mạc mà cảm động:

 

“Tháng này chiều tỏa khói đồng

Trôi xa lãng đãng bên dòng tuổi thơ

Tôi về thương chút mộng mơ

Bỏ quên từ lúc hững hờ chiến tranh.

 

Tháng này trời thiếu màu xanh

Không gian nhàn nhạt buông mành tơ sương

Mùi rơm cháy - mùi khói đồng

Cho tôi cái nhớ khoảng trong kiếp đời.

 

Tháng này đất ruộng nghỉ ngơi

Thuở xưa tôi thích đùa chơi thả diều

Bây giờ tất cả thương yêu

Vụt ngang tiềm thức giữa chiều quê hương.

 

Tháng này chợt nhớ chợt thương

Miền thơ ấu cũ mù sương khói đồng

Nắng chiều tỏa sắc cầu vồng

Tôi men lối cũ mà lòng bâng khuâng…”

(Khói đồng, trang 170)

 

5/ Về vài chữ dùng và không khí nhà quê với đời sống nơi làng Trường Long, Phong Điền (Cần Thơ) của tác giả thời thơ ấu

 

Tập sách Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn của Lê Cần Thơ, ngoài những trang sách nhắc về các di tích lịch sử văn hóa như chùa chiền, đình thần, núi non, sông rạch hoặc các khu thương mại chợ búa của tỉnh Sóc Trăng, Châu Đốc, Hà Tiên, Trà Vinh, Cần Thơ … nhưng đời sống nơi làng Trường Long (Phong Điền) của tác giả mới là phần chánh yếu dạt dào nỗi lòng của một người con xa quê mà lòng lúc nào cũng khắc khoải nhớ về một chốn cố hương. Theo thiển ý của tôi, các đề mục dưới đây là những nét tiêu biểu ấy:

Ngày mưa rủ nhau đi lượm trái rụng (trang 158).

Dầm mưa đi bắt kiến vàng (trang 160).

Ngày mưa dặm cù bắt chuột (164). 

Nhớ mùa cá lên đồng (169).

Nhớ chuyện ruộng đồng (175).

Đuổi bắt chim trên ruộng lúa (trang 176).

Đặt trúm bắt lươn (trang 183).

Đặt lờ bắt cá sặt (trang 185).

Giăng câu bắt cá theo mùa (trang 186).

 

Là một người đọc gốc gác làm ruộng và già như tôi, tôi đã nhìn ra cái vui sướng của tác giả khi ông kể cho người đọc qua những kỷ niệm hồi còn nhỏ như lượm xoài rụng, bắt kiến vàng, dặm cù chuột, đi soi cá ban đêm, giăng câu, cắm câu, đặt lờ tôm, lờ cá sặt, đặt trúm và tôi nghĩ đây là những trang sách dù còn sơ sài nhưng nó giúp cho người đọc biết thêm nếp sống hồn nhiên của cư dân nơi vùng làm ruộng cấy của tác giả, dù mỗi năm chỉ cấy có một mùa!

 

Nhắc về ruộng cấy ở làng Trường Long, tác giả kể:

 

“Khi cá lên đồng tìm chỗ đẻ một thời gian là nông dân bắt đầu phát cỏ trên các đường lươn để cấy giâm. Lúa giâm bén rễ và bắt đầu nhảy rẻ mập ra… người ta có thể lội qua những đám lúa non đó để giăng câu hay soi bắt cá.” (trang 172)

 

“Khi nước đã tràn đồng, cá đã đẻ xong, cá mẹ dẫn từng đàn cá ròng ròng đi ăn khắp nơi, người ta cũng bắt đầu phát cỏ dọn đất để cấy (cấy giâm khoảng tháng 7 và cấy liền khoảng tháng 10 âm lịch- là cách làm ruộng mỗi năm một mùa vào thời điểm thập niên năm mươi, sáu mươi ở quê tôi). (trang 189).

 

Qua hai đoạn vừa trích, điều này cho biết cư dân các vùng Ô Môn, Cái Răng, Phong Điền, Phong Thuận và nhiều vùng làm ruộng cấy chắc hổng ai có ý thắc mắc gì; nhưng các vùng khác như miệt Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc là những vùng tới mùa nước lên mực nước ngập rất sâu và làm lúa sạ, lúa mùa chắc không biết “cấy giâm” và “cầy liền” tức là “cấy thiệt”, “cấy thực thụ”, là cấy thế nào? Hồi đó, mấy năm làm lò gạch Cái Côn, quận Phong Thuận, tỉnh Cần Thơ, ngoài những ngày làm gạch là công việc chính, chúng tôi còn làm thêm cái nghề cấy lúa cho đất ruộng của lò gạch và thỉnh thoảng những ngày cuối tuần còn lãnh cấy lúa mướn cho các miếng ruộng trong vùng nữa, nên tiện đây tôi xin phép ghi lại các giai đoạn của việc cấy lúa này.

 

Trong ruộng cấy có nhiều giai đoạn, nhưng trước nhứt là công việc rải mạ. Người ta dọn một miếng đất thật bằng phẳng rồi cày bừa cho nhuyễn và đem giống ra rải lên miếng đất ấy. Vì rải mạ nên người ta cần sạ giống cho dầy, vừa để tránh hao hớt vừa để sau này khi mạ đầy tháng còn nhổ mạ và chiết ra để cấy lại trên đất ruộng đang chờ để cấy. Bởi vậy trong dân gian khi có ai làm việc gì mà bị đổ đầy trên mặt bàn hay trên mặt đất người ta gọi rải mạ. Sau khi rải mạ như vậy mưa xuống hột giống sẽ lên dày bịt và đúng một tháng hoặc trồi sụt chút đỉnh là bắt đầu nhổ mạ và đem đi cấy. 

 

Nhổ mạ là nhổ nguyên một vạt đất như vậy và mỗi người nhổ mạ xong gom lại, mỗi bó độ chừng hai nắm tay thì họ dùng dây lạt tre hoặc lạt dừa nước bó mạ lại ở phần gần gốc cây mạ có ý làm cho bó mạ không bị sút sổ. Trước ngày cấy lúa trên đất đã cày bừa trục nhuyễn sẵn thì công việc kế tiếp là giang mạ. Giang mạ là người ta chở mạ hoặc gánh các bó mạ vừa mới nhổ xong bỏ đều trên miếng ruộng sắp cấy. Tùy theo muốn cấy dày hoặc cấy thưa mà mỗi công đất sẽ được phân phối số mạ nhiều hay ít. Trung bình người ta tính theo cây tầm đo đất, chiều dài 3 thước, gọi là tầm cấy hoặc tầm cắt. Mỗi tầm cấy như vậy cấy 12 bụi mạ, hoặc 14 bụi, gọi là cấy dầy; nếu cấy 10 bụi mạ, gọi là cấy vừa; còn cấy 8 hoặc 6 bụi mạ thì gọi là cấy thưa. 

 

Về động tác cấy có mấy động tác chính như sau: tay mặt vừa cầm nắm mạ vừa cầm nọc cấy, ngón cái bàn tay mặt vừa đẩy một ít mạ tách rời nắm mạ gọi là ra mạ, nếu ra mạ mà ít quá gọi là bắt nhẻ. Thông thường người đi cấy lúa mướn thì 3 người họ lãnh cấy chung nguyên một công đất, tức là mỗi người cấy một phần ba (1/3) công, còn gọi tắt là một góc ba. Do vậy tâm lý giữa chủ ruộng và công cấy có những suy nghĩ trái ngược nhau. Chủ thì lúc nào cũng muốn công cấy cấy dầy; còn công cấy thì muốn cấy thưa cho mau xong công đất để mau về sớm. Ở nhà quê có câu thiệu: “Bắt nhẻ, cấy thưa, tầm đưa vô đít”, ý nói “bắt nhẻ” là bắt mạ rất ít, thay vì vừa tay cho một bụi mạ khoảng năm gốc mạ thì người công cấy đi cấy mướn lại tách mạ rất ít, chỉ hai hoặc ba gốc mạ thôi, nhằm để cấy cho mau, khỏi mất công phải lấy mạ hoài lâu rồi công. “Bắt nhẻ” như vậy có cái hại là gặp trời nắng nước ruộng bị nóng và bụi mạ khó bén rễ, có khi mạ bị chết và miếng ruộng này khi lúa lớn lên sẽ hao hớt, thưa thớt. 

 

Cũng là ruộng cấy nhưng ở miệt Cái Côn (Cần Thơ) người ta không rải mạ mà dùng chày tỉa để tỉa mạ. Chày tỉa là một cái cây làm bằng cây tràm hoặc bất cứ cây gì mà săn chắc bào cho láng, dài vừa khỏi đầu, một đầu chuốt nhọn như trái vụ để khi cầm chày tỉa cắm xuống đất và khi lấy chày lên sẽ để lại một cái cái lổ vừa gieo mạ. Công việc tỉa mạ có hai người cùng làm, một người dùng chày tỉa xắn lổ và người kia bỏ hột giống và lấy tro trấu lấp hột giống lại. Sau vài ba ngày tùy theo giống khô hoặc giống ngâm mà mạ mau lên hoặc chậm lên. Cái này cũng có cái lợi và cái hại tùy theo thời tiết. Gặp trời nắng nóng thì giống khô ít hao, lúa giống nằm đó chờ mưa từ từ rồi mọc mọng và lên cây; trái lại gặp trời mưa thì giống ngâm mau lên cây hơn, mạ ít hao. Sau khi cấy mạ được một tháng, người ta bắt đầu dùng tay nhổ mạ. Nhổ mạ như vậy rồi cũng dùng dây lạt để bó mạ nhưng chưa đem ra ruộng cấy liền, mà phải dọn sẵn một miếng đất khác để cấy số mạ này. Công đoạn cấy lần này gọi là cấy giâm mà trong sách của tác giả Lê Cần Thơ có nhắc. Cấy giâm có nghĩa là đem mạ còn non cấy lại một lần nữa cho cây mạ cứng cáp và nở ra nhiều thêm rồi mới bứng mạ một lần nữa và lúc bấy giờ mới giang mạ và cấy thiệt thọ còn gọi như tác giả là “cấy liền” trên miếng đất mà mình muốn trồng lúa và chờ tới mùa lúa chín là lo kêu công cắt gặt. 

 

Sở dĩ gọi bứng mạ vì giai đoạn này mạ đã lớn, mỗi bụi mạ nở nhiều tép mạ rất mập và rễ mạ bám chặt xuống đất nên người ta phải dùng dao để xắn bụi mạ lên chứ không phải nhổ mạ bằng tay như lúc mạ còn non nữa. Con dao bứng mạ cũng chỉ là con dao yếm, tức là loại dao thông dụng trong nhà bếp mà dân quê thường dùng để xắt thịt, làm cá nhưng với dao yếm bứng mạ thì mũi dao bản bự hơn loại dao yếm thường, đặc biệt là được mài rất bén. Thông thường một bụi mạ người ta phải xắn ba góc mới lấy bụi mạ lên được an toàn không bị đứt rễ nhưng với dân bứng mạ chuyên nghiệp người ta chỉ bứng hai nhát dao là bụi mạ lấy lên được khỏi mặt đất và không bị đứt rễ. Cái hay của chuyên môn là ở cách bứng mạ ấy vì nhờ vậy mà công việc bứng mạ mau xong sớm. 

 

Còn cấy giặm là cấy thêm những chỗ ruộng lúa bị hao hớt vì lúa chết hoặc cua kẹp. Dù làm lúa sạ hay lúa cấy gì khi lúa bị hao người ta hay mướn công cấy và chiết mạ từ những chỗ lúa dày để giặm vá vào những chỗ trống này.

 

Vì phần nhiều các sự việc làm ruộng, phát cỏ, cấy lúa, bắt cá, bắt lươn… mà tác giả thuật lại trong sách là công việc ở làng Trường Long, quê của tác giả, có lẽ vì là vùng làm lúa cấy nên thời gian làm mùa cũng như những chi tiết về mỗi nghề có khác đôi chút so với các vùng làm lúa mùa, lúa sạ miệt Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc và nhiều vùng nước ngập sâu có khi tới hai ba thước nước vào mùa nước lên vào khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, nên đọc sách của Lê Cần Thơ, người đọc ở thành thị có khi hơi ngờ ngợ. Chẳng hạn như câu thơ: 

 

“Ba khổ từ khi vừa gặp má

Nhà nghèo, ruộng đất kiếm không ra

Phát thuê, đập mướn từng công đất

Để kiếm tiền mua gạo, muối cà…”

 

Hai chữ “đập mướn” theo tôi hiểu có lẽ tác giả muốn nhắc những ngày thân phụ của mình phải đi đập lúa mướn vào mùa cắt gặt; vì làm ruộng cấy, người ta không có gom lúa vô cà lang cao vòi vọi trong một cái sân rộng như lúa sạ lúa mùa miệt Long Xuyên. Bạn còn nhớ hồi xưa, khi tới mùa cắt gặt nếu bạn đi qua các vùng Mỹ Tho, Tân An dọc theo quốc lộ 4 ngày trước làm ruộng cấy, các bạn thấy người ta mướn công cắt và công đập lúa bông ra lúa hột. Lúc bấy giờ có người gom từng ôm lúa và đập vô cái bồ nhỏ dừng chung quanh bằng tấm mê bồ chỉ chừa cái cửa để người đập lúa ôm mớ lúa đập lên tấm vỉ tre cho lúa hột rụng ra và lúa không văng ra ngoài.

 

Nếu có dịp bạn đọc được cuốn sách này, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi đọc được đoạn tác giả đi soi cá, soi lươn được cá lươn nhiều lắm; vì cá lươn nhiều quá nên ham cứ mải miết men theo đường nước và soi cá bỏ đầy giỏ; nhưng khi mệt rồi lên bờ ngồi nghỉ thì thấy lại trong giỏ toàn là đất sét với chỉ có vài con cá hủng hỉnh thôi. Đó là lần duy nhứt tác giả bị ma cho cá lươn bằng đất sét. 

 

Nhắc điều này để thấy hồi đời xưa ở các vùng quê nói chung, không riêng gì làng Trường Long (Cần Thơ), ngay ở miệt Lấp Vò (Sa Đéc) hoặc Mặc Cần Dưng (Long Xuyên) đâu đâu người ta cũng hay bị ma nhát, ma giấu vô bụi tre gai và ma cho ăn đất sét là chuyện kể hằng đêm mà hồi nhỏ mấy đứa nhỏ tụi tôi đứa nào cũng thích nghe kể chuyện ma nhưng khi nghe xong rồi tới khuya lại sợ ma hổng dám đi dìa nhà một mình!

 

Riêng tôi thì bị ma nhát hà rằm! Nhứt là những đêm đi ngủ giữ lúa giữa đồng hay những đêm đi giăng câu, giăng lưới, trong lúc ngủ chờ tới giác đi thăm câu, thăm lưới thì thường bị ma đè không nhúc nhích cục cựa gì cho nổi; dù có xuồng mấy bạn đậu cặp bên cùng ngủ với mình nhưng hổng cách gì mở miệng kêu tiếp cứu được; đến lúc tỉnh lại rồi mệt gần chết luôn!

 

Sở dĩ tôi nhắc qua chuyện ma nhát, chuyện ma biến cá lươn thành đất sét như tác giả kể hồi đời xưa trên trang sách là có thật chứ hổng phải chuyện hư cấu, tưởng tượng. Hồi đó cách nay sáu bảy chục năm, ở quê, tụi nhỏ chúng tôi đi bắt cóc, bắt ếch vào mùa mưa hoặc mùa cóc, mùa ếch hội vào tháng 9, tháng 10 âm lịch cũng vậy. Mùa cóc hoặc mùa ếch hội là mùa chúng bắt cặp và đẻ trứng; gặp cóc ếch bắt cặp ham lắm cứ mê mệt vì cóc ếch lúc bấy giờ con đực nằm lên lưng con cái mê man bất kể trời đất, và chúng gần giống như chết vậy, nên lúc bấy giờ mình chỉ cần lượm một cặp, một cặp rồi cứ thể bỏ đầy giỏ, mà nhứt là nơi các gò mả, đất nhị tì nước ngập lắp xắp cóc ếch càng rủ nhau tụ hội rất đông nữa; nhưng lượm cóc ếch một hồi mệt mới ngồi nghỉ và coi lại giỏ cóc gần đầy chưa thì ôi thôi, toàn là đất sét không hà! Lúc bấy giờ mới biết sợ là bị ma nhát! Ghê lắm!

LTTrung_coc hội.JPG

6/ Nhìn lại vài tác giả viết về đồng quê.

 

Ngày nay, viết về đời sống nơi nhà quê cách nay sáu bảy chục năm có nhiều tác giả đã viết. Chẳng hạn như vùng Xà Tón (Tri Tôn) có nhà văn Phong Hưng-Lưu Nhơn Nghĩa với các tác phẩm tiêu biểu Như Cánh Chuồn Chuồn, Con Đường Cũ; viết về vùng Bắc Nam quận An Phú (Châu Đốc) có nhà văn Khiêm Cung- Dương Văn Chung (Úc Đại Lợi) với các tác phẩm Nội Ngoại Đều Thương, Thằng Mập, Nhớ Một Vàm Sông, Những Mảnh Hồn Tôi; viết về ấp Bà Bài (Tịnh Biên, Châu Đốc) có nhà văn Anh Phương- Trần Văn Ngà; viết về Vàm Kinh Cũ (Châu Phong, Châu Đốc) có chị Nguyễn Thị Lộc Tưởng; viết về con sông Láng Thé, làng Long Thuận, đồng Cây Cách (Trà Vinh) có Ký Ức của Huỳnh Văn Lang người sáng lập tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn) và quyển “Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn” của Lê Cần Thơ… Mỗi tác giả có văn cách riêng nhưng dường như các tác giả đều gặp nhau ở một điểm chung là có những ngày tuổi thơ sống nơi các làng quê của mình và cỏ lẽ nhờ thế mà thiên nhiên đã un đúc nên cá tính của mỗi người, từ đó mỗi người có những kỷ niệm riêng và văn phong riêng làm nên những trang sách qua những hồi ức làm nên các tác phẩm riêng của chính mình.

 

7/ Thay lời kết

 

Những trang sách của Lê Cần Thơ qua quyển “Quê Hương Xa Mãi Ngút Ngàn” là loại văn kể chuyện; tác giả kể về những hồi ức của mình thời ấu thơ, thời theo ghe đăng của cha, thời những Ngày mưa rủ nhau đi lượm trái rụng (trang 158), Dầm mưa đi bắt kiến vàng (trang 160), Ngày mưa dặm cù bắt chuột (164), Nhớ mùa cá lên đồng (169), Nhớ chuyện ruộng đồng (175), Đuổi bắt chim trên ruộng lúa (trang 176), Đặt trúm bắt lươn (trang 183), Đặt lờ bắt cá sặt (trang 185), Giăng câu bắt cá theo mùa (trang 186); tức là tác giả muốn phác họa lại bức tranh đồng quê về cuộc sống của cư dân nơi làng Trường Long (Phong Điền-Cần Thơ) của mình có một thời làm ruộng cấy như thế nên văn của ông tự nhiên, mộc mạc, giản dị, không tô chuốt, bóng bảy mà đượm cái tình quê, tình gia đình và tình bạn bè từ những ngày còn thơ ấu cho dĩ chí tới tuổi xế chiều qua dòng đời nhiều biến đổi nhưng những tình tự ấy không thay đổi trên các trang sách của Lê Cần Thơ! (**) 

 

Hai Trầu

Houston, ngày 22 tháng 11 năm 2020

 

Phụ chú:

(*) Theo sách “Địa Chí Hành Chính Các Tỉnh Nam Kỳ Thời Pháp Thuộc (1859-1954) của tác giả Nguyễn Đình Tư, nhà xuất bản Tổng Hợp Tp HCM, 2017, trang 173.

 

(**) Xin đính kèm vài hình ảnh kỷ niệm của nhà văn Lê Cần Thơ với các bạn văn nghệ:

LTTrung_pic_first.JPG
LTTrung_pic_6.JPG
LTTrung_pic_final.JPG
LTTrung_pic_group.JPG

                                            Hai Trầu                             

                               LAI RAI VỚI ANH TRẦN BANG THẠCH

                               VỀ CẦN THƠ CỦA ANH MÀ TUI BIẾT

                                            _______________________________

                                                 

                                                      Hai Trầu với chùm khế quê hương

                                    tại góc vườn nhà nơi đất khách

                                              

 

Anh Trần Bang Thạch quê làng Thường Đông, cách chợ quận Cái Răng tỉnh Cần Thơ khoảng 4 cây số. Hồi còn nhỏ ở quê làm vườn, học tiểu học. Thi tuyển đậu vào lớp đệ Thất trường Trung học Phan Thanh Giản (Cân Thơ). Sau khi học hết bậc Tú Tài, anh theo học tại Đại Học Văn Khoa & Đại Học Sư Phạm Sài Gòn vì hồi đó ở Cần Thơ chưa có Viện đại học. Khi ra trường năm 1970, anh Trần Bang Thạch được bổ nhiệm về dạy ở trường Trung học công lập Thủ Khoa Nghĩa ở Châu Đốc và năm 1980 anh đổi về dạy trường Trung học Thoại Ngọc Hầu Long Xuyên (lúc bấy giờ trường Thoại Ngọc Hầu có tên là trường Cao Đẳng Sư Phạm). Trước 1975, Trần Bang Thạch có viết văn, làm thơ và khi làm thơ ký bút hiệu Nguyễn Cát Đông với mục đích là để nhớ về làng Thường Đông thuộc quận Cái Răng, quê của mình nên trong giới văn chương thường gọi anh là nhà văn, nhà thơ nhưng tui thích gọi anh bằng “anh” hơn vì gọi như vậy nó vừa hợp với tính tình của anh vốn mô phạm, khiêm cung và lúc nào anh cũng nhớ mình là người gốc gác dân quê, miệt vườn, miệt ruộng mà nó cũng rất hạp với cái chất nhà quê của tui vốn là một người đọc già gốc gác ruộng đồng, quê mùa nhưng rất quí trọng người chữ nghĩa hiền tài nữa! 

 

Về thơ của anh, tui nhớ được đoạn thơ của Nguyễn Cát Đông tả cảnh sông nước vùng Cân Thơ của anh:

 

“Ngun ngút đồng xanh Thác Lác, Bà Đầm

Tấp nập ghe xuồng ngã Bảy, ngã Năm

Cam ngọt Trường Long, khóm thơm Long Mỹ

Rộn rịp hát đình Bình Thủy, Cái Răng...”

 

Tui cũng thích và cảm thông được tâm trạng của người thầy không còn đứng trước bảng đen và phấn trắng như những ngày nào lúc mới ra trường nữa qua Liên khúc Trường Xưa của tác giả:


 

* KHÚC LẠ TRƯỜNG
Nghe sao lạ những ngói vôi
lạ em giữa lớp, lạ tôi giữa trường
hạt mưa nào rớt qua đường
hay tôi mắt ướt giữa sương khói chiều!

 

* KHÚC LẠ LỚP
Em trong cửa lớp nhìn ra
Ta ngoài cửa lớp thấy ta một thời
những thầy, 

những bạn, 

những tôi
những cơn mộng cũ 

ngồi nơi góc nào?!
 
* KHÚC THẦY CŨ

Vẳng nghe tiếng trống trường thành
với câu chinh phụ còn quanh chỗ ngồi
người xưa? 

người đã đi rồi!
còn đây tiếng phấn nhẹ rơi giữa ngày!

 

* KHÚC NGƯỜI TRÊN BẾN LỠ
Người đi như sáo qua sông
như con nước lớn nước ròng ngược xuôi
tôi trên bến lỡ một đời
làm thân lá mục lạc trôi giữa dòng

 

(Nguyễn Cát Đông- Trần Bang Thạch, trang nhà Trần Thị Nguyệt Mai, ngày 09-11-2020)


 

Sau khi đã đọc “Lai rai với nhà văn Song Thao…” của Hai Trầu), Trần Bang Thạch viết:

 

“Anh Hai Trầu,

Đọc phỏng vấn nầy khoái quá, đúng là lai rai ba sợi. Lại còn bonus hình ảnh nữa. Vậy mà hay. Không khuôn phép gì ráo. Bạ đâu nói đó. Gốc nông dân nam bộ là vậy. Bây giờ mới biết anh cũng từng "tá túc" nhà tui, còn tui ở đậu nhà anh Châu Đốc và Long Xuyên khi kiếm cơm áo ở Thủ Khoa Nghĩa (Châu Đốc) (từ 70) & Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên) [từ 75 tới 80 rồi xuống "the river of no return" của Robert Mitchum]). Tui nhớ trường Bồ Đề (Cần Thơ) như in vì mỗi chiều (yes, mỗi chiều) tui đi qua lại từ nhà sách Văn Nhiều (38 đường Ngô Quyền, anh là thầy giáo chắc phải ghé nhà sách nầy?), băng qua đường Nguyễn An Ninh, tới đầu đường Nguyễn Trường Tộ, qua trường Bồ Đề, đi vài trăm thước là tới nhà "em yêu" (xéo Tây Đô bóng bàn).

Tiếc là thời đó mình hỏng có duyên gặp nhau. Ở Châu Đốc tui thường cà phe với Khai Phá, nhà thơ Thần Liên Lê Văn Tất, Liêm Châu, nhiều lần qua Hòa Hảo thăm nhà biên khảo Nguyễn Văn Hầu....

Vui và khỏe nghen Hai Trầu”

TBT

(Ngày 26.10.2020)


 

Cảm ơn anh Trần Bang Thạch.
Vậy là hồi đó anh quá hạnh phúc, được gặp các tác giả mà nhiều người mến mộ như “nhà thơ Thần Liên-Lê Văn Tất, Liêm Châu, nhiều lần qua Hòa Hảo thăm nhà biên khảo Nguyễn Văn Hầu..”. Vui quá! Chắc hôm nào anh thấy hứng thú, xin anh kể cho nghe về các vị tiền bối ấy nhe! Giờ mới sực nhớ quê anh hồi đó là làng Thường Đông, Cái Răng, Cần Thơ; rồi anh chạy giặc tản cư vô Trà Lồng năm nào mà anh nhớ và viết rất cảm động quá:

 

“Giữa tiếng đạn bom mỗi lần chạy giặc
Giữa lác, đưng, đỉa, muỗi Trà Lồng
Đôi tay mẹ như mây trời bát ngát
Một cánh cò vất vả nuôi con.”

Từ làng anh tới Trà Lồng có xa lắm hông và bơi xuồng theo con rạch nào vậy
anh?

“Anh Hai Trầu,

Chuyện hồi nhỏ của tui dài lắm anh vì nó bắt đầu lận đận từ 2, 3 tuổi tại 1 xẽo nhỏ là Xẽo Môn (sau nầy thuộc xã Long Thạnh, trên đường Cần Thơ - Phụng Hiệp). Lúc đó còn nhỏ quá mà phải di chuyển thường xuyên, chỉ nghe và nhớ tên các địa danh như Trà Lồng, Trà Cú, Ngả ba An Trạch...còn tới đó bằng ngả nào thì tui chịu!

Thời gian 5 năm ở Châu Đốc là tuyệt vời. Học trò, phụ huynh rất trọng người thầy. Tui thấy ai cũng hiền như Phật. Mỗi lần có đứa học trò sắp đi lính là thầy trò có dịp say từ giã trên đỉnh núi Sam. Nghĩ thật tội lỗi: nhiều lần tụi tui chơi tới bến trong sân chùa Cô ba Tràng (chắc anh biết chùa nầy?).Thời gian nầy nếu tui muốn chuyển về quê quán thì cũng được, nhưng quen đất, quen người không muốn xa. Về Long Xuyên từ sau 4/75 là do nhu cầu của họ khi trường Thoại Ngọc Hầu đổi thành Cao đẳng Sư Phạm. Tui ở nội trú trong trường cùng với các người gọi là giáo viên chi viện từ miền Bắc. Chán muốn chết (gặp họ ngày lẫn đêm!). 

Tui cũng thích đọc Song Thao lắm, ông ấy dùng vốn hiểu biết rộng với cái nhìn rõ nét từng sự việc bình thường. Gần đây tui ít xem báo nên không theo dõi được sinh hoạt làng văn.

Rất mừng anh còn giữ phong độ.

Chúc vui,

TBT

(Ngày 27.10.2020)


 

Dà, cái lễ nghĩa “trọng thầy” là do cái nếp nhà anh à! Hồi lớp tụi tui còn nhỏ xíu mỗi lần gặp thầy từ xa xa là trốn vì sợ thầy gặp, mà rủi tới gần, hổng cách nào trốn khỏi, là khoanh tay cúi đầu chào thầy rất kính nể. Hồi các lớp nhỏ bậc sơ học, tiểu học là thầy ưa đánh đòn mỗi khi dọn bài mà học trò hổng thuộc, mình sợ đã đành; mà khi lớn rồi và bắt đầu vào lớp Đệ Thất bậc trung học các thầy hết dùng roi vọt mình cũng rất sợ thầy dù thầy rất ít khi rầy mình! Dường như hồi đó học trò làng, học trò tỉnh vùng sông nước miền Tây của mình, nói chung, đâu đâu cũng đều kính trọng các thầy là vậy; chẳng những vậy mà các bậc cha mẹ, phụ huynh đều kính trọng thầy hết mực anh à! Bởi vậy, hồi xưa mới có mấy câu thuộc nằm lòng như:“Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy”; hoặc “Kính thầy mới được làm thầy”; hoặc “Không thầy đố mầy làm nên”, đó anh!

 

Tui còn nhớ hồi đó, lúc ở Cần Thơ của anh, tui chỉ dạy giờ ở vài trường tư thục như trường Bồ Đề, trường Tân Văn, trường Hậu Giang đâu chừng một niên khóa, rồi tui đổi đi ra Nha Trang khoảng vài ba năm, rồi sau cùng tui lại được hoán đổi để về lại Sài Gòn, vị chi tui xa Cần Thơ của anh khoảng hơn năm năm, vậy mà tới khi tui về lại Kinh Năm (Chương Thiện) phá rừng tràm, đào kinh lên liếp trồng khóm gặp lại học trò cũ ở Tân Văn, ở Bồ Đề cũng vô đây đào kinh lên liếp trồng khóm, có hai em lại hỏi tui:

“Dạ, Thầy còn nhớ em hông?” 

Tui trả lời:

“Lâu quá, thầy quên các em rồi. Em tên gì?”

Hai em đáp:

“Dạ, Em là Tâm; còn em là Bình học ở Bồ Đề và Tân Văn với thầy hồi thầy dạy lớp Đệ Lục đó!”

 

Rồi tui lại hỏi học trò:

“Sao hai em cũng vô đây?”

 

Các em mới trả lời:

“Ở nhà má em vì sợ tụi em ở nhà đi chơi, nên gởi hai em vô phường học, rồi phường đưa tụi em vô đây!”

 

Thiệt là quá cảm động phải hông anh Thạch? Chẳng những vậy mà sau này khi các em được về trước, mình còn kẹt ở lại, các em lại cụ bị đường, bột, gạo, sữa xách đầy giỏ đệm trở vô Kinh Năm thăm thầy mấy lần! Thiệt là tới bây giờ nhắc lại với anh mà tui còn muốn ứa nước mắt!

 

Dà, nhắc đến Cần Thơ của anh, tui có rất nhiều kỷ niệm. Kỷ niệm trước tiên là mấy kỳ xuống Cần Thơ của anh dự các kỳ thi Tú Tài I, Tú Tài II rồi tới khi đi nghe kêu kết quả nữa, có lúc lọt sổ, ôi thôi, Cần Thơ của anh lúc bấy giờ buồn thúi ruột! Có lần tui đi chung với anh bạn cùng làng để nghe kêu kết quả kỳ thi Tú Tài II, tui thì vần T nên số báo danh của tui được kêu trước và tui đậu dù chỉ đậu hạng “thứ” thôi anh à; còn anh bạn tui có vần X số báo danh lớn hơn và ở gần cuối danh sách, ảnh bị lọt tên, rồi tui cũng đâu có vui sướng gì đâu anh khi bạn mình đang buồn! 

 

Mà hồi đó (mấy năm 1963, 1964) Cần Thơ đối với học trò các tỉnh nhỏ tụi tui lần đầu xuống Cần Thơ là thấy Cần Thơ quá lớn, nhà nhà sung túc, phố xá tấp nập, nhứt là các con đường như đường Phan Đình Phùng chạy băng qua thị xã thì sầm uất, nơi có trường trung học tư thục Tân Văn nằm xéo xéo rạp hát Minh Châu, vui quá! 

 

Sau này có dịp trở lại Cần Thơ mấy năm 1966-1967, quan sát kỹ tui thấy Cần Thơ của anh có đại lộ Hòa Bình, rộng thênh thang với ngôi trường Thọ Nhơn dạy chữ Tàu, rồi có Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV nữa! Ngoài ra, khi Cần Thơ có Viện Đại Học thì gần khúc trường Thọ Nhơn có văn phòng của Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ và văn phòng Tổng Thư Ký của viện Đại Học nữa. Còn con đường Ngô Quyền có nhà sách Văn Nhiều mà có lần anh kể cho tui nghe là từ Cái Răng khi anh ra Cần Thơ theo học lớp Đệ Thất trường trung học Phan Thanh Giản anh trọ ở đó vì ông cậu ruột của anh là chủ nhà sách Văn Nhiều này. Tui mới kể chuyện với bà xã tui về anh và nhà sách Văn Nhiều, bà xã tui có biết tên nhà sách này vì hồi trước, khoảng năm 1970-1975 nhà sách Văn Nhiều thường hay đặt mua các sách báo ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp nơi Bookshop nằm ở số 41E đường Ngô Đức Kế (Sài Gòn) chỗ gần góc đường Ngô Đức Kế & Nguyễn Huệ vì lúc bấy giờ bà xã tui làm kế toán ở đó nên còn nhớ tên nhà sách Văn Nhiều (Cần Thơ), khá quen thuộc!

 

Cần Thơ của anh tui có biết con đường Cống Quỳnh về hướng vô vườn Thầy Cầu, cách cầu Đôi Mới chừng vài ba trăm thước, xéo xéo bên kia bờ rạch Cái Khế là chùa Sư Nữ với tiếng chuông chùa văng vẳng đưa sang bên này đường vào mỗi sáng mỗi chiều làm tui nhớ ngôi chùa Tân Phước Tự làng quê tui hồi những ngày còn nhỏ sống ở làng Tân Bình (Lấp Vò). 

 

Những địa danh mà tui ở trọ lúc mới về làm cu li ở Cần Thơ là căn nhà gần chùa Cây Bàng, nằm sâu trong con đường tráng xi măng từ chợ cầu Xã Đài (hay Cả Đài gì đó lâu rồi tui quên tên, chỗ này nhà thơ Trần Phù Thế nhớ rành lắm vì có lúc ảnh ở gần chỗ này); có lúc tui ở hẻm Hai Địa đường Phan Thanh Giản; rồi sau Tết Mậu Thân, tui dời qua hẻm số 2 đường Nguyễn Trải trọ, chỗ gần nhà đèn Cần Thơ; còn cơm tháng thì có lúc ăn cơm tháng chỗ chị Sáu đường Ngô Quyền, có lúc ăn cơm tháng chỗ Dì Tư nơi Ụ Tàu, chỗ gần chợ Cái Khế trên đường đi Long Xuyên. Nhắc qua những lần tui ăn cơm tháng chỗ này chỗ kia như vậy, giờ nhớ lại mình cũng lang thang quá mạng phải hông anh?

 

Hồi đó, nhớ lại lúc ở Cần Thơ của anh tui ít đi chơi chỗ này chỗ kia dù làm cu li ở đó khoảng gần hai năm; lúc bấy giờ tui có biết vườn sầu riêng Thầy Cầu trong ngọn rạch Cái Khế tới mùa sầu riêng bà con ưa vô vườn mua trái cây như sầu riêng, vú sữa; ngoài ra, gần bắc Cần Thơ, cách chợ Cái Khế một đỗi, phía tay mặt có một vườn ổi xá lị rộng lắm và có mận nữa, tới mùa đông ken trái quằn nhánh, khách thăm vườn đông lắm!

 

Ở Cần Thơ của anh mấy năm đó, cách nay hơn nửa thế kỷ, tui có nhận xét là những con hẻm trong tỉnh lỵ Cần Thơ của anh có cái vui là hẻm nào cũng có vườn tược xanh um, cây trái mát rượi mà nhứt là món mận, món quít, món cam, món bưởi khi tới mùa trổ bông, bông mận, bông cam, bông quít, bông bưởi nở rộ và gió mang theo mùi thơm của các loại bông này lan tỏa khắp cả một vùng! Thơm dữ lắm, nhiều lúc tui cứ tưởng hổng có bông gì tinh khiết và thơm cho bằng các loài bông mận, bông bưởi, bông cam, bông quít đơn sơ và chất phác như các loại bông này! 

 

Đó là nhắc về những ngày đi thi Tú Tài 1, Tú Tài 2, và những ngày đi làm cu-li ở Cần Thơ; còn về sau này có lúc tụi tui ở Long Xuyên cùng bị đưa xuống Chủng viện Cái Răng chỗ quê gốc của anh, trong đó có nhiều anh bác sĩ làm ở Bịnh viện Long Xuyên, có anh TBĐ (Chánh sở Học Chánh Long Xuyên), có cả mấy ông chánh án và nhiều bạn học hồi trước ở Long Xuyên cũng cùng đi xuống Cần Thơ của anh dịp này. Chủng viện Cái Răng tui nhớ chừng dường như cách cầu Cái Răng hổng xa lắm! Nếu mình từ trên Cần Thơ đi xuống theo quốc lộ số 4, về hướng đi Sóc Trăng thì khi xe vừa qua cầu Cái Răng là quẹo tay mặt liền và xe chạy một đỗi đâu chừng chưa tới một cây số là tới Chủng Viện Cái Răng liền hà! Tui chỉ biết quê Cái Răng của anh chỉ có chừng ấy nhưng sao cứ nhớ hoài hà! Chắc có lẽ đó là khoảnh khắc mà mình không có ý đi tu nhưng lại lê bước chưn vào chủng viện Cái Răng rồi ăn và ngủ ở đó ba khoảng ba bốn tháng nhưng lúc bấy giờ nghe trong lòng nó dài thườn thượt!

 

Ở đây, mấy ngày đầu tụi tui bắt đầu làm rẫy trồng cải, trồng rau muống, trồng cà… Đâu chừng ba bốn tháng thì nửa đêm, một số chuyển xuống tàu và tàu chạy hoài, chạy hoài đâu chừng gần cả ngày thì tàu ủi vô bãi bùn đầy dừa nước. Hồi đó cả mấy trăm người cứ lơ mơ chẳng biết mình đang bị đưa đi đâu, về đâu? Với một tâm trạng hoang mang cùng tột lại nhớ câu Kiều để tự an ủi mình thôi anh Trần Bang Thạch:

“Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Thử xem con tạo xoay vần đến đâu!”

Mà thực tình ra, lúc bấy giờ hổng “nhắm mắt” mình cũng chẳng biết phải làm gì hơn nhe anh! Sau này định thần lại rồi nghe người này nói, người kia kể là tàu đi theo lộ trình là bắt đầu vô rạch Cái Răng của anh, rồi vô kinh xáng Xa No, ngang qua chợ Vị Thanh, vô chợ Hỏa Lựu, vô cầu đúc Cái Sình, vô Kinh Năm, vô vùng rừng tràm bạt ngàn thiên dã ngày ấy cách nay cũng gần nửa thế kỷ rồi …

 

Anh biết hông, khi tàu ủi mũi vô tới bãi dừa nước, là từng người, từng người quảy nồi niêu áo quần men theo con đường mòn của con kinh vậy là cứ đi miết, đi miết đâu chừng cả hơn cây số, là bắt đầu vô các trại vừa mới cất bên bờ con kinh còn hoang địa ấy. Vậy mà rồi tui ở đó mút mùa lệ thủy, hổng biết ngày dìa luôn nhe anh!

 

Công việc mỗi ngày lúc bấy giờ là đào kinh, đi rừng đốn tràm, móc gốc tràm để có đất cấy lúa, đào liếp làm rẫy, rồi trồng khóm mà trong thơ anh có nhắc “Cam ngọt Trường Long, khóm thơm Long Mỹ” là trúng y bon đó, vì khóm ở đây cũng như khóm cầu đúc Cái Sình ngọt hổng thua khóm Bến Lức, Tân An anh à! Mà vùng này, người Tiều ở rải rác, xa xa mới có một nhà nhưng nhà nào cũng có trồng nhiều khóm, họ sống với nghề trồng khóm lâu đời; có nhiều rẫy khóm lão, tuổi đời có tới mấy chục năm hơn!

 

Sau mấy tháng làm đủ thứ nghề, có một hôm người ta hỏi anh nào biết lội, tui do dự một hồi rồi giơ tay nói tui biết lội đại hà! Mà hồi xưa con nít ở nhà quê như mấy anh em mình, đứa nào mà hổng biết lội anh Thạch, nhưng lội bập bũm vậy thôi chứ làm cái nghề lặn lội dỡ chà là phải lội giỏi và lặn dài hơi mới làm nổi chứ lội như mình còn lâu mới theo nổi cái nghề này! Thế là tui thuộc vô tổ chất chà và dỡ chà tức là cái tổ chuyên ở trần với cái quần xà lỏn mút mùa chỉ để lội và lặn làm cái nghề chất chà dỡ chà bắt cá dọc theo hai con sông chảy ra vùng ngả ba nước trong tời tuốt xuống vùng Vĩnh Thuận, xa lắm mà tui thì hổng rành địa thế ở đó nên hổng dám tán rộng anh Thạch ơi! Vì lặn dở nên khi tui nín thở để làm cái chuyện nhổ chà, rồi gạn lưới bắt cá ở mấy chỗ sông sâu, nên hồi đó mỗi khi lặn xong một đống chà tui hay bị lùng bùng hai lổ tai như có ai táng mạnh vô lổ tai mình vậy đó; và có lẽ bị vậy mà giờ, khi về già, tui bị điếc quá nặng đó anh!


Thế rồi, tui làm nghề chất chà được đâu khoảng bốn năm có hơn với khoảng trên 30 đống chà chất dọc theo hai con sông nằm hai bên đầu kinh Năm chạy dài xuống tới kinh Zéro thuộc vùng Hỏa Lựu, Long Mỹ đó; với số chà nhiều như vậy nên ngày nào tụi tui cũng đi dỡ chà cứ xoay vòng, xoay vòng hoài hà; nay dỡ đống chà này, mai chất đồng chà dỡ mấy hôm trước rồi ngày mốt lại dỡ đống chà kế tiếp; hồi xưa ông bà mình hay nói “làm mệt nghỉ” nhưng tụi tui làm mệt mà hổng có ngày nghỉ, suốt mấy tháng trời nắng vùng này cho tới mùa mưa thì cá lên đồng, tụi tui gom chà vô mé chờ mùa tới lại chất chà tiếp; cực lắm nhưng bù lại được đi lặn lội ngoài sông cái và có cá tôm ăn lúc hoạn nạn hồi đó vậy!

 

Rồi đến một hôm tụi tui nghỉ dỡ chà và nằm chờ… Đùng một cái có lịnh kêu tên và cụ bị quần áo qua bên hội trường và lý do thì hổng biết để làm gì! Sau ba điều bốn chuyện tụi tui gồm 10 anh em xuống một chiếc tắc ráng và bỏ nghề dỡ chà ở Kinh Năm từ đó. Lúc bấy giờ bắt đầu đi thì từ Kinh Năm, tui nhớ chiếc tắc ráng chở tụi tui đi ra chợ Long Mỹ, rồi ra ngả ba Hòa An, xuống Phụng Hiệp chỗ ngả Bảy Phụng Hiệp nằm bên cạnh quốc lộ 4 đường Cần Thơ đi Sóc Trăng, rồi vỏ lãi lại trực chỉ rạch Cái Côn mà chạy tới chợ Cái Côn rồi quẹo mặt theo sông cái Hậu Giang và rồi ghé lại chỗ lò gạch Cái Côn gần rạch Cái Cau cũng đâu gần tối mịt mới lui cui dọn đồ lên bờ! Mọi thứ lại thêm một lần bỡ ngỡ nữa vì lạ nước lạ cái nhe anh Thạch! 

 

Ở đây nói là lò gạch Cái Côn, chứ khi tụi tui tới thì có một số anh em cùng hoàn cảnh như mình đã có ở đó trước rồi, và tui chẳng thấy lò gạch chỗ nào, mà nhìn chung quanh chỉ thấy cái nền rộng trên một khu đất mà hồi đời trước ở đây người ta có một lò gạch sẵn nhưng nay dường như chỉ còn cái nền thôi! Thế rồi tụi tui làm quen và hòa hợp với mấy anh em trước để bắt đầu những ngày mới! Có cái này vui lắm nhe anh Thạch, trong cuốn Mùa Màng Ngày Cũ, nơi “Mùa làm gạch”, tui có viết:

 

“Việc làm gạch in ngói, nói đúng ra là không có mùa vì gạch ngói in trong nhà, không in ngoài sân, ngoài đồng như nhiều nghề khác. Nói thế nhưng nghề làm gạch là mùa nắng thích hợp nhứt. Vì mùa nắng tiện cho việc làm đất, mà cũng tiện cho việc phơi gạch, vô lò và ra lò nữa. Nhưng trước khi kể qua các công việc quen thuộc ấy, chúng tôi xin nhắc qua một chút về việc xây lò gạch.

HaiTrau_self.JPG
LTTrung_lò gạch.JPG

Trước nhứt bạn muốn xây lò gạch, bạn nên có một sở đất không trồng được loại cây ăn trái gì vì đất nơi ấy là đất sét; mà đất sét trồng cây không tốt nhưng làm gạch ngói rất tốt. Rồi bạn sẽ mướn nhơn công đào gánh đất đắp nền lò gạch, đắp nền nhà in gạch, nhà phơi gạch. Rồi còn phải thêm phần đất để dùng vào việc in gạch nữa. Do vậy, một khuôn đất dựng lên lò gạch tương đối phải hơi rộng mới đủ, bằng không thì lò gạch dựng lên như ở Rạch Gòi Lớn, Rạch Gòi Bé (Long Xuyên) rất nhỏ.

 

Thông thường, theo thợ lò chuyên nghiệp mấy năm chúng tôi về làm lò gạch Cái Côn (Cần Thơ) bên bờ sông Hậu Giang, thì muốn một lò gạch chứa đựng được 100.000 viên gạch để nung cho chín thì phải dùng 100.000 viên gạch xây lên lò gạch ấy. Lò gạch có thể là hình vuông, hình tháp hoặc hình trụ tròn có nóc ở trên. Nhưng trước hết là nền lò gạch phải vững chắc kiên cố thế nào để khi xây 100.000 viên gạch lên cái nền ấy mà không bị lún, bị nghiêng thì đó là cái nền lò lý tưởng nhứt.

 

Nhớ năm ấy, khoảng 1980, toán chúng tôi gồm mười anh em về lò gạch Cái Côn cùng với một số anh em có tại đây trước cùng nhau bắt đầu đào móng đóng cừ tràm xây lò gạch đầu tiên nơi này. Móng thì hình vành khăn tròn, bề ngang khoảng một thước. Với số tràm cừ cây bằng cườm tay, dài ba thước, tổng cộng là 10.000 cây tràm cừ phải đóng hết xuống chưn móng lò gạch dự trù xây lò 100.000 viên như vừa kể. Hồi ấy mình dù còn trẻ nhưng cũng đã qua gần năm năm phá rừng đào liếp khóm rồi nên tay chưn cũng rã rời mỏi mêt dữ lắm. Thế nhưng nay lại phải đóng thêm 10.000 cây cừ tràm sâu xuống 3 thước, từ cây cừ này cách cây cừ kia chỉ một tấc tây, thì thiệt tình chỉ nghe thôi là đã ớn rồi nói gì đóng cho hết số cừ tràm khổng lồ ấy. Vậy mà rồi chúng tôi hai ba anh em theo một cái chày vồ và lần lượt đóng cừ như vậy suốt cả tháng trời! Lúc đầu cố gắng đóng lút cừ; chỗ đất nào mềm cừ dễ xuống sâu, còn chỗ nào gặp đất sét cứng thì cũng rán đóng cho hết chiều dài cây tràm cừ 3 thước như vậy. Mỗi ngày gặp nhiều vùng đất cứng đóng cừ hết xuống nổi, chúng tôi lại càng thấy sức mình quá mỏi mệt. Về sau này khi quen công việc rồi thì chỗ nào đóng cừ xuống tới đâu thì đóng, còn chỗ nào gặp đất cứng cừ hết xuống nữa thì anh em cùng nhau dùng búa chặt ngang phần cây cừ tràm còn lại. Do vậy mà sau này càng đóng cừ càng mau vì số tràm bị chặt lại khá bộn và số này cũng không mất mát đi đâu, chúng tôi chặt ra và chẻ củi cho nhà bếp làm cũi nấu cơm. Và đặc biệt là nền lò gạch vẫn không bị lúng hoặc nghiêng đổ gì. Có lẽ dùng tới 10.000 cây cừ tràm là quá nhiều rồi chăng?

 

Giai đoạn đóng cừ là ngán nhứt nhưng rồi cũng qua. Kế tới là đi mua gạch về để xây lò. Gách thì nặng mà sông Hậu Giang có khi nước ròng sát, ghe xuồng đậu xa bến, chúng tôi phải vác gạch xuống ghe rồi vác gạch lên bờ chuẩn bị xây lò. Với 100.000 viên gạch như vậy mà vừa vác xuống ghe rồi lại vác lên bờ biết bao là cực, nhưng rồi cũng vác xong nhưng tối ngủ nhúc nhích cục cựa gì cũng thấy ê ẩm mình mẩy không bút mực nào kể cho xiết.

 

Có gạch sẵn rồi là bước qua giai đoạn kế tiếp cho ghe qua Trà Ôn chở cát về làm hồ xây lò. Không biết kỹ thuật tân tiến ngày nay xây lò gạch bằng loại hồ gì nhưng vào khoảng trước nữa cho chí tới mấy năm 1980-1983, chúng tôi thấy xây lò gạch có cái vui là không ai xây lò bằng xi măng như xây nhà mà phải dùng bùn non trộn với cát cồn làm hồ xây lò gạch. Khi hồ bằng bùn non và cát cồn gặp lửa hầm gạch nóng lên cát sẽ chảy ra thành chất thủy tinh kết dính các viên gạch lại với nhau nên lò gạch không bị nứt bể; còn nếu bạn dùng xi măng xây lò với sức nóng của lửa nung gạch không cách gì xi măng chịu đựng nổi sức nóng ấy được và lò gạch sẽ bị nứt bể. Còn trộn hồ xây lò gạch, người ta đào một cái hầm bề ngang khoảng ba thước, bề dài chừng bốn hoặc năm thước, chiều sâu chừng năm hoặc sáu tấc rồi xuống sông hoặc xuống hầm gần đó xúc bùn lên đổ vào hầm này; sau đó đổ cát cồn vô trộn đều miễn sao ông thợ chánh thấy hồ có độ dẻo vừa xây lò được là ngưng lại và bắt đầu dùng hồ này xây lò. Khi mẻ hồ bùn với cát này hết, người ta bắt đầu trộn thêm mẻ hồ khác. Nhưng thường thường người ta canh làm sao mỗi ngày chỉ trộn một lần hồ dùng đủ cho cả một ngày thôi, hôm sau sẽ trộn mẻ hồ mới cho ngày hôm sau; có như vậy nhơn công đỡ phải vất vả và mệt nhọc. 

 

Còn việc xúc cát giữa cồn gần chợ Trà Ôn cũng cực nhưng cực gì thì cực miễn sao có đi qua chợ Trà Ôn rồi lên chợ uống cà phê, mua bánh trái ăn thì thấy cũng bớt cực chút đỉnh. Khi ghe qua tới Trà Ôn chỗ cồn mình định xúc cát vào lúc nước đang lớn và cho ghe cắm sào bỏ neo đậu ngay trên nền cồn cát mới nổi ấy. Thế rồi cơm ghe bè bạn lo cơm nước ăn uống xong là ngủ một giấc chờ tới khi nào nước ròng cát lòi lên và chiếc ghe đang nằm khơi trên mặt cồn cát, anh em lại hè nhau mỗi người một cái len miểng chia làm hai toán qua hai bên hông ghe xúc cát vô len và bơi lên ghe. Và cứ vích cát lên ghe vậy hoài cho tới khi nào nhắm ghe cát gần đầy và thấy nặng nặng là ngưng lại, tắm rữa thay quần áo chờ nước lớn ghe cát nổi lên là quay ghe về lại Cái Côn. Về tới lò gạch Cái Côn lại bắt đầu gánh cát lên bờ rồi hôm sau hoặc vài ba ngày sau lại qua Trà Ôn chở cát tiếp cho đến khi lò gạch xây xong mới thôi chở cát nữa. 

 

Công việc xây lò gạch là do ông thợ cái đứng ra xây, chúng tôi chỉ phụ mang gạch và vác hồ cung cấp cho ông thôi. Có một điều rất tài tình là ngoài những vật liệu là gạch, cát và bùn non thôi, kỳ dư không có vật liệu nào khác chống đở nhưng những người thợ chánh xây lò gạch họ đã xây được những lò gạch như các bảo tháp vừa cao vừa lớn mà khi mình bước vô bên trong lò bổng thấy mình vô cùng bé nhỏ trước một không gian mênh mông bên trong lò gạch sản xuất 100.000 viên gạch như vậy.                                     

 

Tưởng cũng nên nhắc qua một chút về khâu làm đất để in gạch. Thật ra, công việc nào làm bằng tay cũng chỉ là do kinh nghiệm mỗi cá nhân làm công việc ấy nhuần nhuyễn nhiều ngày mà ra, không ai tài giỏi gì hơn ai. Chẳng hạn bạn muốn làm đất để in ngói, in gạch tàu thì công việc trước tiên là dùng len miểng xới đất thật mỏng. Công việc này đòi hỏi làm từ từ, không gấp gáp gì và làm sao những lưỡi len xắn đất thật mỏng, đều đều bằng nhau tránh xắn đất không đều, miếng này quá dày, miếng kia qúa mỏng. Vì nếu xới đất không đều sau này khi mang đất lên in gạch ngói đất sẽ bị óc trâu, in ngói dễ bị bể. Sau khi bạn xắn đất giáp mí hầm rồi, bạn ban đất lại cho bằng phẳng, dẽ-dặt và chà láng mặt đất vừa mới xới xong ấy. Sau cùng bạn xả nước vô đầy hầm nhằm mục đính ngâm đất cho đất nở ra. Sau khi ngâm nước như vậy xong, qua vài ngày sau, nếu bạn muốn in ngói, thì lại phải xả nước trong hầm đất này ra và xới đất này lại một lượt nữa; rồi cũng lại ban đất cho bằng mặt, chà láng và lại thả nước vô ngâm đất lần thứ hai. Chừng nào cần in ngói, người ta lại tháo nước ra và chuyền đất này lên bờ vun thành cây cho ráo nước và qua chừng một hoặc hai ngày sau là thợ có thể lấy đất này bắt đầu in ngói, in gạch tàu được rồi. Mỗi một hầm đất như vậy có chiều dài chừng sáu thước, chiều ngang khoảng ba hoặc bốn thước là trung bình. Thường thường trong chu vi lấy đất làm gạch, lúc nào ở dưới đó cũng có sẵn ba bốn hầm đất đã xới xong và ngâm nước sẵn như vậy. Mấy hầm đất này có cái vui là khi mình mới xới một lớp len miểng thì đất vừa tới nửa ống chưn, nhưng sau khi bạn ngâm nước vài đêm thì đất lại nở ra thêm, lúc bấy giờ lớp đất xào xới này lên cao có khi qua khỏi đầu gối. Hồi đó, hai móng chưn cái của tôi qua hơn hai năm làm đất in gạch bị hư hết, không ra móng được vì ngày nào cũng đứng sâu trong bùn như vậy.

 

Đó là cách làm đất in ngói và gạch tàu. Đất in gạch thẻ, còn gọi gạch tiểu, thì không cần phải xới lại lần thứ hai. Nếu in bằng tay thì chỉ một lần xới đất xong rồi ngâm nước như vừa kể là có thể lấy đất lên in gạch được rồi. Đất in gạch đại cũng vậy, không cần làm đất kỹ hai lần như vậy, chỉ xới sơ sơ, ban đất cho dẽ dặt rồi ngâm nước một đêm là lấy đất lên để ráo là in gạch được rồi.

 

Sau này có máy in gạch ống, gạch tiểu, gạch đại thì làm đất in bằng máy đơn giản hơn. Bạn chỉ cần bắt dây năm, mười người tùy theo chiều xa từ dưới hầm lấy đất lên tới chỗ bỏ đất xa hay gần mà sồ người nhiều hay ít để chuyền đất lên bờ, ngay bên cạnh chỗ nền đặt máy in gạch. Ở điểm cuối cùng này, tức là nơi bỏ đất dồn đống lại, có một hoặc hai người dùng len miểng xắn đất nhỏ lại, lâu lâu lại xách nước tưới sương sương lên đống đất vừa xới, nhưng không nên tưới ướt quá đất sẽ nhão khó in. Đất mà chứa thành đống như vậy gọi là cây đất. Tùy theo số lượng mình muốn in bao nhiêu gạch mà làm mấy cây đất để sẵn để khi cần in là có đất sẵn sàng. Hồi đó chúng tôi lúc nào cũng có ba hoặc bốn cây đất khô để in gạch ống, gạch thẻ như vậy.

 

Việc in gạch ống hay gạch thẻ bằng máy thì cũng đơn giản lắm. Máy chạy có thợ máy coi chừng điều khiển máy đã đành, ngoài ra có toán xắn đất cho vào máy cũng vài ba người túy theo máy chạy nhanh hay chạy chậm. Ở đầu gạch in ra, cũng có vài người bắt gạch để lên xe rồi có người kéo xe đem gạch này đi phơi. Thường thường ở đầu gạch ra này có khoảng ba hoặc bốn xe mới di chuyển gạch vừa in xong đem đi phơi mới kịp. Gạch phơi trong những nhà phơi mái thấp, lấy cái gió làm gạch khô dần chứ không phơi ngoài nắng vì nắng nóng gắt làm gạch dễ bị nứt và bể. Gạch phơi như vậy khi nào khô gom lại chất thành từng cây, mỗi cây gạch khoảng năm trăm viên chẳng hạn miễn sao gạch chất vuông vắn không bị ngã đổ và dễ đếm để khi nào số gạch in đủ 100.000 viên là bắt đầu vô lò để đốt lửa nung gạch.

 

Giai đoạn vô lò chỉ có một ông thợ chánh là có quyền và chịu trách nhiệm sắp xếp gạch, từ dưới lên tới nóc lò với những đường dẫn lửa rất thông để khi đốt lò lửa cháy đều và chạy từ dưới nền lò lên tới nóc lò; còn nhơn công chỉ phụ ông mang gạch vào lò để ông chất thôi. Dường như các nghề thủ công của người Việt Nam ít có ai dạy nghề cho người khác, nên dù làm lò gạch Cái Côn gần ba năm chúng tôi chưa biết phải chất gạch vô lò như thế nào. Nhưng có điều, chúng tôi biết làm nghề thợ chánh vô lò gạch họ rất tin tưởng ông thần lò. Lò gạch nào cũng có bàn thờ ông thần lò ngay cửa ra vào và ông thợ chánh lúc nào cũng nhang đèn cúng kiếng ông thần lò rất chu đáo.

 

Lò gạch với sức chứa 100.000 viên gạch như vậy vô lò cũng mất gần cả tuần mới xong. Xong xuôi đâu đấy ông thợ chánh cho chất củi bên trong cửa lò và van vái ông thần lò trước khi châm mũi lửa đầu tiên đốt lò. Hồi ấy lò gạch Cái Côn chụm bằng củi cây mắm. Các ghe củi mắm chở tới bến lò gạch và chúng tôi vác củi lên chất thành từng cự dài xung quanh lò gạch để khi đốt lò mình vác củi vô lò cũng gần. Mỗi lóng củi mắm như vậy có bề dài chừng tám tấc, bề hoành cỡ ba bốn tấc tùy theo cây mắm lớn hoặc nhỏ.” (…)

 

Sau khoảng hai tuần từ khi bế lửa tắt lò là lò gạch đã nguội rồi. Nói lò nguội là nói chung như vậy nhưng khi chuyền gạch ra lò có chỗ gạch vẫn còn hơi nóng, đôi lúc phỏng tay. Hồi đời trước ra lò gạch thường chuyền tay, sau này nhiều lò gạch có thang để chuyền gạch xuống tiện hơn và ít nguy hiểm hơn chuyền bằng tay.

 

Có một điểm cũng cần nhắc là gạch dù vô lò cùng một lượt, nổi lửa đốt lò nung gạch cùng một lượt, thời gian nung gạch giống nhau nhưng gạch khi ra lò có ba loại gạch khác nhau. Thứ nhứt là gạch chưn lò. Gạch chưn lò dù ở gần bên đống lửa chụm lò nhưng gạch này xấu nhứt vì lửa rút lên trên nên độ chín của nó chưa chín lắm, gạch có màu tái tái. Thứ hai là gạch giữa lò, còn gọi là gạch lòng tàu. Loại gạch này chín màu đỏ au tốt nhứt trong ba loại gạch và nó cũng chiếm tỉ lệ rất cao trong số gạch vừa nung xong. Thứ ba là gạch trên nóc lò, còn gọi là gạch ngọn. Vì bao nhiêu lửa nóng trong lò đều theo đường dẫn lửa rút lên tuốt trên ngọn để thoát ra ống khói nên lửa ở ngọn lò là nóng nhứt. Gạch ngọn vì lửa nóng nên chín quá và viên gạch trơn láng thành da lu, nên gạch này cũng thuộc loại gạch các thợ xây nhà ít dùng vì da láng khi xây với hồ bằng xi măng hồ ít dính.”

 

“Có một điểm nữa khi nhắc về mùa làm gạch ngói, như một định lệ có sẵn là các thợ lò chuyên môn xây lò vô gạch dù tiền ăn công rất cao nhưng sao ông thợ nào cũng hổng được khá cho lắm nếu không muốn nói là rất nghèo. Còn nhơn công làm cho lò gạch trong việc in gạch ngói bằng tay cũng vậy; dường như người nào cũng nghèo, có khi chạy ăn từng bữa, ít khi nào có dư. Thêm nữa những cư dân ở gần lò gạch không biết sao họ cũng nghèo theo. Ngoài lò gạch Cái Côn mà tôi từng làm ở đó, nhơn công người nào cũng nghèo, mà dân tình chung quanh lò gạch ở đó cũng nghèo.”

 

Anh Trần Bang Thạch ơi,

 

Nhơn nhắc Cái Côn (Cần Thơ) của anh tui lại nhớ hồi đó nơi bến sông chỗ lò gạch này sao mà tôm nhiều quá mạng, mà trong “Mùa làm gạch” tui có ghi:

 

“Nhắc lại mùa làm gạch mấy năm cách nay gần năm chục năm làm tui cũng nhớ lại những ngày gian truân một thời. Tôi cũng nhớ những ngày chẻ tre đan lờ đặt tôm ngay dưới bến sông nơi lò gạch Cái Côn tọa lạc. Tôm hồi mấy chục năm trước nhiều lắm. Chiều nào tui cũng cùng vài anh em đem lờ tôm với miếng mồi dừa trắng phau xuống ngay mé sông móc vùng cạnh các gốc bần đặt lờ. Chỉ đơn giản vậy mà sau một đêm thức dậy lo làm đất in gạch để rồi tới trưa khi nghỉ ăn cơm là tui chạy ùn xuống sông dỡ lờ. Vậy mà rồi lờ nào cũng có vài ba con tôm càng lửa phơi mình trong lờ đỏ rực, thấy bắt ham. Hồi ấy, tụi tui cũng lội cặp mé sông dùng rỗ xúc cá bóng trứng theo mấy khóm lục bình, cỏ xước, rau muống tấp nơi các gốc bần, cá bóng nhiều lắm. 

 

Nhắc lại những năm tháng làm lò gạch cũng để nhớ những anh em sống bên nhau một thời, những người đã giúp đở và thương mến tui rất nhiều qua những công việc quá nặng nhọc mà nhiều lúc tui không cách gì kham nổi! Những bạn như bạn Sáu Nhỏ Hòa An, anh Sáu Bá Vị Thanh, anh Trực Thốt Nốt, anh Đính Cần Thơ, anh Tư Bồ Ót, anh Phước Cái Vồn và còn nhiều nữa những tấm lòng yêu thương giữa những ngày cơ cực ấy mà tui vẫn nhớ hoài mỗi lần có dịp ngồi ôn lại một đoạn đời của mình! Nhớ hồi ấy có lần tui đau thập tử nhứt sanh trong suốt gần nửa năm trời; lúc bấy giờ tui đứng không vững, đi phải lần vách tưởng rằng mình sẽ bỏ xác nơi lò gạch Cái Côn ấy vào những năm 1981-1982, nhưng may sao, sau năm sáu tháng đau đi không nổi ấy rồi lại mạnh lại. Xin cảm ơn các anh, các bạn, những người năm cũ ngày nào! Nay các anh và các bạn đang ở đâu?!?”

 

Tưởng cũng nên nhắc qua một chút về chợ Cái Côn thuộc Cần Thơ của anh cho trọn tình với địa danh này… Đây là cái chợ của quận lỵ Phong Thuận nhưng chợ rất nhỏ, nằm ngay ngả ba rạch Cái Côn và sông Hậu Giang. Như mọi chợ làng quê vùng miền Tây của mình, chợ Cái Côn có nhà lồng chợ ở đó bày bán đủ thứ như mấy sạp bán vải, mấy quán cà phê, và vì chợ nhỏ nên tui nhớ dường như chợ Cái Côn hổng có tên đường mà chỉ là những con đường trong chợ nằm dọc theo các dãy phố vậy thôi, nhưng ở đây hồi đó bà con tốt bụng dữ lắm! 

 

Nhờ hồi đó, mỗi cuối tuần, từ lò gạch Cái Côn mấy anh em tụi tui được đi ra chợ theo con đường lộ đá đời Tây đấp còn được dùng cách chợ chừng ba cây số để mua đồ lặt vặt, và mỗi lần mua tương chao hoặc nước mắm, đường, gạo …, các chị bán các hàng hóa ấy họ bán rất rẻ, chỉ lấy chút tượng trưng thôi; có chị như chị Bảy bán nước tương đựng trong mấy can nhựa chứa năm ba lít nước tương, chị tặng luôn, hổng lấy đồng nào hết nhe anh Thạch! 

 

Rồi cũng có lần, khi tui được dìa, nửa đêm tui lội bộ ra chợ Cái Côn rất sớm, chưa có ai
thức hết, men theo con đường lộ đá Cái Côn (Cần Thơ) - Kế Sách (Sóc Trăng) từ hồi đời
Tây còn để lại nhưng mấy năm đó con đường này dường như bỏ hoang chỉ để đi bộ thôi, hổng có xe hơi, xe đò gì chạy hết; con đường lộ đá từ lò gạch Cái Côn này cách chợ quận đâu chừng cả hai ba cây số, quang cảnh vắng vẻ dữ lắm! Hai bên đường nhà cửa của dân quê ở đây xa thiệt là xa mới có một căn nhà nhỏ núp dưới những tàn cây um tùm ít ai dám đi vào giác này vì người ta thường đồn với nhau trên đường này có khu đất nhị tì, có một bà sanh con rồi bị sẩy thai, hai mẹ con chết hết và thành ma; con ma này ưa dẫn con hiện hình nhát người qua lại kể cả lúc ban ngày! Thế mà tui cứ gồng mình mà đi qua đám nhị tì này nhe anh Thạch! Trong bụng thì sợ ma, trống ngực đánh lung tung; còn chưn thì vừa đi vừa muốn chạy lúp xúp vậy đó! Tới chợ Cái Côn rồi, mệt muôn chết và tui mừng quá mạng! Khi tới chợ Cái Côn, tui mới vô nhà lồng chợ và thấy có mấy sạp vải bỏ trống, tui mới trải tấm vải bông hồi đó tui mang theo mấy năm trường để làm mền đắp khi trời lạnh, và nằm ngủ một giấc đâu chừng khoảng chùa công phu, ba bốn giờ sáng nghe có tiếng người nói chuyện lo cụ bị tiệm quán bán cà phê, tui mới thức dậy và tìm nước rửa mặt và kêu một cái xây chừng và ngồi chờ tới giờ tàu Ánh Hồng bắt đầu đi Cần Thơ là mình xuống tàu và lên Cân Thơ của anh chỗ bến Ninh Kiều! Người bán cà phê biết tui là dân làm “lò gạch Cái Côn”, hổng phải là dân cố cựu ở đó và họ hổng có lấy tiền cà phê nhe anh! Thật cảm động!

 

Hồi đó, từ Cái Côn muốn đi Cần Thơ hành khách có thể đi nhiều loại tàu đò như tàu từ Kế Sách (Sóc Trăng) lên hoặc tàu từ Cầu Quang (Trà Vinh) hoặc tàu bên Trà Ôn (Vĩnh Long), nhưng ở ngay chợ Cái Côn bà con ưa đi tàu Ánh Hồng. Tàu này do một chị còn trẻ vừa là chủ vừa là tài công lái, nhậm lẹ và vui vẻ! 

 

Vậy đó, anh Trần Bang Thạch, lai rai với anh về những gì tui biết về Cần Thơ của anh tui chỉ biết được chừng đó thôi với mớ chữ nghèo nàn trong bụng sau sáu bảy chục năm lang bạt bụi mù, nay tui quên nhiều lắm và tui cố nhớ, cố ghi như một người nhà quê già kể chuyện ngày xưa về quê Cần Thơ của anh để anh nghe chơi cho vui vậy thôi anh à; và vì tui hổng phài là nhà-văn-nhà-viết gì nên có gì trúc trắc, không gọn, lòng dòng, dám mong anh bỏ qua cho là tui mừng lắm rồi nhe anh Trần Bang Thạch!

 

Cầu chúc anh chị bình yên, mạnh giỏi và vui vẻ nhen!

 

Thân tình,

 

Hai Trầu

Houston, ngày 15.11.2020

________________________

Bài viết nhân dịp tập truyện song ngữ 

“Mặt Trận Ở Sài Gòn / The Battle of Saigon” tái bản, tháng 10/2020

Nguyệt Mai_Măt trận ở SG.JPG

 

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

NGÔ THẾ VINH, VẾT THƯƠNG CHƯA THỰC SỰ LÀNH*

Khi chỉ mới đọc truyện đầu tiên, truyện mang tên của tựa đề cuốn sách, Mặt Trận Ở Sài Gòn của Ngô Thế Vinh, tôi đã có ước muốn, được hỏi ngay, những anh hùng mà ông đề cập đến trong truyện này, hiện giờ họ ở đâu, họ ra sao, và tôi muốn gửi đến họ, rất muộn, lòng ngưỡng mộ, tri ân và cả nỗi sầu buồn. Và tôi cũng muốn nói ngay với tác giả, khi đọc tới đoạn này, tôi đồng tình với chủ trương của các nhân vật trong truyện:

 

… “Diều Hâu” là biệt danh ông bác sĩ đặt cho tính hiếu chiến của tôi. Xem ra ai cũng có vẻ bực bội về những tin tức xáo trộn ở Sài Gòn. Ông tiếp:
- Tụi sinh viên có đứa nào bất mãn, Diều Hâu cứ việc hốt hết đem lên căn cứ 7 giao cho tôi.
… Cầm lấy ly rượu như muốn bóp vỡ trong tay, thiếu tá Bính giọng gay gắt hơn:
- Cứ để tôi thì khỏi cần tốn phi tiễn với lựu đạn cay. Chỉ cần mấy cỗ đại liên trí mấy đầu phố.
Xem ra chính trị đã làm phân hóa giữa chúng tôi. Rồi ông quay sang hỏi ông Bác sĩ:
- Sao Docteur Zhivago, ông nghĩ sao về tụi sinh viên tối ngày chỉ biết có biểu tình phá rối ấy?
(Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 27-28)

 

Nếu ngược về năm 1971-1972, đọc đoạn trên thì tôi sẽ rất bất mãn với thái độ của mấy ông quân nhân này. Dạo đó tôi đang là sinh viên năm thứ hai Luật, và là cảm tình viên của phong trào sinh viên phản chiến. Hồi đó chúng tôi rất không ưa, hơn nữa còn gọi là -đám lính cảnh sát đàn áp- biểu tình. Ngày ấy, với bọn chúng tôi, dường như hình ảnh sống có lý tưởng, là phản chiến, là hô hào bãi khóa, xuống đường, chống chế độ, và… nghe nhạc phản chiến. Ai đã dựng nên hình ảnh ấy và đã-thành-công trong việc hướng dẫn cái nhìn của lớp trẻ một thời? Và cứ thế, chỉ biết phản chiến, lên án chiến tranh và gần như coi nhẹ số phận đau đớn, bi thảm của người lính hy sinh mạng sống cho một cuộc chiến đang bị phản đối khắp nơi! Quá tiếc là ngày đó đã không được đọc tác phẩm này, mà nghĩ ra đó là lỗi của thông tin, dân vận của Việt Nam Cộng Hòa đã đánh giá sai tác phẩm này để đưa đến cấm đoán và truy tố tác giả. Thực sự nếu người ta được đọc nó nhiều hơn ngay lúc đó thì đã không có cảnh phân hóa giữa quân dân như vậy, hơn nữa nó sẽ là chiếc cầu nối tình cảm rất hữu hiệu giữa tiền tuyến hậu phương, và như thế sẽ có một khối sức mạnh của sự đồng lòng. Đáng tiếc. Đứng về phía miền Nam thì, nếu hồi đó họ ý thức được như Phúc: Hoàng gốc phản chiến nhưng lại luôn luôn lên án một phía; Phúc không kìm hãm được nói: - Nguyền rủa chiến tranh một bên có giải quyết được gì không hay chỉ làm nản lòng những người đang chiến đấu! (Chiến Trường Tạm Yên Tĩnh, tr. 76). Họ đã không nhận thức đúng để vừa chống mặt phi nhân tàn ác của chiến tranh, đồng thời, có được lập trường sáng tỏ rằng, đó là cuộc chiến bảo vệ cho sự sống còn của miền Nam Việt Nam. Trong khi đó ở miền Bắc thì họ có một khối gắn bó giữa quân dân. Để rồi… miền Nam bị xóa tên, bức tử một đội quân mà nếu không có những người viết như Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, và nói ở đây, một Ngô Thế Vinh của Mặt Trận Ở Sài Gòn thì có lẽ cái ánh sáng của hy sinh bi thương, hùng tráng kia không soi được đến trái tim mọi người, để biết rằng nếu không có một sự nhìn nhận đúng mức giá trị sự hy sinh của họ thì chúng ta đã nợ họ một sự nhìn lại đúng nghĩa, công bằng, đã nợ họ một sự tri ân, một nghiêng mình rơi lệ. Họ đâu phải là một đội quân vô danh, đâu thể để họ biến mất một cách phi nhân như vậy. Họ là anh hùng. Họ đã chết cho quê hương. Và họ là anh linh. Có thể muộn màng, nhưng không thể để không bao giờ, nói lên… Hẳn khi viết những câu truyện này, Ngô Thế Vinh cũng đang bóc từ từ trong đau đớn từng lớp vết thương tâm thức. 

 

Như con dấu nung
Đóng vào trái tim chàng
Chàng cúi xuống ngực mình
Từ tốn bóc…

(Trần Mộng Tú - Vết Thương Không Chảy Máu Của Chàng, tr. 13)


Hãy cầm cuốn sách ấy lên, lật từng trang, nhẹ như mở vết thương…

Nhìn gương mặt trẻ trung của những người lính ở trang bìa cùng hàng chữ “Tưởng nhớ những đồng đội không bao giờ trở về…” tôi đã những muốn khóc… Tôi thở sâu và biết mình phải lấy can đảm khi nhập vào không gian này của Ngô Thế Vinh, một tác giả mà theo nhận xét của Hoàng Ngọc Nguyên: 

 

… Đối với một tác giả như Ngô Thế Vinh, cuộc sống từ thời thơ ấu đã từng trải từ bắc vô trung và vào nam; trường học đã đi từ Khải Định Huế đến Chu Văn An Sài Gòn, rồi trường Y Khoa; và những năm làm y sĩ tiền tuyến tại những chiến trường xa xôi, heo hút đẫm máu vùng Tam Biên (Việt-Miên-Lào) cho đến ngày mất nước… cuộc đời của ông đã thừa sự phong phú mà không cần vay mượn sự tưởng tượng.

... Ông có đủ sự tự hào và tự tin về mình để nói lên và tìm cách diễn đạt những gì mình quan sát, nhận định, suy tư mà người nghe, người đọc có thể đón nhận. Mặt khác, ông cũng có đủ sự khiêm tốn cần thiết của một người hiểu được sự nhỏ bé, bất lực của con người trước “bể khổ mênh mông”… (Hoàng Ngọc Nguyên - Đi Tìm Sự Yên Tĩnh Với Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 214-215)

 

Đúng vậy, những điều ông viết đều từ kinh nghiệm thực sống, nên vậy mà những suy tư, nhịp tình cảm của ông đập trên lời văn lôi những con chữ sống dậy lan tỏa vào tâm tình người đọc để cùng theo nó, vui buồn, đau đớn, phẫn nộ. Chữ của Ngô Thế Vinh là chữ sống. Văn Ngô Thế Vinh đầm đẫm cái đẹp bi thương đến não nùng. Đẹp, đến từ cảm xúc trung thực, ở tình tự nhân bản, ở trái tim nhân ái, ở sự hiểu biết sáng suốt, sâu sắc và trầm tĩnh. Tất cả những thứ đó làm nên một văn phong Ngô Thế Vinh đầy hấp lực, hiện thực, quyết liệt mà không thiếu cái nhìn thơ mộng của một tâm hồn nhạy cảm, chính yếu tố này khiến lồng trong tình huống dữ dội đã chừa lại cho người đọc một hơi để thở, phút ngưng lại nhẹ nhàng…

Trong truyện đầu tiên, Mặt Trận Ở Sài Gòn, hiện lên một quá khứ để nhìn lại tất cả, nhìn lại mình, đã như thế nào ở tuổi hai mươi, giai đoạn đẹp nhất của đời người, buồn thay, cái thời mà như Hoàng Ngọc Nguyên nói “chúng ta chỉ có một thời để sống” đã trôi qua với đầy vết tích buồn bã. Ôi các bạn thời hai mươi của tôi, giờ ở những đâu, có đọc Mặt Trận Ở Sài Gòn, để như tôi lúc này, đối diện với quá khứ, âu là một cách giải tỏa nội-kết bao lâu nay…

Trong tản văn Lần Theo Mộng Ảo Mà Về, năm 2013, tôi có viết: “… Một thời sinh viên chúi đầu vào sách vở, cho đến một ngày, đến trường bỗng ngỡ ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế này, bọn con trai đâu cả? Ra năm đó nếu tôi nhớ đúng, 1972, vừa có một luật động viên đôn quân, tôi lúc đó như bị va đầu vào tường, cú đập choáng người. Đã từ bao lâu sinh viên Sài Gòn -như tôi- lúc đó đi bên lề cuộc chiến? Đã bao lâu rồi? Dân Sài Gòn luôn tin rằng Sài Gòn là một ốc đảo mà con sóng của chiến tranh không thể đổ vào bờ. Đã bao nhiêu người tin rằng Sài Gòn là biên giới dừng lại của đường đi súng đạn, chủ nghĩa? Tôi mắc cỡ và cảm thấy như có lỗi... Chúng tôi như những viên gạch lát ngô nghê. Chỉ biết nghêu ngao những điều vô nghĩa trước một thực tế, máu của người dân hai miền đã đổ và thanh niên không ngớt bị tung ra chiến trường.” 

Vậy đó. Lớn lên cùng cuộc chiến, rồi khi qua cơn “thay đổi sơn hà 1975” thì mới vỡ ra được nhiều điều… Hồi đó khi những thành phố, thủ đô Sài Gòn còn yên bình, không ít lớp thị dân sống như thể đô thị này, chiến trường kia là hai thế giới hoàn toàn khác. Rất đúng khi người lính đã có phản ứng:

 

… mà hơn thế nữa, giữa quê hương còn một thứ xã hội trên cao lộng lẫy sáng choang và thản nhiên hạnh phúc. Cái thế giới khác xa họ, chỉ có ngào ngạt hương thơm và những hưởng thụ thừa mứa. Của một đám người kêu gào chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng ngoài cuộc chiến ấy.
Rồi những người lính bơ vơ tự hỏi, cầm súng họ bảo vệ cái gì đây? Không lẽ cho một con thuyền xa hoa ngao du trên dòng sông loang máu, nổi trôi đầy những xác chết đồng loại. Cho sự an lạc của một dúm xã hội trên cao, cho những chăm sóc của những con chó con ngựa hơn cả tang thương của kiếp sống? Với những người trẻ tuổi chỉ biết sẵn sàng, lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận hy sinh cả tính mạng của họ để chiến đấu với kẻ thù ngoài chiến trường - tại sao bỗng dưng lại đưa họ về thủ đô. Không lẽ những mộng tưởng binh nghiệp chỉ có thể biến chúng tôi thành những tên gác dan cho bọn nhà giàu, một thứ cảnh sát công lộ chỉ đường trên dòng luân lưu của lịch sử
. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 30)

 

Để hiểu tâm trạng của người lính khi về trấn giữ thủ đô: … rằng chiến trường sắp tới của chúng tôi sẽ chẳng phải là núi rừng Tây nguyên, mà đích thực là một cuộc chiến tranh trong thành phố … Rằng không phải chỉ ở chốn xa xôi biên cương - mà đích thực chiến-trường thách-đố của họ phải là ở Sài Gòn... (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22, tr. 31) 

 

Mà oái oăm, họ đã cảm giác mình như bầy thú hoang lạc về thành phố:  … Không nói ra, ai trong chúng tôi cũng cảm thấy mỏi mệt trước khi dấn thân vào cái chiến trường buồn tênh ấy. Chỉ quen với rừng rú, xuống đó đám lính của tôi sẽ như bầy thú hoang về thành - lạc lõng bơ vơ. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 29)

 

Họ bị tiêu hao bao nhiêu sức mạnh khi bị cô đơn ở hậu phương? Đáng lý nơi đó phải cho họ thêm năng lượng mới đúng! Và mấy ai trong cuộc biểu tình hiểu được thế lưỡng nan của người lính nhận trách nhiệm ổn định an ninh đô thị:

 

… Nếu rõ ràng nhiệm vụ được giao phó là sự có mặt lâu dài ở Sài Gòn, tôi sẽ xin được rời khỏi đơn vị để về một bệnh viện nào đó trên cao nguyên; mặc dù trước đây tôi vẫn tâm niệm rằng đơn vị này là nơi duy nhất tôi đã lựa chọn cho suốt thời gian quân ngũ của mình… Một đằng là những người lính mà ông có bổn phận phải chăm sóc, một đằng là những thanh niên sinh viên đang tham dự cuộc đấu tranh, mà quan điểm của họ được chính ông có phần chấp nhận và chia sẻ. Rõ ràng chúng tôi chỉ là một bánh xe nhỏ trong một guồng máy lớn lao… (Mặt Trận Ở Sài Gòn tr. 29, 28)
 

“Chúng tôi” trong câu nhân vật bác sĩ này nói không chỉ riêng là các anh, mà bao gồm cả chúng tôi, cả con dân nước Việt trong một guồng máy mà ở đó không ngớt tóm lên và quăng thanh niên vào trận địa … để chỉ còn là thụ động chấp nhận - như một định mệnh, đi vào cuộc chém giết vô tri giác… (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)

 

Trong bối cảnh thời “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ quyết định bỏ rơi đồng minh, chua xót bi phẫn làm sao, khi lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu trong tình huống và tâm trạng, như Tim Page đã nhận định: “… có rất ít sách đề cập tới quan điểm từ miền Nam, từ góc cạnh của những người thất trận nhưng họ đã từng chiến đấu và tin tưởng ở một nền Cộng Hòa miền Nam mới khai sinh. Ngô Thế Vinh qua kinh nghiệm của một y sĩ trong một đơn vị Biệt Cách thiện chiến đã đem tới cho chúng ta những lý giải và soi sáng về những tình huống lưỡng nan ngoài trận địa…” (TIM PAGE, Life – Time, UPI Freelance Reporter, tr. 226-227)

 

… Ý thức sáng suốt rằng khoảnh khắc nữa đây, chúng tôi sắp từ cửa trực thăng nhảy xuống đất Miên, cùng với tin thời sự Tổng thống Mỹ Nixon sắp sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa chuẩn bị cho một giai đoạn giải kết, để rồi chỉ còn sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt, như một chia lìa lịch sử, một thảm cảnh không thể tránh … một thứ đấu trường mà chỉ có người Việt là những tên giác đấu hung hãn với võ trang là mâu thuẫn ý thức hệ và cả sự u mê… … Không phải chỉ bởi súng đạn mà chính những bế tắc tinh thần đã khiến chúng tôi không còn khả năng suy diễn một điều gì. Đầu óc chỉ còn là một khối chất xám vữa nát, để chỉ còn là thụ động chấp nhận - như một định mệnh, đi vào cuộc chém giết vô tri giác. Còn lại chăng, là thổn thức một trái tim Việt Nam chưa đổi khác, không còn biết hân hoan mà chỉ còn chung một nỗi hận thù đau đớn ... (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)
… Những người lính cầm súng ý thức đã phải chiến đấu với lòng tổn thương và hoàn toàn mất tin cậy bên cạnh một đồng minh chỉ biết đặt quyền lợi của họ lên trên cả những mục tiêu tranh đấu tối thượng của dân Việt. Còn riêng đối với Bắc quân, việc phải thí mấy chục ngàn quân để đạt mục tiêu có giá trị chiến lược là điều rất có thể và rất dễ làm. Đó là lý do khiến chúng tôi đã phải vừa cầm súng chiến đấu vừa phải tự ước lượng mức độ của cuộc chiến tranh trong màn hỏa mù để không tự biến thành một đống tro than trong những giờ tàn của cuộc chiến… (Dấu Ngoặc Lịch Sử, tr. 50)

… Từ một quan niệm hết sức đơn giản, phục vụ tổ quốc bằng cái chủ nghĩa kỳ cùng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tôi đã không thể quan niệm có chính trị trong tập thể quân đội và dứt khoát không muốn dính dáng đến nó. Nhưng dần dà, với dạn dày những chung đụng, tôi thấm thía hiểu rằng không phải chỉ có cầm súng, nhưng chúng tôi còn đang bị xô đẩy vào những hoàn cảnh lắt léo của một thứ chính trị vây bủa. Đã tới lúc người lính phải xác định cái vị trí hoàn cảnh của mình và tự hỏi tại sao lại đang phải chịu rất nhiều hy sinh và tiếp tục cầm súng chiến đấu. (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 59)

 

TÍNH NHÂN ÁI, TÌNH NGƯỜI TRONG MẶT TRẬN Ở SÀI GÒN 

 

Sống trực tiếp trong cảnh khốc liệt của chiến trường, chứng kiến những ra đi đau đớn của đồng đội, mà khi nói về phía bên kia không một giọng hằn học, chỉ là tường thuật sự kiện trung thực, với thái độ chấp nhận một cách trầm tĩnh của một người hiểu thấu sự thúc thủ của những con ốc trong một guồng máy, và với cái chết tới bất cứ phút nào. Tôi rất ngưỡng mộ cái tính cách kẻ sĩ, đại trượng phu của ông, mà được vậy nhờ gốc rễ tình người trong ông, xin trích: 

 

… Và chúng tôi đã sẵn sàng ở vị thế tấn công. Sẽ chẳng còn phân biệt nào trên đấu trường. Không có đối thoại giữa súng đạn. Và chỉ còn những người Việt anh dũng - hai phía, tự nguyện đem thân làm đuốc hâm nóng cuộc chiến Đông Dương (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 40). Tôi muốn tô đậm câu Và chỉ còn những người Việt anh dũng - hai phía… Đã có mấy ai viết về chiến tranh mà nhìn nhận thẳng thắn phía đối đầu như thế?

 

… Và năm nay, riêng chiến dịch Đông Xuân, với cao điểm Mùa Mưa - theo phát ngôn viên chánh phủ, đã kết thúc bi thảm cho phía những người chiến sĩ Giải phóng... (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22)

 

Những danh xưng ông dùng chỉ phía bên kia cho ta thấy một cung cách điềm đạm, anh và tôi, mang cùng thân phận, trong một cuộc đối đầu mà ông chua chát - sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt - (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)

Tính nhân ái thể hiện rất rõ trong truyện Hòa Bình Không Sớm Hơn, trải qua một cuộc hành quân sống chết ở rừng già cao nguyên năm 1971, mà nhân vật Hổ Xám vẫn có được cái tình cảm rất hòa bình, rất con người, với tù binh:

 

… Gã tù binh còn rất trẻ, tuy ốm xanh xao nhưng khuôn mặt lanh lợi và ánh mắt thì say đắm. Hắn gợi cho tôi hình ảnh đứa em trai tử trận cũng trên vùng thảo nguyên này cách đây không bao lâu. Lòng tôi như sôi lên một tình cảm rất khó diễn tả: vừa giận dữ vừa xen lẫn thương cảm. Nhưng rồi cái khuôn mặt trẻ thơ ấy đã khiến lòng tôi nguôi ngay lại … … Không phải chỉ vì nhu cầu nguồn tin tức cần khai thác, mà thật giản dị tôi tự thấy có bổn phận phải cứu sống nó. Ánh mắt nó nhìn tôi tin cậy … Tôi thì vẫn thành thật tin tưởng rằng hắn sẽ không sao cho tới khi cùng Đại Đội về đến căn cứ. Vả lại trong thâm tâm tôi muốn được có mặt, tham dự trong cách đối xử mà tôi nghĩ sẽ khác hơn riêng đối với hắn. (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 60, 61)

 … khi nghe tiếng vỗ cánh của đoàn trực thăng sà trên bãi thì vẻ mặt hắn biến sắc và để lộ một vẻ sợ hãi khủng khiếp … hắn chỉ kịp quơ tay về phía trước níu lấy tôi kêu thất thanh một tiếng “Anh” rồi ngã rũ xuống và chết tốt … Tôi đưa tay vuốt mắt hắn, mi mắt còn ấm nóng khép lại dễ dàng… Thôi ngủ đi! Tôi nhủ thầm dịu dàng và chưa bao giờ lại thấy gần gũi thân thuộc với cái chết đến như thế.  (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 62, 63)

 

Ở chiến trường có những cái chết khó có thể hình dung nổi, như người tù binh trên, chết chỉ vì nghe tiếng máy bay sà xuống, như dùng xác chết thành một thứ bẫy để giết thêm người, và chết oan khốc Xác của những người bạn bị oanh kích lầm với thứ hỏa tiễn mũi tên xóa tan cả mặt mũi, và…

Xin đọc đoạn văn cảm động sau, để ngậm ngùi thương cảm cho tình tự mong manh của nhân vật Hổ Xám, và cũng gây cho ta được niềm tin vào sự tồn tại của tính nhân bản - Cổ họng như đau thắt, tâm hồn tê mỏi nhưng tôi chẳng thể nào có được một giọt nước mắt để khóc. Trong thâm tâm tôi rất muốn được khóc - (Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 64) 

Đó là gì nếu không phải là Tình Người? 

Đây cũng là một đoạn văn tả cảnh rất hay khiến tôi thấy được cái hoang liêu đìu hiu mấy gò, gió ù ù thổi… (Chinh Phụ Ngâm) của bãi chiến trường, càng thấm cái “tê dại, vô cảm” của nhân vật khi nhìn xuống xác tù binh cô đơn trên bãi.

 

… Lúc này, riêng tôi thấy là nhẫn tâm khi phải bỏ xác hắn tại bãi. Khi tôi là người cuối cùng bước lên trực thăng, con tàu vội vã bốc vọt lên trên một nền trời ủ dột đang vần vũ kéo tới những đám mây bão. Nhìn xuống bãi, gã tù binh vẫn bất động nằm yên như im ngủ, phủ trên mình thay cho lá cờ chỉ là một chiếc võng xanh xao. Cũng đành để hắn ở lại với rừng núi quạnh hiu, và riêng mang theo trong tôi cái tình cảm day dứt khó tả. Phải chi còn đủ thời gian để đào xong một chiếc huyệt cho dù chỉ đủ vùi nông thân xác hắn.
Gió lộng từ những cánh quạt trực thăng, tạt những cụm mây đầy hơi ẩm vào da mặt tôi buốt rát. Da thịt tê dại, cả tâm hồn cũng tê dại, gần như vô cảm, tôi không còn suy nghĩ hay phản ứng được gì … Trung sĩ cận vệ thân tín lên tiếng nhắc tôi và cố nói to. - Em thấy là Hổ Xám quên. “Không, lần này không phải là tao quên.” Nó nhắc tôi việc gài một trái lựu đạn rút kíp dưới xác người tù binh mới chết phải bỏ lại dưới bãi. Hơn một lần địch đã hành động như vậy và gây cho chúng tôi tổn thất. Nhưng ở lần này thì tôi lại nghĩ rằng cho dù có làm thêm một cạm bẫy xác nữa, gây thêm được một vài chết chóc, không vì thế mà ngày mai Hòa Bình sẽ trở lại sớm hơn.
(Hòa Bình Không Sớm Hơn, tr. 64, 65)
  

NHỮNG NHỊP DỪNG THƠ MỘNG TRONG KHÓI LỬA

 

Bên cạnh những đau thương cảm động của tình đồng đội, không khí ngộp thở của chiến trường, như tôi đã nói ở trên, có những đoạn văn tả cảnh với những ngôn từ, hình ảnh buồn diễm lệ, khiến nó như một nhịp dừng cho người đọc quên lãng căng thẳng. Trong người lính Ngô Thế Vinh là một người thơ, nhạy cảm và chan chứa tình người. Người lính ấy trên đường hành quân ghi nhận lại những suy tư, những cảm xúc trước cảnh vật với cái nhìn tinh tế, những dòng văn như khúc đàn bi ai được gẩy lên bởi sự đồng điệu giữa tâm hồn người và cảnh sắc. 

 

… cứ vào đầu mùa mưa, chúng tôi cùng những đơn vị bạn từ vùng đồng bằng châu thổ, ùn ùn kéo lên cao nguyên để tao ngộ với những đại đơn vị địch quân - để tranh nhau một vài ngọn đồi trơ trụi hay giành giật một khúc lộ trống… (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 22) 

 

Bạn cảm xúc sao với chữ “tao ngộ” dùng chỉ sự chạm trán một trận chiến? Cách dùng chữ của ông nhà binh Ngô Thế Vinh có dụng ý hay không, để giảm bớt nguy cơ nhồi máu cơ tim cho người đọc khi kéo họ vào không khí khiếp đảm của chiến trường? Những hình ảnh tỷ dụ, những động từ được dùng một cách rất tượng hình, đẹp, lạ, và chính xác đến ngỡ ngàng làm tôi muốn trào nước mắt, tôi biết nhờ hồn thơ bi cảm đã giữ cho ông còn được năng lượng để tiếp xúc, để rung động với cảnh vật thiên nhiên trong tình huống sinh tử:

 

… Vào buổi sáng tinh sương ngày N, khi sương mù còn bao phủ mờ mịt núi rừng quanh ngọn đồi 1003, từ trên cao trên cả những đám mây, trong sự hồi hộp của mọi người, chiếc trực thăng cán gáo như một chiếc lá, đã bất chợt rơi nhẹ nhàng xuống căn cứ an toàn… (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 25)

... Xác của người phi công được trực thăng móc ở rừng ra, héo rũ trên dây treo như cách người ta câu về những con thú. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 27)

… Tách khỏi đội hình, giảm dần cao độ, chiếc tàu thả chếnh choáng trên những ngọn cây... (Nước Mắt Của Đức Phật- tr. 40) 

… Bầu trời cực trong xanh và không mây. Không có dấu hiệu của một thời tiết sắp xấu. Những ô ruộng loang loáng nước. Ngọn núi Bà Đen ở phía xa đàng sau - hiện diện như một lầm lỡ của hóa công, một dị dạng của địa hình châu thổ - trơ trụi nhô lên từ mặt phẳng xanh đồng bằng. Ngọn núi chứa đựng nhiều kỳ bí và huyền thoại. Nơi của muỗi độc, sốt rét rụng tóc và của những trận đánh kinh hoàng. Nơi còn vùi xác của những đồng bạn ở cuộc hành quân cách đây bốn năm trước. Những đêm trăng rừng còn như in trong óc, trăng ở Bà Đen cũng mang bộ mặt xanh xao như bị sốt rét ngã nước. (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 36-37) 

… Nhớ lại hôm gặp Tom trên cánh đồng trải dài đến tận chân núi đá; từng đàn dê lổ loang trên đó, một chú dê đực cắt hình trên nền trời từ một mỏm đá thật cao. Biển xanh phẳng lặng phía xa, rải rác những cánh quạt gió chuyển động chậm, kéo nước biển lên những ruộng muối đọng trắng ... Từng cơn gió nồng thổi trườn trên những thửa đất bốc hơi co rút. Cảnh đồng quê sau lũ lụt lại mang vẻ khô héo xác xơ như mùa hạn. (Chiến trường Tạm Yên Tĩnh, tr. 71, tr.76)

… từ đồng ruộng xanh dưới kia đã nổi bật chiếc mái cong, kiến trúc đặc biệt của những ngôi chùa tháp. Làng xã không mấy khác làng xã của Việt Nam nhưng khang trang hơn. Những mái nhà ngói đỏ san sát, xen lẫn những mái tranh xám. Ngọn khói lam của buổi chiều, lũ trẻ nhỏ và đàn trâu bò về chuồng. Khung cảnh nên thơ của một khoảnh đất Á châu còn chút thanh bình kia liệu sẽ còn kéo dài thêm được bao lâu nữa hay thực sự đã qua rồi…. Đàng xa về phía nam, nắng chiều rắc vàng trên dòng Cửu long bao la đầy cá và phù sa. Chập chùng là những cánh rừng cao su tiếp nối với rừng già. Cũng đã hiện ra những ngôi làng trơ trụi bỏ hoang với từng dãy hố bom B52 cày nát. Không còn dấu hiệu người và sinh vật ở dưới đó. Lại như một Dakto, Khe Sanh hay Sơn Mỹ của Việt Nam? Bom đạn giữa những người Việt đã xô dạt những người Khmer kia đi về đâu? Cả xứ Chùa Tháp này đi về đâu? Trong cái mênh mang của cơn say lịch sử, có ai nghĩ được rằng cuộc chiến đang diễn ra giữa những người Việt lại có thể xóa nhòa một nền văn minh Angkor cổ kính. Và trong cái hoang vu lặng lẽ của buổi chiều tàn, giữa ngôi làng đổ nát kia, tôi tưởng tượng rằng vẫn còn một người đàn bà không rõ mặt mũi vẫn ẩn nhẫn ngồi ôm đứa con ru cho bú. Phải chăng vẫn còn hình ảnh an ủi tuyệt đẹp và ngàn năm của ý nghĩa tồn sinh nhân loại… (Nước Mắt Của Đức Phật - tr. 39) 

 

Trên là đoạn tả cảnh cùng suy tư không phải của một người đang ngồi trên máy bay du lịch, mà là suy tư của một người lính sắp được thả vào chiến trường - Ở đó con người chẳng thể định đoạt được gì ngoài sự chấp nhận rủi may như một định mệnh - Cái đẹp ở đây là cái đẹp của bi hùng, vừa sầu buồn vừa cao cả - một thứ tâm hồn Ngô Thế Vinh-, như trong đoạn kết chuyện Nước Mắt Của Đức Phật:

 

… Và cũng không xa Cục R bao nhiêu về hướng Đông Bắc, sau bảy ngày thất lạc trong hoang vu của rừng già, có hai bóng ma lần mò được vào một ngôi làng đổ nát, người được cõng trên vai gần như đã chết. Và suốt trong đêm hôm đó tại một ngôi chùa Miên bỏ hoang, có một người lính Công giáo Việt Nam kiệt quệ và đau khổ, quỳ gối bên xác một đồng bạn, mắt đẫm lệ hướng lên vẻ mặt an tĩnh của Đức Phật thành tâm cầu nguyện cho linh hồn người bạn xấu số sớm được giải thoát. Và bên ngoài trời cơn mưa bão vẫn tràn trề. Gió lung lay cả đêm dài vô minh đang bao trùm khắp Á châu lục địa. (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 42-43)

 

Ở đây, có vẻ mặt an tĩnh của Đức Phật và mắt đẫm lệ của người lính đang cầu nguyện cho linh hồn người bạn chết trên vai. Bạn ơi, có phải Nước Mắt Của Đức Phật đang thị hiện qua nước mắt đang rơi trên mặt người lính sống sót kia? Nghĩ thế tôi càng ngưỡng mộ tác giả khi lấy tựa đề như thế để rồi kết một đoạn như khai-thị cái niềm tin sâu sắc, Phật tánh trong mỗi con người, người lính ấy trong giây phút vô cùng đau khổ đã nhỏ những hạt nước mắt Phật, đã là một vị Phật. Đó là một thông điệp của tác giả.

 

VẾT THƯƠNG CHƯA LÀNH

 

Nói đến nỗi đau, vết thương tâm, ở trong tập truyện này ta thấy những hình ảnh như, 

… Từ sáu năm rồi mà vẫn tưởng như mới hôm qua với cơn đau lột da ấy. (Giấc Mơ Kim Đồng, tr. 70)
… Cũng phải kể tới vết thương khác không chảy máu Bloodless Wounds PTSD - hội chứng tâm thần sau chấn thương ở những năm sau khi anh đã trở lại nước Mỹ… (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 104)

… Những vết thương chưa bao giờ thực sự lành (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 109) nơi những người sống sót. 

… Phan cũng tự hỏi đến bao giờ, cả chính chàng nữa mới thực sự thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đã vào quá khứ từ 17 năm rồi. (Một Bức Tường Khác, tr. 101)

… cùng với tin thời sự Tổng thống Mỹ Nixon sắp sang Bắc Kinh rồi Mạc Tư Khoa chuẩn bị cho một giai đoạn giải kết, để rồi chỉ còn sự đối đầu thù nghịch trơ trẽn giữa những người Việt, như một chia lìa lịch sử, một thảm cảnh không thể tránh… (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 40)

Một thảm cảnh như vết sẹo lồi nhô hoài trong tâm thức, mỗi khi cào lên lại thốn đau. Không chỉ người Việt, đồng minh Mỹ ngoài hơn năm chục ngàn lính Mỹ bỏ thân nơi chiến trường Việt Nam, số thoát được khỏi đêm dài vô minh (NTV) ấy trở về thì mang đầy thương tích về thể xác lẫn tâm hồn, di chứng của chiến tranh khiến họ không thể bình thường hội nhập trở lại trên chính quê nhà của họ.

… Jim thường xuyên phải sống trong những cơn ác mộng và hồi tưởng buồn bã về các kinh nghiệm chiến trận đau thương ở Việt Nam. Hắn cảm thấy phẫn nộ vì sự thờ ơ và cả thiếu kính trọng của xã hội đối với hắn và các bạn đồng đội, lẽ ra khi trở về chúng tôi phải được đối xử như những anh hùng... (Một Bức Tường Khác, tr. 99)

… Đã không thiếu những cuộc duyệt binh với rừng cờ sao và sọc và cả rực rỡ những dải băng vàng để chào mừng những người lính như những anh hùng trở về sau cuộc chiến tranh chớp nhoáng mấy tuần ở Vùng Vịnh Desert Storm và rồi cả với những cuộc chiến tranh khác; nhưng hình như đã không có một đối xử như vậy đối với những người cựu chiến binh trở về từ Việt Nam… Họ, đa số là những cựu chiến binh Việt Nam bị lãng quên; phải chăng chỉ vì họ bước ra từ một trận chiến đã không có được chiến thắng vinh quang hay nói trắng ra là trận chiến mà lần đầu tiên nước Mỹ đã bị thua… Họ đã hy sinh một phần đời tuổi trẻ của họ, chịu đựng cả những mất mát - để phục vụ cho một xứ sở có tiếng là giàu có nhất thế giới, để rồi khi giải ngũ, một số không ít phải sống như những người vô gia cư trên các đường phố, chịu đói khát thiếu thốn trong tình cảnh cô đơn và tuyệt vọng… họ vẫn mãi chưa được trở về nhà… (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 105, 106)

Họ vẫn mãi chưa được trở về nhà… Lưu vong trên đất mẹ của mình, và như nhân vật Phan, sau 17 năm chiến tranh vẫn không rời để anh mãi lưu vong trên tâm thức của mình. Một thứ hội chứng tâm thần - Vết thương không chảy máu. Ôi cái gọi là chiến tranh Việt Nam nơi hình ảnh anh lính Gumber treo cổ lơ lửng trên thanh xà bến xe bus, linh hồn mãn nguyện: No more Vietnam, Vietnam never again. Cuộc chiến Việt Nam và cả nỗi đau của những vết thương thực sự chấm dứt từ đây. Việt Nam, nay thì anh đã thực sự giã từ… Và anh Gumber vẫn chưa phải là người lính Mỹ cuối cùng chết trong trận chiến tranh Việt Nam (In Retrospect - Nhìn Lại, tr. 110, 111), rồi thì, người y tá cựu binh, không bị thương ở mặt trận mà vì thứ mìn muỗi chống cá nhân, chẳng biết ai đã ném vô và nằm im trong đám ruộng nhà mình tự bao giờ… Hòa bình rồi hạnh phúc tính là dài lâu nhưng rồi ra cũng chỉ là tính riêng cho mỗi từng ngày… (Người Y Tá Cũ, tr. 122)

Tôi cũng ngậm ngùi tự hỏi như tác giả, bức tường nào, trang sử nào để ghi thêm những cái chết, và bị thương của chiến tranh sau chiến tranh ấy?

KHI NHỮNG NGƯỜI SỐNG QUÊN NGƯỜI CHẾT, THÌ NGƯỜI CHẾT ẤY CHẾT ĐI LẦN THỨ HAI… (Sẽ Rực Rỡ Mùa Thu Này, tr.121)

 

Tôi hình dung mình đang đứng nhìn lá cờ bay phất phới dưới trời xanh trong một buổi vinh danh có oan hồn tử sĩ trở về từ bụi đất, ngọn đồi, sông suối, khu rừng máu đạn khi xưa, và niềm vui của đoàn tụ siêu hình ấy tháo gỡ cho tôi cái mặc cảm u sầu bao lâu nay.

 

… Không kể những người đã chết, chỉ riêng trong đám sống sót trở về - có thể nói họ xứng đáng mang danh anh hùng bằng chính những chiến tích lẫy lừng đi vào huyền thoại. (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 24)

… Liệu phải cần bao nhiêu trang sách để nhắc tới những chiến tích lẫy lừng của các anh hùng vô danh này. Ngay từ phút vừa đặt chân xuống đất, hoạt động suốt 96 giờ của toán 81 là một thiên anh hùng ca rực rỡ. (Nước Mắt Của Đức Phật, tr. 41)

 … Đã bao năm rồi, biết bao nhiêu nước chảy qua cầu, có quá nhiều điều để không thể nào quên. Ngay trong tù đày, những hình ảnh hồi tưởng chưa bao giờ là cuộc duyệt binh vĩ đại đầy màu sắc và ồn ào của ngày Quân lực; mà luôn luôn là những bước chân diễn hành thầm lặng của một tiểu đội lính vô danh ở ngày giờ cuối cùng của một thành phố trước khi mất tên Sài Gòn. Người chuẩn úy ấy bây giờ ở đâu, trong một trại cải tạo nào, còn sống hay đã chết, số phận những người lính can đảm kỷ luật tới giờ phút chót ấy bây giờ ra sao, cũng không ai được biết. Liệu có thêm được một dòng chữ nào giữa những trang quân sử viết dở dang để nói về cuộc diễn binh kỳ lạ cấp tiểu đội mang biểu tượng hào hùng của quân lực ở ngày giờ cuối cùng trước khi cả toàn quân tan hàng rã ngũ... (Cựu Kim Sơn Chưa Hề Giã Biệt, tr. 91)

 

Câu hỏi rất xót, có cái gì như mệt mỏi thất vọng… Trang sử trung thực nào để anh linh của họ được an nghỉ dưới ánh sáng của tri ân, tưởng nhớ, chứ không chỉ là nghĩa trang bị bỏ phế đìu hiu, lá khô xao xác trên những tấm bia vỡ và những bình nhang trống. Dù sao, ít ra giờ chúng ta đã có những dòng chữ này của Ngô Thế Vinh, như một sự tưởng niệm công bằng…

… Jim cũng như đa số những người cựu chiến binh Việt Nam được gọi là còn sống, nhưng họ giống như những mảnh bom đạn vương vãi, thực sự chưa thoát ra khỏi trận địa Việt Nam. Liệu có còn thêm một bức tường thương khóc nào khác ở Hoa Thịnh Đốn đủ dài để có thể ghi tên và vinh danh họ. (Một Bức Tường Khác, tr. 101) 

 

Một bức tường khác, những trang quân sử còn thiếu sót… Hẳn còn rất lâu, hoặc chẳng bao giờ, những ước muốn này vẫn chỉ là những ước mơ ngậm ngùi… Nhưng ước mơ đó là một thông điệp đầy tình người của tác giả.

 

NGÔ THẾ VINH, MỘT CHIẾN SĨ XÃ HỘI

 

Trong truyện Mặt Trận Ở Sài Gòn, chứng kiến cảnh thối nát bất công của xã hội, tác giả nêu lên một ưu tư:

 

… Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương đầu với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn - đó là cảnh thối nát bất công của xã hội mà dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm tủi nhục... Từ ba mươi năm nay, đã và đang có quá nhiều anh-hùng-của-chiến-tranh trong khi lại quá thiếu vắng những chiến sĩ xã hội... (Mặt Trận Ở Sài Gòn, tr. 31)

 

Ngô Thế Vinh, một chiến sĩ xông pha chiến trường, một bác sĩ, một nhà văn, một nhà báo, với tất cả tư cách đó cùng những tác phẩm của ông, biết được những việc ông đã làm thì Ngô Thế Vinh đúng là một chiến sĩ xã hội, ở tư cách này ông cũng xứng đáng là một anh hùng. Nếu không thực sự can đảm, nếu không đầy nhiệt huyết với lý tưởng vì người thì ông đã không xông vào những mặt trận xã hội, như làm báo Tình Thương từ thời còn sinh viên y khoa quảng bá y đức, tình người. Và một thời gian dài đập nhịp tim của mình trên bờ sinh tử của lằn tên mũi đạn, để có những kinh nghiệm thực tế viết nên tác phẩm như Mặt Trận Ở Sài Gòn. Cảm ơn định mệnh để ông sống sót qua cuộc chiến. Để sau đó nghiên cứu về nguy cơ cái chết của một dòng sông, ông đã đi tới ngọn nguồn sông Cửu Long với bao bất trắc để cống hiến một loạt sách rất giá trị về Cửu Long. Với những đề tài gắn bó với con người cùng sự cảnh báo mọi thứ hiểm họa hủy diệt hầu góp phần vào việc bảo vệ môi trường, cùng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, công bằng hơn, tình người hơn. Đó chẳng phải là trách nhiệm của một chiến sĩ xã hội hay sao? Năng lực của ông lấy từ đâu mà có thể làm việc được như thế? Có lẽ nhờ tất cả những chủng tử này, nhiệt huyết, đam mê, nhân ái, cùng những giấc mơ thao thức không nguôi. Và ông đã cống hiến đời mình cho lý tưởng đó một cách hữu hiệu và cảm động.

 

… Những câu chuyện cách đây cả 50 năm ở một nơi nay quá xa xôi bỗng dưng sống lại một cách da diết trong trí nhớ, trong con tim của mỗi chúng ta khi có “Mặt Trận Ở Sài Gòn” đặt đầu bàn ngủ (không phải gối đầu giường). (Hoàng Ngọc Nguyên, Đi Tìm Sự Yên Tĩnh Với “Mặt Trận Ở Sài Gòn”, tr. 214)

 

Chắc là như vậy vì ngay lúc này sau khi đọc hết rồi tôi vẫn cảm thấy chưa thể rời được nó. Phải để ở cái bàn nhỏ có ngọn đèn vàng ấm kia, để nhìn, nhìn mỗi ngày vào vết thương chưa thực sự lành ấy. Nhìn, cho đến khi nào chuyển hóa được vết thương này. Và chìa khóa của chuyển hóa phải chăng là thấy được ít nhiều hiện thực của những giấc mơ -ít nhất cũng là của Ngô Thế Vinh - của những người đồng một quá khứ thương tâm và đau đáu thiết tha những giấc mơ đẹp đẽ, một trong những giấc mơ ấy là một mái ấm của Trăm Họ Trăm Con, nơi ấy sưu tập và lưu trữ những giá trị của quá khứ, nơi hội tụ diễn ra sức sống sinh động của hiện tại, và là một điểm tựa thách đố hướng về tương lai, chốn hành hương cho mỗi người Việt Nam đang sống bất cứ ở đâu trong lòng của thế giới.

Và … Hiện thực của giấc mơ nào đi nữa không phải chỉ do hùng tâm của một người mà là ý chí của cả một tập thể cùng nhìn về một hướng, cùng trông đợi và ước ao niềm vui của sự thành tựu... (Giấc Mộng Con Năm 2000, tr. 152)

 

Xin mượn lời của Tim Page để kết bài viết:

Đọc Mặt Trận Ở Sài Gòn để cảm nhận lắng nghe nỗi bâng khuâng của một con người vẫn gắn bó với những cội rễ tinh thần của một quê hương Việt Nam không thể tách rời. (TIM PAGE, Life – Time, UPI Freelance Reporter)

 

Santa Ana, October 6, 2020

Ntkm


 

* chữ Ngô Thế Vinh trong truyện Nhìn Lại.

 

** Tập truyện song ngữ “Mặt Trận Ở Sài Gòn / The Battle of Saigon”  đã được phát hành và bán trên trang mạng Amazon từ ngày 16/10/2020.

 


Nguyễn Thị Khánh Minh sinh tại Hà Nội, quê ở Nha Trang. Tốt nghiệp Cử nhân Luật tháng 12-1974, khóa cuối cùng của Luật Khoa Đại Học Đường Sài Gòn. Đã xuất bản nhiều tập thơ văn tại Việt Nam và Hoa Kỳ từ năm 1991- 2020. Hiện sống tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ.

Cám ơn cô Nguyệt Mai (https://tranthinguyetmai.wordpress.com) đã ưu ái giới thiệu bài viết trên choTrang Nhà www.ptgdtdusa.com

TBT

_____________________________

THƠ THỜI CHIẾN Trần Hoài Thư

LÍNH TIỀN PHƯƠNG

Khi ra trận ta là thằng chết trước

Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng

Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót

Nên khó lòng ôm vợ đẹp trong chăn

LÍNH QUA SÔNG

Mùa mưa lính mới hay đào ngũ

Lính cũ càng thưa thớt chợ chiều

Chuẩn úy ra trường chơi trung đội

Lèo tèo một đám lính đìu hiu

Phòng tuyến xuôi xuôi đồi Tháp Bạc

Đàn gà lục tục đến bờ sông

Giòng sông nước lớn trôi chầm chậm

Ráng đỏ bừng lên cả một giòng

Đưa súng lên trời, đầu ba lô

Giơ toàn ngực lép cười hô hô

Bỗng nhiên hồn trẻ như mười tuổi

Lính qua sông, rộn rã hai bờ...

Trần Hoài Thư

Trích NGÀY VÀNG, Thơ, Thư Ấn Quán 2002

________________________

TL_30thang4vaBoatPeople.jpg
TL_Tolichcu.gif

Cao Vị Khanh, Đoàn Xuân Thu, Trần Bang Thạch, Võ Thị Bạch Nữ, Đỗ Chiêu Đức, Nguyên Nhung,  Anh Tú, Huyền Vân Thanh, Mailoc, Phan Thượng Hải, Giáng Xưa, Trầm Vân, Hớn Chiêu Tuyết Mai, Trương Nhị Kiều...(còn tiếp)

 

CAO VỊ KHANH: 

 

Tháng tư

 

.................................

Tháng tư như một vết sẹo gần

Tưởng quên rồi lại bồi hồi nhớ

Khi máu trong tim vụt trở trăn

 

Tháng tư ồ tháng tư xuân

Đâu đây lấp ló góc mộ phần

Nửa chìm lặng lẽ, nửa trồi hận

Ôi tháng tư gian dối vô nhân

 

Tháng tư ôi tháng tư thầm

Rền rền như từng nốt nhạc câm

Réo kêu đục đẽo dao tùng xẻo

Ôi tháng tư bạc bẽo sát nhân

 

Tháng tư, ờ tháng tư đen

Nám da nắng lửa tù thay ngựa

Kéo lết căn phần tội-tổ-tông

 

Cao vị khanh

Mời nghe Duy Trác đọc cvk:

 

https://1drv.ms/u/s!AivKU8Cy4J3AuSJOdljSD9vKFq16

Lệ Sử

 

Người thức từng đêm theo vận nước

Lệ sông Gianh thấm ướt ngàn sao

Tội những người đi xanh tóc mượt

Kéo về chết thảm trắng chân hào

 

Em có nghe rền theo thiên cổ

Lời nguyền rủa động suốt thiên thu

Em có nghe rì rào sóng vổ

Nợ tiền khiên kêu réo oán thù

(Xin bấm vào đây để đọc trọn bài)

 

CVK

____________________________

đoàn xuân thu:

Ngả ba sông.

Đất lành, quê, giờ là đất dữ,
cải tạo xong, an phận không xong,
đành phải chịu, nén lòng vượt biển,
đưa con buồn, vàm, ngả ba sông.

Cơm ơn huệ : tép rang mằn mặn,
canh mồng tơi, con nhớ quê nhà,
rưng rưng Má, nhai cơm, nhai sạn,
đưa con vào chổ chết đêm nay?!

Vào chổ chết tìm ra chổ sống,
tử biệt buồn hay nỗi sanh ly?
thuyền ra biển, trùng trùng biển sóng,
vỗ ngàn sao – dõi mắt con đi.

Đêm ác mộng nhớ ngày năm cũ,
đưa con buồn, vàm, ngả ba sông,
xót Má xa con, trời vần vũ,
đêm mịt mùng… Má sợ bão giông.

Con chạm đảo, Má mừng hết biết;
công an hầm hè, hỏi: “nó đâu?”
“nó vượt biên rồi, giờ đở khổ,
còn thân già …nhốt…cũng chẳng sao”.
***
Đất quê người biết thân, biết phận,
công danh gì ? con nhận cu li,
cơm hộp xách đi, chiều tắt nắng,
xe lái về trời rạng bình minh.

Tiền con gởi Má may áo mới,
giữ dùm con tấm áo năm nào,
áo vá vai, nhớ ngày nhịn đói,
cắt rừng thăm, nuôi con… tù đày.

Chiều cuối năm nhớ nhà, nhớ Tết,
tép rang mằn mặn, canh mồng tơi,
năm tận, tháng cùng, ngày sắp hết,
lệ chan cơm buồn lắm Má ơi!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne. 

_____________________________

TRẦN BANG THẠCH

Khởi đi từ cái ngày 30/4 ấy....

 

Người ngậm tăm suốt ngày

 

Không biết có nên gọi ông Lê là người ngậm tăm suốt ngày hay suốt đời. Thật sự thì quỹ thời gian của ông Lê gần cạn, cho nên ông có ngậm tăm suốt ngày, suốt tháng hay suốt đời không phải là điều cần quan tâm. Cái mà có người muốn biết là tại sao lúc nào gặp ông Lê là thấy cây tăm xĩa răng trên miệng, như là vật bất ly thân. Ăn xong buổi trưa, ông phóng cây tăm nằm giữa đôi môi thì có thể hiểu được; chớ cái việc sáng sớm uống xong một tách cà phê rồi điểm tâm bằng một que tăm thì ít thấy trên đời. Có người còn tỏ vẽ thắc mắc là sao ít nghe ông Lê nói chuyện. Câu hỏi lảng xẹt: Đã thấy cây tăm lúc nào cũng nằm chình ình giữa hai hàm răng thì bắt ông phải nói bằng hai cái lổ mũi à?

(Xin bấm vào đây để đọc trọn bài)

Nặng oằn vai gánh

 

Tôi nhìn hoài những cơn mưa khuya

Em cô phụ nhọc nhằn quá đỗi

tần tão nuôi con, nuôi chồng tù tội

đâu sá gì vóc hạc, hình mai

 

Tôi mười năm rồi gánh nước ở đây

Vai không nặng mà tim chừng đã nặng

Gánh hận bại binh, gánh ngàn cay đắng

Gánh nhớ, gánh thương nghĩa vợ tình chồng                              Khung thơ: Tố Lang

 

Em một thân cò vất vả ven sông

Tôi nát thân tù nơi đèo heo hút gió

Khi nhớ nhau ta có vầng trăng cổ độ

để nghe lòng ấm chút hơi quen

 

Ta tìm nhau giữa lối nhớ trong tim

Ta nói với nhau những lời trong mộng

Hơi thở ta quyện nhau giữa đất trời cao rộng

Thù hận nào tạo được cách chia!

 

Em gánh gồng vạn dặm đường khuya

Chân phải vững để đá mòn dưới gót

Tôi cắn chặt răng những đêm dài lạnh buốt

để ngày mai còn đủ sức dựng cờ.

 

tbt

 

VÕ THỊ BẠCH NỮ

Bây giờ mà kể chuyện vượt biển thì có lẽ hơi lỗi thời. Mỗi người trong chúng ta có kinh nghiệm riêng về chuyến hải trình của mình. Đây là chuyến hải trình của riêng cá nhân tôi đã trải qua xin được kể lại cho các bạn chuyến đi thay đổi vận mệnh đời mình. Thân ái.

Started 16-Feb-2020

Những Ngày Dài Nhất

 

Sự mong chờ

Sau năm 1976, tôi được học nội trú ở dự bị đại học. Không hiểu sao tôi không chọn Sư Phạm ngoại ngữ khi tôi đủ điểm đậu vô phân khoa này. Định mệnh dung rủi tôi chọn ngành Gây Mê Hồi Sức chỉ vì cái tên. Nhờ vậy tôi được biết người bạn tốt Bạch Loan. Bạch Loan và tôi học chung khoá Gây Mê Hồi Sức, sau vài tháng học chung chúng tôi trở thành bạn. Loan tính tình tốt biết cảm thông, thương người và có tính khôi hài. Đất Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn chúng tôi đi cùng khắp, chúng tôi đi ăn hàng khắp nơi đặc biệt là quận năm  có nhiều khu vực ăn uống.

Năm 1975, Loan học xong lớp mười một chương trình Pháp ở Regina Pacis và có tú tài Việt năm 1976. Năm 1978, gia đình Loan đang tìm chỗ cho Loan đi vượt biên, Loan hỏi tôi có muốn đi cùng. Việc này ngoài dự định của tôi vì tôi không đủ vàng để thực hiện. Tình cờ Tết năm đó tôi về Cần Thơ, một người bạn thuở nhỏ của tôi có trong tổ chức vượt biên ở Cần thơ và tôi giới thiệu Loan như một người khách để được đi ké. Tôi trả lệ phí bằng một sợi chuyền vàng năm chỉ, cái đồng hồ Thụy sĩ Titoni và cái nhẫn xoàn ba ly của Bà nội tôi sắm cho tôi khi tôi mười sáu tuổi. Đó là tất cả kỹ niệm của bà Nội tôi để lại cho tôi. Trong khi Loan phải trả ba cây vàng. Việc học chúng tôi lúc ấy thật lơ là vì nghĩ rằng mình sẽ ra đi. Hai đứa mơ ước và dự định mình sẽ học gì và làm gì khi được đến nước ngoài. Giấc mơ Loan với tôi không thực hiện được khi biết tôi bị bỏ lại. Có thể chủ tàu muốn nhờ tôi ở lại móc nối thêm người cho ông ấy rồi sẽ đi chuyến sau cùng vì tôi có nhiều quen biết trong giới  ngành y.

 

(Xin mời bấm vào đây để đọc trọn bài)

ĐỖ CHIÊU ĐỨC: 

EM CÓ BUỒN TA

 

Buông súng ba mươi nhớ tháng nầy,

Em buồn ta vẫn muốn ta say.

Nhớ xưa chinh chiến oai hùng khắp,

Tưởng lúc hành quân dũng khí đầy.

Mấy lượt truy thù hồn bỏ xác,

Bao lần khiến địch vía lên mây.

Vần xoay cuộc chiến bao hờn oán,

Uất ức thua cay xác héo gầy !

 

Đừng bảo đành thôi để khỏi buồn,

Lưu vong biệt xứ đã tan hồn.

Chí hùng đã nhụt từ xa nước,

Hào khí còn đâu lúc bỏ thôn.

Túy ngọa sa trường đành gát lại,

Liều mình chiến địa chí chưa mòn.

Tháng ngày lần lựa tàn thân xác,

Sức mỏn lấy gì cứu nước non ?!!!

 

                     Đỗ Chiêu Đức

Nơi đất khách nghe mưa nhớ nhà

  聽雨                          THÍNH VŨ

軒外瀟瀟細雨音,   Hiên ngoại tiêu tiêu tế vũ âm,

寒窗孤影酒單斟。   Hàn song cô ảnh tửu đơn châm.

猢猻樹倒皆離散,   Hồ tôn thọ đảo giai ly tán,

鳥獸限時各別林。   Điểu thú hạn thời các biệt lâm.

客地悠悠亡國恨,   Khách địa du du vong quốc hận,

家鄉耿耿故園心。   Gia hương cảnh cảnh cố viên tâm.

舊時鄰里今何在?   Cựu thời lân lý kim hà tại ?

安樂歡歌無處尋!   An lạc hoan ca vô xứ tầm !

              杜紹德                        Đỗ Chiêu Đức

 

  

 

* Dịch Nghĩa :

                      NGHE MƯA

       Ngoài hiên tiếng mưa thánh thót rả rít rơi,

       Một bóng bên song cửa lạnh đơn độc tự rót rượu cho mình.

       Cây cao đã ngã nên đàn khỉ đều tự tan đàn xẻ nghé,

       Hạn lớn đổ đến nên chim thú đều mạnh ai nấy bỏ rừng mà đi.

       Dằng dặc nơi đất khách luôn mang trong lòng cái hờn vong quốc,

       Canh cánh tình quê luôn mang nặng lòng tưởng nhớ đến quê hương.

       Làng xóm khi xưa giờ đã ra sao rồi, có còn như xưa chăng ?

       Cảnh vui vẻ hoan ca không còn tìm đâu được nữa !

 

* Diễn Nôm :

 

                  NGHE MƯA

 

         Ngoài hiên thánh thót tiếng mưa rơi,

         Trong cửa tự say bóng một người.

         Cây ngã hồ tôn đi tứ tán,

         Hạn về chim thú tản muôn nơi.

         Quê người dằng dặc hờn không dứt,

         Đất mẹ bâng khuâng nhớ khó nguôi.

         Làng xóm khi xưa đà mất hút,

         Tìm đâu hoan lạc thuở xưa vui !

 

                                    Đỗ Chiêu Đức

NGUYÊN NHUNG:

ĐỪNG HỎI VÌ SAO

Tháng Tư buồn

CVK_Thang Tu.jpg
TBT_NANG OAN VAI GANH.jpg
NN_thangtubuon.jpg

Năm vừa qua, chuyến xe đưa chúng tôi từ Đà Nẵng về Qui Nhơn, tôi mới có dịp đi qua đoạn đường "máu đổ thây phơi" của 40 năm trước. Đi qua những địa danh quen thuộc miền Trung, từ Đức Phổ, Mộ Đức, những quận lỵ xơ xác đói nghèo vì chiến tranh đã được hồi sinh. Có lẽ 40 năm  sóng biển Sa Huỳnh vẫn vỗ vào bờ một nỗi buồn xa vắng. Hai bên ruộng lúa vẫn xanh rờn, xa xa dải núi mờ sương lại khiến tôi thương cảm không cầm được giọt lệ. Tôi biết anh đã yên nghỉ, nhưng nắm xương tàn nằm ở đâu thì cho đến bây giờ vẫn chưa tìm lại được.


Tháng Tư. Đốt nén hương lòng tưởng nhớ anh, một người anh hiền hoà, luôn thương yêu các em. Sau 40 năm anh đã yên nghỉ , gửi nắm xương tàn nơi rừng sâu núi thẳm, nhưng nỗi thương nhớ vẫn còn ở lại với người thân trong gia đình.

 Bốn mươi năm mới viết nổi bài thơ,  "Đừng Hỏi Vì Sao Tháng Tư Buồn", hay 40 năm nhìn lại với một nỗi buồn khó nguôi.

Nguyên Nhung

ANH TÚ:

Mà Sao Mỗi Tháng Tư?

 

Không trống chùa công phu, không chuông nhà thờ

không tiếng gà gáy sáng ... như thuở nào trên quê hương

mà trong lòng tôi sao mãi vang dội tiếng yêu thương.

 

Xung quanh không bè bạn, không học trò, không lớp trường

mà sao trong mơ tôi nghe tiếng hỏi chào vương mùi phấn bảng.

Đang sói đầu, mắt mờ, tai lểnh lảng, chân mỏi đứng im

khi mỗi tháng Tư về mà sao cảm như còn hừng hực lý tưởng trong tim.

 

Giờ đây ...trong ngõ cụt im lìm hừng đông đang lố dạng

mà sao mơ hồ  tiếng " lạch bạch" xe lambretta

nhắc nhớ chuyến đi Chợ Vãng-Bình Minh mỗi sáng

đến trường chẳng ngại đường xa.

 

Đường xa bị nghẽn bến mơ; ước mơ đã chết tự bao giờ

khắc khoải với ngày tháng hao mòn, còn ngắn ngủi

niềm vui là những con chữ hững hờ

và chỉ còn đợi chờ lúc cuối đời hất hủi.

 

Anh Tú

HUYỀN VÂN THANH

NHẮC LÀM GÌ

NHỮNG CHUYỆN ĐAU LÒNG

 

       * Kính tặng tất cả Quân Dân Cán Chính VNCH 

          còn ở lại quê nhà sau cơn bức tử 30-4-1975

* Thân tặng tất cả những người từng chịu nhục nhã 

    trong các trại tù “cải tạo” sau năm 1975.

 

Có vui gì khi nhắc chuyện đã qua

Mà vận nước thật sự sang trang tức tửi

Trách cứ phiền nhau, bảo ai lầm lỗi

Cũng muộn màng, đau xót buốt tim gan.

 

Những năm dài trong tù ngục lầm than

Mới ngẫm lại đời sao nhiều gian dối

Chỉ câu nói giản đơn khiến muôn dân tiếc nuối

“Buông súng đầu hàng” (1) - Mệnh lệnh vô tâm!

 

Lại bảo rằng “Làm gì có cà pháo mắm tôm

Chạy ra nước ngoài là những tên hèn, phản quốc” (2)

Một câu nói nức lòng miền Nam ruột thịt

Vậy mà Người đã ra đi hết sức ung dung.

 

Lại bảo rằng “Tôi sẽ chiến đấu bên cạnh anh em

Quân đội từ nay có thêm tay súng” (3)

Địch quân chưa vào, quê hương chưa đẫm máu

Ngoảnh lại nhìn, Người đã vượt xa xăm!

 

Tội cho người gắn bó với quê hương

Phải chấp nhận vào cuộc đời tăm tối

Kẻ chiến thắng mặc tình luận tội

Họ cho rằng “Trời không dung, đất chẳng tha”

“Nước biển Nam Hải không rửa sạch mùi

Lấy trúc Nam Sơn ghi không hết tội! (4)

 

Cuộc sống đời người khó vượt qua trăm tuổi

Nhưng tiếng lưu danh mãi mãi trường tồn

Xấu tốt… đâu cần tô vẽ thiệt hơn

Bởi “lịch sử đúng” – là “cán cân công lý”

 

Nên bây giờ - đã phần tư thế kỷ

Nhắc làm gì những chuyện đau lòng

Đường ta đi hãy giữ mãi sáng trong

Kẻ gian dối – thế lực nào cũng bị đời lật tẩy.

 

30 tháng 4-1994

 

HUYỀN VÂN THANH

(Văn Nghệ VỀ NGUỒN Tây Đô)

 

Bài thơ đăng trên BNS DÂN TA tháng 4-1995

Đăng lại trên tạp chí VHVN số 29 – mùa hè 2005

___________

 

(1). Mệnh lệnh của tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống cuối cùng của

       VNCH ra lệnh cho toàn quân buông súng vào lúc 10 giờ sáng ngày 30-4-1975.

(2). Câu nói của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống VNCH.

(3). Câu nói của Tướng Nguyễn Văn Thiệu, cựu Tổng Thống VNCH.

(4). Cán bộ chính trị của CSVN mỗi lần “lên lớp” trước anh em “tù cải tạo” đều lấy

       câu nói của Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô Đại Cáo để luận tội.

MAILOC:

 MỘT CHUYẾN ĐI

 

Bước chân đi lào xào cát sỏi

Lũ thuỳ dương gió tối vi vu 

Xóm chài vắng lặng mịt mù

Đèn pin le lói lù mù không gian.

 

Gió se lạnh mênh mang đồi cát

Bước lần theo sậy lác mắt nhoà

Giật mình tiếng súng tiếng la

Ai còn ai mất đạn sa nhạn nào?

 

Đêm dần xuống xạc xào lau lách

Nước trầm mình lạnh ngắt cóng chân.

Thuỷ triều nước cứ lên dần

Thuyền đâu không thấy miệng thầm vái van.

 

Tiếng lõm bõm xuồng đang dần tới

Bế con lên vừa mới thở phào

Một tràng súng nổ rào rào

Băng băng thuyền cứ sóng trào biển khơi.

 

Đêm trùng dương rợn người khó tả

Nước đen ngòm bờ đã xa xôi

Quê hương bỏ lại chia phôi

Kẻ đi người ở bồi hồi chinh nhân !

 

       Mailoc

     4-28-2020

PHAN THƯỢNG HẢI

Người ở lại ngày 30-4-75 

 

                         Bệnh viện Bình Dân 30-4-1975 (Nguyên bản) 

Giặc đến, người đi, súng nổ vang 

Bình Dân nội trú lúc nguy nàn 

Cứu thương giải phẫu không ngừng nghỉ 

Thiển ý vô tư chẳng rộn ràng 

Giúp đỡ đồng bào khi biến loạn 

Quên tìm tỵ nạn được bình an 

Bùi ngùi nhớ lại ngày xưa ấy 

Thời thế trần ai khó luận bàn? (*) 

Phan Thượng Hải

 4/26/12 

 (*) Chú thích:

            Ai Công Hầu, ai Khanh Tướng, trong trần ai ai dễ biết ai. (Đặng Trần Thường) 

            Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời vẫnthế. (Ngô Thì Nhậm) 

            Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời phải thế. (Phan Huy Ích) 

 

Bài thơ nầy kính tặng các Nội trú ở Bình Dân trong lúc đó còn sống tới ngày hôm nay: LQ Nghĩa, NQ Đức, LB Lợi, NĐ Tuệ, HQ Minh, NK Hòa, NT Lộc, NT Phương, TT Nhơn... và những người đã qua đời: VT Tĩnh, TH Tâm...

Người Di Tản ngày 30-4-75 

  

Miền Nam đã mất phải sinh ly 

Bỏ lại quê hương họa hiểm nguy 

Chiến hữu lao tù thân khốn khổ 

Đồng bào nô lệ dạ sầu bi 

Lương tâm nuôi dưỡng người di tản 

Chí hướng trường tồn lúc thịnh suy 

Trọn kiếp không quên thề chống Cộng 

Hằng năm tưởng niệm chuyến ra đi. 

Phan Thượng Hải 

4/23/17 

MỘT NGÀY 30-4

Bốn lăm năm chẵn đã qua đi

Viễn xứ hoài hương tận nghĩ suy

Vô ngã chơn không lòng oán hận

Vô thường sở trụ dạ sầu bi

Ân tình còn đó câu tình nghĩa

Ái quốc còn đây lá quốc kỳ

Quá khứ hàn ôn bao kỷ niệm

Bảy mươi già lão biết đường đi.

Phan Thượng Hải

30-4-2020

GIÁNG XƯA - TRẦM VÂN (hoạ)

DangXua_VIET CHO THANG TU GOI NGUOI O LA
TV_NOI BUON LY BIET.jpg

HỚN CHIÊU TUYẾT MAI

 

CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ...

về tháng 4 của tôi

 

 

Tôi sinh vào ngày 10 tháng 4, tôi Vu quy ngày 26 tháng 4 và chính thức về nhà chồng làm lễ Thành hôn ngày 30 tháng 4. Sẽ chỉ là những dấu mốc thời gian bình thường trong một đời người nếu ngày 30 tháng 4 đó không là 30 tháng 4 năm 75, cái ngày gắn liền với lịch sử đất nước.

Do tình hình chiến sự căng thẳng, đường sá xa xôi nên chỉ có Ba tôi đưa con gái về nhà chồng...bằng xe đò, chuyện rất hiếm có trước đây. Xe khởi hành từ Cần Thơ lúc 7 giờ sáng, định đến Phụng Hiệp lúc 9 giờ , sẽ có thuyền hoa rước dâu. Nhưng xe chạy khỏi Cái Tắc đã phải dừng để chờ phá mô do VC đắp. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn tận mắt cái gọi là mô. Chỉ là một mớ lục bình, mấy nhánh cây, thân chuối kéo ngang đường nhưng bên dưới là mìn, lựu đạn, xe chạy qua sẽ bị nổ tung.Không ít người dân đã thiệt mạng vì cái trò phá hoại này. Gần 9 giờ xe mới tiếp tục chạy nhưng chưa được bao lâu lại phải dừng vì tiếng bom đạn từ bên phía trong ruộng. Khói đen bay lên từng cụm, máy bay chao liệng ném bom xuống, đạn bên dưới bắn lên từng tràng. Mọi người trong xe nhìn, bình thản, chỉ có tôi lo sợ vì cũng là lần đầu nhìn thấy cảnh đạn bom. Một lúc sau có chiếc GMC chở đầy lính vượt qua chúng tôi . Bác tài xế nói: “Chắc tiếp viện. Kiểu này là kẹt lâu!”. Rồi hai chiếc thiết giáp từ hướng đó chạy ngược lại, trên xe đầy vỏ đạn. Ai đó nói: “Đánh lớn à“. Có người đáp: “Hổm rày vậy hoài”. Phải hơn hai tiếng sau xe mới đi được. Nhưng đến Long Thạnh thì lại bị dừng, một đoàn xe đậu sát lề nhường đường cho mấy chiếc GMC bít bùng, lúc chạy ngược về Cần Thơ, lúc chạy xuôi về phía Phụng Hiệp. Trước xe tôi là một chiếc GMC không mui, chở một quan tài phủ cờ vàng, người lính lái xe mệt mỏi gục đầu trên tay lái. Trời nắng nóng, mùi xăng, mùi khói xe, đủ thứ mùi ngột ngạt khó chịu, chúng tôi xuống xe, đứng bên đường. Nhiều người lại nhìn quan tài, “không biết chết ở đâu, chắc lâu rồi“, rồi lãng chỗ khác, có người đưa tay che mũi. Chốc sau, có một người từ nhà bên đường mang theo nãi chuối, thẻ nhang và một bao thuốc lá đến đưa người lính lái xe. Tôi thấy anh gật đầu nhận, cười mà mặt buồn như khóc. Rồi anh leo lên xe, vỗ lên quan tài như vỗ vai người bạn, đặt nãi chuối lên quan tài, bật quẹt thắp nhang cắm lên nãi chuối. Sau đó anh ngồi bệt xuống, lại bật quẹt châm điếu thuốc, anh rít một hơi rồi đặt lên nãi chuối, thì thầm : “Tao cố đưa mày về quê mà không được rồi, thôi mầy trở về đơn vị với tụi tao. Mày linh thiêng nhớ phù hộ anh em nghe”. Khói nhang lan toả, hương thơm thanh thoát, linh thiêng xua tan mùi tử khí. Mọi người cúi đầu, có người chắp tay vái. Tôi cố không khóc nhưng cứ nghẹn. Vừa thương người chết trận vừa thương người lính lái xe, ai cũng mang nặng trên vai tổ quốc và trách nhiệm. Và người lính đã hi sinh này nay còn mang thêm lời gửi gắm của đồng đội.

Gần 11 giờ trưa (giờ VNCH), nắng gắt, chúng tôi lên xe. Bác tài xế mở radio ngóng tin tức. Vẫn là tin chiến sự. Vùng I, Vùng ll, Vùng lll đều rối loạn, không có tin gì về Sài Gòn....Bỗng im bặt một lúc lâu, đúng 11 giờ, lời kêu gọi quân lính VNCH buông súng đầu hàng quân Giải phóng của Dương Văn Minh vang lên. Mọi người bàng hoàng. Ba tôi, người đọc báo, nghe tin chiến sự hàng đêm, ngồi im lặng một lúc lâu mới nói: “Vậy là hoà bình rồi!”. Nhiều người trên xe cũng lao nhao: ”Hết đánh nhau rồi, hoà bình rồi“. Chưa kịp bày tỏ hết thái độ, cảm xúc thì mọi người lại lao nhao vì lệnh giới nghiêm trên toàn quốc cho đến ngày mai. Thế là tôi không về được nhà chồng! Mọi người lại xuống xe, họ hoang mang vì lịnh giới nghiêm chứ không phải lo sợ vì không có chỗ nghỉ đêm nay. Ở cái miền Tây hiền hoà này, mọi người sẽ sẵn sàng cho người lỡ đường nghỉ chân, huống gì lúc này. Ba tôi cũng tìm được nhà người quen để nghỉ nhờ. Đêm vắng ngắt, tăm tối vì cúp điện, cũng không ai dám đốt đèn dầu, nhưng không ai ngủ. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một đoàn người mang súng dài, nối đuôi hàng một im lặng đi âm thầm trong bóng đêm, như một đoàn quân ma. Tôi nghe Ba thở dài!...

Đến sáng, anh chủ nhà đón được xe cho chúng tôi về Cần Thơ. Chiếc áo dài đỏ và đôi hài đỏ cô dâu của tôi bị thay bằng cái áo bà ba trắng mặc ngủ của ông xã tôi. Chị chủ nhà tốt bụng cho tôi cái quần đen, cái nón lá cũ và đôi dép mủ. Tôi không nhận quần vì không quen mặc quần áo của người lạ nhưng cái quần satin trắng bóng loáng của tôi làm Ba lo ngại nên đẩy tôi vào ngồi ở góc cuối xe và dặn phải luôn che nón và giấu đôi bàn tay sơn móng màu hồng. Xe chật, Ba và ông xã tôi phải chen chúc đứng ở phía cửa xe. Lâu lâu xe bị chận lại, một người mặc đồ đen mang súng, có khi là nữ khoác khăn rằn, mặt hằm hằm bước lên xe, nhìn ngó một vòng rồi cho xe chạy. Lần đầu tiên

đi xe phải ngồi xa người thân, tôi sợ muốn khóc, sợ bị lạc, sợ không biết đường về nhà nên cứ lóng nhóng nhìn ra cửa xe tìm Ba và chồng. Chợt có tiếng nói bên cạnh tôi: ”TM phải không?“. Tôi giật mình nhìn qua: áo thun trắng, quần vải đen, dép kẹp, đôi chân đầy bùn đất. “ Anh biết tui sao?”. Anh ta cười: ”Ai học Phan Thanh Giản mà không biết TM. Người đẹp đi đâu mà ...mặc đồ ngộ vậy?“. Tôi cười: ”Hôm qua đám cưới tui nhưng giới nghiêm, tui không về bên nhà chồng được”. Ông xã đâu rồi?“. Tôi hất hàm chỉ về phía trước và hỏi: “Còn anh đi đâu vậy? “. Anh nhỏ giọng: “Đi lính. Tui liệng súng và quần áo xuống sông rồi xin đồ dân mặc”. Bây giờ anh đi đâu? “. Anh ậm ừ: ” Về nhà trước rồi tính“. Có cái gì đó khiến tự nhiên cả hai cùng trầm ngâm...

Xe dừng lại trước bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa, ai cũng vội vã xuống xe, tôi không kịp chào anh.Đến khi đã ngồi trên xe lôi, tôi mới nhớ quay lại tìm. Trong đám đông, tôi thấy một cánh tay cầm khăn vẫy, tôi nhận ra đó là chiếc khăn tay tôi buộc tóc, chắc rớt trên xe...

Ngày 30 tháng 4 năm 75! 45 năm rồi, 45 năm ngày cưới, 45 năm bị cuốn theo dòng đời nhiều vất vả, mệt mỏi hơn là hạnh phúc, tôi chưa một lần thắp nến kỷ niệm ngày cưới. Cái hạnh phúc riêng nhỏ nhoi của mình có ý nghĩa gì so với nỗi đau thương mất mát của bao nhiêu người khác! Nhưng tôi chưa bao giờ thôi nghĩ, thôi xúc động về ngày đó. Tôi luôn tự hỏi người ngồi cạnh mình trên chuyến xe năm ấy bây giờ ở đâu? Và người lính lái xe, chắc chắn không kịp trở về đơn vị, không biết có chạy thoát hay là không nỡ bỏ đồng đội giữa đường và rồi...? Còn cái quan tài cô đơn kia...? Tôi không dám nghĩ xa hơn, chỉ tin rằng với tấm lòng nhân hậu của dân mình, chắc anh đã được mồ yên mả đẹp ở một mảnh vườn nào đó. Dù họ ở đâu, 45 năm qua , tôi vẫn luôn nhớ và cầu nguyện bình an cho những người tôi đã gặp ngày ấy, kể cả anh chị chủ nhà cho chúng tôi nghỉ nhờ. Không biết bao nhiêu lần về nhà chồng đều phải qua khoảng đường đó nhưng tôi không nhớ được vị trí ngôi nhà , cũng không biết được tin tức họ để đáp đền ơn nghĩa. Đành mang nặng trong lòng món nợ ân tình không trả được dù tôi biết, đối với người miền Tây mình, tặng một bữa cơm, một đêm nghỉ chân cho người lỡ đường là chuyện rất bình thường. Không biết tôi sẽ còn đếm được bao nhiêu lần 30 tháng 4 nữa để nhớ lại ngày ấy nhưng bao giờ tôi cũng luôn tâm niệm lời nguyện cầu bình an đến mọi người, mọi nhà. Cuộc chiến tranh chúng ta đã phải trải qua thật là tốn nhiều máu và nước mắt!

Viết những dòng này, tôi lại nhớ Quang Hoà, người bạn thời Đại học của chúng tôi. Q Hoà thường nhắc : chuyện hai người ly kỳ vậy sao không viết lại. Tôi nói chưa lắng đọng được cảm xúc. Hôm nay tôi viết thì Q Hoà đã đi rất xa. Dù ở đâu đó, Q Hoà hãy đọc và cứ cho lời bình tự nhiên nhe.

HỚN CHIÊU TUYẾT MAI

TRƯƠNG NHỊ KIỀU

bốn mươi lăm năm

 

45 năm nổi, trôi theo vận nước

cuộc đổi đời cay nghiệt chẳng vì đâu.

thân phận con người có khác gì nhau

thằng ở lại, thằng ra đi lưu lạc !

 

nơi đất khách, mày buồn thân viển xứ

sống nhọc nhằn, thân phận kẻ ly hương 

buồn vây quanh, trong nổi nhớ niềm thương

ngày hai buổi đi về như chiếc bóng.

 

tao ở lại vẩy vùng trong lửa bỏng

bởi đòn thù từ mọi phía bủa vây

khổ nhục chất chồng sớm tối lay quay

kẻ thua cuộc có khác gì thằng nô lệ!

 

tao hứng chịu, những đắng cay dâu bể 

vững niềm tin, nuôi hy vọng ngày mai

bóng tối đêm đen, không thể kéo dài

bình minh đến báo tin ngày nắng ấm.

 

ngày vui đó dù đến mau hay chậm

mơ ước thành sự thật sẽ không xa 

đất nước tự do, dân chủ thái hòa

thầy bạn, anh em mừng vui Hạnh Phúc

 

Bốn mươi lăm năm nổi trôi theo vận nước

Bọn chúng mình “mất hết chỉ còn nhau “

 

trương nhị kiều

                           THIÊN PHONG

                           NGUYỄN HỒNG TUYỀN

                           CHS Phan Thanh Giản

                             Nguyên Đại Tá Không Lực VNCH

                             Pleasant Hill, CA 

 _______________________

 

 Người Con Gái Áo Trắng Ðiện Bàn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- Tím Hai......Ðây Tím Một gọi.....

- Tím Hai nghe Tím Một.....5/5. 

- Tím Hai.....Vòng bắn hỏa tiễn cuối cùng rồi vào hợp đoàn về cho sớm đi tắm biển....Chiều nay trời đẹp gió lặn mặt biển yên như tờ giấy...Chắc có nhiều người đẹp...Bikini...tắm lắm. 

- Tím Hai...Roger. 

- Tím Một...In...salvo (bắn hết) luôn hai bó hỏa tiễn 2,75 Tím Một...Out.

Tôi kéo cần lái vội qua tay phải để dể nhìn Tím Hai làm vòng bắn chót. Chiếc phi cơ T28 màu sơn trắng bạc có dấu hiệu đầu Cọp vàng đen của Phi Ðoàn 516 Khu Trục trên đuôi coi oai phong lẫm liệt vào thời năm 1962. 

- Tím Hai...In..... 

Nhìn theo chiếc phi cơ Tím Hai vừa nhả hai ổ hỏa tiễn 14 trái 2.75 Inches phía trước đầy khói. Như rồng phun lửa từ miệng, cuộn khói sau đuôi con tàu làm một vòng hào quang do ánh nắng chiều rọi xuyên đám khói trắng vòng tròn phi cơ vừa bay lướt chui qua ... tuyệt đẹp. Những trái hỏa tiễn nổ trên đồi trong đám rừng cây xanh lá cách đồn quân bạn chừng 300 thước như những... cánh hoa đất.... nở trắng đồi. Ánh nắng chiều vàng le lói xuyên qua giữa những... cánh hoa đất khói trắng vừa nở ....trong rừng xanh tạo nên một bức tranh đẹp mỹ miều khó tả được bằng bút mực cọ sơn của người trần thế. 

- Tím Hai ...Out... 

- Quá đẹp ...Tím Hai. 

Người bạn đường không gian của tôi hôm nay là anh Thiếu úy Phạm quang Ðiềm có biệt hiệu là ông Hoàng Sihanook màu da hơi ngâm ngâm, tánh tình vui vẻ dễ mến, bay rất chì và chịu khó học hỏi. Anh là phi tuần viên số hai của Th/úy Ôn Văn Tài trưởng phòng hành quân phi đoàn Phi Hổ 516 khu trục. Trong lần biệt phái đi Ðà Nẵng 15 ngày kỳ nầy Phi đội Phi Hổ Tím thiếu Minh Chè Tím Hai đi phép, thành ra trưởng phòng hành quân Ôn Văn Tài đề cử Phạm Quang Ðiềm (Sihanouk) người phi tuần viên bay rất cừ và can đảm thay thế Minh Chè chỗ Tím Hai. 

 

- Ðống Đa....Ðống Đa....Ðây Phi Hổ Tím.... 

- Phi Hổ Tím....Ðống Ða nghe bạn 5/5. 

- Phi Hổ Tím.... Phi vụ hoàn tất....Rời khỏi tần số, chúc bạn một đêm ngủ an lành. 

- Ðống Ða ...Vạn lần cám ơn Phi Hổ. Kết quả oanh kích khi kiểm tra sẽ báo cáo sau. 

- Tím Hai ....Ðổi qua tần số 118.5....

- Tím Hai.... Roger. 

- Ðây Một gọi..... 

- Hai ....nghe 5.....

- Hai ơi!!...chắc kết quả ...chẳng có gì....chỉ được chừng ....hai tấn Tăm Xỉa Răng.....Hi ....Hi....Hi....!!!! Tím Hai....Hợp đoàn giữ cao độ 1000 bộ hướng 90 ra bờ biển và lấy hướng bắc để về Ðà Nẵng....

- Tím Hai...Roger !!! 

Trời chiều mùa hè, không mây gió, hợp đoàn xuống 300 bộ, bay theo dọc bờ biển êm ru, mở cocpick ra chừng một tấc, làm lòng người dễ chịu khoan khoái trong phòng lái như có máy lạnh làm mát những con tim đơn côi... của ngừời phi công, trong không gian mênh mông. 

- Hai ....Ðây... ...Một gọi... 

- Hai nghe.....Một......Nói đi....

- Một sẽ xuống 100 bộ.....Hai giữ cao độ 200 bộ.... Trên ....Bay dọc theo bờ cát, ngang cửa biển Fai Fô và bờ biển Thanh Bình chắc có nhiều người đẹp phơi... rùa.... bãi biển lắm nghen... trong mùa hè nầy. 

- Hai....Roger....Hi...Hi.... 

Hợp đoàn qua khỏi Chu Lai, sắp đến cửa biển Fai Fô, vô tuyến đã rồ lên trong nón bay: 

- Phi hổ Tím ...Ðây Panama ...Gọi.... Phi Hổ Tím. ...Ðây Panama...Gọi...... 

- Phi Hổ Tím... Nghe Panama 5/5... 

- Phi Hổ Tím ...Báo Cáo vị thế, xăng...và bom đạn... 

- Vị thế...Trên Cửa biển Fai Fô....Cao độ 100 Bộ...Bơm Và Rockets đã thân tặng cho các Anh em Sanh Bắc Tử Nam hết rồi. Chỉ còn bốn Pot Ðại Liên 30...và 3 ngàn 200 viên đạn, xăng 1giờ 15...Over. 

- Phi hổ Tím..... Phi Vụ Khẩn cấp.....Số Phi vụ #0041 ....Ðồn Ðịa Phương Quân...Ở Ðiện Bàn Bị VC Tấn Công... Tần số FM 51,02...Danh hiệu...Bạch Ðằng.... 

- Phi Hổ Tím hiểu rỏ đang ở cách 5 phút cực Nam mục tiêu.... 

- Liên lạc thẳng với Bạch Ðằng.... Sẽ có Phi Yến Quan sát và Khu Trục thay thế...Phi Hổ Tím trong vòng 30 phút. 

- Xin Panama...lặp lại... Danh hiệu cho rõ ...Bạch Ðằng....Hay là... Bật Ðèn.....đó Chú Tư Cầu ơi!!! 

- Ông Quan Hai tàu bay Tím một ơi....Bạch Ðằng... Bạch Ðằng.....chớ làm gì có ....Bật đèn.....ban ngày đâu!!! 

- Bạch Ðằng...Bạch Ðằng....Phi hổ Tím ....Roger... Out. Ha...Ha...Ha...Cám ơn Chú Tư Cầu. 

 

Hợp đoàn chúng tôi cũng vừa bay đến trên không phận quận Ðiện Bàn nằm về phía đông nam độ ba mươi cây số đường chim bay cách Căn Cứ không quân Ðà Nẵng. 

- Bạch Ðằng....Bạch Ðằng.....Ðây Phi Hổ Tím ...Gọi..??? 

- Phi hổ Tím...Phi Hổ Tím...Bạch Ðằng...Nghe Bạn 5 trên 5. 

- Bạn cho biết tình hình.

- Địch đang chận xe đò phía Ðông Bắc cách đồn chừng một ngàn thước, trên đường tỉnh lộ Bắc Nam. Ðịch lùa hết hành khách xuống đám rừng chạy song song theo đường lộ làm bia đỡ đạn để tấn công đồn Ðiện Bàn. Chúng dùng đại liên 30, súng cối 60 ly pháo kích vào đồn..... Xin Phi Hổ cho một bó Rockets vào đám rừng cây trước mặt đồn chạy dài theo hướng Nam lên Bắc bên kia con đường cho đến các xe đò đang bị chân lại..... 

- Phi Hổ...hiểu rõ... Thi hành ngay... Không thể dùng Rockets, hay bom nổ... Vì quá gần dân chúng.. 

-Tím Hai ....Ðây Một.....

- Hai Nghe 5. Một sẽ... Working Gun (bóp cò vừa đạp cho mũi phi cơ qua lại)....theo bên kia đường ....trên đám rừng từ Nam lên Bắc....ngưng bắn cách 50 thước ...phía Nam của đòan xe đò.... 

- Hai ....Roger.... 

- Một ...In.... 

Chiếc T28 khu trục nhào từ 1000 bộ xuống....hai cây đại liên ...nổ dòn từ 600 bộ...cho đến 200 bộ theo nhịp điệu Working Gun, kéo trái.. nhìn rõ đoàn xe đò không người....

- Một ...Out.... 

- Hai.....In..... 

Phi cơ của Tím Hai cũng theo vòng bắn...như Tím Một....kèm theo bên trái....kéo lên vào khỏang cao độ 200 bộ....

- Hai...out..... 

- Một ...In....

Vừa bóp cò hai đại liên vừa mới nổ......Tôi nhìn thấy một đoàn người từ trong đám rừng trước mặt...ùa lên đường lộ chạy về phiá đồn bạn... quần áo đủ thứ màu trắng xanh, xám. 

- Tím Hai ngưng bắn ...

- Roger... Hai... Out....

Khi Tím Hai bay ngang trên đầu dân chúng tất cả nằm xuống, họ thấy máy bay không còn bắn nên yên tâm đứng dậy bồng bế nhau tiếp tục chạy về hướng đồn bạn. 

- Bạch Ðằng ...Ðây Phi Hổ.... Xin bạn đừng bắn.... đoàn dân chúng đàn bà và trẻ em của đoàn xe đò đang hướng chạy về đồn bạn đó... 

- Bạch Ðằng ...Hiểu rõ ...Phi Hổ Tím... 

Tôi vội nhào phi cơ trở lại từ Bắc xuống Nam lắc cánh qua lại bay bên trái của đoàn người dân vô tội đáng thương hại đang bị kẹt giữa hai lằn đạn... Bạn và thù... Chiến tranh quá đau thương và tàn bạo. Tôi nhìn thấy trong đoàn người đang di chuyển sau cùng có hai người đang dìu một người mặc áo dài trắng, dáng đi khó khăn khấp khểnh, hai tay ôm vạt áo dài trước vào ngực đầy máu, vạt áo sau còn phất phơ theo gió. Hình như bị thương, lòng tôi se thắt lại. Tim tôi bóp nghẹn như đập thiếu nhịp, vì đâu dân Việt bị đau khổ triền miên. Nếu không có người Cộng Sản vô thần vô tổ quốc, đem chiến tranh từ phương Bắc vào Nam, gây cảnh tương tàn sầu thảm thì mảnh đất miền Nam chắc sống thanh bình trong muôn thuở. Chúng tôi bay vờn lên múc xuống như đang bảo vệ, trên đầu đoàn người vô tội đáng thương cố chạy hướng về đồn bạn để tìm sự sống trong cái chết. Khi dân chúng đã đến được vòng rào phòng thủ ngoài của đồn Ðịa Phương Quân an toàn, Phi Tuần trở lại mục tiêu bắn vài loạt đạn cầm chừng trên đám rừng bên phải đường tỉnh lộ chỗ các xe đò bị chận lại. Gần sáu giờ chiều, mặt trời mùa hè vẫn còn sáng ửng đỏ, có lẽ nhờ sự có mặt yểm trợ của Phi cơ khu trục trên vùng nên VC chưa dám tấn công đồn bạn.

 

- Ðây Phi Hổ Vàng Một .....Gọi Tím Một....Nghe không Trả lời.....!!!!! 

- Tím Một.....Nghe...Vàng...5/5....Bạn hãy liên lạc Bạch Ðằng ...Chắc không có gì....Chỉ vài chục...Delta Kilo (Du Kích) thôi. 

- Bạch Ðằng....Ðây Phi Hổ Tím..... 

- Bạch Ðằng nghe ...Phi Hổ Tím...5 trên 5. 

- Ðã có Phi Hổ Vàng thay thế Phi Hổ Tím...Chúng tôi chúc bạn an lành và vững lòng tin để chiến đấu và bên bạn lúc nào cũng có chúng tôi. Xin bạn cho biết có ai bị thương nặng không trong số dân chúng đã về được tới đồn.....

- Phi Hổ Tím ...Không có ai nặng lắm....có người con gái áo trắng bị thương đã được băng bó xong. 

-Cám ơn bạn...Phi Hổ Tím rời khỏi tần số!!!! 

- Panama...Panama....Ðây phi Hổ Tím... 

- Panama...Nghe Phi Hổ Tím 5/5 

- Phi hổ Tím ...Phi Vụ Xong rời tần số.....Panama...

- Chấp thuận... 

- Ðài Kiểm Soát Ðà Nẵng.....Phi Hổ Tím... hai T28...Xin vào vòng phi đạo và hạ cánh.... 

- Chấp thuận... Ðường bay 27 phải ...Gió yên lặng.. 

- Phi Hổ Tím ...Hiểu ....cám ơn Ðà nẳng... 

 

Trong lúc hợp đoàn đáp xong, di chuyển vào bến đậu tôi vẫn còn nghĩ miên man đến... Người Con Gái Áo Trắng... bị thương nặng hay nhẹ, có mệnh hệ gì không??? Lòng tôi nặng trĩu lo âu vì trách nhiệm bảo vệ dân lành oằn oại trên đôi vai của người trai thời chiến, nhứt là đối với các anh em phi công khu trục. Chiến trường miền Trung sôi động, biết bao nhiêu... đạn thù bay ngang đầu cánh...một số bạn bè chết non ...gãy cánh vĩnh viễn ra đi, để lại gia đình và vợ con thương tiếc. Th/úy Võ Trường Chí mất tích ở vùng đồng bằng Cửu Long tỉnh Sóc Trăng. Th/úy Trần Như Hạnh gãy cánh khi thả bom Napalm ở ngoài khơi bờ biển Nha Trang trước sự chứng kiến của đồng bào và cả vợ con. Th/úy Nguyễn Văn Nông, phi vụ thả bom Napalm bị phòng không địch bắn rơi tả tơi trong mật khu phiá tây vùng núi Bạch Mã. Th/úy Thư, Nhàn bị mất tích tại bờ biển Ninh Hòa trong vụ hành quân truy kích địch. Nhưng ấn tượng Người Con Gái Áo Trắng khi tôi gặp lại bất cứ một cô gái nào mặc áo dài trắng... gợi lại hình bóng Người Con Gái Áo Trắng Ðiện Bàn được nâng dìu đi chân bước khấp khểnh vạt áo dài trước ôm vào ngực máu đào thắm đỏ của năm xưa... Hình ảnh áo dài trắng vẫn theo đuổi hồn tôi trọn cuộc đời Bảo Quốc Trấn Không và có lẽ theo tôi cho đến hơi thở cuối cùng trên bước đường lưu lạc nơi xứ người.

 

Chừng một năm sau vào khoảng tháng mười hai năm 1963 chúng tôi được đề cử làm Chỉ huy trưởng Liên Ðoàn Yểm Cứ ở Không đoàn 41 Chiến thuật KQ đầu tiên tại Ðà Nẵng do Th/tá Phạm Long Sửu người anh cả KQ đáng kính và nhiều nể, thành lập trong đà bành trướng của KQVNCH.

 

Thiên Phong Nguyễn Hồng Tuyền

 

Buổi Liên Hoan của Phi Ðoàn 217 H34.

 

 

 

 

 

Buổi tiệc ăn mừng của phi đoàn 217 vào khỏang tháng sáu năm 1964 do Ðaị úy Ông Lợi Hồng Phi Ðoàn Trưởng thành lập ở Ðà Nẵng. Khi nhận H34 do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giao lại, được tổ chức tại phòng họp khá rộng và khang trang của Hàng Không Việt Nam ở lầu một phòng khánh tiết dưới đài kiểm soát không lưu phi trường Ðà Nẵng. Nhiều quan, quân cán chính Việt Mỹ tham dự. Quân Ðoàn có Th/tướng Nguyễn Chánh Thi và đoàn tùy tùng. Bên Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có Tr/Tướng Walte và đoàn tùy tùng. Không Ðoàn 41 có Th/tá Phạm Long Sửu và anh em Phi Ðoàn 516 Phi Hổ Khu Trục do Ðại/úy Ôn Văn Tài Phi Ðoàn Trưởng hướng dẫn. Bên dân sự có Ðại/tá Thiện, thị trưởng Ðà Nẵng, và rất nhiều người đẹp từ các trường Ðồng Khánh và trường Ðại Học Sư Phạm Huế vào rất đông. Ở địa phương, Trường Nữ Trung Học có một người đẹp như hoa hậu... Cô nữ học sinh lớp 11 tên Thái Thu làm chóa mắt nhiều chiến sĩ và các niên trưởng của vùng hỏa tuyến. Sau các thủ tục chào cờ Mỹ Việt, Mặc Niệm xong, bài diễn văn đầu tiên do người anh cả của Không đoàn 41 Thiếu Tá Phạm Long Sửu chào mừng các quan khách Việt Mỹ và cầu chúc PÐ 217 gặt hái nhiều kết quả trên chiến trường QÐI.. Trong bài diễn văn Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi thân mến chào tất cả quan khách tham dự buổi lễ hôm nay và khen ngợi sự thành công vượt bực của PÐ 217. Còn riêng với Tr/Tướng Walte và phái đoàn quân sự ghi ân đặc biệt của dân tộc VN nói chung và nói riêng về Quân Ðoàn I. Sự cảm tình sâu đậm dành riêng cho tất cả quân nhân các cấp của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Dưới quyền chỉ huy của Tr/Tướng Walte đã cùng chung vai đấu cật chiến đấu anh dũng với quân đội VNCH trong mọi tình huống để chống trả lại quân thù Cộng Sản Bắc Việt xăm lăng. Tới đến bài diễn văn của Tr/Tướng Walte, trước hết ông kính chào toàn thể quan khách tham dự hôm nay, và ông rất hãnh diện với những lời khen, lời cám ơn, lời chúc tụng của Th/Tướng Nguyễn Chánh Thi và Th/tá KÐT41 Chiến Thuật Phạm Long Sửu đối với Sư Ðoàn dưới quyền chỉ huy của ông. Ông rất hứng thú vui vẻ được làm việc chung với Th/Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh Quân Ðoàn I, sau cùng ông gởi lời khen ngợi đến Phi Ðoàn Trưởng 217 Trực Thăng Ðại/Úy Ông Lợi Hồng và các sĩ quan phi công với phi hành đoàn, cùng các quân nhân các cấp của Kỹ Thuật đã cố công học tập và huấn luyện trong thời gian kỷ lục ba tháng đã hoàn thành một phi đoàn tân lập và đầy đủ khả năng hành quân đổ bộ cho KQVNCH. Sau cùng Phi Ðoàn Trưởng 217 Ðại/úy Ông Lợi Hồng cám ơn tất cả quan khách hiện diện đông đủ ngày hôm nay và hứa cùng Th/ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Phi Ðoàn sẽ cố gắng hết lòng để hoàn thành các phi vụ đổ quân trong tương lai cho Quân Ðoàn I. Còn riêng về Tr/Tướng Walte TQLC Mỹ, và Trung tá Mỹ (Không nhớ tên) Phi Ðoàn Trường Phi Ðoàn Trực Thăng H34 Mỹ, Ðại/úy Ông Lợi Hồng nhân danh Phi Ðoàn Trưởng Trực Thăng 217 gởi đến toàn thể quân nhân và sĩ quan các cấp Hoa Kỳ đã ra công huấn luyện cho phi đoàn 217 VNCH, lòng tri ân và tình cảm sâu đậm ngàn đời không bao giờ quên ơn các người bạn Mỹ của các quân nhân PÐ217. Sau cùng Ðại/úy Hồng không quên cám ơn sự ưu ái của Th/tá KÐT 41 Chiến Thuật dành cho các nhân viên PÐ 217 trong khi tạm trú để huấn luyện tại Ðà Nẵng. Trước khi dứt lời Ðại/úy Ông Lợi Hồng mời toàn thể quan khách cùng dự buổi cơm thân mật ra ngoài sân trước cửa phòng họp. Các phu nhân của sĩ quan trong phi đoàn tiếp tân xếp hàng đón rước quan khách.

Tr/úy Châu Rết trưởng phòng hành quân đọc thực đơn:

1/ Bê thui. 

2/Bò Steak BBQ. 

3/Tôm Rằng Nướng.( tại Chổ). 

4/ Bánh mì và Sà lách 

5/ Nước Uống; Johnny Walker, Beer, Coke, 7Up. 

Quan khách và các quân nhân cơ hữu của phi đòan được một bữa cơm ngon no nê. Nhứt là các người bạn Mỹ rất thích món tôm rằng nướng và món bê thui. Họ ăn hết dĩa nầy tiếp tục thêm dĩa khác. Những tiếng Dô...Dô...Dô vang dậy cùng hòa hợp tiếng... Chear... Chear.... Chear.... rền vang đang nói lên sự liên kết giữa hai dân tộc Việt Mỹ cùng nhau quyết chiến đấu chống quân thù cộng sản. Quyết bảo vệ miền đất tự do Việt Nam Cộng Hòa tiền đồn chống cộng ở Miền Ðông Á Châu. Phòng khánh tiết được trang hoàng chu đáo cho đêm dạ vũ hôm nay. Gồm có hai ban nhạc, một của Thủy Quân Chiến Mỹ và một của KQVN do Tr/úy Tuynh hướng dẫn từ Saìgòn ra. Cho nên đầy hứa hẹn một đêm nhạc dạ vũ vui tưng bừng.Trái đèn địa cầu xoay muôn màu, tiếng nhạc Pasodoble bắt đầu nổi lên, Ð/úy Phi đoàn trưởng khả ái, hào hoa Ông Lợi Hồng dìu người đẹp Ðà thành tên Thái Thu bước ra sàn nhảy để mở đầu buổi dạ vũ hôm nay. Theo đó các quan khách và nhân viên của Phi Ðoàn cũng ra khiêu vũ cùng các người đẹp điạ phương trong bản Paso đầu tiên. 

Hầu như toàn thể các người dự tiệc hôm nay đều chung vui trong đêm dạ vũ nầy, sàn nhảy đã đầy chật các cập trai gái dìu nhau qua các điệu nhạc Rumba, Bolero, tiếp theo Slow Rock, Mambo, Twist... làm cho đêm liên hoan được vui tươi thành công trọnTôi để ý trong một góc bàn ngồi ngoài sân có một tà áo trắng không bao giờ khiêu vũ. Mỗi lần ban nhạc trỗi lên tất cả người ngồi chung bàn đều ra sàn nhảy chỉ còn một mình nàng ngồi lại vẻ mặt tư lự nhìn ra khoảng trời đêm với nghìn ánh sao buồn mênh mông. Tôi bước tới cúi đầu chào làm quen: 

- Xin chào người đẹp... cho phép tôi, ngồi lại cùng bàn để trò chuyện cho vui.. 

- Dạ, chả dám ạ, xin ông cứ tự tiên....

Tôi kéo ghế ngồi kế bên nàng... Sao người đẹp không ra khiêu vủ?

- Em cảm thấy không có thích thú đêm nay. 

- Xin người đẹp cho biết quý danh... Tên em là Thùy Trang..... Tôi là Tuyền... Hân hạnh gặp ông Tuyền... Hân hạnh được biết Thùy Trang... 

- Tên Thùy Trang đẹp quá... Nhưng còn kém xa... người.

Thùy Trang cười mỉm....

- Ðúng là Phi hổ Tím Một rồi phải không?

Tôi quá ngạc nhiên:

- Sao Thùy Trang lại biết Call Sign (Phi Hiệu) của tôi...

- Vì Em có người anh cô cậu mới về Phi Ðoàn 516 Phi Hổ Khu trục, anh tên là Nguyễn Du.... Mỗi lần về thăm gia đình thường hay nhắc tới các ông thầy Papa Sửu, thầy Tuyền và Tài nhiều lắm.... 

Bản Tango vừa dứt để thay ban nhạc của TQLC Mỹ vào. Từ cặp vào bàn ngồi nào là Huề, Sỉ Cò, Cương Khào, Ninh Lumumba, Ðiềm Sihanouk, Lê Trai Ðại Ðức, Hưng Phệ, Hợi Voi, Phiên Rách, Vũ Nghê Ngô những cây bay của phi đoàn và Nguyễn Du người phi công đẹp trai, trẻ nhứt và gan lì của Phi Ðoàn 516 Khu Trục thấy tôi liền đứng nghiêm chào và nói:

- Kính chào thầy....

Tôi chào lại vừa nói:

- Hèn chi Thùy Trang biết từ đầu cánh chong chóng cho đến cuốí đuôi phi cơ của PÐ 516 hết rồi... không còn gì giấu được Thùy Trang nữa đâu, phải không Phi Hổ..Vàng3...

Nguyển Du cười...

- Dạ thưa vâng. 

Ban nhạc Mỹ đã chuẩn bị xong, bản nhạc đầu tiên Let's Twist Against được đánh lên nghe như máu trong người được vận chuyển mau hơn và sự vận động tay chân càng thêm hăng hái bội phần. Nhạc càng đánh những cặp trai gái càng nghiêng qua nghiêng lại, các động tác của toàn thân người khiêu vũ càng lắc... đít lắc, đầu lắc, chân tay lắc, mình lắc, vú ngực lắc,...theo tiếng hát của người ca sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.... đã đem hết nghệ thuật trình diễn hòa vào lòng nhạc và lòng người làm thêm sống động đêm khiêu vũ hôm nay. Tôi để ý thấy Thùy Trang có một nỗi buồn kín đáo trong tâm tư dù rằng ngoại cảnh đang vui tươi rộn rã. Tôi lên tiếng nhỏ nhẹ hỏi: 

- Thùy Trang có tâm sự buồn phải không? Sao tôi thấy Thùy Trang hình như có một tâm sự buồn kín đáo nên không được vui trong đêm nay. 

Lời nói của tôi vừa dứt, như một động lực mãnh liệt khơi dậy nỗi buồn đau đã chôn sâu từ lâu trong tìm thức: Thùy Trang nhìn tôi nhẹ nhàng trả lời: 

- Em đâu có buồn đâu... 

và cúi đầu xoay mặt nhìn qua hướng khác để che dấu hai giọt lệ đang từ từ ứa chảy trên gò má xinh xinh của người trinh nữ. Nàng vội lau đi những giọt lệ rồi nhìn qua tôi. Trên lông mi còn đọng lại những giọt nhỏ li ti lóng lánh như những giọt sương đêm còn tụ động trên đọt lá cỏ may, làm gương mặt Thùy Trang càng đẹp thùy mị và dễ thương hơn. Tôi vội có lời xin lỗi: 

- Nếu tôi có nói lời gì khơi động nỗi buồn thầm kín của Thùy Trang, cho tôi muôn vàn xin lỗi!!! 

- Không đâu, ông Tuyền không có làm gì Thùy Trang buồn và nếu Thùy Trang có làm ông Tuyền không được vui trong đêm nay, xin tạ tội vậy. Ðêm đã khuya, xin ông Tuyền cho Trang về được không? vì ngày mai Trang còn phải dậy sớm để về Huế thăm gia đình. 

Tôi liền nói: 

- Thùy Trang muốn tôi đưa về với một điều kiện! 

- Ðiều kiện gì vậy? 

- Xin đừng gọi tôi bằng Ông. 

- Vậy Thùy Trang gọi anh Tuyền hay Tím một? 

- Thùy Trang gọi sao cũng được. 

- Gọi Ông Tuyền không ổn vì thiếu tế nhị và khách sáo, thôi xin gọi bằng Anh Tuyền hay Tím 1, để cho có vẻ thân tình trong cùng gia đình Phi Hổ và trọng nể để buổi ban đầu gặp gỡ thêm phần ấm êm vui vẻ mong ta còn nhớ mãi về sau. 

Tôi đứng dậy kéo ghế để mời Thùy Trang cùng ra xe, tôi hỏi xem Thùy Trang về đâu? Nàng bảo, em về bên Sơn Trà mà Không Quân các anh thường gọi xóm Monkey Mountain. Xe chạy ra khỏi cổng phi trường tôi quẹo tay phải hướng về phía biển để đưa Thùy Trang về nhà. Xe chạy qua khỏi cầu... vừa vào con đường nhỏ của quận, có rất nhiều ổ gà làm xe Jeep chao đảo sụp xuống nhồi lên. Chắc có lẽ vì chiến tranh, quận năm Sơn Trà chưa có tiền để tu bổ nên tình trạng đường xá càng ngày càng tệ hơn. Nhưng bù lại, nhìn ra ngoài biển đèn ghe đánh cá về đêm sáng cả một vùng trời, như một thành phố nổi riêng biệt ngoài khơi đẹp đẽ muôn màu dễ làm ấm dịu lòng người đang có tâm sự đau buồn như Thùy Trang. Xe rẽ qua con đường tráng nhựa cũ kỷ đầy hang lỗ chắc còn ghi lại vào thời kỳ Pháp thuộc năm xửa năm xưa. Ở chân núi Sơn Trà chạy thẳng ra biển xóm nhà vách tường và lợp ngói đỏ có vườn tược chung quanh, những hàng dừa xanh nên thơ cành lá xum xê đang reo đùa trước gió. Thỉnh thoảng Trang cho tôi biết có những vườn nhãn hột tiêu trái vừa chính mùi thơm như mời gọi đám dơi tứ phương tám hướng về hưởng thụ. Xe chạy tới bờ biển, Thùy Trang chỉ cho tôi đậu xe dưới hàng dương liễu thân cây nghiêng về phía đất liền chứng tỏ hướng gió biển luôn luôn thổi mạnh từ biển vào đất. 

Thùy Trang nói: 

- Chúng mình ngồi đây nhìn trời biển về đêm được không anh? 

Tôi trả lời: 

- Anh hoàn toàn đồng ý và chấp thuận lời đề nghị của Thùy Trang. 

Tôi cho xe đậu lại chiều ngang theo bãi biển dưới hàng dương liễu, về đêm nhìn ra biển khơi những đóm đèn mờ tỏ của các thuyền đánh cá như cả một thành phố trên mặt nước chông chênh. Trên vòm trời có vạn tỷ vì sao như một bức tranh thiên nhiên êm đẹp diệu hiền khó tả và làm lòng người có tâm sự buồn đau như Thùy Trang cũng được trầm lắng xuống dễ chịu hơn trong cảnh nên thơ hiếm có như đêm nay. Tôi vào xe lấy áo ấm jacket phi hành để trải xuống bờ biển cho Thùy Trang ngồi dựa lưng vào thành xe jeep. Trời về đêm vào khoảng tháng sáu nóng bức vì ảnh hưởng gió lèo thổi qua khi ngồi xuống bãi cát vẩn còn thấy ấm bàn tọa. Trên bờ biển nhờ đêm nay trời yên lặng không gió không một đợt sóng, những con dã tràng hăng say tranh đua nhau xe cát làm từng viên nhỏ như đang vui chơi trong trời ấm áp.Thùy Trang và tôi ngồi kế bên nhau tâm sự giữa trời nước mênh mông, mặt biển yên như tờ. Thùy Trang cất tiếng êm nhẹ : 

- Anh có biết không, Thùy Trang chỉ tay về hướng Bắc, nơi bãi biển nhỏ bé xinh đẹp nên thơ và kín đáo nầy ngày xưa có những nàng tiên xuống trần gian để đi tắm biển đó! Nếu ban ngày mình sẽ nhìn thấy các cánh bông hoa rừng xinh tươi muôn màu mọc lên từ các kẻ hở đất cát và vách đá dựa lưng vào Núi Sơn Trà trông rất nên thơ và một vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt diệu. Bức tranh thiên tạo ít có trên trần gian. Không chừng vì lẽ đó nơi đây ngày xa xưa các nàng tiên xuống trần để vui đùa cùng sóng nước biển trong xanh trên nền cát trắng mịn, ngắm nhìn các vách đá với những hoa đẹp muôn màu. Các nàng tiên với thân hình đẹp hoàn hảo, dưỡng nghỉ dưới những tàn cây xanh tươi rợp bóng mát trong mùa nắng hạ, nên nhân gian mới cho tên rất mỹ miều thơ mộng bãi biển Tiên Sa. 

- Anh cũng mới biết đây, nghe nói ngày xưa có các nàng tiên giáng xuống trần để vui đùa sóng nước với cảnh thiên nhiên. Anh không biết các nàng tiên ngày xưa đẹp như thế nào vì anh lúc đó còn là hạt bụi nhỏ đang bay lang thang ngoài không gian....nên chưa được gặp bao giờ. Nhưng có một điều anh chắc chắn rằng các nàng tiên xuống đây mặc quần áo tắm toàn kiểu rất mắc tiền hiệu.....No...Kini... 

Thùy Trang liền hỏi: 

- Em thường nghe nói áo tắm cho phụ nữ là phải Bikini hay quá lắm...Monokini, chớ còn em chưa bao giờ nghe thứ áo tắm kiểu No...Kini. Vậy No... Kini là thứ hiệu nào, mặc ra sao vậy anh?? 

Tôi nhìn Thùy Trang nghiêm nghị giải nghĩa: 

- Bi...là hai mảnh, Mono là một mảnh ...... No ..Kini là.... không có mảnh nào hết. Nghĩa là ‘'cuồng trởi''..... 

Thùy Trang đôi mắt diụ vợi thơ ngây, không một lời, với một cử chỉ nhè nhẹ nàng hất cánh tay vào hông tôi, nhìn tôi mỉm cười đầy trìu mến và nói: 

- Anh nầy.... 

Ngồi bên nhau nàng kể tôi nghe về gia đình nàng di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, cư ngụ tại Huế. Người cha ngày trước đi lính cho Pháp vào Nam được đi học ra trường sĩ quan Ðồng Ðế chừng độ năm mươi tuổi đang làm đại đội trưởng Ðịa Phương Quân đóng đồn ở quận Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hai người anh một người hai mươi ba tuổi đang học trường kỹ sư Phú Thọ và một người anh hai mươi mốt tuổi kế Thùy Trang đang học ở trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, nàng mười chín tuổi hiện đang ở với cô chú để theo học trường nữ trung học.....tại Ðà Nẵng và đã thi lớp 12 xong. Năm nay phải vào Qui Nhơn bốn năm nữa cho xong Ðại học Sư Phạm nên không ở theo gia đình được. Nàng còn hai đứa em một gái kế nàng 15 tuổi đang bắt đầu vào trung học Ðồng Khánh và em trai mới ba tuổi. Tôi nhìn nàng cười hóm hỉnh và nói: 

- Ông già còn Gân quá há!!! nên em mới có đứa em mới ba tuổi đầu? 

- Mẹ em đâu có muốn đâu nhưng anh phải hiểu cho đời lính chiến, lâu lâu ba em mới về thăm nhà mà lỵ... Thả giàn.

Tôi bảo cho nàng biết về địa thế ở quận năm, phiá Bắc có núi Sơn Trà, có bãi biển Tiên Sa, ở phía Ðông có biển Mỹ Khê, ở phía Tây thạch động Tiên Trú tại núi Ngũ Hành về phía nam. Cho nên các nàng tiên xuống Tiên Sa tắm biển, lên núi Sơn Trà thưởng thức trà và đàm đạo, rồi về thạch động Tiên Trú... để ngủ qua đêm.. Ngọc Hoàng đã dành một chổ....rất tiện lợi cho các nàng Tiên xuống trần.....

Tôi ngừng ở đây....Thùy Trang nhìn tôi mơ màng trìu mến hỏi: 

- Tiên xuống trần, rồi để làm gì....nữa hở anh...??? 

- Thì các nàng Tiên đi...nghỉ mát.Vacation...và có một nàng tiên mới nhìn dễ mến , nhìn lâu thêm yêu.... Nàng lỡ tay đập bể bình nước của Ngọc Hoàng cho đem theo uống chớ sợ nước trần gian ô nhiểm nên bị đày ở lại và hiện giờ hình như đang lang thang....ở bãi Tiên Sa trong đêm nay...

Và...tôi ngưng ở đây...Trang nhìn tôi hỏi: 

- Nàng tiên đang lang thang.... làm gì ở đâu hở anh??? 

Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt ngây thơ dịu hiền của Thùy Trang, rồi thả tầm mắt ra biển đông: 

- Nàng Tiên đang.... đang.....ngồi kế bên anh đây chắc đúng rồi thì phải? Chớ còn gì nữa...phải không em. 

Nàng mỉm cười e lệ nhìn tôi và bảo...

- Anh sao khéo nói... 

Hai đứa chúng tôi cười bên nhau trong đêm thanh vắng giữa trời nước mênh mông. Nàng dựa đầu vào vai tôi hơi thở nhè nhẹ thơm và trìu mến ngước nhìn tôi.... Tôi luôn thận trọng và thương nể những người con gái tôi gặp lần đầu tiên...đó là tánh của tôi không bợp chợp không lợi dụng. Chúng tôi đứng dậy thả dài theo bãi biển, tôi kể chuyện ra đây nhận nhiệm vụ mới ở căn cứ KQ Ðànẳng. Mấy người bạn dẫn đi chung quanh cho biết dân tình, anh thấy địa hình của khu nầy rất hữu tình thật đẹp. Phía bắc có núi Sơn Trà, có bãi biển xinh xinh đẹp nên thơ Tiên Sa, bên ngoài có biển Mỹ Khê, bên phía trong có núi Ngũ Hành toàn đá cẩm thạch... Có chùa Non Nuớc, có thạch động Tiên Trú, xa hơn nữa theo tỉnh lộ lần về phía nam có quận Ðiện Bàn. 

Tiếng Ðiện Bàn vừa dứt, chúng tôi đang đi, Thùy Trang đứng lại xoay qua nhìn tôi với ánh mắt ngỡ ngàng thoáng buồn và thốt lên lời hơi rung động: 

- Anh cũng biết Ðiện Bàn nữa sao?

Thùy Trang quay trở về lại hướng xe Jeep đang đậu, tà áo trắng bay phất phơ, bước đi khập khểnh, chiếc khăn tay che vào miệng để khỏi bật lên thành tiếng khóc. Tôi bàng hoàng bước theo Thùy Trang và cất tiếng xin lỗi: 

- Thùy Trang em, nếu anh có nói gì không phải và chạm phải vào đời tư và tâm sự u buồn của em. Anh xin muôn vàn tạ lỗi vậy!! 

Nàng vẫn khóc thút thít và nói thì thầm bên tai tôi: 

- Trời ơi!! Em khổ lắm anh Tuyền ơi!!! Em khổ lắm!!!! 

Khi đến xe Jeep chúng tôi ngồi xuống, nàng tựa lưng vào tôi dù rằng Thùy Trang đang cắn chặt chiếc khăn tay vẫn còn khóc, bờ vai run run và than thở trong tiếng nấc:

- Trời Phật ơi!!! Ðiện Bàn ơi!! Tại sao lại xảy ra cho đời con phải khổ thế nầy???

Tôi khuyên Thùy Trang:

- Trong đời ai cũng có lầm lỡ, đừng mang theo mãi trong lòng để càng ngày càng lớn nặng tâm tư làm em khổ thêm thôi. Em hãy nói ra đi để được vơi bớt sự đè nén lòng mình trong muôn một. 

Thùy Trang càng nấc lên nhiều hơn, tôi tiếp tục khuyên nàng: 

- Nói đi em, nói đi em, để anh chia xẻ cùng em cho vơi được nỗi tâm sự buồn đau trong tận cùng của con tim. 

Sau một hồi, tiếng nấc lần bớt lại, Thùy Trang ngước nhìn tôi,với hai dòng lệ nóng tràn dâng chan hòa lên khóe mắt với khuôn mặt nặng trĩu buồn đau và nói: 

- Em chưa lầm lỗi trong đời, em chỉ là người con gái trời bắt phải khổ đau thôi. Vết thương đó còn lưu mãi trọn đời, khi em tắm dòng nước mát chảy vào càng đau nhói vào tim, thay quần áo đụng vào còn ê ẩm xót xa và khi nhìn xuống càng buồn hận não lòng cho đời người con gái. Em sẽ mang nó mãi mãi trọn đời cho đến hơi thở cuối cùng khi em đi về miền Miên Viễn...

Thùy Trang bắt đầu kể:

- Mùa hè 1962, lúc bải trường, nếu em chịu nghe lời và cùng đi với mẹ về Huế thì việc chắc không xảy ra. Em được Dì mời cùng đi chung vì em nóng lòng muốn xuống Ðiện Bàn để gặp thăm.....

- Chắc em nôn nóng đi gặp người tình muôn thuở hay người yêu suốt đời của em chớ gì???...

Thùy Trang nghe tôi hỏi bắt đầu khóc ra tiếng trở lại....

- Không đâu anh.... 

-Hoặc Thùy Trang lỡ gặp một chàng đẹp trai mộng tưởng sở khanh nào đó, phá đời trinh nữ, rồi gã quất ngựa truy phong để hận muôn đời trong lòng người trinh nữ phải không em??? 

- Không phải đâu anh!!! Em đi xuống thăm ba.... bằng xe đò... 

- Trời ơi!!! Người cha nào tàn nhẫn vô lương tâm vậy, con gái xuống thăm mà để hận lòng tủi nhục suốt đời cho con vậy??? 

- Không phải như anh tưởng đâu... nghĩ vậy làm thêm đau lòng Trang...Xe đò xuống gần đến quận Ðiện Bàn còn cách chừng hai cây số đến chỗ ba em đóng đồn Ðiạ Phương Quân. Thấy có lính ra chận xe, hành khách tưởng đâu Địa Phương Quân trạm xét hỏi như thường lệ, nào ngờ đâu chúng nó lùa tất cả mọi người xuống trong đám rừng.... 

- Chắc lính ÐPQ chúng nó làm hỗn hại đời trong trắng của em phải không??? Cho anh biết đồn ở đâu, nếu có một cơ hội nào bay ngang qua anh gởi tặng cho chúng nó vài trái bom 500 cân nhắc nhở anh em đừng hãm hại dân lành, phải bảo vệ sinh mang tự do và đời sống của họ. 

- Không đâu ...Tím 1 ơi!!! Đó là tụi lính việt cộng đang định tấn công đồn ba em đó... và phi cơ khu trục bay đến yểm trợ. Chiếc phi cơ đầu bắn một loạt súng, phi cơ thứ hai vừa nhào xuống... ngưng bắn lại kéo lên, may là không thả bom. 

Tới đây Thùy Trang ôm ngực, càng sùi sụt khóc lớn trong tiếng thở than...

- Sao Trời Phật không cho lằn đạn hôm đó nhích thêm chừng một phân nữa đi thẳng vào xuyên tim em chết tức khắc trong giây phút... Như vậy sướng cho đời con gái của em hơn. Sao trời lại bắt đời người con gái phải mang vết đau và tật suốt đời... và phận sự làm mẹ trong tương lai không còn đủ khả năng nữa. 

Vì khi Thùy Trang đang chơi vơi trong biển đau khổ tột cùng như muốn tìm ai chia sẻ và nâng đỡ tinh thần. Nàng không ngần ngại trịt áo dài và áo nịt xuống một phần để lộ rõ ra trên bộ ngực hai bầu sữa của Thùy Trang không còn nguyên vẹn vì viên đạn lạc vô tình. Chỉ còn để lại những vết thẹo sần sùi lồi hủn vì đường may không khéo tay của các y tá bịnh viện. Tôi siết chặt Thùy Trang trong vòng tay, tim như đứng lại, thiếu nhịp không đủ chuyển máu đi nên đóng băng toàn thân, toát mồ hôi lạnh. Ðời sao quá nghiệt ngã để tôi rơi vào một tình huống phũ phàng ngang trái thế nầy. 

Nỗi đau buồn cùng cực của người nữ học sinh ngây thơ vô tội vì chữ hiếu đi thăm cha mà nên nổi nầy...đang dày xéo con tim tôi. Lời nguyền và tinh thần trách nhiệm của đời phi công Khu Trục là bảo vệ dân lành đang cắn xé và nghiến nát tâm cang tôi, sẽ pha hòa lẫn vào dòng máu tôi cho đến trọn đời. Tôi cắn môi đến rỉ máu để khỏi bật tiếng khóc. Nhưng hai giòng nước mắt âm ấm rơi từ từ xuống trên lòng ngực Thùy Trang, không chỉ mong để chia bớt và xoa dịu phần nào vết thương đau ngàn đời trên người trinh nữ, mà mong hòa lòng hối hận mông lung đang tràn ngập đời phi công khu trục của tôi... với tâm sự người con gái trời bắt khổ đau. 

Sau những tiếng Thùy Trang thở than, nào là Tím 1 ơi!!! Phi cơ khu trục đến...bắn loạt súng đầu...phi cơ thứ hai nhào xuống.....ngưng bắn ...kéo lên...đã kéo trả tôi trở về với dĩ vãng... 

Ngày X tháng Y, năm 1962...vào một buổi chiều hè....Panama gọi phi vụ khẩn cấp... Tiếng Bạch Ðằng gọi ...Phi Hổ Tím....Hình ảnh...Người áo trắng...Ðiện Bàn...đi khấp khểnh tay ôm ngực đầy máu tà áo sau bay phất phới...đã theo đuổi tâm hồn tôi trong hai năm qua. Giờ đây tôi gặp được người bằng da bằng thịt, người nữ sinh nạn nhân của chính tay tôi và phận sự của đời trai tôi không làm tròn cho đất nước để bảo vệ dân lành. Chính tôi là thủ phạm và chịu trách nhiệm viên đạn vô tình đã để lại vết hằn trên thân thể của người trinh nữ vô tội giữa hai lằn đạn bạn và thù. Tại sao cao xanh quá trớ trêu và thần linh trên quả đất tròn rộng lớn nầy, đã xui khiến cho tôi gặp lại nạn nhân đau khổ mà chính tay tôi gây ra. Thùy Trang cài nút áo lại sau mấy giọt nước mắt ấm xót đau thương, ăn năn hận tủi rơi vào vùng đỉnh cao chiến thuật của Thùy Trang. Nàng ngước mặt lên: - - Tím 1 cũng khóc để chia sẻ nỗi đau buồn vô tận của tâm tư cùng Trang phải không?? 

- Ðúng vậy, nhưng anh xem đó không chỉ là phần thân thể thầm kín của Thùy Trang, mà nơi tượng trưng lòng đất mẹ bị cày nát vì những vết bơm đạn đau thương hằng ngày chính các anh phải mang đi để ngăn giặc chặn thù trên mảnh quê hương đất Việt miền Nam. 

Trời đã quá khuya hơn hai giờ sáng rồi, muôn vạn vì sao đang chớp trên nền trời, gió im lặng. Cảnh vật như chìm đắm vào tâm tư đau buồn của Thùy Trang hòa cùng nỗi lòng tan nát vì trách nhiệm của người phi công khu trục trong thời chiến tranh tương tàn của đất nước Việt. Thôi chúng mình về đi em, Thùy Trang lên xe, tôi rồ máy trực chỉ nhà nàng. Chừng năm phút sau tôi ngừng lại trước cửa một nhà khá khang trang, cổng vào có giàn hoa thiên lý và hoa lài tỏa một mùi hương thơm dìu dịu làm dễ chiụ lòng người trong đêm khuya thanh vắng. Trước khi bước xuống xe Thùy Trang bảo: 

- Nếu vì chuyện của em làm buồn lòng Tím1 đêm nay, Thùy Trang xin tạ lỗi cùng Tím 1. Bước xuống xe nàng đi vòng qua bên trái chỗ tôi lái xe đứng sát bên nhìn tôi và nói : 

- Một lần nữa xin cám ơn Tím 1 đã cho Thùy Trang một đêm tâm sự đầy tình người. 

Tôi chúc lại Thùy Trang mau thành cô giáo sư đẹp của miền Sông Hương Núi Ngự. Nàng mở cổng hàng rào đi vào gần đến cửa nhà, tôi biết thế nàoTrang cũng trở ra. Cái ví của nàng còn nằm dưới ghế xe tôi, lẹ tay tôi móc túi sau quần lấy trọn bao thơ mà lương của tôi vừa lãnh hồi chiều nhét vào chiếc ví của Thùy Trang. Em trở ra đứng áp sát bên tôi, ngước mặt nhìn tôi với đôi mắt ngây thơ như đang chờ đợi. Tôi lắc đầu nhẹ, lòng tôi ngỗn ngang. Tôi đang cầm chiếc ví, tôi trao cho Trang, nàng nói cám ơn và hôn nhẹ vào bên má trái của tôi rồi thoăn thoắt đi vào nhà. Tôi nói vói theo khi Thùy Trang khi vào đến cổng:

- Anh có gởi cho em món quà trong ví. 

Tôi rồ xe chạy đi, Thùy Trang chạy trở ra cổng và còn đứng trông theo cho đến khi xe quẹo vào tỉnh lộ. Tôi vẫn còn thấy màu áo trắng và sẽ theo đuổi hồn tôi trọn kiếp người. Ngày mai, sau khi đi bay về nhận được tờ thư của Thùy Trang do Phi Hổ Vàng 3 Nguyễn Du đem đến, nàng có đôi lời cám ơn Tím Một và sẽ dùng món quà trọn cho năm học tới ở trường Sư Phạm Qui Nhơn. 

Tháng sáu 1964 tôi đổi về làm chỉ huy trưởng Căn Cứ Tân Sân Nhứt tôi không theo dõi Thùy Trang cho đến năm 1972, khi ra nhận lãnh Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ Phù Cát do Mỹ trao lại, trong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Tôi có dịp ra thăm Căn Cứ KQ Ðà Nẵng gặp lại Thiếu tá Nguyễn Du, cho biết Thùy Trang đã ra Trường Sư Phạm và làm việc tại Qui Nhơn về thăm gia đình ngoài Huế miền An Cựu vào dip Tết Mậu Thân, cả gia đình đã bị thảm sát, chỉ trừ có người anh thứ ba còn sống mà không biết bây giờ đang phiêu bạt nơi đâu.....

Lời cuối với Thùy Trang 

Thùy Trang em, Tím 1 xin tạ tội cùng em vì anh đã không đủ can đảm thú thật với em, anh chính là người đã gây ra sự đau khổ trọn đời của vết thương trên thân thể người trinh nữ. Anh không muốn gây cho em một ấn tượng ác cảm với các anh em trong Phi Ðoàn 516 Khu Trục Phi Hổ. Trong lúc em có cảm tình sâu đậm và coi mình cũng là một phần trong gia đình Phi Hổ vì có người anh chú bác Phi Hổ Vàng Thiếu tá Nguyễn Du. Tím 1 giữ kín và mang nặng trong lòng nỗi buồn thầm kín tàn phá tâm tư, anh chưa bao giờ thổ lộ cho ai biết đúng nửa thế kỷ từ năm 1964 cho đến nay 2014. Tà Áo Trắng của Cô Gái Ðiện Bàn vẫn vờn bay trong tiềm thức anh, khi Tím 1 nhìn thấy tà áo trắng nào tung bay, anh liên tưởng ngay đến tà áo Thùy Trang...Cô Gái Áo Trắng Ðiện Bàn. 

Thùy Trang mến, anh đã Tám mươi hai tuổi rồi, anh không còn mang nổi mối ân hận về lòng trách nhiệm đó nữa. Vì sau khi anh mổ tim từ 9/9/10 cho đến hôm nay 1/18/14, hơn bốn năm bốn tháng rồi anh không viết thêm được dù chỉ đoạn chót, lúc từ biệt Thùy Trang bên hàng rào đầy hương thơm bông lài và hoa thiên lý trong đêm buồn không trăng nhưng nhiều sao tâm sự cùng nhau ở bãi biển thơ mộng gần Tiên Sa. Mỗi lần anh ngồi xuống là anh thấy màn ảnh trên máy vi tính mờ đi khi giọt nước mắt rơi trên máy. Gợi lại hình ảnh những giọt nước mắt của ngày xa xưa rơi trên vết thương muôn đời không bao giờ lành trên cơ thể em hiện ra làm anh lạnh run và toàn thân tê dại anh phải tắt máy đi. Nhưng hôm nay anh phải cố gắng lắm viết cho xong lời nguyện cầu để gửi đến chúc Thùy Trang và gia đình được hưởng trọn Nhan Thánh Chúa vĩnh cửu nơi Thiên đàng.

 

Thiên Phong

Nguyễn Hồng Tuyền 

NguyenHongTuyen_Self_2.jpg
NguyenHongTuyen_KhongLucVNCH.jpg.w560h38
NguyenHongTuyen_LoihoLogo.jpg
NguyenHongTuyen_Phidoan516.jpg
bottom of page