top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
ba.JPG.w300h453.jpg

      TRẦN BANG THẠCH

                    Houston, Texas

ĐIỀU CHƯA KỊP NÓI VỚI BA

 

      Sau ngày má tôi mất thì ba tôi như một cánh lá khô, chỉ chờ thêm một chút gió để lìa cành.

 

      Hơn một năm nay ba tôi cứ hết bịnh này tới bịnh khác, một phần là do hậu quả của chứng muộn phiền, của tinh thần tuột dốc; phần khác là do chứng cao huyết áp. Hai chứng bịnh này không biết đã hiện diện từ bao giờ trong cơ thể ba tôi nhưng bác sĩ chỉ mới phát hiện gần đây thôi. Một đêm đi làm về tôi thấy ba nằm bất tỉnh trong phòng tắm, đầu ngoẻo trên thành bồn cầu, áo quần chưa kịp mặc. Một bệt máu đã khô phía trước trán. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là nỗi kinh hoàng . Đến ngày thứ ba sau khi được chở khẩn cấp vào bịnh viện thì ba tôi bắt đầu tỉnh được chốc lát rồi lại khi mê, lúc tỉnh. Những ống dẫn dưỡng khí, thuốc men và thực phẩm nối từ miệng mũi không biết kéo dài cái sống của ba tôi được bao lâu . Hơn bảy mươi tuổi với một cuộc đời đầy sóng gió, rày đây mai đó, bảy nổi ba chìm, rồi sẽ phải chấm dứt ở cái phòng hẹp té đầy mùi ê-te này với sự có mặt của mỗi một mình tôi là người thân duy nhất. Còn anh Trọng, người anh cùng cha khác mẹ của tôi, trước ngày ba tôi ngã bịnh đã lấy hai tuần phép, hiện anh đang ở đâu đó bên Âu châu mà tôi không liên lạc được. Điều hiện nay tôi quan tâm không phải là cái chết của ba mà là sự trở về và sự có mặt của anh Trọng trước khi các ống dẫn được tháo gỡ và tấm vải trắng được phủ lên mặt khi người ta đưa xác ba tôi xuống lầu. Tôi đang quan tâm cái quan tâm cuối cùng của ba tôi. Tôi đang ước mơ cái ước mơ độc nhất bây giờ của ba tôi. Tôi biết giờ phút này, trong trí não, trong đầu óc của ba tôi, cho dù đang dần dần chết cứng, là sự trở về của anh Trọng . Nếu có được cái khắc giây ngắn ngủi lúc ba tôi chợt ra khỏi cơn hôn mê và nhìn thấy khuôn mặt đứa con trai duy nhất của mình thì đó quả là điều vô cùng diệu kỳ, tôi nghĩ như vậy. Và lúc đó chắc chắn ba tôi sẽ ngậm cười nơi chín suối.

      Mấy hôm truóc, khi còn chút tỉnh táo, ba tôi chỉ hỏi tôi mỗi một câu này : anh con đã về chưa . Tôi cứ dối quanh, nói là đã liên lạc được với anh Trọng, nói là anh sẽ tức tốc trở về. Tôi còn dám nói láo là anh Trọng thương ba lắm , vv. . . Tôi biết là không nên nói dối trước một người sắp chết nhưng tôi không làm sao hơn . Tôi không muốn ba tôi tuyệt vọng ở những giây phút cuối cùng của một đời người . Hơn hai mươi năm là cha con mà ba tôi và anh Trọng đã có mấy lần gặp nhau trong tình cha con thân ái đậm đà như bao nhiêu những người cha con khác trên quả địa cầu này! Điều này, tôi biết, đã không làm cho ai vui hết, nhất là ba tôi, người đã gần hết một đời đứng trên sân khấu làm vui thiên hạ, mà có mấy mươi năm cuối đời không thể làm vui cho bản thân mình và cho đứa con trai duy nhất của mình.  Ba tôi, người nghệ sĩ tên H. T. đó trong suốt cuộc đời đi hát là nguòi lúc nào cũng được khán thính giả yêu thương; mỗi tâm tình, mỗi lời ca, mỗi câu nói được đón nhận tận tình. Người ta vui, buồn, cười, khóc theo ba tôi trong suốt mấy chục năm. Vậy mà đứa con trai như bịt tai, nhắm mắt trước người cha ruột đau khổ của mình. Hình như cái thảm kịch gia đình này bắt đầu từ khi tôi vừa mới được sinh ra, lúc anh Trọng bắt đầu có chút nghĩ suy trong đầu óc một đứa trẻ lên mười. Bây giờ anh Trọng đã gần ba mươi. Hơn hai mươi năm cho một vết nứt trong tình cha con không phải là dài lắm sao! Đớn đau vô cùng. Tôi biết ba tôi đã bao nhiêu năm nay âm thầm sống trong cái đớn đau đó. Và anh Trọng của tôi cũng chẳng khác gì. Vậy mà vết nứt vẫn chưa có một chút hàn gắn nào, hơn hai mươi năm! Quá dài!

 

      Bắt đầu cho cái hơn hai mươi năm đó, theo lời kể của má tôi, là cái chết của má anh Trọng, người vợ lớn của ba tôi. Sau này tôi còn nghe nhiều người trong gia đình nói rằng chính cuộc sống của một nghệ nhân thường xuyên đi lưu diễn, năm thì mười thuở mới có mặt ở nhà đã góp phần không nhỏ trong sự lạnh nhạt tình nghĩa vợ chồng và tình cha con. Người nghệ nhân đó không biết thương yêu vợ lớn của mình cỡ nào chớ những mối tình dọc đường thì không thể đếm hết được là bao nhiêu. Còn đối với má tôi, người vợ sau cùng, thì ba tôi sống thật trọn vẹn. Đó chẳng qua là do nơi thời thế đẩy đưa. Má tôi thường nói: Đi ra cái nước ngoài này đâu còn lưu với diễn, bướm với hoa, chỉ cơm nhà áo vợ mới làm trọn đạo làm chồng. Điều này thì tôi không biết có đúng hay không, nhưng tôi biết chắc một điều: Việc ba tôi trong cơn thất tán cuối tháng Tư năm 75 đã chỉ đủ thì giờ dẫn theo má tôi, người vợ nhỏ của mình, để lại người vợ lớn đang sống với đứa con trai vừa mới tập đi tập nói ở một vùng quê miền Hậu giang.

      Rồi do những ràng buộc luật pháp xứ này, lại ít hiểu biết về thủ tục, ba tôi chưa dám nghĩ đến việc bảo lãnh má con anh Trọng. Tôi dần dà biết được câu chuyện trở nên phức tạp hơn khi ba má tôi bằng cách này cách nọ giúp đỡ má con anh Trọng mà đều bị từ chối. Khi có tin má con anh Trọng không còn ở chỗ cũ và không ai biết hai mẹ con đã dời đi đâu thì coi như bặt vô âm tín. Điều này càng làm cho ba tôi sống trong tâm trạng bồn chồn lo âu, khắc khoải, đợi chờ. Nỗi ăn năn cũng theo ngày tháng mà lớn dần. Tôi biết được điều đó là do ba má tôi thầm thì những đêm khuya vắng. Thuở đó chưa có những chuyến về thăm quê hương nên ba má tôi không thể làm sao hơn được. Người nghệ sĩ trong ba tôi có lẽ đây mới chính là những tháng ngày sống thật cái niềm đau của chính mình, không thương vay khóc mướn như những ngày đứng trên một sân khấu đại ban. Niềm đau này từ mười  năm nay đã dâng lên tới tột đỉnh khi anh Trọng vượt biên bằng đường bộ đến xứ này và ngụ cùng thành phố với chúng tôi. Lần đầu tiên gặp chúng tôi tại nhà của người bảo lãnh, anh chỉ nói mỗi một câu:  “ má tôi đã chết”. Sau đó anh không nói gì thêm nữa nhưng đôi tròng mắt thì mênh mông còn đôi hốc mắt thì sâu thăm thẳm, hai tay anh nắm ghì thành cửa, nửa như  không muốn phải quị ngã trước mặt chúng tôi, nửa như muốn đè nén cơn xúc động đang chực dâng trào như thác đổ. Cũng có thể lúc ấy anh muốn nói với chúng tôi rằng: cánh cửa đang mở, các người hãy bước ra khỏi căn nhà này và đừng bao giờ trở lại. Điều này tôi chỉ suy luận được về sau khi biết anh không muốn chúng tôi, đặc biệt là ba tôi, tới nơi anh cư ngụ,  bấy giờ là căn chung cư nghèo nàn ở phía đông thành phố. Sau đó đã bao nhiêu lần ba tôi đi ngang nhà anh để thấy cánh cửa luôn đóng kín, mà anh Trọng thì rất ít khi ra đường ngoài hai lượt đi về mỗi ngày. Đã mười  năm tình trạng vẫn không khá hơn. Ba tôi có cái mặc cảm của một người chồng, người cha phạm tội, đã vô trách nhiệm đối với vợ con nên chỉ biết tối ngày ăn năn, buồn bã, khó mở lời với đứa con mà mình đã không làm tròn bổn phận của một người cha. Dù vậy cũng có lúc ba tôi càng muốn đến gần thì anh Trọng càng dang xa. Hai năm trước, lúc mẹ tôi mất, anh Trọng có đến nhà quàn và đưa linh cữu mẹ tôi đến phần mộ. Hai cha con vẫn không nói với nhau một lời vì anh Trọng cứ cố tránh cha mình. Hôm ấy trông ba tôi thật là tội nghiệp, mang quá nhiều nỗi buồn trong một ngày tang khó. Mẹ mất, trong nhà chỉ còn hai người : Ba tôi thì thường xuyên bịnh hoạn; tôi thì vừa làm vừa học nên nhiều đêm khuya khoắt mới về đến nhà. Thân nhân bây giờ không còn ai ngoài ba cha con chúng tôi. Giá mà anh Trọng về với chúng tôi thì tốt đẹp biết chừng nào. Tôi và anh Trọng, có lẽ nhờ chút huyết thống, nên chúng tôi có gặp nhau thỉnh thoảng. Những dịp này tôi cố tìm lời nói với anh tôi về cơn bịnh của ba, về cảnh cửa nhà quạnh quẽ , về cái khổ tâm của ba, về nỗi ăn năn dằn dặt trong tâm tư ba suốt từ bao nhiêu năm qua. Anh Trọng cũng có lần tiết lộ với tôi rằng anh không ghét ba nhưng anh cũng không quên được cuộc sống lầm than khốn khó, và thiếu thốn của hai mẹ con trên một vùng hoang vu nước độc đã đem đến cơn bịnh ngặt nghèo, rồi dẫn tới cái chết của mẹ. Mẹ anh với tâm trạng bị chồng bỏ rơi và với sự tự trọng tuyệt đối đã từ chối tất cả những trợ giúp từ cha mẹ tôi, bà đã ôm con trốn tất cả mọi người để không ai tìm ra tông tích. Và anh, một đứa con  bị cha bỏ rơi từ những ngày còn non dại. Anh, một thằng bé lúc mới lên mười, trong túp lều trống hoang trống hoác giữa những đêm mưa mịt mùng đã  bong gân rát họng kêu trời gọi đất, mà đất trời cũng không ngăn được những cơn đau quằn quại của mẹ. Anh đã hơn một lần cắn môi chảy máu để không được khóc như lời mẹ dặn, dù cho đó là những lúc bịnh hoạn, đói khát, dù cho đó là lần cuối cùng còn thấy mẹ trên đời. Anh, một đứa con của một người đàn bà khốn khổ, thà đem sức cùn lực kiệt mà sống, thà vắt cạn bầu sữa nuôi con hơn là nhận sự đoái hoài từ một người đàn ông vô tâm. Tôi thường nói với anh cái thảm trạng chung của đất nước dẫn tới bao nhiêu thảm trạng của mỗi gia đình, mỗi cá nhân, nếu cứ nuôi hoài niềm phẩn uất, nỗi oán hờn, nhất là đối với người thân, thì thảm trạng sẽ không bao giờ dứt được. Hệ lụy sẽ thêm chất chồng. Tình phụ tử chắc chắn là điều không có gì thay thế, càng không thể bức tử nó bằng những nghiệt oan của lịch sử. Tôi nói với anh tình trạng già yếu, bịnh hoạn của ba. Tôi cần phải có anh tiếp tay, và chỉ có anh mới làm cho ba bớt muộn phiền. Anh Trọng lắng nghe mà không nói gì, đôi mắt vẫn cứ xa xăm. Sau đó tôi nghiệm ra một điều: Ba tôi và anh Trọng, mỗi người cứ mang hoài trong tâm tư mình một điều muốn nói .

 

                                                      x X x

 

      Có thật là sức lực của tôi không còn một chút nào hết ? Tay chân tôi sao cứng đơ thế này? Miệng lưỡi cũng trơ ra như đông đá. Tôi có đang mơ hay không: hãy nhìn kìa, quí ông bà cô bác, mặt thằng con tôi đã kề sát mặt tôi, tôi nghe tiếng khóc từ trong cổ họng của nó, tiếng khóc thật nhỏ như một âm vang từ xa thăm thẳm. Tôi thấy từng phiến đau khổ hằn trên gương mặt nó. Hình như tôi còn nghe âm âm u u những tiếng  gọi  ba, ba . . . những âm thanh tôi chờ trọn một đời, đến bây giờ mới nghe được. Ôi hạnh phúc biết chừng nào. Tôi thấy đây là giờ phút sung sướng nhất đời tôi. Con trai tôi đâu còn thù ghét tôi, nó đã gọi tôi bằng ba. Phải, nó đã kêu lên nhiều tiếng ba, ba, ba . . . Tôi không lầm được đâu. Cuối cùng rồi con cũng đến với ba. Tôi biết tiếng nói của tôi không phát ra được nhưng thằng con tôi sẽ nghe từ trái tim còn ấm của tôi, nó sẽ nghe tôi nói tôi thương yêu nó, ba thương yêu con, Trọng à. Lỗi lầm của ba, ba không mong được tha thứ, nhưng được con trở về thăm và nói với ba những lời ba mong đợi thì đã quá đủ để ba giữ làm hành trang đi về cõi khác.

 

                                                  x X x

 

      Giữa hai dãy ghế thưa thớt người đứng cúi đầu tiễn đưa người quá cố là chiếc quan tài màu huyết dụ với vòng nguyệt quế đính phía trước. Vị sư tụng hồi kinh cuối cho lễ di quan. Chỉ có hai người mặc tang phục là anh Trọng và tôi. Hai tay anh Trọng cầm ngang ngực tấm ảnh bán thân của ba tôi chụp trong khi đóng vai Lử Bố với mặt mũi đầy phấn son và trên đầu là chiếc mũ nạm ngọc với cặp lông công màu cẩm thạch. Lúc sinh tiền Ba tôi thích tấm ảnh này nhất trong số các ảnh hiện còn giữ được

      Đám tang ba tôi không có nhiều người đưa tiễn, chỉ có mấy người bạn già của ba ở trong thành phố; đến từ xa thì có vài nghệ sĩ một thời đứng chung với ba trên sân khấu và vài nghệ sĩ đàn em, cùng với mấy bạn bè của tôi và của anh Trọng. Cái chết của ba thật êm như ngủ, đám tang ba cũng lặng lẽ, âm thầm, không kèn không trống. Đó là ý nguyện của ba. Lúc sinh thời ba nói cả cuộc đời ba đã bị du vào quá nhiều cơn lốc; những cơn lốc tàn nhẫn ngoài đời và những cơn lốc tự mình nhập vai trên sân khấu; gươm giáo loang xoang, trống kèn inh ỏi;  cho nên khi nhắm mắt xuôi tay xin cho ba một lần đi trong thinh lặng.

      Khi chiếc quan tài được đẩy từ từ vào cái hộc vuông của lò thiêu, anh Trọng trong giây phút xúc động tột cùng đã ôm lấy phần cuối của chiếc quan tài, nói trong tiếng khóc: “ Đứa con bất hiếu này đã không còn dịp nào nữa để nói rằng con rất thương yêu ba”.

      Tôi thì tôi tin rằng ba tôi đã thấy hết và đã nghe hết. Thấy một đứa con đã trở về và nghe những  tiếng mà lúc sanh tiền ba chưa nghe được .

      Xin ba thương yêu của anh em chúng con hãy đời đời an nghỉ.

      Tôi đã thay anh Trọng mà bấm cái nút ON khi cánh cửa lò thiêu vừa khép lại. Một cánh màn đã khép lần cuối cho cuộc đời của một nghệ sĩ về chiều.

TBT

TBT_OngGiatrenbairac.JPG

Truyện Trần Bang Thạch trên Website www.caovikhanh.com:

ÔNG GIÀ TRÊN BÃI RÁC BÓT SỐ 10.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

 

http://www.caovikhanh.com/pdf/NG%20GI%C3%80%20TR%C3%8AN%20B%C3%83I%20R%C3%81C%20B%C3%93T%20S%E1%BB%90%2010.pdf

Qua khỏi thị trấn Cái Răng, chỗ gần đường Lộ Tẽ Hàng Gòn thì bánh xe sau của chiếc Honda ôm bắt đầu xẹp. Bánh trước cũng lần lần xẹp theo. Chú tài xế tên Chi càu nhàu:

-Biết mà vẫn không tránh khỏi!

Gió ngược. Ngồi phía sau xe, ông Năm cố nói lớn tiếng:

-Chú biết cái gì vậy?

-Thì cái vụ rãi đinh xuống mặt đường.

-Thường xảy ra lắm sao?

-Không thường thì bọn nó lấy gì ăn.

-Ăn đinh?

-Bố ơi, mấy thằng vá vỏ xe ở đằng trước kìa. Nó không ăn đinh, nhưng mình bị ăn đá.

-Chuyện gì nghe lạ quá vậy?

-Chuyện xã nghĩa mà bố. Cái gì cũng lạ hết. Ai mà dám mở miệng cằn rằn mấy thằng vá xe về cái việc chúng nó rãi đinh, cả cái việc tụi nó tính tiền thẳng tay, thì coi chừng bị tụi nó. Bánh xe mình ăn đinh còn mình thì ăn đòn.

-Dân Cần Thơ, Cái Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà. Bây giờ sao lạ vậy?

-Thì có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây từ sau cái ngày ông cột đèn biết vượt biên nên cớ sự mới ra nông nỗi nầy. Dân Cái Răng mình cũng đi tứ tán nhiều. Kẻ lạ càng ngày càng nhiều và càng hung hăng con bọ xít.

-Còn chánh quyền ở đâu?

-Ở khắp nơi, nhưng cá mè một lứa. Có quyền mà không có chánh thì trị ai được. Mỗi người ăn mỗi kiểu. Chức quyền ăn theo quyền chức. Dân khu đen ăn theo dân đen khu. Bố lưu lại vài tuần ở cái Việt Nam nầy, bất cứ nơi đâu, bố sẽ thấy hết những điều mà mấy mươi năm cuộc đời của bố chưa từng thấy.

       Ông Năm không nghe rõ vì còn bận nghĩ tới cái vỏ xe sắp hết hơi. Định xuống Phụng Hiệp thăm thằng bạn nối khố từ thời tiểu học, nhậu quắc cần câu với nó một bữa rồi chiều tối trở về Cần Thơ để sáng mai lên Sài Gòn bay về Mỹ. Trục trặc kỷ thuật như thế nầy thì biết bao giờ mới tới Phụng Hiệp. Ông Năm cũng chợt nhớ đoạn đường nầy lúc ông còn là cậu học trò trung học hàng tuần từ nhà trọ ở Cần Thơ về thăm nhà ở Cái Chanh. Ngay ở đây ngày xưa là bót Tây số 9. Thêm 1 cây số nữa ở đằng trước là bót số 10. Thuở đó ông Năm mười mấy tuổi nhưng ông vẫn còn nhớ người lớn bàn tán thật nhiều về trận đánh đoàn công-voa Tây trên đoạn đường nầy. Trận đó có một thiếu niên trạc tuổi ông tên là Hai Cọp đã gan dạ chạy lăn xả vào chiếc xe jeep có viên đại úy Tây tên gọi là Tây Râu Đỏ. Cậu bé quăng trái lựu đạn vào xe, giết ngay tên Tây Râu Đỏ. Dân quân thắng lớn. Từ đó người thiếu niên Hai Cọp phải bỏ xứ đi đâu mất. Cũng từ đó Tây dựng thêm bót số 10 ở ngay nơi xảy ra trận đánh.

       Đến lúc hai bánh xe bắt đầu xẹp lép thì cũng là lúc ông Năm thấy hai, ba cái lều nhỏ che tạm bên lề đường với những vật dụng vá xe lỉnh kỉnh. Khỏi mấy cái lều là đống rác to và cao như một quả đồi nhỏ. Gió từ hướng phía trước đưa mùi rác rưởi về phía hai người. Ông Năm lấy tay che mũi. Xe chưa dừng lại hẳn trước cái lều đầu tiên thì đã có mấy thằng nhỏ giành giựt khách. Đứa thì nắm cổ xe, đứa thì đẩy yên xe về phía lều vá xe của nó. Tài xế Chi hình như đã quen với cảnh nầy nên để mặc mấy đứa nhỏ muốn làm gì thì làm với cái xe xẹp bánh của mình. Chi dẫn khách vượt khỏi đống rác, đi về hướng cái quán nước trên gió. Quán cũng lụp xụp nhưng được hai mái che bằng lá, vách thì bằng mấy tấm giấy dày. Hai cái bàn thấp với mấy cái ghế mũ cũng thấp lè tè, đầy bụi bặm. Bà chủ quán đon đả mời khách, còn người đàn ông đang nằm võng trong góc đang đọc báo, không buồn ngó đến khách, có lẽ là ông chủ quán.Tháng mười trời hơi âm u, sắp mưa. Gió thổi mạnh nên mát. Tài xế Chi kéo ghế.

-Ngồi xuống đi bố, nghỉ chưn một chút. Bây giờ muốn đi gấp cũng không được.

       Hàng trong quán thật sơ sài, trên kệ mấy chai nước lọc bên cạnh mấy chai 7-up, vài chai bia Hậu Giang và một rỗ ổi, cốc, chuối xiêm, chuối già. Tất cả mốc cời vì bụi.Tài xế Chi kêu một ly đá lạnh, Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá ở đây; kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại những nơi kém sang trọng như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không dám đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả tánh tình, tâm sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời nầy ở đây cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng bé Chi nghe người lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác sĩ. Có ông cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp 7! Còn bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến sĩ. Chị giám đốc thì cái bằng tiến sĩ coi như bình thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có hoa vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây giờ thì chiều nay tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ! Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm đời nầy. Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường gốc miền ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí, tới món tráng miệng bằng kem, cô tiến sĩ giám đốc dùng bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly cà-rem đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô giám đốc nói là “nàm cho cà-lem bớt lóng mà lồng chí”!!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn chui xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không biết cà-lem xã hội chủ nghĩa “lóng” hay cái hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo chơi thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới đó bỗng cười. Ông Năm không biết nó cười vì cái gì. Ông lấy cái bị đeo sau lưng để xuống bàn, lấy ra chai nước lọc, tu ngon lành. Ông Năm ngó lơ ngơ về hướng bãi rác. Bên kia bãi rác là hai hàng xoài chạy dọc theo con lộ nhỏ dẩn vào xóm nhà và khu vườn nằm phía sau cánh đồng sát mặt lộ. Ông Năm loáng thoáng nhớ là bót số 10 lúc trước nằm bên nầy lộ, đối diện với con lộ hàng xoài. Hơn năm mươi năm rồi, hàng xoài đã bao lần thay cây đổi lá. Bãi rác nay đã thay chỗ của cái bót số 10. Ông Năm bắt gặp một ông già đi về hướng quán. Gió ngược làm cho cái bọc ny lông to ông quẩy trên vai như muốn bay về phía sau. Ông già cẩn thận để cái bọc ny lông dựa vào vách, uể oải bước vào quán, kéo ghế ngồi bên chiếc bàn trống. Ông già mặc cái quần kaki xanh lá mạ bạc màu, vá tứ tung và cái áo thun 3 lỗ màu đất, ướt mồ hôi. Có điều ông Năm lấy làm lạ về cái đôi dép bằng vỏ xe trên đôi chân ông già; loại dép nầy trước ngày xuống tàu hải quân tại bến Bạch Đằng vào đêm 29 rạng 30 tháng Tư bảy lăm, chàng thanh niên Năm Hùng chưa hề thấy nhưng nghe nói nó đã biến mất từ mấy năm nay rồi mà. Bây giờ cán bộ văn minh hơn nhiều, giày da, áo vest, xách samsonite. Ông Năm đoán ông già cỡ tuổi mình, chắc cũng đã trên bảy mươi. Tự nhiên ông Năm xàng qua ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải khát. Ông già từ chối. Ông Năm hỏi chuyện, ông già không mặn mà trả lời, có thể vì ông mệt, cũng có thể ông không muốn nói chuyện nhiều với người lạ, mới gặp ngoài đường.

-Khá hông ông anh?

-Lượm rác mà khá cái nỗi gì!

-Không, tui muốn hỏi là nghề nầy sống được hông?

-Nghề nào mà sống hổng được. Không nghề cũng đâu có chết. Có khi còn làm cha thiên hạ.

       Biết ông già nói ngang như cua bò, ông Năm chuyển đề tài:

-Hồi tui còn ở đây, đống rác nầy hình như chưa có?

Tài xế Chi chen vào:

-Có rồi. Có từ trước bảy lăm. Lúc đó rác rưỡi đã có nhưng chưa nhiều. Sau bảy lăm thì rác nhiều hơn, rác khắp nơi.

      Biết tài xế Chi ưa nói chuyện ngoắc nghoéo, ông Năm không muốn xen vào. Nhưng ông già lượm rác như bắt được cái ý lắc léo của tài xế Chi:

-Rác từ làng lên tỉnh, từ trên xuống dưới. Chú em còn nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn há.

       Ông Năm giả vờ đưa chai nước lên miệng, uống một ngụm.

       Tài xế Chi vỗ tay vào vế một cái bạch rồi oang oang:

-Đúng y chang! Tiá nuôi nói trúng hết xẫy! Rác từ từng dưới lên từng trên, từ từng trên leo tuốt lên sân thượng, từ đồng bằng ra hải đảo!

-Có cái gì mà không trúng. Hỏi bất cứ thằng nhỏ nào trên đống rác kia, nó cũng biết như vậy. Nó biết cái tòa biệt thự nầy có mấy đống rác, biệt thự kia có mấy ổ chí, ổ rận. Nó còn biết cái tỉnh nầy có bao nhiêu chuột lớn, chuột nhỏ đụt khoét khắp mọi nơi.

Thấy câu chuyện mỗi lúc thêm trầm trọng, ông Năm lại chuyển đề tài một lần nữa :

-Ông anh có con cháu gì nhiều hông ?

-Có mà như không.

-Chắc các cháu đi xa ?

-Cũng có đứa ở gần.

-Vậy thì cũng có con săn sóc cho ông anh được.

-Thời nầy mạnh ai nấy lo ông bạn ơi.

      Nghe ông già gọi mình bằng bạn, ông Năm biết ông già đang có vẻ cởi mở rồi đây. Ông Năm đi xa hơn một chút, mục đích là để cho qua thì giờ đang khi chờ cái vỏ xe vá xong.

-Ông anh chắc là dân cố cựu ở đây ?

-Ừ. Nhưng mà chỉ đúng một nửa.

       Bà chủ quán xen vào :

-Tui mới là người cố cựu. Còn anh Hai đây chỉ mới trở về sau bảy lăm.

-Chắc ông anh đi làm ăn hay đi lính ở xa ?

       Ông già ngó lơ, làm như không muốn trả lời. Bà chủ quán chen vào gọn hơ :

-Đúng là đi lính xa. Xa thiệt là xa. Mút mùa lệ thủy.

-Ở đâu lận ?

Bà chủ quán hăm hở :

-Thì tận ở ngoải. Ở ngoài Bắc đó, phải không anh Hai ? Kể chuyện Lạng Sơn Cao Bằng cán gáo cho người ta nghe chơi đi anh Hai, nhứt là cái chuyện mấy anh tập kết nổi loạn đòi dìa đó. Còn chuyện vượt Trường Sơn nữa.

       Ông Hai vẫn làm thinh. Câu chuyện có vẻ lý thú, ông Năm hỏi tiếp:

-À! Vậy là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách.

-Tui xin lỗi anh Hai nhen : Hiển hách hay không thì không thấy chớ tui thấy anh Hai bây giờ càng ngày càng rách như cái túi ny lông cũ.

Bà chủ quán buông tiếng ứ hự ở cuối câu nói rồi cầm cây quạt mo cau đuổi ruồi bay quanh mấy nải chuối. Mưa bắt đầu rải hột lắc rắc. Thằng bé dẩn cái xe tới, dựng trước quán. Tài xế Chi trả tiền. Một phần vì trời sắp mưa lớn, phần khác là ông Năm thấy câu chuyện tới hồi khá thích thú nên muốn ngồi nán lại một chút nữa. Ông Năm biết gặp phải một đồng chí lão thành nên ăn nói cẩn thận hơn :

-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ hưu từ lâu rồi ?

Ông Hai vẫn ngó mông lung ra ngoài con lộ, tay vo vo mấy cọng râu bạc dưới càm. Bà chủ quán trả lời thế :

-Nếu được cho về hưu cũng là may. Cái nầy là bỏ việc đó. Chửi lộn một trận rồi bỏ hết sạch, phải không anh Hai ? Lon lá, chức tước, đảng điếc, nhà cửa...bỏ hết. Không ở tù là may. Nói đi anh Hai, nói hết nghe chơi.

Ông Hai vẫn làm thinh. Tài xế Chi xen vào :

-Uổng vậy tía. Một đời đi cầm bảng đỏ, giận một chút rồi bỏ...đảng sao tía ?

Ông Năm kề tai nói nhỏ với tài xế Chi : 

-Nói nhỏ nhỏ vậy, nên cẩn thận nhen chú mầy. Tai vách mạch rừng.

-Bố đừng có lo. Thời nầy những câu chuyện như vầy là chuyện nghe qua rồi bỏ. Người ta bận rộn với mấy cái « cây » và mấy tờ  « đô xanh». Chẳng ai mà để ý mấy cái chuyện bây giờ được xếp vào loại chó cán xe như vầy. Chỉ những Việt kiều như bố mới run. Tụi tui thì...còn khuya mới sợ. Nói đi tía nuôi, nói cái chuyện giận một chút đó đi tía.

       Bây giờ thì bà chủ quán dừng tay đuổi ruồi. Bà ngồi xuống ghế, cạnh tài xế Chi :

-Không phải chuyện một chút đâu à chú em. Ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tui nghe anh Hai nói cái gì là đạo đức cách mạng, cái gì là cần kiệm liêm chánh gì đó. Anh Hai nói ảnh không sống nổi với mấy cái cách mạng giả, liêm chánh giả nên nghỉ chơi, phủi áo một cái xạch rồi về nhà làm ruộng. Không chơi với mấy thằng người giả đó nữa. Già, làm ruộng không nổi, đi lượm bao ny lông cho nhẹ. Coi như bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ chơi chịu. Cũng có nhiều người cán bộ hồi kết tàng tàng như anh Hai vậy đó. Cuối cùng chỉ còn cái xác ốm o, thui thủi một mình. Con cái đứa thì đi lính bên nầy, đứa bên kia rồi chết trận, đứa thì đi học tập. Có đứa lại nghe lời mẹ, không nhận ông già.

-Con mà không nhận cha ? Sao vậy ?

Tài xế Chi ra vẻ sành đời :

-Nhiều nguyên nhân lắm bố ơi. Nào là có ngài hồi kết đem bà vợ do cơ quan cưới từ Bắc vào, bà vợ cũ và con cái không nhìn; nào là có ông quan to nón cối súng ngắn súng dài đâu dám đứng ra bảo lãnh đứa con đang học tập cải tạo. Vậy là hai đàng ô rờ lui, ba đường ba, tui đường tui, tình nghĩa đen thui của cha con mình có thế thui ! Ôi thôi, cả một ngàn lẻ một cái « nào là ».

       Đến đây thì nét mặt ông già hình như chùng xuống, ông lia lịa vò vò mấy sợi râu rồi không nói không rằng ông đứng lên định bước ra khỏi quán. Ông Năm kịp nắm tay ông già giữ lại :

-Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái đã.

Ông già cố rút tay về. Ông Năm phải buông tay ông già để lấy trong túi áo tờ 50 đô-la đưa cho ông già. Thật bất ngờ, ông già cầm tờ giấy bạc để trên bàn, nhìn thẳng vào mắt ông Năm, nói từng tiếng:

-Tui không phải là người ăn xin. Không có danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí. Xin lỗi.

-Không, đây là tôi tự nguyện giúp đỡ ông anh chút ít hút thuốc lá mà.

       Ông già chừng như không muốn nghe thêm. Ông bước ra khỏi quán, vát cái bọc ny lông, dòm hai đầu quốc lộ rồi bước qua bên kia đường. Bóng ông khuất giữa hai hàng xoài dưới trời mưa lất phất.

      Nhìn cái vẻ tiu nghỉu của ông Năm, bây giờ ông chủ quán mới buông tờ báo, rời võng đến bên ông Năm, cắt nghĩa:

-Ông đừng ngạc nhiên. Ông Hai Cọp là như vậy. Ông không bao giờ nhận sự thương sót của ai. Ông còn có cái mộng khác người là lượm hết rác của cái xã hội nầy, cho nên chung quanh căn chòi của ông đầy những rác, thượng vàng hạ cám. Ông nói một ngày không còn đất chứa rác, ông sẽ đốt. Có người cắc cớ hỏi :« Như vậy là ông đốt cái chòi của ông luôn sao ? » ông Năm không ngần ngại : Đốt luôn. Cái chòi mình nằm giữa một đống rác to tổ bố của cả nước thì còn tiếc cái gì nữa. Cái nhà lầu cũng không tiếc. Ông anh và chú tài nghĩ coi : Nhiều lắm là ông Hai  sống thêm chừng mươi năm nữa, không biết ông sẽ hốt hết rác hay đống rác sẽ mọc tay mọc chưn tiến qua phía bên kia đường, chôn luôn căn chòi của ông Hai lúc ông đang lum khum trong chòi, chưa kịp đốt lên cái mồi lửa.

 

        Ông Hai Cọp ? Hai Cọp ? Ông chủ quán mới nhắc tới cái tên nầy, phải không ? Ông Năm bóp trán. Hai tiếng nầy bỗng hiện ra trong đầu óc ông Năm, mới đầu còn lờ mờ, sau rõ dần, rõ dần. Hai Cọp. Cái tên Hai Cọp hiện ra cùng với cái tên Tây Râu Đỏ và trận đánh đoàn công-voa của Tây. Hơn nửa thế kỷ rồi! Đứa con của Cái Răng trước sau vẫn vậy.

-Đúng rồi. Đúng cha nầy! Hèn chi!

       Ba người trong quán không biết ông Năm nói cái gì. Nhưng ông Năm biết ngày mai ông chưa về Mỹ được. Ông muốn trở lại đây một lần nữa.

 

      Rớt xuống từ trời bây giờ là cơn mưa lớn. Những giọt mưa như những giọt lệ sót thương cho một đất nước đầy rác mà ông Hai Cọp suốt một đời phục vụ và ông Năm đã nửa đời bỏ lại.

 

Trần Bang Thạch

(để tặng những người bạn Cái Răng của tui)

TBT_ToiDiHoc.JPG

Mùa tựu trường, mời đọc truyện đi học của người học trò già Trần Bang Thạch:

TÔI-ĐI-HỌC.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

http://www.caovikhanh.com/pdf/T%C3%94I-%C4%90I-H%E1%BB%8CC.pdf

Trước thềm ĐH XXIV PTGĐTĐ-BOSTON 2022, kính mời đọc lại 1 chuyện Thầy Trò 22 năm trước:

KHÔNG THỂ LÀ SỰ THẬT

Từ blogspot

Long Hồ Vĩnh Long: Không Thể Là Sự Thật - Trần Bang Thạch (longhovinhlong.blogspot.com)

Mặc dầu ông Glen Cliffs đã nghỉ dạy học từ hơn ba mươi năm nay, những người quen biết ông vẫn gọi ông là thầy. Còn những học trò hay những người trẻ có nhiều dịp gần gũi và tiếp xúc với ông thì thân mật gọi ông là "Papy", là Bố, vì đối với họ ông Cliffs quả rất xứng đáng là bố qua lối cư xử, cách dạy dỗ, cả cách rầy la, nhất nhất đều tiết ra cái tình cha con. Người ta nói ông Cliffs có trái tim vĩ đại hơn cái hồ Lake Champlain, rộng 431 dặm vuông, ở tiểu bang Vermont của ông, vì tim ông có thể chứa hàng ngàn người trong đó. Còn riêng ông, ông thích tự gọi mình là Người Dọn Dẹp, một "Cleanup Man" thứ thiệt. Số là vào cuối thập niên bốn mươi, trường ông Cliffs dạy không có thư viện, ông bà Cliffs phải dọn dẹp cái nhà kho chứa than đốt của trường rồi ông bà vừa gởi thơ xin sách báo từ các bạn bè gần xa, vừa tiện tặn mua sách vở làm cái thư viện đầu tiên của trường Cambridge High School. Nhiều người còn cho rằng đó là thư viện đầu tiên của thành phố Cambridge. Vị hiệu trưởng của trường thời đó có nói một câu bóng bẩy:

 

"Thầy Cliffs đã làm một công hai việc: xây dựng thư viện và dọn sạch sẽ đầu óc các học trò để nhét vào đó những cuốn sách quý".

 

Bây giờ ngồi một mình nhớ lại câu nói đó, ông Cliffs cảm thấy vui vui. Nó nhắc nhở cho ông nhiều thứ quá. Bao nhiêu thứ, bao nhiêu sự việc đang trôi bồng bềnh trong óc ông, có lớp có lang. Thời gian cũng lũ lượt kéo qua đời ông, đi ngang rồi đi khuất. Còn những kỷ niệm thì vẫn trụ hình, có tình có tự, trong lòng ngực, trong tim óc ông. Gần một thế kỷ có mặt trên đời, hay chính xác hơn, chín mươi mốt năm làm người, ông Cliffs làm sao không thể có nhiều điều đáng nhớ.

 

Đã từng là một nông dân, rồi thành người bán bảo hiểm, rồi tham gia quân đội. Sau trận thế giới đại chiến lần thứ hai chàng trung niên cựu quân nhân Glen Cliffs, lúc đó đã ngoài ba mươi tuổi mới vào ngành giáo dục. Người ta nói mỗi người có một quãng đời để sống, còn những quãng đời khác, những quãng đời không biết sống, thì chỉ để có mặt trên trần ai mà thôi, không có ý nghĩa gì hết. Hơn ba mươi năm dạy học là một quãng đời ông Glen Cliffs đã sống hết đời mình. Ông căng đôi tay ra để ôm chầm, ôm chắc nghề dạy học. Ông nâng niu nó kể cả những năm dài nghỉ hưu. Ông trải quả tim ông ra để thương yêu tất cả các học trò của mình. Các học trò hình như chẳng có đứa nào ghét ông, ông nghĩ vậy. Thời gian càng dài, sự gắn bó thầy trò càng khắn khít.

 

"Hello, Thầy ơi, con đây. Đầu tháng tới con sẽ gởi Thầy cái vé máy bay để mời Thầy sang đây dự ngày ra trường của thằng út tụi con nhen Thầy...!"

 

Đó là cú điện thoại của gần hai mươi năm trước. Lời mời thì ngắn mà lời thăm hỏi, lời trò chuyện lan man thì dài. Người gọi không nói tên, nhưng ông Cliffs vẫn biết đó là chị Lisa ở Seattle. Ông có biết thằng Út đó là thằng Kevin sắp tốt nghiệp nha y. Mấy chục năm nay biết bao nhiêu là những cú điện thoại tương tự đến từ hàng trăm cựu môn sinh ở rải rác khắp nơi. Quan hôn tang tế cũng là dịp gặp gỡ của đồng môn, của thầy trò. Chỉ nghe mấy tiếng đầu từ bên kia là ông Cliffs biết đó là ai; biết cả cái quá khứ, hiện tại, tương lai của người gọi.

 

Thầy giáo Cliffs làm sao quên được cái giọng khàn đục của anh Donald, biệt hiệu là Don Juan, người học trò cao to ngồi cuối lớp, học thì ít mà chơi thì nhiều, chọc phá các cô cũng dữ, đã nghỉ hưu từ hai năm nay, sẽ theo đứa cháu nội là thằng Mack tháng tới đi làm tùy viên văn hóa toà đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Còn chị Jane Pellerin thì nói tiếng Mỹ bằng giọng Tây đặc sệt. Chị nói ông của chị từng là một vị Toàn quyền Đông Dương. Chị ngồi ngay ở đó đó, ở ngay cửa sổ ngó ra khoảng sân rộng, có cây cột cờ cao gần đụng trời. Chị Jane thường nhìn những con hoạ mi hermit ca hát véo von trên cây nhã phong lẻ loi ở một góc sân. Chim thì cứ ca hót trên cây, chị Jane thì cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ làm thơ trong giờ học nên cứ bị thầy Cliffs rầy hoài. Kể từ cuối tháng Tư mười năm trước, người thầy hưu trí Cliffs không còn nghe tiếng líu lo như chim của chị Jane trên đường dây viễn liên nữa. Chị Jane đã bỏ thầy mà đi trước rồi! Từ đó cứ cuối tháng Tư mỗi năm, thầy giáo già Cliffs đều tình cờ đi ngang qua ngôi trường cũ, rồi tình cờ nhìn mấy cánh họa mi đậu ơ hờ buồn bã trên nhánh nhã phong trụi lá, tình cờ nhìn về hướng cửa sổ của một lớp học xưa mà tự dưng làm rơi mấy giọt nước mắt.

 

Từ vài chục năm nay nhiều cựu môn sinh đã từ giã thầy mà đi về cõi khác, để ông giáo già lụ khụ này rơi lệ tiễn đưa. Người học trò ra đi trước nhất có lẽ là anh Herman. Quan tài của anh được phủ lá quốc kỳ, đưa về từ vùng đất nằm bên kia bờ Thái Bình Dương. Thầy Cliffs không quên được buổi tối mùa đông đầu năm sáu mươi tám đó, cỗ xe tang tứ mã lốc cốc đưa xác anh Herman Fernandez đi ngang qua trường. Hôm ấy tuyết trắng xóa mênh mông không làm rõ được cỗ xe đang như cánh lá thâm đen trôi dật dờ trước ngôi trường cũ. Sân trường không một bóng người. Cây nhã phong âm u. Lá cờ rủ trên cột cao; rũ như cõi lòng người thầy giáo cũ đang co ro, ủ rũ đứng bên kia đường, vừa đưa cánh tay khẳng khiu vẫy tiễn đưa một thân xác thân yêu nằm lạnh căm trong lòng xe tứ mã, vừa gạt nhanh những giọt lệ chực đóng băng trên mắt mình. Rồi từ đó, những Robert, những Suzanne, những Tyler, Kathy...thay nhau mà vĩnh viễn ra đi , không kịp nói với thầy mình một lời từ giả! Nhắc tới Kathy King, người học trò có mái tóc đen mượt dài tới gối và đôi mắt nâu màu hạt dẻ, ông Cliffs nhớ mấy năm trước, trong khi nói chuyện qua điện thoại ông trách người học trò cũ này quá cỡ chỉ vì chị Kathy cứ dông dài chuyện này chuyện nọ mà quên không nói tới tình trạng học hành của thằng cháu nội Dillan của chị. Không biết từ hồi nào, ông Cliffs có thói quen hay quan tâm tới gia đình các môn sinh cũ, những người thường liên lạc với ông. Số này thì khá đông. Ông quan tâm nhất là về sự học hành, về tư cách, đạo đức của các con cháu của các môn sinh. Người ta không ngạc nhiên khi ông Cliffs biết được là nhà toán học đã tính toán chính xác tốc độ để một chiếc xe hơi bay an toàn ngang qua mấy toa xe lửa đang chạy nhanh chính là thằng Andre, cháu nội anh Ken Tate, người trưởng tràng gần nửa thế kỷ trước. Ông Cliffs còn biết cả cặp học trò cũ Nancy và Nick đã ly dị; biết anh Francis, ở tuổi quá lục tuần, vừa mới cưới người bạn cùng lớp năm xưa là chị Josephine. Cô dâu chú rể được bao quanh bởi mấy chục con cái, dâu, rể và các cháu nội, ngoại. Ngày đó vui hết sức, ông Cliffs thấy mình như vị thái thượng hoàng được cô dâu chú rể già cùng các con cháu cúi mình cảm tạ và chúc phúc. Có lần ông Cliffs đến một thành phố xa vừa dự xong lễ cưới của gia đình người học trò này thì dự lễ tang của gia đình một học trò khác.

 

Các học trò cũ cũng quan tâm tới Thầy Cliffs của họ rất nhiều, nhất là từ khi vợ ông mất bảy năm trước.

"Hello, hello, hello...Thầy ơi, Thầy! Thầy!..."

"Chị Tammy đó hả? Có chuyện gì mà ..."

"Ồ, Thanks God. Nghe tiếng Thầy con mừng quá. My Goodness! Cảm tạ trời đất. Thầy vẫn khỏe hả thầy?"

"Từ từ mà nói. Có gì mà nghe có vẻ quan trọng quá vậy?"

"Mấy tuần nay, bận nhiều chuyện quá, hôm nay con mới nhớ, không biết thầy có mệnh hệ gì không. Nghe tiếng thầy là con mừng. Thầy vẫn ăn được, ngủ được hả thầy? Thầy vẫn còn tập 5 thế thể dục Suối Nguồn Tươi Trẻ hả thầy? Thầy tránh bớt ăn nhiều dầu mỡ và những thức ăn mặn nhen thầy. Thầy nên...Thầy đừng...Thầy đừng... Thầy nên...."

 

Cứ như vậy mà câu chuyện kéo dài. Đó chỉ là một phần ngắn cú điện thoại tháng trước của chị Tammy Schneider gọi từ Frankfurt, Đức quốc. Đó cũng là một trong bao nhiêu cú điện thoại thân ái từ bao nhiêu năm nay. Đó là những tia nắng mai rực rỡ làm ấm cõi hoàng hôn của người thầy giáo già.

oOo

 

 

Trời bây giờ đang sụp tối. Tiếng rít của bánh sắt xe lửa từ bên kia dãy đồi phía sau nhà báo cho ông Cliffs biết đã 5 giờ chiều rồi. Đây có lẽ là con tàu cuối năm, cũng là con tàu cuối thế kỷ chạy ngang qua thị trấn này. Thời gian vẫn trôi. Con tàu tuổi nhỏ của ông vẫn ngày ngày miệt mài trôi trên cùng một đường sắt, cả trăm năm nay. Ông Cliffs đứng dậy tăng thêm nhiệt độ lò sưởi, bật lên tất cả các ngọn đèn trong phòng khách. Phòng khách sáng choang để ông Cliffs có thể nhìn rõ những tấm ảnh treo gần kín một khung tường, đa số là ảnh đen trắng; có nhiều tấm không còn nguyên vẹn. Nhưng đâu có hề gì. Thầy giáo Cliffs nhắm mắt cũng hình dung được từng khuôn mặt, nhớ hết từng cá tính, thói quen, nết tốt và cả tật xấu của từng người trong ảnh vì đó là những học trò của thầy Cliffs. Còn trên chiếc bàn dài đặt ở bên góc trái căn phòng là mấy chục tập ảnh gồm ảnh xưa lúc thầy trò còn ở trường và ảnh nay lúc thầy trò đã mỗi người mỗi ngả. Ông Cliffs đã bao nhiêu lần lật đi lật lại những tập ảnh đến nỗi ông thuộc từng vị trí của mỗi tấm ảnh. Nhiều chục năm thầy giáo Cliffs đã sống với các hình ảnh học trò cũ như sống với những người quen thuộc trong cùng một ngôi nhà cổ. Trong tập ảnh thứ nhất, trang thứ 5 là toàn thể 28 học sinh lớp 9 niên học 49-50. Trang 12, 13 và 14 của tập ảnh thứ ba là ảnh picnic năm 1956 của các lớp 11 tại Mt.Mansfield, dãy núi có độ cao 4,400 bộ. Còn tập ảnh thứ 12 là của người học trò cũ tên Antonio tặng ông gồm tất cả hình ảnh chụp trong ngày Họp mặt truyền thống năm 1998 của học sinh cấp lớp 12 niên khóa 1953, cả thầy lẫn trò đều là những ông già bà cả mà trông mặt mũi người nào cũng tươi trẻ như mới đôi mươi! Nguyên tập ảnh thứ 15 là hình ảnh những chuyến "thăm dân cho biết sự tình" của ông thầy Cliffs đến nhà các học trò cũ trong những năm ông bà Cliffs về hưu và còn mạnh khỏe. Đa số là những chuyến đi ngắn trong tiểu bang hay các tiểu bang lân cận. Có những chuyến đi dài như chuyến đi Hòa Lan lúc anh Henderson đang làm Giám đốc ngân hàng ở đó. Hay chuyến đi Ethiopia vào năm 1976 của ông Cliffs rất thú vị khi ông cùng vợ tháp tùng đoàn y tế của chị học trò cũ Flores đi cho thuốc và khám bịnh dân chúng tận các vùng rừng sâu. Các môn sinh thường hay gởi cho ông ảnh của các con cháu chụp ngày ra trường trung học, đại học... ông Cliffs để chung vào tập ảnh số 17, đây là tập ảnh dày nhất vì con cháu mỗi ngày một đông thêm. Sáu tập bìa da dày cộm để trên kệ sách đằng kia là các bài luận văn của học trò cũ lúc ông dạy môn English mà ông đã đọc không biết bao nhiêu lần rồi. Trong đó có cả mấy bài thơ viết tay của chị Jane gởi thầy chỉ vài ngày trước khi chị qua đời vì bịnh ung thư phổi. Mỗi trang thơ đều có những chữ bị loang vết mực, ông Cliffs không còn nhớ đó là nước mắt của người làm thơ, hay ngấn lệ rớt xuống từ đôi tròng mắt sâu của người thầy cũ thương nhớ người học trò tài hoa mệnh bạc.

 

Ông Cliffs vói lấy cây gậy rồi bước lần ra phía cửa. Con đường trước nhà giờ này có nhiều xe cộ chạy vội vã. Ông Cliffs biết người ta đang muốn về sớm cùng với gia đình ăn bữa cơm tối tiễn đưa năm cũ và đặc biệt là chào đón năm đầu của một thế kỷ mới, năm 2000. Riêng ông Cliffs thì ông biết ông phải làm gì cho cái ngày đầu của thiên niên kỷ này. Hôm qua, chị Louise đã điện thoại nhắc ông về cái hẹn ngày mai. Phải, cái hẹn ngày mai, một cuộc hẹn thật là đặc biệt, cũng là một trò chơi đánh cuộc xảy ra từ đầu năm 1949, từ 51 năm trước. Ngày đó thầy Cliffs đang dạy môn khoa học tại trường Cambridge High School, bài dạy hôm đó là Thời Gian và Khoảng Cách. Trong khi giảng có một lúc nào đó thầy Cliffs nói tới năm 2000 thì bé Louise Sander, lớp 9, 13 tuổi, bèn đưa tay đứng lên xin nói:

 

"Dạ thưa thầy, sao thầy lo chi tới cái năm 2000 xa quá là xa đó. Lúc ấy chắc thầy trò mình không còn để mà thấy nó. Cả cái Time Square người ta đến đó ôm nhau mừng năm mới chưa biết có còn không nữa!"

"Xin lỗi cô bé, cô đang nói gì thầy không hiểu?"

Biết thầy có vẻ bất nhẫn vì câu nói của mình, bé Louise bèn dịu giọng:

"Tất cả chúng ta chưa biết ai còn ai mất 51 năm sau, thưa thầy".

 

Ngay sau đó thầy trò cả lớp bày ra trò chơi đánh cuộc: Thầy trò sẽ gặp nhau đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm 2000 tại sân nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main, để xem ai mất, ai còn.

 

Hôm nay là ngày cuối năm 1999.

 

Mới đó mà đã 51 năm! Thầy Glen Cliffs đã 91 tuổi còn trò Louise Sander thì 64. Các trò khác thì cũng trên lục tuần. Suốt thời gian nửa thế kỷ đó, mỗi đầu năm thầy trò cùng nhau đếm số ngược từ 51 lui dần để cuối cùng hôm nay là con số 1. Con số 1 đã đứng đó chờ đợi thầy trò ông Cliffs đã 51 năm nay. Thầy Cliffs vẫn còn đó, chị Louise, chị Rosaline, anh Kenneth, anh Adrian....vẫn còn đó để đếm thời gian; còn những Jane, những Herman, những Jerry, Cook, Janet... thì đã bỏ cuộc chơi, bỏ lại những con số càng ngày càng nhỏ! Cũng đâu biết được những người học trò sớm ra đi này đang đứng đâu đó trên vùng trời thênh thang trên cao cùng đếm con số 1 với thầy và bạn mình dưới thấp?

 

Từ hôm đầu tháng 12 năm nay, chị Louise đã chuẩn bị cho ngày hội ngộ vô cùng kỳ thú này: Chị hoạch định hẳn một chương trình hành động, gọi là Project 2000. Đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng 12, chị Louise đã bắt loa truyền hịch cho hải nội chư quân, bàng dân thiên hạ năm châu bốn biển hãy mau kíp về đây dự ngày tụ hội. Năm mươi mốt năm mới có một ngày! Mại dô, mại dô! Bà con cô bác! Chị Louise cẩn thận dặn những người ở địa phương mỗi người làm món ăn mà Thầy Cliffs của mình thích nhất: Chị Peg nấu món măng hầm thịt nạc bò và củ hành trắng, mà phải nấu sao cho mềm rệu, thầy không còn răng thật đâu. Chị Rosaline nấu món súp hải sản, phải có rong biển thật nhiều, đừng quên thêm vào một chút rượu vang cho thơm. Lúc sanh tiền, anh Greg chuyên trị món kem trái cây tráng miệng, nay thì việc này giao cho Greg phu nhân vậy...Bộ sậu ban tổ chức Ngày Tụ Hội 2000 cũng không quên chuẩn bị một đêm ca nhạc kịch và dạ vũ với nhiều màn tự biên tự diễn vui nhộn để thầy trò chào mừng năm mới và đánh dấu một ước nguyện đã thành: Gặp nhau năm 2000. Một cuộc chơi dài 51 năm sẽ chấm dứt sáng mai. Project 2000 sắp hoàn tất! Tất cả sẽ là những người thắng cuộc. Cả tháng nay mọi chuyện tiến hành tốt đẹp. Người người nôn nóng. Nhà nhà nôn nao. Những con cháu cũng thấp thỏm chờ đợi như cha mẹ ông bà của chúng. Chúng có những trận cười thích thú khi chứng kiến các buổi tập kịch của ông bà tại nhà. Từ cử chỉ, cách ăn mặc cho tới việc tô son vẽ phấn để biến thành những teenagers trông thật tức cười. Thằng cháu ngoại 10 tuổi cười lộ hết mấy cái răng sún khi ông ngoại nó đóng vai chàng nam sinh lớp 12 năn nỉ ỉ ôi xin một chút tình từ cô nữ sinh cùng lớp trên đường đi học, do bà ngoại nó đóng. Anh Frank thì đóng vai thầy Cliffs y như thật, từ tiếng nói rổn rảng đến cái phác tay, cái nhướn mày, trừng mắt...Không biết anh Frank tìm đâu được cái áo bành tô màu cứt ngựa y hệt cái áo mà ông Cliffs thường mặc vào nửa thế kỷ trước.

 

Nửa thế kỷ đã chờ được, chỉ còn một tí nữa thôi mà trái tim mỗi người như muốn bái bai cái lòng ngực, chờ được nhảy tung trên đường.

 

Phần ông giáo Cliffs thì ông cũng nôn nao. Hôm trước anh Daniel muốn rước thầy Cliffs đến nơi gặp mặt, nhưng thầy Cliffs đã từ chối, ông bảo mọi người hãy đến chỗ hẹn, đừng bận tâm về ông, ông muốn tự mình chu toàn lời hứa cũ. Ông hỏi về chương trình ngày mai, các học trò tuyệt đối giấu ông những gì họ sẽ làm. Ngày mai, ngày đầu thiên niên kỷ thứ ba, ngày hẹn. Phải, ngày hẹn nhau 51 năm trước sắp tới rồi. Sắp tới rồi! Trong niềm vui, tự nhiên ông Cliffs cảm thấy hơi buồn khi nhớ tới bà vợ Marjorie. Vợ ông cũng đã chờ với ông trong mấy mươi năm. Cái chết đã làm bà mất cơ hội cùng ông vui ngày sum họp vô cùng đặc biệt này. Và còn thiếu thêm những ai trong số những môn đệ của ông? Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?

 

Trong nỗi vui buồn lẫn lộn đó, ông Glen Cliffs đi ngủ sớm để có mặt ngày mai trên đường Main, trước sân nhà thờ The First Church of Christ.

oOo

 

Trong phần tin tức lúc 7 giờ sáng, làn sóng 640 AM của đài phát thanh địa phương có loan một bản tin ngắn: "Cuối cùng thì thầy giáo Glen Cliffs không đến được chỗ hẹn trước nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main. Theo khám nghiệm thì ông giáo 91 tuổi mất khoảng 6 giờ sáng nay, ngày 1 tháng Giêng năm 2000. Ông Cliffs đã bước những bước đi đầu tiên từ những năm đầu Thiên Niên Kỷ thứ hai, đã đặt chân lên Thiên Niên Kỷ thứ ba. Ông chỉ thiếu có hơn 1 tiếng đồng hồ để đặt chân lên chỗ hẹn, để hoàn thành lời ước từ 51 năm về trước".

 

Và người ta thấy một số những lão ông, lão bà tuổi lục tuần, thất tuần đang ngồi khóc tại một góc phố trên đường Main. Hình như không có ai trong số những người nầy tin những lời phát thanh là sự thật. Năm mươi mốt năm chờ đợi đã trôi qua như một giấc mộng. Con số 0 đã hiện ra để chấm dứt 51 năm chờ đợi, thì một con người vĩ đại đã biến mất. Một con số 0 khác bỗng xuất hiện như một cánh lá thu đang chao nghiêng bay về với đất. Ôi cái Có và cái Không! Sự ra đi đột ngột của người thầy kính yêu dù có nằm mơ cũng không thể xảy ra được. Thật hay mơ?

 

Thiên Niên Kỷ mới đã đem cho họ một nỗi buồn quá lớn lao.

 

 

Houston, trong khi chờ đợi ngày đầu năm 2000

Trần Bang Thạch

CÓ MỘT CHỖ ĐỂ VỀ

(khởi đi từ 1 ngày tháng Tư Đen)                       

Đường sá của người

Đâu phải của ta

Sao ta cứ miệt mài đi, về năm tháng

Dù đông lạnh căm

Dù hè cháy nắng

Ta ngựa già nối những dặm xa

 

Gió ở đây cũng là gió của người ta

Đâu phải gió đồng bằng

Đâu phải mưa châu thổ

Nước mặn Đại Tây Dương

Đâu bằng nước ngọt phù sa quạch đỏ

Ta nghe chừng thiếu một hơi quen

Nên mỗi ngày qua

thêm một nỗi buồn riêng
thêm một chút ngậm ngùi cố thổ
ở ở, đi đi ta làm khách trọ
sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên đường

Để mỗi đêm dài điếm cỏ cầu sương
ta mơ làm người Lý Bạch
đê đầu tư cố hương
thấy hồn mình lượn lờ nơi viễn phố

Thấy mẹ lưng còng
trên sân rêu phủ
mắt lệ nhòa từ buổi con đi
ngày ngóng đêm trông từng cánh chim về
nghe sao nặng tháng ngày đứt ruột

Thấy cha một mình
trên dòng kinh nước đục
đêm ba mươi một chiếc xuồng câu
tiếng độc huyền cầm chảy suốt đêm thâu
(cha muốn gởi gì trong hơi đồng sũng nước?)

Thấy mái chùa cong
thấy ngôi trường buổi trước
ta nhìn ta một thuở rong chơi
ta nhìn em tóc bím, môi cười
trao ánh mắt cho ta
mà con tim giữ lại

Và cứ giữ nghe em
những ngày xưa ấy

Giữ giùm ta một góc trời quê
để hồn ta còn có chỗ trở về
khi đất lạ ta mồ xanh cỏ.

Trần Bang Thạch

NNH_NY 2000.JPG

CHUYỆN NEW YORK,

MỘT NGÀY

 

 

    Gần nửa đêm rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn mặt vuông là cái computer. Xung quanh chị  ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần chị Suzanne muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống nơi góc phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một giấc, rồi mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa xong chị cố nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi ghi chép, rồi lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một ngày thật quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của công ty nơi chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng thương mại với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới và khó nuốt, đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc. Thất bại lần này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản. Từ vài tháng nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng. Nhân viên lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa mới tới ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng trong các phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này. Còn cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không khá gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt. Nhiều khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn hẹn nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn dọn dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới.

    Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày mai chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người còn lại, trong đó có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh. Chứng dị ứng thời tiết cứ làm chị khốn đốn mỗi năm mấy tuần. Nhưng người chủ trực tiếp của chị là bà phó giám đốc Helen sau mười ngày đi Bắc Kinh, khi trở về tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm từ sáng hôm nay. Bà nói  kết quả chuyến đi của bà đến sớm không ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh sẽ đại diện chánh phủ đến Công ty duyệt xét toàn bộ vấn đề để chánh thức ký hợp đồng hay không. Hơn một tháng nay công sức của bà phó giám đốc Helen đã đổ quá nhiều trong cái dịch vụ này, nó không thể thất bại được. Công ty không thể chết được. Bà nói bà cần tới cái tài cung ứng tài liệu của chị Suzanne để trình với phái đoàn ngày mai. Đến gần sáng thì chị Suzanne đã có những printouts cần thiết với chi chít những con số và những biểu đồ đủ màu sắc để cung cấp cho bà Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời bàn giấy. Chị đi đến cửa sổ, vén màn rồi mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai hít thở không khí trong mát buổi sáng tinh mơ của New York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm, sang cả và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho mình một ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại tấm chăn, hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén nằm cạnh chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không thể nào mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của mình sau một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà hàng đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không thể tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn nên chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà nhìn. Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những cơn hắt hơi sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương và tội nghiệp vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép kẹp đó không biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp nhiều thứ quá: những tràng hắt hơi như cơn địa chấn nhỏ trong nội tạng và bao nỗi lo toan của một người đang gánh nặng cái gánh gia đình với hai đứa con nhỏ và người chồng thất nghiệp. Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank mặt mũi méo xệch nhận tờ giấy màu hồng của sở thông báo anh tạm nghỉ việc tại hãng hàn xì này thì  người vợ ốm yếu của anh phải mang thêm trên vai vài hòn đá tảng. Một cái xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền lương khiêm nhường của một nữ thư ký và chút ít tiền trợ cấp thất nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm đủ chi tiêu cho việc ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng tháng trả tiền thuê căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc mỏ này. Tuy vợ không nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng cho những ngày sắp tới, những ngày mà cả hai vợ chồng đều thất nghiệp. 

 

    Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ. Anh Frank đang mớm sữa cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén cereal trộn với sữa tuơi. Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong nhà, kiêm luôn người giữ trẻ. Người father mom này mỗi khi đi chợ búa hay đi xin việc đều có con bé chưa đầy tuổi trên tay và thằng bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới chân. Thấy mà tội nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm biệt chồng và hai con rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị Suzanne như phòng lên cao hơn so với bình thường, một phần vì giấy tờ quá nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm hy vọng của cả nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây chị Suzanne chợt mỉm cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle 8 tháng tuổi cũng cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của nó vào cái samsonite của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào lề, vẫn đúng giờ như thường lệ. Vẫn những tiếng hi, hi quen thuộc, thân mật, rộn rã. Một ngày như mọi ngày. Gió vẫn mát lạnh từ dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe cộ vừa thở vừa bò. Người bạn đồng hành người Á đông với mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn trên người mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường 14 rồi xuống xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu China Town trên đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành quen thuộc từ người Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời nào ông gặp trên xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà phát thèm sáng nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở băng cuối. Và cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết tin tức trang đầu của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi chị phải bước xuống, đó là toà cao ốc phía nam của Trung tâm thương mại thế giới. Từ dòng Hudson ở hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng khi  New York đang bước vào thu. Tượng Nữ thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao ngạo, vĩ đại, vừa thân thương, gần gũi.

 

    Một buổi sáng như mọi buổi sáng New York. Như mọi buổi sáng của người New York.

 

    Tuy giờ làm việc bắt đầu từ chín giờ nhưng khoảng  tám giờ rưỡi thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt. Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu, kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này. Chị còn cho  Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm bằng câu: I love you. See you soon, Honey.

    Vậy mà sau câu nói thương yêu đó họ không còn gặp nhau nữa. Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã mất nhau. Thật sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa vĩ đại phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng nổ kinh hồn, trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi chồng, gọi nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết.

    Rồi ầm ầm như sấm nổ, như sét rền, như đất chuyển trời rung. Như trời sập. Mọi người mạnh ai nấy chạy. Tiếng kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc. Có người chạy loanh quanh, không còn biết đâu là lối ra cầu thang hay thang máy. Trời đất tối sầm. Người ta dồn cục khắp hành lang.

    Ở một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng lên không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên bầu trời New York.

 

    Trong căn phòng khách ở tầng thứ 41 của tòa chung cư trên đường số 23, anh Frank thấy mặt thằng Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay trong không khí, mồm nói với anh mấy lời mà anh không nghe rõ; anh nhìn màn ảnh truyền hình trước mặt thì những chú thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay vào đó là một trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc. Anh Frank mở cửa chạy ra hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng hốt của người xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái lửa. Anh chạy vào nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền hình. Anh Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện thoại khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng trả lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt không khi thấy một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi vợ anh đang làm việc? Không, không thể nào có chuyện như thế được. Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là sấm động, phong ba. Cả dòng Hudson cũng là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng Nữ thần Tự do thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen.

    Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang bốc cháy. Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình, anh Frank bỏ hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống chỗ để xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi . Xe anh chỉ chạy được một đoạn đường thật ngắn thì phải dừng lại, không thể nhích thêm một thước nào nữa. Mọi người đang đổ ra đường. Tiếng la hét, tiếng còi hụ inh ỏi một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường rồi hai tay bồng hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để đến gần hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì anh hoàn toàn bị cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái lửa như con ác quỉ vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ trên vai anh, còn thằng Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng trên đường và cụm khói trước mặt. Không thể đi thêm được nữa, anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và trong hỗn loạn. Hàng ngàn người chen lấn trên cầu Brooklyn và cầu Manhattan. Vô số người đổ dồn về phía bến cảng số 11 để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người nhấp nhô. Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người phóng ra từ  cửa sổ của một từng lầu gần chót vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai toà nhà lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng, như hai người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên hào thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ khắp nơi và hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện Cựu chiến binh cách mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng về phía hai trái núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường West Broadway anh thấy khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn. Tro than bao trùm các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm cái áo len màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả là những áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không biết bây giờ là lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ. Cái điện thoại ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã bị cắt đứt từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó bâng quơ, anh Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm chặt hai con mà khóc.

                                                                   xXx

 

    Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn hai con đứng nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt anh và xung quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh vật ở đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của hai tòa cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng giữa lòng New York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp nơi là gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi, cong queo, ám khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như trời trồng, như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn u minh nào chợt tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính trên từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử với cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như cũng biết trông ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này nó nằm yên trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước mặt. Còn thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm nay thì tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn ruột. Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank  gọi vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn. Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ.

    Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng nấc của các oan hồn.

 

    Nữ Thần Tự Do từ đằng xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt.

Tháng 9 – 2001

Trần Bang Thạch

Mời đọc truyện TBT trên blog CVK:

 

1/ Ngoại tôi và dòng sông nhỏ:

ngoai-toi-va-dong-song-nho-tbt.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

2/ Tôi với những khổ hình

http://www.caovikhanh.com/pdf/toi-va-nhung-kho-hinh.pdf

XUÂN SỚM

- Chút quà văn chương gởi anh VTT, chị KQ & nhóm thiện nguyện Cái Răng nhân dịp Xuân về

 

 

    Bà Phước bóp nhẹ mấy ngón tay xương xẩu của chồng rồi cùng con trai bước ra khỏi phòng. Người nữ y tá cũng bước ra theo, sau khi chúc ông Phước ngủ ngon. Ông Phước còn lại một mình trong phòng. Hai chiếc giường kia đã bỏ trống từ hồi trưa. Một người được xuất viện, người kia trở bịnh nặng, phải đưa về khu cấp cứu; không biết có còn trở lại đây nữa không, hay được đưa thẳng xuống nhà xác, như ông Mễ nằm giường ấy cách đây hai tuần. Ba tuần trước, ông Phước từ phòng cấp cứu được chuyển vào phòng này. Coi như bịnh trạng của ông đã qua thời kỳ nguy hiểm. Bây giờ là thời gian điều trị. Ống chân trái của ông Phước bị gãy, các lóng xương bể đã được sắp xếp lại và nẹp bằng một thanh bạch kim. Bác sĩ nói tuần tới chân ông sẽ được bó bột. Nhưng việc xuất viện thì chưa biết, vì có dấu hiệu xuất huyết đường ruột nên vài thử nghiệm phải tiến hành song song với việc chữa trị vết thương chân.

    Từ ngày ông rời nước, đến thành phố này vào năm 1994 đây là lần đầu tiên ông Phước vào nằm bịnh viện vì một tai nạn, có thể gọi đó là tai nạn nghề nghiệp. Số là sáng sớm hôm ấy, như thường lệ, ông Phước đẩy cái xe thùng tự chế của ông đến khu công viên gần nhà, rồi đến khu thương mại sầm uất nằm trên ngả tư trục lộ giao thông. Hơn mười lăm năm rồi, chỉ trừ khi mưa giông hay khi đau yếu, hiếm khi ông Phước bỏ sót một ngày đẩy xe trên các con đường này. Ông đi  vừa là một cách tập thể dục, vừa là dịp để ông thu lượm những lon nhôm bên đường, tại khu công viên, hay từ các bao rác tại các cơ sở thương mại. Ông Phước rất cẩn thận mỗi khi băng qua đường. Hôm ấy nhiều sương mù, khi đến ngả tư, tuổi già mắt kém, nhìn gà hóa cuốc, ông Phước nhìn đèn xanh tưởng là đèn đỏ, liền đẩy xe tay tự chế xuống lộ qua đường bên kia. Khi thấy chiếc xe đen thui trờ tới thì mắt ông đã tối sầm. Ông Phước được đưa vào bịnh viện ngay sau đó. Bác sĩ cho biết ống chân trái của ông bị gãy, nhưng không quá trầm trọng.

    Đúng là một phút xui xẻo, may mà không mất mạng. Bao nhiêu năm nay ông đã biết bao lần đi trên lộ trình đó. Lộ trình nằm trong khu nhà ở nên xe cộ lưu thông rất chừng mực. Từ nhà đi hơn nửa dặm đường thì tới công viên. Từ công viên đi thêm độ một dặm đường nữa là tới khu thương mại. Đoạn đường dài vừa đủ cho một người già đi bộ thể thao mỗi ngày. Khu công viên khá rộng lớn tọa lạc giữa trường tiểu học và các sân bóng rổ, sân quần vợt. Rải rác trong công viên có những nhà bát giác và những lò nướng lộ thiên, rất tiện lợi cho các buổi picnic cuối tuần. Vào các ngày thường cũng có nhiều người tụ tập buổi chiều và buổi tối, già cả bé lớn đều có đủ. Họ đi bộ, chơi thể thao, hẹn hò, gặp gỡ, ăn uống, chuyện trò...Cho nên khu công viên là địa điểm cung cấp cho ông Phước nhiều lon nhôm nhứt; nhiều hôm lượm đầy một bao, ông Phước phải bỏ lên xe tay, đẩy về nhà rồi trở lại tiếp tục. Còn tại khu thương mại thì từ hai năm nay công việc thu nhặt lon nhanh và gọn hơn trước sau khi ông trình bày ý nghĩa của việc ông làm với các chủ nhân. Họ hiểu và rất thông cảm nên mỗi cơ sở cho ông Phước để một cái thùng loại đựng rác, bên trong lót sẵn những bao ny-lông. Mỗi thùng đều có đề chữ “Aluminium Cans Only” hẳn hòi. Mỗi sáng sớm ông Phước chỉ gom các bao lon ấy chất lên xe đẩy. Trước kia thì ông Phước phải vất vả bươi tìm lon trong một cái thùng rác công cộng to, cao và, dĩ nhiên, rất dơ bẩn; nhiều khi ông phải đứng hẳn vào trong thùng rác mới kiếm được nhiều lon nhôm. Mấy tuần nằm trong bịnh viện, bao nhiêu công việc bị trễ nải hết. Lon liếc, bao bị đang chờ ông. Chân ông đau không bằng ngọn lửa đốt trong lồng ngực ông. Ông Phước không biết chân ông rồi sẽ ra sao? Và các dự  định của ông? Ông Phước có ý muốn là sẽ mở thêm phạm vi hoạt động tới các vùng xa hơn. Ông cũng sẽ thực hiện đúng kế hoạch mà ông gọi là Kế hoạch Diều hâu, theo đó thì ông để sẵn tại mỗi tiệm, mỗi văn phòng dịch vụ một thùng chứa lon, mỗi ngày ông ghé qua xớt gọn nguyên bọc, như diều hâu xớt mồi. Nhanh và gọn. Chừng đó thì cái xe thùng nhỏ của ông sẽ chỉ được sử dụng cho những nơi gần nhà. Như vậy càng tốt. Ông sẽ dùng cái xe truck để đi các tuyến đường xa.  Nhiều lon thì nhiều tiền hơn. Ông Phước nghĩ tới cả một vùng Tây Bắc là vùng ông đang ở, rồi lan sang vùng Tây Nam là địa bàn thương mại của người Á Châu, là nơi họ sẽ dễ dàng thông cảm và giúp đỡ ông. Nếu tiện thì ông xoay qua vùng Đông Bắc là nơi bạn ông có mấy nhà hàng và cây xăng, tha hồ mà gom lon. Rồi tại Hội Chợ Tết Việt Nam sắp tới, hội chợ Tết tại các chùa, các nhà thờ…ông Phước sẽ đặt sẵn những cái thùng để đồng bào đi du xuân bỏ những lon không vào. Cả chục ngàn người thì biết bao nhiêu là lon. Những bạn bè của ông nơi quê nhà sẽ có thêm chút tiền mua bánh trái, kẹo mứt cúng kiến ông bà, các cháu nhỏ có bộ quần áo mới. Tết nhứt sắp tới rồi mà chân cẳng thì như vầy, thiệt là họa vô đơn chí.

        

    Nghĩ xa rồi ông Phước không khỏi nghĩ gần. Cái gần chính là cái gia đình gồm vợ con ông. Họ ở bên cạnh ông mà ý nghĩ của họ và ý nghĩ của ông xa nhau hàng ngàn dặm. Thật sự thì ông Phước đã thấy việc này từ ngày ông còn ở Việt Nam. Ông nhớ hồi năm 1984 khi ở tù về, ông được vợ bảo lãnh theo diện đoàn tụ. Lúc đó cha mẹ ông già yếu, ông là con một, nên ông Phước không chịu đi. Đến khi có vấn đề HO, ông Phước cũng chưa chịu đi vì cha ông vừa mất, mẹ thì già yếu thêm. Do vậy vợ con ông trách ông rất nhiều, cho rằng ông không nghĩ gì đến họ. Không chừng họ còn nghi ông có bồ nhí ở quê nhà! Từ đó thỉnh thoảng vợ ông gởi tiền cho ông mà không có một thư từ nào, không có cả thư của các con. Ông bắt đầu biết mọi người đã không hiểu nhau rồi. Khi đến Mỹ ở chung với vợ con, sự cách biệt càng rõ, từ cách sống cho đến cách nghĩ. Vợ ông thay đổi nhiều quá. Các con cũng vậy. Anh em nói tiếng Mỹ cả ngày với nhau làm ông nhức đầu. Càng chán ngán tình cảnh của gia đình mình, ông Phước càng nghĩ nhiều đến những người bạn đồng cam cộng khổ của ông ở quê nhà. Tài chánh eo hẹp với đồng lương quá thấp, ông Phước phải tìm phương cách khác để giúp họ. Ông nghĩ tới việc đi lượm lon nhôm. Ông Phước không quên những ngày đầu của công việc này. Thật sự thì thời gian đầu rất là êm thắm. Ông bắt đầu công việc ngay tại gia đình ông. Ông Phước cũng muốn nhân cơ hội lượm lon giúp người nghèo để cho các con cháu ông biết về lòng thương người và biết quí trọng đồng tiền. Muốn dạy cho con cháu bài học vở lòng về đạo làm người. Nhà ông con cháu đông lại hay uống nước ngọt, vợ chồng thằng con lớn thì hay uống bia, cuối tuần thì hay có tiệc tùng,  nên lon bia, lon nước ngọt cũng nhiều, bỏ đi thì uổng, mỗi pound lúc đó giá là 42 xu. Mỗi tháng ông Phước có trên 20 pounds lon không tại chính nơi ông ở, trị giá cả chục đồng. Riêng tại chỗ làm của ông là một tiệm giặt lớn, có để máy nước ngọt, ông chỉ lượm lon không bỏ vào bao đựng rác. Cứ mỗi cuối tuần  ông đem về nhà một bao  đầy, nặng ba, bốn chục pounds. Đầu tiên ông Phước chứa những lon trong thùng rác, để phía sau vách nhà; rồi đợi khi rảnh, ông Phước cùng hai đứa cháu nội đạp dẹp mỗi lon cho bớt cồng kềnh. Đầu tiên hai cháu chỉ làm lấy vui; sau nghe ông nội nhét vào đầu mỗi ngày một vài chữ, chúng nó hiểu công việc ông cháu đang làm là một loại charity. Rồi ông cháu hì hục mang ra xe đem đi bán. Hai đứa cháu nội trên mười tuổi có vẻ thuộc bài học mà ông muốn dạy. Những người khác thì chưa. Một hai tháng đầu thì trong nhà chẳng ai để ý hay phàn nàn gì về việc làm của ông Phước. Đến tháng thứ ba thì những con kiến, đặc biệt là những con gián từ đống lon làm cả nhà chú ý. Trước hết là vợ ông rồi tới con trai, con gái, rồi con dâu. Bà Phước vượt biên sang Mỹ từ năm 79 với 3 con, thằng lớn lúc đó mới 14 tuổi; thằng Út sanh ra năm 75, khi ông mới vào tù  vài tháng. Bà Phước làm công chức cho City hơn ba chục năm nay. Bà có cái nhìn khác ông về nhiều vấn đề. Chỉ một con gián trước mắt bà đã là chuyện lớn rồi. Ba đứa con thì lúc nào cũng cùng chiến tuyến với mẹ. Con dâu người Tô Cách Lan thì sợ gián hơn sợ ma. Tình trạng này thì thật nguy. Vợ con ông mà không cho ông để lon ở nhà thì không biết ông phải làm sao. Trước mắt là ông Phước cấp tốc dời địa điểm. Ông chuyển tất cả lon ra cái góc sân sau, sát hàng rào, rồi che kín mít bằng mấy tấm vỉ thiếc. Hy vọng không ai thấy; nhứt là không thấy những con gián. Khi đống lon nhiều đủ cho một chuyến truck thì ông đem đi bán. Việc làm ăn của ông Phước coi mòi trôi chảy. Nhưng có một lần ông tưởng rằng kế hoạch của ông bị ngưng. Chuyện xảy ra hồi hè năm trước. Đó là một hôm vợ ông làm sinh nhựt cho cô con gái bằng bữa BBQ ngoài sân sau. Mẹ con bàn tính với nhau, ông Phước không biết chi tiết. Bạn bè của vợ ông, bạn bè của các con, có cả người tình của con gái và của cậu út tham dự. Tất cả trên năm chục người, đầy cả sân sau. Chuyện rắc rối bắt đầu khi tấm vỉ thiếc bị ai đó làm ngã xuống, bày ra một đống lon nhôm, cộng với hàng ngàn con gián to bằng ngón tay, mập ú, láng coóng.  Nghe được mùi thịt nướng, các chú gián càng linh động, bò lổn ngổn khắp sân như những con ma đói. Mạnh ai nấy la làng. Mạnh ai nấy nhảy cà tưng. Thịt thà trà rượu văng tứ tung. Tiệc thịt nướng Tếch-xịt mà phải dời vào trong nhà, thành indoor Bar-B-Q, thì... 12 con giáp chẳng giống con giáp nào. Mặt mày ai nấy đều dài thoòng, nhăn nhó như cái bánh bao chiều, nhứt là phu nhân và các quí tử của ông Phước. Đâu có ai ngờ được là phía sau căn nhà rộng, hai từng, trướng gấm màn nhung, mặt trước hoa kiểng ngay lối thẳng hàng, trong nhà ghế bành, tràng kỷ, đàn piano lung tung... mà phía sau nhà chứa hộp lon để bán! Ai đời nhà của một bà phụ tá trưởng phòng mãi dịch thành phố, nhà của một kỹ sư trưởng công ty điện lực, nhà của cô ba dược sĩ vv... mà chứa cả đống hộp lon dơ dáy trị gía vài xu một cái! Tình cảnh y như cô đào thương sau khi diễn tuồng gột rửa hết mấy lớp phấn son. Thôi thì hôm ấy Mỹ tây, Mỹ ta đều có một big surprised party! Và dĩ nhiên là ông Phước đâu tránh khỏi một big, big problem! Cái mà ông thấy rõ trước hết là cô con gái cưng của ông chạy vào phòng ngủ, đóng kín cửa, chắc là để khóc cho đã vì xấu hổ với người tình đang hành nghề thầy thuốc. Cậu út thì cũng chẳng khác gì cô chị, bạn gái nó cứ đập cửa, kêu ho-ni ơi,  ho-ni à hoài mà nó không mở, chắc để giấu cái cục quê to bằng cái nhà nó đang ở. Vợ ông, con trai lớn, con dâu... chắc cũng có cùng tâm trạng như vậy. Họ cũng cố nói nói, cười cười mà cái cười như mếu. Cũng phải thôi, họ không hiểu một tí gì về ý nghĩa việc làm của ông thì họ xấu hổ trước bàng dân thiên hạ là phải. Còn ông Phước ư? Lúc khách khứa nhảy cà tưng cà tang giữa sân cỏ, lúc vợ con ông tóc tai dựng ngược, muốn chôn sống mấy con gián qủi sứ và một đống lon nham nhở, thì ông Phước đang ung dung đứng sau cửa sổ trên lầu, vén màn nhìn xuống. Ông muốn làm nhà hùng biện nói trước công chúng. Ông sẽ dõng dạc, hùng hồn mà dang tay nói rằng: Các người đang thấy những con gián bò đi tìm mồi dưới chân các người. Vài người bạn của tôi nơi quê nhà hiện giờ cũng như con dế, con giun đang vất vả đi tìm miếng sống. Tôi hãnh diện làm cái việc lượm hộp lon này. Các người cứ thảy ra đi, tôi lượm hết. Tiền của các người vứt bỏ, tôi lượm về, rồi thân ái gởi cho bạn tôi, có gì là xấu hổ! Các người đâu có biết một pound thịt bò để nướng ngày hôm nay ở đây đủ cho bạn tôi mua gạo ăn 2 tháng. Cả mấy chục pounds thịt bò và rượu, và bia...hôm nay có giá trị tương đương với cả ngàn ngày bạn tôi bò lê trên vĩa hè bằng hai đầu gối, giữa nắng trưa, giữa mưa dầm, giữa bụi bặm, bán từng tấm vé số. Nghĩ như vậy cho vui vậy thôi chớ ông Phước dư biết mỗi người có số, các người dưới kia có số tốt thì cứ tận hưởng cái số tốt của mình, cũng không sao, không chết thằng tây nào. Không nói thì ai cũng biết là sau hôm đó ông Phước bị vợ, rồi các con hành hạ tơi bời. Để giữ hòa khí trong gia đình, lần này ông cố giải thích, ông nói cho mọi người biết hoàn cảnh của từng người mà ông giúp đỡ. Tình hình tạm yên, tuy rằng còn có những chống đối ngầm. Họ có vẻ chống đối vì họ không hiểu hết mục đích lượm lon của ông; hay họ biết mà không thể hiểu nỗi. Sống tại nước Mỹ này mà có người kỳ cục, ở nhà lầu, vợ con thành danh, thành đạt...mà nhịn ăn, nhịn mặc, lượm từng cái lon dơ mà không biết xấu hổ. Chuyên cần lượm lon để bán lấy tiền đem cho người khác ở tận đâu đâu! Thiệt hết chỗ nói! Các dâu và con không hiểu đã đành, vợ ông mà không hiểu thì đáng buồn và thêm rắc rối. Cái rắc rối là bà thường xuyên ngăn cản việc làm của ông, còn chê ông làm cái nghề hạ tiện, làm mất mặt mẹ con bà. Quả thật là vợ ông đã quên hết cái khổ của chính bà trong những năm sau 75, quên cái khổ của bao nhiêu người thân quen khác. Ông Phước nói với vợ rằng ông sang Mỹ nhưng những người lính thuộc cấp ngày trước của ông, những bạn bè đã cùng chiến đấu với ông không có điều kiện để đi, họ đang sống trong nghèo nàn, đói khát, bịnh tật. Ông nhắc tới hạ sĩ Cang, người lính truyền tin của ông ở trung đoàn 31, cụt cả hai chân, đang bán vé số tại bến bắc Cần Thơ; binh nhì Nam, người đã cỗng ông cả cây số khi ông bị thương ở trận Tầm Vu, đang nằm một chỗ vì chứng tai biến mạch máu não, vợ con bữa no bữa đói. Hôm ấy mà Nam chạy bỏ ông thì ông chỉ nằm chờ chết. Rồi những An, những Thiện, Đồng...đã một thời sống chết với ông, đang cần sự giúp đỡ, dù ít dù nhiều. Ông Phước là người đến Mỹ muộn màng, sau khi mẹ ông qua đời, nên ông thông hiểu từng hoàn cảnh của những người lính cũ của ông. Sang được bên này, ông muốn tự mình làm ra đồng tiền gởi về cứu giúp họ. Mỗi người vài chục đồng mỗi tháng để họ vui mà ông cũng vui. Mỗi lần lượm những chiếc lon rỗng mà ông Phước thấy lòng mình thêm đầy. Đầy niềm vui. Lúc còn ở quê nhà, nhận tiền gởi về từ vợ con, ông Phước đã ân cần chia sẻ với họ. Cái gọi là tình chiến hữu của ông đơn giản là như vậy, không đao to búa lớn gì hết. Ông biết khi tuổi già sức yếu, ông sẽ không giúp họ được nhiều, nhưng còn hơi thở là ông biết rằng ông chưa bỏ cuộc.

    Điều trước mắt là ông Phước sẽ không bỏ cuộc trong việc vận động vợ con ông tham gia cùng với ông. Ông Phước biết trước đó là một việc vô cùng khó khăn. Cái “lì” trong công việc của ông từ mười mấy năm nay cũng là một cách để khẳng định rằng ông đã suy nghĩ đúng và làm đúng. Tốt hơn hết là họ nên xét lại lối suy nghĩ của mình. Hai đứa cháu nội chỉ hơn mười tuổi mà đã biết giúp ông nội, biết cầm đồng tiền khó khăn kiếm được từ những lon nhôm, cùng với ông đem gởi về quê nội. Thỉnh thoảng, làm như là tình cờ, ông Phước cho vợ xem mấy bức thư hay những tấm ảnh của những người nhận tiền của ông hàng tháng tại quê nhà. Đại để những dòng thư như: “ ...nhờ món tiền của ông thầy gởi về kịp lúc mà má em được chữa trị kịp thời, nếu không thì...” hay: “...số tiền của ông thầy gởi về lần này em dùng hết để bốc mộ vợ em, đưa nó về nằm gần với ông bà cha mẹ, chờ em xuống nằm chung với nó cho đỡ lạnh chưn”…. Đặc biệt là có một thư rất vui: “ Ông thầy biết hông, thằng con lớn của em vừa mới ra kỹ sư. Đó là nhờ bốn năm nay ông thầy cho nó tiền đóng học phí. Từ đây thằng anh sẽ lo cho mấy đứa em”. Còn những bức hình thì có thể làm bà Phước xúc động: hình chụp hạ sĩ Cang bò trườn trên bến bắc, cố mời một ông khách mua vé số; hay hình trung sĩ Lộc có đôi mắt trũng sâu như hai cái hố thẳm, quần áo, mủ nón, tay chân rách nát, chỉ có cây gậy trên tay là còn nguyên hình dáng. Bà Phước biết Cang và Lộc từ khi hai người lính này phục vụ trong đại đội của ông Phước. Cứ như vậy mà ông Phước thi hành chiến thuật tầm ăn dâu, thỉnh thoảng cho vợ đọc những bức thư hay xem vài tấm ảnh, hay những khi vợ chồng vui chuyện, ông Phước nói về người này, người nọ nhờ món tiền của ông gởi về mà giải quyết được bao nhiêu vấn đề khó khăn. Nhứt là những món tiền gởi vào dịp Tết tuy không nhiều nhưng niềm vui của họ thì thật nhiều; niềm vui của ông còn nhiều hơn nữa! Mới nghe vài lần đầu bà Phước ậm ừ cho qua.  Những lần sau bà có ý hỏi lại hay góp vài lời. Qua thời gian, sắt đá còn phải mòn, huống chi là lòng người. Ông Phước nghĩ như vậy. Còn đối với các con thì ông nói chuyện với chúng nó về những gì đang xảy ra tại đây, một cách cụ thể, giấy trắng mực đen hẳn hòi.  Chẳng hạn như chuyện Hội Người Cùi Việt Nam tại Nam Cali kết hợp với Hội Blessed Damien Society thuộc giáo phận New Orleans ở tiểu bang Louisiana làm bao nhiêu việc tốt đẹp cho người cùi Việt Nam từ cả chục năm nay. Bác sĩ trẻ Trần Mai Khanh là điển hình của những tấm lòng vàng nầy. Chỉ cần 140 dollars tiền thuốc men là có thể chữa hết bịnh cùi cho một người cùi. Hay nói ngược lại: vì không có đủ 140 dollars mà một người cùi phải chịu khổ suốt đời, chịu rụng tay, rụng chân, mù mắt.... Nghe như vậy có đứa gục gặt đầu ra điều thông cảm. Cô dâu Tô Cách Lan thì cứ  really, really liền miệng, có vẻ xúc động. Bà Phước tuy không trực tiếp ngồi nghe nhưng coi bộ đồng tình. Ông Phước ghi cho các con cái web site của Hội để chúng nó tìm hiểu thêm. Cũng như ông Phước đã nói về Quỹ Từ Thiện Têrêsa cho các con nghe. Chúng nó có vẻ thích thú khi biết chỉ cần 2 dollars là mua 10 kí gạo cho một người già ở Việt Nam có cơm ăn một tháng. Xem như vậy thì làm nhân đạo đâu có tốn tiền, tốn sức nhiều ! Hôm người phụ trách Quỹ Từ Thiện Têrêsa là Phó tế Vũ Thành An từ Portland về Houston tổ chức một buổi họp mặt, ông Phước rất ngạc nhiên là chỉ cần một lời đề nghị của ông mà cả gia đình đều muốn đi tham dự để biết thêm về quỹ từ thiện nầy. Bữa đó về nhà cô dâu Tô Cách Lan và bà mẹ chồng nói nhiều về chuyện này. Họ còn biết hơn ông là hiện đã có cả ngàn cụ tại Việt Nam đang được sự trợ cấp này. Tình hình trong ngôi nhà này có vẻ khả quan lắm. Tằm ăn dâu mà! Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Phước biết chẳng sớm thì muộn cả nhà sẽ cùng góp sức với ông. Tiên trị kỳ gia, hậu trị kỳ quốc. Giải quyết xong những người nhà, ông Phước sẽ gợi ý với những bằng hữu khác, tại đây và tại các nơi khác... Rồi cả ngàn thùng “Aluminium Cans Only” sẽ rải đều khắp nơi.  

      

    Việc thiện thì nhiều, nhưng mỗi người một tay thì sẽ...vỗ nên bộp. Người xưa đã nói  vậy rồi.

    Ông Phước bỗng nhớ ra là mình đã nghĩ ngợi quá nhiều trên giường bịnh.

    Ba tuần lễ nay chuyện giúp người cùi hay người già xảy ra như thế nào ở nhà thì ông Phước không biết. Ông chỉ biết là ông nằm đây cả tháng thì làm sao mà đi lượm hộp lon, mấy cái thùng “Aluminium Cans Only” của ông chắc đã đầy ứ. Nằm đây thì làm sao mà có tiền gởi về kịp đầu tháng tới. Hôm nay đã gần cuối tháng rồi. Tết cũng cận kề rồi.

 

    Đêm nay ông Phước suy nghĩ nhiều quá, khiến ông mất ngủ.

 

                                                              xxx

 

    Cuối cùng thì ông Phước được xuất viện với cái chân băng bột. Ông có thể xê dịch chút ít được với cây nạng. Chân ông coi như không có vấn đề. Ruột gan ông cũng không có vấn đề gì. Nhưng khi về đến nhà, vào căn phòng riêng của ông thì lòng dạ ông có vấn đề. Ông Phước thấy những tấm giấy biên nhận gởi tiền để trên bàn ngủ của ông. Tên người gởi là tên vợ ông, còn tên người nhận trên các hóa đơn là Cang, là Lộc, là Nam, là An, Thiện, Đồng... Ngày gởi thì mới hôm qua, ngày đầu tháng. Ông Phước thấy tim mình quả thật có vấn đề, nó đập liên hồi, đập không thứ tự, điều mà ông không gặp từ thật nhiều năm nay. Cầm những tờ biên nhận gởi tiền mà tay ông run. Tên vợ ông đó. Tên những người bạn nghèo khổ của ông đó. Ông đâu có hoa mắt, đâu có lầm lẫn gì. Ông Phước với tay cầm cây nạng, lê bước về phía cửa sổ, ông biết trời hôm nay phải đẹp. Ông muốn nhìn bầu trời đẹp hôm nay. Ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh, không gợn môt chút mây, ông nghĩ tới những nụ cười của bằng hữu quê nhà, rồi nhìn xuống phía cuối sân sau, chỗ góc sân bên trái, nơi ông dùng để chứa hộp lon. Trời! Có thật không đây? Niềm vui òa vỡ. Ông Phước thấy một đống lon đầy vun. Rõ ràng mà! Một đống lon đầy vun! Hai mắt ông Phước bây giờ tuy có ướt nhưng ông không lầm lẫn đâu. Ông thấy rõ mà. Ông nhớ trước khi bị tai nạn ông đã bán hết số lon. Bây giờ một đống lon đầy tại góc sân, không có một tấm vỉ thiếc nào che chắn hết. Một đống lon đầy đó bà con ơi! Dưới ánh nắng chiều, màu sắc từ các hộp lon như nhảy múa rộn ràng. Từ hồi nào mà vợ con ông đã mở lòng, đã xăn tay áo làm công việc của ông vậy cà? Như vậy là quà Tết cũng sẽ đến sớm như mọi năm. Mùa Xuân năm nay cũng đến sớm với bằng hữu của ông, như mười mấy năm qua.

 

    Ông Phước thấy lòng mình no đầy một niềm vui, và gan ruột ông cũng đang rộn ràng nhảy múa.

 

    Tết chưa đến mà ông Phước nghe có tiếng pháo nổ thật giòn và thật rộn rã. Nghe như pháo tết của quê nhà.

 

Trần Bang Thạch

CHẤP CHỚI BÀN TAY MẸ

 Trong một tấm hình trên báo, bé Jordan gợi cho ta hình ảnh một tàn binh đang lang thang trên trận địa hoang tàn sau trận đánh long trời lở đất. Chiếc mũ lưỡi trai nhà binh trên đầu, cái bình đựng nước bên hông, một cây gậy trên tay, thằng bé sáu tuổi nầy đang khập khiễng chui qua những thân cây ngã, lội qua những con lạch, bước qua những mãnh tôn, những gỗ ván gạch đá, rác rưỡi. Cả một vùng rộng lớn nầy với đầy chướng ngại sau trận cuồng phong hai hôm trước hình như không một nơi nào thiếu bước chân của bé Jordan. Suốt một ngày trời, bé Jordan đã thấy hằng ngàn cây nhỏ, cây to đứt ngọn, những tấm tôn quấn quanh các thân cây như tấm giấy thiếc bọc chiếc hotdog. Khóm cây pecan sau nhà mà Jordan thường leo trèo nay chỉ là những thân cây cụt ngọn, còn sót những cành treo lủng lẳng như những cánh tay gãy.

Giữa những hoang tàn đỗ nát đó, bé Jordan đã tìm lại được nhiều thứ lắm. Trước hết là chiếc xe hơi của mẹ. Chiếc xe bị đè dưới một thân cây to, mui xe dẹp gần tới tay lái, các cửa kính đã bể nát. Một bức ảnh trên báo chụp Jordan đang đứng trên cái thùng gỗ để đủ cao nhìn vào bên trong cửa xe. Chiếc xe nầy từ bao năm nay, dù mưa giông, dù nắng gió, mẹ đã đưa đón Jordan từ những năm nhà trẻ cho đến nay là năm Jordan học lớp một. Chiếc xe nằm đây mà mẹ thì đâu rồi! Cây gậy đánh khúc côn cầu của Jordan nằm chơ vơ bên chiếc thùng phuy móp méo cạnh khung gỗ của cái sofa. Ðôi găng tay chơi banh thì vắt vẻo trên một nhánh cây cao. Và chiếc xích đu. Chiếc xích đu mẹ đã mất trọn một tuần nghỉ phép để cưa, để đục, sơn phết, rồi hì hục leo lên cây sồi trước nhà máng hai sợi dây xích vào một nhánh to. Sau đó gần như mỗi năm, mẹ lại hì hục trèo lên nhánh cây để thâu ngắn hai sợi dây xích theo chiều cao lớn của Jordan. Chiếc xích đu bây giờ nằm lăn lóc trong vũng nước cạn, lấm lem bùn sình. Cái màu đỏ tươi của những miếng ván đã bay đâu mất. Bé Jordan nhớ lắm cái ngày bé nằng nặc đòi mẹ phải thay màu cam bằng màu lục; rồi ít lâu sau Jordan lại khóc lóc đòi mẹ thay màu lục bằng màu đỏ. Mỗi lần như vậy mẹ đã phải tháo gỡ cái đu xuống, dùng giấy nhám đánh đi từ những mãng sơn nhỏ trên mấy miếng gỗ, rồi tỉ mỉ sơn lên màu khác. Mẹ vừa làm vừa hát những bài hát thật vui. Mẹ nói mẹ muốn chính mẹ tự tay làm cái xích đu nầy cho Jordan, theo ý thích của Jordan. Jordan không thể hiểu mẹ muốn nói gì, lúc đó. Nay thì cái xích đu đã bay xa khỏi thân cây cổ thụ mà Jordan vẫn chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa câu nói của mẹ. Jordan cũng tìm thấy mấy bức ảnh gia đình. Có một bức chụp mẹ và Jordan đang xích đu, chân mẹ đong đưa, một tay mẹ quàng cổ Jordan, một tay mẹ cầm quyển truyện nhi đồng đang mở rộng. Jordan nhớ quá những buổi chiều mẹ con say sưa hay buồn vui ngậm ngùi theo từng chuyện cổ tích. Những cánh chim trên cành cao như cũng ân cần góp chuyện. Lạch nước kế bên miên man chảy, hình như không bao giờ ngưng những tiếng róc rách, thầm thì. Lòng của Jordan hình như lúc nào cũng ấm vì hơi thở của mẹ miên man phả chung quanh cho dù Jordan đang ở trường hay đang chạy chơi nơi một góc vườn hay một góc phố. Còn tiếng nói của mẹ hình như lúc nào cũng róc rách, thầm thì bên tai, ân cần, ngọt dịu, thương yêu, trìu mến. Mẹ là cả một thế giới riêng của Jordan.

             Mẹ Kara từ hồi nào đã là con lạch nước bên nhà, là cây sồi cổ thụ trước nhà, là cả một vườn pecan rợp bóng sau nhà, là chái nhà, là góc bếp. Căn mobile home nhỏ nhoi như một túp nhà chòi nhưng đầy tiếng cười, giọng hát của hai mẹ con. Mẹ thấp thoáng trong dáng dấp những bà tiên hiền từ mẹ đã kể cho Jordan nghe trong những đêm hai mẹ con ôm nhau nghe mưa rầm rì trên mái tôn, hay những buổi chiều êm ả hai mẹ con tay trong tay đi dưới vòm pecan cao nghệu. Mẹ là vòng tay ôm, là hơi thở ấm. Vậy mà bỗng chốc mẹ hoàn toàn biến mất. Mẹ đã biến mất hoàn toàn. Jordan không thể nào tin được điều ấy. Chẳng lẽ sau một cơn lốc dữ mẹ cũng biến dạng như cả một rừng cây nầy, như căn mobile home nầy, như cái xe móp méo kia? Hay mẹ vốn là một bà tiên, giữa cơn phong ba đã bay về cõi khác? Không. Chắc chắn mẹ đang ở quanh đây. Mẹ Kara thương yêu Jordan lắm mà. Mẹ sẽ không bỏ Jordan mà đi đâu hết. Mẹ đang thất lạc ở một nơi nào đó, hay đang bị kẹt dưới một gốc cây to. Mẹ. Mẹ. Mẹ. Jordan đã trăm ngàn lần gọi mẹ suốt một ngày nay, gọi khan cả tiếng, gọi nát cả tim, gọi bong cả phổi. Jordan đã nằm bịnh viện mấy hôm nay để được băng bó ba cái xương sườn gãy, được chửa trị cái chân sưng vù và cái lưng đầy vết trầy trụa. Ðây là lần đầu tiên trong đời Jordan thiếu mẹ bên cạnh khi Jordan đau ốm, nhất là khi phải nằm bệnh viện. Vừa ra khỏi bịnh viện sáng nay, Jordan đã nói với bà ngoại , “Chúng ta phải đi tìm Mẹ”. Rồi với đôi giày bố và cây gậy, cái mũ và bi-đông nước, Jordan đã khập khiễng trở về căn nhà giờ đây chỉ là một đống ngổn ngang những tôn, những ván giữa những thân cây gãy ngọn. Nơi trú ngụ đã không còn, chắc mẹ đang lẩn quẩn đâu đây. Jordan nhớ rõ lắm mà: Mới ngày hôm kia, trong cơn lốc xoáy dữ dội, căn mobile home rung rinh như cành cây bị gió giật trên cao. Các cửa kính đã bể hết. Mẹ đã ôm chặt Jordan. Rồi mấy miếng tôn trên mái lần lần bay mất. Khoảng trống trên đầu là mưa, là gió, là sấm, là sét. Một cành cây lớn đã rơi ngay giữa phòng khách. Mẹ càng ôm Jordan chặt hơn, thân người bé nhỏ của mẹ như cố trùm phủ Jordan, chở che Jordan khỏi trăm ngàn mảnh vụn bay loạn đả từ tứ phương tám hướng. Tường nhà kêu răng rắc như cũng sắp bay đi. Trời tối thui nếu không có những tia chớp trên nền trời. Mẹ con lần tìm lối đi vào phòng tắm, chỗ duy nhất trong nhà còn một chút mái che. Mẹ túm tất cả mấy cái khăn lông trùm đầu và quấn quanh mình Jordan. Hai mẹ con tay chặt trong tay cùng cầu nguyện. Gió vẫn đánh sầm sập chung quanh. Tiếng bay vun vút của những cành cây gãy, những tôn, những ván , những cát, những đá....càng làm cho Jordan lạnh run thêm. Có một khắc giây nào thật là ngắn Jordan cảm thấy thân mình như được nhấc bổng, đôi tay mình nắm  một khoảng hư không chớ không phải là đôi bàn tay ướt sủng của mẹ.

         Jordan chỉ thực sự thấy mất mẹ khi được chú Jim hàng xóm kéo lên từ con lạch gần nhà.

         Vừa thất thểu đi tìm mẹ, bé Jordan cứ nói với những người bé gặp trên đường, “Phải chi mình nắm tay Mẹ chặt hơn nữa, chặt hơn nữa”. Bé vừa khập khiễng đi vừa nói, “Phải chi...Phải chi ....” Bé Jordan bây giờ là một kẻ mộng du trên vùng đất vừa quen thuộc vừa lạ lùng, ác độc.

 

                                                                      xXXx

 

              Em Jordan thương quí,

 

         Mấy hôm nay anh có theo dõi cơn thần phong ở Oklahoma qua truyền hình và báo chí. Anh biết đó là một cơn lốc dữ dội có cây ngã, có nhà cửa bị cuốn đi, có người chết và mất tích. Thực tâm anh có thương cảm cho các nạn nhân, có, nhưng không nhiều. Cho đến hôm nay được nhìn mấy tấm ảnh của em trên tờ báo địa phương và được đọc một bài báo ngắn về em, anh đã xúc động thật nhiều. Anh như thấy trước mặt mình đứa bé sáu tuổi ở cái thị trấn Bridge Creek xa xôi, lạ hoắc kia là một biểu tượng tuyệt vời, đầy ý nghĩa đối với anh.

         Jordan ơi, em có muốn biết anh là ai không? Anh là người đang muốn được là em bây giờ đó. Anh đang muốn là đứa bé con sáu tuổi luôn nghĩ rằng mẹ mình đang bị lạc đường để suốt ngày lang thang tìm mẹ, suốt ngày chơi trò trốn tìm cùng mẹ. Thật là hạnh phúc cho em khi em không tin lời xác nhận của người giảo nghiệm tử thi. Lão nói gì mặc lão. Bà ngoại Mary, dì Susan, cậu Steve, chỉ là những người mau nước mắt thôi. Bà Dì Darlene còn nói lằng nhằng nào là từ nay Jordan phải ở với Ngoại, nào là Jordan phải nghe lời Ngoại.... Jordan thấy những lời nầy sao lạ tai quá! Mẹ Kara của Jordan chắc đang ở một nơi nào đó. Trên một tầng mây cao, hay một chân đồi thấp. Ở đâu thì Mẹ Kara vẫn kề cận bên em đó Jordan ạ. Em là người con xứng đáng được mẹ thương yêu cận kề. Còn anh, Jordan biết không, anh ước muốn được trở lại cái tuổi ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng như em, như hằng trăm ngàn trẻ thơ khác được mẹ ấp ủ trong lòng, được nói với mẹ muôn lời thương yêu. Ước muốn, có nghĩa là trong thực tế anh đã qua rồi cái tuổi ngây thơ của em. Hai mươi sáu năm làm người (hay nói cho đúng là hai mươi sáu năm có mặt trên đời), anh đã có tám năm làm người con bất hiếu, anh đã có quá nhiều tội lỗi đối với mẹ; khi nhận biết điều nầy thì mẹ đã không còn nơi cõi thế nầy cho anh nói lời xin lỗi hay bày tỏ một cử chỉ yêu thương, và ôm mẹ mà nói rằng: Mẹ ơi con thương Mẹ vô cùng.

             Jordan à, chuyện của anh thì buồn lắm, anh không định kể cho em nghe vì không muốn em lây cái buồn của anh. Nhưng anh nghĩ rồi đây sau những ngày lặn lội đi tìm mẹ, sẽ có lúc em cảm thấy buồn. Và anh cũng biết một ngày nào đó em sẽ buồn lắm, buồn vô cùng tận. Nghe chuyện buồn của anh có thể làm em bớt buồn chăng, vì em biết có một người lạ hoắc lạ huơ ở một nơi xa xôi nầy đang muốn cùng em chia sẻ nỗi buồn mất mẹ, nỗi buồn lớn nhất của một đời người đó em.

              Nói chuyện với em cũng là một cái cớ: anh đang nói với chính mình, đang mượn những lời nầy để mong làm dịu bớt nỗi buồn của mình. Cho nên em đừng nên cảm thấy xốn xang khi em không thể hiểu  hết những điều anh nói, nhe em.

 

              Tấn thảm kịch hình như chỉ thật sự bắt đầu tám năm trước khi anh vừa xong trung học và quyết định theo đại học tại một trường cách xa nhà hơn ba giờ lái xe.

         - Như vậy là con thật sự muốn sống xa gia đình ?

         - Con đâu có nói như vậy. Con chỉ muốn đi học trường con thích thôi.

         - Hay là mẹ con mình dời đến thành phố đó ở cho tiện ?

         - Con thấy không cần thiết đâu.

         - Nếu má thấy cần thiết thì sao ?

         - Còn nhà cửa, việc làm của má ở đây ?

         - Ðối với má, có cái gì trên đời nầy quí hơn con của má, hả con ?

         - Má tính sao cũng được hết.

         Thâm tâm anh là muốn có một đời sống tự do không bị dòm ngó, ràng buộc; mà mẹ anh thì hình như lúc nào cũng dòm, cũng ngó, cũng nhắc nhở, hỏi han, cũng ngăn cái nầy, cấm cái nọ... nên anh đã nói dối một cách rất tài tình :

         - Má cứ ở đây. Có gia đình bên cạnh học hành khó khăn lắm. Vài tuần con sẽ về một lần.

         - ...

         Từ đó anh như con chim chưa đủ lông, đủ cánh nhưng sớm sổ lồng, nên đã bước những bước chuệnh choạng, nghiêng bên nầy, ngã bên kia, lắm lúc lạc phương, lạc hướng. Bắt đầu năm học thứ hai anh đã có một vài lầm lỗi cá nhân trầm trọng. Tuy ở xa nhưng với giác quan thứ sáu của người mẹ, mẹ anh đã có vài lần dạm hỏi anh về chuyện nầy chuyện nọ. Sau nầy em sẽ biết là khi ta có một lỗi lầm nào đó, ta ít khi muốn gặp gỡ hay chuyện trò với những người thân, những người hằng quan tâm đến ta, nhất là cha mẹ ta. Cụ thể là càng ngày anh càng thấy xa mẹ, thấy mất dần những sự ràng buộc gia đình. Anh ít khi điện thoại về nhà. Những lần về nhà cũng càng ngày càng thưa. Mẹ anh thì vẫn đều đặn gọi anh mỗi tuần đôi lần như từ trước. Không gọi được ban ngày, mẹ gọi anh khi nửa đêm hay lúc một hai giờ sáng để mẹ được an tâm. Số lần mẹ nhắn tin trên máy nhiều gấp trăm lần mẹ con trực tiếp nói chuyện với nhau. Mẹ anh thì chỉ có thể lái xe loanh quanh vài dặm từ nhà đến chỗ làm, đâu có lái được trên xa lộ, nhất là lái đường xa vài trăm dặm, nên họa hoằng lắm mẹ mới quá giang người quen đi thăm anh. Vài lần mẹ đi không rồi về không vì không gặp con. Hình như những lúc đó anh bận những gì khác, không phải là bận chuyện sách đèn trường ốc. Nhưng khi mẹ hỏi, anh chỉ có thể trả lời là bận học cho an ổn mọi bề.

         Tình trạng cứ như vậy mà kéo dài cho đến hết niên học thứ tư là năm anh đỗ bằng cử nhân thương mại, ngành quản trị xí nghiệp. Lúc bấy giờ mẹ anh đã muốn trực tiếp can thiệp vào công việc của anh, điều mà từ lâu anh đã không bằng lòng. Cho nên chẳng những không về gần mẹ như mẹ muốn mà anh còn đi xa hơn, tới một tiểu bang khác, lấy cớ là có được một việc làm lương cao, giờ giấc không bị bó buộc nên thuận tiện cho việc tiếp tục học để lấy bằng cao hơn. Anh nhớ như in cái khắc giây ngay sau khi mẹ nghe anh tính toán như thế: lưng mẹ đang cong oằn trên cái bàn may máy, đầu mẹ cố ngẩng lên nhìn anh đang đứng cao lêu nghêu kế bên, miệng mẹ mở rộng mà không nói lên được tiếng nào. Anh thấy rõ đôi mắt mẹ đỏ lên sau đôi tròng kính lão, và hai hàng nước mắt. Jordan ơi, hai hàng nước mắt, hai hàng nước mắt của mẹ đêm hôm ấy, bây giờ là hai con trốt xoáy trong lòng anh mãi cho đến suốt đời.

         Vài ngày sau anh khăn gói đi nhận việc ở tiểu bang xa. Sáng hôm đó, trước giờ ra sân bay, mẹ còn cẩn thận nhắc anh nhớ đem theo các giấy tờ cần thiết và cái túi nhỏ mẹ để sẵn những thuốc men trị bịnh thông thường. Mẹ đứng ngay cửa tiễn anh đi. Anh đã bước qua khung cửa, chỉ kịp nói với mẹ: con đi. Vỏn vẹn hai chữ ấy. Và không có một cử chỉ thân yêu nào. Anh nghe tiếng khóc của mẹ sau lưng.

           Ði làm xa nhà, chi tiêu nhiều, đồng lương có cao nhưng anh có giữ lại được bao nhiêu đâu. Mẹ anh vẫn ngày ngày đi quét dọn mấy tòa biệt thự gần nhà, đêm đêm thức đến khuya lơ khuya lắt bên chiếc máy may, bên đống áo quần vải vóc. Một mình một bóng.

         Jordan ơi, một đồng lương của anh đã chưa nằm trong túi mẹ, cái bằng MBA anh chưa có trong tay mà anh đã vĩnh viễn mất đi người mẹ của anh rồi !

                                                

                                                                  xxXxx

              

                 Con trai yêu của má,

                

          Má không biết phải bắt đầu từ đâu và phải ăn nói thế nào để con còn có thể đọc tiếp lá thư nầy. Má nhớ mẹ con mình hơi khó chuyện trò với nhau vì má vốn ít học, ăn nói luộm thuộm, rầy trách không có căn cứ mà diễn tả lại không rõ ràng, nên ít khi mình đưa câu chuyện đến bờ đến bến; thường thì má đành yên lặng, tiếp tục việc may vá, còn con thì hoặc lớn tiếng với má bằng lý nầy lẽ nọ hay không nói gì hết, không nghe gì hết mà chỉ việc bỏ đi. Nghĩ cũng kỳ: mẹ muốn bàn chuyện với con mình mà phải chờ cơ hội, phải thế nầy, thế nọ, phải chuẩn bị kỹ lưỡng những lập luận, phải ăn nói tế nhị, mềm mỏng để không chạm tự ái con, phải biết tiến, biết thối... Cho nên có biết bao nhiêu chuyện má muốn nói với con mà nào có cơ hội, trong đó có chứng tức ngực thường xuyên từ vài năm nay của má, mà nếu có cơ hội liệu má nói với con được bao nhiêu và con nghe má được bao nhiêu. Trên cái xứ lạ quê người nầy chỉ có hai mẹ con mình là gần gũi nhất, mà không thường được chuyện trò vui vẻ với nhau thì chắc không có nỗi bi đát nào hơn phải không con? Ở những ngày tháng gần xa con vĩnh viễn như bây giờ má thấy má muốn nói với con vài điều, kẽo má không còn dịp nào nữa. Mà không nói với con được những điều nầy thì khi chết làm sao má nhắm mắt được hỡ con?

          Trước hết má muốn nói thật lớn với con rằng má yêu thương con lắm. Má cứ thắc mắc hoài điều nầy: Má đã có lỗi gì với con đến nỗi hình như con không còn thương yêu má nữa. Má cạn nghĩ ví dù cha mẹ có làm lỗi với các con chẳng lẽ không được con cái tha thứ hay sao? Ngược lại lỗi lầm của con lớn cách mấy mà con cho má biết má cũng tha thứ và tìm cách giúp đỡ con hoàn thiện. Má biết con cứ nghĩ là má chỉ thương anh chị con với đám cháu nội ngoại ở quê nhà nên má phải cật lực làm hai ba công việc để gởi tiền về. Người mẹ nào cũng yêu thương các con bằng nhau hết. Còn việc con cứ muốn sống xa má, muốn được tự do bay nhảy, tự do phung phí đồng tiền và tuổi trẻ, chứng tỏ rằng con quá ích kỹ, chỉ biết có mình, cả mẹ mình mà mình còn không nghĩ đến thì rồi đây con sẽ làm được gì cho người khác. Má dốt nát không biết cái bằng cử nhân, cao học của con nó lớn thế nào nhưng má biết trái tim con chưa đủ lớn để làm người, nhất là làm người con; cái tài quản trị xí nghiệp của con má không biết đã tuyệt vời đến đâu nhưng trong cái ý nghĩ nông cạn của má con chưa biết quản trị cuộc đời của chính con. Má ít học nhưng có một câu mà má còn nhớ nằm lòng, là : Có học phải có hạnh. Con có học, có bằng cấp nầy nọ, má có thấy mừng nhưng cũng thấy buồn: con đã không có cái hạnh, không có cái hiếu để, không có cái lòng vị tha. Mẹ mình càng ngày càng già cả bệnh tật, mà cứ làm lụng vất vả. Sao con không nghĩ một ngày nào đó người hàng xóm tình cờ khám phá thân xác má đã nguội lạnh từ lâu mà không ai biết sớm?

          Ðôi bàn tay của má ở gần mà con không chịu nắm thì nói gì đến việc nắm tay các anh, chị, các cháu của con ở quê nhà, hay nắm tay người khác.

          Linh hồn má sẽ hoài hoài cầu nguyện cho con để con sớm NÊN NGƯỜI.

         Má của con, người suốt đời thương yêu con.

 

                                                        xxXxx

 

         Jordan thương quí,

 

         Lá thư trên đây mẹ anh viết cho anh nhưng có lẽ người không muốn cho anh đọc nên đã để một chỗ rất khó thấy. Anh chỉ tìm được sau gần một tháng an táng mẹ.

         Em, đứa bé sáu tuổi, đã nắm thật chặt tay mẹ em trong cơn lốc dữ, vậy mà em, đứa bé sáu tuổi, cứ hối hận là để vuột tay mẹ và cứ ngày ngày đi tìm mẹ. Còn anh, tay mẹ cứ đưa ra, cứ chấp chới đưa ra cho đến cuối đời mà anh không chịu nắm lấy một lần!

 

 

TRẦN BANG THẠCH

Khởi đi từ cái ngày 30/4 ấy....

 

Người ngậm tăm suốt ngày

 

Không biết có nên gọi ông Lê là người ngậm tăm suốt ngày hay suốt đời. Thật sự thì quỹ thời gian của ông Lê gần cạn, cho nên ông có ngậm tăm suốt ngày, suốt tháng hay suốt đời không phải là điều cần quan tâm. Cái mà có người muốn biết là tại sao lúc nào gặp ông Lê là thấy cây tăm xĩa răng trên miệng, như là vật bất ly thân. Ăn xong buổi trưa, ông phóng cây tăm nằm giữa đôi môi thì có thể hiểu được; chớ cái việc sáng sớm uống xong một tách cà phê rồi điểm tâm bằng một que tăm thì ít thấy trên đời. Có người còn tỏ vẽ thắc mắc là sao ít nghe ông Lê nói chuyện. Câu hỏi lảng xẹt: Đã thấy cây tăm lúc nào cũng nằm chình ình giữa hai hàm răng thì bắt ông phải nói bằng hai cái lổ mũi à?

Tôi thì chẳng có một thắc mắc gì về cái mục ngậm tăm này của ông. Ông Lê lúc nhỏ còn có biệt danh là Lê Câm vì cái tánh ít nói, lớn lên lúc đi học ở Sài Gòn còn thêm tên Lê Cận vì đôi mục kỉnh dày như cục đường thốt lốt lúc nào cũng ngự trên đôi mắt. Chúng tôi là đôi bạn nhỏ ở Ba Chúc, Xà Tón thuộc vùng Bảy Núi, nơi được coi là đất Phật. Hầu hết gia đình ở vùng Xà Tón, sau còn gọi là Tri Tôn, theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nên người ta có đời sống như người cư sĩ, ít nói, ít bon chen, thuần hậu, chất phác, ăn mặc áo quần kín đáo màu nâu hay đen, đàn ông bới tóc như đàn bà, nhưng cái búi tóc thì nhỏ hơn. Người ta nói tóc tai cũng là của cha mẹ, không được phí phạm. Thời còn nhỏ khi chưa biết đọc, chúng tôi đã thuộc nằm lòng câu thơ của Đức Phật Thầy Tây An: "Loài cầm thú còn hay biết ổ, huống chi người nỡ bỏ Tứ Ân". Thuộc thì đứa trẻ nhỏ nào trong làng cũng thuộc, nhưng 4 cái Ân hầu như bọn trẻ chỉ biết có 1 là Ân Tổ Tiên,Cha Mẹ; còn 3 cái Ân khác như Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo và Ân Đồng Bào Nhân Loại, mà kẻ xuất gia gọi là Ân Đàn Na Thí Chủ thì lớn lên chúng tôi mới hiểu. Thời niên thiếu của ông Lê và tôi thì đa số thanh niên không còn bới tóc, nhưng đời sống vẫn còn ít nhiều khép kín. Có những người già lão cả đời chưa thấy cái đồng hồ trước nhà chợ Sài Gòn. Có lẽ vì Xà Tón, Ba Chúc nằm lọt thõm giữa một bên là các dãy Liên Hoa Sơn, Ngọa Long Sơn và Thiên Cấm Sơn hùng vĩ, ngăn che phần nào sự tiếp xúc của người Ba Chúc với các vùng lân cận, và một bên là cánh rừng bát ngát tiếp giáp với nước láng giềng Campuchia. Chen giữa những dãy núi là rừng gỗ quí, gỗ tạp, cỏ tranh và cây thốt lốt. Con đường liên tỉnh từ Châu Đốc đi Rạch Giá, Hà Tiên qua ngả Tri Tôn đã không sử dụng được từ khoảng đầu thập niên sáu mươi, một phần vì đường thấp, hay ngập lụt nên lồi lõm, khúc khuỷa, một phần vì có những đoạn đường thường bị đắp mô, phá cầu, cắt đường; cho nên những sinh hoạt ồ ạt của nền văn minh thị tứ cũng chậm tới vùng Lương Phi, Châu Lang, Ba Chúc...Đến những tháng ngày sau tháng Tư 75 thì vùng Xà Tón, đặc biệt là xã Ba Chúc có nhiều biến động làm thay đổi nếp sống an bần đạo hạnh của cư dân. Gia đình ai cũng có người đi tù vì mang tội ngụy quân ngụy quyền, có người vượt biên rồi mất tích. Nhiều gia đình có người thân từ Bắc hay từ vùng sâu trở về tạo nên những tranh chấp về chánh kiến, về đất đai, tài sản, có khi chồng vợ dỡ khóc dỡ cười sau mấy mươi năm ly biệt. Ở một nơi mà ai cũng thương nhau từ trong nhà ra ngõ, đến đầu làng cuối xóm, đã mấy trăm năm nay, bỗng nhiên sau một cuộc thương hải biến vi tang điền, người trong gia đình cũng tranh chấp nhau, thì Ba Chúc đã biến dạng quá nhiều. Biến cố lớn nhứt là cuộc tấn công của Khờ Me Đỏ Pôn Pốt năm 78 sát hại cả ngàn đồng bào Ba Chúc. Cả gia đình của ông Lê 9 người gồm cha mẹ và các anh chị em đã cùng chết thảm bên trong chùa Phi Lai. Trong tù ông Lê có nghe tin, chỉ biết từ xa, từ bên trong vòng rào kẽm gai, mà ngóng về. Ông đã uất ức khóc đến chảy máu mắt. Ở tù trở về năm 82, gã trung niên thất thế sa cơ, thất điên bát đảo và thất chí Trần Văn Lê như người mất trí. Ông vốn là người ít nói, nay ông càng âm thầm lặng lẽ hơn; nếu có mở miệng thì hình như ông chỉ nói với những bóng hình khuất mặt. Trước khi ông Lê cùng gia đình vượt biên bằng đường bộ qua ngả Cam Bốt giữa năm 83, tôi có gặp ông nhiều lần. Mãi đến đầu năm 94 khi tôi theo diện HO sang Mỹ tôi mới gặp lại ông. Ông vẫn ít nói như hồi nào.

"Tất cả là ác mộng. Là ác mộng, ông à."

"Tôi tưởng cả chục năm qua ông đã quên hết chuyện cũ"

"Có những chuyện muốn quên thì càng thêm nhớ".

"Thì cũng cố mà quên hết. Như một đoạn đời đã trôi qua"

"Ừ, một đoạn đời dù thảm khốc cách mấy thì cũng phải trôi qua; nhưng vẫn còn đó cả ngàn chiếc sọ người và còn đó bàn tay nhỏ vấy máu vẫn bám dính trên chưn tường chùa Phi Lai quê mình".

"Nhớ làm chi những chuyện ấy cho thêm mệt. Cuộc sống quá đỗi chóng mặt nơi đây chưa đủ làm ông ngất ngư sao?"

"Trái lại ông ạ. Rồi thì ông cũng sẽ như tôi. Muốn không nhớ cũng không được. Tôi vẫn nghe đâu đó quanh đây tiếng đọc kinh rầm rì của má tôi nơi bàn thông thiên trước sân mỗi buổi tối. Bên tai tôi vẫn có tiếng chó hoang tru đêm trên sườn núi Cấm. Nhớ những ngày gạo sấy, lương khô. Nhớ người bạn tù bỏ xác ngoài vòng kẽm gai trại Hàm Tân. Không ai nhắc mà sao cứ nhớ hoài một đất nước đã bỏ lại!".

"Ông làm tôi nhớ  chuyện xưa. Ngày xưa Việt Vương Câu Tiễn phải nằm gai, nếm mật, phải nếm phân kẻ thù, và phải nhờ thuộc tướng nhắc nhở hàng ngày để không quên cái hận vong quốc".

"Bây giờ thì ông đã thông rồi đó. Sự ra đi tức tưởi hôm nay chính là lời nhắc nhở hùng hồn nhứt trong lòng mỗi người ở đây đó ông à".

Trên mặt bàn nhỏ đặt phía sau nhà ông Lê đã đầy những lon bia không. Hôm ấy, lần đầu tiên gặp lại người bạn cũ sau nhiều năm, ông Lê đã nói nhiều hơn trước. Và ông chỉ nói nhiều đêm hôm ấy. Tôi thấy ông Lê đã không say vì bia rượu mà ông chếnh choáng vì chất men của một quá khứ não nùng. Rõ ràng một người mang tâm trạng của con chim quốc tha hương thì khó mà an vui cùng thiên hạ. Từ đó ông Lê càng ít nói hơn.

Sau đó tôi gặp ông Lê hàng ngày tại sở làm khi tôi được ông giới thiệu vào làm cùng công ty với ông. Nhờ đó tôi biết thêm nhiều điều đã khiến ông Lê suốt ngày ngậm tăm, ít nói.

Ông Lê suốt ngày ngậm tăm. Điều này thì ai cũng đã thấy từ lâu. Nhiều người cũng không hơi đâu mà để ý hay tỏ vẻ thắc mắc.  Làm việc với ông vài tháng là tôi biết rõ lý do ngậm tăm của người bạn mình. Chỗ chúng tôi làm là một hãng sản xuất và chế biến hàng trăm sản phẩm hóa chất dùng cho ngành nông nghiệp cung cấp cho nội địa và cho cả những nước khác. Công ty tọa lạc trên gần trăm mẫu đất nằm dọc Hải Cảng Houston. Trên bờ là cả trăm bồn chứa to cao như tòa nhà nhiều từng, là hàng trăm toa xe lửa và xe vận tải 18 bánh vận chuyển hàng hóa tới lui hàng ngày. Dưới bến sông lúc nào cũng có ít nhứt một chiếc tàu hàng to như dãy building trên mặt nước, đèn đuốc sáng choang, thủy thủ và người bốc dỡ hàng lên xuống tấp nập. Máy móc thì chỗ này, chỗ nọ ầm ì chạy suốt ngày đêm. Những người thợ chúng tôi mỗi người làm một chỗ, có chỗ nặng nề làm hai người, làm bằng tay chân với búa kềm bù loong mõ lết và bằng sự hiểu biết của mình, không cần thiết phải nói với nhau; khi rất cần thì liên lạc bằng điện thoại nội bộ. Là công nhân của hãng này từ hơn 20 năm nay, mỗi ngày 8 tiếng, có khi 12, hay 16 tiếng, có lúc ban ngày, có lúc ban đêm, làm bạn với những bồn chứa im lìm, những toa xe lửa lầm lì, những dàn máy ồn ào... có lẽ là một trong những nguyên nhân đã khiến ông Lê trở nên ít nói. Nói làm sao được với những khối sắt vô hồn vô tri nầy!

Về sau tôi thật là thích thú khi khám phá thêm một nguyên do khiến người bạn tôi ngậm tăm suốt ngày. Đó là việc cây tăm nhỏ xíu nằm thường trực trên môi bạn tôi chính là cái mộc che hữu hiệu để ông Lê không phải nghe hay phải nói nhiều với những xếp và những đồng nghiệp, cộng chung đến gần 30 người. Đó là những lúc đầu giờ, cuối giờ, hay lúc nghỉ giải lao và giờ ăn trưa tại phòng nghỉ công nhân, hay những khi gặp nhau tại trạm làm việc. Số là những người cai của chúng tôi từ Mỹ đen, Mỹ trắng, đến Mễ hay cả cai Việt Nam đa số là khó thương. Thật ra thì có ông cai nào mà dễ thương bao giờ, phải không? Còn các đồng nghiệp thì mỗi người mỗi vẻ, không vẻ nào giống vẻ nào và không vẻ nào là cần cho mình lê la, chuyện trò thân mật. Đó là ý nghĩ của ông bạn tôi. Tình cờ một hôm ông Lê đã tâm sự với tôi về chuyện này. Có lẽ bạn tôi vơ đũa cả nắm; nhưng nhìn kỷ vấn đề thì tôi thấy bạn tôi cũng có lý phần nào. Điểm chung của gần 30 người ở đây là thuộc thành phần cổ xanh "blue collar", chánh gốc lao động nên cử chỉ, tánh tình hay lời ăn tiếng nói cũng rất ư là bình dân lao động; câu nói thường có thói quen chen vào những tiếng tục tằn. Cũng lắm khi ông Lê tình cờ đi ngang nghe nhóm này cằn nhằn nhóm nọ, nghe người này nói chuyện người kia...Ông bạn Lê của tôi gốc người đất Phật Ba Chúc nói năng mềm mỏng, làm thầy giáo trước khi nhập ngũ, nên những tiếng chửi tục ít khi nào ông muốn nó lọt vào tai mình. Góp vào những câu chuyện thày lay như vậy thì đời nào ông muốn. Cho nên ông cứ ngậm cây tăm ngồi ở một góc phòng, hay đi về một lối khác. Người ta cũng nghĩ vì ông có cây tăm trong miệng nên không muốn tham gia chuyện vảng với họ chớ không phải vì "unfriendly". Trong sở cũng có chục người Việt, vài ba người có trình độ học vấn và hiểu biết cao. Những người này cũng ít khi nghe ông Lê thân mật trò chuyện. Điều này lúc đầu tôi cũng lấy làm thắc mắc. Nhưng nghe kỹ lại thì một lần nữa ông bạn Lê của tôi có lý. Một đồng nghiệp đã từng theo học ban Triết Đông với bạn tôi ở Văn Khoa thường giảng rất thông suốt về Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Đạo Hòa Hảo, về các Đấng, về luật Nhân Quả, về Tu Thiền, vv...Anh nói say mê như một nhà đạo học, nhưng nếu thử đối chiếu lời nói với tánh khí của anh trong lúc làm việc với nhau hàng ngày thì sao thấy có điều không ổn. Bạn tôi thuật là một lần nghe anh hiền triết nói về Phật, về tu, về Niết Bàn, bạn tôi cũng lắng nghe, nhưng cuối cùng bạn tôi phải rút cây tăm ra khỏi miệng, nói:

"Làm được một phần ngàn những lẽ Đạo anh nói chắc không phải dễ. Tui thì chỉ dám học lõm bõm ba chữ Đạo Làm Người. Học hoài mà gần hết đời vẫn chưa thuộc nửa chữ!".

Còn một đồng nghiệp Việt Nam khác thì thường nói về chống cái nầy, tẩy chay cái nọ, về lập thuyết, lập đảng, lập phong trào, vv...Có lẽ những năm đầu bạn tôi còn cho một ít vào lỗ tai, nhưng hơn hai mươi năm nay cứ nghe hoài một điệp khúc thì lỗ tai bằng sáp cũng phải thấy mệt. Một anh bạn khác cứ đọc xong mục Thư Sài Gòn trên các báo với những chuyện như bia ôm ôm bi, bóng đá đá bóng là ồm ồm kể lại, nghe như nghe chuyện dài xe cán chó. Ông bạn khác thì luôn khoe là vừa có bà hai nhí ở Thủ Thừa nhân chuyến về quê hương năm ngoái:

"Tui nói tui 64 mà Bà hai nhí đâu có tin, nó cứ nói là tui xạo: Em biết anh mới có 46 hè. Còn xuân lắm. Em biết anh có vợ mà hổng hiểu sao em vẫn thương anh quá chừng chừng. Cưng ơi là cưng!!! Tsương quá là tsương!!!"

Những chuyện như vậy thì bạn tôi không muốn nghe và không muốn góp lời là phải.

Cho nên tại sở làm bạn tôi chủ yếu dùng cây tăm để ngậm tăm cả ngày. Vừa được việc, vừa không bị mang tiếng làm cao. Bạn tôi khôn thật!

Vậy còn ở nhà thì sao? Thì vẫn như vậy. Ngậm tăm cả ngày. Bạn tôi đã cắt nghĩa ngọn ngành cho tôi nghe về chuyện lạ khó tin nhưng có thật nầy. Khó tin vì ở, ăn, ngủ... chung nhà mà vợ chồng, con cái ít nói với nhau thì chẳng lẽ ai cũng chuyện trò với cái bàn, cái ghế sao? Số là như vầy: Bạn tôi vốn ít nói, còn bà vợ thì  sang đây học được cái bằng kế toán hai năm, làm việc bàn giấy ở một công ty nhiên liệu lớn, là một "white collar" nên có vẽ làm cao với người chồng lao động chân tay của mình, nên nói năng đã nhiều lại không được mềm mõng, và hay gắt gỏng với chồng. Bà tự do mua sắm hay tự ý gởi tiền bạc về cha mẹ anh em bên nhà. Ông Lê có góp ý đôi lần; mỗi lần như vậy thì sóng thêm to, gió thêm lớn trong nhà. Từ ngày ông Lê có cây tăm trong miệng thì sóng lặng, gió êm. Nhà cửa thoạt nhìn như một tổ ấm, nhìn lâu thì thấy tổ ong!!! Tương tự như chuyện hai thằng con. Con cái làm chuyện này chuyện nọ ông Lê thấy không được, bèn góp mấy lời. Đứa nào cũng nói: "Con lớn rồi, ba khỏi phải lo!". Nói chuyện với con cái mà ông già phải lựa ý, chọn lời! Rắc rối quá! Ông Lê nhớ lúc ông đã là một đại đội trưởng mà ba má ông còn lo lắng và dặn dò ông từ chuyện nhỏ, như đừng quên đem theo chai dầu Nhị Thiên Đường lúc đi hành quân, đến chuyện lớn là nên đối xử tử tế với dân, với nước. Nhứt nhứt ông đều nghe theo và vô cùng cảm ơn cha mẹ. Ông nói năm thằng lớn xong trung học, ông muốn nó học ngành thuốc, nó nói gọn hơ:

"Sao người Việt Nam nào cũng muốn con cái làm bác sĩ, dược sĩ, luật sư! Con không thích mấy cái nầy!".

Nó không thích làm bác sĩ nhưng bây giờ dù không thích nó vẫn phải vác đơn đi xin việc; không phải ngành Quản Trị Thương Mại như đã học thì làm người bán hàng ở Gallery Furniture "you save money"; làm được vài tháng lại vác đơn xin việc chỗ khác sau khi ăn hết tiền thất nghiệp. Còn thằng em thì theo bạn bè nhuộm hai ba màu tóc, lại còn dựng đứng như rể tre. Má thì cứ áp dụng chặt chẽ phương án 4 không mà dạy dỗ con cái: không nghe, không thấy, không biết và không nói. Nhưng ông già Xà Tón thì nhịn không được, bèn có mấy tiếng la rầy nhẹ nhàng. Thằng con bỏ đi nửa ngày rồi trở về nhà với cái đầu trọc Yul Bruner! Ông già mà nói thêm vài tiếng nữa không biết cái da đầu có bị nó lột luôn không. Cho ông già hay càm ràm tức chơi!

Từ nhà ra ngõ, không còn chỗ nào là chỗ của ông bạn tôi. Thật là thương cho ông, cây quất bị bứng từ nước Yên sang trồng bên nước Tần.

 

oOo

 

Có lẽ ông bạn tôi cũng không thích suốt ngày phải ngậm tăm đâu, nhưng dầu sao cây tăm cũng là vật thiết thân, là người đồng hành của ông bây giờ. Trốn đời chỉ bằng 1 cây tăm! Ông bạn tôi cao tay thiệt!

Cái khổ là thằng tôi đây. Chẳng lẽ tôi lại bắt chước bạn mà tìm tăm để ngậm suốt ngày?

 TRẦN BANG THẠCH

BÓNG TỐI NGỌT NGÀO

 

 

         Buổi chiều cuối tuần, bịnh viện thật vắng vẻ. Các băng đá trong sân bịnh viện cũng nằm ủ rủ dưới tàn cây. Trời vừa chớm thu. Lá chưa thật sự vàng nhưng người ta đã thấy vài chiếc lá chết rơi ơ hờ trên ghế đá.

          Những ngày cuối tuần bịnh nhân thường được thân nhân đưa về nhà để đoàn tụ với con cháu. Mấy tháng đầu khi mới đưa vợ vào đây, ông Kim cũng rước bà Kim về nhà hai ngày cuối tuần. Nhưng từ hơn ba tháng nay bà Kim không chịu về nhà. Bà không nói lý do gì hết, bà chỉ không chịu bước lên xe. Nài nỉ cách mấy thì bà cũng chỉ mỉm cười, làm thinh, ngó về hướng khác.

         Ông Kim chú ý từ vài tháng nay vợ mình thích ra nơi công viên hơn là nằm trong căn phòng bịnh viện. Tại công viên bà Kim hầu như quên hẳn người chồng đang ở bên cạnh; bà còn có vẻ như không thích có ai ở gần để bà thong thả đi từ gốc cây nầy qua bồn hoa khác, lượm hòn sỏi này, nhặt chiếc lá kia. Có lẽ những chú sóc con trên cành cây hay những con chim sáo đậu trên các thành dựa ghế đá làm bà Kim thích thú nhất. Bà rón rén đến gần, nhỏ nhẹ nói chuyện với từng con. Chúng bay chuyền trước mắt bà như mời bà cùng chơi trò cút bắt. Có con chim vụt bay mất khi nghe tiếng chân bà từ xa khiến bà ngồi buồn trên ghế đá. Những khi ấy thì tốt hơn hết là ông Kim nên đứng xa mà nhìn niềm vui lẫn nỗi buồn của vợ mình.

         Hôm qua bà Tâm nói với ông Kim là chiều nay bà sẽ ghé bịnh viện. Đây không phải là lần đầu. Bà Tâm vẫn thỉnh thoảng ghé thăm vợ ông tại bịnh viện. Nhưng hôm nay thì tình cảnh hình như có cái gì khác. Hồi sáng, trên giường bịnh, bà Kim bỗng nắm tay ông Kim nói: "Bỗng nhiên em muốn anh trở thành một con chim đi tìm một cành cây khác". Ông Kim chưa kịp suy nghĩ hay có một phản ứng nào thì bà Kim đã nói chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào chẳng ra chuyện nào hết. Bà đã trở lại trạng thái nửa tỉnh nửa mê mất rồi. Vợ ông đã nghĩ gì trong một giây tỉnh thức để phát ra những lời nhắn gởi ấy? Ông Kim gọi điện thoại bảo bà Tâm đừng đến bịnh viện hôm nay. Ông không nói là vì lý do gì. Thật sự thì ông cũng không chắc những gì ông đang nghĩ.

         – Ông nầy kỳ há. Tuần rồi em đã không đến được thì hôm nay phải đến chứ. Lâu không gặp cũng thấy nhớ, không biết nó xanh xao vàng võ đến cỡ nào. Phải làm mấy món ăn chơi cho con nhỏ nữa, kẽo nó thèm mà ốm o gầy mòn.

         Bà Tâm vẫn hay chuyện trò thân mật như vậy, nhất là đối với bà Kim, người bạn gái mang tên Hồng rất thân từ thời trung học.

         Ý muốn của bà Tâm nghe thật đơn giản nhưng hôm nay biết đâu sẽ có nhiều phức tạp. Đi tìm một cành cây khác? Vợ ông đã nghĩ tới điều gì đây? Bà đã biết hết những gì đang reo âm ĩ trong lòng ông? Tự dưng ông Kim ước ao trên đời nầy không có người đàn bà tên Tâm ấy; hay nếu có thì chỉ là người xa lạ với gia đình ông. Đàng nầy tự nhiên dòng đời đưa đẩy để hai người đàn bà ông yêu cùng có mặt trong đời ông ở cái buổi chiều xế bóng này; lại đang lúc vợ ông đau yếu.

         Đầu óc ông Kim bây giờ sao quá rối bời. Cả tháng nay cuồn chỉ rối trong đầu óc ông càng ngày càng rối. Nhiều chuyện để suy nghĩ quá. Hết điều nọ xọ điều kia. Ông suy nghĩ rồi quyết định. Quyết định rồi thay đổi. Bà Kim đang ngồi đó, trên chiếc băng đá dưới gốc cây sồi có tàn lá rộng như cái dù giương trên cao. Chắc chắn vợ ông không giúp gì được cho ông rồi, bài toán khó quá. Một chút nữa đây bà Tâm sẽ đến. Ông Kim biết rõ tánh ý bà Tâm từ mấy mươi năm trước, khi hai người là đôi bạn nhỏ rồi khi lớn lên hai người yêu nhau. Mấy mươi năm sau gặp lại, người tình năm xưa vẫn dịu dàng, mềm mỏng, tánh tình đơn sơ, mộc mạc, hết lòng hết dạ đối với người quen kẻ thân. Dường như tánh tình người đàn bà ấy cả đời cũng chẳng có một chút thay đổi nào. Còn ông, con đường sắp tới sẽ đưa ông đi về đâu? Bài toán khó nầy chỉ một mình ông là tìm ra đáp số, không ai khác, càng không thể từ hai người đàn bà đang có mặt trong đời ông. Từ dãy hành lang bịnh viện, ông Kim ngó ra phía cổng. Bãi đậu xe cũng thưa thớt. Ông không chờ nhưng mắt vẫn trông về hướng cổng. Chắc cũng đã gần đến giờ người đàn bà ông không mong sẽ đến.

         Ở xa xa, bên cánh trái hành lang, trong bộ áo choàng trắng bà Kim ngồi đó như một gốc cây trơ trụi xám ngắt, chỉ có đôi chân quơ qua quơ lại trên mặt đất như đang vẽ tranh, đôi tay thì khoanh tròn trước ngực. Mấy chú sóc, chú chim đi đâu hết rồi. Từ xa, ông Kim không thấy được đôi mắt vợ mình đang nhắm hay đang mở, thường thì bà nhắm mắt. Những khi tỉnh táo bà than phiền với ông là nhiều khi bà thấy đầu óc bà tối mò, dù có mở mắt cũng không biết mình đang thấy cái gì, tốt nhất là nhắm mắt cho thoải mái. Với đôi mắt nhắm và chỉ có đôi chân di động tới, lui, lòng vòng trên mặt đất quanh chỗ ngồi là bà có thể đi thật lâu, thật xa. Bà không nói bà đi những đâu và tưởng nghĩ những gì. Dù có gạn hỏi thì bà cũng không biết trả lời ra sao, nhiều lắm là chỉ ậm ậm ừ ừ rồi tâm thần trở lại trạng thái ngu ngơ trong cái xác không hồn. Từ hơn năm nay bịnh lảng trí của bà Kim trở nặng, lúc tỉnh lúc mê. Bà Kim như đứa trẻ, lúc nhớ, lúc quên; mới chuyện trò thân mật với chồng rồi ngay sau đó bà chuyển câu chuyện sang một đề tài hoàn toàn khác, không dính líu gì đến ông chồng đang đi bên cạnh, bà cũng không biết người đang nắm tay mình là ai. Ông Kim trách cơn bịnh ngặt tới với bà Kim quá sớm. Ở tuổi sáu mươi bà Kim bỗng nhiên bị mất hết tất cả sáu mươi năm sống đã qua và phần đời còn lại bà sống từng ngày trong cái chết. Những con, những cháu bà thương biết bao vậy mà lắm khi bà có nhận ra đứa nào đâu. Vò đầu thằng cháu ngoại mà cứ hỏi nó là con ai. Nhiều khi thấy vợ ngồi khóc ngon lành trên ghế đá mà ông không hiểu vì lý do gì; cứ làm ngơ để bà sống trong thế giới của mình.

         Nghĩ tới vợ rồi ông Kim bỗng nghĩ tới mình. Ông muốn quên tất cả những gì đã xảy ra cho ông từ hơn một năm qua. Ông muốn mọi chuyện tan biến hết để tình cảm của ông không có một chút nào thay đổi. Dự báo thời tiết nói cơn bão đang ở ngoài khơi Vùng Vịnh, đêm nay sẽ có cơn mưa to. Gió bây giờ thổi mạnh hơn. Trong ánh sáng của mấy ngọn đèn trong sân, ông Kim thấy mái tóc dài buông xõa của vợ mình bay theo chiều gió. Gió, gió hãy cuốn đi chuyện tình cũ bỗng trở lại từ năm qua. Chuyện tình ơi, hãy như là những xác lá khô nằm yên đâu đó trong vuông vườn cổ tích, hay là những thân lá ép kỷ niệm học trò trong tập lưu bút ngày xanh. Tâm, tại sao mình gặp lại làm chi để cả ba người chúng mình rơi vào một tình cảnh éo le?  Thế giới rộng lớn quá mà, sao mình còn gặp lại trên mảnh đất xa xôi nầy làm chi? Từ bao năm nay, cuộc tình đã có nơi trú ngụ trong mỗi góc đời của mình rồi mà. Em thì vẫn như hồi nào, từ hơn bốn mươi năm nay vẫn ôm ấp một tình yêu đã mất, một mình mình biết, một mình mình hay. Nghĩ mà thương em hết sức. Tôi thì đang dật dờ giữa mộng và thực. Gần cuối đời rồi mà sao tôi còn đi dây giữa tình nghĩa vợ chồng và mối tình vừa trở lại. Từ ngày rời xa em, hơn bốn mươi năm nay có khi nào mà tôi không tưởng nghĩ đến em. Gặp lại em tôi như đứa bé vừa tìm lại món đồ chơi thân yêu bị đánh mất. Tôi không biết hiện tại tôi đang yêu em hay yêu một mối tình của thời mới lớn. Hay là tôi đang tiếc thương từng giọt máu ứa ra từ trái tim thương tật của em hơn bốn mươi năm trước, khi tôi vội vã bỏ đi? Tôi biết tôi không là người tình tốt của em và không còn là người chồng chung thủy với vợ, tôi đang nhẫn tâm cứa những vết dao trên tâm thức bịnh hoạn của người đã sống với tôi hơn ba mươi năm nay.

         Trong tôi bây giờ sao có quá nhiều tiếng gọi. Và tôi không tìm được một tiếng trả lời!

         Một chiếc xe đang tiến vào cổng bịnh viện. Trời nhá nhem tối nhưng ông Kim cũng biết đó là xe của bà Tâm. Ông rời hành lang tới chỗ bà Tâm đậu xe. Đằng kia bà Kim vẫn khoanh tay ngồi trên băng đá, chân vẽ hình trên đất, mái tóc của bà bây giờ bao phủ cả mặt, làm thành một vũng đen trên màu áo trắng bệt. Một luồng gió làm mái tóc bà Kim bay ngược về phía sau, làm thành một dòng sông đêm. Dòng sông uốn lượn như sóng tràn bờ.

         – Em từ nhà anh đến đây. Mâm cơm tối đã sẵn ở nhà. Chốc nữa anh về ăn một mình nhé. Em dùng rồi.

         – Cảm ơn em. Nhọc nhằn em quá.

         – Em có làm cả chút sương sa cho Hồng, ăn cho mát. Lại có cả món canh bầu mà Hồng rất thích. Em đến thăm Hồng đây. Gặp anh sau.

         Bà Tâm đi về phía bà Kim. Ông Kim trở vào hành lang bịnh viện. Ông không muốn nghe hai người đàn bà ông yêu sắp nói những gì. Có thể họ không nói gì hết về cuộc tình tay ba nầy vì vợ ông thì chắc không nói gì sau khi đã xa xôi, bóng gió nhắn gởi mấy lời cần thiết với chồng mình; còn bà Tâm thì cứ vô tư như đang sống trong mối tình đơn phương mà bà đã đeo mang từ khi ông Kim bỗng rời xa thành phố. Khi mới gặp lại nhau sau mấy mươi năm xa cách, bà Tâm không ngại ngần gì mà không thố lộ tâm trạng mình khi vợ chồng ông Kim hỏi về gia cảnh của mình:

         – Thì vẫn một thân, một bóng. Sống như vậy cũng hạnh phúc chán!

         Hơn một năm trước đây, khi gặp lại vợ chồng ông Kim, bà Tâm reo vui như con nít. Rồi họ tới lui, thăm viếng nhau hàng tuần. Những kỷ niệm cũ làm họ thân thiết như người một gia đình. Khi biết bịnh tình mình trở nặng phải thường xuyên vào bịnh viện, bà Kim nhờ bà Tâm tới lui lo cơm nước cho chồng mình và chăm lo nhà cửa. Có lần hai người bạn gái nói đùa với nhau:

         – Ê Tâm, mi đơn thân độc mã, sao không về đây mà ở cho vui. Thấy mi lo lắng cho tụi tao cả năm nay mà bắt thương.

         – Tao không làm thí công cho mi hoài đâu. Tao lo là lo cho con bịnh của mi và lo cho ông chồng già lão tội nghiệp của mi đấy. Dại gì mà làm "nanny" thường trực. Phải trả công bội hậu đấy nhé.

         – Thì trả công bằng cái ông Kim già nua ấy, chịu không?

         – Có mà thèm vào!

         Rồi hai người bạn cười ngất như thời trẻ tuổi. Ông Kim cũng thấy vui lây.

 

         Anh yêu dấu,

         Em biết phải nói làm sao để anh tin những lời nầy? Nghe em nói đi anh. Em đang rất là tỉnh trí. Người bác sĩ vừa ra khỏi phòng với ánh mắt đăm chiêu, dường như ông muốn nói với em điều gì. Cô y tá vừa chích cho em mũi thuốc an thần. Em đang rất tỉnh. Em phải nói chuyện với anh trước khi một giấc ngủ dài có thể đưa em đi thật xa. Đi xa anh mãi mãi. Không xa hôm nay thì cũng ngày mai, ngày mốt, ngày kia. Không lâu lắm đâu anh.

         Như anh biết đó, em vẫn hay nhắm mắt để sống cùng bóng tối. Trước hết bóng tối là của em, em muốn sống trong bóng tối của mình lúc nào cũng được, không phải đợi đến đêm về.  Nhắm mắt lại là em sống với con hẻm nhỏ ở khu cư xá Chí Hòa, nghe tiếng bánh sắt ngọt ngào nghiến trên đường rầy và nghe hoài thành ghiền tiếng còi tàu mỗi sáng mỗi chiều để nghĩ tới những chuyến đi xa. Nhắm mắt là em thấy anh, người gia sư quần xanh áo trắng, mỗi chiều dựng chiếc mobilette nơi hàng ba nhà em, rồi bên kia chiếc bàn học, anh ngồi đối diện với em, em thấy trên đôi tròng kính cận dày mo của anh có đôi mắt em đang nhìn anh giữa những sin, những cos, những phương trình của bài đại số. Bóng tối có khi cũng cho em thấy lại những phút sống muộn phiền khi em tình cờ thấy anh tay trong tay với người ta trên hè phố Lê Lợi. Có một điều em cần nói với anh đây. Anh vẫn đang nghe em phải không anh? Bóng tối nhiều khi rất ngọt ngào, thơm tho, đầm ấm và vô cùng hạnh phúc anh ơi. Đó là khi bóng tối phả vào khắp cả châu thân em, luồn vào từng mạch máu em hơi thở người chồng bên cạnh. Hơi thở của anh đó. Nhắm mắt để được sống bên anh hằng phút, hằng giờ. Anh đi đâu, anh nghĩ gì thì khi nhắm mắt em vẫn có anh bên cạnh. Không ai chia sẻ được điều nầy với em đâu anh ạ. Từ lâu em biết anh không quên mối tình cũ. Bốn mươi năm tình cũ của anh làm sao có mặt được trong bóng tối của em khi em nghĩ về người chồng thương yêu của mình. Không gian, thời gian và con người chẳng làm gì chi phối được bóng tối của em. Bóng tối của em chỉ có một mình em là bạn. Em chơi với nó. Em sống yên vui, nồng nàn với nó.

         Như vậy thì, anh yêu quí, ba mươi năm qua em vẫn hay nhắm mắt để sống cho mình. Em ích kỷ quá phải không anh? Em biết ngần ấy năm sống bên em mà tình cảm anh trôi về hướng khác; có khi rất mịt mù, xa lắc, xa lơ. Biết vậy mà em vẫn như người vô tâm, không một lần cố gắng nào để vun phân, tưới nước cho cây tình nghĩa vợ chồng mình. Chưa một lần làm người trồng bonsai chuyên nghiệp hướng dẫn những lá cành để cây bonsai tình yêu trở nên tươi tốt trong căn nhà êm ấm của chúng ta. Anh thì vẫn sống ba mươi năm tội nghiệp bên em và hơn bốn mươi năm âm thầm, ngậm ngùi tiếc thương mối tình đã mất. Còn em thì dè sẻn từng chút bóng tối để sống thênh thang hạnh phúc với hơi thở ngọt ngào của anh.

         Bóng tối rồi sẽ tàn. Một ngày nào cái nhắm mắt cuối cùng của đời em sẽ tới, sẽ vùi trong huyệt mộ. Người ta giấu dĩ vãng trong cái chết; còn em thì sống thế giới ngọt ngào của mình, sống hoài cái hạnh phúc của riêng mình dưới những đêm sâu.  Ngày rồi sẽ lên. Ngày lên để ánh dương rực rỡ chiếu sáng một mối tình, làm cho nó hồi sinh sau bốn mươi năm nằm ngủ trong giấc mơ dài. Anh, anh hãy đón lấy ánh sáng ấy và sống lại một thời đã mất.

         Em không vĩnh biệt anh mà vĩnh biệt sáu mươi năm ánh sáng của em, ngay từ bây giờ. Thưa anh, anh yêu dấu.

TRẦN BANG THẠCH

Chuyện thời chiến

trên một đất nước hòa bình

 

 

1. CHUYỆN NGƯỜI CẦU THỦ BIẾT THƯƠNG YÊU TỰ DO

 

Tiếp theo phát súng lục khô khan của người sĩ quan chỉ huy, hai mươi tám quan tài đã cùng lúc được hạ xuống lòng huyệt trong tiếng nổ đì đùng của 21 phát đại bác. Sau chỉ hơn một tiếng đồng hồ thì buổi lễ chấm dứt. Những tiếng kèn đồng cuối cùng như cố bay vất vưởng trong lớp sương chiều, rồi khoắc khoải đọng lại trên từng mộ bia, từng ngọn thông bao quanh khu nghĩa trang.  Đời người chỉ có vậy thôi sao? Đến cũng nhanh mà đi thì càng nhanh hơn nữa. Mà cũng đơn giản hơn nhiều. Màu cờ trên quan tài. Những tấm huy chương. Hai hàng quân. Những người thân xung quanh. Bài ca tử sĩ. Tiếng kèn đồng ai oán. Sau đó là bình thường. Mọi người, mọi vật trở lại bình thường. Súng vẫn nổ từ ngàn dặm xa. Tại đây, bên ngoài rào, từng dòng xe cộ vẫn hối hả ngược xuôi như mọi ngày. Ở góc đường đối diện khu nghĩa trang, anh chàng cựu quân nhân homeless vẫn đứng đó, không nói một lời, vẫn mang trước ngực tấm bảng: "Why lie? I need some beer!" như mọi ngày. Rồi ngày mai, ngày mốt, ngày kia... cảnh tượng tương tự sẽ xảy ra trên vuông đất bên trong vòng rào này. Đội quân dàn chào thì vẫn những khuôn mặt ấy, nhưng nằm yên trong quan tài thì mỗi ngày có  những khuôn mặt khác. Hàng ngàn huy chương vẫn được ngày đêm sản xuất đủ để theo người chết xuống huyệt cùng với tiếng kèn đồng nức nở. Chỉ có người ra đi là đi mãi, đi mãi, đi không về.

 

Ông Rogers rời nghĩa trang. Ông không muốn cùng đi xe chung với những người thân về nhà. Ông đi bộ về hướng cánh rừng phong cuối nghĩa trang. Có tiếng cú rút đâu đó trong trời chiều. Mùa thu. Lá phong vàng như nghệ. Rừng phong như giải lụa vàng óng ả phơi trên nền trời. Ông Rogers thì thấy lòng mình tím ngắt. Người em út của ông vừa bỏ ông mà đi. Bây giờ ông Rogers vẫn không tin đó là sự thật. Người nằm trong quan tài ấy phải là một người nào khác, không thể nào là thằng Ken được. Giữa cái mênh mông của vùng trời vàng nghệ và cái góc tâm tư tím như than của mình, ông Rogers thấy mình trôi trong màu đen đặc sệt cùng với thân hình cao lớn, vạm vỡ của Ken trên các cầu trường khắp nước Mỹ. Đội bóng bầu dục tỉnh nhà đã hai lần vô địch toàn quốc phần lớn là do công trạng của Ken, người được gọi là "the best wide receiver" suốt ba mùa bóng. Cho đến đầu năm 2004 thì Ken biến mất trên cầu trường, lúc người đại diện đang tiến hành thủ tục ký bản hợp đồng cho 5 năm tới với số tiền khổng lồ kỷ lục. Ông Rogers như còn thấy trước mắt buổi sáng đầu năm Ken đến thăm ông và báo tin sẽ lên đường đi Afganistan ngày mai. Tin đến với ông thật nhanh và thật gọn. Đơn giản như cử chỉ và lời nói của Ken hôm ấy:

"Đời đã đãi ngộ em nhiều lắm rồi. Hơn ba mươi năm. Đã đủ. Nhưng biết bao nhiêu người vẫn còn thiếu. Thiếu nhiều thứ lắm. Cái thiếu lớn nhứt là Tự Do".

"Tự Do? Hình như anh nghe em nói tiếng này lần đầu?"

"Khi đã mặc nhiên có được Tự Do thì không ai khát khao, càng không quan tâm".

"Nhưng mà em sẽ làm được gì cho cái gọi là Tự Do của hàng triệu người ở một nơi xa xăm ấy?"

"Có lẽ em sẽ không một sớm một chiều đem Tự Do cho họ, dù chỉ một chút xíu, dù cho chỉ một, hai người. Có lẽ em cũng chưa làm được điều gì trước giờ phút xuôi tay".

"Vậy thì cái giá em phải trả cho một chút Tự Do không chắc chắn đó, có quá cao không, khi em bỏ hết danh vọng trên cầu trường, bỏ hết tiền bạc, có khi bỏ cả mạng mình và..."

"Em xin phép ngắt lời anh. Dạ thưa anh, Tự Do là vô giá. Không thể so sánh với bất cứ cái gì trên đời này, kể cả cái mạng nhỏ nhoi của mình".

"Vậy thì em có thể chờ cho đến khi giải nghệ, hay cho đến cuối mùa bóng này?"

"Hàng triệu người đàn bà Afgan đã bị đối xử tàn tệ, bất bình đẳng từ mấy chục năm nay. Tai, mắt họ đã bị che kín từ bấy lâu nay. Chữ nghĩa cũng không đến được với họ. Hôm qua 2 em bé Afgan chưa quá 12 tuổi bị bọn Taliban treo trên cây, đầu trút xuống. Những người bịt mặt, bịt mũi, tay dao, tay súng la hét buộc hai em bé phải nhận tội làm gián điệp. Những em bé này chắc chắn không thể chờ thêm, dù chỉ một giờ, để có người đến giải cứu. Rồi ngày mai, em biết chắc sẽ có vài em bé khác, vài người vô tội khác sẽ là nạn nhân của tội ác."

"Anh không hiểu tại sao em tự buộc mình phải là người đi giải cứu."

"Không ai buộc em hết, kể cả chính mình. Chỉ có lương tâm nó buộc mình."

"Vậy thì mình còn cần phải tìm hiểu cái gía trị đích thực của cuộc chiến mà mình sắp bước vào nữa chứ."

"Cái giá trị đích thực bây giờ không phải là lý thuyết suông về cái lý của cuộc chiến, mà là nhìn. Là nhìn. Nhìn hàng ngàn anh em mình đang ra mặt trận, đang hy sinh cho lý tưởng Tự Do, cho mục đích giải phóng con người ra khỏi chỗ âm u, đen tối. Nhìn những người dân vô tội ở bất cứ đâu, ở Afganistan, ở Iraq...đang là nạn nhân của tội ác. Đứng xa mà nhìn thì cũng không được, anh ạ. Chẳng có ích gì hết."

 

Sáng hôm sau ông Rogers ra sân bay tiễn Ken lên đường. Đó là buổi sáng của hai năm trước. Còn buổi chiều hôm nay thì thân xác Ken mấy phút trước đây đã vùi sâu dưới ba thước đất cùng với hàng chục chiếc huy chương trên ngực áo. Cả nước thương tiếc một cầu thủ xuất sắc đã sớm bỏ cầu trường, bỏ tiền tài, danh vọng đi đến một đất nước xa xôi rồi chết đột ngột ở đó. Nhưng ông Rogers, sau những phút giây xúc động, đã chợt hiểu em mình. Ông biết Ken trước khi bị trúng đạn đã hướng dẩn trung đội của mình giải cứu hàng chục phụ nữ cùng với các con nhỏ thoát khỏi một nhà giam của Taliban trong vùng núi sâu. Và còn biết bao chiến công khác nữa trong suốt hai năm dài chiến đấu không ngừng nghỉ. Ông biết Ken là một chiến sĩ của Tự Do và đã chết vì hai chữ Tự Do. Bây giờ thì ông Rogers thấy lung linh bóng dáng vạm vỡ của em mình như cánh đại bàng bay phất phới theo màu cờ xanh trắng, giữa màu vàng rực rỡ của rừng phong. Ken bây giờ to lớn gấp bội anh chàng The Best Wide Receiver trên sân đấu năm nào.

Rừng phong đang ung dung thả những chiếc lá vàng xuống đất để đất thành phân và phân làm xanh thêm cây lá.

 

Ông Rogers quay trở lại nghĩa trang. Ông đứng nghiêm, mắt hướng về lá quốc kỳ đang buông rũ trên cột cờ, rồi nghiêng mình trước hàng trăm mộ bia tử sĩ đang nằm yên nghỉ dưới sương chiều.

 

2. QUÀ SINH NHẬT

 

Ngay sau khi đứa cháu ngoại 22 tuổi giả từ ông theo đoàn quân lên đường sang Iraq, ông Frank quyết định bỏ hết để xuôi nam; bỏ hết mọi thứ trong căn nhà to rộng trên đường West 79, đối diện với Riverside Park, bên dòng Hudson, thành phố Nữu Ước . Ông chỉ mang theo mấy bức ảnh. Đây là những bức ảnh vô cùng quý giá đối với ông. Những bức ảnh cuối cùng của những người thân nhất đời ông. Trong khung ảnh, vợ ông  trong chiếc áo len màu đỏ thắm, ngồi tươi cười sau bàn làm việc trên tầng lầu thứ 42 của tòa  nhà Thương Mại Thế Giới phía nam. Trong khung ảnh khác, con gái và con rễ ông chụp ngay trước bồn nước phun bên cánh trái, trong khung viên Ngũ Giác Đài, ngay phía trước văn phòng làm việc của hai người. Hai bức ảnh chụp trước tai nạn thảm khốc 11 tháng 9 chỉ có vài ngày. Còn bức ảnh thứ ba chụp hai người lính là thằng con thứ tư của ông đang đứng bên cạnh Chú Út của nó khi hai chú cháu gặp nhau tại thị trấn al-Hillah, bên cạnh di tích thành Babylon. Bức ảnh này ông có được chỉ sau khi cả chú em và thằng con bị thiệt mạng cách nhau ba ngày trong hai trận đánh khác nhau tại chiến trường Iraq.

Những người thân yêu đó đã từ ngôi nhà này, từ đại gia đình này vĩnh viễn ra đi, để lại cho ngôi nhà một sự trống vắng thật đáng ghê sợ. Họ đã đột ngột ra đi không kịp nói với ông một lời nào, họ để lại cho ông những khung ảnh này và một nỗi đớn đau vô cùng to lớn, không cách nào hàn gắn lại được.

Ông Frank còn nhớ hôm đó tiệc sinh nhật thứ 60 của vợ ông chấm dứt lúc gần nửa đêm. Sáng hôm sau ông Frank còn mõi mệt nên ở nhà. Vợ ông một mình đến công ty định giải quyết vài công việc khẩn cấp rồi trở về cùng ông hôm sau đi Boston nghỉ mát một tuần. Hôm đó là ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cũng là ngày bà Betty Frank vùi thân trong đống gạch vụn của tòa cao ốc phía nam. Còn bức ảnh của con gái và anh con rễ là bức ảnh duy nhất của họ chụp tại sở làm sau hai mươi năm vợ chồng cùng đến đây làm việc mỗi ngày. Họ chụp bức ảnh để làm kỷ niệm trước khi về hưu vào ngày 12 tháng 9 để cùng đi Boston với ông bà Frank. Ngày định mệnh 11 tháng 9 đã đến trước mọi dự định của ông bà Frank, của con gái và con rễ và của hơn ba ngàn người thiệt mạng hôm đó tại hai toà cao ốc của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và tại một gốc của Ngũ Giác Đài.

Từ ngày vợ, con gái và rễ tử nạn ngày 11 tháng 9, rồi con trai và chú em tiếp tục bỏ ông mà đi vĩnh viễn, ông Frank gượng sống với thằng cháu ngoại côi cút tên Wayman lúc đó đang học trung học. Ông Frank đã ít nói mà thằng Wayman thì tối ngày chỉ lặng câm. Ông Frank không còn muốn làm ăn gì nữa. Một mái ấm gia đình bỗng tan tác chỉ trong một ngày thì tiền của, tài sản còn đó để mà làm gì. Cuộc đời ông cũng chẳng còn có một ý nghĩa nào. Ông Frank đã bán toàn bộ cổ phần của ông trong đại công ty tài chánh do ông bà thành lập từ gần bốn mươi năm nay. Các bất động sản trãi dài suốt vùng Đông Bắc ông Frank cũng bán hết. Phần lớn số tiền ông đóng góp vào quỹ cứu trợ 11 tháng 9. Ông chỉ còn giữ lại một chút rất ít để sống những ngày tàn.

Khi thằng cháu ngoại Wayman tham gia quân đội ngay sau khi tốt nghiệp đại học, ông không muốn phải mất thêm một người thân yêu nữa trong cùng căn nhà rộng mênh mông này. Ông quyết định bán hết nhà cửa tại New York, trở về trang trại của gia tộc ông trong vùng Victoria, phía nam thành phố Houston, Texas. Gần một năm nay ông Frank sống ở đây một mình. Căn nhà nhỏ nằm trên ngọn đồi thấp, giữa cánh đồng cỏ bao la bao quanh bởi hàng rào gỗ sơn trắng. Ngày ngày người cựu tỉ phú cô đơn gần bảy mươi tuổi lúc thì lái máy cày xới đất, khi thì lái máy cắt cỏ, lúc thì vui chơi với đàn bò và mấy chú dê con. Ông Frank sống với những tiện nghi cần thiết tối thiểu. Không TV, không radio, không điện thoại. Ông bỏ ngoài tai tất cả tin tức thời sự. Chính trị, quân sự, kinh tế, thị trường chứng khoán...là điều ông Frank không còn muốn quan tâm nữa. Có lẽ trong vài năm qua gia đình ông có nhiều cái chết đến đột ngột, nên lúc nào ông Frank cũng nghĩ tới điều bất hạnh cho đứa cháu ngoại của mình. Ông sợ phải nghe những tin xấu từ một chiến trường xa lắc, nơi đó thằng cháu ngoại thương yêu của ông đang phải đối diện hàng ngày với muôn điều bất trắc. Lâu lâu cô con gái út có về thăm ông đôi ba ngày. Cô biết ý cha nên chẳng nói, chẳng bàn bạc gì về thằng cháu. Hôm nay cô biết nó an lành, nhưng cô đâu biết những gì xãy ra cho nó ngày mai. Nhìn thấy cha mình đang sống từng ngày với nỗi lòng khoắc khoải, lo âu cô cũng thấy đau lòng. Nỗi buồn, nỗi lo càng ngày càng đè nặng khiến thân xác ông thêm còm cõi. Thằng Wayman vẫn thường gởi thư về ông ngoại, nhưng ông ngoại vẫn không an tâm, vẫn nghĩ tới những điều ngược lại với những dòng chữ trong thư.

 

 

Cho tới một ngày ông Frank gặp phải một sự thật vô cùng bất ngờ.

Hôm đó là ngày sinh nhật của ông Frank. Ông Frank có nhớ, nhưng ông không làm gì hết để đón mừng ngày sinh thứ bảy mươi của mình. Ông nghĩ mình còn sống đây là chỉ để tiếp nối nỗi buồn từ năm năm trước và để chờ một tin buồn khác bay về từ một vùng trời xa. Cho nên chiều hôm đó ông Frank uống gấp đôi phần rượu vang ông thường uống mỗi ngày trong bữa ăn tối. Ông muốn chóng ngủ để quên một tuổi đời ông không chờ không đợi. Từ phòng ăn, ông Frank đi lần ra cửa trước. Vừa định khép và khóa cửa thì cô con gái ông đã có mặt ở đó từ hồi nào cùng với mấy chục người là những bà con ở xa và những láng giềng gần. Rồi đèn đuốc sáng choang, pháo nổ rì rào. Hoa giấy bay loạn xạ. Và kìa, ông có hoa mắt không khi người đàn ông vạm vỡ trong bộ quân phục rằn ri vẹt đám đông tiến về phía trước chính là thằng Wayman. Phải, thằng cháu ngoại của ông, thằng Wayman. Ông Frank muốn gọi lớn tên nó mà ông không thốt nên lời. Thằng Wayman ôm ông trong đôi tay cứng chắc. Thằng Wayman nâng ông lên cao bằng một tay, còn tay kia đánh nhịp, miệng ồn ồn bắt giọng cho mọi người đồng ca: "Happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to grandpa, happy birthday to Frank".

 

Ông Frank phát khóc trong cánh tay cứng như sắt của món quà sinh nhật bằng xương bằng thịt vô cùng thương yêu này.

Thanksgiving 2006

 Trần Bang Thạch

BÓNG NGOẠI

1.

Khi chiếc xe buýt ra khỏi khuôn viên nhà thờ thì trời bắt đầu tối. Chiều Thứ Năm, xe buýt khởi hành hơi trễ nên xa lộ 45 đi về hướng Dallas không bị kẹt xe. May mà suốt ngày hôm nay trời nắng tốt. Những hôm trước thì mưa cả ngày. Nghe ra dô nói có cơn bão khác ở ngoài khơi vùng biển xa, đang thổi vào đất liền, sức gió rất mạnh. Chuyến hành hương nầy sẽ làm ông bà An  vắng nhà mấy hôm. Bão thì bà An không sợ vì nhà ở cách biển gần năm mươi dặm; mấy lần bão lớn trước, vùng Tây Bắc của Houston này chỉ bị bão liếm sơ sơ một chút. Nhưng nếu mưa nhiều quá nước vô nhà thì nguy lắm...Giông bão sẽ làm thiệt hại khu vườn rau quả của bà. Nhưng điều làm bà An lo nhứt là lo cái dây bầu sau vườn. Mưa to, gió lớn biết dây bầu có chịu thấu hay không. Công lao của thằng cháu ngoại Tony từ mấy tháng nay đó. Tony làm cỏ, dọn đất rồi ương hột. Một cái hột nhỏ xíu bằng móng tay út của nó; dẹp lép, khô khốc vậy mà từ đâu dưới lớp đất chui lên mầm xanh, rồi lá xanh, rồi nụ, rồi bông, rồi trái…

Từ lúc thấy cái lá đầu tiên nhú lên, thằng Tony vui quá quên ăn, quên chơi. Nó nói đó là magical! Hơn 9 tuổi rồi mà có khi nào nó thấy hiện tượng này đâu. Hình như Tony lớn theo độ lớn như thổi của dây bầu. Mỗi ngày sau khi làm bài xong nó ra vườn săn sóc dây bầu, nhổ cỏ, tưới nước. Nắng che, mưa đậy. Nó không cho ai rớ tới dây bầu của nó. Nó muốn tự  chăm lo sản phẩm xanh của nó vươn lên từ đất và từ công khó của nó.

Nó đếm từ cái lá xanh. Đếm từ cái bông trắng. Trái bầu xanh non đầu tiên thòng xuống lỗ mắt cáo của cái giàn. Trắng xanh, nõn nà. Tony khoe với mọi người. Mỗi chiều, trước khi lên xe theo mẹ về nhà Tony không quên chạy ra vườn xoa xoa trái bầu từ giã. Nhìn cháu vui với thành quả của nó ông bà ngoại cũng thấy lòng mình rộn ràng vui theo.

Không biết có phải vì Tony cứ tới lui chăm sóc hoài nên dây bầu làm nũng,

 

không chịu sanh thêm trái nào nữa. Trái bầu duy nhứt càng ngày càng bự, bụng phình, thân dài. Tony vui lắm. Nó coi đây như là một công trình vĩ đại mà nó chưa từng nghĩ là nó sẽ làm được. Thằng cháu vui bao nhiêu thì ông bà ngoại vui gấp chục lần.

Bà An nhớ lại câu chuyện giữa hai bà cháu mấy tháng trước. Đó là vài ngày sau khi bãi trường.

-Ngoại ơi, hè nầy ba đi làm xa, mẹ không dẫn con đi đâu hết. Ở nhà hoài, buồn chết! Chơi game thì ông ngoại không cho. Tối ngày biết làm gì đâu.

-Để ngoại tính cho con nghe. Con có muốn gởi tặng cô giáo Linda của con một tấm hình thật đẹp hông?

-Thì năm nào đi nghỉ hè xa con cũng đều gởi về cô giáo những ảnh chụp  nơi con đã đi qua. Ảnh nào cũng đẹp hết.

-Ậy, tấm ảnh nầy sẽ là tấm ảnh đẹp nhứt. Ảnh chụp con đứng bên cạnh trái bầu do con trồng. Chắc chắn cô giáo con sẽ vô cùng ngạc nhiên và thán phục. Không biết chừng có người sẽ đem tấm ảnh đăng báo nữa đó con!

-Trái bầu? Trái bầu ra làm sao hả ngoại ?

 -Ừ, trái bầu là như vầy, như vầy nè.

Bà An dùng 2 ngón tay trỏ vẽ trong không gian trước mắt Tony hình dáng của trái bầu. Rồi bà An chậm rãi phác họa một tấm ảnh độc đáo bằng lời: Tony đứng dưới giàn bầu xanh tươi, tay nó ôm trái bầu dài cả thước, tròn, mập cỡ bắp vế của nó. Thằng Tony nghe mà chưa hình dung được hình ảnh nầy. Nó chưa thấy trái bầu lần nào. Nhưng nó lờ mờ hiểu: bà nó muốn tự nó làm ra thức ăn. Tony từng thấy bà nó đã tạo ra cả một vườn rau tươi tốt sau nhà. Nó cũng nhớ là năm ngoái bà nó trồng những dây bí rợ bò trên cỏ ở vườn sau, lá to như cái quạt, xám xanh. Chỉ qua đêm nó đã thấy những bông màu vàng, chen giữa lá, chạy dọc theo dây bí, giống như một hàng sao trời rớt xuống từ đêm qua. Rồi những trái bí màu cam xậm xuất hiện như một phép lạ. Nó biết đôi tay của bà đã làm ra những bí, những khổ qua, những cà chua, những rau, ớt, bạc hà…Các bữa ăn ở nhà ngoại lúc nào cũng có rau tươi từ khu vườn rau của ngoại. Tony ăn riết rồi thành quen. Những ngày cuối tuần ở nhà ba mẹ, có lúc Tony bỗng thèm một tô canh chua bạc hà nấu với rau muống, rải lên những lát nhỏ rau ngò om, rau cần dày lá và ngò gai. Thơm ngon không chịu được! Còn canh rau đay nhơn nhớt thì lúc đầu Tony không ăn được, sau rồi cũng thèm, đâm ra ghiền.

-Ngoại ơi, con sẽ làm được. Con sẽ trồng bầu. Bầu sẽ ra trái. Con sẽ ôm trái bầu chụp hình rồi gởi cho cô Linda.

Thế là dự án bắt đầu. Bà An cũng bắt đầu dự tính những công việc sắp tới của mình. Bà tính trong những tháng hè, ông bà sẽ dạy thằng cháu học toán và tiếp tục học chữ Việt. Chữ nghĩa ông bà không nhiều nhưng cũng đủ trình độ toán lớp bốn, lớp năm. Dạy chữ Việt thì chính là nghề tay trái của bà. Mẹ thằng Tony và các cậu của nó ai cũng biết đọc và viết suông sẻ chữ Việt từ lúc mới sáu, bảy tuổi. Bà An còn tính dạy nó thuộc lòng thêm vài trăm câu ca dao tục ngữ nữa. Lại còn những bài hát tuổi thơ, phải dạy nó mới được. Hôm trước ông bà tìm mua được tập Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp đồng ấu, ông bà sẽ dạy thằng cháu đọc từng bài. Chắc  chắn thằng cháu ngoại của bà sẽ bận rộn lắm. Ba tháng nghỉ hè tuy dài, nhưng bà An không biết có đủ để ông bà thực hiện hết những dự tính không. Nhứt là dự tính về tấm ảnh thằng Tony đứng bên trái bầu của nó.

 

Trời bây giờ đã tối hẳn rồi. Trong xe, những câu chuyện đã thưa dần. Ông bạn hăng say kể chuyện khắp thế giới biểu tình theo hành trình rước đuốc của thế vận hội Bắc Kinh ngồi sau lưng bà An chắc đã ngủ. Nhiều người trong xe đã bắt đầu nhắm mắt. Bên cạnh bà, ông An cũng đang lim dim. Ông tài xế nhìn phía trước, chăm chú lái, không nói một lời. Xe đi vào vùng tối trước mặt. Bà An cố ngủ một chút nhưng tự nhiên trước mắt bà hiện ra hình ảnh trái bầu xanh non treo lủng lẳng trên giàn. Rồi liền đó cơn bão ụp tới, trái bầu lắc lư trong cơn gió mạnh, oằn oại dưới mưa bão. Rồi hình ảnh giàn bầu gãy cụp, nát vụn nằm yên trên cỏ, trái bầu thì đã bay đâu mất. Bà An thấy ánh mắt buồn hiu của thằng cháu ngoại đứng một mình giữa khoản đất trống không, dưới chân là nước ngập, trôi lềnh bềnh những cành cây gẫy, lá vụn và rác rưởi. Bà An cố nhắm mắt để xua đuổi hình ảnh ấy. Nhưng không biết sao mắt bà ráo hoảnh. Bà An biết những ngày Đại Hội Thánh Mẫu sắp tới tại Carthage sẽ rất bận rộn, nhộn nhịp, không ai có thể ngủ được. Đây không biết là lần thứ mấy ông bà An tham dự chuyến hành hương về Missouri này. Những năm trước, khi ông An còn khỏe mạnh, ông bà tự lái xe đi. Từ 3 năm nay, ông An không còn lái xe được do chứng bịnh run rẩy chân tay nên ông bà cùng đi chung xe buýt với nhiều người khác, hầu hết là già cả. Ai không biết chớ mỗi năm ông bà An nôn nóng chờ  ngày hành hương này, mọi chuyện khác đều phải gác lại. Chuyến hành hương nào cũng đông vui và thật nhiều ý nghĩa.

Vui nhưng bà An không khỏi nhớ thằng cháu ngoại khi phải xa nó vài ngày. Nhớ nó rồi nhớ cơn bão sắp tới, nhớ trái bầu đong đưa trước gió. Mưa sa, bão táp có làm mất đi nỗi vui và niềm hy vọng của thằng cháu ? Nói dại, một ngày nào thằng Tony rời khỏi vòng tay ông bà, những cơn mưa bão nào của dòng đời, của xã hội sẽ làm cho nó đi xa, sai đường, mất hướng ? Đúng là hết lo cho con, giờ lo tới cháu ! Lo cho tới chết vẫn còn lo !

Đến đây thì bà An không còn muốn suy nghĩ gì nữa, bà muốn giữ trọn niềm tin và niềm vui suốt chuyến đi. Biết mình không ngủ được nhưng bà An cũng nhắm mắt để tịnh dưỡng.

2.

Có người trong xe nghe một tiếng nổ thật to. Sau đó người ta thấy một chiếc buýt nằm nghiêng trên mép bờ con lạch dưới cầu. Hàng đoàn máy bay trực thăng và xe cấp cứu đổ tới hiện trường. Tiếng chong chóng trực thăng bành bạch. Tiếng còi cấp cứu inh ỏi. Tiếng la. Tiếng khóc. Tiếng khóc. Và tiếng khóc...

 

 

3.

 

Buổi học đầu tiên chấm dứt. Thằng bé thật khó khăn lắm mới tìm được chiếc buýt của nó. Từ ngày vào lớp Pre-K đến nay, đây là ngày đầu tiên nó đi học bằng school bus. Suốt bốn năm qua thì bà ngoại lái xe đưa đón nó hàng ngày. Đi học xong là về nhà ngoại, ăn uống, tắm rửa, làm bài...đợi chiều tối mẹ rước về nhà. Mọi chuyện có ngoại lo hết. Ngoại xem bài bé làm trong lớp, ngoại kiểm soát điểm hạnh kiểm, ngoại nhắc bé làm bài, nhắc bé học. Hai ngày cuối tuần thì bé không đến nhà ngoại, nó đến sân tập đá banh hay đến nhà thờ tập võ ; nhiều lúc ông bà ngoại cũng đến xem, các cậu, các chú cũng đến. Sau đó cùng nhau đi nhà hàng ăn cơm tối. Gia đình vui hết sức.

Hôm nay thì mọi chuyện đã đổi khác. Thật sự thì đã có nhiều cái khác thường từ gần nửa tháng nay. Từ ngày bà ngoại bé không về nhà nữa.

Xe dừng trước nhà, thằng bé uể oải bước xuống chiếc buýt vàng. Ông ngoại ngồi đợi nó ở cửa. Tay chân ông vẫn run run như mọi ngày. Chiếc băng trắng quấn quanh đầu như vành khăn tang. Ông đón bé trong vòng tay. Ông không nói với nó lời nào. Ông và bé cùng mang một nỗi buồn như nhau. Nỗi buồn quá lớn. Ông nó đã cạn hết nước mắt. Nó cũng không còn nước mắt để khóc.

Bé bước vào nhà, dừng trước ảnh bà ngoại trên bàn thờ, dưới tượng Đức Mẹ, khoanh tay cúi đầu thật thấp. Nụ cười, ánh mắt của ngoại vẫn vui như ngày nào mỗi khi bé cúi đầu chào ngoại tại cửa trường trước khi lên xe ngoại về nhà. Bé thấy ngoại quanh quẩn đâu đây. Nơi phòng khách. Nơi nhà bếp. Đâu đâu cũng có bóng ngoại. Ngoại lái xe đưa bé đi học rồi đón bé về. Ngoại với cái kiếng xệ xuống sống mũi lật từng trang bài vở của bé. Ngoại dọn cơm, bắt bé phải ăn nhiều cơm, ăn nhiều rau cải. Thấy ống quần của bé cao khói mắt cá chân, ngoại cười vui nói bé lớn mau như thổi, rồi ngoại mang kim chỉ ra xuống từng cái lai quần cho bé. Có lúc mê đọc sách, tới chương trình hoạt họa The Simpsons trên TV ngoại phải nhắc bé. Ngoại, ngoại là cả cái nhà nầy. Ngoại là cả cái sân trước với những hoa những kiểng. Ngoại là cả cái sân sau với rau quả, cây trái. Ngoại là cả khung trời thơ ngây ngọt ngào của bé. Ngoại là vùng trời yêu thương của bé.

Vậy mà bây giờ ngoại đã đi đâu mất. Bé đã hoàn toàn mất ngoại rồi. Mất ngoại rồi. Người ta đã chở ông bà ngoại từ Sherman tới nhà thương Parkland Memorial ở Dallas, từ phòng cứu cấp tới phòng giải phẫu. Rồi ông ngoại được đưa tới lầu 5 của Orthopedics, Rehabilitation and High Risk Pregnancy. Bà ngoại thì được trực thăng tiếp chuyển tới Baylor ICU. Từ đó thì bà ngoại đã ra đi. Xuất viện, ông ngoại về nhà, thẫn thờ như người mất trí. Có bé ở đây mà ông coi như không. Ông hay ngồi bất động hàng giờ  trên sofa, mắt hướng về tượng Đức Mẹ trên vách nhà. Bé thương ông ngoại của bé quá. Càng nhìn ông ngoại, bé càng muốn khóc.

Bé bước ra vườn sau. Gần hai tuần nay bé đâu có dịp ghé đây. Bé theo cha mẹ tới các nhà thương thăm ngoại, rồi tới nhà quàn, tới thánh đường làm lễ an táng bà ngoại. Ô kìa, trước mặt bé bây giờ là một hình ảnh khó mà tưởng tượng nổi: trái bầu của bé thòng gần tới đất, da xanh màu ve chai với những đốm trắng. Bé nhớ tới tấm ảnh ngoại đã vẽ tưởng tượng trước mặt nó hôm nào: tấm ảnh bé ôm trái bầu to gởi tặng cô giáo Linda.

 

4.

Tony đón cô giáo Linda tại chỗ đậu xe của các giáo viên. Nó cúi đầu thật thấp chào cô Linda rồi trao cho cô cái phong bì nói là tặng cô một tấm ảnh. Năm nay cô giáo Linda không dạy Tony, đứa học trò rất giỏi và rất ngoan của cô ở lớp Hai năm trước và ở lớp Ba năm rồi. Cô Linda có nghe tin về tai nạn thảm khốc ấy và đã gởi thư chia buồn với gia đình Tony. Thầy Hiệu Trưởng cũng đã đến thánh đường dự tang lễ chung của những người quá cố trong tai nạn ở Sherman. Cô Linda đã nhiều lần gặp bà Nguyễn tại trường. Lúc đầu nghe cô giáo gọi họ Nguyễn của mình hơi khó nên bà Nguyễn nói cô cứ gọi là bà An cho dễ. Nhưng lần hồi Cô Linda và vài giáo viên khác cũng phát âm tên bà rất trúng.

Mỗi khi có những cuộc họp giữa phụ huynh và nhà trường thì đều có mặt của bà Nguyễn. Bà không nói được nhiều tiếng Anh, nhưng mỗi lời nói của bà là một đề nghị xây dựng hữu ích cho nhà trường, mỗi lời khích lệ của bà là mỗi niềm vui cho thầy cô giáo. Những khi nhà trường có lễ lạc, bà Nguyễn là người tình nguyện đầu tiên. Bà có thể làm đủ thứ việc, từ lau bàn lau ghế đến việc xếp từ lá thư bỏ vào phong bì, dán từng con tem. Nhiều thầy cô giáo khi gặp bà Nguyễn tại trường, bà chỉ cúi đầu nhỏ nhẹ nói Thank you, một cử chỉ biết ơn và biết quí trọng thầy cô mà hiếm khi Linda thấy trong suốt hơn 10 năm dạy học của mình. Cô Linda còn nghe nói bà Nguyễn đã đề nghị với nhà trường từ niên khóa nầy cho bà tình nguyện làm người cầm bảng STOP đứng chận xe cộ trên con lộ phía trước trường vào mỗi buổi sáng trước giờ học sinh vào lớp. Người đàn bà nhỏ nhắn mà có tấm lòng thật rộng và vô cùng cao cả. Tiếc là bà đã vội vã ra đi, để lại bao nhiêu tiếc thương cho người ở lại.

 

 

 

Về đến nhà cô giáo Linda cẩn thận cắt phong bì, lấy ra một tấm ảnh: Ảnh chụp bé Tony đứng dưới một giàn lá xanh, hai tay ôm ngang một trái gì có hình dáng như một cái chai khổng lồ, da xanh như ngọc thạch. Kèm theo một tấm giấy ghi mấy dòng chữ: “Trái bầu nầy là thành quả trong mấy tháng hè của con. Bà ngoại con đã dạy con làm việc nầy. Trong ảnh cô sẽ không thấy bà ngoại con đâu, nhưng con biết bà con đang đứng sau lưng con đó, thưa cô”. Mấy chữ ngắn ngủi đã làm Linda rơi nước mắt. Phải, bà Nguyễn chắc chắn là đang đứng sau lưng Tony, bà sẽ suốt đời đứng sau lưng đứa cháu ngoại cưng của bà, đứng sau lưng suốt đời nó. Linh hồn trong sáng của bà sẽ nâng đỡ Tony, dìu nó đi suốt hành trình làm người của nó. Tự dưng cô Linda cảm thấy nơi nào trong khung viên trường Klein Elementary School nầy cũng có bóng dáng người đàn bà Việt Nam thiện nguyện tuyệt vời nầy. 

Cầu nguyện ơn trên cho linh hồn Anna đời đời an nghỉ trong vườn hoa Vĩnh Cửu nước Thiên Đàng.

Trần Bang Thạch

Cuộc tình lênh đênh

 

Nhà thầy giáo Ba đối diện nhà tôi, hai nhà cách nhau con đường tráng xi măng nhỏ, chỉ rộng vừa đủ cho hai người đi song đôi. Ngay khi thấy mặt và tình cờ biết được tên của người con trai mới đến trọ học tại nhà thầy giáo Ba, thì tôi đã linh cảm được cuộc đời tình ái của tôi sau nầy rồi. Không hiểu sao lúc đó mới mười mí mà tôi nhạy ba cái  chuyện người lớn dữ như vậy. Tôi mường tượng thấy nó sẽ ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh. Nguyên do là như thế này. Cái tên Ly của tôi, Trần Phương Ly, mà ghép vào với cái tên Từ của người con trai đó thì nghe sao bi đát quá chừng. Hai cái tên này mà đụng vào nhau thì không u đầu sứt trán thì cũng ruột tím gan bầm tim thổn thức. Thuở ấy tôi còn ngây thơ lắm vậy mà đã nằm lòng câu thơ: “Đưa người ta không đưa sang sông sao có tiếng sóng ở trong lòng”...  Cho nên Từ Ly hay Ly Từ thì cũng đều âm u, buồn bã, đớn đau, chua xót hết cả... Hình ảnh chàng tại Tương giang đầu thiếp tại Tương giang vĩ tuy hết sức thơ mộng trong thi ca, nhưng nếu cái đầu sông cuối sông ấy mà va vào phận số của mình thì chắc là buồn lắm. Yêu nhau thấu trời mà phải Từ với Ly thì chỉ có nước đi ... tu cho nhẹ lòng nhẹ dạ. Tên Ly của tôi thì vô phương sửa đổi rồi. Đó chắc phải là cái tên ba má tôi thích lắm; có lẽ ông bà đã nhiều đêm trong phòng vắng vừa tâm sự rả rít với nhau vừa tìm tên cho đứa con đầu lòng sắp ra đời, và lúc tôi gặp anh chàng thì cái tên Ly đó đã đi theo tôi mười ba mùa mưa nắng trên cuộc đời nầy rồi, dễ gì mà thay với đổi. Còn cái tên Từ được làm khai sanh cho thằng con út chắc ông bà ngầm thông tin với nhau rằng: Kể từ đây mình nên treo miễng chiến bài và giả từ vũ khí để còn có sức lực lo cho 8 đứa con nheo nhóc. Chớ cái điệu đầu năm sanh con trai, cuối năm đẽ con gái theo lời thiên hạ chúc ngày đám cưới thì chỉ có cách cả nhà uống nước sông cho no bụng. Cho nên cái chuyện đổi hay thay gì thì là ở cái nơi tạm cư của anh chàng đó. Thế giới này rộng thênh thang, tỉnh lỵ này cũng đâu có nhỏ, Thủ Đô Miền tây mà, tự dưng rồi Lê Văn Từ từ một làng quê nào đó chui vào con hẻm cụt nầy mà ở trọ; rồi chẳng biết ma đưa lối quĩ dẫn đường thế nào mà lại ở chường ngay trước mặt người ta. Phải chi anh chàng đến ở tại những nơi khác thì tôi đâu có quen biết gì anh chàng để mà thắc mắc và sầu đời. Phải, tôi đã sầu gần suốt cuộc đời này rồi đó quí vị ạ. Sầu quá kỹ cho nên mới trên năm mươi mà tóc bạc gần hết. Thì ai biểu quen biết với người ta làm chi để bây giờ dài dòng văn tự ?  Xin lỗi quí vị đừng phán như vậy. Quí vị đừng có binh vực người ta mà quá bất công với tui à nghen. Từ khởi thủy tui có muốn nhìn cái bản mặt cô hồn của anh ta đâu mà cho rằng tui muốn làm quen hay làm bạn; tui muốn làm lạ thì có. Nói trắng ra là những tháng đầu tôi thấy cái con người gì mà thật dễ ghét, quê một cục. Tình cờ chạm mặt người ta trên đường đến trường, cái cục quê này nào có thấy người ta đang tập mang đôi guốc cao gót Đa-kao hay cài con bướm bằng ny lông trên tóc, hay khi người ta ráng chịu đau cắn môi trên môi dưới cho môi thêm hồng thêm mọng, cái cục quê ngó lơ như bận tâm nhìn phố xá, hay cứ gầm mặt xuống mà đi, giống như người đi lượm bạc cắc ngoài đường; tui rủa anh chàng bữa nào đó đụng cây cột đèn u đầu gảy gọng để bọn con gái tụi tui cười cho đỡ buồn. Anh chàng ăn mặc còn bắt cười hơn nữa: cái áo sơ-mi trắng rộng thùng thình chồng vô thân hình ốm như cò ma, cái quần tây xanh gọi là quần dài mà cụt ngủn để lòi đôi ống chân cao lỏng nhõng, còn đóng phèn, mốc cời; bước đi thì kéo lê đôi giày săn-đan, làm như từ nhỏ đến giờ chưa từng biết mang guốc mang giày, mà chỉ biết quét đường bằng săn-đan không bằng; bước ra đường là có cái nón rơm che cái đầu hớt cua trông như trọc, nói năng chẳng biết thưa gởi là gì, phát âm thì cứ con-cá-gô-nhảy-chong-gỗ-kêu-gọt-gẹt-gọt-gẹt, tui nghe mà phát “gung” phát “ghét” phát “gầu” thúi “guột” thúi gan . Gần hết năm đầu thì tình hình có khá hơn một chút. Cái đầu hớt ca-rê phật được thay bằng cái đầu chải bảy ba tươm tất, nhiều khi có thêm chút bri-ăng-tin ba con năm và thêm cái ổ gà phía trước. Đầu năm chắc đã đếm cột đường nhiều quá rồi nên chán, giờ đây chịu ngước mặt nhìn lên tí chút. Cũng hỏng chừng chàng ta sợ cứ cuối đầu xuống hoài e rằng hột gà từ trên đầu rơi xuống lả tả thì hứng đâu kịp !!!

 

Năm thứ hai, thứ ba thì mọi chuyện cũng bình thường thôi: ăn mặc như người thành phố, nói năng đàng hoàng, nhân cách hơn. Không biết từ hồi nào anh chàng đã quên khuấy mấy đồng bạc cắc trên mặt đường mà để mắt ngó nghiêng nhìn dọc mấy cái áo dài. Thấy đẹp mà không nhìn thì có là mù! Chắc cũng từ đó mà răng phe ta cắn cặp môi phe nhà thường hơn, trên tóc có thêm vài con bướm màu mè sặc sỡ hơn. Đặc biệt là mỗi sáng đứng lấp ló trong cửa nhà trọ, anh chàng đã biết nhìn vào khung cửa của nhà đối diện, và chờ để lẽo đẽo đi sau lưng người ta. Biết có người tình nguyện hộ tống phía sau, con nhỏ bèn tương kế tựu kế: khi thì làm rớt cây viết, lúc thì cuốn tập hay cái khăn mù-soa, khiến cây tre miễu cuối xuống đường lượm rồi ân cần, lễ phép trao cho nhỏ, ra điều rất lấy làm hân hạnh. Làm vậy vừa bỏ ghét vừa tập cho anh chàng quen khom lưng để vợ dễ dạy sau này! Nhiều bữa con nhỏ nhà đối diện này bèn chơi độc. Nó canh còn đúng 17 phút để nó từ nhà vừa kịp bước vào lớp. Những hôm đó anh chàng bị trễ học là cái chắc, vì từ trường nữ của bà Đoàn phải đi thêm đúng 2 phút rưỡi nữa mới tới trường nam của Cụ Phan! Mà giờ vào lớp của hai trường thì cùng một lúc. Vậy mới chết cửa tứ cho chàng ta. Trễ học là cái chắc. Chém chết cũng bị cồng-xin ngày chủ nhựt, và phải chép đi chép lại cả ngàn lần câu: “Từ đây tôi không dám đi trễ”.  Cho bỏ tật ham làm cái đuôi ! Sau năm bảy lần như vậy thì cái đuôi khôn hơn: chờ đến khi còn vài chục thước đến trường nữ, cái đuôi tiến lên ngang hàng, nheo mắt một cái ra điều bái-bai, rồi phóng nước đại, ngựa phi ngựa phi đường xa, vừa kịp lách vào thì cánh cổng trường khép lại.

 

Nhưng thú thật với quí vị sang đến đầu năm lớp Đệ Nhị  thì cái đuôi này thành cái đuôi sam, chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, đốt không cháy. Ngay tình mà nói cả hai đương sự đâu có ai muốn bứt hay muốn chặt nó đâu. Dại gì mà làm chuyện đau khổ ấy. Trong Hồn Bướm Mơ Tiên, cô nàng Lan của Điệp sau khi làm hai chuyện ruồi bu là cắt tóc và cắt đứt dây chuông chắc tiếc hùi hụi, ước gì  nối tóc và nối dây chuông lại được thì vui thấu trời xanh, Tiên lại về với Bướm. Nói gần nói xa không qua nói thiệt: Tình yêu hổng biết do đâu mà có mặt giữa hai người, lại đến đúng vào năm cả hai chuẩn bị kỳ thi Tú tài một. Lúc tâm trạng người ta giao động, âu lo là lúc người ta dễ nương tựa vào nhau nhứt. Giữa chốn rừng núi âm u dẫy đầy đạo tặc, một thân một mình với tì nữ Kim Liên, dù cho anh chàng Vân Tiên họ Lục vừa khoát tay vừa nói khoan khoan ngồi đó chớ ra nàng là phận gái ta là phận trai thì nàng Nguyệt Nga họ Kiều cũng chỉ muốn sa ngay vào đôi tay rắn chắc của chàng Lục cho yên bề .. ..  an ninh nội địa. Tình yêu của tôi và chàng có lẽ bắt nguồn từ chỗ đó. Từ đầu năm học đệ tứ chúng tôi đã đi học các lớp toán, lý hóa và sinh ngữ ban đêm ở tư thục Thủ Khoa Huân, đi về có nhau cho đỡ lạnh cẳng. Năm này chúng tôi đã biết gọi tên nhau và đã biết chờ nhau đi học. Mộng mơ thì chúng tôi chưa thượng thừa nhưng chắc đã lên hàng bảy, tám túi. Vừa vẽ tim gan phèo phỗi cho môn vạn vật của Thầy Đại Bằngvừa chép thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Prévers .. .. Vừa học tìm sin lấy đối chia huyền, cos thì hai cạnh kề huyền chia nhau vừa đọc Mười Đêm Ngà Ngọc, Để Tưởng Nhớ Một Mùi Hương.. ..Đêm đêm hai đứa, trên hai cái gác đối diện, thi nhau thức khuya học bài và học ... yêu. Không nói ra nhưng hai đứa nhứt quyết phải giành cho được cái bằng Trung học Đệ nhứt cấp. Ê mặt lắm nếu bảng hổ không đề tên. Năm đó thì tâm trạng chúng tôi cũng giao động và âu lo lắm. Và hai con tim thì đã thấy có gì khan khác, nó lửng lửng lơ lơ, ảo ảo mờ mờ như sương như khói. Con chữ con nghĩa, con toán con hóa sao nó cứ nhùn nhằn ẩn ẩn hiện hiện gương mặt người từ căn gác đối diện; đầu trang sách là một nét cười, cuối trang là chút âu sầu trên môi trên mắt. Học Nguyễn Du: mai cốt cách, tuyết tinh thần mà sao cứ thấy có nàng ở trong! Học Benzen, Acêtylene, thấy nơi gác trọ chàng nghiêng nghiêng nhìn! Thấy chàng ngồi đó làm thinh. Thấy nàng trong cửa lén nhìn người dưng. Năm đó chắc có thần ái tình phù hộ dẫn lối đưa đường nên hai đứa đều đậu. Hú hồn! Tưởng là sẽ tởn tới già đừng đi nước măn mà hà ăn chưn; nói cho rõ là sẽ không dám lần khân với ái tình. Tưởng là sẽ chẳng nên tương tàu tương hột tương tư làm chi cho ốm o gầy mòn long thể. Nhưng ông thần tình ái dường như đã cho chúng tôi vay lần trước quá nhiều nên bây giờ muốn lấy lại cả vốn lẫn lời. Hắn cho chúng tôi xang bang xấc bất ngay đúng cái năm Đệ Nhị gai góc. Bài vở học thi thì cao bằng núi mà sự thương nhớ thì cao bằng trời. Không nhìn thấy ánh điện bên kia cửa sổ thì nhớ. Không đi chung lối đến trường thì buồn. Những khi chàng phải về quê đôi ngày thì chắc chắn sau đó chúng tôi đọc thư của nhau mệt nghỉ. Tui viết rằng: những đêm học bài khuya, nhỏ đạp xe một mình ra bến Ninh Kiều mua xôi vò, không có chàng, nhỏ ăn cả phần xôi nhỏ mua cho chàng, để nhớ chàng thêm, nhớ gấp đôi lận đó. Còn chàng của nhỏ thì viết rằng: anh leo lên cây quít đầy kiến lửa và chơm chỡm gai , bẻ một trái quít vàng mọng rồi lột vỏ, đớp nhẹ vài múi, và chợt nhớ đến nhỏ, nhớ vô cùng là nhớ, nhớ bất tận. Câu văn tuy có hơi hướm thơ Tô Thùy Yên nhưng nghe vẫn phát thương. Ước chi chàng ăn nguyên trái bưởi to kềnh thì niềm thương nhớ chắc phải bự hơn! Có lẽ chàng của tui bắt đầu làm thơ từ những ngày này. Cái kiểu lục bát như vầy: Ngoài kia có lạnh không em? anh nơi này đứng bên thềm ướt mưa. Nhớ em biết mấy cho vừa. Nhớ em biết mấy cho vừa, nhỏ ơi! Cái câu nhớ em biết mấy cho vừa nhỏ ơi này chàng viết đi viết lại đầy nửa trang giấy còn lại của năm tờ giấy pelure xanh da trời, giống như ngày nào chàng chép bài phạt ngày chủ nhựt. Nhân ngày sinh nhựt của tôi, chàng mua tặng quyển truyện Thương Hoài Ngàn Năm của Võ Phiến, còn viết thêm lời nhạc của Phạm Mạnh Cương: Ngàn năm yêu hoài một mối tình thôi. Ảnh hình mỗi người không còn thập thò nơi cuối sách hay đầu sách, mà hiển hiện kín cả trang, che cả chữ. Ghét thương, hờn giận, nhung nhớ, âu sầu ... như những chùm nho treo lủng lẳng trên cả hai căn gác, muốn hái vài trái liệng đi mà sao lòng không nỡ, chúng nó hình như đã là máu thịt rồi. Lắm khi tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Người ta thường nói khi bị tình phụ mới gọi là thất tình. Không phải vậy đâu, kính thưa chư liệt vị, kinh nghiệm tình yêu của tui và chàng là càng yêu nhau càng thất tình đậm nếu hiểu thất tình là nhung là nhớ, dù là đau là khổ, là vàng võ tương tư bầm gan tím ruột, có khi là khóc như trẻ thơ, giận hờn như con nít, mè nheo như giữa con với mẹ...Những cái lẻ tẻ này thì chúng- mình- hai- đứa đều có hết. Phải chăng như thế mới tình?!

 

Trên đây chỉ là màn giáo đầu của tôi về cuộc tình lênh đênh này. Cuộc tình lênh đênh! Nghe sao có vẻ tình không biên giới quá. Tình muốn đi đâu thì đi , trôi đâu cũng mặc, vô bờ vô bến. Có lúc tình cứ thẳng băng một dòng mà chảy. Có khi tình như con sóng, dâng cao như cái nhà lầu, xuống thấp như rơi vào đáy vực, có lúc xoáy trôn ốc chừng như muốn gãy làm đôi. Nghe thì ghê quá, nhưng ngẫm lại mà coi, tình ai mà chẳng vậy. Nếu không vậy thì hỗng phải là tình. Phải không thưa chư liệt vị?

 

Năm đó thần ái tình vẫn phù trợ chúng tôi, có lẽ không muốn cho đứa đậu đứa rớt mà sẽ xảy ra chuyện xa mặt cách lòng, hay cái lênh đênh của phận Kiều trong bài nghị luận văn chương năm đó đã nhập vào trang viết của chúng tôi, làm cho chúng tôi đều đậu, dù là đậu passable.

 

Một lần đã tởn tới già. Đừng vội nghĩ chúng tôi đã sợ tình yêu. Chuyện này chắc còn khuya. Tởn đây là tởn cái ban A mà chúng tôi đã chọn hai niên học vừa qua. Sang năm đệ Nhứt chúng tôi ngoéo tay nhau vào học ban C. Năm nay thì tất cả hơn hai mươi con-người-văn-chương-lớp-C của chúng tôi ra vẻ rất ư là văn chương, rất ư là văn nhơn thi sỡi. Chúng tôi mơ mộng gấp mười lần hơn trước; chúng tôi làm như trên đời này làm gì có chữ vui mà chỉ có một chữ buồn to hơn cái sông Bá-Sắc. Chúng tôi uống cà phê đen nơi quán cóc, nghe Sylvie Vartan,Thanh Thúy, mấy anh chàng tập hút thuốc Bastos xanh. Chúng tôi cầm trên tay những Bùi Giáng Mưa Nguồn, Phạm Công Thiện Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, J.P.Sartre La Nausée, H.Miller Tropic of Cancer , Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi...Có chị cháu ông nguyên quốc trưởng còn cất công đi xe đò lên nhà sách Albert Portaille đường Tự Do Sài-gòn đặt mua báo dài hạn Les Temps Modernes của Sartre tận bên Tây, chúng tôi chia nhau vừa tra tự điển vừa đọc. Năm 1964 khi Sartre của chúng tôi từ chối nhận giải Nobel văn chương, chúng tôi thức trọn đêm, nấu một nồi cháo cá ăn mừng, cũng để hổ trợ cho cái chịu chơi của thần tượng. Cái Nobel chỉ lớn bằng cọng lông chưn của thần tượng Buồn Nôn của chúng tôi! Nhận làm gì cho mất tiếng! Có anh để tóc dài quá ót, còn mang vào đôi kính trắng không độ, gọng mủ đen kịch cợm, cho ra vẻ trí thức. Có chị cắt tóc kiểu demi garçon để đêm nằm mộng thấy mình thành Audrey Hephur. Chúng tôi lập nhóm thơ văn, gởi thơ truyện đăng báo, thật xôm trò. Có lẽ cũng từ đó mà việc viết lách thêm nhuần nhuyễn và tinh thần triết học thấm vào da, nên bài thi triết năm đó đa số chúng tôi được cao điểm để vượt qua bậc trung học. Mấy nhà văn nhà thơ tự phong tỉnh lẻ chúng tôi bây giờ mới thấy được chữ vui, tuy rất nhỏ.

 

Màn kế của chuyện tình này thì nó dài thườn thượt, vui ít buồn nhiều. Đúng là: Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sầu. Cái vui cái buồn tiếp tục con đường thiên lý quanh co thác ghềnh của nó bằng chuyến xe Đại Đồng từ tỉnh nhà lên Sài-Gòn.

 

Chân ướt chân ráo, chúng tôi nhập vào cái quái trận đồ của đô thành. Chàng định cư ở cái đại học xá đường Minh Mạng, gần Nhà thờ Ngả sáu, kế trường Chu Văn An, còn tôi thì gởi thân cho các dì phước cai quản cư xá nữ sinh viên Sao Mai, trên đường Trần Hoàng Quân, cũng gần ngả sáu Chợ Lớn. Nhiều đêm chàng xúi tôi leo tường vượt ngục, tránh mấy cái áo chùng trắng tinh để nhập vào thế tục. Hai đứa ở khá gần nên gặp gỡ cũng thường và giận hờn cũng lắm. Người xưa bảo yêu nhau lắm cắn nhau đau, thật là chí lý. Tôi giận chàng thường là vì ghen. Cũng phải thôi, ai đời cứ đem chuyện cô học-trò-kèm-tư-gia ra mà nói, hết cô này rồi tới cô kia, hết cô kia rồi tới cô nọ, làm như đọc tiểu thuyết phơi-ơ-tông Quỳnh Dao không bằng! Có lần chờ chàng đến chở đi tiệm sách Khai Trí, rồi tiện đường ăn bò viên và uống nước mía Viễn Đông, chờ hoài không thấy bèn đến kiếm chàng tại đại học xá, thấy chàng đã ngồi nơi phòng tiếp khách nói chuyện rất ư là thân mật với một bom-bê thuộc tuổi-thích-ô-mai từ hồi nào. Thế có giận không chớ. Giận thì giận nhưng chiều tối đó cùng chàng ra ngồi lề đường Nguyễn Tri Phương, góc đường Bà Hạt, cho mấy thau nghêu vào thì hờn giận cũng xách gói đi ra. Cùng học Văn Khoa nên chàng tình nguyện lái cái mô-bi-lét xanh cũ mèm đưa người tình đi học. Thuở đó trường Văn Khoa còn ở đường Nguyễn Trung Trực, gần nhà chợ Bến Thành nên sáng nào cũng ráng tấp vào chợ, ngồi chồm hỗm ăn tô bún bì, húp nước mắm rồn rột. Nhiều lần xe chàng trở chứng, chàng phải ngồi sau cái vê-lô-sô-léc của tôi, trông thật buồn cười. Chân dài thượt không biết gác ở đâu, tay cũng dài ngoằn không biết ôm cái chỗ nào cho khỏi mang tội công xúc tu sĩ và cho khỏi té. Nhờ dạy mấy trường tư và kèm trẻ, chàng tiện tặn sắm được cái Lambretta tuy cũ nhưng tình hình lưu thông khá hơn, chàng đỡ vất vã trong cái nắng Sài-gòn anh đi mà chợt nóng; chàng khỏi phải đẩy cái vê-lô hay đạp cái mô-bi-lét hàng cây số. Bù lại, những ngày đi học, được đến giảng đường sớm hơn để không bị mất chỗ ngồi, những ngày nghỉ thì đèo nhau ra Bãi Sau, Bãi Trước vừa tắm biển vừa tránh cái ngột ngạt của Sài-gòn. Chỉ tránh được vài lần, sau đó chính chàng góp phần tạo ra những cái ngột ngạt ấy. Quả tình Sài-gòn thời đó thật là xáo động. Biểu tình, lựu đạn cay như cơm bữa. Bãi khóa, tuyệt thực, xuống đường. Đại Học Xá Minh Mạng thường bị lựu đạn cay suốt đêm, trong túi người nào cũng thủ sẵn vài trái chanh và cái khăn ướt. Phong trào Cha Trần HữuThanh, phong trào Bà Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, các cha thuộc nhà dòng Chúa Cứu Thế như Cha Nguyễn Ngọc Lan với Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá, cha Phan Khắc Từ trong bộ quần áo của người lao công hốt rác, cha Chân Tín với báo cấm Đối Diện. Tiếp nối các lãnh tụ sinh viên thời 63 Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Tôn Thất Tuệ, thời hậu 63 có các lãnh tụ sinh viên Tô Lai Chánh, Hồ Hữu Nhựt, Nguyễn Thành Công, rồi Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, rồi Nguyễn Đăng Trừng, Trần Văn Chi, Đoàn Kĩnh, Phạm Hào Quang, Hạ Đình Nguyên, học sinh Lê Văn Nuôi...tổ chức thường xuyên những cuộc hội thảo, xuống đường chống đủ thứ. Nhạc Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh... “ tôi có ngưới yêu chết trận Pleime” hay “Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng. Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”...được nghe và được hát khắp các khuôn viên đại học. Nữ Hoàng Chân Đất KL bắt đầu nỗi danh tại Quán Văn, phía sau Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực. Các giáo sư Trần Anh, Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí bị ám sát ngay trên đường phố Sài-gòn. Súng nổ ở Đêm Tất Niên Văn Khoa làm bị thương sinh viên Ngô Vương Toại và hàng chục người khác trong một đêm hát nhạc sinh viên. Ứng cử viên chức chủ tịch Ban Đại Diện Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhựt bị bắn chết trong sân trường. Tại trường Y, anh sinh viên con thẩm phán nổi tiếng họ Trần rơi xuống đất từ từng sân thượng; người thì cho là tự tử, người thì bảo bị thanh toán vì lý do chánh trị. Chiến trường thì đã sát nách Sài-gòn. Đến Tết 68 thì súng đã thay tiếng pháo mà nổ khắp Sài-gòn, Chợ Lớn, Gia Định; nổ khắp nơi, khắp các tỉnh, các quận toàn quốc. Một số sinh viên quen biết đã vào tù hay ra mật khu. Ác hại thay: tranh đấu, biểu tình, tuyệt thực là chàng, làm báo chui là chàng, ngồi tù cũng chàng mà ra bưng cũng chàng! Ôi, chàng của tôi. Không nói, quí vị cũng biết lúc đó tôi khổ biết chừng nào. Thời gian này tôi rất ít khi gặp chàng. Nhớ chàng lắm mà chẳng biết tìm chàng nơi mô. Cha tôi một công chức cấp cao của Nha cảnh sát vùng 4 biết rất rõ tình trạng gia đình và cá nhân của chàng, bắt tôi phải xa chàng. Tôi thì đâu có nỡ. Chàng bận tranh đấu, xuống đường, họp báo, hội thảo.. .. tôi ghi và lấy giảng khóa cho chàng. Chàng bị dùi cui chảy máu, bong gân, u đầu, sứt trán .. ..tôi thoa dầu gió, xức thuốc đỏ, băng bó cho chàng. Sau những ngày tuyệt thực ở trụ sở Tổng Hội số 4 Duy Tân, chàng xanh xao vàng võ, tôi phải cơm cháo bồi bổ cho chàng. Những tháng ngày chàng ngồi tù Tân Hiệp tôi đều đặn cơm nách xách mang thăm nuôi. Ngay sau Tết Mậu Thân chàng đi mất mà không một tiếng giả từ. Tôi buồn biết bao nhiêu. Trên những chuyến xe đò về miền Tây thăm nhà, nhìn qua ngó lại thấy người ngồi bên cạnh không phải là chàng, tôi khóc như người vợ vừa tiễn đưa xác chồng ra phần mộ.

 

Cái tên Từ, Ly chắc bắt đầu nghiệm ứng từ đó.

 

Tôi mang cái buồn đi theo khi tôi rời khỏi nước, trước lúc chàng mang K54 trở về trong một miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Người ta nói chàng theo đoàn cán bộ cao cấp vào tiếp thu trường Phan Thanh Giản của chúng tôi. Người ta còn kể ngày người ta đập tượng Cụ Phan tại sân trường, có người thấy chàng đứng sau khung cửa sổ của từng hai, dãy đầu, nơi có phòng Sư Đạo Tôn, tay chặm nước mắt.

 

Chuyện của tôi kể đến đây quí vị có thể coi như là hết. Nhưng đối với tôi và chàng, chuyện chưa kết thúc. Ở bên này và ở bên kia biển Thái Bình Dương  chúng tôi là Ngưu Lang và Chức Nữ, coi như kẻ đầu sông người cuối sông Ngân. Người xưa suốt đời nhớ nhau, mong đàn chim về bắt cầu Ô Thước mỗi năm để có phút giây gặp gỡ. Còn tôi và chàng là Từ với Ly thì coi như dây cũng chùn mà cầu cũng đứt để đúng với hai cái tên tiền định Từ, Ly. Biết là tiền định, nhưng tình thì không định. Tình cứ lênh đênh như sóng, mãi mãi dào dạt trong lòng.

 

 

Trần Bang Thạch

CĂN NHÀ MÙA XUÂN

 

                                                                          Thân tặng người dân Long Hồ

 

 

 

Bỗng nhiên ông Khương thấy con đường từ nhà bếp và phòng ăn dẩn ra phòng khách như ngắn lại. Có lúc ông Khương còn thấy cái bàn, cái ghế, bộ sa lông, cái TV…sao mà lớn hơn ngày thường và các phòng ngủ cũng hẹp hơn. Sáng sớm hôm nay hình như ông Khương đã mường tượng những điều đó khi ông vừa thức dậy và biết rằng hôm nay là ngày vợ ông xuất viện. Chỉ mới hôm qua và những ngày trước ông Khương còn thấy căn nhà như quá rộng khi thiếu bóng dáng vợ ông trong nhà. Hôm nay thì vợ ông sắp về nhà. Vợ ông sắp về rồi. Từ sáng đến giờ không biết ông Khương đã nghĩ đến điều đó bao nhiêu lần. Càng nghĩ thì càng trách mình tại sao không bỏ cái hẹn với ông nha sĩ để cùng với con gái đi rước vợ. Chỉ có hơn nửa giờ để làm cái răng giả mà ông để lỡ hết việc thật, nhứt là một việc rất thật là đi rước vợ ông về nhà sau gần một tuần lễ nằm bịnh viện. Đích thực là vợ ông không nằm bịnh, mà bà  đến bịnh viện của ông bạn thân cách đây hơn tám mươi dặm để ông bạn kiểm soát toàn bộ sức khỏe của bà, chớ bà chưa có dấu hiệu của những căn bịnh già! Giá mà mắt mũi ông còn tốt, mỗi ngày lái xe đi thăm bà một chuyến thì chắc cũng đỡ nhớ. Có câu ca dao nói “thương em mấy núi anh cũng trèo, mấy sông anh cũng lội”, còn ông chỉ có ngồi xe lái phom phom trên xa lộ mà cũng không làm nổi! Chỉ có năm ngày mà ông Khương coi như thế kỷ! Mấy tờ lịch cũng dỡ chứng, cứ ngồi lì trên vách, không chịu rớt xuống. Ông đã ngồi không yên, mà đứng cũng không lâu. Các cây kim giờ của mấy cái đồng hồ tự nhiên hôm nay làm một cuộc thi đi chậm! Cái radio ông mở ra đó như thói quen. Mọi khi ông bà đón nghe chương trình đài VOA, đài BBC và đài địa phương nghe con gái đọc truyện. Hôm nay radio nói cái gì mà cứ rỉ rả ông có nghe hiểu gì đâu. Đã bao nhiêu lần ông Khương cứ đi tới đi lui, đi quanh đi quẩn hết nhà ăn ra phòng khách, hết phòng khách ra vườn sau, hết vườn sau ra vườn trước. Quái lạ, tất cả lối đi sao mà ngắn hơn và hẹp hơn bình thường. Nhưng mà hồi sáng khi đi bách bộ như mọi ngày trên con đường lót gạch đỏ chạy xung quanh hàng rào khoảnh vườn sau nhà, ông Khương lại thấy thời gian dài hơn, mà con đường thì rộng hơn. Cũng vẫn là 50 vòng, vẫn những bước đều trên 148 miếng gạch vuông mỗi chiều 2 feet. Còn hai cây mai tứ quí ở góc vườn mới mấy hôm trước ông khen bà lặt lá để mai trỗ bông đúng dịp Tết, bây giờ trông nó trụi lủi trụi lơ như những nhánh xương khô! Bông biếc làm sao mà có! Rõ ràng là ông Khương lung tung quá. Nghĩ ngược rồi nghĩ xuôi. Nghĩ ngợi lung tung đủ điều, không cái gì ra cái gì.

Chợt ông Khương mĩm cười khi có ý nghĩ rằng trí óc mình bây giờ là con ngựa bất kham. Nếu có vợ ông trong nhà con ngựa chắc đâu có chạy bốn phương tám hướng như vậy ! Ủa ! Như vậy là làm sao? Chẳng lẽ từ bao lâu rồi mình đã “ghiền” cái hàm thiếc tự nguyện ấy rồi sao? Cũng chẳng sao hết. Đọc lại Tây Du Ký đi. Giá mà không có cái kim cô của Phật Tổ tròng vào đầu thì còn lâu Tề Thiên mới thành Đại Thánh ! Hồi nhỏ ông Khương có nghe người ta ví người vợ rồi cũng sẽ là người mẹ của ông chồng. Hồi đó ông đâu chịu tin. Làm sao mà có cái chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy được! Bây giờ có lẽ ông phải nghiêng theo chủ nghĩa xét lại rồi.

Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa. Ông Khương đang ở cái tuổi thất thập, tuy trí nhớ lúc nắng lúc mưa, nhưng ông nhớ rõ là đã thật lâu, lâu lắm, hơn ba mươi năm rồi, ông bà chưa một lần xa nhau, dù chỉ một ngày. Đi đâu là phải có đôi. Như chim liền cánh, như cây liền cành. Ông Khương nhớ từ ngày chánh quyền Miền Nam mất, ông Khương cũng bị mất mấy cái ghế trên các bục giảng nơi các giảng đường của ba bốn trường đại học, mất cả mấy chục ngàn môn sinh của mình mỗi năm, và dĩ nhiên là ông bị cho nghỉ dạy; điều mà bạn bè ông thường túm khụm nói chơi cho vui là chúng mình ôm bằng cấp treo trên nhà bếp để trở thành người mất dạy. Nghe thật tức cười nhưng cũng rất là “biện chứng” : Trong một xã hội kẻ chột làm vua thì người sáng mắt phải đi chỗ khác chơi, cho được việc nhà nước!!! Trước đó, lúc ông bà mới cưới và chưa có tí nhau nào, những lần đi gác hay chấm thi ông bà thường đi chung với nhau, coi như mỗi năm một lần “honey moon” cho đậm đà tình nghĩa. Không biết mấy ông Giám Đốc Nha Khảo Thí cố ý hay vô tình cứ đưa ông đi hết Nha Trang rồi Đà Lạt, rồi Vũng Tàu; có lần còn đi xem lăng tẩm ở Huế. Toàn là thánh địa của tình yêu. Ôi gió mát trăng thanh, rì rào sóng biển, non nước hữu tình. Khỏi nói thì ai cũng biết: chuyện tư, chuyện công, ông bà hoàn thành vô cùng tốt đẹp. Những năm đó thi cử còn khó khăn, còn sót những giáo sư cà vạt cổ cồn từ thời Pháp thuộc,  nên“mười người rớt bảy còn ba, rớt oral còn một mới ra anh Tú Tài”. Có lẽ vì ảnh hưởng cái khó khăn của thí sinh mà Khương Phu Nhân cũng chậm cho ra lò các quý tử. Ở trường thi, Khương Giáo sư là người mát tay, chấm đâu thí sinh đậu đó, còn chấm gà nhà thì sao cứ trật vuột hoài, tức ơi là tức! Khi Nha Khảo Thí bỏ thi hạch miệng, rồi ông Mỹ chỉ cho cách thi cử IBM, gọi nôm na là ABC khoanh, các giáo sư khó khăn cỡ giáo sư Trần văn Lúa nghỉ hưu thì thí sinh đậu nhiều hơn. Trong dân gian câu nói “ lúa rồi” để chỉ người trợt vỏ chuối dần dần biến mất trong giới thí sinh. Thí sinh đã bắt đầu khoanh giỏi và Khương giáo sư cũng từ từ giỏi khoanh hay là vì Khương Phu Nhân gặp thời thế thế thời phải thế, cũng theo phong trào đậu mà lần lượt cho ra đời các quý nam, mỗi năm một quý ! Quý nữ chót thì phải đợi khi Khương giáo sư hồi loan sau hai năm tu nghiệp ở Hồng Kông. Đó là thời gian hai người xa nhau lâu nhứt trong đời vợ chồng. Ôi hai cái năm đó mỗi lần nhớ tới là ông Khương thấy sót dạ đau lòng. Hai vợ chồng đều là nhà giáo, con đông, đồng lương ít ỏi mà sinh sống ở Sài thành hoa lệ, bà con không có, nhà cửa, giá cả sinh hoạt mắc mỏ như vàng, tháng nào đủ cho tháng đó đã là may. Ông Khương đi xa, mất một số tiền lớn khi dạy tư ở các trường khác, để lại đồng lương căn bản cộng với đồng lương nhà giáo của bà nhiều khi không đủ chi tiêu. Bà vốn là thiếu nữ yếu đuối chỉ biết sống bằng nghề dạy học. Viết thư cho vợ bao giờ ông Khương cũng bắt đầu bằng câu “Vợ yêu quí của anh”: “Vợ yêu quí của anh, bây giờ đã gần nửa đêm, anh đang ngồi đây trên tầng lầu thứ 59 của chung cư Ô Thước. Biển Thái Bình Dương mịt mùng ở xa. Phố xá nhạt nhòa dưới thấp. Mưa thì đang bay lất phất ngoài cửa sổ. Anh thì ngồi trong nầy thì thầm gọi tên em. Nhớ em và các con vô cùng. Hởi em yêu quí, ngay giờ phút nầy anh ước chi mình là cánh chim nhỏ vượt đại dương, rồi biến thành cánh bướm khuya bay vào cửa sổ nhà mình để ngắm nhìn em và các con đang an giấc điệp. Cánh bướm sẽ để lại một đóa hồng nhung nhỏ xíu trên chiếc gối bỏ trống nằm cạnh em. Em, em có đang nằm mơ thấy anh không? Anh thì luôn luôn thấy em, kể cả trong giấc ngủ. Không hiểu sao anh thường nằm mơ thấy em tất tả đi trong lòng phố, môi mắt buồn hiu, đầu trần đội nắng, tóc lệch đường ngôi, cánh áo dài màu thiên thanh nhập nhòa cát bụi. Anh cũng thấy nhiều lần cái gốc đường Cộng Hòa –Thành Thái ngày xưa, nơi mình gặp nhau mỗi sáng”. Về phía bà giáo Khương thì thư gởi cho chồng, mười cái như một, đại khái như thế nầy: “Anh yên tâm lo học hành, nghiên cứu. Việc nhà, việc con cái, em đều lo được hết. Anh đừng bận tâm, em bây giờ giỏi gấp mười lần trước. Các con cũng giỏi và ngoan lắm. Cuộc sống cũng đầy đủ, không thiếu gì đâu. Lúc anh mới đi, em buồn và nhớ anh lắm, nhưng bây giờ thì đã nguôi ngoai dần. Lo đi dạy, lo cho con, anh nghĩ coi em còn thì giờ đâu nữa mà ngồi buồn”. Những lời thư như vậy làm ông Khương yên tâm. Có thư vợ ông còn viết những lời chọc ghẹo ông: “Nè, em nói cho mà biết, đừng có loạng quạng với các tiểu muội The China Doll má thắm môi hồng xường xanh xường xám mà chết với em đó nhen cưng! Không giấu em được đâu. Mười móng tay em nhọn hoắc và dài tới mấy ngàn cây số lận đó! Hoạn Thư mà sống dậy cũng còn thua em xa.”  Những lời thư như vậy làm ông Khương càng yên chí vợ mình không quá buồn não như ông nghĩ. Nhưng có một lá thư do con trai lớn ông gởi qua khiến ông phải rơi nước mắt. Càng đọc thư con, ông càng thương nhớ vợ: “ Ba ơi, má bây giờ cực lắm. Xong giờ dạy ở trường, má còn đi kèm trẻ ở trong Chợ Lớn, đạp xe hàng năm, bảy cây số tới tối mịt mới về. Những đêm mưa, đường xá ngập nước, con hẽm nhà mình nước mưa lên tới đầu gối, má đội mưa, dắt xe đạp mà về, mình mẫy ướt hết. Má lo cho anh em con ở nhà giữa mưa sa, sấm chớp. Chị Hai giúp việc má cho nghỉ lâu rồi. Về nhà má còn lo cơm nước, giặt giũ, rồi ngồi chấm bài tới khuya. Mà ba ơi, nhiều đêm nửa khuya chợt thức giấc, con thấy má ngồi trong góc bếp rấm rức khóc, khóc một mình trong bóng đêm. Má bây giờ ốm lắm, như cây tăm. Tụi con biết, nhiều lần trước mặt các con, má cười như mếu, má cố đè nén cơn ho cũng như đè nén nỗi buồn”. Ôi! còn nỗi buồn nào lớn hơn nỗi buồn của ông Khương lúc đó. Họa chăng chỉ có nỗi buồn lớn như trời như biển của người vợ yêu quí của ông đang kham khổ nơi quê nhà mới có thể lớn hơn được. Ngày về nước, ông biết hết mọi chuyện. Các con nói cho ông nghe hết. Vợ ông chỉ biết khóc. Đêm đầu tiên trở về căn nhà mái tôn vách lá đơn sơ trong con hẽm nhỏ ở vùng Đa Kao, Tân Định, ông bà Khương chỉ biết ôm nhau mà khóc. Bao nhiêu nhớ nhung của tháng ngày xa cách bây giờ đọng thành suối nước mắt. Những thương khó của vợ trong suốt hai năm trời cao như núi. Bao nhiêu ngàn sạn đạo nàng đã một mình một bóng lầm lũi lê bước đi qua; nhiều khi đi giữa những ma quỉ chập chờn, những âm binh, chướng khí của một Sài Gòn hoang lạc về đêm. Người hiền phụ ấy đã như người nhắm mắt bịt tai đi trong những tiếng đời xao động. Ôi! Cây thập giá đời cả ngàn năm sau đã rơi xuống đôi vai mõng như lá mềm như sương của người con gái đất Long Hồ. Rạng sáng hôm sau, ông Khương dọn mình sạch sẽ, mặc bộ bà ba trắng tinh, đứng trước sân, đốt mấy nén nhang, trước là cảm tạ trời đất đã gìn giữ cho ông một mái ấm gia đình, sau là ông cảm tạ ba má vợ đã cho ông một hiền phụ chung tình, chịu thương chịu khó, chỉ biết có chồng con. Giữa trời đất tinh khôi với vầng Đông vừa ló dạng, ông cũng thầm cám ơn vợ đã cho ông biết được đầy đủ ý nghĩa của hai chữ Tào Khang. Từ đó đến nay đã gần tròn năm mươi năm rồi. Năm mươi năm chồng chất những thương yêu, tình nghĩa. Sợi dây ân tình mỗi ngày thêm bền chặt, gắn bó như keo sơn. Mỗi ngày bên nhau là một hạt nghĩa, mỗi hơi thở thương yêu là một hạt tình. Đến nay thì những hạt nghĩa tình lóng lánh ấy đã kết thành xâu chuỗi ngọc quí nhất trên đời. Mới đây, khi nghĩ tới đoạn đường dài tình nghĩa ông bà đã dắt nhau đi, ông Khương hứng chí làm mấy câu thơ:

 

Một đoạn đường dài, vạn nẽo chông chênh

ta nắm chặt tay nhau vượt ngàn thương khó

Hương lửa ba sinh mặn nồng từ thuở đó

hun tình yêu nồng thắm đến bây giờ.

 

Tạ ơn người tình, người vợ, người thơ

đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc

 

Những bài thơ có tình ý thiết tha như thế này, ông Khương dành riêng cho mình ngâm nga cho vui; chớ từ ngày con cái đã lớn, rồi có cháu nội, ngoại, rồi tuổi càng ngày càng cao, ông bà hình như mất dần những cử chỉ thân mật, những chăm sóc đượm tình như đôi mươi năm trước, nhất là ở những nơi đông người. Ở đây gặp nhau người ta hay “hug” nhau, ôm nhau, tỏ cử chỉ thân mật. Ông bà Khương biết đó là điều tốt, nhưng ông bà làm chưa được.

 

Những ngày đầu ở nước mới, như mọi người, ông bà Khương đâu tránh khỏi những âu lo. Vợ ông thêm một lần nữa chịu thương chịu khó. May là các con đã biết tự lo cho cuộc sống tương lai của mình. Khi tất cả các con đã nên danh phận, mỗi đứa một mái ấm gia đình riêng, cũng là lúc ông bà Khương nghỉ hưu. Tưởng rằng căn nhà sẽ trở nên buồn tẻ sau khi tiễn con gái út lấy chồng. Thực tế là không phải vậy. Gả con hay cưới dâu chính là dịp ông bà Khương có thêm con, thêm cháu. Thêm niềm vui. Mỗi ngày thêm niềm vui mới. Không biết từ hồi nào, căn nhà đã trở thành căn nhà mùa xuân. Xuân quanh năm suốt tháng. Xuân là những người có mặt trong nhà, xuân là tiếng cười ròn rã, là tiếng ca đớt đát của các cháu nội, ngoại. Nhà ông bà bây giờ ở đâu cũng thấy đồ chơi con nít. Hai đứa cháu nội Cu tí, Cu Ti, rồi cháu ngoại Mina, Mimi lần lượt chào đời cứ nối dài những tràng cười cho ông bà nội ngoại. Lúc cháu còn nhỏ, ông bà săn sóc, nuôi dưỡng từng đứa; lớn hơn một chút thì ông bà đưa cháu đi học, dạy nói tiếng Việt, nghe tiếng Việt, dạy chữ Việt. Người ta nói các ông bà thương cháu hơn thương con. Điều này thì ông bà Khương chưa xác quyết được, nhưng tình thương bây giờ hình như ông bà dành nhiều thật nhiều cho mấy đứa cháu. Có lẽ vì ông bà gần gũi với mấy cháu hơn là với cha mẹ chúng nó. Nghe đứa cháu này bặp bẹ mấy tiếng nói đầu tiên, thấy đứa cháu kia tập đi từng bước, té lên, ngã xuống, ông bà đã thấy đầy niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui và hạnh phúc thật gần, có xa xôi gì đâu; vói tay là đụng tới. Mỗi lần nghe con Mina đớt đát ca: “Con mèo trèo lên cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà, chú chuột đi chợ đường xa, mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo”  là ông bà Khương ôm bụng cười lăn, trăm lần như một. Có một câu mà mỗi lần Cu Tí ca là cả nhà không nín được cười: “công cha như búa Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong buồng chảy ra”. Cả nhà cười như bể chợ. Anh con rễ người Việt nhưng không hiểu nhiều tiếng Việt cũng cười nghiêng ngữa. Cô con dâu người Đức không hiểu “búa” hay “núi” cũng như không hiểu “nguồn” hay “buồng”  là gì cũng cười ngoặt ngoẽo. Vợ chồng thằng con trai thứ chưa có con nên nếu muốn cười thì cứ về nhà cha mẹ mà cười cho bể bụng. Trước kia khi chưa có đứa cháu nào ra đời, vợ chồng anh con trai thứ này rất lười về nhà. Nay thì hết vợ tới chồng đeo theo mấy đứa cháu. Nhà ông bà Khương ngang nhiên trở thành một hí viện chuyên trị hài kịch. Các đứa cháu đóng kịch, ba má chúng nó đóng kịch, cả hai ông bà cũng đóng kịch. Ông Khương có biệt tài nhái giọng con Elmo trên đài số 8 cho các cháu cười vui thỏa thích. Kịch sĩ hay hay dỡ thì không biết, chỉ biết căn nhà lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười. Những buồn phiền, những căng thẳng ở sở làm, những “road rage” trên đường phố, những biêu những biếc, những lo những liếc, v.v… đều bị bỏ hết phía ngoài cửa. Trước cửa nhà ông bà Khương thiếu điều có treo tấm bảng “ No Stress Allowed ” hay “Stress Free”.

Nói đi thì cũng phải nói lại. Có khi ông bà Khương cũng buồn thấu xương. Hai ngày cuối tuần, hay ngày lễ, các cháu ở nhà cha mẹ chúng nó; nhà ông bà Khương trống vắng, đìu hiu. Chỉ xa có đôi ngày thôi mà nhớ thì vẫn nhớ. Gọi điện thoại tới lui mà vẫn nhớ. Sáng Thứ Bảy hay Chủ Nhựt nghe đứa nầy gọi, đứa kia gọi thăm ông bà; ông bà nội ngoại vui no đầy, không cần ăn sáng cũng no. Cứ mỗi sáng sớm Thứ Hai, ông bà chờ nghe tiếng mở cửa để ôm mấy cháu vào lòng cho thỏa cái nhớ. Hay là những lúc các cháu theo cha mẹ đi xa, hoặc có đứa này, đứa kia bị bịnh, căn nhà lúc đó vắng tiếng cười. Như mấy ngày nay đây, bà Khương vào bịnh viện, các con nghỉ phép ở nhà săn sóc con cái cho nên đâu có đứa nào tới nhà ông. Căn nhà vắng vẻ như am mây. Mùa xuân không kèn không trống dông đâu mất. Đi tới đi lui cũng một mình. Biết vậy thì vào bịnh viện luôn với bà cho đỡ tức.

Cái tức chưa hết thì điện thoại reo, ông Khương gắn bộ phận trợ thính vào hai tai rồi nhấc máy.

-Ông ngoại ơi, con Mina đây nè ngoại.

-Ừa, con Mina. Ngoại nghe đây. Con đang ở đâu vậy?

-Dạ, con đang ở tại hospital.

-Ừa, con có gặp bà ngoại chưa?

- Dạ rồi. Sao ông ngoại không đi rước bà ngoại vậy?

-Ông ngoại không rãnh con à.

Tiếng thằng Cu Tí chen vào:

-Ông ngoại hư lắm nghen. Chừng bà ngoại về, bà ngoại bắt ông ngoại đứng corner đó nghen.

Ông Khương nghe tiếng cười khục khục trong máy. Chắc có người đang dành điện thoại để nói. Chuyện đứng corner bây giờ thì ông không phải thi hành rồi, nhưng nhớ lại ông cũng là người đứng góc đường chuyên nghiệp. Chàng là sinh viên Đại Học Sư Phạm trên đường Cộng Hòa, còn nàng là nữ sinh Sư Phạm Thực Hành trên đường Thành Thái, ngang với học viện Bác Ái. Mỗi sáng đứng góc đường nhìn cái mặt nàng một phát mới yên tâm vào lớp. Mấy năm trước đó, tại đất Long Hồ, thằng con trai tỉnh lẻ hĩ mũi còn chưa sạch mà lại thích trồng cây si ngay trước cổng nhà nàng nữa. Quả là con nít quĩ! Nhớ tới mà mắc cỡ quá trời.

-Ngoại ơi, sao ngoại không nói gì hết vậy?

Mãi nghĩ tới chuyện ngày xưa yêu nhau mà quên phứt cái điện thoại.

-Ừ, ờ…Chừng nào thì về vậy con?

-Một chút nữa thôi.

Tiếng con Mimi chen vào:

-Bà ngoại nói bà ngoại nhớ ông ngoại lắm đó, nhớ nhiều thiệt là nhiều.

Ông Khương dằn tay trên ngực để ngăn chút xúc động vừa đến dù ông biết con bé đang dở quẻ chọc ghẹo ông ngoại đây; chớ ông dư hiểu vợ ông đâu có nói câu đó trước mặt ai. Ông biết vợ ông: già mà vẫn mắc cỡ như gái tơ!

- Mà…mà …ông ngoại có nhớ bà ngoại hông? Hì…Hì…

Con bé tiếp tục đùa dai đây. Ông cũng vậy, ông muốn nói ngay với cháu ngoại là ông cũng nhớ bà ngoại lắm. Nhưng cũng như vợ, lâu rồi những lời thương yêu ấy chỉ nằm đâu đó trong bụng, đâu có thoát ra khỏi miệng ông được khi có bá quan văn võ trước mặt, nên ông chỉ ậm ừ cho qua:

- A..a..a. mà con sắp về chưa?

- Sắp về rồi. Ông ngoại nhớ “hug” bà ngoại nhen.

Đến đây thì ông chịu thua con bé. “Hug” giữa thanh thiên bạch nhựt là chuyện khó dàn trời đối với vợ chồng ông bây giờ. Tay chưn còn ít khi nắm nói chi đến chuyện ôm với ấp. Làm sao ông hứa với nó được. May là ông nghe tiếng vợ ông, nhỏ nhẹ như hơi gió, ngọt lịm như đường phèn:

-Mình ơi, mình nấu giùm em miếng cháo nhen. Thấy thèm cơm nhà quá trời đi.

-Mà mình muốn ăn cháo gì?

-Biết rồi mà còn phải hỏi!

Bà ngừng nói một cái rụp. Điện thoại cũng im. Chừng đó ông Khương mới thấy rõ ràng ông là ông già lẩm cẩm. Còn gì mà phải hỏi nữa chớ: Chỉ còn thiếu có vài ngày nữa thôi thì chung chiếu chung chăn vừa đủ nửa thế kỷ, ông đã biết quá rõ là từ hồi năm thìn bão lụt đến bây giờ vợ ông chỉ thích có một thứ cháo duy nhứt, đó là cháo bát thảo. Trí óc ông lại tối u như đêm ba mươi, đang nói về cháo mà bà chêm vô cái gọi là “thèm cơm nhà” mà chẳng hiểu mô tê gì hết lại còn hỏi một câu lãng xẹt. Bà bóng gió nói là bà nhớ ông đó, hiểu chưa ông già chậm tiêu!

Như vậy là ông Khương có việc để làm, để đoái công chuộc tội. Nồi cháo hôm nay phải là nồi cháo của thế kỷ. Những tuyệt chiêu ông phải đem ra hết. Từ hôm qua ông đã biết rõ là mấy giờ trưa nay thì vợ ông xuất viện, mấy giờ là về đến nhà. Nhìn đồng hồ, còn đúng một giờ hai mươi tám phút nữa, chắc là đủ cho ông nấu xong nồi cháo bát thảo. Cũng không khó khăn gì, ông Khương đã quen với việc này rồi. Bà Khương hay bất thường muốn ăn cháo bát thảo do chính ông Khương nấu. Đã có sẵn trong tủ lạnh: Hột vịt bát thảo, thịt xay, tôm, hành lá, hành phi… Chỉ thiếu ngò rí và giá sống là đủ bộ. Mà giá sống phải tươi, mập, ngắt đầu, ngắt đuôi bà Khương mới chịu. Nồi cháo cũng phải thật nóng, nguội là bà chê. Cháo còn dư đừng hòng bà Khương ngó tới. Trong lúc chờ thịt xay và tôm hết đông đá, ông Khương chạy ngay ra đầu đường xách về một pound giá sống vừa tươi, vừa mập, trắng nõn và một nhúm ngò rí xanh rì. Nhớ hồi xưa có lần lặt giá với vợ, ông buộc miệng:

-Coi cọng giá nè em, sao nó giống như là cánh tay trắng nõn nà, tròn trịa của người đẹp.

Vợ ông ngừng tay, liếc nhìn chồng một cái bén ngót như dao cau, rồi gằn từng tiếng nói, răng nghiến trèo trẹo:

-Người… đẹp… nào… vậy.. hở… anh chồng yêu quí của em?

Nhìn vợ và nghe cách nói của vợ, ông Khương biết ngay là cơm không lành canh không ngọt rồi. Ông ú ớ chưa trả lời xong thì dòm quanh ông Khương thấy còn lại một mình mình trong bếp. Bà Khương đã vào buồng nằm khóc. Người xưa đã dạy: không quen nói chơi thì chỉ nên nói thật, hay tốt nhứt là đừng nói. Chí lý thay.

Bây giờ lặt từng cọng giá mà ông Khương nghe lòng thật vui. Ông nhớ mỗi lần vợ ông sanh, ông kho một nồi thịt nạc kho tiêu, vợ chồng ăn cả tuần lễ vẫn thấy ngon, vừa ăn vừa hít hà, vừa sung sướng nhìn con say ngủ. Có lần ông còn mua cho bà chai rượu chát đỏ hiệu con mèo để bà uống cho ấm bụng. Ông Khương liếc nhìn đồng hồ. Còn đúng mười bốn phút hai mươi hai giây nữa. Rồi mười hai phút. Năm phút. Ông Khương nếm nồi cháo. Tất cả đều chín, nhưng hột gạo chưa nhừ. Trời, gạo chưa nhừ! Cháo mà không nhừ thì không được với bà Khương. Chết cửa tứ rồi. Phải vặn lửa lớn hơn thôi. Đến đây tự nhiên ông Khương nhớ hồi bà có mang thằng con thứ ba, bà không chịu được mùi cá cho nên gần chín tháng trời ông phải thủ bếp. Cơ khổ, ông Khương chỉ lan man nhớ cái bếp từ đời nào mà quên luôn cái bếp đang đỏ điện bây giờ. Khi có tiếng cửa mở thì ông Khương cũng vừa nhớ nồi cháo. Ông dỡ nấp nồi. Mùi khét làm ông Khương đứng như trời trồng. Như vậy là coi như thua cháy túi! Ông Khương tự trách mình. Đã lẩm cẩm, bây giờ lại thành ông già vô tích sự. Nấu một nồi cháo đãi vợ cũng không xong. Vậy mà cũng nói thương với yêu! Mùa xuân tưởng đã sắp về, bây giờ bỗng bay đâu mất! Rõ khổ!

Vợ ông, rồi cháu chắt,và vợ chồng con gái ùa vào nhà để nghe mùi khét lẹt từ trong bếp bay ra. Ông Khương tưởng như mình cũng đang bị nhấc bổng bay vào một góc nhà bếp.

-Ông ngoại ơi! Bà ngoại về rồi nè.

-Ừ, ông ngoại biết.

-Mà ông ngoại đang ở đâu?

Đứa khác chen vào:

-Bà ngoại giận ông ngoại rồi.

Đầu óc ông Khương bây giờ bay đi đâu đó, chắc cùng bay theo mùi khét của “nồi cháo thế kỷ” mà ông đã vận đủ mười thành công lực để tạo nên. Ông đứng trong góc bếp mà thần trí lang thang ở bể nội non ngàn nào.

Rồi ông nghe tiếng nói thật vui của vợ ông, vẫn dịu như mía lau, ngọt như đường phèn:

-Ông ngoại con đang đứng corner để chờ bà ngoại đi học đó.

Không ai hiểu bà Khương nói gì, ngoài hai bạn già gốc Long Hồ đã từng hẹn hò tại góc đường Cộng Hòa và Thành Thái hơn năm mươi năm trước.

 

Cả chục nồi cháo mà có khét, thậm chí có cháy, có thành than, thành đá đi nữa thì tình vẫn là tình, nghĩa vẫn là nghĩa, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó phải không, kính thưa chư liệt vị bốn phương? Năm mươi hay trăm năm thì tình có bao giờ cũ đâu. Muôn năm tình vẫn mới.

Căn nhà đã là mùa Xuân thì cánh hoa nào ở trong đó cũng là hoa xuân, kể cả hoa dại.

 

Trần Bang Thạch

Đóa chung tình

 

Những dòng thư của Y-Linh như hàng trăm, hàng ngàn nốt nhạc bất ngờ len vào từng ngỏ ngách da thịt tôi. Tôi cảm nhận hết những nốt cao, nốt trầm. Những cung oán cung thương chạy vào từng tế bào não, rồi chạy xuống tế bào tim để tôi nhớ hết một cuộc tình của mấy chục năm qua. Nhớ hết để buồn thêm nhiều.

 

Tôi nhận lá thư khi vừa về đến nhà sau lễ mãn tang vợ tôi tại Linh Sơn Tự. Từ lâu lắm rồi, dễ chừng cả chục năm nay, từ ngày cha mẹ tôi rồi các anh chị em lần lượt nối nhau qua đời tại quê nhà, tôi không nhận được một thư nào từ Việt Nam hết. Tuổi càng cao càng không thích viết thư. Thư viết đã không có thì thư nhận cũng không. Cho nên khi thoạt nhìn thấy loại bao thư có những vệt xanh, đỏ viền quanh thường dùng ở Việt Nam, tôi đã hết sức ngỡ ngàng. Tôi đọc  tên người gởi đề trên bao thư: Hoa Chung Tình. Ba chữ này hiện lên như một lằn chớp sáng giữa đêm đen của trí nhớ tôi. Tôi cảm thấy một cơn gió mạnh làm bật dậy hết những mảng ký ức đã nhiều năm vùi sâu dưới lớp bụi thời gian.

 

Hoa Chung Tình. Hoa Chung Tình. Hoa Chung Tình. Tôi cứ lập lại ba tiếng ấy như lật lại từng trang, từng trang quyển sách của một đoạn đời mà tôi đã xếp lại từ hơn ba mươi năm nay. Thật sự thì cũng có đôi lúc tôi lơ mơ đọc vài trang sách ấy như người nhàn tản lạc bước trở về một góc vườn xưa, thấy lại một đóa hoa dại chừng như đã gặp đôi lần, nghe một chút hương quen, cảm một chút mùi nhớ. Rồi thôi. Cái chết của vợ tôi ba năm trước như để lại hàng ngàn mũi kim nhọn cứ thay nhau mà làm tôi đau nhức. Tôi thương nhớ vợ tôi như thương nhớ nỗi mất mát vô cùng lớn của mình. Niềm đau nhức này chưa nguôi thì nỗi đau khác ụp đến. Lá thư của Y-Ling viết: « Em là Y-Ling. Chắc anh không còn nhớ em, đứa em gái út của chị Y-Lang. Bất ngờ nhận thư này, có lẽ anh cũng không nhớ chị Y-Lang là ai nữa. Còn cái tên Hoa-Chung-Tình chẳng lẽ anh cũng quên? Không sao. Rồi em sẽ lần lượt nhắc lại cho anh. Lâu quá rồi mà, hơn ba mươi năm, đủ để người ta quên những nhặt nhạnh của đời sống. Lúc biết anh, em chỉ mới hơn mười tuổi. Bây giờ em đã gần năm mươi. Gia đình em vẫn ở buôn làng Strưng, vẫn ngôi nhà sàn dưới chân đồi, cạnh ngôi giáo đường có cái tháp chuông cao nghệu. Con đường sỏi đỏ trước nhà vẫn chạy giữa hai vệ đường đầy hoa sim tím hướng về sông Ba. Con sông Ba vẫn muôn thu rì rào tiếng sóng. Chỉ có chị Y-Lang của em thì không còn. Chị Y-Lang đã mất rồi anh ạ! Mới mất hôm qua. Phải, chị Y-Lang đã ra đi vĩnh viễn hôm qua. Giá mà chị Y-Lang còn sống thì chắc chắn anh không có lá thư này.Và chắc chắn anh sẽ không phải bận tâm suy nghĩ về một câu chuyện đã quá cũ. Ước muốn cuối cùng của chị Y-Lang là những dòng chữ cuối đời của chị phải được gởi đến anh sau khi anh mãn tang vợ.Thư tới hay không, sau hay trước ngày cuối của ba năm tang chế của anh thì em không chắc. Em chỉ biết gởi thư đi và cầu nguyện cho ước vọng của chị em được thành. »

 

Tôi ngừng đọc lá thư dài của Y-Ling để đọc lá thư  của Y-Lang: « Anh yêu, cuối cùng thì em cũng phải đến với anh. Đừng trách em. Em không còn bao nhiêu thì giờ nữa. Hơn ba mươi năm nay em đã đứng thật xa mà nhìn. Em im lặng mà nhìn một nửa đời mình đang trôi giạt ở một nơi chốn nào đó. Mỗi lúc một xa. Em nói một nửa đời em đã theo anh, điều này chắc anh hiểu nếu anh còn nhớ tới ý nghĩa của cánh hoa Chamtsieng, cánh Hoa Chung Tình mà anh đã tặng em từ mấy mươi năm trước... »

 

Hoa Chamtsieng. Hoa Chung Tình. Làm sao tôi quên được. Bây giờ trí nhớ của tôi như con nước ngược dòng mì mò trôi về bến cũ. Bến sông Ba. Buôn làng Strưng. Người con gái thượng. Tôi nhớ hết. Buổi chiều đó Y-Lang và tôi đi lang thang về phía sông Ba. Mùa thu ở đây hiển hiện trên những cánh lá vàng ối . Đặc biệt là lá tuy vàng nhưng có khi cả một, hai tháng lá mới chịu lìa khỏi cành. Người ta nói ở đây cái gì cũng chung tình, từ những chiếc lá vàng úa đến chim chóc, hoa lá và con người. Người ta biết mùa thu đã về khi nhìn thấy đồi núi, cỏ cây như được bao phủ bởi một mảng lưới khổng lồ màu vàng. Ở đây cũng có một loài chim, người Rađê địa phương gọi là chim hnê. Chim hnê dáng nhỏ như chim sáo dưới đồng bằng. Tiếng hót thật trầm, dường như chỉ thốt ra những lời nhỏ to tình tự giữa con mái và con trống. Chim có bộ lông vàng mượt, mỏ đỏ, chân đen, thường bay hay đậu từng cặp; không hề thấy một con lẻ bạn. Dù có bay từng đàn vài trăm con thì vẫn là từng nhóm hai con bay sát với nhau. Tôi nói với Y-Lang là tôi muốn đặt tên loài chim này là chim Uyên Ương. Y-Lang rất thích cái tên này. Người ta chỉ thấy chim hnê khi mùa thu trở về. Những mùa khác thì chim đi mất biệt, không thấy một con. Màu vàng của núi rừng, màu vàng của chim và màu áo vàng của Y-Lang mặc chiều hôm đó cho tôi cái cảm tưởng Y-Lang là chim, là lá, là hoa, là khói, là sương, thoáng ẩn, thoáng hiện giữa một núi rừng dát vàng, dát bạc. Trong một thoáng bàng hoàng, tôi thấy trước mắt tôi là một nữ thiên thần dung nhan kiều diễm với đôi cánh mỏng chấp chới bay trong sương chiều. Tôi nhớ rõ chính cái ý nghĩ sợ rằng trong một khắc giây bất chợt, đôi cánh thiên thần sẽ biến mất trong khu rừng cổ tích mênh mông trước mắt, nên tôi đã bất thần ghì chặt nàng tiên vào lòng. Trí óc tôi lúc ấy đang đi lang thang trong vùng uyễn mộng. Hồn tôi cũng chấp chới bay theo đôi cánh của thiên thần.Tôi hôn nàng tiên của tôi như điên dại... Có lúc tôi thấy Y-Lang là một dải mây mỏng cô đơn trôi bồng bềnh trên mặt sông Ba. Sợ mây trôi mất, tôi chạy theo dải mây, bắt mây giam cứng trong lòng ngực mình. Dải mây Y-Lang không môt chút chống cự. Nàng như một cái xác mềm nhũng trong vòng tay tôi. Nàng chỉ biết khóc. Tôi say sưa uống từng giọt nước mắt của nàng. Những lời tình tự hình như đã được thốt ra từ hai kẻ mộng du. Rồi trong một phút giây chợt tỉnh, Y-Lang thoát khỏi vòng tay tôi, nghiêng ngã chạy về phía bờ sông.  Tôi cũng vừa bước ra khỏi cơn mê. Mặc cho đá sỏi, gai chông, nàng chạy như cố thoát một hình ảnh ma quái đang rượt đuổi phía sau. Cuối cùng Y-Lang ngồi xuống phiến đá nằm trên một nhánh nước cạn của con sông Ba. Hai đứa tôi ngồi ôm nhau trên phiến đá. Tôi dợm nói mấy lời xin lỗi, nhưng Y-Lang vừa lắc đầu vừa đặt nhẹ hai ngón tay còn ấm nước mắt lên môi tôi, tỏ ý không cho tôi nói lời nào hết. Hai đứa tôi ôm nhau mà khóc. Tôi khóc vì hành động nông nỗi của mình. Nàng nói nàng khóc cho cuộc tình này. Thuở ấy tôi không hiểu ý nghĩa sâu xa trong câu nói đầy nước mắt của Y-Lang. Bây giờ thì tôi đã hiểu. Nàng đã thấy trước những gì nàng phải gánh chịu. Người con gái buôn làng ngây thơ hồn nhiên yếu đuối, cả đời con gái chỉ biết yêu thương cái cỏ cái cây, cái hoa cái lá, đất đá, côn trùng, chim muông, mây trắng... giờ đây đang biết mình tự kề đôi vai nhỏ nhoi mà gánh gồng một gánh tình quá nặng, khi tuổi đời vừa chớm hai mươi.

 

 Mỗi chiều, trên chiếc băng gỗ sần sùi nơi góc giáo đường là Y-Lang với muôn lời cầu nguyện cho cuộc tình mà nàng sớm cảm nhận sẽ lắm trái ngang.

 

Những ngày sau đó chúng tôi là đôi tình nhân hạnh phúc nhất trong vườn địa đàng dát vàng dát bạc này. Con sông Ba như cùng vui với chúng tôi. Nước từ đầu nguồn chảy về nghe êm như khúc nhạc tình. Đứng trên mõm đá cao, cầu vòng ngũ sắc ngay trên đầu như giăng hoa kết đèn cho một đêm hợp cẩn. Từng cặp chim Uyên Ương rầm rì trong vòm lá; chúng nói với nhau về đôi uyên ương hạnh phúc trước mặt. Có một chiều, chúng tôi đi về phía hạ lưu sông Ba. Rồi do một tình cờ dun rủi, chúng tôi đến một ngọn đồi thấp nằm bên tả ngạn. Một lạch nước nhỏ chạy vòng vòng ngọn đồi theo chiều trôn ốc. Chúng tôi chân trần dắt nhau đi theo dòng nước. Lúc nào cũng có đôi chim Uyên Ương bay trên đầu, rầm rì tình tự. Dòng nước đưa chúng tôi tới một bãi hoang. Nơi đây cánh áo vàng của rừng cây vào độ giữa thu chừng như bay đi đâu mất, để lại  những cây xanh có hoa tím mọc thành chùm, mỗi chùm chỉ có hai đóa như hai chiếc vòng ngọc sa-phia kết dính vào nhau tạo hình con số 8.

- Hoa Chamtsieng! Hoa Chamtsieng!  Y-Lang reo vui như đứa trẻ gặp một món đồ chơi mong ước từ thật lâu. Rồi ngay sau đó Y-Lang quay mặt về hướng khác, nàng đứng thẩn thờ như đang suy nghĩ một điều gì. Thấy nàng thích hoa, tôi nhanh tay hái cho nàng một đoá. Y-Lang liền ngăn tôi lại, nhưng không còn kịp. Rồi nàng nói cho tôi nghe về hoa Chamtsieng. Hoa Chamtsieng chỉ nở vào mùa thu, thường kéo dài ba tháng. Mỗi ba năm mới nở một lần. Chỉ có buôn làng Strưng mới có loại cây hoa dại này. Những buôn làng khác không hề có. Người ta nói làng Strưng có hoa Chamtsieng chính là điều đại kỵ. Hoa Chamtsieng chỉ nở tại buôn Strưng để đời đời con gái Strưng phải trả cái quả báo mà những tội lỗi do những người nữ tổ tiên của họ đã gây ra. Tương truyền rằng giòng họ Strưng nhiều trăm năm trước là một họ trong năm họ lớn của sắc dân Ra-đê, sống du mục quanh vùng rừng núi Kontum, Phú Bổn, Ban Mê Thuột. Người Ra-đê luôn thương yêu và đùm bọc nhau. Một luật lệ khắc nghiệt của người Ra-đê là người đàn bà Ra-đê một khi chồng chết thì chỉ có hai chọn lựa: hoặc tái giá với anh hay em chồng để giữ phần tài sản nhà chồng; hoặc nếu không có anh em chồng thì ở giá mãn đời. Một luật lệ khác là cấm ngặt chuyện hôn nhân giữa người của họ với người kinh, hay bất cứ với một sắc dân nào khác. Điều luật tai ác này một hôm đã xãy đến cho bộ tộc Strưng: Một hôm cả ba cô con gái của trưởng tộc Strưng phải lòng ba anh thợ rừng người kinh. Giữa đêm cả ba cô gái trốn nhà theo tình nhân. Họ theo bè gỗ xuôi theo dòng sông Ba về phía hạ lưu. Cả bộ lạc được cấp tốc báo động.Trưởng tộc Strưng cùng các trưởng tộc khác và tráng đinh cả bộ lạc nộ khí xung thiên với tin động trời này. Với gậy gộc, giáo mác, cung tên, họ chia nhau lục xoát rừng núi. Quá nửa đêm, toán truy lùng bắt gặp cả ba đôi nam nữ trên bè gỗ. Bè cứ xuôi dòng mặc cho tiếng reo hò hai bên bờ sông. Nhiều mũi tên bay đi. Trên bè gỗ, từng đôi, từng đôi, họ ôm nhau mà thọ tiễn. Máu nhuộm đỏ một khúc sông. Sau đó bộ tộc Strưng bị các bộ tộc khác thù ghét; bị cho là người Strưng đã phạm tới thánh thần. Họ dời lần về phía sông Ba, xuống vùng hạ lưu, sống cách biệt với các bộ tộc khác. Mùa thu ba năm sau, tại một cánh rừng sâu, giữa một rừng lá vàng, người ta thấy một loài hoa tím mọc từng chùm hai đóa trên những bụi cây xanh cao vừa bằng đầu người. Tục truyền rằng máu của những kẻ chết vì tình này trôi dạt lên bờ rồi mọc thành hoa. Hoa được đặt tên là Chamtsieng, có nghĩa là chết vì tình. Từ đó vô phước cho cô gái Strưng nào đang có người tình mà trông thấy hoa Chamtsieng, hay được người tình vô tình mà trao cho một đóa thì coi như nàng đã biết trước đoạn kết đau thương của mối tình mình. Cho nên vào mùa thu, các cô gái Strưng không dám cùng tình nhân đi vào rừng sâu và họ sợ thấy những cành lá xanh. Họ cũng tuyệt đối không dám thương yêu người kinh hay người bộ lạc khác. Từ đó dân bộ tộc Strưng mỗi lúc một thưa dần. Lúc tôi đến Strưng thì dân số chưa quá một trăm. Đó là lần thứ nhì, cũng là lần sau cùng tôi trở lại Strưng vào khoảng đầu năm 72. Tôi đã lưu lại Strưng gần một tháng để sưu tầm tài liệu cho bài luận văn Cao học Nhân chủng của tôi tại Văn Khoa. Y-Lang đã giúp tôi rất nhiều trong công việc này. Tình yêu cũng đã đến với chúng tôi vào những ngày tôi sắp rời Phú Bổn. Tôi cũng đã thấy và biết ý nghĩa của loài hoa hiếm này. Y-Lang rất đồng ý với cái tên Hoa Chung Tình tôi đặt cho hoa Chamtsieng. Lần đầu tôi đến Phú Bổn vào năm 1967 cùng với phái đoàn gần 30 sinh viên chứng chỉ Văn Minh Việt Nam tại Văn Khoa do thầy Nghiêm Thẫm hướng dẫn. Lần đó tôi đã quen biết người nữ y tá tên Y-Lang tại quân y viện Phú Bổn khi tôi được đưa vào chữa trị  vết rắn cắn nơi ống chân trái. Tôi cũng được biết người thanh niên gốc từ buôn làng Strưng tên B. là người đang cố theo đuổi Y-Lang mà chưa được đáp lại.

 

“... Anh biết không, ngày anh rời Phú Bổn chị em khóc hết nước mắt. Chiếc C47 đưa anh đi xa chừng nào thì chị em gần với nỗi đau chừng ấy. Lúc đó chiến sự thêm khốc liệt, chị Y-Lang vùi mình trong công việc ở bịnh viện. Những lúc rảnh tay ngồi nơi một góc tối trong bịnh viện, hay những lúc một mình trong căn nhà vắng thì chị em mới tự do mà rơi lệ. Nếu ba em hay dân trong buôn biết thì không hiểu sự thể xấu tới đâu. Và những gì sẽ đến với chị khi mà luật lệ của bộ lạc vẫn muôn đời không thay đổi. May mắn là chỉ có em biết mối tình của anh chị . Anh nghĩ ngoài em ra thì Y-Lang còn dám thổ lộ tâm tình với ai nữa. Hơn ba mươi năm cũng chính em là người duy nhất nghe và hiểu tiếng thở dài não nuột của chị em giữa đêm khuya. Mỗi độ thu về thì lòng Y-Lang cũng theo hằng vạn cánh lá thu mà héo úa. Lá úa thì cũng phải lìa cành, phải rơi; dù cho lá ở đây cũng là lá chung tình với cây với cội. Còn nỗi lòng của Y-Lang thì chị cố giữ, giữ chặt cho riêng mình. Em có cảm tưởng Y-Lang vì cố nuốt  ngàn giọt nước mắt của mình trở vào lòng nên nước mắt của chị cứ chảy hoài, không dứt. Chảy suốt thiên thu. Trên ba mươi năm biết bao nhiêu là lá đã vàng. Biết bao nhiêu là tàn phai của một nhan sắc. Biết bao nhiêu là ướt đẫm gối chăn. Em đã nhiều lần khuyên chị nên quên. Quên mối tình đầu. Quên luôn người đã ra đi biền biệt, bặt hơi tăm cá. Bây giờ anh đừng trách em: em đã nhiều lần nói với chị anh là người không tốt, nên xếp cái chuyện tình một sớm một chiều ấy vào đáy rương ký ức để làm lại một cuộc đời mới. Người phó hành chánh tên B. cứ chờ một tiếng trả lời của chị. Anh ấy cũng đã chờ hơn ba mươi mùa lá rụng. Năm trước anh ấy mất mà mắt cứ mở trừng trừng; chỉ nhắm lại khi chị Y-Lang vuốt nhẹ. Em còn nhớ hồi năm 1973 nghe tin anh đậu bằng cao học, chị Y-Lang có một thoáng vui hiếm quý. Rồi vài tháng sau hay anh cưới vợ em tưởng chị Y-Lang sẽ đáp lại mối tình của anh B. Không, chị Y-Lang vẫn tha thiết với mối tình đầu. Cuối năm 73 nghe anh nhập ngũ rồi ra chiến trường, chị Y-Lang bỗng có niềm mơ ước lạ lùng là biết đâu có ngày chị được gặp lại anh, người thương bệnh binh được chị săn sóc. Sau năm 75, hay anh và gia đình đang ở nước ngoài, chị Y-Lang có một chút vui. Sau đó là nỗi buồn thiên thu trở về với chị. Anh B. vẫn là kẻ chờ mong, chờ cho đến chết...”

 

Càng đọc thư của Y-Linh tôi càng thấy mình hiện hình rõ ràng là một tội đồ, kẻ tội đồ đã làm hại những con chiên ngoan của đạo chung tình. Tôi nhớ hết. Tôi nhớ anh B., người Ra-đê ở buôn làng Strưng, tốt nghiệp Phó đốc sự trường Quốc Gia Hành Chánh, giữ chức vụ phụ tá hành chánh tỉnh Phú Bổn. Anh là người cao to, càm vuông, ngực nở, vai rộng, da dẽ như dát đồng; vậy mà tiếng nói của anh nhỏ nhẹ, chậm rãi, nói mà như ngâm thơ. Tôi biết anh từ lần đầu tôi đến Phú Bổn. Lần thứ hai thì anh và tôi trở thành bạn rất thân. Y-Lang, Y-Linh, anh B. và tôi có những lúc sinh hoạt chung rất là vui. Anh B. có tài chơi  khèng và đàn violon. Có lẽ anh B. là người nhạc sĩ Việt Nam duy nhất dùng khèng để sáng tác nhạc và chơi những tấu khúc JJ Strauss. Hai chị em Y-Lang thì hát rất hay, người có giọng kim, người giọng thổ, tiếng hát hồn nhiên như chim, như gió. Còn tôi chỉ biết vừa nghe vừa nấu những món ăn dưới kinh đãi mọi người sau những đêm vui. Rượu cần hấp nóng uống cho tới sáng mà ít có người say. Vậy mà khi về lại Sàigòn tôi gần như quên hết mọi chuyện; chỉ có những xấp tài liệu dầy cộm về người Ra-đê, đặc biệt là bộ tộc người Strưng thì tôi tra cứu hàng ngày cho cái bằng cao học của tôi. Trước hết là chuyện học hành, chuyện bằng cấp, chuyện cái ăn cái mặc trong bon chen, chụp giựt, nhốn nháo của một Sàgòn nửa chiến tranh nửa ăn chơi, tham nhũng. Rồi vợ con, lính tráng tận vùng U Minh, Chương Thiện... khiến tôi quay cuồng với bao nhiêu là công việc. Đôi khi tôi có chợt nhớ đến những ngày bên dòng sông Ba. Nhớ một chút người con gái trong căn nhà sàn cạnh ngôi giáo đường cũ kỹ. Có lần tôi nghe tin anh B. từ chối lời đề nghị về Sàigòn làm phụ tá cho Tổng trưởng Bộ Sắc tộc. Anh chỉ muốn  ở lại Phú Bổn. Tôi cũng có nghe anh điều trần trước Quốc Hội về một đề nghị cấm chỉ vài luật lệ gắt gao, lỗi thời vẫn còn đang thực hiện tại các buôn làng, trong đó có việc bộ lạc Ra-đê cấm con cái mình kết hôn với người ngoài bộ lạc. Đề nghị ấy rồi ra sao, tôi không theo dõi. Không hiểu từ một lý do nào mà tôi đinh ninh rằng Y-Lang quả rất xứng hợp với B. và thầm cầu nguyện cho hai người được hạnh phúc. Bây giờ hiểu được mọi chuyện thì mới biết rằng mình có một ý nghĩ quá hồ đồ, chỉ nhằm chạy trốn một tình yêu và một lời hứa cũ.

 

“... Anh yêu, khi yêu anh em biết tình yêu của mình là một định mệnh chua xót, kết liền với một lịch sử oan khiên. Anh còn nhớ không, ngay cái giây phút anh hái đóa Hoa Chung Tình em đã biết mình, chỉ một mình em, là phải trả cái giá cho tổ tiên em. Cho nên trong chuyện này anh không có một cái lỗi nào hết. Còn lời hứa cũ của anh thì dù có muốn giữ thì chúng mình cũng không làm được khi mà em vẫn là người của bộ tộc Strưng. Cho nên người giữ lời hứa phải là em, duy nhất là em. Em chôn chặc nó ở trong lòng thì nó sẽ còn mãi mãi với em, nở hoa nở trái trong tim em. Không ai và không một luật lệ nào lấy đi được, cả anh cũng không thể, phải không anh?”

 

Luật lệ! Luật lệ khắc nghiệt của một xã hội nhỏ Rađê, hay là luật của kẻ được cá quên đăng, được trăng quên đèn, một luật lệ vô tâm mà tôi đã vô tình đặt để cho mình và cứ nhắm mắt mà thi hành. Hơn ba mươi năm, người quên thì cứ quên, người nhớ cứ âm thầm lệ nhỏ.

 

“... Anh thì chắc không thể nào nghĩ được rằng chị Y-Lang và em, dù không cố ý, vẫn có được tin tức về anh, từ mấy mươi năm nay. Ngay khi hay tin vợ anh mất tại nước ngoài, nơi quê nhà chị em đã làm một mâm cơm với đồ ăn của người kinh, thành kính cúng chị. Chúng em cũng gởi cho gió lời chia buồn đến anh và lời chúc vong linh chị sớm về miền miên viễn. Đối với riêng em thì anh đã trọn đạo tào khang với vợ anh khi chị đã nằm xuống trên tay anh. Cho nên em đã nghĩ tới đạo công bằng. Chị Y-Lang của em phải thấy sự công bằng, công bằng trong tình yêu. Hơn ba mươi năm chị Y-Lang đã âm thầm đi bên cạnh hạnh phúc của anh chị. Bây giờ có phải là đến lúc để anh nhìn lại bóng dáng của một thiên tình sử cũ, nhớ lại một đóa hoa dại đã mỗi ngày một héo rũ bên bờ sông Ba? Em thì nghĩ như vậy, nhưng chị Y-Lang thì không. Chị nói hãy để mọi sự, mọi việc y như vậy, như từ hơn ba mươi năm nay. Ít nhứt là để tâm hồn anh sống trọn vẹn với người quá cố trong ba năm tang chế. Nhưng anh ơi, tháng trước chị em ngã bịnh nặng, rồi qua đời hôm qua, như đoạn thư trên em đã nói. Chúng em đều biết còn mươi ngày nữa là anh mãn tang vợ. Chị em không thể kéo dài sự chờ đợi thêm nữa! Có chuyện lạ lùng là tuy vô cùng yếu đuối bởi căn bịnh lao phổi nhiều năm nay, đi đâu phải có em hay chồng em dìu, vậy mà chị em đã một mình trốn chúng em đi về phía hạ lưu sông Ba. Và, anh ơi, chị em nói là chị đã gặp những đóa hoa oan khiên của chị!”

 

Trời ơi, tôi đã không còn kịp nữa! Tôi đã quá chậm suốt bao nhiêu năm! Con nước sông Ba lúc nhanh lúc chậm, lúc thấp lúc cao, lúc trong lúc đục. Nước sông Ba còn có dịp bốc thành mây để mây trôi về dòng sông cũ. Còn tôi thì chậm chạp suốt đời. Suốt đời tôi bơi lội trong dòng nước đục của đời mình. Tôi là cánh mây trôi biền biệt. Cứ ba năm, mùa Hoa Chung Tình vẫn theo hơi thu của rừng núi Strưng mà trở về. Chim Uyên Ương mỗi năm theo gió thu mà từng cặp bay về tô vàng thêm cánh lá. Tôi thì hơn ba mươi mùa thu không có một bước chân, không có một lời thư trở về đất đai, nguồn cội của mối tình đầu. Rõ ràng người tình tội nghiệp của tôi có trái tim rộng như núi rừng, mênh mông như mây trời, thơm như hoa đồng cỏ nội. Nàng không muốn có một gợn mây nhỏ nào ẩn hiện trên vòm trời hạnh phúc trong như ngọc thạch của gia đình tôi. Trong khi đó nàng ẩn nhẫn cả đời dang tay đón nhận hết cho riêng mình lớp lớp mây đen.

 

“... Anh, hôm trước một phép mầu đã đưa em trở lại vùng tả ngạn sông Ba, trở lại ngọn đồi thấp, em men theo dòng nước nhỏ chạy hình trôn ốc xuống chân đồi. Từ lâu vì đau yếu em đã không màng biết tới chuyện ngày tháng, mùa màng. Thu hay đông, xuân hay hạ thì có khác gì với em đâu. Hôm nay nhìn rừng lá vàng em mới biết là trời đã sang thu. Lá vàng vẫn tiếc những giây phút cuối trên cành. Chim Uyên Ương vẫn từng cặp đứng bên nhau thủ thỉ. Mọi sự vẫn còn nguyên anh ạ. Chỉ thiếu có anh. Và em thì đã thành bà lão yếu đau, lụm cụm. Mắt em đã mờ nhiều, nhưng anh ơi, em đã thấy hiển hiện trước mắt mình hai đóa Hoa Chung Tình. Chỉ có hai đóa...Gặp lại cánh hoa cũ, trên vùng đồi núi cũ, em như thấy mới đây, mới mấy hôm trước hai đứa mình đã đứng đây. Hôm ấy em đã nói nhiều với anh về Hoa Chung Tình. Nhưng em muốn giấu anh một điều: Người nữ nào đón nhận đóa Hoa Chung Tình thì trong vòng 49 ngày sau khi chết nàng phải được người bạn tình còn sống góp nhặt đủ 102 đóa Hoa Chung Tình trãi dài trên núm mộ thì vong linh nàng mới được thần thánh đón nhận về trời. 100 đóa để nàng cùng người tình tạ lỗi song thân. 2 đóa để nàng và chàng sum hợp nơi cõi trời. Em muốn sau khi em chết, và phải sau khi anh mãn tang vợ, Y-Ling sẽ gởi thư này đến anh. Anh yêu, xin anh tha lỗi, tha lỗi cho lòng tham lam ích kỷ của em, giờ phút này em không thể dối anh, càng không thể dối mình. Mùa thu sắp hết rồi. Hoa Chung Tình cũng sắp tàn. Thời gian của đất trời và thời gian của riêng em không còn nhiều. Em muốn nói với anh là anh hãy trở về chốn cũ cho em xin ít nhất là 2 đoá Hoa Chung Tình. Chỉ hai đóa thôi cũng đủ để mãi mãi em được gần anh nơi cõi khác. Có được không anh?”

 

Được. Được. Được. Hằng trăm lần tôi đã nói với Y-Lang tiếng này trong nước mắt. Hơn ba mươi năm Y-Lang chỉ đòi hỏi có một lần. Một lần sau khi nàng đã vĩnh viễn ra đi.

 

“...giờ phút cuối chị Y-Lang muốn anh về để đặt hai đóa Hoa Chung Tình trên mộ chị để hai người sẽ được bên nhau, điều mà lúc sống anh chị đã không làm được. Nhưng anh ơi, mùa thu năm ngoái Hoa Chung Tình đã nở rồi thì thu này làm sao mà có hoa cho được. Có chăng là phải đợi hai năm nữa! Nhưng em nghĩ tới những cánh hoa lạc lõng mà có thể chị Y-Lang đã thực sự gặp, nên sáng nay em cùng chồng và các con đi khắp vùng rừng núi chung quanh, đến cả ngọn đồi thấp bên tả ngạn mà chị Y-Lang nói tới trong thơ. Ngọn đồi toàn một màu vàng ối, không một chồi xanh. Không một cánh Hoa Chung Tình. Có lẽ chị em đã thấy lại đóa hoa xưa trong mộng tưởng. Cuộc tình bị chôn vùi quá nhiều năm, có lẽ đó là phút giây duy nhất chị hoàn toàn sống với mối tình của chị. Một lần sống với người tình xa vời vợi. Sống trong mộng mị “.

...............

Y-Lang ơi, khi sống mộng ước của em không tròn. Nay mất rồi mà Hoa Chung Tình không nở để anh về hái 102 đóa đặt trên mộ em. Mộng ước của em đến chết vẫn không tròn. Em yêu dấu, Em hãy ngủ bình an trên nước trời. Mình sẽ vĩnh viễn bên nhau không cần phải có một đóa Chung Tình nào hết. Chính em là một Đại Đóa Chung Tình to hơn trái núi.

 

Sau thời kinh sám hối, tôi đốt thêm một nén nhang trên bàn thờ vợ tôi. Một nén khác tôi đem cắm nơi bàn thông thiên trước nhà. Tôi khấn thầm: Nén nhang này anh đốt cho em, em yêu dấu.

 

Trần Bang Thạch

TÔI ĐI HỌC

 

 

    Buổi học đầu tiên chấm dứt. Người thầy dạy là một nữ giáo sư còn thật trẻ, có lẽ chưa quá ba mươi. Đúng ra là giáo sư Susan Smith dùng hai tiết học vừa qua để làm một orientation, vừa làm quen với sinh viên, vừa giới thiệu giảng khóa Kinh Tế Nhập Môn mà bà phụ trách.

    Bây giờ thì tôi mới có dịp nhìn ngắm chung quanh.Tôi đã đến đây nhiều lần lắm rồi. Trường đại học này đâu có lạ gì với tôi. Ba đứa con tôi đã đi học và tốt nghiệp ở đây. Tôi cũng đã có mặt nhiều lần ngay tại giảng đường này để tham dự lễ tốt nghiệp của các con, các cháu của mình, hay của các bạn bè, thân hữu. Vợ tôi còn có cái máu ghiền được nhìn ngắm những tân khoa với mũ áo chỉnh tề, mặt mày rạng rỡ. Nàng nói tất cả những tương lai, những hy vọng, những niềm vui đang hiển hiện ngay trước mắt mình, thấy thích làm sao! Cả đời mình không có được, bây giờ nhìn con cháu xuênh xoang mũ áo như thấy chính niềm vui của mình vậy. Tuy tôi đã có mặt nơi đây cả chục lần hơn, thế mà hôm nay tôi thấy mọi vật hình như đã đánh phấn tô son để thành những thực thể hoàn toàn mới, xinh như một cô gái đang thì. Tại sao lạ vậy? Có lẽ tại  lòng tôi đang rộn lên những niềm vui mới. Hay nói như Thanh Tịnh: Hôm nay tôi đi học.

 

    Toà cao ốc như một chiếc hộp khổng lồ trùm úp lên hàng trăm ngọn cây xanh trong khuôn viên trường đại học UH. Mấy mươi tòa nhà thấp hơn ẩn hiện giữa những lá, những hoa trên vuông đất rộng nhiều trăm mẫu. Đứng trên từng lầu cao nhất của đại giảng đường Holman, qua khung cửa kính tôi thấy bạt ngàn màu xanh của lá. Tôi cũng thấy màu nắng thật nhạt, thật ngọt ngào trên những dãy mây thấp. Màu chiều cũng lãng đãng quanh đây. Ngoài kia gió chiều chắc cũng đang mơn man từng cánh lá. Các sinh viên lũ lượt rời khỏi giảng đường. Bà giáo sư trẻ đang sắp xếp các giấy tờ, thu gọn các âm bản và máy chiếu. Tôi muốn đứng lại đây, một mình, giữa cái giảng đường rộng mênh mông, cao nghều nghệu như trên mấy tầng trời này. Tôi đang đứng trên màu xanh của lá. Lá. Lá.Lá. Nhìn đâu cũng thấy lá. Những dãy mây mỏng trôi chầm chậm trên đầu cho tôi cái cảm tưởng tôi cũng đang thông thả bước đi trên tấm thảm xanh của một tương lai mới chớm, một hy vọng mới hình thành. Có thật vậy sao? Có thật tôi đã trở lại giảng đường đại học ngày đầu tiên hôm nay? Có cái gì nghe quen thuộc, gần gũi quá mà cũng xa xôi quá. Ba mươi năm, một giấc mộng dài đang trở thành sự thật: Tôi đang tiếp nối những bước đi dang dở từ lứa tuổi thanh xuân. Ba mươi năm trước, tôi đã giả từ trường lớp, giả từ thầy, bạn, bước ra khỏi chiếc cổng xi măng màu gạch cua của một trường đại học nằm trên đường Cộng Hòa, đối diện với Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành, để “vào nơi gió cát”. Từ chiếc cổng vàng thếch, lỗ chỗ nhiều vết đạn, con đường trải đá xanh với hai hàng còng già sụ, da dẻ sần sùi dẫn vào dãy nhà trệt lợp ngói âm dương dùng làm câu lạc bộ và các phòng sinh hoạt sinh viên, rồi tới giảng đường SPCN to như một quả đồi con nổi lên giữa những gian nhà thấp. Trong cái giảng đường khổng lồ này hàng năm bảy trăm con người ngồi chen chúc trên các băng ghế được xếp thoai thỏai hình trôn ốc từ nền cho tới gần chạm trần nhà. Vị linh mục giảng dạy môn Sinh Vật với cánh áo dòng trắng tinh, một tay cầm chiếc micro không giây, một tay cầm phấn, vừa vẽ vừa giảng suốt hai tiếng đồng hồ mà không một lần nhìn vào bài soạn. Con đường trải đá xanh đó tôi đã tới tới lui lui hơn ba năm trời. Những buồn vui đã thật đầy như những chồng bài vở quay ronéo dày cộm. Hơn ba năm tôi nhìn cuộc chiến đang mỗi ngày một đến gần. Tôi nghe người ta hát Tôi có người yêu chết trận Pleime. Tôi biết có ông tướng phường tuồng mang theo cục đất khi lên máy bay rời đất nước.Tôi nhìn tôi muôn ngàn vất vả qua những kỳ thi, nhìn người-lính-tôi đang chực chờ ngoài cửa lớp, chỉ chờ một sơ xẫy của người-sinh-viên-tôi là xông vào, cuốn tôi đi theo chiều gió. Tôi nhìn em xanh xao vàng võ trong chiếc áo blouse trắng rộng thùng thình nơi phòng thí nghiệm sinh hóa. Tôi nhìn bạn bè tôi lăng xăng với những cuộc xuống đường, bãi khóa, những đả đảo, hoan hô, những hơi cay và nước mắt. Có những đêm dài tôi phải bó mình trong Đại Học Xá Minh Mạng để tránh lựu đạn cay. Các nhạc sĩ sinh viên Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng đi đến đâu là có dùi cui, có lựu đạn cay đến đó. Bạn bè tôi, những đầu bù, tóc rối, kiếng cận, quần loa ngồi gật gù thâu đêm bên tách cà phê đen, thuốc lá đen và đêm đen trong các quán Xuân Hương, Hầm Gió, Thằng Bờm.Tôi đã khóc trước linh cữu ông thầy dạy Cơ Thể Học bị ám sát trên đường Trần Hoàng Quân, ngay bên cạnh Đại Học xá Minh Mạng. Tin nơi nầy đánh lớn, nơi kia đánh nhỏ. Tin thằng bạn nầy ngã gục, thằng bạn kia vào Thủ Đức….

 

     Những biến động dập dồn trên cả nước đâu có dừng lại trước một cánh cổng trường nào đâu. Cho nên, giữa năm học cuối tôi đã bỏ lại tất cả để lăn vào cuộc chiến, bỏ lại tiếng vélo bình bịch của người em Sinh Hóa. Chiến cuộc và toàn thể Miền Nam bị chết tức tưỡi. Tôi cũng tức tưỡi chui vào tù; như một định mệnh đã an bày. . Cái hụt hẫng này phải đợi đến hơn hai mươi năm nơi xứ người, phải đợi đến hôm nay mới được tiếp nối.

 

    Chiều nay, đứng trên tầng cao của đại giảng đường Holman, tôi như thấy trước mắt con đường trải đá xanh với hai hàng còng già nua của ba mươi năm cũ  đang lập lờ uốn lượn bên ngòai vuông cửa sổ. Và, ơ kìa, ở cuối tầm mắt, chỗ vòm cây xanh giáp với xa lộ liên bang I- 45, tôi bỗng thấy thấp thoáng một chàng thanh niên đang đứng dưới vòm cong của chiếc cổng thật quen. Chiếc cổng màu gạch cua trên đường Cộng Hòa mang nhiều thương tích. Chàng thanh niên dừng lại một chút rồi theo con đường trải đá xanh bước vào cái giảng đường to như một quả đồi non. Rồi quả đồi non ấy bỗng tan loãng vào dòng xe cộ hướng về phía Downtown.

 

    “ Xin lỗi, tôi...tôi có thể nói chuyện với ông vài phút được không?”

    Có lẽ bà giáo sư đã đứng sau lưng tôi từ hồi nào. Tôi không nghe tiếng bước chân của bà, nhưng hình như  tôi có ngửi được một mùi hương lạ.

    “Dạ, kính chào bà. Xin bà cứ tự nhiên. Tôi là Nguyễn, thưa bà Smith.”

    “ Có lẽ tôi hơi đường đột nhưng xin hỏi ông Nguyễn: ông có làm sao không? Ông vẫn bình thường chứ?

“ Dạ…dạ…”

“ Hay là ông đang chờ người đến đón về? Tôi có thể giúp gì được cho ông không, ông Nguyễn?”

    “Dạ cảm ơn bà, bà Smith. Tôi không sao đâu. Xin bà yên tâm. Tôi cũng không chờ ai cả. Thành thật cảm ơn bà đã quan tâm.”

    “Ông Nguyễn à, ông thấy đó: trời đã tối rồi, mọi người đã rời khỏi giảng đường. Còn ông thì vẫn đứng đây, nhìn bên ngoài cửa sổ.”

    “Thưa bà, hôm nay là ngày đầu của một niên học mới. Là ngày đầu, là ngày đầu. Thưa bà”.

    “Điều nầy thì tôi biết. Điều tôi không biết là hình như ông có tâm trạng gì đối với ngày khai giảng hôm nay.”

    “Thưa bà, tôi muốn sống thêm những khắc giây của ngày hôm nay tại đây, ngày đầu tiên tôi trở lại giảng đường.”

    “Chắc ông Nguyễn cũng đã thấy trong số hàng trăm sinh viên vừa ra khỏi lớp, nhiều người cũng đã lớn tuổi, cũng có người ngày đầu tiên tiếp tục những gì đã bỏ dở, như ông. Và họ đã ra về hết rồi, tôi cũng phải rời nơi đây. Chỉ còn ông là nán lại. Điều này thì thật sự tôi không hiểu. Có lẽ mình còn nhiều dịp khác để trò chuyện thêm. Chúc ông Nguyễn một buổi tối an lành.”

    “Tôi cũng kính chúc bà như vậy. Kính chào bà Smith.”

 

    Bà giáo trẻ này làm sao hiểu được một trang đời đầy ắp chữ nghĩa đã bị tức tưởi xếp lại, đóng lại trong suốt ba mươi năm. Bà cũng không thể hiểu được cái mộng ước đã được ấp ủ hai mươi năm nơi xứ người. Hôm nay, chính ngày hôm nay, tất cả là sự thực. Trang đời cũ đang được mở ra. Những ước vọng đang hình thành. Phải, bà Smith và mọi người thân mến, tôi muốn đứng đây thêm một chút nữa để thấy bước chân hụt hẫng năm xưa đang lần về lối cũ, muốn nghe hoài tiếng sỏi lạo xạo dưới chân, nghe tiếng trái còng khô rơi nhẹ nhàng trên sân cỏ. Hình như tôi nghe được cả tiếng lào xào của bút giấy, tiếng rào rạo của phấn trắng bảng đen và tiếng vélo bình bịch của em ngoài cửa lớp. Những điều này bà giáo trẻ Smith làm sao nghe được, có phải không? Tại nước Mỹ này việc đi học đâu có khó khăn gì, cho nên bà giáo trẻ của tôi sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu biết rằng để có được ngày hôm nay, tôi phải có hàng hai mươi năm để chuẩn bị thực hiện ước mơ này. Sống với ngày này thêm vài phút nữa thật chẳng phí chút nào.

 

    Hơn hai mươi năm trước, vợ chồng chúng tôi đến đây với đôi bàn tay rỗng và ba đứa con, đứa lớn nhất 11 tuổi, đứa nhỏ nhất chỉ mới bập bẹ mấy tiếng ba ba. Trước mắt, chúng tôi phải tạo dựng lại tất cả; ưu tiên là một mái ấm gia đình với đàn con đủ ăn, đủ mặc, đủ học hành. Tình yêu thương, sự giáo dục dạy dỗ từ cha mẹ cũng phải đủ. Những ưu tiên căn bản này có tính tương đối nên từ buổi đầu chúng tôi thực hiện không khó lắm. Chúng tôi không mong mỏi nhiều. Chỉ cần vừa đủ là được rồi. Cái khó là tìm nơi cư ngụ bình thường tại một khu xóm an ninh và có một học khu tốt. Chúng tôi chỉ cần những tiện nghi tối thiểu, một phương tiện di chuyển an toàn để công ăn việc làm được trôi chảy. Xe mới, nhà to,... cho đến nay chúng tôi cũng chưa hề nghĩ đến nói chi lúc chân ướt chân ráo đến thành phố này. Phương án thực hiện của chúng tôi rất gọn: vợ tôi ở nhà săn sóc con cái, chăm lo nhà cửa, giặt giũ, nấu nướng. Thuở đó, khoảng năm tám mươi, tìm việc không khó, nên dù chỉ nhớ lõm bõm vài tiếng Anh, không tay nghề, không một chút kinh nghiệm, tôi vẫn được may mắn nhận vào làm việc cho một nhà máy sản xuất các sản phẩm nông nghiệp với đồng lương của một người thợ không có tay nghề nhưng cũng tạm gọi là đủ để chi phí hàng tháng trong gia đình. Đó là công việc ngoài trời, nặng nhọc, dầm mưa dãi nắng, với mỏ lết dài cả thước tây, với búa kìm nặng trình trịch, bù loong, đinh ốc. Các chủ cả thì bất công, cai kiết thì kỳ thị, khó khăn, mặt mày lúc nào cũng nhăn nhăn nhó nhó, lúc nào ngồi buồn vì chuyện nhà cửa vợ con thì đào bới việc cho người ta làm, bất kể là nắng cháy da hay trời đang mưa ngập đất; các đồng nghiệp thì ma cũ hiếp ma mới, ức hiếp, đùa việc, ganh tị, tham lam, ích kỷ, nói năng tục tĩu, chữi thề chữi bọng lung tung, cần sa ma túy gần như là công khai ngay khi làm việc...Bước vào cái thế giới trăm phần trăm lao động chân tay này thằng tôi trung niên mũi tẹt da vàng có chút chữ nghĩa phải cố hết sức mình dùng chân tay lao động gấp đôi để được tự chìm lấp, đủ để được có mặt hàng ngày bên những bao bịt nặng hàng trăm kí lô, để được thường xuyên chui dưới gầm những toa xe lửa nối những ống cao su thật nặng với những hệ thống ống đồng chảy vào các bồn chứa có dung tích cả chục ngàn tấn dung dịch đủ loại, từ đường mía, đến đủ thứ át-xít, đủ loại mỡ đặc, mỡ lỏng, u-rê, phân bón.... Tôi cũng phải luyện cái mũi cho quen dần với đủ thứ mùi vị khó ngữi của các hóa chất này, phải luyện đôi màng nhĩ quen với tiếng rầm rầm của hàng chục cái máy vĩ đại nổ cùng một lúc, luyện cái cổ thật cứng để giờ phút nào cũng đội trên đầu cái nón an toàn vừa nặng vừa khó chịu với miếng faceshield bằng mũ trong, che hết mặt mũi. Tôi phải khổ sở biết bao nhiêu với bộ quần liền áo bằng cao su dày mặc hoài bất kể trời mưa hay trời chang chang nắng để chất hóa học không thấm vào người. An toàn hay không thì chưa thấy nhưng mồ hôi mồ kê thì tôi có thể cảm nhận từng giây trên từng vuông da thịt. Bộ đồng phục màu cứt ngựa thì hầu như trên người suốt ngày, suốt tuần.  Nhớ vô cùng thằng bé nhà quê đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, lưng trần chạy nhảy tung tăng trên  đường làng mấy mươi năm trước. Ưỡn ngực, vung tay cũng không ôm hết đất trời tinh khiết. Tai có mở rộng cũng không chứa hết tiếng líu lo của từng bầy chim trong vườn cũ. Còn người trung niên bây giờ tìm hoài cũng không thấy một chút mình. Mình bây giờ là một mớ thịt da bọc trong bộ đồng phục ; lâu thật lâu mới ghé Kmart hay Goodwill, thường là mua những cái quần ngắn và áo lót, hiếm khi cần một bộ đồ mới. Mình bây giờ là con ốc trong cỗ máy, lăn hoài, lăn hoài. Ngày nhỏ xem chàng hề Charlie Chaplin đóng vai người thợ máy trong phim Modern Times với những động tác thành thói quen máy móc làm mình vừa cười vừa thương cảm. Bây giờ thì, ta ơi, hãy tự cười thật to để lấy hơi mà phóng tới.

 

    Nhiều đêm khuya khoắt, một mình đứng giữa những bộn bề công việc, giữa những dãy xe lửa im lìm, đen ngòm, dài thườn thượt, dưới những cơn mưa nặng hạt, những luồng gió lạnh cắt da, tôi thấy mình bỗng rơi nước mắt. Rồi liền đó, cũng chính tôi, tôi tự nhủ mình: sông có khúc, người có lúc. Chính đó là những lúc tôi biết tôi sẽ phải làm gì. Trước hết là phải quên cái thân tôi hiện tại trong lòng mưa u ám. Quên tôi dưới vòm trời đen kịt giữa khuya đêm nay và hãy nghĩ rằng ngày mai chắc chắn mặt trời sẽ lên chói chang từ phương đông. Ngày mai sẽ là một ngày mới, một ngày hoàn toàn mới.  Và tôi, phải, chính tôi cùng với vợ con tôi tay trong tay cùng đi về hướng mặt trời mọc, cùng ngước mặt chào đón một bình minh chan hòa hương sắc. Tôi ơi, hãy tự nhủ như vậy đi. Không ai có thể làm thế cho mình. Không ai dựng mình dậy được nếu mình cứ thành một thứ ù lì.

 

    Nói và nghĩ thì không khó, nhưng làm thì thật chẳng dễ gì. Con đường dài thăm thẳm hơn hai mươi năm đó vợ chồng con cái chúng tôi cùng dắt nhau qua suối qua sông, lên non xuống biển, vượt ghềnh vượt thác; nhiều khi ngụp lặn trong vũng lầy, té ngã liên miên trên đoạn đường nhân sinh thương khó. Cũng có lúc chúng tôi được tạm dừng chân nghỉ bên đường, để uống một chén trà sen, hân hoan nhìn ngắm ngàn ngàn hoa cỏ rộ nở quanh mình, để nghe chim hót, quyên ca trên từng nhánh đời rộn rã. Chúng tôi biết muôn vàn tâng tiu đoá hoa hạnh phúc lúc nào cũng rực rỡ trong căn nhà nhỏ gọn này; cho dù bên ngoài khung cửa ầm vang mưa sa, bão chớp. Chúng tôi vui muốn khóc những lần thấy hoa sứ hoa mai cứ thay phiên nở rộ trên các báo cáo học lực, trên các phiếu điểm của các con. Vợ chồng chúng tôi ôm nhau mà không nói được lời nào khi thấy hoa quỳnh, hoa ngâu khoe màu rực rỡ trên các bằng cấp trung học, đại học mà các con lần lượt mang về nhà. Vợ tôi đã phải úp mặt vào lòng đôi bàn tay để che giấu niềm hân hoan và nỗi xúc động trong lúc trên khán đài đứa con trai đầu lòng với văn bằng tiến sĩ trong cánh áo chùng mũ rộng đang chững chạc đại diện các tân khoa nói lời cảm tưởng giữa một hội trường to như cái sân vận động. Tiếng vỗ tay rào rào sau đó làm tim chúng tôi muốn ngưng đập. Đêm đó vợ tôi viết vội mấy chữ gởi về quê hương cho cha mẹ chồng: “Chúng con cảm ơn Ba Má đã cho chúng con những đứa cháu nội chăm ngoan của ba má”. Những dòng thư nầy vợ tôi có dịp viết gởi về quê thêm một lần nữa khi con gái lấy bằng MBA tại UT.Và khi đứa con út đem bằng Ph.D từ Harvard về thì cha mẹ chồng không còn nữa để mà nghe tin vui từ bên kia trái đất!

 

                                                            ***

 

    Bà Smith kết thúc bài giảng Đặc Điểm Chung Của Thương Trường Thế Giới bằng câu nói của nhà kinh tế Mỹ Pete Hutchinson: “Quốc gia nào có mạng lưới thương mãi rộng, dày và chắc sẽ là một tân đế quốc”. Rồi như thường lệ, bà giáo trẻ Smith chờ câu hỏi về bài học vừa rồi. Sau đó,cũng như thường lệ, mọi người lục tục đứng lên rời khỏi chỗ ngồi. Người có tuổi không thích chen chúc nên từ ba tháng nay, tôi luôn là người rời khỏi giảng đường sau cùng. Hôm nay cũng như ngày đầu tiên khóa học, bà Smith vẫn còn ở nán lại trong phòng học. Tôi thì không còn cái háo hức, cái xúc động của ngày đầu trở lại trường ba tháng trứơc. Tôi ngồi nán lại vì không có gì để gấp rút. Bà giáo Smith đóng lại cái laptop, cuốn lại sợi dây điện, rồi đi về phía tôi, phía cuối giảng đường. Một mùi hương đã thành quen thuộc sau ba tháng học môn Kinh Tế Nhập Môn với bà Smith.

    “ Chào ông Nguyễn. Mạnh giỏi chứ? Mãn khóa học rồi, mình có thể chuyện trò một chút được không?”

    “Chắc chắn rồi. Tại sao không, thưa bà.”

    “Qua các buổi hội luận và các bài làm của ông, tôi thấy ông rất hiểu biết về các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị... Xin phép được khen ông một lời: ông là một sinh viên xuất sắc. Các đồng nghiệp của tôi cũng có cùng ý nghĩ này về ông. Chúng tôi khâm phục những cố gắng của ông, ông Nguyễn ạ.”

    “Xin cảm ơn tất cả quý vị.”

    Rồi sau đó thầy trò chúng tôi không nói gì thêm về chuyện học hành, mà nói về trận động đất khủng khiếp mới đây ở Thổ Nhĩ Kỳ, nói về cơn bão nhiệt đới Bret đang ở ngoài khơi vịng Mễ Tây Cơ, chỉ còn cách bờ biển Galveston hơn trăm dặm. Đây là những câu chuyện tôi nói cho qua lề, để tránh nói một chuyện khác.

    Điều tôi muốn nói với bà Smith hay bất cứ một giáo sư nào của tôi là: Thành quả bước đầu tôi có được sau ba tháng trở lại trường là hậu quả của những chuỗi sự kiện, là cố gắng của nhiều người. Bắt đầu phải kể là nỗi ấm ức của một người trẻ tuổi bị đứt ngang sự học giữa chừng, lòng dạ lúc nào cũng muốn trở lại trường, không năm nầy thì vài năm nữa, mười năm, hai mươi năm nữa... có sao đâu. Kế đến là không thể không nói tới thời gian chuẩn bị: Trước khi nghĩ tới mình, chúng tôi phải tận lực lo cho đàn con có đầy đủ vốn liếng vào đời bằng đôi chân vững, bằng trí khôn và bằng nhân cách. Các con được như vậy thì sự ra đi của chúng tôi hai mươi năm trước mới có thêm ý nghĩa, và sự nhọc nhằn của vợ chồng chúng tôi là không phí phạm. Cần có thời gian chuẩn bị để tôi, một hảo hán về chiều, tự luyện cho mình thêm nhiều thành công lực cho trận thư hùng cuối đời sắp tới, dù có chậm nhưng không được thua. Phải thắng. Không còn công sức và thời gian để làm lại. Ba mươi năm rời trường tôi đã quên hết những gì đã học. Những giây phút rảnh rổi hiếm quí tôi phải học lại tất cả, học từ sách vở, báo chí, từ các phương tiện truyền thông, và nhất là học từ các con tôi. Lúc các con còn nhỏ tôi nắm tay dắt từng đứa đi lên. Rồi đứa lớn dìu đứa nhỏ. Lúc tôi mang cái tuổi già trở lại giảng đường các con đã quay trở lại nắm tay tôi cho tôi tiếp tục đi tới. Đứa thì nắm tay, đứa thì đun đít.Vợ tôi thì ít khi dìu tôi đi nhưng đã nhiều lần nâng tôi dậy mỗi khi tôi té ngã. Chắc cũng cần phải nhắc tới những cái mặt quạu đeo, khó khăn, nhăn nhó, kỳ thị, sỗ sàng, tục tằn của mấy người cai Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ vàng nơi nhà máy đã vô hình chung góp phần không nhỏ cho việc trở lại trường của tôi?

    Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với bà giáo Smith sau lời khen tặng của bà. Tôi còn muốn nói với bà là tôi đang rảo bước trên con đường trải đá xanh với hai hàng còng gìa nua trong khuôn viên một đại học trên đường Cộng Hòa, tôi đang nghe tiếng vélo bình bịch của người tình áo blouse trắng ở cuối dãy hành lang, nơi phòng thí nghiệm sinh hóa.

    Mà thôi. Tôi không muốn phải nghe lại câu nói của bà Smith ngày đầu niên học ba tháng trước: “Điều này thì thật sự tôi không hiểu!”

 

Trần Bang Thạch

CHUYỆN MỘT NGƯỜI LÍNH HOA KỲ

 

    Bạn muốn nghe chuyện của tôi à? Thật sự thì chuyện của tôi không có gì đáng để kể hết.

    Chuyện của một anh chàng trung niên, không vợ con, tình nguyện vào lính, rồi ra chiến trường hơn ba năm nay, chưa có một thành tích cá nhân nào tạm gọi là xuất sắc, chưa bị thương lần nào, cũng chưa một lần bị bắt rồi được giải cứu như người nữ chiến hữu tên  Lynch hiện đang nổi danh như cồn. Một cách vắn tắt, tôi là hạ sĩ Dian Clark, thuộc sư đoàn 4 bộ binh đang trú quân tại Tikrit miền Bắc nước Iraq. Trong số hơn hai trăm ngàn lính Mỹ đang có mặt tại Iraq hiện nay thì tôi chỉ là một hạt cát dưới lòng sông Tigris mà thôi. Có là tướng tiếc, là anh hùng anh hiếc gì đâu mà được nhà báo các anh chiếu cố chớ?

    Nhưng nếu bạn muốn nghe chuyện lính tráng thì tôi xin kể bạn nghe tí chút về một bức ảnh. Kể cho vui vậy thôi chớ không một ngụ ý gì hết à nghen...

    Hôm qua tôi nhận được thư của mẹ tôi, có kèm theo một bức ảnh. Nói nhỏ cho bạn nghe: Mẹ con tôi rất ít khi xài email, mà chỉ thích đọc những hàng chữ viết tay, thấy chữ viết như thấy người, cho đỡ nhớ. Email thì cụt ngũn, gọn lõn, trơ trơ như mấy con chữ đứng sắp hàng. Thiếu cái tình, thiếu cái hồn, phải không bạn? Ngoài những chuyện thương nhớ, những kể lể này nọ, trong lá thư khá dài ấy mẹ tôi nói bức ảnh đã làm bà khóc suốt đêm. Mẹ nói bức ảnh này mẹ đã cắt từ tờ báo địa phương, và có thể các báo khác ở nhiều nơi trên toàn nước Mỹ cũng có đăng. Tôi ngạc nhiên hết sức khi nhìn bức ảnh. Đó là tôi, phải, chính là tôi trong bộ quân phục bộ binh tác chiến rằn ri màu cát sa mạc. Trong ảnh, tôi với mũi súng trút xuống đất, dây ba chạc mang đầy những túi đạn và con dao găm cận chiến. Có cả dây mang hàng chục trái lựu đạn vắt ngang một bên vai. Người nhiếp ảnh chiến trường nào đó quả là có tài khi nhằm ngay lúc tôi gập lưng xuống và ngay lúc cái nón sắt của tôi chệch qua một bên mà bấm máy để gương mặt của tôi hiện rõ trước ống kính, thiếu điều lộ cả cái nút ruồi bằng hột đậu đen gần sống mũi. Điều tai quái của bức ảnh là phía sau cái cơ thể cong quặp của tôi là hậu cảnh trái ngược. Đó là hằng chục đứa trẻ cao, lùn đủ cỡ, đứng thẳng lưng và thẳng tay ném những hòn đá nhắm vào cái mục tiêu rất gần trước mặt của chúng là thằng tôi. Chính là tôi: cái bị thịt trong vai trò người chiến binh quân lực Mỹ. Là tôi, người có súng trong thời chiến mà phải trút mũi xuống đất, ngón tay không dám bóp cò và  lưỡi lê thì nằm yên trong bao da. Là tôi với tấm thân cao lêu khêu 6 feet 4, cân nặng 270 pounds, cố thu người cho nhỏ lại với vũ khí dùng để chống đỡ duy nhất lúc ấy là cái nón sắt khi thì đội nghiêng qua bên này, lúc bên kia để tránh những đá cát bay tới như mưa rào. May là ông phóng viên không có máy quay phim nên trong ảnh người ta chỉ có thể thấy được vài hòn đá bay về phía tôi lúc bấm máy, chớ nhiếp ảnh gia không ghi được hàng trăm hòn đá khác đã rơi khắp thân tôi, từ chân tới đầu. Ảnh cũng không chụp được ngay cái giây phút tôi ngạc nhiên tột độ với cái mồm tôi đang há hốc, đôi mắt tôi đang mở lớn như cái khu tô khi bên tai tôi có nhiều tiếng la và bất thần nghe vai mình đau nhói với một viên đá không biết bao lớn vừa ném trúng đích. Ảnh cũng không ghi được mấy giọt máu chảy từ vết thương nơi mu bàn tay trái không mang găng tay của tôi. Như vậy cũng tốt. Nếu mẹ tôi thấy được hết những chi tiết này thì chắc bà phải khóc cả tháng. Càng tốt hơn nếu mẹ tôi không nhìn thấy bức ảnh ấy để bà khỏi đau lòng. Đau cho thằng con chỉ biết lấy tấm thân dềnh dàng chống trả với trận địa cát đá do mấy đứa con nít ồ ạt tấn công. Thù hận từ đâu đã rớt xuống đầu con bà vậy?

    Tội nghiệp mẹ tôi, tuổi đời tròm trèm sáu mươi rồi mà những nghiệt oan của lịch sử chưa chịu buông tha bà. Có vẻ như tôi sắp kể lể chuyện của mẹ tôi rồi đây. Nhưng kể chuyện mẹ mà thiếu chút chuyện của ba thì chắc là nhạt nhẽo lắm. Vậy thì xin bạn cứ kiên nhẫn mà nghe tôi lan man tâm sự nhé.

    Bạn thử nghĩ xem có phải là điều nghịch thường không khi một người đàn bà sống trong một đất nước giàu mạnh, tự do, không chiến tranh mà phải cõng trên vai mình hai cuộc chiến xảy ra thật xa bên ngoài đất nước của bà và trùm phủ trên con người của bà biết bao là hệ quả đau thương của nó?

   Có dịp nào mời bạn ghé qua nhà mẹ con tôi. Từ Downtown Houston, bạn đi về hướng Tây  Nam, sau gần ba giờ lái xe bạn sẽ đến nhà chúng tôi trong vùng thị trấn Victoria, gần với biên giới Mễ Tây Cơ. Mẹ tôi đang ở đó, một mình từ khi tôi vào lính. Căn nhà nhỏ 3 phòng ngủ nằm trên một vuông đất cao trồng toàn thông xanh. Cửa chánh không hướng về phía xa lộ 59 với dòng xe cộ tấp nập ở dưới, mà hướng về phía mấy dãy núi thấp ẩn hiện ở thật xa cuối chân trời. Xin bạn chớ có tò mò mà hỏi mẹ tôi về cái tên mấy ngọn núi ấy hay tên thành phố nào đó nằm phía sau núi. Từ lâu bà đã không muốn tìm biết mấy cái tên này vì bà có lý do của riêng bà. Chuyện này tôi bật mí ngay với bạn đây. Mẹ tôi thích ngôi nhà này lắm. Từ vùng Beaumont phía Bắc Houston mẹ tôi dọn về đây ngay sau khi ba tôi vừa đặt chân xuống Cam Ranh. Căn nhà có một vị trí đặc biệt cả trên phương diện địa lý lẫn tâm lý của mẹ tôi. Bà nói bước ra cửa, nhìn dãy núi vô danh che chắn một địa điểm vô danh, bà có thể tưởng nghĩ tới bất kỳ một đất nước nào hay một địa danh nào ở phía bên kia núi, chẳng hạn như một đất nước tận bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi chồng bà đã chiến đấu và đã hy sinh. Rồi giờ đây cũng hướng về dãy núi xa xăm ấy bà nghĩ tới đất nước tận vùng Trung Đông mà con trai bà đang có mặt. Biết đâu sau này nó trở thành tên một địa điểm nào đó ở Iran hay Bắc Hàn khi con trai của bà trú quân ở đó? Như vậy, bạn thấy rồi đấy, dãy núi và thành phố sau lưng chính là nơi giòng tư tưởng của bà đậu lại theo bước chân của hai người đàn ông thương nhất của cả đời bà. Bà muốn nó là Núi Châu Thới và thị trấn Dĩ An của Việt Nam cũng được. Nhưng khi bà muốn nó là núi Baktaki hay thị trấn Tikrit của Iraq thì chúng mang những tên ấy.  Có sao đâu! Mẹ tôi đó, người phụ nữ thuần chủng Native American, thuộc bộ tộc da đỏ Apache, chưa đến tuổi đôi mươi đã sống trong một cuộc chiến tranh không giáp mặt, đã gởi hết tâm tình của người vợ trẻ theo chân người chồng lính chiến ở vùng đất đỏ Dĩ An mà bà chưa hề đặt chân đến. Không có mặt bên chồng, không có mặt trong cuộc chiến nhưng mẹ tôi như hàng ngày gần gũi với những trận đánh ở Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ, Dakto, Daksut, ở Núi Bà Đen, Mỏ Vẹt, chiến khu Dương Minh Châu...Bà như thấy những đổ nát của chiến tranh, thấy những bất hạnh của đàn bà, trẻ con trong lửa đỏ, trong bom đạn... Đó là nhờ những lá thư của ba tôi, khi thì viết vội nơi tháp canh, khi thì nơi một bìa rừng cao su, khi thì vừa mới xong một trận đánh; và nhờ những hình ảnh ba tôi cắt từ các báo. Không phải tất cả thư từ hay hình ảnh ba tôi gởi về đều  mang bóng dáng chiến tranh. Ba tôi cũng thường gởi về những hình ảnh trẻ thơ trong bộ áo quần rách rưới mà gương mặt thật dễ thương, đôi mắt thì tròn như hạt nhãn. Có bức ảnh ba tôi đang bồng đứa bé trai hai, ba tuổi, đầu to, bụng ỏng, chân nhỏ như que cây; ba nói khi về nước ba sẽ xin đứa bé về làm con nuôi. Mẹ nói với ba bà muốn ba mang về vài đứa nữa cho đủ nửa tá; rứt đứa trẻ nào ra khỏi lửa đạn, khỏi cảnh đói nghèo thì tốt cho đứa đó. Có một bức ảnh chụp tuy rất nghệ thuật nhưng đầy bi đát: một đứa trẻ chừng năm sáu tuổi, gầy đét như cánh lá khô đang đong đưa trên chiếc cầu khỉ nối hai bờ đá của con suối cạn, hai bên cầu là hai ngụm lửa đỏ; đứa bé không biết chạy về đâu giữa hai lằn đạn. Cuối cùng có lẽ nó chỉ có một lựa chọn: buông tay để rơi xuống vực, hy vọng vướng vào một nhánh cây nào ở sâu phía dưới! Bức ảnh làm bà khóc suốt buổi trong phòng. Mẹ tôi nói bà thích nhất là khi bà nhận những câu ca dao, tục ngữ mà ba tôi học được từ những người bạn đồng minh Việt Nam. Mỗi câu gởi về ba tôi chép nguyên văn chữ Việt rồi cắt nghĩa rõ ràng. Có câu ca dao khiến mẹ tôi rơi nước mắt mỗi lần đọc lại sau khi ba tôi mất: Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu đời đắng cay. Mẹ tôi chưa hề thấy một cây rau răm, vậy mà bà cứ nghĩ mình là một cọng rau răm cong queo, tàn úa bị chồng bỏ lại. Mấy mươi năm sau, đọc lại câu ấy, mẹ tôi vẫn khóc và khóc nhiều hơn. Tất cả những hình ảnh, thư từ ba tôi gởi về suốt sáu năm có mặt trong cuộc chiến Việt Nam, mẹ tôi đều giữ đủ. Bà có hàng mấy trăm bức thư, toàn là thư tình hai người gởi cho nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện: Tình yêu, chiến tranh, cái chết, cái sống, cái nhớ, cái thương.... Ảnh thì có cả ngàn bức ảnh đủ thứ, đa số là ảnh từ các báo: ảnh mặt trận đang bốc khói, ảnh di tản thương bệnh binh, ảnh tù binh mặt mày non choẹt như con nít, ảnh ba tôi đội đá vá đường, ảnh các bạn ba tôi dạy các trẻ con học tiếng Anh; đặc biệt có những tấm ảnh ba tôi chụp chung với các người lính Việt Nam mang những cái tên thật ngộ mà ba chú thích trong thư: Binh nhì Dương dê xồm, Thượng sĩ Thái dúi, Thiếu úy Đậu mùa, Đại úy Ba cà nông. Còn cả trăm câu ca dao, tục ngữ Việt Nam thì mẹ tôi chép lại nguyên văn  với nét chữ khổ to, thường là mỗi trang giấy chỉ có hai câu. Bà dùng nguyên một gian phòng để làm phòng trưng bày những thứ ấy. Chúng tôi gọi gian phòng đó là Một Góc Việt Nam, A Việt Nam Corner. Tất cả được dán trên những khuôn giấy cứng trên ba phía vách tường. Còn vách tường đối diện cửa phòng là tấm ảnh lớn chụp ba tôi đang làm nhiệm vụ của một công binh chiến đấu trên trục lộ gần quận Dĩ An Biên Hòa: mình trần trùn trục, lấm tấm mồ hôi, đang khuân từng ky đá trải trên mặt đường. Phía trên ảnh ba tôi, mẹ tôi treo một tấm bản đồ Việt Nam khổ lớn. Trong phòng cũng có một số sách vở chữ Anh viết về Việt Nam và những sách tiếng Việt viết về sử ký, địa lý Việt Nam. Mẹ tôi đã tìm hiểu về Việt Nam từ khi ba tôi vừa đặt chân tới bến tàu Cam Ranh lần đầu tiên. Có một lần ba tôi viết trong thư: “Ngồi tại Texas mà Em còn hiểu Việt Nam hơn anh và các đồng đội, những người đang ngày đêm lặn lội trên đất nước này!”

    Thật sự thì mẹ tôi vì thương chồng mà muốn theo dõi những bước đi của chồng trên một đất nước quá xa lạ đối với bà. Càng tìm hiểu về cuộc chiến, mẹ tôi càng thêm lo. Những sông rạch chằng chịt, những rừng cây bạt ngàn, những đường mòn, những địa đạo…đâu đâu mẹ tôi cũng thấy tàng ẩn hầm chông, mìn bẫy và...cái chết. Tìm hiểu chưa đến đâu một đất nước hình chữ S tên gọi Việt Nam  thì mẹ tôi đã phải đón nhận thi thể của chồng trong chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ Quốc. Lúc đó tôi vừa mới lên ba, chưa một lần biết mặt cha mình, cũng chưa biết gì là nỗi khổ mất cha. Khoảng 3 năm sau thì cuộc chiến chấm dứt. Thị trấn Dĩ An nhỏ bé và cả đất nước Việt Nam to lớn đã đổi chủ từ đó. Đứa bé tên Dian là tôi được ba mẹ đặt tên để nhớ vùng đất Dĩ An ba tôi đã từng có mặt .

   Sau này lớn lên tôi mới thấy hết ý nghĩa của gian phòng Việt Nam Corner kế phòng ngủ của tôi. Ba tôi ra đi để lại cho mẹ tôi quá nhiều kỷ niệm, bà sống trong gian phòng đó như sống với một kỷ niệm thân thương và bi tráng. Sau này mẹ con tôi có vài dịp ghé thăm đất nước đã một thời ba tôi sống, chiến đấu và đã ra đi vĩnh viễn. Sau những chuyến đi ấy căn phòng có thêm những hình ảnh mới: Người thương binh với hai ống chưn cụt tới háng, mấy em bé trai, gái năm sáu tuổi quần cụt, mình trần ngồi trên đống rác cao như một ngọn đồi thấp, bà mẹ mù còng lưng gần sát đất tay quơ gậy trúc tay chìa ra cái lon xin tiền….Có cái băng cassette mẹ tôi ghi âm tiếng đàn bầu và mấy câu hát của một người hành khất mặc cái áo trận rách tả tơi khi mẹ con tôi chờ qua bắc Cần Thơ. Người hát thì như ai oán khóc than, điệu hát thì mang âm điệu của một bài kinh khổ. Mẹ tôi không hiểu gì hết ý nghĩa của bài hát nhưng bà thường mở máy nghe vào buổi tối trước khi đi ngủ.

    Bạn có ý muốn nghe chuyện của một người lính phải không? Thì đó, tôi vừa mới kể cho bạn nghe đó. Lại còn bonus cho bạn chuyện của một người lính khác là mẹ tôi. Không phải sao ? Mẹ tôi cũng là một người lính vậy chớ bộ giỡn sao bạn. Mẹ tôi thời trẻ tuổi đã sống đời sống người lính của ba tôi, bây giờ sống đời sống người lính của đứa con trai duy nhứt của bà. Ngày tôi mới nhập ngũ, mẹ tôi tươi cười khi nhìn tôi lần đầu trong màu áo trận, mái tóc dài nửa inch. Rồi Mẹ tôi khóc thầm khi đưa tôi ra sân bay. Từ đó nước mắt bà theo tôi ra mặt trận. Bà cứ chảy nước mắt theo bất kỳ người lính nào trên chiến trường xa khi chiếc trực thăng bị bắn rớt, khi chiếc xe tuần tiểu bị gài bom, hay khi nhóm lính bị tàn quân bắn sẻ. Mỗi cái chết của bất cứ người lính nào đều làm thành nỗi đau của mẹ tôi. Có một lần tôi rất ngạc nhiên khi bà nói rằng bà đã khóc thật nhiều khi hay tin thằng Ryan rớt trực thăng trong vùng sa mạc Hijarah. Ryan là bạn chí cốt của tôi, hai đứa được đưa sang Iraq cùng lúc, vậy mà tôi hay tin dữ này sau mẹ tôi!

   Nói thật bạn nghe, trong quân ngũ người lính có những buồn vui đời quân ngũ, người lính chiến đấu ít khi buồn lo, chết thì chết, chơi thì cứ chơi, sợ sệt thì ai cầm súng; còn người vợ, người mẹ ở hậu phương thì chỉ có buồn và lo và thương và nhớ và...gì gì nữa..đủ thứ... Khi người lính bị thương thì người mẹ nào cũng đau gấp mười, gấp trăm lần. Khi người ta mang xác chồng con về thì bà như đã là cái thân đang chết, cái tim thì tan nát mà cái hồn thì lãng đãng lang thang nơi hạc nội mây ngàn theo dáng người vừa mới ra đi. Mẹ tôi đó, người đàn bà chỉ có mấy tháng bên chồng sau ngày hợp hôn, rồi mõi mắt chờ những lần chồng về phép ngắn ngủi. Mẹ tôi đó, người vợ, người mẹ chiến sĩ suốt đời sống với những tháng ngày chinh chiến xa xôi của chồng con và sống với cái Việt Nam Corner ngay trong nhà từ mấy chục năm nay. Cũng do cái Việt Nam Corner đó mà bà để tôi ra trận như một tiếp nối những gì ba tôi chưa hoàn thành. Các tấm  ảnh chụp những em bé đói khát, bịnh tật, lem luốc, da vàng, bụng ỏng càng ngày càng có nhiều trong căn phòng Việt Nam Corner của mẹ tôi thì việc ra đi của tôi thêm nhiều ý nghĩa. Cái Việt Nam Corner đó sau mấy mươi năm gần gũi đã dạy cho tôi bài học về tình người. Trẻ con bất cứ ở đâu thì cũng phải được thương yêu và nuôi nấng. Chúng tôi đã cầm súng để bảo vệ lẽ phải và duy trì hòa bình cho người dân vô tội được sống bình an và chúng tôi đã cầm tay từng em bé dạy chúng viết từng chữ ABC để sau này trở thành những cánh tay tiếp nối làm đẹp đất nước của mình. Chúng tôi dạy các em học, dạy các em hát bất cứ ở đâu, nơi góc phố đổ nát hay dưới chân tượng đài đã ngã sập. Người lính quân y của chúng tôi cho các em những viên thuốc bổ, chữa cho các em những ghẻ lở, thương tích. Chúng tôi cứu chữa cả những người mấy phút trước đây đã cầm súng bắn sẻ chúng tôi. Chúng tôi muốn đem bài học tình thương rao giảng với mọi người. Chúng tôi chiến đấu mà không một chút hận thù. Nói thật với bạn, nếu hàng trăm ngàn người lính chúng tôi, một sáng đẹp trời nào đó, được lịnh bỏ súng để dọn mình trở thành người truyền giáo hay thành sứ giả của tình thương thì bạn sẽ thấy súng ống bị vứt đầy đường và đầy đường sẽ là những giáo sĩ và những tín hữu hòa bình. Họ sẽ rao giảng kinh Thánh, kinh Koran, kinh Phật hay bất cứ kinh gì dạy mọi người sống hòa bình, nhân ái.

    Mấy mươi năm trước ba tôi đã quên những giây phút riêng tư của mình với người vợ mới cưới để đến một đất nước xa xôi vừa chiến đấu, vừa vá đường, vừa thương những đứa trẻ tội nghiệp như con. Thì nay, chuyện của tôi cũng vẫn là chuyện của tình thương và chiến đấu. Nhìn chúng tôi bị cả những em bé mà chúng tôi vừa mới cho kẹo ném những viên đá vào đầu xem ra thật là nghịch lý. Càng nghịch lý hơn nếu cứ vô tình để tâm hồn của các em bé như thế suốt đời bị màn u minh của một giáo điều che kín. Ngày hôm nay các em bé thơ ném đá vào tôi, nhưng sự có mặt cần thiết của chúng tôi biết đâu sẽ tạo cơ hội cho sự xuất hiện của những bộ óc hay những cánh tay biết xây dựng dân chủ, hòa bình, công bằng, tự do, bác ái, .…trên đất nước nầy trong vài năm nữa. Có  thành quả nào mà thiếu sự hy sinh, mất mát đâu.

 

    Tôi hy vọng mẹ tôi sẽ đọc được những dòng này để bức ảnh ấy không làm buồn lòng bà. Và để khi tôi có dịp về nhà tôi sẽ nhìn thấy bức ảnh được dán chung với hàng trăm những bức ảnh khác trong căn phòng đặc biệt được gọi là Việt Nam Corner của mẹ con chúng tôi. Chừng đó chúng tôi có thêm những kỷ niệm để sống.

 

Trần Bang Thạch

Mẹ Từ Trên Mây

 

 

"Thành quả mà chúng tôi có ngày hôm nay đều là do mẹ tôi hết. Từ trên mây, mẹ tôi luôn nhìn xuống anh em chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi từng bước làm theo mẹ".

 

     Mở đầu cho bài phỏng vấn đăng trên tờ báo địa phương The NorthWest Star hôm nay là câu nói trên của người con trai nhỏ nhất của gia đình Hays, cậu Stanley, tháng này vừa tròn 22 tuổi, một tân khoa của Đại học Texas tại Austin. Bài báo có kèm bức ảnh màu chụp bốn cha con nhà Hays đứng sau mộ bia bà Carol tại khu nghĩa trang nằm trên đường Montgomery, vùng Tây Bắc Houston. Cả bốn người đàn ông đều có nụ cười rạng rỡ . Và tôi chắc chắn nơi suối vàng, hay theo cách nói của Stanley, nơi mấy từng mây bạc trên cao, bà Carol cũng đang có cái cười thật tươi khi nhìn xuống thấp. Hôm nay đây là lần đầu tiên sau 14 năm cả bốn cha con mới có dịp cùng nhau mang niềm vui của mỗi người đến nghĩa trang tặng cho người vợ, người mẹ thân yêu đã chết 14 năm trước. Thời gian 14 năm để ước vọng thành hình chắc là không quá dài; nhưng 14 năm để phần hồn một người chết còn nặng nợ trần ai, cứ quẩn quanh nơi cõi thế này thì thật là dài. Dù sao thì đem thành quả đạt được trong học tập để dâng lên mẹ cũng là một hành động báo hiếu thật nhiều ý nghĩa và quí giá hơn bao nhiêu điều khác. Tôi nhớ tháng này cũng vào mùa Vu Lan, mùa báo hiếu. Chắc bốn người đàn ông trong ảnh không biết gì về ý nghĩa  mùa Vu Lan của văn hóa ta đâu, nhưng chuyện hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ thì ai cũng có và có thể thể hiện bất kỳ lúc nào. Sự trùng hợp này cũng là một điều thú vị.

 

    Hôm đó tôi trách người làm bản tin đã không có bức ảnh nào của bà Carol Hays in trên trang báo để đọc giả mến mộ nhìn được dung nhan của bà. Sau này nghĩ lại tôi thấy người ký giả ấy nếu không tế nhị thì cũng cao tay ấn lắm: Ông muốn nói với những đọc giả có ý nghĩ hời hợt như tôi rằng: lúc còn sống bà Carol đã quên mình mà lo cho chồng con thì khi đã chết rồi còn sá gì cái nhân diện của tấm thân ngũ uẩn. Phương chi nói tới thành quả của chồng con bà hôm nay chính là nhắc nhớ một đời vượt khó của bà, một đời tận tụy với chồng con, một đời đem niềm ước mơ của mình gieo vào tâm trí mấy đứa nhỏ. Đó, trên gương mặt vui tươi của người chồng có hình ảnh người vợ đã một đời đắng cay, khổ cực mà không một tiếng than. Đó,  nơi khóe mắt sáng ngời của ba đứa con là tấm lòng bao la như trời như biển của người mẹ. Và trong niềm vui hôm nay của mọi người trong ảnh ta thấy lúc ẩn lúc hiện đâu đó trên mấy tầng mây bạc một dáng hình như thần như thánh với nụ cười làm sáng rực một vùng không gian.  Cho nên hình ảnh bà Carol Hays mênh mông, vĩ đại quá, làm sao có trang báo nào thể hiện được hết. Chắc chắn người vui nhất hôm nay phải là bà Carol Hays, người đàn bà da màu nghèo khó, phải đợi cho đến 14 năm sau khi chết mới thấy được ước mong của mình đã hoàn thành. Thật sự nếu ta biết được tình cảnh gia đình Hays lúc bà Carol còn sinh tiền thì ta mới thấy được hôm nay niềm vui của người chết to lớn tới cỡ nào.

 

          Từ thời còn nhỏ, cô Carol La Salle đã sớm thấy cảnh đời đen tối của mình. Thuở đó chưa có những gì gọi là phong trào đòi nhân quyền rầm rộ, người da màu bị kỳ thị ở nhiều nơi. Đến đầu thập niên sáu mươi mới có những vận động tích cực của những người như Mục sư tiến sĩ Martin Luther King. Gia đình La Salle từ Morocco di dân sang Hoa Kỳ từ sau thế giới đại chiến lần thứ nhì, cô con gái đầu lòng Carol lúc đó chỉ hơn một tuổi. Những năm tiếp theo bà La Salle sinh thêm 2 trai nữa. Cha là một cựu quân nhân thuộc quân đội Anh, trở thành một phế nhân với ống chân mặt đã bị miễn đạn cứa đứt, thị giác chỉ còn hoạt động một nửa, đó là những thương tích để lại sau trận Nuremberg hồi giữa tháng Tư 1945, trận đánh quyết định chiến trường Âu Châu. Mẹ là người đàn bà quê mùa sống ở miền quê hẻo lánh vùng cực bắc của Morocco, không chữ nghĩa, chẳng có một nghề trong tay và chẳng biết một tiếng Anh nào. Sang Mỹ, ông bà như bị đẩy vào một thế giới lạ lẩm, không bạn bè, không người thân. Mỹ quốc là một nước giàu, nhưng gia đình La Salle là những người nghèo nàn nhất trong số những người nghèo. Sau khi sanh người con trai út cuối năm 51 thì ông La Salle từ trần; mấy năm sau thì bà La Salle cũng theo ông mà ra đi, lúc đó cô con gái Carol chưa quá 10 tuổi. Chị em cô được một gia đình không con nhận nuôi. Tình trạng chị em Carol đã không khá mà còn tệ hơn nữa. Cha mẹ nuôi cũng là  người da màu, không có nghề nghiệp nhất định; cả hai đều nghiện rượu rất nặng, họ sống thiếu thốn trong căn chung cư nghèo nàn vùng Fifth Ward. Bao nhiêu tiền trợ cấp của chánh phủ bị đổ vào bia rượu. Ba chị em Carol thường xuyên bị đói lạnh và bị đánh chửi. Trời sanh trời dưỡng, ba chị em côi cút rồi cũng theo thời gian mà lớn lên như cây như cỏ; nhưng việc học hành thì bị gián đoạn thường xuyên vì gia đình cha mẹ nuôi cứ di chuyển hết khu nghèo nàn này đến khu u tối khác. Nhiều đêm Carol mơ thấy mình mặc một chiếc áo đầm mới, mang một đôi giày mới; mơ thấy mình cùng các em ngồi trong lớp đàng hoàng, không lo lắng, sợ sệt; mơ một ngày cả ba chị em cùng ra trường, mũ áo chỉnh tề, nét mặt rạng rỡ, hân hoan như hàng trăm ngàn các học sinh khác trên toàn nước Mỹ.  Đời thì có bao giờ giống như giấc mơ. Không học hành được bao nhiêu thì khi vừa đúng 16 tuổi Carol phải bỏ học để đi làm cho một công ty quét dọn nhà cửa. Đến năm 17 tuổi thì Carol lấy chồng. Cũng năm đó hai thằng em trai bỏ nhà đi mất. Sau này biết được một thằng bị băng đảng thanh toán ngay trên đường phố giữa ban ngày; còn một thằng thì ngồi tù chung thân vì tội giết người. Những khốn khó như cánh tay hộ pháp nối dài theo ngày tháng tiếp theo cứ dìm Carol người đàn bà da màu bé nhỏ xuống hết vũng lầy này đến những hố thẳm khác, dìm thật sâu, không cho nàng một lúc nào nguôi ngoai để ngước nhìn một chút mặt trời le lói trên thân phận mình. Gặp phải một người chồng vũ phu, nghiện ngập, hút sách, bà Carol như một cánh lá sắp rụng xuống vực sâu nếu không có mấy đứa con làm lẽ sống. Là người đã mất cha mẹ từ nhỏ, bà Carol đã hiểu thế nào tình cảnh cút côi, nên nhiều lần bà gạt bỏ ý nghĩ ly dị. Bà cắn răng chịu đựng để các con còn sống dưới một mái nhà với cha. Là người hiểu rất rõ thế nào là cảnh sống của người thất học trong một xã hội văn minh, kỹ thuật, càng ngày càng trọng chữ nghĩa, nơi nào cũng đòi hỏi nghề nghiệp chuyên môn và xem trọng bằng cấp, nên bà Carol đã tận tâm, tận lực tạo điều kiện để các con thành những học sinh bình thường như những học sinh khác. Sự việc cậu con cả Andy bị đuỗi học giữa năm lớp 11, rồi phải đi làm lao động cho một hãng thầu xây cất là một thất bại và là một nỗi đau quá lớn cho bà Carol, bà buồn khổ thật nhiều, bà đã khóc thật nhiều, nhưng bà không nản lòng. Bà biết sự cố gắng của bà chưa đủ, sự dạy dỗ của bà đối với các con vẫn còn thiếu sót. Bà biết  bà cần phải cố gắng hơn nữa. Bà bỏ thêm  nhiều thời giờ với các con hơn nữa. Bà tìm cơ hội đến nói chuyện với các thầy cô giáo của các con, bà tham dự các buổi họp phụ huynh học sinh, bà cùng các con, nhiều khi có cả ông chồng, tham dự các thánh lễ mỗi Chủ Nhật. Là người ít học, nhưng bà Carol biết rõ một điều : cuộc sống là một sự vươn lên, vươn lên không ngừng, mỗi ngày mình thêm mới, thêm tốt đẹp thì tương lai sáng sủa càng đến gần. Cha mẹ bà và chính bà đã không có cơ hội nào để vươn lên nên tương lai tốt đẹp không hề đến với họ. Rất may cho bà, cậu con kế Antoine và cậu con út Stanley rất thương yêu mẹ và có vẻ rất nghe lời dạy bảo của mẹ. Bà Carol mường tượng tới một ngày chồng bà rời bỏ con đường nghiện ngập để trở lại làm người cha tốt; cậu con cả trở lại lớp để ít nhất cũng có bằng tốt nghiệp trung học và có được một nghề chuyên môn; hai cậu con kế thì phải hoàn tất bậc đại học. Càng nghĩ nhiều tới viễn ảnh tốt đẹp ấy, bà Carol ngoài công việc nặng nhọc nơi chỗ làm, ở nhà bà kiên nhẫn, nhịn nhục săn sóc chồng, tận tâm dạy dỗ con cái. Bà như đã quên mình từ lâu. Có thể cái tên của bà bà cũng không còn nhớ!

 

     Cho đến một ngày bà Carol không còn có mặt trên đời này để nghĩ đến mình hay tự tay săn sóc chồng con nữa. Có chăng là từ một cõi khác, bà Carol đã phù trợ cho những người thân yêu còn lại.

 

    "Năm đó tôi chỉ mới 8 tuổi thôi, nhưng tôi không bao giờ quên được đêm mùa đông lạnh lẽo, khắc nghiệt ấy. Đêm đó một cơn bão dữ dội đi ngang qua thành phố từ vịnh Mễ Tây Cơ. Tin tức thời tiết đã có dự báo về cơn bão này nhưng không ngờ nó mạnh bạo đến như vậy. Nhà cửa, cây cối sập ngã nhiều nơi. Trên TV đã chiếu nhiều đám cháy. Đã có người chết. Mưa như trút nước từ một đại dương trên cao. Gió xoáy cuộn như những con vụ khổng lồ. Ba thì chắc đang say sưa ở một quán rượu nào đó. Còn mẹ thì có một lần điện thoại về, mẹ nói mẹ cố hoàn tất công việc quét dọn tại một ngôi biệt thự khu cực bắc ngoại ô thành phố. Anh Andy thì đang kẹt đâu đó nơi chỗ làm. Trong nhà chỉ có anh Antoine và tôi. Anh Antoine năm đó 12 tuổi. Không còn điện, nhà cửa tối om. Căn chung cư bằng cây gỗ có số tuổi gần trăm năm không biết còn đứng vững được bao lâu trong cơn lốc xoáy đêm nay. Hai anh em chỉ biết nhìn cơn mưa đục trắng cả bầu trời mà mong những người thân trở về. Trong cơn giận dữ của trời đất với mưa to, gió lớn, sấm nổ rền trời, giữa cái lóe sáng của một loạt tia chớp, từ khung cửa sổ căn chung cư tầng thứ tư, anh em chúng tôi thấy mẹ như một cái bóng trắng mong manh len lách giữa hàng cây to ven đường, có lúc mẹ là chiếc lá nhỏ nhoi đong đưa trong trùng trùng gió bão. Sau này tôi nghĩ ông Trời đã nhiệm mầu làm nên những tia chớp đúng lúc chúng tôi nhìn về hướng ấy để thấy thật rõ ràng giây phút mẹ tôi đang lảo đảo rồi từ từ khụy xuống mặt đường. Khi hai anh em chúng tôi xuống tới nơi thì mẹ đã ngất xỉu. Chung cư nghèo nàn không có thang máy, anh Antoine ráng sức cổng mẹ chạy lên cả trăm bậc thang gỗ. Không có điện, chúng tôi thắp lên một ngọn nến nhỏ. Không còn đường dây điện thoại để gọi cấp cứu, anh em chúng tôi dùng phương pháp hô hấp nhân tạo và xoa nắn, ủ ấm, hy vọng mẹ tỉnh lại. Tôi chạy khắp các hành lang, gõ cửa từng nhà. Đâu có ai nghe được tôi trong tiếng thét gào của mưa gió và tiếng sấm rền. Thỉnh thoảng vài tia chớp ngoài cửa sổ để chúng tôi thấy tay chân mẹ có nhiều vết trầy sướt rịn máu đỏ; còn mặt mẹ thì như tờ giấy trắng nhầu nát. Ngay lúc đó, dù còn bé, tôi cũng đã hiểu rằng mẹ đã một thân một mình chống chọi với cơn giận dữ của thiên nhiên để về với con cái. Mẹ đã quên mẹ hoàn toàn, mà trước mắt mẹ chỉ có mấy đứa con nhỏ dại trong cơn phong ba bão táp. Mẹ biết giờ phút ấy hai đứa con nhỏ của mẹ đang lo lắng, sợ sệt trong cái chung cư ọp ẹp, cũ kỷ, có thể sụp đổ hay phát hỏa bất cứ lúc nào. Như một tia chớp ngoài trời, mẹ bỗng ưỡn người tỉnh lại. Trong bóng đêm nhập nhòa, tôi thấy đôi mắt mẹ bỗng sáng rực và đôi môi mẹ nhếch cười. Mẹ tìm bàn tay của anh em tôi, nắm thật chặt, cố gắng nâng hai cánh tay chúng tôi đưa lên cao. Mẹ không làm được, chúng tôi phải cầm tay mẹ nâng lên, mẹ lộ vẻ hài lòng. Với bốn cánh tay vươn cao, mẹ thì thào: "Vươn lên...lúc nào cũng phải vươn lên...tiếp tục vươn lên làm con người tốt, có học và có đức. Phải có mục đích để nhắm tới. Đạt được một mục đích chưa phải là xong...Còn nhiều mục đích kế tiếp...Mẹ xin lỗi phải ra đi quá sớm, nhưng mẹ sẽ tiếp tục cầu nguyện, dẫn dắt và phù trợ các con, cả cha các con nữa. Hãy tha thứ cho mẹ... ". Mẹ tôi còn nói nhiều nữa nhưng người chỉ thì thào trong cổ họng. Rồi như ngọn bạch lạp lóe sáng lên lần cuối, mẹ bóp chặt tay anh em chúng tôi, nở một nụ cười thật rạng rỡ, rồi từ từ xuôi tay, nhắm mắt. Anh em chúng tôi chỉ còn biết kêu lên thảng thốt: "Mẹ, mẹ, mẹ...". Anh Antoine chạy đi đập cửa khắp nơi. Đôi ba người đến, làm vài động tác sờ nắn, nói vài lời gì đó rồi buồn bã bỏ đi khi biết họ không thể làm gì được cho người đàn bà nghèo khó, xấu số, trong đêm mưa bão này. Chúng tôi cứ bấm số cái điện thoại vô hồn đã mất liên lạc với tổng đài từ lâu. Chúng tôi khan cổ gào khóc, cuối cùng tôi chỉ biết ngồi ôm xác mẹ suốt đêm; còn anh Antoine thì cũng suốt đêm quì ngoài hành lang giữa mưa to gió lớn cầu nguyện, hy vọng đấng quyền năng đã có mãnh lực làm nên mưa bão thì cũng có thể đưa mẹ trở về với chúng tôi. Tờ mờ sáng hôm sau thì anh Andy về nhà; mới hay mẹ đã chết từ đêm qua; anh thấy cái xe của mẹ đậu cách chung cư một con đường, nước ngập gần tới tay lái; còn ba thì về nhà sau khi thi thể mẹ đã được chở đi giảo nghiệm tại quận hạt Harris.

     Từ đó tôi đã cảm nhận được thân phận lẻ loi của mình. Tôi biết cái bóng mát dịu dàng đã xa anh em chúng tôi. Tôi biết tôi không còn nghe tiếng khóc rấm rức não nuột giữa khuya của mẹ. Và có lẽ cũng từ cái đêm bão bùng đau đớn đó, anh em chúng tôi đã thấu hiểu sâu xa ước vọng của mẹ và những lời trăn trối của người.

    Mười bốn năm đã qua rồi mà tôi còn nhớ như mọi việc chỉ mới xảy ra hôm qua. Bốn cánh tay chấp chới đưa lên cao và những lời thì thào trong mưa bão: Vươn lên...vươn lên...Mười bốn năm, như một thói quen từ nhỏ không bỏ được, ngày nào tôi cũng nhìn mẹ tôi trên mấy từng mây bạc, lắng nghe từng lời âu yếm của người. Không biết từ khi nào tôi có ý nghĩ rằng cũng từ trên cao đó mẹ tôi ân cần dẫn dắt những người thân yêu của mẹ vượt ngàn thương khó. Bao nhiêu sạn đạo chúng tôi đã đi qua chắc chắn có mẹ tôi đồng hành. Tấm lòng của mẹ muôn đời vẫn là biển cả mênh mông, ngàn đời vẫn là rừng sâu núi dựng. Cây cành chúng tôi mỗi ngày một vươn cao, xanh tốt chắc chắn là cũng từ phân bón mẹ. Tôi biết mẹ tôi vui vô cùng khi tôi 14 tuổi đã đoạt giải Khoa Học Quốc Gia dành cho những nhà khoa học tương lai và suốt những năm học sau đó tôi được xếp vào hàng ngũ học sinh xuất sắc nhất của toàn nước Mỹ. Mẹ tôi đã dạy: Vươn lên nếu không muốn bị nhận chìm xuống đáy. Hai tháng trước tôi đã nhận bằng cử nhân toán với hạng tối ưu. Tôi dự trù thêm 4 năm nữa để hoàn tất chương trình tiến sĩ giáo dục, hy vọng được làm một giáo viên tiểu học tại một học khu nghèo nàn. Anh Antoine của tôi, với bằng cao học vật lý,  đang là một giáo viên dạy lớp Ba tại khu Fifth Ward, nơi mẹ tôi cư ngụ thời con gái; anh cũng đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ 2 năm tới. Còn anh cả Andy của tôi thì đã trở lại lớp vào ban đêm để học xong chương trình trung học, tuy có chậm nhưng cũng đã hoàn thành  năm trước. Anh vừa lấy chứng chỉ điện tại trường đại học cộng đồng tuần rồi. Hiện tại anh là một thợ điện của công ty điện lực lớn nhất thành phố. Từ trên cao nhìn xuống những thành quả của ba đứa con sớm côi cút của mình, tôi biết mẹ tôi vui lắm. Nhưng có lẽ một sự kiện khác cũng làm mẹ tôi vui thêm: đó là việc hoàn thiện của ba tôi. Từ nhiều năm qua chắc chắn mẹ tôi nghe được những lần cha con chúng tôi nói chuyện, nhiều lúc thật gay go, như hai bên là hai kẻ thù sắp tận diệt nhau. Trong cơn say và nghiện thuốc thì ba tôi còn có khả năng phân biệt trái phải gì nữa. Nhưng những khi tỉnh, nghe chúng tôi nhắc tới mẹ, nhắc tới ước vọng của mẹ muốn mọi người thương yêu còn lại trên đời của mẹ trở thành người tốt, nghe gợi lại hình ảnh đau thương của mẹ vào một ngày bão nỗi với đôi tay khẳng khiu, run rẩy, kiệt lực, bê bết máu mà cố đưa lên cao, ba tôi đã chạnh lòng. Biết đâu có nhiều lúc nào đó mẹ tôi đã tỉ tê với ba tôi những ân tình còn nặng giữa hai người. Năm này tháng nọ, dù có lâu nhưng cuối cùng ba tôi cũng đã trở lại làm người lành mạnh như bao nhiêu người bình thường khác. Còn hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh một ông già trên sáu mươi, trong một đêm trăng sáng đã ăn mặc trịnh trọng, mày râu nhẵn nhụi, quì trước sân nhà mình, hai tay chắp trước ngực, mắt hướng lên vùng trời đầy sao, nói thì thầm với người vợ đã khuất.

     Mười bốn năm nay, chúng tôi vẫn viếng mộ mẹ, có khi thì một trong anh em chúng tôi, có khi thì cả ba anh em, có khi thì chỉ một mình ba tôi. Cùng đi chung như thế này thì chưa bao giờ, từ 14 năm nay. Cha con chúng tôi đã có ước hẹn là một khi mỗi cá nhân chúng tôi đã làm được những gì mẹ mong muốn chừng đó mới xứng đáng cùng nhau đến thăm mộ mẹ, coi như đó là một món quà cho mẹ. Chúng tôi biết niềm vui của mẹ chỉ hoàn toàn  khi cả bốn người chúng tôi làm xong phần mình. Thật sự chúng tôi chỉ xong một phần; nhưng lo gì, chúng tôi biết vươn lên, chúng tôi thương mẹ, chúng tôi có tình thương đời đời của mẹ. Phải vậy không?

     Mà này ông ký giả, tui nói cho ông biết, thà mất lòng trước mà đặng lòng sau, tấm hình ông chụp mà thiếu nụ cười của mỗi chàng đẹp trai con nhà nghèo học giỏi chúng tôi thì không đặng đâu nhen. Hư bột hư đường hết đó. Còn bài viết mà thiếu tiếng cười của mẹ tui từ trên mây cao rớt xuống thì cũng hổng bét hết. Nói chơi cho vui vậy thôi, chớ ông muốn viết gì thì viết, chúng tôi có mất mát gì đâu. Bốn người chúng tôi vẫn là những người đang trên đường đi tới.  Người đàn bà yêu quý tuyệt vời của chúng tôi vẫn muôn đời ngự trên mấy từng mây đó. Và luôn luôn cười".

 

(Houston, mùa Vu lan và mùa tựu học 2002)

Trần Bang Thạch

 

Ngoại tôi

và dòng sông nhỏ

 

Ngày má tôi đưa hai chị em tôi về sống tại quê ngoại là làng Trường Phước thì tôi chỉ mới năm tuổi. Còn nhỏ như vậy mà không hiểu sao cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ gần hết mọi chuyện trong ngôi nhà của ông bà ngoại tôi thời đó. Tôi cũng không thể nào quên được con sông nhỏ trước nhà. Có lẽ vì mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh cái trục chánh là bà ngoại hai của tôi, người mà tôi thương nhứt trong cái đại gia đình này.

 

Bây giờ kể chuyện lại tôi gọi là bà ngoại hai cho phân biệt, chớ lúc nào tôi cũng gọi bà là ngoại; tôi không muốn gọi bà một, hay bà hai bà bốn gì ráo. Tôi càng ghét cái tiếng bà ngoại ghẻ mà nhiều người nói tới. Lúc còn nhỏ cũng vì tánh ương ngạnh này mà tôi thường xuyên bị đòn nhừ tử; đa số những trận đòn là từ bà ngoại ruột của tôi, bà không muốn người đàn bà nhỏ nhoi tội nghiệp kia đứng ngang vai vế với bà. Đánh mấy roi mây thì cứ đánh, tôi chỉ một mực là ngoại, không râu ria rể má gì hết. Mỗi lần thấy tôi bị đòn như vậy, ngoại hai tôi chỉ biết nhìn tôi rồi khóc thầm, chớ không làm được gì hết. Thời đó có lẽ tôi không thích bà ngoại ruột của tôi đâu, nhưng nay nghĩ lại tôi thương bà lắm.  Cũng như tôi thương hết những người đàn bà trong căn nhà này, từ hai bà ngoại, đến má tôi, xuống đến dì Ba và dì Út tôi, cuối cùng là chị Hai tôi. Người ta nói gia đình này âm thịnh dương suy, ngần ấy người nữ mà chỉ có ông ngoại và tôi là nam. Nhiều nữ thì có, nhưng thịnh thì chắc là không. Hai bà ngoại tôi đều là hai người đàn bà nhan sắc mà có chung một ông chồng. Hồi cuối thập niên ba mươi, trước khi lấy chồng, ngoại ruột của tôi vốn là con gái rượu của ông hương sư trong làng, đã học xong supérieure élémentaire; còn ngoại hai  một chữ nhứt cũng không biết, tội cho bà: vì con nhà nghèo lại có chút nhan sắc nên ông ngoại tôi đem về làm vợ lẽ; còn má tôi, một cựu nữ sinh của Collège de Cantho, thì vì không chịu được cái chuyện mèo mả gà đồng của ba tôi nên dẫn con về tá túc bên ngoại khi tuổi đời chưa quá hai mươi bốn; dì Ba tôi thì chồng chết khi đám cưới chưa giáp năm; dì Út lúc mười tuổi đã suýt chết chìm, tuy được cứu sống nhưng bắt đầu nghễnh ngãng như người mất trí, ban ngày thì ngủ vùi, ban đêm thì cứ đứng dưới bến sông ca hát suốt đêm; thuở đó đâu có nhiều bài ca cải cách nên đa số bài bản là do dì tự đặt nhạc và lời, nghe ngô nghê hết sức; chị Hai tôi thì bị câm từ khi mới lọt lòng mẹ, suốt ngày thơ thẩn ngoài vườn như con gà con vịt. Như vậy thì bảo rằng thịnh là thịnh cái chỗ nào! Nhưng nếu cứ nói về những người đàn bà này thì cho tới chừng nào mới hết chuyện. Một người đàn bà bình thường đã có biết bao nhiêu chuyện để nói. Ở đây có tới sáu người đàn bà với nhiều cái bất thường như vừa kể thì ít nhứt phải có hàng trăm chuyện. Cho nên chỉ xin kể chuyện bà ngoại hai của tôi mà thôi. Chuyện những người đàn bà còn lại thì xin để dịp khác.

 

Thật sự thì bà ngoại hai của tôi là người đàn bà mờ nhạt nhứt trong gia đình so với mấy người khác. Lúc mẹ con tôi về tá túc nhà ngoại thì ngoại hai đã ra riêng chừng mươi ngày trước đó. Người ta nói từ ngày về làm lẽ ở cái tuổi hai mươi lăm với ông chồng già hơn gần hai con giáp, năm sáu năm trường trong gia đình chồng, ngoại hai tôi không khác chi một kẻ ăn người ở; những người này còn lãnh lương vài đồng bạc mỗi tháng, chớ ngoại hai tôi thì chẳng những làm lụng thí công mà lại còn bị bà ngoại tôi mắng chửi cả ngày dù không một lầm lỗi. Ông ngoại tôi làm hương quản nên tối ngày lo việc làng xã, có biết chi đâu tình cảnh khốn khổ của người vợ lẽ. Có lẽ việc trở về của mẹ con tôi là cái dịp tốt nhứt cho ngoại hai có một mái nhà riêng. Tuy ở riêng nhưng công việc của người vợ hờ kiêm người quản gia kiêm người giúp việc thì đâu có gì thay đổi. Căn nhà mái lá vách ván một căn một chái của ngoại hai nằm khiêm nhường ở cuối phần đất của ngoại tôi, chỗ giáp ranh với khu vườn ông Tư Củ Hành, cách ngôi nhà lớn chừng một tiếng hú. Căn nhà nhỏ, mặt trước hướng ra con lộ đất, mặt sau giáp với mé nước của nhánh sông nhỏ, gọi là rạch Ông Thìn. Ông Thìn chính là ông Cố tôi, có lẽ là người đầu tiên đến đây lập nghiệp và mở mang vùng này. Nghe đâu ông chính là tay chưn bộ hạ của Lê Văn Khôi. Mang tiếng là vợ của một hương chức hội tề với đất vườn, đất ruộng hàng mấy ngàn mẫu, bà ngoại hai tôi chỉ sở hữu cái nền nhà rộng chừng hai chiếc đệm. Chỗ ở của những người giúp việc còn lớn hơn nhiều. Thật ra căn nhà chỉ là cái quán trọ qua đêm của ngoại hai tôi. Mỗi sáng khi gà gáy hiệp nhứt thì ngoại hai đã có mặt phía sau ngôi nhà rộng hơn cái đình làng, sắp xếp mọi chuyện cho kẻ ăn người ở; xong đâu đó là tới phần việc của bà. Tôi có cảm tưởng công việc như một dòng nước từ trên cao, cứ đổ xuống trên đôi vai của ngoại hai tôi, ngày nào cũng như ngày nấy. Không biết sức lực ẩn chứa nơi nào trong con người nhỏ bằng hột tiêu ấy. Làm lụng liên tục cho đến thật khuya mới đốt bó đuốc bằng đuôi lá dừa khô lần mò về nhà ngủ vội mấy tiếng. Phải nói đó là căn nhà của tôi thì mới đúng. Chị em tôi được sanh ra ở quê nội là đất Xẽo Môn. Cuộc hôn nhân của má tôi với ba tôi không được ông bà ngoại tôi chấp nhận, nên từ khi có chồng má tôi coi như bỏ làng mà theo chồng; chị em tôi cũng không có dịp nào về thăm quê ngoại. Lần đó là lần đầu, lúc tôi đã năm tuổi, còn chị tôi thì bảy tuổi. Về nhà cha mẹ, má tôi như cùng lúc mang gánh nặng và mang cả cái nhục nhã trở về. Cho nên ông bà ngoại tôi đâu có coi mẹ con tôi ra gì. Má tôi buồn lắm, bà chỉ biết tâm sự hay than khóc với ngoại hai tôi. Tôi cũng vậy, tôi chỉ thấy ngoại hai là người để cho tôi thương và chuyện trò. Ban ngày tôi quấn quít bên ngoại hai phía sau căn nhà lớn, hay chơi với heo gà chim chóc quanh cái lẫm lúa to như chiếc ghe chài; ban đêm tôi thường ngủ ở nhà ngoại hai. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy những cái cười hiếm hoi trên khuôn mặt thanh tú của người thiếu phụ nửa chừng xuân mà tôi gọi là ngoại ấy chỉ có với tôi; với má tôi thì bà hay khóc, hai người đàn bà trạc tuổi nhau thường kín đáo ngồi khóc bên nhau. Số phần hẩm hiu làm họ gần gũi nhau hơn. Với mọi người khác thì ngoại hai tôi có nét mặt bình thường, không vui không buồn, không hờn giận, không oán trách; một ngày người ta có thể đếm được trên mười ngón tay bà nói bao nhiêu tiếng. Nhưng với tôi thì ngoại hai hoàn toàn khác. Tôi nói với bà đủ thứ chuyện, bà vừa làm vừa nghe tôi nói, thỉnh thoảng bà hun tôi chùn chụt và cười thật vui, lúc đó tôi đã sớm nhận biết nét đẹp trên gương mặt trái xoan nhễ nhại mồ hôi của bà. Những chuyện kể của ngoại hai tôi nghe hoài không biết chán. Hình như bà có một kho tàng chuyện xưa tích cũ không bao giờ cạn. Không biết đọc mà hơn ba ngàn câu thơ Kiều bà "nói" không sai sót một câu. Bà nói tôi là niềm vui duy nhứt của bà. Nhưng có lẽ bà vui nhứt là khi giữa đêm ông ngoại tôi bất chợt ghé nhà bà. Thường thì đó là những lúc ông ngoại tôi say khướt, không còn biết trời trăng mây nước gì hết. Ngoại hai tôi lo đủ điều cho ông, nào là khăn ấm, rồi nước chanh đường, nước trà nóng...Nhiều khi phải nấu nước nóng cho ông tắm rửa. Bà tẩn mẩn làm việc như đó là dịp quí hiếm để bà được thật sự làm bổn phận người vợ chăm lo săn sóc chồng. Chiếc mùng hai nóc như lúc nào cũng mới tinh, trắng bốc, được giặt giũ sạch sẽ, xếp gọn để trong tủ kiếng thơm mùi long não, chỉ được lấy ra khi có ông ngoại tôi ghé ngủ đêm. Chiếc giường nhỏ, sợ ông ngoại tôi khó ngủ, ngoại hai tôi phải suốt đêm nằm võng, tay không ngừng đuổi muỗi bằng cái quạt mo cau, chân thì đưa võng kẻo kẹt. Ông ngoại tôi có tật hay tiểu đêm, nên mỗi khi có ông, ngoại hai tôi mới đốt lên ngọn đèn dầu mù u, vừa đủ sáng cho ông ngoại tôi dễ bề đi lại. Những lần thức giấc, từ trong cái mùng một nóc trên tấm ngựa gõ kế bên, tôi thấy ngoại hai tôi vén mùng nhẹ nhàng kéo tay chưn ông ngoại tôi cho thẳng thớm, đắp lại cái mền bông, sửa lại cái gối lấp lánh những hột cườm. Bà làm với một vẻ âu yếm mà dù còn nhỏ tôi cũng dễ dàng thấy được.

 

Đến một ngày thì mọi chuyện như xoay một góc ba trăm sáu mươi độ. Suốt đời tôi không thể nào quên cái ngày vô cùng buồn thảm ấy. Ngày ấy cũng là ngày thay đổi hẳn cuộc đời của ngoại hai tôi.

Điều tôi nhớ nhứt là tiếng khóc thảm thiết tột độ của ngoại hai, nó có cái âm thanh của cơn gió hú và có cái âm sắc của tiếng sét ngang trời. Bình thường ngoại hai tôi có bao giờ lớn tiếng với ai, lúc nào bà cũng nói năng từ tốn nhỏ nhẹ, cả với những người giúp việc và những người tá điền. Có chuyện gì quá buồn khổ, bà chỉ biết ngồi khóc thầm ở một góc nhà.Vậy mà hôm đó bà khóc như giông bão, vật vã không ai kềm chế được. Đó là một ngày trung tuần tháng giêng năm bốn sáu khi chú tá điền tên Vạn từ đầu vàm chạy không kịp thở về nhà ngoại tôi, cho cả nhà hay là đã nhận được cái xác mất đầu của ông ngoại tôi trôi tấp vào tay đáy của chú. Thời đó là thời nhiễu nhương. Pháp, rồi Nhựt, chánh phủ Nam kỳ quốc, rồi Việt Minh, Việt gian, giáo phái và đảng phái quốc gia, cộng với thù hiềm cá nhân, vv....chuyện thằng chổng trôi sông là chuyện thường ngày, như chuyện ăn cơm bữa. Nhiều khi bốn năm xác người bị xỏ xâu trôi vướng chân cầu đúc ngoài chợ Cái Răng, thằng tây đen gác cầu bắn chỉ thiên mấy phát súng vừa đuổi tà ma, vừa bắt người đi xuồng ghe dừng lại vớt xác để phơi nắng cả ngày trên cầu. Mới năm sáu tuổi mà tôi đã hiểu thế nào là "mò tôm", là "mổ bụng dồn trấu"....Tuổi thơ của tôi cũng mất đi từ đó.

 

Vật vã khóc lóc, không ăn không ngủ, chết đi sống lại suốt ba ngày trời, rồi ngoại hai tôi có một quyết định không ai ngờ: Bà tom góp hết tất cả vốn liếng mua một chiếc ghe tam bản nhỏ có mui, thu dọn nồi ơ chén dĩa, mùng mền chiếu gối bắt đầu cuộc sống trên sông nước. Người đàn bà trung niên, đầu quấn khăn tang, tóc luôn xõa dài tới gót chưn và bộ đồ tang trắng bay phất phới trên sông, đó chính là hình ảnh ngoại hai tôi trên rạch Ông Thìn. Bây giờ, hơn nửa thế kỷ sau, ngồi viết lại chuyện này, hình ảnh ấy hiển hiện trước mắt tôi như một khúc phim chậm. Ngoại hai tôi không đi đâu xa, bà chỉ thả ghe theo con nước lớn trôi vào cuối con rạch; rồi theo nước ròng thả ghe ra đầu vàm, ngày cũng như đêm. Người ta nói ngoài những lúc thả cần câu cá ban ngày hay câu tôm ban đêm để có cái ăn thì ngoại hai tôi ngồi bất động sau lái, mắt đăm đăm nhìn từng dề lục bình rau mát trôi trên sông. Ai cũng biết bà đang tìm cái đầu của chồng. Vài đứa nhỏ ác độc thỉnh thoảng thả trên sông mấy trái dừa điếc lúc trời nhá nhem tối, khiến ngoại hai tôi hớt ha hớt hải chèo ghe vớt từng trái, để rồi buồn khóc suốt đêm. Không ai có thể nghe tiếng khóc của bà, nhưng mỗi khi thấy bà ngồi sau lái, đầu gục vào hai gối, tóc phủ kín mặt mày thì người ta biết là bà đang khóc. Nghe má tôi nói ngoại hai tôi quyết lòng tìm vớt cho được cái đầu của ông ngoại tôi. Ngoại hai tôi nói bà không bao giờ an tâm mỗi khi nhớ tới người chồng đã chết thảm mà lại không trọn hình hài. Tôi thì nghe đồn là người chết mất đầu thì vĩnh viễn không được đầu thai.

 

Từ đó, như một định mạng, con rạch mang tên ông cố tôi bây giờ là thế giới riêng của cô con dâu khốn khó của người. Không hiểu từ đâu mà ngoại hai tôi cứ nghĩ là cái đầu của ông ngoại tôi không trôi đi đâu xa, mà đang lẩn quẩn đâu đótrên con rạch của ông cha mình, đâu đó dưới gốc bần hay đâu đó trong bụi lát. Thật sự thì con rạch không dài, không sâu mà cũng không rộng. Nó chỉ là một nhánh của con sông cái bắt đầu từ cửa sông Bassac, chạy ngòng ngoèo qua thành phố Cần Thơ, chạy tuốt vô Cái Răng mới chia thành hai nhánh: một vào miệt Phong Điền, Cầu Nhiếm, một vào Cái Chanh, Cái Muồng. Rạch Ông Thìn nằm khoảng giữa Cái Răng và Cái Chanh, là ranh giới của làng Trường Phước và làng Trường Thành. Khu vườn cây ăn trái của ngoại tôi có hình dáng một hình chữ nhựt nằm ngay vàm Ông Thìn, một mặt có chiều ngang độ một phần tư cây số chạy dọc theo con rạch; mặt kia độ nửa cây số nằm trên bờ sông cái. Nhà việc của làng nằm trên khu đất của ngoại tôi. Từ vàm, con rạch dài gần ba cây số, chảy quanh co giữa vườn tược và gần trăm căn nhà hai bên, đa số là nhà lá, rồi bị cái đập đất chận ngang. Phía bên kia đập là cánh đồng lúa bát ngát của ông ngoại tôi. Bề ngang con rạch chỉ vừa đủ cho hai chiếc ghe chài chở lúa hạng trung qua mặt. Vào mùa khô, lòng rạch cạn gần tới đáy, một đứa con nít mười tuổi đứng không ngập đầu; còn mùa nước nổi thì nước tràn hai bên bờ, có khi mấp mé những nền nhà thấp. Từ ngày ông ngoại tôi chết, nước khô hay nước nổi thì ngoại hai tôi vẫn một mình một bóng trên sông. Một bóng trắng trên sông. Có lẽ còn một giọt nước trên sông là bà còn hy vọng. Nhiều khi đứng trên bến trước nhà, tôi thấy ghe ngoại hai theo con nước trôi ngang nhà, bà ngồi phía sau ghe, ơ hờ bẻ lái, mắt thì cứ liên tục nhìn dáo dác hai bên, thấy tôi bà cũng không nói lời nào. Mấy tháng đầu có vài lần tôi xuống ghe ngoại hai ngủ qua đêm, nhưng về sau hình như tôi hơi sợ. Tôi thấy ngoại hai thay đổi quá nhiều. Bà không còn cười hay chuyện trò với tôi hay với bất cứ ai. Nét mặt bà lúc nào cũng trơ trơ như thoa sáp, ánh mắt thì bao giờ cũng xa xăm, coi như không có ai trước mặt. Nhiều khi tôi có cảm tưởng bà sợ cả tôi.

 

Tình trạng như vậy kéo dài được hơn một năm thì mọi người bảo là ngoại hai tôi bắt đầu điên. Dấu hiệu thấy rõ nhứt là mái tóc dài óng ả, đen mun của ngoại đã mất; chiếc khăn tang vẫn quấn quanh cái đầu trọc. Và nhiều lúc ngoại hai tôi la lên mấy tiếng vô nghĩa rồi đứng trước mũi ghe ôm đầu khóc sướt mướt như một đứa con nít. Bà ngoại tôi và má tôi cùng các dì có nhiều lần xuống ghe năn nỉ bà lên bờ để được mọi người săn sóc. Ngoại hai tôi đâu chịu, bà còn khoa tay múa chưn đuổi mọi người dang xa ra ghe của bà. Ngoại hai tôi càng điên loạn thì tôi càng sợ, không dám tới gần bà; còn mấy đứa nhỏ rắn mắc thì càng trêu chọc bà hơn. Hết thả những trái dừa điếc để ngoại hai tôi chèo ghe rượt theo đến rã tay, hụt hơi, thiếu điều muốn chết giấc, chúng dùng những thân chuối cây làm giả những hình nộm rồi đặt trong các bụi ô rô hay các bụi cây bần để ngoại hai tôi lội bùn sìn, vẹt ô rô sướt da, chảy máu, nhiều khi còn bị ong đánh mặt mũi sưng vù, bàbồng cái hình nộm rồi hát ru như  người mẹ ru con. Những buổi chiều tà khi con nước lớn, giọng ru của ngoại hai tôi trôi ngọt ngào trên một khúc sông. Có lẽ lúc ngoại hai tôi tỉnh nhứt là lúc quá nửa đêm khi bà một mình trên sông với cái cần câu tôm và ngọn đèn trứng vịt, lúc đó bà không la khóc mà chỉ nói thơ Lục Vân Tiên và nói Kiều. Tôi có cảm tưởng cả làng đều quen thuộc từ Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng đến Nguyệt Nga, Vân Tiên. Con sông nhỏ vẫn ngày ngày nước ra vô, ròng rồi lớn; còn ngoại hai tôi thì có thay đổi gì đâu, vẫn một thân một mình chèo chóng trên sông tìm hoài một cái đầu đã mất.

 

Thêm một năm, rồi một năm nữa trôi qua. Như vậy là đã trên ba năm ngoại hai tôi sống trên sông nước với con người nửa mê nửa tỉnh. Càng lớn tôi không còn sợ mà càng thương ngoại hai tôi hơn. Có lần giữa đêm tôi lén lội gần chiếc ghe của ngoại đang cắm giữa lòng sông. Tôi nghe ngoại hai tôi khóc. Qua một lỗ nhỏ ở mui ghe, tôi thấy ngoại hai tôi quì trước linh ảnh của ông ngoại tôi. Chiếc đèn hột vịt vừa đủ sáng cho tôi thấy những giọt nước mắt lóng lánh của ngoại. Sóng nước có làm cho chiếc ghe trôi nổi bập bềnh nhưng ngoại hai tôi vẫn ngồi vững vàng trên sạp. Sau đó tôi có vài lần xuống ghe chủ ý là muốn chuyện trò với ngoại hai và khuyên bà nên trở lên bờ. Ngoại hai tôi rất ít nói và vẫn tiếp tục cuộc sống trên sông nước.

 

Cuối mùa hè năm đó tôi bắt đầu vào trung học. Má tôi gởi tôi trọ học tại nhà chú Năm tôi tại chợ Rạch Giá; phần thì xa xôi, phần vì đường sá khó khăn, đôi ba tháng tôi mới về thăm nhà một lần. Lúc này thì tôi đã biết viết thơ gởi về thăm nhà, bao giờ tôi cũng có kèm thêm lá thơ gởi riêng cho ngoại hai tôi. Thơ trả lời của má tôi thì có mà của ngoại hai thì không. Trong các thư nhà gởi sang, tôi ít khi thấy má tôi hay các dì nhắc tới ngoại hai. Chỉ có một lần trong những dòng chữ ngoằn ngoèo của dì Út, tôi đọc thấy vài tin tức về ngoại hai, đặc biệt là tin gần đây lối xóm đồn rằng có đêm họ thấy chiếc xuồng của ông cai tuần Nhâm cập sát chiếc ghe của ngoại hai. Nhân đó họ sầm xì rằng ngoại hai tôi giả đò khùng điên, bày chuyện sống một mình riêng rẽ trên sông để dễ bề làm chuyện tằng tịu với tình nhân. Thuở đó tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng biết đó là chuyện hệ trọng, chẳng những chỉ đối với phẩm giá của chính ngoại hai tôi mà còn thương tổn đến danh dự của cả họ ngoại chúng tôi. Riêng với tôi, tôi thấy mình vô cùng buồn bả, ghét thương lẫn lộn. Nhân có mấy ngày nghỉ lễ, tôi vội vã về quê tìm hiểu hư thật thế nào. Không ai muốn nói với tôi lời nào về những đồn đãi như vậy. Cả dì Út tôi cũng bảo tôi hãy quên đi những điều dì đã viết trong thơ. Ngoại hai tôi vẫn ngày đêm trên sông nước, vẫn một bóng một mình, lảm nhảm ca hát, hết đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy vân thì đến gió đưa cây cải về trời rau răm ở lại chịu đời đắng cay. Gặp bà tôi hỏi về chuyện ông cai tuần, bà không trả lời, mắt như thất thần nhìn ngó đâu đâu. Hôm sau tôi xuống ghe từ giã, bà cũng không nói một lời nhưng trong đuôi mắt bà tôi thấy như có hai ngấn lệ. Bận rộn với bài vở và  với cuộc sống thành thị tôi ít có dịp nhớ tới những nguòi thân nơi quê nhà. Lúc còn nhỏ tôi không rời ngoại hai tôi một bước, vậy mà bây giờ nhiều khi tôi cũng quên mất bà, quên cả câu chuyện đàm tiếu về bà. Đến một hôm thì tên ngoại hai tôi hiện ra ngay trước mắt tôi. Đó là một buổi trưa ngày thứ Ba, ngày tôi được xếp làm trực nhựt sinh tại văn phòng Tổng giám thị. Nhân lúc rảnh, tôi đọc lướt mấy tin tức đăng trên báo Thần Chung. Tôi thấy ngay bài báo viết về ngoại hai tôi tại phiên tòa nơi tòa án Cần Thơ; có cả tấm ảnh  chụp toàn thân của ngoại hai tôi vẫn mặc đồ tang, đang đứng trước vành móng ngựa với tư cách nguyên đơn. Dưới bài tường thuật phiên tòa là bài phỏng vấn vô cùng cặn kẽ sự việc xảy ra từ đầu. Những ai thường đọc báo thời kỳ đầu năm năm mươi chắc còn nhớ vụ án này, vụ án người điên thời đại Thị Tơ báo thù chồng, tất cả các báo đều có đăng tin, cả nam kỳ lục tỉnh xôn xao, không khác chi câu chuyện cô Quờn đốt chồng hay câu chuyện vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át-xít sau đó. Báo nói ngoại hai tôi, người đàn bà không biết đọc biết viết mà trước tòa bà là một nhân chứng sống, nhiều lúc bà tranh luận với cả luật sư của bị cáo. Trước vành móng ngựa, ngoại hai tôi ăn nói điềm đạm nhưng rất hùng hồn, giọng điệu cứng chắc, có tình có lý, mắt bà ráo hoảnh; chỉ sau khi nghe quan tòa kết tội khổ sai chung thân hương tuần Nhâm, ngoại hai tôi mới chắp tai trước ngực, mặt hướng lên trời, rồi khóc. Đọc hết bài báo tôi mới vỡ lẽ: ngoại hai tôi vì quá bất nhẫn trước cái chết thương tâm của chồng, và vì quá thương chồng mà quyết tâm tìm ra thủ phạm giết chồng mình, bất kể thiên hạ đàm tiếu về tiết hạnh của mình. Bà khai trước tòa rằng ngay khi chồng chết, bà đã hồ nghi tên cai tuần Nhâm bên làng Trường Thành, người đã theo đuổi bà từ trước khi bà về với ông ngoại tôi. Sau khi ông ngoại tôi chết, lợi dụng lúc bà nửa mê nữa tĩnh, lại sống một mình trên sông vắng, tên Nhâm tiếp tục theo đuổi bà. Tương kế tựu kế, bà lừa cho tên Nhâm vào tròng, bà vừa thủ thỉ ngọt ngào, vừa tỉ mỉ tra vấn, kiên trì hết năm này tháng nọ. Đến một hôm thì vừa say rượu, vừa say tình, tên Nhâm đã úp mở nói về chỗ hắn đã chôn chiếc đầu của ông ngoại tôi. Sáng hôm đó mấy người phú-lít ngoài quận đã vào đào xới phía dưới bồ lúa tại cái cháy bên hông nhà tên Nhâm, họ đào thấy cái khạp da bò niêm khằn kín mít, bên trong là chiếc đầu lâu và chùm tóc, còn da thịt thì đã tan thành nước. Trước phiên tòa, nơi đồn công an tỉnh, tên Nhâm đã nhận tội. Qua bài báo tôi còn biết được là ngoại hai tôi đã hàng trăm lần đưa đơn thưa, hết quận đến tỉnh; bà chỉ mong chánh quyền điều tra về cái chết của chồng. Chánh quyền làm ngơ thì chính bà phải hành động.

 

Sau hôm ở tòa về, ngoại hai tôi bỏ ghe lên bờ. Bà biến cái nhà nhỏ của mình thành cái am, người ta gọi là am bà Hai; có người gọi là am Thị Kính, có lẽ để chỉ nỗi hàm oan mà người tu nữ đã chịu. Ngoại hai tôi đi tu từ đó. Về sau hai dì của tôi, rồi chị tôi cũng cạo đầu đi tu. Cái am bây giờ quá nhỏ, bà ngoại ruột tôi và má tôi bỏ tiền nhờ người cất cái chùa lớn hơn, đặt tên là chùa Tịnh Phước. Đó là chùa sư nữ đầu tiên của quận, và có lẽ của cả tỉnh.

 

Những năm sau khi ngoại hai tôi viên tịch, người trong làng không còn nhắc tới câu chuyện báo thù chồng của ngoại hai tôi nữa, nhưng bọn trẻ thì gần như mỗi sáng đều có chuyện kể về bóng trắng trên sông, đại loại như chúng thấy bóng trắng nắm cái búi tó của một người đàn ông rồi cột tóc ông ấy lên ngọn bần, khiến lưỡi lè ra mấy thước; hay bóng trắng chèo ghe ra giữa dòng rồi ôm cái đầu lâu mà khóc, khóc như mưa. Tôi thì không bao giờ tin những câu chuyện như vậy. Tôi biết ngoại hai tôi không khi nào thù hận ai, càng không bao giờ là ma quỉ. Bà chỉ muốn tìm cho được chiếc đầu chồng để ông được đầu thai.

Trần Bang Thạch

 

Người đuổi bắt dĩ vãng

 

Lão Ngạc thấy mình gần như đứt hơi, đôi chân muốn đỗ quị, thân người thì lảo đảo như trong cơn say rượu. Mặt trời đỏ ối trước mặt càng lúc càng to nhưng khoảng cách giữa lão và ông mặt trời thì mỗi lúc một xa. Bây giờ thì mặt trời đã chạy trốn ở đâu phía sau dãy núi đằng trước. Đàn quạ đen cũng đã bỏ núi mà bay về hướng biển. Lão Ngạc biết rằng mình sẽ bị mất phương hướng kể từ đây. Chạy. Lão Ngạc vẫn cứ chạy. Lão như bị hút bởi con trốt xoáy có cái đuôi dài ngoằn xoắn trôn ốc trôi dập dềnh từ rất xa, còn cái miệng con trốt thì như một lổ trũng rộng hoang hoác đang ở phía trước mặt lão; nó hút lão Ngạc về phía trước. Lão quị xuống, nó nâng lão lên bắt lão phải chạy tiếp tục. Lão té sấp, nó lật ngữa lão dậy, đẩy lão tiến tới. Con trốt đưa đôi chân lão chạy hụt hơi lên đồi cao, kéo đôi chân lão khập khiễng nặng nề chạy xuống lũng thấp. Lão chạy trong vùng sương khói ở lưng chừng núi, lão chạy trên đá sạn gai gốc dưới chân đồi. Lão chạy từ khi mặt trời còn ở trên đỉnh đầu. Lão chạy từ khi cơn gió bắt đầu thổi mạnh từ hướng tây nam. Khắp người lão Ngạc đã ướt đỏ vì mồ hôi và máu; vậy mà lão không thấy đau đớn một chút nào. Lão Ngạc chỉ thấy một mái tóc. Phải rồi, một mái tóc lẩn lộn trong con trốt xoáy, cũng xoay tròn trong cái lòng phễu, khi ẩn khi hiện, đuôi tóc cũng trôi dập dềnh ở phía xa, oằn oại. Mái tóc như có hồn ma bóng quế, như có một hấp lực vô hình khiến lão Ngạc cứ theo sức hút của con trốt mà chạy về phía trước.Trong mùi biển mặn bốc lên từ dưới thấp và mùi khốc khô của núi đá chung quanh, lão Ngạc nghe có mùi hương cũ thoát ra từ giòng tóc xoáy. Và phải chăng từ một dỉ vãng thật xa mờ mà lão nghe từng sợi tóc thầm thì những tiếng nói thân quen. Mùi hương xưa và những dáng hình xa xăm đang có đó, tất cả như quấn cuộn theo giòng tóc đang trôi nổi giữa buổi hoàng hôn chờ giờ dãy chết. Con trốt càng xoáy nhanh thì giòng tóc càng có ma lực biến hình. Lão Ngạc đã cảm nhận được hết những điều này trên những bước chân đầu tiên trở lại vùng trú ngụ mà lão đã bỏ đi từ thật lâu. Từ thật lâu, cái thị trấn nhìn lên là núi, nhìn xuống là biển tưởng đâu đã nằm yên đâu đó trong ngăn kéo của một đời luân lạc.Đầu tiên có lẽ là mái tóc dài bay nhẹ nhàng theo từng lượn sóng ngoài khơi và theo cơn gió liu riu trên bãi cát vắng. Người nữ như một bóng ma hời trôi nhập nhòa trong màu chiều, ẩn hiện sau hàng dương liễu. Em biết cuối cùng thì cuộc tình này cũng sẽ trả em về với biển. Không còn anh ở đây thì  em chỉ biết sống với biển và im lặng cùng biển. Biển ôm ấp. Biển vỗ về. Biển vô cùng bao dung. Biển biết nghe từng lời thổn thức của em để mà chia xẻ. Phải chăng đó là những lời tiên tri mà em đã bất chợt nói với tôi trên một bãi cát vùng cửa biển năm nào, hởi em yêu dấu? Hôm đó là những ngày đầu mình mới yêu nhau, làm sao tôi quên được. Những cay đắng của cuộc tình. Làm sao tôi quên được những khổ nạn đổ ụp xuống vai em ngay sau những ngày đầu chứa chan hạnh phúc. Em nói đúng. Có lẽ chỉ có biển mới có vòng tay rộng để ôm ấp và vỗ về em, người tình muộn của tôi. Còn tôi, đến với em tôi chỉ là một cơn sóng cuồng, trong một phút chếnh choáng lạc loài, từ ngoài khơi va vào bờ cát, ham hố liếm những gót chân trần, rồi quày quả trở ra khơi nhập vào giòng sóng cũ. Rốt cuộc chỉ còn biển để nghe em thì thầm. Chỉ có biển mới đủ rộng để chứa hết những tâm sự của em, người tình chỉ biết cho đi hết cõi lòng mà không mong một mảy may bồi đắp. Chỉ có biển mới biến giòng tóc em thành mây trôi gió nổi làm tím một trời chiều. Giòng tóc đó đang trong cơn lốc bây giờ để tự hóa thân thành đôi mắt ướt. Nửa khuya hôm đó giữa lưng chừng con dốc chảy vào thị trấn, bên những toa xe đầy, em biết từ đó tôi sẽ bỏ biển, bỏ cái vách đá cheo leo bốn mùa gió hú này để trở về với đồng bằng. Em biết khi chuyến xe lăn xuống núi sẽ để rớt lại những âm thanh buồn. Chuyến xe đó, em biết, cũng sẽ không trở lại bao giờ. Đêm hôm ấy em đâu có nói một lời nào, vậy mà chừng như tôi đã nghe hết những gì em muốn nói. Trên vai tôi, đôi mắt của em đã nói biết bao điều. Tôi nghe những lời tình cuối thoát ra từ hai hồ lệ rồi lăn dài xuống đôi má đã xanh xao tự những ngày đầu hệ lụy. Tôi thấy vùng tối âm u của cuộc tình buồn trong hố mắt của em. Tôi nghe ruột em cuộn chín khúc. Tôi nghe lòng tôi đau chín chiều. Phải chi em đã khóc ngất trên vai tôi, hay em đã nói với tôi một lời. Phải chi em, như thường tình, trách người sẽ bỏ thuyền bỏ bến bỏ biển bỏ đồi. Tất cả nỗi đau em đã nén chặt vào trong đôi tròng mắt ướt đẫm của em, rồi em nuốt trọng vào lòng mình, cưu mang trọn kiếp. Sao em không nói gì hết để chuyến xe xuống đồi hôm ấy bớt đi một cân nặng. Sao em không nắm chặt tay tôi để cánh chim đêm hôm ấy bớt lẻ loi trên vòm trời đầy sương mù tháng chạp. Và để hôm nay tôi thấy bớt đi một chút màu buồn trong đôi mắt đang xoay cuồng trong cơn lốc trước mặt.

 

Chạy. Lão Ngạc cứ ráng rướn người chạy theo cơn lốc trước mặt, cơn lốc có mái tóc dài và hai hố mắt sâu. Mái tóc thì có lúc xoắn lấy từng con sóng cao từ ngoài khơi đổ ập vào bờ cát. Từng cọng tóc như cố bắt lấy từng con sóng để cột chặt vào bãi bờ. Như người tình lang bạc, sóng vẫn muôn đời ra khơi. Có ai mà cột được con sóng bao giờ. Chỉ có mái tóc rối tung mệt lã cỗi cằn thương tích nằm sóng soài trên cát ướt. Còn hai hố mắt sâu thì bây giờ như hai ngọn đèn pha của một toa tàu xuống núi. Đôi mắt soi thủng màn đêm để tìm trong đá cát, trong sương khuya chút  ảnh hình còn rớt lại sau một lần tiễn đưa nhiều năm trước. Cát đá thời gian có lẽ đã vô tình vùi lấp những tàn dư, nên đôi mắt bỗng thất tình, bỗng mù đui va vào vách núi, rồi rớt xuống vực sâu, chết thảm trên kè đá. Ngọn tóc ướt kế bên buông ra tiếng thở dài.

 

Từ trên triền núi cao, cơn lốc bây giờ đã ngoạm được thân hình lão Ngạc, nhấc bổng lão lên, và nuốt.

 

 

Nhiều ngày hôm sau một thằng bé con đi chơi lang thang trên bãi cát, nó thấy một bộ xương người mà nó tưởng là bộ xương cá đuối. Nó nhấc bộ xương gối trên kè đá, để ngày ngày làm một món đồ chơi.

 

Trần Bang Thạch

Tôi với những khổ hình

 

Cuối cùng thì tôi biết mình phải làm gì. Tôi phải ra đi. 

 

Chỉ có việc rời khỏi căn nhà nầy là tôi sẽ không còn nghe những tiếng khóc rấm rức từ trong lòng ngực của mọi người. Nhất là không phải thấy những ánh mắt. Ánh mắt mờ mịt như ướt đẫm sương mù của mẹ tôi đâu đó nơi góc nhà bếp, hay đâu đó nơi mái hiên sau nhà. Trong mỗi căn phòng kín cửa của mỗi người, tôi vẫn thấy ánh mắt mỏi mệt đượm vẽ âu lo của ba bà chị cả goá bụa cằn cỗi của tôi. Cô em gái út thì bên cạnh tôi đây, đang nắm chặt tay tôi như sợ tôi biến mất, nó không nói lời nào, chỉ có khóc âm thầm và cứ hướng mắt nhìn tôi. Còn ba tôi thì đang ngồi thẳng lưng như một pho tượng, không một tiếng động, không có cả một tiếng thở, nhưng tia mắt thì thấu suốt sắt gỗ gạch ngói đá cát cây cảnh từ gian phòng khách ra tới đường phố bên ngoài. Tất cả mọi người đang nhìn tôi kìa. Cả nhà như chỉ thấy tôi là vật duy nhất trong căn nhà rộng thênh thang nầy để mà nhìn. Những bàn, những ghế, những TV, tủ lạnh, radio, cassette đã biến mất hết rồi sao? Tôi có phải là Từ Hải đâu mà phải chịu đứng trời trồng như vậy? Mẹ tôi đó, bà đã khóc với tôi hằng mấy tháng nay rồi. Ba tôi đó, cũng mấy tháng nay, ông đã pha trộn những ấm ức với biết bao là nước mắt để nuốt vào ngực mình. Ông đã đè nén bao nhiêu là tức giận để không nói với tôi một lời nào, tôi biết chắc là như vậy. Ngày xưa, lúc ở quê nhà, con bé tí xíu là tôi cứ thấy trước mắt mình hết chị hai rồi chị ba đến chị tư đứng khoanh tay trước ngực hàng giờ để nghe ba tôi ngồi trên tràng kỹ dạy Gia huấn ca. Phận con gái ở cùng cha mẹ, lòng phải chăm học khéo học khôn. Một mai xuất giá hồi môn, phận bồ liễu gía trong như ngọc. Khéo là khéo bánh trong bánh lọc. Thời đó đã qua rồi, nhưng ba tôi đâu có dễ gì mà để cho các cô con gái của ông quên học Gia huấn ca. Học thì học mà chắc gì ai cũng thuộc. Ba người chị của tôi thì tôi biết chắc khi về nhà chồng chẳng giá trong như ngọc như ngà gì hết. Có lẽ vì vậy mà ba tôi không muốn tôi đi theo con đường đục ngầu của ba người chị. Mà cũng có thể vì con đường chồng con sau nầy của đứa em gái út của tôi. Chắc ông không muốn cô gái út cũng bỏ ngoài tai Gia huấn ca như các chị. Ông không muốn nó bắt chước tôi mà có một người chồng không thể nào chấp nhận được, theo ông. Tôi biết nỗi khổ của mọi người về tôi. Mỗi người có một nỗi khổ riêng về tôi. Tôi, một vật thể từ bao nhiêu năm trầm mình dưới đáy vực, trùm phủ từng từng lớp lớp rêu phong. Tôi, một trái phá có ngòi nổ chậm hằng mấy mươi năm. Tôi, một trái tim đã ngủ vùi suốt mấy mươi mùa đông chưa một lần thức dậy để thấy mùa xuân rực rỡ cỏ hoa và những cánh én bay lượn trên vòm trời trong như ngọc. Mắt tôi đã mù quá lâu để không hề thấy lá vàng thu đậu khẽ trên vai mấy tượng đá sau nhà. Lòng tôi phải chăng đã tàn tạ khô héo để không thấy nắng hè rực rỡ trên những đôi vai trần trên biển ấm. Đâu có ai ngờ tôi bỗng nhiên là cơn địa chấn, là trận phong ba, là cơn thác lũ. Mọi người, không trừ một ai trong căn nhà nầy chỉ có thể chống lại tôi bằng ánh mắt và bằng tiếng khóc. Còn những cái nhìn thương hại thì tôi thấy trên ánh mắt của hàng trăm đồng nghiệp của tôi trong cái cao ốc nằm giữa khu Medical Plaza có quá nhiều áo blouse trắng lúc nào cũng vào ra tất bật giữa những tường vôi trắng tẩm mùi ê-te nầy. Hơn mười năm tôi đã xem đây là nhà. Tôi đã tán mỏng đời tôi trên những gương mặt ung thư trắng bệt thiếu máu ốm o gầy mòn. Có người khóc không phải vì chống báng tôi, mà khóc vì thông cảm hoàn cảnh của tôi. Như mẹ tôi, chẳng hạn. Hay như em gái út của tôi. Hai người đàn bà, một gìa gần bảy mươi, một trẻ quá hai mươi, chắc chắn phải thấy tôi đã không còn trẻ để mà chọn lựa người chồng theo ý mọi người trong nhà. Còn tôi nữa, chắc gì tôi có thể chọn được người chồng? Lại là người chồng theo ý mình? Mỗi người chỉ có một lần tuổi trẻ, phải không? Vậy mà tôi đã bỏ trôi tuổi trẻ của tôi để chạy theo giòng chảy của cuộc đời. Thật ra thì tôi có biết tuổi trẻ là gì đâu. Tôi chỉ biết sống như con mọt sách. Tôi đã thâu đêm suốt sáng nơi bàn học. Mưa giông hay tuyết giá tôi đã tất bật leo lên những chuyến mêtrô sớm nhất để có mặt nơi giảng đường, nơi phòng thí nghiệm, rồi uể oải lên chuyến mêtrô cuối ngày trở về căn chung cư tiếp tục ngồi vào bàn học. Một bóng. Một mình. Cứ như vậy mà tôi không biết tới tuổi trẻ của tôi. Tệ hơn nữa, tôi đã quên trên đời nầy còn có cái gọi là ái tình. Hình như có những lúc nào đó nhìn thân thể mình trước gương trong bồn tắm thấy có điều khang khác, tôi đã mơ hồ nghe tiếng lá lao xao ngoài khung cửa sổ. Có những lần nghe tiếng còi tàu khắc khoải giữa đêm, tôi thấy hình như mình đang chờ một bước chân ai đang tiến lần đến khung cửa khép. Hình như tôi có nghe chút rạo rực len lén đi qua hồn khi tình cờ thấy một bộ ngực đầy lông, bắp thịt cuộn vồng phơi trần trên cát ướt . Có bao nhiêu lần một mình trong thang máy với một người đàn ông giữa đêm khuya thanh vắng là bấy nhiêu lần tôi thấy mình như chết ngộp. Và hình như có lúc tôi khắc, tôi tạc, tôi vẽ cho mình một dáng hình đàn ông mập mờ trong trí tưởng. Những cái hình như như vậy rồi cũng qua mau, để tôi không còn nhớ gì hết. Tôi cũng đã quên tôi, người thiếu nữ đang chực chờ hay là đang tiến vào cuộc đời của một thiếu phu nửa chừng xuân. Điều nầy thì càng ngày càng thấy rõ khi những nếp nhăn bỗng một sớm một chiều có mặt trên trán, trên hai đuôi mắt và trên khóe môi, đến nỗi tôi phải bắt đầu làm quen với Lancôme hay Apogée để che bớt vết hằn năm tháng. Tôi thấy ngượng nghịu khi phải xưng em với vài đồng nghiệp. Họ thì gọi tôi bằng chị thật là tự nhiên. Có những sinh viên nội trú còn gọi tôi là cô ra cái điều lễ phép. Và điều tôi thấy rõ nhất là mình chẳng có người tình nào từ khi sực nghĩ tới tình yêu, từ những ngày mới bước qua tuổi ba mươi. Những đồng nghiệp của tôi, hằng ngàn hằng vạn người đàn bà như tôi trên trái đất nầy cứ tha hồ mà đào với kép, mà anh với em, mà tình với tự. Có ai như tôi đã phải chờ cho đến bây giờ. 

 

Tôi đã chờ cho đến bây giờ. Không phải. Ánh mắt ấy đã chờ cho đến bây giờ mới xuất hiện. Tôi biết chắc, không phải bây giờ mà đã lâu rồi tôi nhận biết đâu đó quanh tôi có một ánh mắt đang nhìn mình. Người xưa đã nghe tiếng hát trên dòng trường giang để tơ tưởng một bóng dáng người tình. Còn tôi, mỗi ngày một bông hồng trên bàn làm việc để cho tôi tưởng nghĩ đến một bàn tay thật gần, một ánh mắt không ở đâu xa. Những khi tôi phải rời xa thành phố đi dự những hội thảo y học thì ánh mắt ấy dường như cũng ở gần, tôi có cảm tưởng như vậy khi mỗi ngày vẫn nhận một đóa hồng nhung. Mỗi ngày một chút, rồi lần lần những bông hồng đã đánh thức tuổi trẻ tôi, đã vực tôi dậy để trở lại làm người thiếu nữ đang xuân. Tôi nghe tiếng chim hót vui. Tôi thấy mình đang có những bước nhởn nhơ trên đường đời. Tôi đã biết yêu bốn mùa xuân hạ thu đông đầy hoa thơm bướm la. Cũng như chuyện xưa, giòng trường giang sao chẳng đưa con thuyền của nhà nghệ sĩ trôi về tận non ngàn bể thẳm, mà ghé làm chi bến bờ định mạng để nước mắt ai làm tan vở chén quỳnh. Chuyện của tôi hôm nay phải chăng cũng là định mạng? Tôi bắt gặp làm chi con người có đôi mắt ấy. Biết đâu sự gặp gỡ đã nhuốm màu quan san? Tôi không phải là người có kinh nghiệm trên tình trường, nhưng với chàng thì cuộc tình nầy tôi biết sẽ gặp nhiều cam go. 

Quả thật điều tệ hại nhất bắt đầu sau hơn một năm tôi có chàng, đúng hơn là khi chúng tôi trở về sau một tháng nghỉ hè tại vùng biển Cape Coast trên quê hương Ghana của chàng. Suốt một tháng trời tôi ngao du, hình như cả nhà tôi đã chuẫn bị một trận đánh lớn, chỉ chờ tôi khăn áo trở về là phát pháo ra quân. Điều nầy thì tôi không ngạc nhiên chút nào hết. Nhiều tháng trước, tại nhà tôi, Jeremiah đã được tôi giới thiệu như là người bạn trai rất thân của tôi, từng là bệnh nhân được tôi thay thận vài năm trước, là người chuyên viên sửa thang máy trong bịnh viện nơi tôi làm việc, là người cha ly dị vợ, đang sống với 2 con tuổi teen. Tôi cũng biết, và chắc ai cũng biết, với ngần nầy lý lịch thì chàng của tôi chắc khó mà một lần trở lại, nếu không cần nhắc màu da như đồng đen của chàng. Ba bà chị thì mắng tôi như tát nước ngay sau khi chàng tới nhà lần đầu. Mẹ tôi bắt đầu khóc hoài từ đó. Em gái tôi thì năn nỉ tôi đủ điều. Ba tôi còn tệ hại hơn: ông bắt đầu cấm khẩu, mỗi ngày cứ ngồi thẳng lưng trên ghế sofa nơi phòng khách, mắt như có nhiều tia máu bắn thẳng ra cánh cửa suốt ngày đóng kín. Những chống đối nầy tôi biết phải có. Những người thân của tôi sống ở đây mới vài năm thì làm sao họ chấp nhận được tình yêu lạ đời như vậy. Ba má tôi lại là những nhà giáo gần trọn đời gắn với ngôi trường tiểu học trong làng, tư tưởng, ý nghĩ đã thành sạn, thành nếp. Lễ nghĩa trí tín. Công dung ngôn hạnh. Tứ đức tam tùng. Chuyện tình của ba bà chị tôi đã làm ba mẹ tôi quá buồn khổ, nay lại tới chuyện của tôi. Tôi thương ba mẹ tôi, mà tôi cũng rất tha thiết với mối tình nầy. Phải làm sao? Làm sao bây giờ? Nhiều lúc tôi tự hỏi mình. Trong vòng tay rắn chắc đen mun của Jeremiah tôi càng thấy mình u mê. Dưới những tia nhìn của chàng tôi đã không còn là tôi của phần đời trước; và tôi không muốn nhìn phần đời sau. Tôi đang hạnh phúc hay tôi đang đau khổ, tôi không biết. Tôi nhắm mắt lầm lũi đi trên con đường tình chông gai hiểm trở nầy. Những khi mở mắt tôi thấy trong ngôi nhà ấm cúng của gia đình tôi từ mấy năm nay sao giờ đây có quá nhiều nước mắt. Tình yêu của tôi sao giống như những vết đâm vết chém mà tôi cứ ngửa mặt gồng mình chịu đựng một cách tài tình. Tôi lăn lộn, gào khóc mà nào có thoát ra được đâu. Nhưng tôi biết có một lúc nào đó tôi sẽ thoát. Phải thoát. Không biết bằng cách nào. 

 

Tôi ra khỏi nhà mà không biết mình sẽ đi đâu. Cánh cửa đóng lại. Tôi biết phía sau cánh cửa có quá nhiều những ánh mắt buồn ngó theo. Và những giòng lệ.

 

 

Houston, Mùa Tạ Ơn 2003

TBT

CHUYỆN THÁNG TƯ ĐEN

Chuyện 1.

HAI MÀU ÁO TẠI HỘI TRƯỜNG

TRONG 1 NGÀY 30/4

 

 

 

 

 

 

 

 

Chị ngồi trên chiếc ghế của chiếc bàn tròn cuối cùng kê nơi góc phải hội trường. Chỉ một mình chị. Các bàn ghế vẫn còn trống phía hội trường này. Bên góc trái đã có vài chục người ngồi chuyện trò vui vẻ. Chương trình Tưởng Nhớ Ngày 30 Tháng 4 còn hơn nửa tiếng nữa mới bắt đầu. Hình như tôi chưa hề gặp chị ở đây. Chắc hẳn chị không phải là người thường xuyên đến trung tâm sinh hoạt này. Không phải chị là một trong vài chục người đến hội trường sớm mà tôi để ý đến chị. Chính bộ bà ba đen chị đang mặc và dáng ngồi thẳng, mắt hướng về phía trước và gương mặt trông rất buồn, không một chút phấn son của người đàn bà trên sáu mươi làm tôi không thể nào không để ý đến chị. Không biết từ hồi nào tôi có thói quen hay quan tâm tới những người nữ mặc toàn đen với gương mặt buồn. Dấu hiệu của tang chế. Bình thường đàn bà thích ăn mặc đẹp với những màu sáng và khi ra ngoài thì thường có chút phấn son. Gặp chị tại một buổi tưởng niệm, linh tính cho tôi nghĩ rằng người đàn bà nầy chắc có điều gì trắc ẩn. Suy từ chính mình, hôm nay tôi đang mặc chiếc áo trắng. Màu trắng để tang cho một ngày buồn thảm. Màu trắng cũng để tự nhắc mình rằng hãy từ màu trắng sáng nầy mà nuôi hy vọng, mà dắt dìu nhau đi về vùng trời trong sáng hơn.

 

Từ ngày đến Hoa Kỳ hơn 30 năm nay, hàng năm cứ mỗi lần ngày 30/4 đến tôi mặc chiếc áo trắng này. Lúc đầu thì vợ con tôi cũng làm theo để tôi vui lòng, lâu dần họ bỏ cuộc; chỉ còn tôi. Chiếc áo trắng nầy cũng kiên trì theo tôi từ đó, không sờn rách cũng không đổi màu.Từ chiếc bàn kế bên tôi thấy trên bàn, trước mặt chị 1 bao ny-lon đựng mấy tấm ảnh 4x6 đen trắng và cành hoa trắng  làm bằng vải, giống như hoa lài. Tôi thầm mong có người nào đó đến ngồi gần chị để chị không cảm thấy lẻ loi và xa lạ.

Gần tới giờ bắt đầu chương trình. Trong hội trường người ra kẻ vào, tiếng nói cười xen với tiếng nhạc nhẹ. Chị vẫn âm thầm ngồi đó. Chiếc bàn chị có thêm hai bà cụ và 1 ông cụ cùng với hai bé gái bốn, năm tuổi, chắc là cháu của ông bà. Các cụ già thường ít nói và các cháu bé thường không làm quen với người lạ nên chị vẫn ngồi đó, không chuyện trò với ai. Chị có vẻ chăm chú nghe các diển giả nói chuyện, rồi ăn trưa như mọi người và cùng thưởng thức văn nghệ như mọi người. Chiếc bao ny-lon vẫn trước mặt chị. Tôi không đọc được một nỗi xúc động nào trên gương mặt chị. Hay chị có xúc động mà tôi không bắt gặp hoặc chị ém sâu nó vào lòng mình. Hình như chị không thích chuyện trò nên tôi cũng ngại làm quen. Bộ bà ba đen và cành hoa lài trắng vẫn là điều bí ẩn đối với tôi.

Khi chương trình chấm dứt, ngó quanh, tôi không thấy chị. Không biết người đàn bà ăn mặc toàn đen ấy đã biến đi từ hồi nào.

Chị đi rồi mà đầu óc tôi vẫn còn vẽ ra nhiều điều về chị. Chị có thể là góa phụ của một người tù đã bỏ thân nơi nào đó trong núi rừng Việt Bắc sau ngày 30/4/75. Chị có thể là người mẹ đã phải thủy táng con mình trên biển Đông. Chị có thể là người vợ trẻ vài mươi năm trước sống trong giây phút hải hùng khi chứng kiến chồng mình đã liều thân cứu vợ thoát khỏi nanh vuốt của bọn hải tặc khát máu trong vịnh Thái Lan... Anh yêu quí, em bây giờ còn sống mà như đã chết. Những tấm ảnh ngày cưới chúng mình và những tấm ảnh giày saut nón sắt của anh đang sống với em từng giờ từng phút. Từng giờ, từng phút em sống với anh. Còn cánh hoa lài trắng nầy em sẽ mang theo cho đến cuối đời như 1 giải khăn sô cho duyên phận chúng mình. Và bộ đồ đen nầy em mặc hàng năm để tưởng nhớ ngày tang khó 30 tháng 4.

Thưa chị, dù không được nói một lời nào với chị, cũng như không nghe chị nói một tiếng nào, nhưng tôi biết chị. Và biết cả tên chị nữa. Chị chính là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam sanh ra, lớn lên, lê đôi bàn chân rướm máu trên núi Sọ và gánh chịu muôn ngàn đau thương, oan khiên, khổ nhục của một thời Việt Nam thập tự giá. Thưa chị, cảm ơn chị đã đến với chúng tôi. Màu áo đen của chị và màu áo trắng của tôi đã hòa nhập tuyệt vời trong ngày tưởng niệm 30/4 hôm nay, nơi đây. Trắng hay đen đều là màu tang chế. Chúng ta cùng để tang cho một cái tang chung. Phải không, thưa chị, chị Nguyễn Thị Việt Nam?

Chuyện2.

CẦU BÀ NỘI

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong mắt bà Tư căn nhà bây giờ bỗng nhiên trống hoác. Nằm trên giường bịnh bà Tư cũng hình dung được  căn buồng bên trái cửa đã đóng kín, cái bàn học kê bên cửa sổ còn xấp bài chưa chấm của con dâu. Chiếc áo lính cũ của con trai còn máng trên vách buồng. Chai sữa nấu bằng gạo rang thằng cháu nội chưa uống hết đang nằm bên cạnh bà đây. Mới hôm qua cả nhà còn đông đủ. Hôm nay chỉ còn một mình bà. Trống vắng.

Đêm qua trời tối đen như mực, cỗng thằng cháu nội mới hơn 1 tuổi trên lưng, bà Tư lần mò từng bước trên cây cầu khỉ bắc ngang Rạch Bần. Mưa lớn và gió mạnh. Cầu lắc lư hay chân tay bà lão sáu mươi đi đứng không vững? Cha mẹ thằng bé đã đi trước với 2 đứa con và mấy túi đồ ăn, thức uống. Hồi chiều có tin cơ quan xã đã nghe phông thanh chuyến vượt biên này. Mọi người phải chạy đua với xã đội, hối hả xuống "taxi" đang đậu chờ ở ngoài vàm để đi ra "con cá lớn". Khi chiếc ghe nhỏ rời bến, bà Tư trở về. Dâu con đã năn nỉ bà cùng đi, bà nói bà phải ở lại để rủi có bề gì thì còn nhà cửa để con cháu trở về. Bà đi thất thểu dưới mưa mà tưởng chừng như mình bay trong gió. Bà thấy thân thể nhẹ tênh mà trái tim thì nặng như chì. Bà Tư đã vừa bứt ruột, nát lòng đưa tiễn những người thân nhứt của bà ra đi. Sống chết thế nào chưa biết. Từ nay một thân già yếu bà Tư cũng không biết mình sẽ ra sao. Bà bước trở lại cây cầu khỉ. Đi mới được nửa cầu, bà muốn đứt hơi, mắt hoa, chân run, bà dựa vào tay vịn để thở. Khi thân cầu gãy, bà Tư mới hoàn hồn, cố gắng hết sức già, bà Tư mới lội được vào bờ, lê lết về  nhà. Cơn sốt bắt đầu ngay sau đó.

Tin vượt biên thành công của con cháu nhắn gởi từ Songkla bà Tư không nhận được. Bà Tư đã vĩnh viễn ra đi chỉ hai ngày sau cái đêm mưa tầm tả ấy.

Lối xóm nói cơn sốt không thể vật ngã được người đàn bà nhà quê dạn dày sương gió ấy. Chắc chỉ tại nỗi buồn quá lớn khi bà bỗng chốc mất hết những người thân yêu.

Gần ba mươi năm trôi qua, Rạch Bần đã thay bao nhiêu cây cầu khỉ. Xóm giềng vẫn nghèo xác nghèo xơ. Hôm nay cây cầu đúc bắt qua con rạch vừa xong. Không có lễ khánh thành nhưng một số người ở gần đến chờ giờ khai thông cây cầu. Trong làng ai cũng biết cầu này do một kỹ sư cầu đường trẻ nổi danh của Mỹ tự tay thiết kế và xây dựng cả tháng nay. Đứng trước ba má và anh chị, người thanh niên trạc ba mươi tự tay vén tấm vải điều che mặt bia đặt bên này cầu. Người ta đọc mấy chữ trên tấm bia: "BÀ NỘI, con thương Bà".

Từ đó người làng gọi cầu nầy là Cầu Bà Nội. Một cây cầu gãy gần ba mươi năm trước bây giờ đã được bắt lại, đẹp đẽ, vững chắc. Ở một nơi nào đó trên mây, có người đàn bà quê nhìn xuống đàn con cháu, niềm vui bừng sáng một góc trời chiều.

 

Chuyện 3.

CẮT RUỘT THẢ XUỐNG BIỂN ĐÔNG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Con thuyền chật cứng lúc bắt đầu ra Bãi Giá. Bây giờ chắc không ai chợt thấy lòng thuyền bỗng rộng hơn. Mọi người đã đói lã, không còn nghĩ gì ngoài cái ăn. Sau 39 ngày lênh đênh trên biển, hơn một nửa đã vắng mặt vì bịnh và vì đói khát. Xác họ đã làm mồi cho cá mập. Cơn đói khát và mất người thân khiến nhiều người phát điên. Chị Út V. ôm cứng con vào lòng bằng tất cả sức lực còn lại của mình. Con bé mới tuổi rưỡi cũng đang thoi thóp. Từ hai hôm nay những người trên thuyền chỉ muốn ăn thịt con bé. Họ nói dầu gì thì con bé không thể sống được. Chị Út V. biết chị không thể nào chống trả hay kêu gọi nhân tính của họ, những người tìm mọi cách để sống còn. Nửa đêm chị Út V. lần mò ra trước mủi thuyền, nhẹ nhàng thả con trên lượn sóng biển Đông.

Chị thấy từng đoạn ruột của mình đang rỉ máu trên những ngọn sóng vô tình.

 Houston, để nhớ ngày này hơn 30 năm trước

Trần Bang Thạch

TL_Hoahongtrang.jpg.w300h200.jpg
web_bridge.jpg.w300h217.jpg
web_boat 2.jpg

Cũng một dòng sông

 

MP3 đọc truyện 

____________________________________

Vài hôm trước 1 chị đồng môn từ New Jersey lượm 1 link MP3 đọc truyện trên net và gởi cho TBT. MP3 nầy TBT chưa từng nghe tuy nó có trên net từ 2002. Cám ơn chị đồng môn PTGĐTĐ.

Kính mời đọc giả Trang Nhà nghe: 

http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Cung%20Mot%20Dong%20Song%20-%20Tran%20Bang%20Thach.mp3    

__________________________________________

KHÓC THẦY       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GS Nguyễn Văn Trường là 1 trong rất ít người mà tôi tự hãnh diện làm học trò suốt đời dù mình chưa 1 lần ngồi trong lớp thầy.

Bây giờ Thầy đã đi rồi nhưng hình dáng, nét cười, lời nói, ý tưởng vẫn còn quẩn quanh nơi đây. Dáng Thầy cao sừng sững trong đời, nghĩa đen lẩn nghĩa bóng. Cái dáng đó là cái khung vàng, là thước ngọc cho chúng tôi, những môn sinh, những đồng môn PTG của Thầy. Thầy cũng là người thầy suốt đời của chính mình khi Thầy không ngừng đọc, suy nghĩ và viết; khi Thầy kiên trì tập luyện thân thể với câu nói mà tôi nhớ hoài: Không đọc thì không biết đầu óc của tui tùm lum như thế nào. Không tập thì tui đã chết lâu rồi. Cái tâm của Thầy còn lan tỏa tới mọi người quen biết khi Thầy nói anh ấy, chị ấy, thằng ấy rất dễ thương! Chưa bao giờ tôi nghe Thầy ghét hay nặng lời với 1 người nào. Hình như từ lâu tôi đã siêng năng tập thể dục hơn và nhìn ai cũng thấy dễ thương hơn. Đây là1bài học quý không từ sách vở mà tôi học được từ Thầy, Người Thầy suốt đời của tôi.

Một cách rất cục bộ và chủ quan, tôi thầm nghĩ Gia đình PTGĐTĐ Houston chúng tôi được nhiều ưu đãi, trong đó có việc Thầy cùng gia đình cư ngụ tại Houston để những sinh hoạt của thầy trò chúng tôi được thuận tiện hơn từ hơn 20 năm nay. Chúng tôi thường nói với nhau: Thầy là linh hồn của sinh hoạt PTGĐTĐ hải ngoại.

Thưa Cô và thưa các em, Thầy vốn là người chồng tốt, người cha, người ông tốt, người VN tốt. Bằng những cái tốt nầy, kính mong Cô và các em sớm vượt qua nỗi đau và sự mất mát quá lớn nầy. Trên vùng trời bao la, Thầy đang gởi xuống những nụ cười hiền.

Thưa Thầy, Thầy đã ra đi nhưng chúng tôi biết Thầy không bỏ chúng tôi và chúng tôi luôn nhớ Thầy, luôn vịn cái dáng sừng sững của Thầy, cái tâm bao la của Thầy để đứng và để suy nghĩ. Thầy ơi, các em vẫn nhớ Thầy. Nhớ mãi. 

TBT, Houston Jan 4, 2018 

_____________________________

 

LAN MAN

TRONG

MẮT BÃO

_________________________________

BBT: Trong khi chờ cơn bão dữ Harvey đến Houston 12 tiếng nữa với tốc độ 120 miles/giờ vào Thứ Bảy 26/8 và Chủ Nhật 27/8/2017, xin nhắc lại bão IKE, được mệnh danh là Cơn Bão của thế kỷ, tháng 9 năm 2008 tại Houston qua bài viết đúng 9 năm trước. Cầu nguyện cho mọi người bình an.

1.

Ngay khi con chữ đầu tiên của bài viết nầy rơi trên mặt monitor thì bão Ike còn cách bờ biển Galveston 52 dặm. Tính ra còn khoảng 4 tiếng đồng hồ nữa Ike mới đánh vào bờ. Đường kính của Ike rộng quá, 500 dặm, choáng gần hết Gulf of Mexico, từ Palacios ở mạn Đông lên mạn Tây giáp với tiểu bang Louisiana. Đường kính rộng như vậy cho nên dù là bão đang ở cấp 2 nhưng mạnh tương đương cấp 4. Sẽ trở thành cấp 4 chỉ vài giờ nữa với tốc độ gió là 143 miles/giờ. Gió thì đã bắt đầu thổi mạnh từ lúc hơn 6 giờ chiều. Ngoài khơi, có lúc sức gió lên đến 105 dặm/giờ. Trên màn ảnh truyền hình, đã thấy những con sóng cao gần 20 feet. Có chiếc tàu chết máy đậu ngoài khơi, 23 thủy thủ đã được cứu. Có chiếc truck với 2 người thanh niên bị mắc lầy trên bãi biển Galveston giữa cơn cuồng nộ của sóng và gió. Họ cũng được cứu nhưng phải nghe vài lời cằn nhằn của toán cấp cứu. Nghe nói có tới hơn 40% dân chúng thuộc vùng ven biển không theo lịnh di tản bắt buộc của chánh quyền. Chắc rồi khoảng 20,000 người nầy cũng phải kêu cứu khi nước đến chân mà chưa nhảy kịp, hay chỉ nhảy kịp lên... nóc nhà! Trên đất liền từ vùng Đông Nam Texas cho tới Trung Nam Louisiana gió lên đến trên 70 dặm/giờ.

Cho tới giờ nầy, gần 11 giờ đêm Thứ Sáu 12-9-2008, nghe báo cáo nói là đã có trên 30 căn nhà ở Matagorda County town of Sargent bị sóng biển làm hư hại nặng. Vùng phía trên của Texas GulfCoast thì chưa thấy thiệt hại gì. Nhưng theo dự đoán thì sẽ có tới vài chục quận hạt và thành phố ven biển sẽ là nạn nhân của cơn bão chết người nầy.

Các dự báo thời tiết cũng giữ vững lập trường là bão sẽ vào thẳng Galveston, rồi tiến theo trục xa lộ I- 45 lần lên phía bắc Houston với bán kính 70 dặm, sức gió sẽ giãm thành cấp 1. Cũng hơi yên tâm nhưng không khỏi lo sợ khi trên màn ảnh sóng cao như cái nhà lầu, và bên ngoài gió mỗi lúc một mạnh thêm.

Con sóng và ngọn gió nầy  làm nhớ tới những ngày lênh đênh trên biển rộng gần ba mươi năm trước. Suốt 3 ngày đêm chiếc ghe dài 20 thước với 120 con người như chiếc lá có lúc lặn sâu xuống chân sóng rồi trồi lên ngọn sóng cao như tòa building 20 tầng. Hình như lúc đó không ai tỏ ra sợ sệt, hay nỗi sợ hãi tan loãng trong tiếng kinh cầu. Hay nỗi sợ ấy không đáng gì so với nanh vuốt của con hổ luôn rình mò, chực chờ để bóp nghẹt mỗi phận người. Con hổ ấy mình vừa bỏ lại. Bão to, sóng cả gì cũng phải đi tới, dù sóng cao bằng tòa building 100 tầng. Mọi người và cả cây cột đèn, nếu may mắn có cơ hội thì cũng ra khơi. Nghĩ cũng ngộ: quê hương tôi trên đất liền mà có sóng đỏ như máu phủ chụp trên thân mọi người đã hơn ba mươi năm rồi, và còn bao nhiêu năm nữa?!!!

.

2.

Ike. Bão nầy tên là Ike. Sẽ là cơn bão dữ dội nhất kể từ bão Alicia đánh thẳng vào Houston ngày 18-8-1983 với sức gió 127 dặm/giờ và với 23 trận cuồng phong lớn (tornadoes) trên đất liền làm cây cối ngã; sau cơn bão, nếu gom số cây nầy chất thành đống sẽ đầy diện tích 1 sân football với độ dầy là 1,200 feet. Như một quả núi lớn. Nghĩ tới Alicia mà đâm ra sợ Ike. Sợ nhưng không trách mình đã tử thủ. Không muốn gặp cái cảnh kẹt xe 3 năm trước trong trận bão Rita nên dù không muốn cũng phải "lì".

Ike. Sao lại Ike? Thật là trớ trêu. Ike là cái tên gọi thân thương trên miệng của người Mỹ một thời. Tận trời Đông bên kia biển Thái, kẻ viết bài nầy, lúc còn tấm bé, cũng đã một thời ngưỡng mộ người mang tên Ike. Đó là cái tên thân mật để gọi vị Tổng Thống thứ 34 của Hoa Kỳ (1953-1961): Tổng Thống Dwight D. Eisenhower. Nếu Hiến Pháp Mỹ Quốc cho phép vị  Tổng Thống đương nhiệm tái ứng cử thêm lần thứ 2 thì chắc vị tướng 5 sao anh hùng của Thế chiến thứ 2 sẽ đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Người ta yêu thương đứa con cưng của Texas nầy vì tài thao lược trong thời chiến và vì đức độ và tài năng của một chánh khách đã lèo lái một nước Mỹ trở thành một siêu cường trước áp lực của Liên Bang Xô Viết trong thời gian chiến tranh lạnh. Ike cũng là người đẫy mạnh cuộc chạy đua chinh phục không gian với Liên Bang Xô Viết.

 

Vậy mà cái tên Ike lần nầy sao mà đáng sợ và đáng ghét !

 

3.

Ghét luôn cái anh chàng Neil Armstrong ! Tự nhiên từ mặt đất, đeo phi thuyền Apollo 11, vượt 240 ngàn dặm, đặt chân xuống mặt trăng lúc gần nửa đêm ngày 20-7-1969, gởi ngay mấy chữ ngắn gọn xuống địa cầu: "Magnificient desolation" (vùng hoang địa tuyệt vời). Sau đó, cùng với bạn đồng hành Buzz Aldrin còn ghi chép, chụp ảnh mặt trăng suốt 2 tiếng rưỡi đồng hồ. Còn nhớ sau đó vài tháng, tại thư viện Abraham Lincoln trên đường Lê Quí Đôn Sài Gòn người ta xếp hàng dài cả cây số để xem những mẫu đá lấy từ mặt trăng.

Ghét Armstrong, ghét các mẫu đá trong hộp thủy tinh vì huyền thoại Hằng Nga, Cung Quảng từ trăm ngàn năm bỗng một sớm một chiều bị phá vỡ. Đường Minh Hoàng nếu còn sống đến ngày nay cũng phải vỡ mộng du Nguyệt Điện. Trước mắt là các em thiếu nhi, kể từ Apollo 11, có còn mỗi độ Trung Thu, xách lồng đèn tung tăng đi dưới trăng, ngước nhìn trăng thấy nơi xa thăm thẳm ấy là Chàng Cuội bên gốc cây đa với chị Hằng và chú thỏ bạch? Chuyện kể ngày xưa...xưa lắm có vợ chồng nhà kia sống trong cánh rừng bên cạnh cây thuốc cứu, rồi người vợ một hôm...có còn được các em bé nghe say sưa đến quên con trăng đã xế?

Lúc đó, sau khi bước ra khỏi cổng thư viện Abraham Lincoln, muốn quên hết những mẫu đất đá, quên hình ảnh Apollo 11, quên anh chàng Armstrong in trên các trang ảnh màu lộng lẫy treo trên tường thư viện. Quên hết để cái thơ mộng của cung trăng còn sống mãi trong tâm trí ngây thơ tuổi nhỏ.

Đó là mùa Trung Thu đầu tiên tuổi trẻ trên mặt đất thấy Trăng không còn là thơ với mộng. Từ đó trẻ em đón trăng chỉ như một dịp vui chơi, hội hè. Chú Cuội, Chị Hằng chỉ còn là hình ảnh thân thương trong trí nhớ.

.

4.

Nói nhiều về Ike và về Armstrong vì những dự định tổ chức Tết Trung Thu cho các cháu tại nhiều nơi trong thành phố vào cuối tuần nầy phải bỏ dở. Ike làm thời gian bị trở ngại. Armstrong làm Trung Thu với Trăng Rằm mất phần nào thơ mộng.

.

5. 

 

Viết thêm, sau cơn bão.

Phần sau nầy viết tiếp sau hơn một tuần lễ mất điện.

Không ngờ chỉ mới đi lan man tới phần 4 trên đây thì điện bị mất. Sau này mới biết thêm về bão. Lúc đó, khoảng 2 giờ sáng, bão đã vào đất liền với sức gió lên tới 75 dặm/giờ. Galveston và các vùng lân cận bị chôn vùi dưới nước. Bước chân tàn phá dữ dội của Ike đã đặt trên các vùng ven biển. Gió tiếp tục lướt về hướng Bắc tỉnh hạt Harris làm cả một đồi thông ngã rạp trong vùng Conroe. Ngồi trong nhà nghe gió rít mà nhớ đêm gió nổi rùng rợn ở quê nhà mấy mươi năm trước ngồi đọc Wuthering Heights của Emily Bronte. Nghe gió đi mà như thấy gió cuộn mình kêu vun vút. Hết cơn nầy tới cơn khác, như tiếng đại bác đi trên đầu. Quéo, quéo...Cây oak hằng trăm tuổi trước nhà gãy đổ, may là không trúng mái nhà.

Bây giờ thì Ike đã đi lâu rồi. Điện cũng không có . Đèn dầu làm nhớ những ngày thôn quê cũ. Không điện thoại. Không Internet. Bỗng khám phá một khoảng trống quá lớn. Trước đây hình như mình ít khi thấy những thứ nầy là món ăn không thể thiếu. Lệ thuộc nhiều quá vào những tiện nghi nầy! Một trưa Thứ Bảy, sau 8 ngày mất điện, các bóng đèn điện cùng sáng lên một lúc. Tâm trạng mình cũng bừng sáng lên như ngày xưa thấy mẹ đi chợ về từ gốc phố.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một mái nhà đứng trơ vơ giữa đống đổ nát sau cơn bão.

 

Vội vàng mở Email. Hơn 500 cái! Delete cũng mõi tay. Giữ lại hơn trăm mails thăm hỏi của thầy, cô, đồng môn, của người quen, kẻ thân. Có những người gởi tới hơn 3 lần.

Trên TV, trên computer có nhiều hình ảnh các nơi cơn bão đi qua. Một cái nhà đứng chơ vơ giữa hàng trăm nhà khác đã thành những đống gỗ đá vụn. Những cái quan tài trôi lềnh bềnh trên nước, lật nghiêng, lật ngửa. Con cá sấu lội trong thành phố đỗ nát. Chiếc ghe nằm chồng lên chiếc xe trên đường...

Một tổng kết sơ khởi: 88 thị trấn và thành phố bị ảnh hưởng trực tiếp của Ike. Người chết là 195. Thiệt hại trên 37.5 tỉ Mỹ Kim. Những con số quá lớn sẽ làm những nỗi đau kéo dài nhiều ngày sau cơn bão. Thiệt hại tài sản thì có thể bù đắp được, nhưng người thân, những vật kỷ niệm, những hình ảnh và những sách quí thì làm sao tìm thấy được. Và tàng cây, ghềnh đá của một thời hẹn hò đâu còn như xưa.

 

6.

Vừa trở về nhà sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng các cháu thanh thiếu niên vui Tết Trung Thu tại một trung tâm sinh hoạt. Tưởng Đêm Trung Thu năm nay cũng đã bay theo Ike.

Gặp lại đêm nay âu cũng là đúng lúc. Người lớn thì thăm nom, hỏi han sau cơn bão nổi. Trẻ em thì hình như đã quên hết cái ông Ike đáng ghét. Và cũng không màng nghĩ tới mấy cục đá của cái ông gì đem xuống từ cung trăng. Cho nên đêm nay, Đêm Trung Thu, ai nấy đều vui. Người lớn vui theo người lớn. Trẻ em vui theo trẻ em. Chuyện Ông Trăng Chú Cuội ngày xưa...xưa lắm...cứ thế mà còn hoài. Còn hoài như sự hồn nhiên, tươi tắn của tuổi thơ.

Được gặp nhau ở đây sau cơn giông tố mà mọi người đều vui thì quả là nhiều phước hạnh trên cái cõi đời đầy giông bão nầy.

Trong những ngày hoạn nạn, tình thầy trò, tình đồng môn luôn có mặt. Trân trọng cảm ơn sự có mặt vàng ngọc này.

 

Houston TX, đêm 20-9-2008

trần bang thạch 

_________________________

Mời nghe PV-XNV THANH PHƯƠNG đọc truyện

 

THẦY GIÁO LÀNG

của Trần Bang Thạch 

 

 

Hôm qua, 25/3/2017, 1 vị Thầy khả kính ở Santa Clara, California, gởi cho TBT cái link MP3 phát thanh truyện THẦY GIÁO LÀNG của TBT qua giọng đọc THANH PHƯƠNG, nguyên Phóng viên-Xướng ngôn viên đài VOA và các đài phát thanh ở California, Houston.... Truyện nầy đã được phát thanh lần đầu từ hơn 10 năm trước.

Gởi cho Trang Nhà truyện nầy chắc Thầy NNH muốn hâm nóng "tình nghĩa thầy trò" trong cái không khí nao nức chờ ngày có mặt thầy trò, đồng môn nhân ĐH XXI PTGĐTĐ Hải Ngoại tại Houston Texas từ ngày 4 đến14 tháng 5/2017 của hơn 40 cựu GS PTG/ĐTĐ và gần 600 CHS & thân nhân từ khắp nơi đã ghi danh và trong sự cố gắng hết mình của BTC/ĐH từ hơn năm nay.

Trong tâm trạng đó, xin mời nghe Thầy Giáo Làng: (click link dưới đây)

 http://ndclnh-mytho-usa.org/Audio%20Book/Thay%20Giao%20Lang%20(Trang%20Bang%20Thach).mp3

Thầy Giáo Làng

 

 

1.

 

Căn nhà bây giờ đã không còn chỗ trống. Một mái trại được dựng lên sơ sài bằng lá dừa nơi sân trước cũng đã đầy người. Phía sau nhà, nơi khoảng đất nhỏ bằng chiếc đệm dưới tàn cây trứng cá cạnh sàn nước, các cục gạch được xếp thành một hàng bếp. Củi lửa nổ giòn dưới những đít nồi, đít chảo to. Những người đàn bà vừa chụm lửa vừa quạt mồ hôi. Trời đứng gió nhưng vài cánh lá vàng cuối mùa cũng không còn sức bám thêm vào các nhánh cây trên cao. Những cánh lá chao nghiêng như chưa muốn về với đất.Vòm trời phía tây có những dãy mây đen thấp, báo hiệu thêm một cơn mưa đầu tháng mười.

Bên trong nhà tuy đông người nhưng thật yên lặng. Người ta nói năng khi người ta chưa bước qua ngưỡng cửa căn nhà. Yên lặng như người đang nằm trong áo quan đặt giữa nhà. Bốn người mặc áo tang trắng đứng hai bên quan tài như mấy pho tượng. Đến lượt bốn người khác vào thay cũng thành những pho tượng. Hai người cũng mặc áo tang trắng quì hai bên quan tài thì liên tục lạy trả lễ khi có người đến viếng linh cữu. Một nải chuối xanh có cắm một nén nhang trên nắp quan tài. Chiếc bàn con đặt phía trước quan tài với bình hương và mấy nhánh lây-ơn trắng đựng trong bình thủy tinh cổ cao. Ba cây nhang luôn luôn tỏa khói càng làm cho gian nhà thêm mờ ảo. Người ta thay nhau đến lạy trước linh cữu người quá cố rồi ra sân trước ngồi hút thuốc, ăn trầu nói chuyện. Có những người đàn bà lạy xong ra phía sau phụ với mấy người khác lo nấu nướng.

Những người cao tuổi cho rằng đây là đám tang lớn nhứt từ trước tới nay tại làng này.

Thầy giáo Tư đã ra đi từ đêm hôm qua. Thầy cũng vừa ăn tuổi thọ thứ tám mươi chiều hôm trước. Người ta nói thầy đi thật êm, như người vừa mới thay bộ đồ mát, bước tới bộ ngựa gõ rồi buông mùng ngủ một giấc thiên thu. Giấc ngủ với niềm vui và với nụ cười còn hiện rõ trên nét mặt. Những người biết chuyện còn cho rằng thầy đi trong niềm hạnh phúc. Điều này thì có nhiều chục phần trăm là đúng nếu người ta chú ý đến một sư bà đang có mặt trong căn phòng nhỏ nằm bên cánh trái của ngôi nhà. Sư bà trạc lục tuần ngồi trước chiếc bàn kê sát vách, trước mặt sư bà là khuôn ảnh nhỏ chỉ bằng bàn tay đặt giữa cái chuông và cái mõ cũng thật nhỏ như tách trà. Trong ảnh là một gương mặt thanh niên có vừng trán cao và đôi kính gọng đen. Cốc. Cốc. Cốc. A di đà phật. A di đà phật. Người thính tai mới nghe được loáng thoáng mấy lời tụng niệm này, còn những lời thật nhỏ thì không ai nghe được. Hình như có lúc sư bà đang thầm thì với một người đang ở đâu đâu. Sư bà đã ngồi như vậy từ đêm qua, ngồi thẳng và thầm thì tụng niệm suốt đêm.

 

2.

 

Thầy giáo Tư đang đứng mà tưởng như chân mình không chấm đất. Trước mắt thầy là một vùng mờ ảo. Thầy tháo cặp kiếng, chùi chùi hai tròng thủy tinh bằng cái khăn tay nhỏ để được nhìn rõ hơn. Thầy không nghĩ tất cả những gì hiện trước mắt thầy là sự thật. Trời ơi, thằng Năng, thằng Ngọ, con Cam, con Ngọc đây mà! Có thêm Thằng Bãnh, con Mum...và bao nhiêu người nữa đang ẩn hiện trước đôi mắt nhòe nhoẹt vì nước mắt của thầy! Những người học trò cũ, họ đã về đây. Họ về với râu tóc bạc trắng như thầy. Vài người đã xa trường đúng năm mươi năm. Họ về từ những nước ngoài. Họ về từ những địa danh khác nhau trên đất nước. Họ từ làng này. Họ từ những quận huyện làng xã kế cận. Họ nói họ đã hẹn để về đây mừng lễ Bát Tuần Thượng Thọ của người thầy cũ. Họ đã chuẫn bị cả năm để có ngày hội ngộ này bên người thầy tám mươi tuổi và bên ngôi trường đã cất giữ những tiếng ABC đầu đời của họ từ năm chục năm nay. Người đàn bà trong một đêm tối âm u đã bỏ lại tất cả để ra đi, rồi làm kẻ vắng mặt mấy mươi năm cũng đã về trong cánh áo nâu sòng. Bỗng chốc căn nhà nhỏ của thầy Tư trở thành nhà tiệc khi những bàn ghế, bếp lò, chén dĩa và những thức ăn thức uống từ thành phố được chở vào bằng ba chiếc ghe máy. Cả cái ấp Thượng bé nhỏ chưa tới ba chục nóc gia như sống trong ngày hội.

Thầy giáo Tư ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế bành bằng gỗ lim kê giữa nhà. Hai tay thầy nắm hết tay người này đến tay người khác. Những học trò cũ của thầy lần lượt đến trước mặt thầy, quì xuống lạy thầy ba lạy vừa chúc thọ vừa nói lời cảm ơn công lao dạy dỗ của vị thầy khai tâm. Thầy ăn mừng thượng thọ tám mươi. Còn các trò thì đã quá lục tuần. Trí nhớ của thầy giáo Tư còn in rõ nét 12 học trò cũ có mặt hôm nay. Có người đã xa thầy rất lâu, bốn năm chục năm. Có người thầy vẫn gặp hàng năm. Vài học trò cũ vẫn bám sống ở làng này thì họ và con cháu thay nhau chăm lo từng cái ăn cái mặc trong cuộc sống đơn chiếc già yếu của thầy trong những năm sau này. Người ở xa thì cũng thay nhau gởi quà và lời vấn an về thầy. Thầy trò thầy giáo Tư đã sống với nhau bằng cái nghĩa tình đậm đà cao quý như vậy từ mấy mươi năm qua. Nghĩa tình này vẫn đơm hoa kết trái theo dòng đời thăng trầm, trôi nổi. Nếu không là người trong cuộc thì cũng khó mà biết là những hoa trái này đã kết thành từ những cây cành đã được vun bón từ những ngày thật xa.

Ngày đó, thời thập niên hai mươi, cái thôn làng An Trụ chỉ là một thỏi đất rộng không đầy hai cây số vuông. Thỏi đất như một cục u nhỏ trên con sông Bassac, cách bến bắc Cần Thơ hơn ba mươi cây số theo đường chim bay. Dân làng An Trụ không làm ruộng mà chuyên làm rẫy nhờ nguồn đất phù sa màu mỡ. Cũng có những mãnh vườn trồng cây ăn trái như mãng cầu, vú sữa. Cư dân chỉ trên dưới năm mươi người già trẻ bé lớn, tất cả đều thất học. Chỉ có một người biết chút ít chữ nho, chữ quốc ngữ và có tài hốt thuốc nam mà người làng gọi một cách thân quen là ông Huế. Ông Huế có mặt ở làng này vào giữa những năm hai mươi. Thật sự không ai biết tên thật ông ấy là gì. Người ta truyền miệng rằng ông Huế có chân trong một phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục gì đó ở ngoài Trung kỳ, bị truy nã phải bỏ làng mạc vào thỏi đất ít người lai vãng này để mai danh ẩn tích. Dân làng không nhờ cái vốn chữ nho mà nhờ thật nhiều vào các món thuốc nam gia truyền của ông Huế. Người ta nhờ ông nhưng người ta không dám giao thiệp nhiều với ông một phần vì sợ dính líu đến chánh trị, phần khác người ta thấy ông không phải là "người mình" qua tiếng nói lạ tai và khó hiểu của ông. Đến giữa thập niên 1950, ngay sau khi Hiệp định Genève vừa ký kết, làng An Trụ có thêm một người khách từ miền Trung vào An Trụ tìm anh rồi ở lại lập nghiệp. Người thanh niên trán rộng, mũi cao, mang đôi kính gọng đồi mồi tên Tư Gấm lúc đó gần ba mươi, chính là em trai ông Huế. Người làng cũng coi anh Tư Gấm không phải là "người mình", lại có lý lịch không rõ ràng. Người ta còn đồn đãi rằng anh Tư Gấm bỏ xứ, bỏ vợ con vào đây là nằm trong kế hoạch "cài người" của phía bên kia để chuẫn bị cho cuộc tổng tuyển cử 1956. Điều này đã đưa tới một thiên tình sử đầy nước mắt cả mấy chục năm sau. Nghe nói anh Gấm đã đậu bằng sơ học yếu lược. Lần đầu tiên An Trụ có người biết nhiều chữ nghĩa. Cũng là lần đầu tiên An Trụ có một mái trường sơ cấp. Đó là nhờ công lao của thầy giáo Tư Gấm. Còn nhớ những ngày đầu xây dựng trường, đa số dân làng thờ ơ, thầy giáo Tư cùng với vài em trai lớn tuổi và mạnh sức dốc công ngày đêm cất lên ngôi trường chỉ có một phòng duy nhứt. Cổng trường uy nghi bằng bê tông cốt sắt có tấm bảng tên trường bằng xi măng nằm ngang với hàng chữ nổi là do công lao và hoa tay của thầy Tư. Có người phê bình là ngôi trường thì mái lá vách ván nhỏ bằng cái chén chun mà cái cổng thì như cổng của một toà lâu đài! Thầy Tư nói ngôi trường này sẽ lớn ra, sẽ mái ngói tường vôi nền gạch, làng An Trụ này cũng sẽ đầy chữ nghĩa. Các bàn ghế, bảng đen cũng do chính tài thợ mộc của thầy Tư mà có. Trường ốc đã xong, thầy Tư đi đến từng nhà năn nỉ cha mẹ cho con đến trường. Lớp học đầu tiên khai giảng với 1 thầy và 6 trò. Thầy Giáo Tư tiếp tục đến năn nỉ từng nhà cho con em đi học. Tuần lễ thứ hai có thêm 3 trò nữa.Thầy trò chuyên cần dạy và học. Lớp học nhiều khi là lúc rãnh tay ở ngoài rẫy dưa, hay bên cái đìa vừa tát cạn. Thầy Tư cũng sinh sống bằng nghề rẫy. Thầy dùng tiền của mình mua sắm dụng cụ cho trường và mua sách vở, giấy mực giúp đỡ những học sinh nhà nghèo. Sau ba năm thì chánh quyền công nhận trường Sơ cấp An Trụ và bắt đầu trả lương cho thầy giáo với số lương thật thấp của ngạch trật giáo viên xã ấp không có bằng sư phạm. Làng An Trụ có thêm nhiều cư dân mới. Lúc đó trường đã có 3 lớp học chung một phòng do thầy Tư dạy, sĩ số có lúc lên tới trên 20 mỗi lớp. Trường ốc đã đi vào nề nếp trong hệ thống giáo dục của quốc gia.

Nhưng năm đó cũng là năm có hai người sầu khổ vì tình tại làng An Trụ.

 

3.

 

Hôm đó tin dì Út Lan của tôi bị cha chửi mắng rồi cắt trọn cái đầu tóc lan truyền buổi sáng thì buổi tối dì Út tôi trốn nhà đi mất. Cả làng An Trụ bấy giờ chắc chỉ bàn tán chuyện của dì tôi. Những năm năm mươi làng An Trụ vẫn còn quá thủ cựu trong vấn đề tình yêu trai gái. Năm đó dì Út tôi được 20 tuổi. Dì bỏ đi mất biệt. Có người nói họ đã gặp dì làm sư cô tại vùng Núi Bà Đen Tây Ninh. Có người nói dì đã qua Cao Miên. Ông bà ngoại và cả nhà cố tâm tìm kiếm khắp nơi từ nhiều năm vẫn không gặp. Cũng từ hôm đó thầy giáo Tư của tôi như kẻ mất hồn. Thầy buồn như thỏi đất An Trụ cô đơn quạnh quẽ ngàn năm nhoài mình ra dòng sông Bassac. Thầy đã đi nhiều nơi và đã ngồi đợi suốt cuộc đời một tiếng lá xào xạc ngoài ngỏ báo hiệu một bước trở về. Ôi! Chỉ là bóng chim tăm cá!

 

4.Tiếng mõ và tiếng niệm Phật thật nhỏ vẫn phát ra từ căn phòng bên góc trái. Còn những lời thì thầm thì không ai nghe được. Bốn người học trò mang tang phục vẫn đứng hai bên quan tài, yên lặng như bốn pho tượng trắng.

 

5.Sáng hôm sau đám ma thầy giáo Tư đi trong cơn mưa lất phất vừa rớt xuống An Trụ. Mười hai người học trò đi chân đất khiêng quan tài với đoàn người dài đi quanh ấp Thượng, rồi ghé vào ngôi trường tiểu học An Trụ bây giờ là dãy nhà nhiều phòng học khang trang với tường gạch, ngói đỏ. Quan tài đi qua chiếc cổng trường bằng xi măng cốt sắt đã vững vàng có mặt từ nửa thế kỷ qua.

Sư bà Thích Nữ An Trụ gõ mõ đi trước quan tài. Nước mưa hay nước mắt đã làm ướt đôi mắt của một nhà sư./.

 

 

TRẦN BANG THẠCH

TL_GSTRuongSelf.jpg
TL_HarveyEye.jpg
TL_loneHouse.jpg

Nguyễn Cát Đông,

vẫn ngàn năm con quốc gọi hè

Posted: 07/01/2016 in Ngô Nguyên NghiễmTùy Bút / Tản Mạn
Tags: Nguyễn Cát Đông

Ngô Nguyên Nghiễm

TBT nhận được bài viết nầy từ bạn văn Hoàng Thị Tố Lang, chủ biên Trang Nhà lyhuong-rachgia.blogspot.com. Đây là bài viết của Nhà Thơ, Nhà Biên Khảo Văn Học Ngô Nguyên Nghiễm (Sài Gòn) post trên Trang sangtao.org ( nhóm chủ trương: Song Thao, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn, Phan NiTấn, Đặng Đình Nghiêm và Bắc Phong). 


 

 

 

 

 

 

 

 

Nhà thơ Nguyễn Cát Đông

"Nhớ thật nhiều những bước đi xa/ Mẹ đứng dang tay trên hai bờ Bassac/ Nối những dòng kinh với Cửu Long Giang bát ngát/ Nghe ngọt ngào từng vóc phù sa". Văn nghệ sĩ nhất là kẻ làm thơ, hình như trong tâm khảm bao giờ cũng tha thiết mãnh liệt, với những tình cảm rung động trước mọi cảnh tượng vây quanh. Chiêm ngưỡng qua nhiều hồn thơ của bằng hữu, ngoài sự phiêu lãng trước thế sự, bao giờ người thơ cũng thấm đậm trong nguồn cội và nghĩa tình. Thơ bộc phát như một tinh thể kim cương bất hoại, khiến ngôn ngữ kết tinh vượt thoát khỏi sự băng hoại theo thời gian không gian. Thế nhân làm sao không u hoài nỗi nhớ, khi lặng lẽ ngồi bên ngôn ngữ thơ được hóa thân trong cõi tâm thanh khiết bất biến như thế.

Chân dung hồn quê, hình ảnh mẹ già bao giờ cũng thống thiết trong nỗi nhớ, với Lâm Hảo Dũng u hoài bên kỷ vãng:" Mẹ có mắt sầu riêng cao chất ngất/ Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ/ Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt/ Những thằng con đủ cánh để bay xa//.Và dòng sông thương những hàng rơm mục/Những hàng cau buồn chết được lòng con/ Thuở mẹ già biết cau còn kết trái/ Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn/". Tôi cũng từng nghẹn ngào khi đọc bài thơ Còn Không Ngày Về của Lâm Hảo Dũng, Cũng như, hình ảnh chân phương của Mẹ già được Nghiêu Minh khắc khoải trong Mùa Xuân Nào Con sẽ về Thăm Má :" Thương má gian nan may vá tảo tần/ Ba mất, má chưa tròn ba mươi bảy/ Giờ nhớ lại càng thương má vô ngần/Đường có dài, đại dương có rộng/ Trong âm dương con tjhấy ba về/ Hình ảnh má là chùm mây sống/ Bay quanh con vẽ một trời quê/". Nguyễn Cát Đông cũng vậy, như bóng dáng ngựa hồ hí gió bắc, những nghĩa khí của con người luôn thấm đậm trong nguồn cội và dòng máu. Chính vậy, có lúc tôi cảm xúc những tình huống quan hoài như thế, đã đánh động cả tâm cang. Và hiểu rằng, chính sự rung động chân phương của con tim, quả thật đã hóa thân vào hình từ bóng chữ, bằng sự chân thật bật dậy tận đáy lòng, nên đã chất ngất tâm huyết sâu lắng:" Mẹ ngày đêm phạt những đường dao/ Chân đất, đầu trần, quần gai, áo bố/" để rồi "Thương đàn con đứa còn đứa mất/ Mẹ nghẹn ngào giấu giọt châu sa/".

Tôi đi vào thơ Nguyễn Cát Đông từ những thi tập Áo Mây Bay những năm 1971, đến những bài thơ khuynh khoái đậm hồn người, trong những tuyển tập 17 tác giả miền Nam, tuyển thơ 7 nhà thơ trong và ngoài nước. Quà tình, thơ Nguyễn Cát Đông tuyệt diệu khiến chất ngất lòng nhân thế, và thơ Ông dàn trải một bản ngã tâm thông, hóa hiện từ chân tâm giúp ngôn ngữ vượt thoát chữ nghĩa. Vì vậy, thơ Ông có một cõi sống riêng mình.

Những bài thơ khác của nhà thơ nhà văn Nguyễn Cát Đông, mà sau nầy Ông ký tên trên tác phẩm với bút danh mới là Trần Bang Thạch, càng tiệm tiến theo thời gian, càng bộc bạch nhiều về kỷ vãng, quê nhà và bằng hữu. Những sáng tác mới, dù thơ hay văn cũng chất ngất sự phiêu bạt của vầng trăng ly hương, và thấm đẫm nỗi niềm chân chất ban xưa....

Ông ẩn diện trong một tư thái đôn hậu, khiêm cung vì thi ca và giáo nghiệp trôi nổi suốt chiều dài cuộc sống. Vì vậy, thơ đến với Nguyễn Cát Đông như kinh thư của bậc hiền triết và văn chương vẫn là bóng dáng của nho gia đứng giữa chân cầu mà trầm mặc, ghi lại sự trôi nổi của thế sự quanh mình.

Quả thật vậy, những bước đi diệu vợi của Ông trên văn chương, ngày càng sâu lắng và u trầm, vì bao giờ bóng thời gian cũng chập chờn quanh đời sống hiện tại. Tháng giêng, năm 2002 Thư quán bản thảo tập ba, giới thiệu truyện Cũng Vẫn Là Chuyện Buồn của Ông, cũng trải đầy quá khứ chất ngất cõi lòng, làm sao quên lãng cho được :" Làng Thường Đông của chúng tôi là một làng nhỏ nằm trên nhánh sông Cái Răng bắt nguồn từ con sông cái Bassac ngoài Cần Thơ và cách thị trấn Cái Răng chừng một giờ đi bộ. Con đường nằm dài bên dòng sông, nhà cửa vườn tược sầm uất. Có những cái mương ranh cắt ngang lộ với những cây cầu dừa hay cau, trời mưa cầu dính đất, người đi rất dễ bị té xuống mương. Nói rõ như vậy để cụ thể hóa con đường tình bằng đất dài gần ba cây số của tôi thời đó. Chúng tôi lớn lên ở đây, nhởn nhơ như lục bình rau mác trên sông đầy, tươi non như chuối dừa cỏ cây hoa lá, nồng nàn như nước ngọt phù sa....

Đêm trăng. Những đêm trăng tuyệt vời ở quê tôi đã góp phần lớn vào tâm hồn lãng mạn của cậu bé con là tôi thời đó. Những năm năm mươi rất ít người sắm được cái máy hát quay tay, xài kim con gà le coq, nên đêm trăng các thanh niên thiếu nữ hàng xóm hay tụ tập ngồi trên cây cầu xi măng cốt sắt rộng chừng hai xãy tay bắt ngang con rạch Bà Vèn, nghe tiếng hát cải lương từ các đĩa Pathé hay Asia 33 vòng quay, phát ra từ cái loa mắc trên ngọn dừa cao thuộc khu doanh trại của một đại đội Hòa Hảo đồn trú bên kia sông; nghe tiếng được tiếng mất tùy theo chiều gió, nhưng có hề gì, những gái trai nầy họ cần gặp nhau, nhìn nhau là đủ....

Những tập cải lương 50 xu nhỏ bằng bàn tay, những chuyện cổ bằng thơ của tác giả Đoàn Trung Còn , những bộ truyện Tàu của nhà Tín Đức thư xã... chất đầy trên giường tre trong khu nhà canh. Buổi trưa êm ả trong khu vườn tịch mịch mà nghe chị Hạnh nói thơ Vân Tiên thì nhịn đói cả ngày cũng được. Đầu óc tôi và chị Hạnh tấm đẫm những vệt nắng trưa xuyên qua kẻ lá với tiếng ve râm ran bất tận khắp vườn và các điệu ca Vọng cổ, Đão ngũ cung, Thủ phong nguyệt, Xàng xê, Hướng mã hồi thành...xen lẫn với Trần Minh khố chuối, Phạnm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, rồi Càn Long du Giang Nam, Vạn Huê Lầu, Tiết Nhơn Quí, Na Tra, Dương Tiễn, Tôn Ngộ Không, Đường Huyền Trang, Tôn Tẩn...Như vệt nắng loang trong khu vườn khi mặt trời dần dần xuống thấp, chúng tôi lớn lên và vẫn thấy mình gắn bó với nhau như hình với bóng , như tiên nữ với gã tiểu đồng....

....Người ta gọi là chợ Nhà Bàng có lẽ từ khởi thủy nơi đây lá rừng bàng, người địa phương đã đốn những cây bàng để lập chợ.Chợ là vài mươi căn nhà nhỏ mái lợp bằng lá thốt lốt, vách ván tạm bợ. Bây giờ đã xế chiều. Nắng đã dịu bớt. Có tiếng bò rống từ phía đồng cỏ trước chợ. Chợ vắng người. Chỉ có quán bán cà phê là có vài người vừa hút thuốc vừa nói chuyện trên trời dưới đất. Khách bước vào quán kiếm chút gì ăn đỡ dạ. Bên trái quán, người đàn bà Khờ-me ngồi ngủ gục bên gánh hàng bán nước thốt lốt, ruồi bu như đậu đen. Kế đó, ông tàu già ngồi ho sù sụ sau tủ thuốc lá lẻ. Một căn nhà nhỏ ở cuối chợ, mái hiên có treo cờ đỏ sao vàng. Chắc đó là đồn công an. Tại vùng Năm Non Bảy Núi nầy, cái chợ nhỏ vậy mà ở vị trí tốt, gần nhị biên, Khách từ thị xã Châu Đốc, sau khi vượt núi Sam với đền thờ Bà Chúa Xứ chừng năm sáu cây số thì thấy một ngả rẽ. Nếu khách rẽ mặt thì đi về hướng Tịnh Biên, sát ngay biên giới Việt Nam- Campuchia, với những rừng cây thốt lốt làm tiền trường cho dãy núi Dài xanh lam bên kia biên giới. Còn đi thẳng khách sẽ về hướng Nhà Bàng, Chi Lăng, Tri Tôn, Ba Chúc với các núi con Két, núi Trà Sư, núi Tượng, núi Cấm, núi Giài, cũng nằm dọc theo biên giới.Ăn xong tô bún nước lèo, vấn xong điếu thuốc rê, bập bập mồi lửa, rồi khách lên xe lôi đi về phía núi Trà Sư, đối diện với núi con Két. Giữa hai quả núi nầy là con đường đá dẫn tới Chi Lăng, trước 75 là một trung tâm huấn luyện; sau 75 là nhà tù rồi trại lính. Núi con Két là quả núi trọc nằm cách khu chợ Nhà Bàng chừng 2 cây số. Từ lộ xe nhìn chếch lên cao, khách thấy một chõ núi y như hình dạng cái đầu con két với cái mõ thật rõ rang, càng nhìn càng thấy giống. Phía sau cái đầu con két có những phiến đá trông giống như những tiên ông đang ngồi đánh cờ. Lưng chừng quả núi nầy, hướng xe chạy có một cái tháp cao 18 tầng giữ tro cốt những vị sư liễu đạo tại ngọn núi nầy. Xuống xe, khách tìm lối mòn đi lên núi Trà Sư. Quả núi nầy có cây cảnh xanh um, nhiều loại cây trái. Những mái nhà nhỏ rộng chừng bằng chiếc đệm ẩn khuất trong những chòm cây hay vách đá. Có những người cư ngụ hoàn toàn trong hang đá, không có cửa nẻo gì hết, người ta chỉ thấy những cái lu sànhhứng nước mưa để ở bên ngoài hang. Đa phần những người nầy là những nhà tu khổ hạnh. Chung thân diện bích. Người ta đồn rằng họ chỉ uống nước mưa mà sống. Cọp beo chồn khỉ rắn rít tình cờ bước tới cửa hang đều cúi đầu một cái rồi quày quà bỏ đi. Người ta cũng nói hai thời kỳ chiến tranh không có một hòn đạn nào rớt ở đây. Chiến tranh không thể có trên đất Phật. "

Dạo quanh khu vườn đầy hoa trái thơ của văn Nguyễn Cát Đông-Trần Bang Thạch, những dẫn chuyện như trên là những bộc phát tận chân tâm của Ông, bởi không gì quảng đại và thống thiết hơn tự đáy lòng hiền giả, vẫn ngàn năm con quốc gọi hè....

Ngô Nguyên Nghiễm
Thư trang Quang Hạnh
Ngày hướng về Thất Sơn tìm bạn cũ, Quý Tỵ.

Thơ NGUYỄN CÁT ĐÔNG

CÓ MỘT CHỖ ĐỂ VỀ

Đường sá của người

Đâu phải của ta

Sao ta cứ miệt mài đi, về năm tháng

Dù đông lạnh căm

Dù hè cháy nắng

Ta ngựa già nối những dặm xa

 

Gió ở đây cũng là gió của người ta

Đâu phải gió đồng bằng

Đâu phải mưa châu thổ

Nước mặn Đại Tây Dương

Đâu bằng nước ngọt phù sa quạch đỏ

Ta nghe chừng thiếu một hơi quen

Nên mỗi ngày qua

thêm một nỗi buồn riêng
thêm một chút ngậm ngùi cố thổ
ở ở, đi đi ta làm khách trọ
sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên đường

Để mỗi đêm dài điếm cỏ cầu sương
ta mơ làm người Lý Bạch
đê đầu tư cố hương
thấy hồn mình lượn lờ nơi viễn phố

Thấy mẹ lưng còng
trên sân rêu phủ
mắt lệ nhòa từ buổi con đi
ngày ngóng đêm trông từng cánh chim về
nghe sao nặng tháng ngày đứt ruột

Thấy cha một mình
trên dòng kinh nước đục
đêm ba mươi một chiếc xuồng câu
tiếng độc huyền cầm chảy suốt đêm thâu
(cha muốn gởi gì trong hơi đồng sũng nước?)

Thấy mái chùa cong
thấy ngôi trường buổi trước
ta nhìn ta một thuở rong chơi
ta nhìn em tóc bím, môi cười
trao ánh mắt cho ta
mà con tim giữ lại

Và cứ giữ nghe em
những ngày xưa ấy

Giữ giùm ta một góc trời quê
để hồn ta còn có chỗ trở về
khi đất lạ ta mồ xanh cỏ.

Nguyễn Cát Đông
(Trần Bang Thạch)

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chân Dung Nguyễn Cát Đông
(Ảnh tư liệu tác giả)

 

-Tên họ thật: Nguyễn Công Danh, 1942 sanh quán tại Cần Thơ.
-Làm thơ, văn, phóng viên...đăng trên các báo và tạp chí văn học trước 1975, bút hiệu Nguyễn Cát Đông. Từ 1980, tại Hoa Kỳ dùng bút hiệu Trần Bang Thạch.
-Trong nhóm Chủ trương Tạp chí Văn học Tiếng Động (Cần Thơ/ Sài Gòn) 1963-1965
-Tổng Thư Ký tạp chí Chỗ Đứng do Ban đại diện SV ĐHSP/SG chủ trương 1967-1969
-Trong BBT tạp chí VHVN, Houston Texas, từ 1998 đến nay
-Trong nhóm Chủ trương Tạp chí Văn học Thư Quán Bản Thảo từ ngày đầu, tháng 10-2001

-Tác phẩm:

Đường sang đất trích, 1966, kịch thơ, do Nhóm Nhân Văn ĐH Văn Khoa SG in ronéo (Tuyệt bản)
Tuyển Truyện Nguyễn Cát Đông, 1967, tập truyện, do Ban Đại Diện SV/ĐHSP/SG ấn hành, in ronéo. (Tuyệt bản)
Áo Mây Bay, thơ, chung với Huỳnh Phan, 1971, do nhà sách Nam Việt (Châu Đốc) xuất bản (Tuyệt bản)
Tuyển Tập Truyện 18 tác giả Miền Nam Trong & Ngoài Nước, 2003, Thư Ấn Quán xuầt bản.
Bên Trời (Tuyển tập Thơ 14 tác giả miền Nam, 2004, Thư Ấn Quán.
Tuyển Tập Thơ 7 tác giả Trong và Ngoài Nước, 2004, Thư Ấn Quán.
Quẩn Quanh Chuyện Đời, trập truyện, 2006, Thư Ấn Quán.
Truyện trước 1975 in trong Văn Miền Nam, Tập 4, Thư Ấn Quán, 2009.

Từ lúc bắt đầu viết, thường hay viết chuyện của những người yêu nhau; thơ cũng vậy. Những năm gần đây hay viết chuyện về xã hội chung quanh.

Quan niệm sáng tác của mình không nhất thiết phải tùy thuộc vào đọc giả; cần nhứt là dàn trải được ý tưởng của mình. Nếu truyện nào có đọc giả thích thì đó là điều may và thật là hạnh phúc.

Muốn có nhiều thì giờ để viết cho đã. Chắc cũng không còn bao lâu.

ba.JPG.w300h453.jpg
NgoNguyenNghiem_TBT (1).jpg

Nguyễn Cát Đông

 

THẢ KHÓI LÊN TRỜI

- truyện thời chiến -

 

Truyện này đã đăng trên Bách Khoa số 306 ngày 1-10-1969 do nhà văn Trần Hoài Thư sưu tầm và do Thư Ấn Quán in lại trong Tuyển Tập VĂN MIỀN NAM Tập 4 năm 2009.

Cuối truyện tác giả ghi chú: “Viết cho đêm Bảo Việt chào đời 12-7-69”. Bảo Việt nay đã ngoài bốn mươi và mới có con gái đầu lòng 2013.

Nguyễn Cát Đông là bút hiệu ký trước tháng 4-1975. Tại hải ngoại, từ 1980 là Trần Bang Thạch.

 

 

 

Chiếc ghe tam bản của vợ chồng thằng Bé đi ngang qua bến. Thằng Bé buông lơi tay chèo nói với lão Thụ: vợ chồng tui đi nghen. Con vợ thằng Bé đang ngồi vạch vú cho con bú trước mũi ghe cũng nói vói lên bờ: mơi mốt tụi tui dìa thăm, ở lại mạnh giỏi! Chiếc ghe ra khỏi vàm. Lão Thụ vẫn còn đứng trên bến ngó mong theo. Con nước trong rạch vào mùa nầy đục lừ. Mấy dề lục bình theo dòng nước trôi ra khỏi bến. Con chim thằng chài lông xanh mỏ đỏ đập cánh bay lên từ cây bần trụi lá. Buổi chiều trôi bồng bềnh trên từng nhánh cây khô, từng bụi cỏ úa. Lão Thụ thấy sự cô đơn thật sự có mặt trong con rạch này chiều nay. Lão tặc lưỡi mấy cái rồi vén quần ngồi lên băng gỗ trên bến sông.

 

Vợ chồng thằng Bé đã bồng bế nhau đi! Như vậy, lão nghĩ thầm, chỉ có gia đình lão còn ở lại trong làng nầy. Từng gia đình, từng gia đình lần lượt chèo ghe ra khỏi vàm từ hơn tháng nay. Trong nỗi kinh hoàng, người ta đã ra đi. Trong tiếng khóc nghẹn ngào, người ta phải từ giã nơi chôn nhau cắt rún. Trong tâm trạng bơ vơ lạc lõng, người ta phải bỏ làng để bất đắc dĩ nhập vào cái xô bồ bon chen của thành phố. Cho đến bây giờ lão Thụ cũng không hiểu sao gia đình lão chưa hề nghĩ đến chuyện bỏ làng ra đi như hơn năm mươi gia đình khác đã sống những ngày, những đêm trong hầm núp. Bao nhiêu nỗi kinh hoàng vẫn thường trực trùm úp lên mái nhà lá dột nát của lão, đè nặng trái tim già cằn, thoi thóp của vợ chồng lão. Sự khủng khiếp không buông tha con rạch này ngày nào. Những-người-bên-nầy, những-người-bên-kia hầu như lúc nào cũng nhìn con rạch nhỏ bé này bằng đôi mắt cú vọ! Những tiếng khóc thét nửa đêm không làm át tiếng đạn bay vèo vèo. Những giọt nước mắt buổi sớm không dập tắt được những đám cháy từ đầu hôm. Và sự chịu đựng cũng mỏi mòn. Người ta vừa rớt nước mắt vừa bước xuống ghe, ra khỏi vàm. Từng buổi chiều, lão Thụ ngồi trên băng gỗ dưới bến nhìn từng chiếc ghe tam bản xuôi ra chợ. Rất nhiều những khuôn mặt đen đúa, bơ phờ ngước lên nhìn lão Thụ, nhìn cây cau gãy ngọn, nhìn lại chiếc cầu khỉ bắt ngang qua vàm, nhìn ngôi trường sơ cấp đã mấy lần được dùng làm tòa án nhân dân. Lão Thụ cứ ngồi đây tiễn họ đi như vĩnh biệt người thân thuộc. Bây giờ thì không còn ai ra đi nữa để lão Thụ ngó mong mỗi buổi chiều. Đi. Người ta bỏ làng mà đi hết rồi! Bây giờ chỉ còn gia đình lão và nỗi khủng khiếp ở quanh đây!

 

Lão Thụ ngó lên căn nhà. Một ánh lửa đang leo lét cháy. Vợ lão Thụ đang đốt nhang khấn vái ở bàn thông thiên. Căn nhà nhỏ nhoi thêm trong cái tịch mịch của buổi chạng vạng. Hình ảnh vợ lão Thụ nhạt nhòe động đậy sau giàn hoa giấy. Giàn hoa này tới chừng gả con nhỏ chắc đơm bông rồi, ông há, thêm mấy cây đủng đỉnh nữa là xong nhà đãi khách! Lão Thụ nhìn vợ đang thành kính trong những lần lạy. Những cái lạy, những lời cầu nguyện đó rồi sẽ mang đến cho người ta những cái gì? Bao nhiêu bàn thông thiên, bao nhiêu bàn thờ tổ tiên, bao nhiêu mồ mã ông bà đã hương tàn, nhang lạnh từ mấy mươi năm rồi? Lão Thụ thấy sự cô độc mỗi lúc một đè nặng trên thân xác khô cằn lụ khụ của lão. Những ngày chạy loạn năm bốn chín, năm hai, năm ba. Thanh niên tiền phong. Lính bạc-ti-dăng. Quốc Trưởng Bảo Đại muôn năm. Máy bay bà già. Tàu mũi bằng. Rồi được yên thân vài năm hồi thời Ngô Tổng Thống. Bao nhiêu những biến động dập dồn đã chất chồng trên thân xác này biết bao nhọc nhằn, vất vả. Nó làm cho lão đờ đẫn trong tuổi già bóng xế, làm cho lão mất đi hơn nửa kiếp làm người. Nỗi bất hạnh đã chất đầy ứ trong cuộc đời lão. Nỗi nhọc nhằn đã thấm đẫm từng lỗ chân lông. Để bây giờ lão chỉ còn biết mỗi chiều ngồi trên bến sông nhìn con nước phù sa chảy siết dưới lòng rạch.

 

 

 

Tiếng cú rúc từ xa, vừa ỡm ở, vừa đe dọa.

 

-Ông ơi lên ăn ba hột đi, tối rồi. Ngồi dưới hoài hổng chán sao hổng biết nữa!

 

Bà Thụ nói với xuống bến sau khi cắm mấy cây nhang vào cái hộp lon dán giấy hồng đơn nhạt màu.

 

Lão Thụ quăng đuôi thuốc rê xuống lòng rạch rồi đi lên nhà.

 

Mâm cơm đạm bạc với mấy trái cà nướng, mấy chục con cá lòng tong. Bà Thụ bưng nồi cơm từ dưới bếp đem lên.

 

-Con Thắm đâu rồi, không lên ăn một thể?

 

Bà Thụ vừa ngó ra vườn vừa trả lời chồng:

 

-Nó cho heo ăn ở đằng sau á.

 

Rồi bà nói vói ra sau:

 

-Thắm, riết đi. Cơm nước cho rồi mầy.

 

Tiếng con gái vọng từ sau nhà:

 

-Tía má ăn trước đi. Tui lên liền.

 

Bà Thụ bới ra từng chén cơm. Những hột cơm trắng trên hai chiếc đũa bếp loáng thoáng sáng dưới ánh đèn dầu. Gạo mới còn thơm phức mùi rạ. Mấy con heo vừa ăn bập bập trong máng vừa kêu ột ột. Tiếng muỗi vo ve trên vách lá.

 

-Vợ chồng thằng Bé ra chợ rồi, bà hay hông?

 

-Sao hông! Hồi xế tui có gặp vợ nó. Tui cho nó mấy chục trái cà đem ra chợ ăn đỡ. Nó nhờ coi nhà cửa với mấy liếp khoai lang.

 

-Tui thấy vợ con nó sợ quá cũng tội nghiệp, không bàn ra bàn vô làm gì. Ra chợ cũng khó sống lắm chớ bộ, dễ đâu. Lạ cảnh, lạ người, làm sao mà bon chen lại người ta. Lại còn cái nạn pháo kích nữa chớ.

 

-Ôi! Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết, hơi đâu mà lo. Người ta sống được thì mình sống được.

 

-Bà nói dễ như ăn cơm bữa! Thằng Lượm, thằng Tư đi vác lúa nhà máy bị dân chợ đánh phun máu đầu rồi đó! Con Lý, con thằng Xệ hư thân rồi đi Sài Gòn lấy Mỹ nuôi miệng. Thằng Thùng dẩn con vợ đi Sài Gòn sống không kham, trờ dìa rồi. Hôm kia người ta gặp con nó đi bán báo ngoài Cần Thơ, rách rưới lắm.

 

-Ông nói sao chớ tui cũng ngán ở đây lắm. Chừng mấy con heo trọng trọng một chút, lo gả con nhỏ xong mình cũng ra nhà dì năm nó mà ở.

 

Lão Thụ cắn trái ớt hiểm, và miếng cơm. Tự nhiên lão thấy lòng quặn đau trước ý kiến của vợ. Lão không muốn nói thêm lời nào trong lúc nầy. Bà Thụ cũng đã hơn nửa đời người gắn chặt vào nỗi bất hạnh, nỗi kinh hoàng của một thôn quê máu lửa. Bà sống như một cái bóng trong những thét gào của chiến tranh. Bà nhọc nhằn thời làm con gái. Bà đầu tắt mặt tối trong phận vợ hiền. Bà cần cù, chịu đựng, nhẫn nhục nuôi con. Một thằng đã chết vì bịnh rét rừng trong thời chạy loạn năm hai. Một thằng chết cách đây mấy năm vì mìn trên đường đi dạy học bằng xe lam. Người đàn bà nhỏ thó đó hầu như được sanh ra để mà hứng chịu cực nhọc. Suốt ngày bà dầm mình trong mưa, đẫm mình dưới nắng vun quén từng cây cà cây ớt. Mùa cấy bà bì bõm dưới ruộng sâu gieo từng cây mạ non dưới nước phèn. Mùa khô bà bỏng da chưn trên những lổ chưn trâu khô cứng. Bà gặt từng cọng lúa, mót từng hạt thóc rớt trên cánh đồng chang nắng. Bà thường nói với chồng về tương lai con Thắm:

 

-Tui thấy con Thắm ở đây với mình cực khổ mà nguy hiểm quá ông à. Để khi thằng Sang dìa phép thường niên mình gả con nhỏ cho xong.

 

-Bà nói làm vợ lính sướng lắm chắc?

 

-Dẫu sao mình đỡ lo mà con nhỏ cũng yên thân.

 

-Cả năm rồi đó, nó có dìa được để cưới vợ đâu. Không khéo mình lại lo cho thằng đó nữa đa!

 

 Hơn một năm để chờ mấy ngày phép! Hai con heo bây giờ đã quá trăm ký rồi. Con Thắm vẫn nhìn tháng ngày trôi qua trên sắc lông mỗi ngày một mướt trên lưng hai con heo. Nỗi mong đợi cứ kéo dài trên những lá thơ viết nghuệch ngoạc khi thì từ Chương Thiện, khi thì từ Năm Căn, khi thì Đức Lập…

 

Con Thắm từ dưới bếp đi lên nhà trên, hai ống quần đen xăn lên tới gối. Đôi tay nó vuốt mấy sợi tóc lất phất trước trán. Chiếc áo bà ba cũ thấm ướt mồ hôi. Nó ngồi ké bên tấm ván, bưng chén cơm và, trông ngon lành. Hai bàn tay sạm nắng vẫn không mất vẻ dịu dàng. Những ngón tay mũm mĩm sáng lên dưới ánh đèn dầu. Lão Thụ nhìn đứa con gái rồi nhớ tới lá thơ thằng Sang gởi về hôm trước: “…ông xếp con định cho con về hậu cứ tháng tới, không đi đánh giặc nữa, mà chỉ kê cái bàn ngoài góc chợ, mỗi ngày ghi tên tân binh tình nguyện; chừng đó con mướn nhà rước tía má cùng em Thắm ra chợ ở…”. Lão Thụ thấy việc về hậu cứ của thằng Sang chỉ là một sự đổi chác với mấy vết thương ở hai bên đùi và trên cánh tay trái. Lão Thụ và hết phần cơm trong chén rồi buông đũa bước xuống đất. Lão kéo lê đôi guốc vông đi ra ngoài sân. Bà Thụ nói vói theo:

 

-Ông coi trải chiếu dưới hầm đi, một lát rồi làm không kịp!

 

Lão Thụ ừ ừ cho qua rồi đi thẳng ra giàn bông giấy. Trải chiếu dưới hầm! Công việc này lão đã làm bao nhiêu lần rồi lão không sao nhớ hết được. Cứ mỗi chiều tối sau khi ăn cơm xong, lão đốt cây đèn trứng vịt tay cắp chiếc chiếu rách, khom lưng chui xuống hầm, trải chiếc chiếu rồi đưa cây đèn dầu xung quanh hầm xem coi có rắn rít ở trong hầm hay không. Xong, lão đặt cây đèn gần miệng hầm, vặn thấp ngọn đèn rồi chui ra. Chờ đợi. Công việc đó lão làm mà không có một chút chú tâm nào. Thế mà hôm nay tự nhiên lão không muốn diễn lại bao nhiêu động tác quen thuộc này nữa. Lão Thụ đi vào nhà. Lão nhắc ra cái ghế đẩu, đặt ra giữa sân ngồi vấn thuốc hút. Từng vệt khói bay lên trời, khỏa vào mặt. Lão thấy dễ chịu. Còn ai ở đây nữa mà bom đạn tìm đến chớ? Lão Thụ nghĩ thầm, họ đã đi hết cả rồi! Họ lần lượt để lão ở lại sống với những oan hồn của người đã chết trong những lần lửa đạn trước, những lần thủ tiêu trước. Ở đây chỉ còn là tịch mịch hoang vu. Những người bên kia trước đây đã về để vét cơm vét áo, để làm biệt tích vài người trong làng. Bây giờ thì đây là một vùng đất chết, họ còn trở về làm gì nữa cho phí công! Còn những người bên nầy lẽ nào lại chẳng buông tha một vùng đất chết? Lão Thụ rít dài một hơi thuốc. Từng vệt khói bay lên trời, quấn quit trong gió chiều. Lão nhìn mấy thân cau gãy ngọn in rõ trên nền trời. Bầu trời không một ánh sao. Dầu vậy lão cũng có thể nhắm mắt hình dung những vết tích trên từng cây cau trước cửa và từng bụi chuối sau hè. Lão cũng có thể, trong đêm đen, thấy được những hố bom thật sâu ở ngoài vàm, cạnh ngôi trường sơ cấp. Lão cũng không quên mấy ngôi mộ mới đắp của gia đình thầy giáo Ba gần ụ cá vồ bên vệ đường. Mấy ngôi mộ của một gia đình đã bao đời tận tụy với xóm làng chắc đang lạnh dưới sương đêm. Vài ngày nữa đây ai sẽ trở về để cúng trăm ngày cho họ? Lão Thụ thấy bùi ngùi trong dạ. Lão ném tàn thuốc xuống chân, di cho tắt hẳn rồi đứng dậy xách ghế đi vào nhà.

 

Bây giờ là đêm. Đêm trải dài. Đêm thâm u. Đêm bí ẩn. Đêm vô tâm trên từng chồi cây ngọn cỏ. Đêm lạnh ngắt dưới con rạch nước đục lừ. Đêm quạnh hiu trong những căn nhà lá trống không. Bỗng chốc đêm sáng hực lên. Đêm bùng nổ. Đêm bắt đầu xòe cánh, vươn nanh. Đêm ác quỷ. Đêm của nỗi kinh hoàng chết điếng. Những loạt đạn lớn nhỏ, những chùm hỏa châu ở lưng chừng trời đã cho đêm hồng hoang âm thanh để thét gào, để thảm sát; cho ánh sáng để đêm nhìn rõ móng vuốt của mình đang càn lướt trên muôn vật, để nhìn rõ cơn địa chấn đang bùng bùng xô đẩy dưới vết chân. Và đêm phải được thắp sáng để đêm nhìn rõ ba trái tim đang thoi thóp trong một mái nhà lá nhỏ, phía trước có một bàn thông thiên với mấy cây nhang chưa tàn và một giàn hoa giấy. Khói của nhang đang bay vút lên trời. Lời nguyện cầu nào đang cùng bay lên với khói trong giây phút tử sinh nầy?

 

-Tui thấy ở trong nhà không yên rồi đó bà. Mình nên chạy ra cái hầm sau vườn chắc ăn hơn.

 

-Sáng quá đâu dám chạy ra ngoãi, tía.

 

-Hai con heo mầy cột đâu hả Thắm?

 

-Thì ở chỗ mọi khi má cột đó!

 

-Ừ! Được

 

-Coi bộ có mùi khói khét lẹt rồi bà. Ra sau vườn đi!

 

-Tao tức quá. Hồi chiều kêu mầy hái cho xong mấy liếp cà, mầy cũng hổng hái. Bây giờ chắc tiêu hết rồi!

 

-Sao bà cứ lo chuyện bao đồng. Có nín đi hông!

 

…………………………………………………………

 

-Có nhiều tiếng nổ quá bà ơi.

 

-Chắc có rớt quanh nhà mình rồi ông ơi.

 

-Tui thấy cái hầm như quay tròn, tía à.

 

-Sao lỗ tai tui lùng bùng quá, nhức đầu nữa, ông à.

 

-Thì tui biểu ra ngoài sau chắc hơn.

 

-Hổng xong đâu, tía ơi, sáng lắm, nó thấy mình chạy ra là chết hết.

 

…………………………………………….

 

-Tui ngộp thở quá má ơi tía ơi!

 

-Để tao ra miệng hầm coi bớt sáng chưa.

 

-Khéo đa ông!

 

…………………………………………………..

 

Ba bóng người rời khỏi hầm, khom người chạy ra hầm núp ngoài sau vườn.

 

Đêm bây giờ đang bốc lửa. Những lưỡi lửa đã thiêu rụi mấy cái nhà bên kia con rạch. Hơn một giờ qua đêm, thần chết đã để rơi rớt bao nhiêu trái nổ trên vùng đất chết này rồi. Những cây cau gãy ngọn bay đi đâu mất. Giàn hoa giấy cạnh bàn thông thiên cháy nám. Mấy cây nhang trên bàn thông thiên đã nhả khói lên trời. Có còn gì không sau cơn đại hồng thủy? Có không một ông Noé với con thuyền cứu rỗi trên lượn ba đào?

 

-Ông ơi sao hai con heo la quá kìa?

 

-Chắc nó sợ súng chớ gì.

 

-Hồi nào tới giờ nó có biết sợ đâu?

 

-Thì bữa nay bắn nhiều, nó sợ.

 

-Ông cứ nói cho qua lề! Tui chắc mấy con heo bị đạn rồi.

 

-Thì kệ nó chớ biết sao bây giờ đây?!

 

Trong thoáng chốc bà lão thấy lờ mờ trước mặt mình hai con heo to béo mà mẹ con bà đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt nuôi nấng từ hơn năm nay. Đồng thời bà cũng thấy những cây đủng đỉnh kết hoa kết lá dựng trước sân, bên cạnh giàn hoa giấy đang trổ bông hồng nhạt trong ngày gả con sắp tới. Mắt bà thấy đứa con gái mặc áo mới về nhà chồng. Mũi bà ngửi thấy mùi ba xi đế nồng nặc thoát ra từ nhà tiệc, họ hàng bà con lối xóm đang vui như ngày được mùa. Rồi những tiếng kêu khản cổ của mấy con heo hòa lẫn với trăm ngàn tiếng nổ kinh hồn. Bà lão thấy choáng váng. Trước mắt bà, hai con heo của bà lăn ra, dãy đành đạch, miệng hộc ra từng ngụm máu tươi nóng bỏng. Bà lão còn thấy hình như có cả một đàn quạ từ trên cao đáp xuống. Trăm con, ngàn con, triệu triệu con quạ đang bay lên, đáp xuống hai đống thịt bầy nhầy, ứ máu. Rồi những cọng lông mướt mượt mà bà hằng ngày ve vuốt, tắm rửa; những miếng thịt thơm mùi tấm cám lần lượt bị hằng triệu con quạ đen cắn trên mỏ, kẹp dưới đôi chân đem đi mất. Bà hoa cả mắt, ù cả tai. Bà chới với trong cơn mê nặng chịch. Hai con heo dành cho tiệc cưới! Bất thần bà lão chui ra khỏi hầm. Có tiếng gọi thất thanh của hai người còn lại trong hầm.

 

Ánh hỏa châu bây giờ thật sáng. Tiếng động cơ và tiếng nổ thật gần, thật chát tai.Tưởng chừng như đất đang đổ lở, cây cối đang bung gốc rễ. Thật là một cơn địa chấn khủng khiếp!

 

Bỗng thêm một bóng người chạy ra khỏi hầm. Mái tóc dài phơi phới, đậm nét dưới ánh hỏa châu. Một vài tiếng thét ở đâu đó vang lên, rồi im phắc.

 

Đêm gầm gừ. Đêm xếp cánh. Đêm đi

 

xXx

 

Trời chưa sáng hẳn thì những chiếc xe bọc sắt đã có mặt trong làng. Những nòng súng đen ngòm trên từng chiếc xe lấm đầy bùn đất. Mấy người xạ thủ ngồi nhìn bâng quơ, những dây đạn đại liên để trước mặt họ như món đồ trang sức. Trên cây cầu khỉ đầu vàm, năm sáu người lính vừa đi vừa hát. Anh là lính chung tình gió sương đâu ngại chúng mình. Một tốp lính khác ngồi trên thân cây dừa gãy, lỗ chỗ vết đạn, lắng nghe tiếng ca Thành Được rối bời từ chiếc máy phát thanh nhỏ  xíu. Một người lính nhịp nhịp khẩu M16 vào cái nón sắt lật úp. Viên chuẫn úy trẻ lấy máy ảnh chụp cây cột đang cháy dở, nghun ngút khói đứng chơ vơ trên nền nhà đổ nát, phía trước sân có bàn thông thiên ngã đổ và giàn hoa giấy trơ trui. Nước cạn sát lòng rạch. Những thân cây bần lả ngọn, lá rụng trên bãi sình non. Mấy con chim thằng chài không buồn đến ăn những bông bần tím ngon ngọt. Bánh xe bọc sắt làm rạp những ụ cỏ cao quá đầu người. Phía sau căn nhà đổ nát, mấy trái cà tím rụng vãi dưới đất. Một người lính vừa lượm cà bỏ vào hai túi trây di vừa nói: Trời cho mình ăn cái này đây, trung sĩ, hí hí hí! Anh ta cười đưa hàm răng trắng hếu. Viên trung sĩ ngồi trên bực đất, phía sau máy truyền tin, nói: Trời cho cái con bú dù! Chủ nhà họ trồng đó con! Ở đây đâu có người ở, trung sĩ? Con tưỏng ở đây là địa phủ sao chhớ! Viên trung sĩ nói xong bèn đứng dậy vạch quần đái lên một khúc gỗ còn cháy.

 

Trời sáng dần. Đoàn quân được lịnh dừng lại đây cho đến trưa. Họ phân nhau bố phòng. Những người không nhiệm vụ trải pông sô dưới mấy gốc dừa nằm ngủ, nghe vọng cổ hay nói chuyện tiếu lâm ngày xưa có ông trạng Quỳnh đá bèo trên ao. Mọi người cười ngất ngất.

 

Bỗng một lịnh báo động làm giựt mình mọi người. Tất cả hướng về bụi lùng rậm rạp. Từ bụi lùng đó, Lão khập khiễng bước ra. Thân hình lão chỉ còn độc một cái quần đùi rách bươm, hở hang và một cái khăn ăn trầu vắt ngang vai. Đoàn quân nhìn lão ngạc nhiên. Đây là vùng đất chết mà! Phải chăng họ đang sống trở lại thời hoang sơ với con người tiền sử đang đứng trước mặt họ? Lão lẳng lặng bước ra khỏi bụi rậm, dáng đi thất thểu, miệng như hé cười. Chốc chốc lão đưa khăn lau dãi chảy tràn ra hai bên mép miệng. Đôi môi lão khô nứt. Lão bước đi như bộ xương khô đang di động. Mấy cái xương sườn như bật hẳn ra khỏi lớp da nhăn nheo cáu ghét. Mọi người đổ dồn về phía lão. Lão cứ chệnh choạng bước và cứ mĩm cười. hai bên mép dãi chảy lòng thòng như hai dòng sữa loãng. Lão đi về hướng bờ rạch. Viên chuẩn úy trẻ đến bên lão, nói:

 

-Ông là người từ đâu đến đây?

 

Lão vẫn bước những bước đi đờ đẫn, gương mặt nhăn nheo, đôi môi khô như luôn mĩm cười, đôi tay quờ quạng trong không khí, đôi mắt như đang kiếm tìm một vật gì ở cõi vô biên. Viên chuẩn úy đến phía trước mặt lão, nắm đôi vai lão dừng lại. Lão chới với đứng lại, hơi nghiêng về phía viên chuẩn úy. Đôi môi khô hơi mĩm cười.

 

-Ông có nghe tôi hỏi không? Ông là ai? Lão nheo nheo đôi mắt đục ngầu, đôi đồng tử mất hút trong sâu. Lão kéo khăn đội lên đầu rồi đưa bàn tay khẳng khiu quẹt dãi. Môi luôn mĩm cười.

 

-Ông trả lời cho chúng tôi đi! Sao đến bây giờ ông còn ở đây? Ông có biết đây là vùng oanh kích tự do không?

 

Một người lính khác chen vào: Chắc ông lão này câm chuẩn úy à.

 

Họ đỡ lão ngồi xuống đống gạch vụn của chiếc bàn thông thiên đổ, bên cạnh giàn hoa giấy trơ xương. Lão ngồi chống đôi tay như cây que trên gối, đôi mắt đờ đẫn nhìn đâu đâu. Thỉnh thoảng lão gục gặc đầu mỉm cười một mình. Mấy người lính đứng bên thích chí cười theo. Viên chuẩn úy nói: anh em đừng làm ồn, để ông già định thần rồi mình sẽ hỏi chuyện sau. Một anh hạ sĩ đốt điếu bát tô quân tiếp vụ đưa cho lão. Lão nhận lấy điếu thuốc hút ngon lành. Lão ngửa mặt lên trời, cong đôi môi khô, từ từ nhả khói. Những cuộn khói xám bay lên trời. Không biết nghĩ gì mà bỗng nhiên lão cười sặc sụa, cười cong cả người, cười tím cả môi, cười xanh cả mặt, cười ra nước mắt. Cười như con nít được quà.

 

Nguyễn Cát Đông

(Đại Học Xá Minh Mạng. Viết cho đêm Bảo-Việt chào đời 12-7-69)

_______________________________________________

XUÂN SỚM

- Chút quà văn chương gởi anh VTT & nhóm thiện nguyện Cái Răng nhân dịp Xuân về

 

 

    Bà Phước bóp nhẹ mấy ngón tay xương xẩu của chồng rồi cùng con trai bước ra khỏi phòng. Người nữ y tá cũng bước ra theo, sau khi chúc ông Phước ngủ ngon. Ông Phước còn lại một mình trong phòng. Hai chiếc giường kia đã bỏ trống từ hồi trưa. Một người được xuất viện, người kia trở bịnh nặng, phải đưa về khu cấp cứu; không biết có còn trở lại đây nữa không, hay được đưa thẳng xuống nhà xác, như ông Mễ nằm giường ấy cách đây hai tuần. Ba tuần trước, ông Phước từ phòng cấp cứu được chuyển vào phòng này. Coi như bịnh trạng của ông đã qua thời kỳ nguy hiểm. Bây giờ là thời gian điều trị. Ống chân trái của ông Phước bị gãy, các lóng xương bể đã được sắp xếp lại và nẹp bằng một thanh bạch kim. Bác sĩ nói tuần tới chân ông sẽ được bó bột. Nhưng việc xuất viện thì chưa biết, vì có dấu hiệu xuất huyết đường ruột nên vài thử nghiệm phải tiến hành song song với việc chữa trị vết thương chân.

    Từ ngày ông rời nước, đến thành phố này vào năm 1994 đây là lần đầu tiên ông Phước vào nằm bịnh viện vì một tai nạn, có thể gọi đó là tai nạn nghề nghiệp. Số là sáng sớm hôm ấy, như thường lệ, ông Phước đẩy cái xe thùng tự chế của ông đến khu công viên gần nhà, rồi đến khu thương mại sầm uất nằm trên ngả tư trục lộ giao thông. Hơn mười lăm năm rồi, chỉ trừ khi mưa giông hay khi đau yếu, hiếm khi ông Phước bỏ sót một ngày đẩy xe trên các con đường này. Ông đi  vừa là một cách tập thể dục, vừa là dịp để ông thu lượm những lon nhôm bên đường, tại khu công viên, hay từ các bao rác tại các cơ sở thương mại. Ông Phước rất cẩn thận mỗi khi băng qua đường. Hôm ấy nhiều sương mù, khi đến ngả tư, tuổi già mắt kém, nhìn gà hóa cuốc, ông Phước nhìn đèn xanh tưởng là đèn đỏ, liền đẩy xe tay tự chế xuống lộ qua đường bên kia. Khi thấy chiếc xe đen thui trờ tới thì mắt ông đã tối sầm. Ông Phước được đưa vào bịnh viện ngay sau đó. Bác sĩ cho biết ống chân trái của ông bị gãy, nhưng không quá trầm trọng.

    Đúng là một phút xui xẻo, may mà không mất mạng. Bao nhiêu năm nay ông đã biết bao lần đi trên lộ trình đó. Lộ trình nằm trong khu nhà ở nên xe cộ lưu thông rất chừng mực. Từ nhà đi hơn nửa dặm đường thì tới công viên. Từ công viên đi thêm độ một dặm đường nữa là tới khu thương mại. Đoạn đường dài vừa đủ cho một người già đi bộ thể thao mỗi ngày. Khu công viên khá rộng lớn tọa lạc giữa trường tiểu học và các sân bóng rổ, sân quần vợt. Rải rác trong công viên có những nhà bát giác và những lò nướng lộ thiên, rất tiện lợi cho các buổi picnic cuối tuần. Vào các ngày thường cũng có nhiều người tụ tập buổi chiều và buổi tối, già cả bé lớn đều có đủ. Họ đi bộ, chơi thể thao, hẹn hò, gặp gỡ, ăn uống, chuyện trò...Cho nên khu công viên là địa điểm cung cấp cho ông Phước nhiều lon nhôm nhứt; nhiều hôm lượm đầy một bao, ông Phước phải bỏ lên xe tay, đẩy về nhà rồi trở lại tiếp tục. Còn tại khu thương mại thì từ hai năm nay công việc thu nhặt lon nhanh và gọn hơn trước sau khi ông trình bày ý nghĩa của việc ông làm với các chủ nhân. Họ hiểu và rất thông cảm nên mỗi cơ sở cho ông Phước để một cái thùng loại đựng rác, bên trong lót sẵn những bao ny-lông. Mỗi thùng đều có đề chữ “Aluminium Cans Only” hẳn hòi. Mỗi sáng sớm ông Phước chỉ gom các bao lon ấy chất lên xe đẩy. Trước kia thì ông Phước phải vất vả bươi tìm lon trong một cái thùng rác công cộng to, cao và, dĩ nhiên, rất dơ bẩn; nhiều khi ông phải đứng hẳn vào trong thùng rác mới kiếm được nhiều lon nhôm. Mấy tuần nằm trong bịnh viện, bao nhiêu công việc bị trễ nải hết. Lon liếc, bao bị đang chờ ông. Chân ông đau không bằng ngọn lửa đốt trong lồng ngực ông. Ông Phước không biết chân ông rồi sẽ ra sao? Và các dự  định của ông? Ông Phước có ý muốn là sẽ mở thêm phạm vi hoạt động tới các vùng xa hơn. Ông cũng sẽ thực hiện đúng kế hoạch mà ông gọi là Kế hoạch Diều hâu, theo đó thì ông để sẵn tại mỗi tiệm, mỗi văn phòng dịch vụ một thùng chứa lon, mỗi ngày ông ghé qua xớt gọn nguyên bọc, như diều hâu xớt mồi. Nhanh và gọn. Chừng đó thì cái xe thùng nhỏ của ông sẽ chỉ được sử dụng cho những nơi gần nhà. Như vậy càng tốt. Ông sẽ dùng cái xe truck để đi các tuyến đường xa.  Nhiều lon thì nhiều tiền hơn. Ông Phước nghĩ tới cả một vùng Tây Bắc là vùng ông đang ở, rồi lan sang vùng Tây Nam là địa bàn thương mại của người Á Châu, là nơi họ sẽ dễ dàng thông cảm và giúp đỡ ông. Nếu tiện thì ông xoay qua vùng Đông Bắc là nơi bạn ông có mấy nhà hàng và cây xăng, tha hồ mà gom lon. Rồi tại Hội Chợ Tết Việt Nam sắp tới, hội chợ Tết tại các chùa, các nhà thờ…ông Phước sẽ đặt sẵn những cái thùng để đồng bào đi du xuân bỏ những lon không vào. Cả chục ngàn người thì biết bao nhiêu là lon. Những bạn bè của ông nơi quê nhà sẽ có thêm chút tiền mua bánh trái, kẹo mứt cúng kiến ông bà, các cháu nhỏ có bộ quần áo mới. Tết nhứt sắp tới rồi mà chân cẳng thì như vầy, thiệt là họa vô đơn chí.

        

    Nghĩ xa rồi ông Phước không khỏi nghĩ gần. Cái gần chính là cái gia đình gồm vợ con ông. Họ ở bên cạnh ông mà ý nghĩ của họ và ý nghĩ của ông xa nhau hàng ngàn dặm. Thật sự thì ông Phước đã thấy việc này từ ngày ông còn ở Việt Nam. Ông nhớ hồi năm 1984 khi ở tù về, ông được vợ bảo lãnh theo diện đoàn tụ. Lúc đó cha mẹ ông già yếu, ông là con một, nên ông Phước không chịu đi. Đến khi có vấn đề HO, ông Phước cũng chưa chịu đi vì cha ông vừa mất, mẹ thì già yếu thêm. Do vậy vợ con ông trách ông rất nhiều, cho rằng ông không nghĩ gì đến họ. Không chừng họ còn nghi ông có bồ nhí ở quê nhà! Từ đó thỉnh thoảng vợ ông gởi tiền cho ông mà không có một thư từ nào, không có cả thư của các con. Ông bắt đầu biết mọi người đã không hiểu nhau rồi. Khi đến Mỹ ở chung với vợ con, sự cách biệt càng rõ, từ cách sống cho đến cách nghĩ. Vợ ông thay đổi nhiều quá. Các con cũng vậy. Anh em nói tiếng Mỹ cả ngày với nhau làm ông nhức đầu. Càng chán ngán tình cảnh của gia đình mình, ông Phước càng nghĩ nhiều đến những người bạn đồng cam cộng khổ của ông ở quê nhà. Tài chánh eo hẹp với đồng lương quá thấp, ông Phước phải tìm phương cách khác để giúp họ. Ông nghĩ tới việc đi lượm lon nhôm. Ông Phước không quên những ngày đầu của công việc này. Thật sự thì thời gian đầu rất là êm thắm. Ông bắt đầu công việc ngay tại gia đình ông. Ông Phước cũng muốn nhân cơ hội lượm lon giúp người nghèo để cho các con cháu ông biết về lòng thương người và biết quí trọng đồng tiền. Muốn dạy cho con cháu bài học vở lòng về đạo làm người. Nhà ông con cháu đông lại hay uống nước ngọt, vợ chồng thằng con lớn thì hay uống bia, cuối tuần thì hay có tiệc tùng,  nên lon bia, lon nước ngọt cũng nhiều, bỏ đi thì uổng, mỗi pound lúc đó giá là 42 xu. Mỗi tháng ông Phước có trên 20 pounds lon không tại chính nơi ông ở, trị giá cả chục đồng. Riêng tại chỗ làm của ông là một tiệm giặt lớn, có để máy nước ngọt, ông chỉ lượm lon không bỏ vào bao đựng rác. Cứ mỗi cuối tuần  ông đem về nhà một bao  đầy, nặng ba, bốn chục pounds. Đầu tiên ông Phước chứa những lon trong thùng rác, để phía sau vách nhà; rồi đợi khi rảnh, ông Phước cùng hai đứa cháu nội đạp dẹp mỗi lon cho bớt cồng kềnh. Đầu tiên hai cháu chỉ làm lấy vui; sau nghe ông nội nhét vào đầu mỗi ngày một vài chữ, chúng nó hiểu công việc ông cháu đang làm là một loại charity. Rồi ông cháu hì hục mang ra xe đem đi bán. Hai đứa cháu nội trên mười tuổi có vẻ thuộc bài học mà ông muốn dạy. Những người khác thì chưa. Một hai tháng đầu thì trong nhà chẳng ai để ý hay phàn nàn gì về việc làm của ông Phước. Đến tháng thứ ba thì những con kiến, đặc biệt là những con gián từ đống lon làm cả nhà chú ý. Trước hết là vợ ông rồi tới con trai, con gái, rồi con dâu. Bà Phước vượt biên sang Mỹ từ năm 79 với 3 con, thằng lớn lúc đó mới 14 tuổi; thằng Út sanh ra năm 75, khi ông mới vào tù  vài tháng. Bà Phước làm công chức cho City hơn ba chục năm nay. Bà có cái nhìn khác ông về nhiều vấn đề. Chỉ một con gián trước mắt bà đã là chuyện lớn rồi. Ba đứa con thì lúc nào cũng cùng chiến tuyến với mẹ. Con dâu người Tô Cách Lan thì sợ gián hơn sợ ma. Tình trạng này thì thật nguy. Vợ con ông mà không cho ông để lon ở nhà thì không biết ông phải làm sao. Trước mắt là ông Phước cấp tốc dời địa điểm. Ông chuyển tất cả lon ra cái góc sân sau, sát hàng rào, rồi che kín mít bằng mấy tấm vỉ thiếc. Hy vọng không ai thấy; nhứt là không thấy những con gián. Khi đống lon nhiều đủ cho một chuyến truck thì ông đem đi bán. Việc làm ăn của ông Phước coi mòi trôi chảy. Nhưng có một lần ông tưởng rằng kế hoạch của ông bị ngưng. Chuyện xảy ra hồi hè năm trước. Đó là một hôm vợ ông làm sinh nhựt cho cô con gái bằng bữa BBQ ngoài sân sau. Mẹ con bàn tính với nhau, ông Phước không biết chi tiết. Bạn bè của vợ ông, bạn bè của các con, có cả người tình của con gái và của cậu út tham dự. Tất cả trên năm chục người, đầy cả sân sau. Chuyện rắc rối bắt đầu khi tấm vỉ thiếc bị ai đó làm ngã xuống, bày ra một đống lon nhôm, cộng với hàng ngàn con gián to bằng ngón tay, mập ú, láng coóng.  Nghe được mùi thịt nướng, các chú gián càng linh động, bò lổn ngổn khắp sân như những con ma đói. Mạnh ai nấy la làng. Mạnh ai nấy nhảy cà tưng. Thịt thà trà rượu văng tứ tung. Tiệc thịt nướng Tếch-xịt mà phải dời vào trong nhà, thành indoor Bar-B-Q, thì... 12 con giáp chẳng giống con giáp nào. Mặt mày ai nấy đều dài thoòng, nhăn nhó như cái bánh bao chiều, nhứt là phu nhân và các quí tử của ông Phước. Đâu có ai ngờ được là phía sau căn nhà rộng, hai từng, trướng gấm màn nhung, mặt trước hoa kiểng ngay lối thẳng hàng, trong nhà ghế bành, tràng kỷ, đàn piano lung tung... mà phía sau nhà chứa hộp lon để bán! Ai đời nhà của một bà phụ tá trưởng phòng mãi dịch thành phố, nhà của một kỹ sư trưởng công ty điện lực, nhà của cô ba dược sĩ vv... mà chứa cả đống hộp lon dơ dáy trị gía vài xu một cái! Tình cảnh y như cô đào thương sau khi diễn tuồng gột rửa hết mấy lớp phấn son. Thôi thì hôm ấy Mỹ tây, Mỹ ta đều có một big surprised party! Và dĩ nhiên là ông Phước đâu tránh khỏi một big, big problem! Cái mà ông thấy rõ trước hết là cô con gái cưng của ông chạy vào phòng ngủ, đóng kín cửa, chắc là để khóc cho đã vì xấu hổ với người tình đang hành nghề thầy thuốc. Cậu út thì cũng chẳng khác gì cô chị, bạn gái nó cứ đập cửa, kêu ho-ni ơi,  ho-ni à hoài mà nó không mở, chắc để giấu cái cục quê to bằng cái nhà nó đang ở. Vợ ông, con trai lớn, con dâu... chắc cũng có cùng tâm trạng như vậy. Họ cũng cố nói nói, cười cười mà cái cười như mếu. Cũng phải thôi, họ không hiểu một tí gì về ý nghĩa việc làm của ông thì họ xấu hổ trước bàng dân thiên hạ là phải. Còn ông Phước ư? Lúc khách khứa nhảy cà tưng cà tang giữa sân cỏ, lúc vợ con ông tóc tai dựng ngược, muốn chôn sống mấy con gián qủi sứ và một đống lon nham nhở, thì ông Phước đang ung dung đứng sau cửa sổ trên lầu, vén màn nhìn xuống. Ông muốn làm nhà hùng biện nói trước công chúng. Ông sẽ dõng dạc, hùng hồn mà dang tay nói rằng: Các người đang thấy những con gián bò đi tìm mồi dưới chân các người. Vài người bạn của tôi nơi quê nhà hiện giờ cũng như con dế, con giun đang vất vả đi tìm miếng sống. Tôi hãnh diện làm cái việc lượm hộp lon này. Các người cứ thảy ra đi, tôi lượm hết. Tiền của các người vứt bỏ, tôi lượm về, rồi thân ái gởi cho bạn tôi, có gì là xấu hổ! Các người đâu có biết một pound thịt bò để nướng ngày hôm nay ở đây đủ cho bạn tôi mua gạo ăn 2 tháng. Cả mấy chục pounds thịt bò và rượu, và bia...hôm nay có giá trị tương đương với cả ngàn ngày bạn tôi bò lê trên vĩa hè bằng hai đầu gối, giữa nắng trưa, giữa mưa dầm, giữa bụi bặm, bán từng tấm vé số. Nghĩ như vậy cho vui vậy thôi chớ ông Phước dư biết mỗi người có số, các người dưới kia có số tốt thì cứ tận hưởng cái số tốt của mình, cũng không sao, không chết thằng tây nào. Không nói thì ai cũng biết là sau hôm đó ông Phước bị vợ, rồi các con hành hạ tơi bời. Để giữ hòa khí trong gia đình, lần này ông cố giải thích, ông nói cho mọi người biết hoàn cảnh của từng người mà ông giúp đỡ. Tình hình tạm yên, tuy rằng còn có những chống đối ngầm. Họ có vẻ chống đối vì họ không hiểu hết mục đích lượm lon của ông; hay họ biết mà không thể hiểu nỗi. Sống tại nước Mỹ này mà có người kỳ cục, ở nhà lầu, vợ con thành danh, thành đạt...mà nhịn ăn, nhịn mặc, lượm từng cái lon dơ mà không biết xấu hổ. Chuyên cần lượm lon để bán lấy tiền đem cho người khác ở tận đâu đâu! Thiệt hết chỗ nói! Các dâu và con không hiểu đã đành, vợ ông mà không hiểu thì đáng buồn và thêm rắc rối. Cái rắc rối là bà thường xuyên ngăn cản việc làm của ông, còn chê ông làm cái nghề hạ tiện, làm mất mặt mẹ con bà. Quả thật là vợ ông đã quên hết cái khổ của chính bà trong những năm sau 75, quên cái khổ của bao nhiêu người thân quen khác. Ông Phước nói với vợ rằng ông sang Mỹ nhưng những người lính thuộc cấp ngày trước của ông, những bạn bè đã cùng chiến đấu với ông không có điều kiện để đi, họ đang sống trong nghèo nàn, đói khát, bịnh tật. Ông nhắc tới hạ sĩ Cang, người lính truyền tin của ông ở trung đoàn 31, cụt cả hai chân, đang bán vé số tại bến bắc Cần Thơ; binh nhì Nam, người đã cỗng ông cả cây số khi ông bị thương ở trận Tầm Vu, đang nằm một chỗ vì chứng tai biến mạch máu não, vợ con bữa no bữa đói. Hôm ấy mà Nam chạy bỏ ông thì ông chỉ nằm chờ chết. Rồi những An, những Thiện, Đồng...đã một thời sống chết với ông, đang cần sự giúp đỡ, dù ít dù nhiều. Ông Phước là người đến Mỹ muộn màng, sau khi mẹ ông qua đời, nên ông thông hiểu từng hoàn cảnh của những người lính cũ của ông. Sang được bên này, ông muốn tự mình làm ra đồng tiền gởi về cứu giúp họ. Mỗi người vài chục đồng mỗi tháng để họ vui mà ông cũng vui. Mỗi lần lượm những chiếc lon rỗng mà ông Phước thấy lòng mình thêm đầy. Đầy niềm vui. Lúc còn ở quê nhà, nhận tiền gởi về từ vợ con, ông Phước đã ân cần chia sẻ với họ. Cái gọi là tình chiến hữu của ông đơn giản là như vậy, không đao to búa lớn gì hết. Ông biết khi tuổi già sức yếu, ông sẽ không giúp họ được nhiều, nhưng còn hơi thở là ông biết rằng ông chưa bỏ cuộc.

    Điều trước mắt là ông Phước sẽ không bỏ cuộc trong việc vận động vợ con ông tham gia cùng với ông. Ông Phước biết trước đó là một việc vô cùng khó khăn. Cái “lì” trong công việc của ông từ mười mấy năm nay cũng là một cách để khẳng định rằng ông đã suy nghĩ đúng và làm đúng. Tốt hơn hết là họ nên xét lại lối suy nghĩ của mình. Hai đứa cháu nội chỉ hơn mười tuổi mà đã biết giúp ông nội, biết cầm đồng tiền khó khăn kiếm được từ những lon nhôm, cùng với ông đem gởi về quê nội. Thỉnh thoảng, làm như là tình cờ, ông Phước cho vợ xem mấy bức thư hay những tấm ảnh của những người nhận tiền của ông hàng tháng tại quê nhà. Đại để những dòng thư như: “ ...nhờ món tiền của ông thầy gởi về kịp lúc mà má em được chữa trị kịp thời, nếu không thì...” hay: “...số tiền của ông thầy gởi về lần này em dùng hết để bốc mộ vợ em, đưa nó về nằm gần với ông bà cha mẹ, chờ em xuống nằm chung với nó cho đỡ lạnh chưn”…. Đặc biệt là có một thư rất vui: “ Ông thầy biết hông, thằng con lớn của em vừa mới ra kỹ sư. Đó là nhờ bốn năm nay ông thầy cho nó tiền đóng học phí. Từ đây thằng anh sẽ lo cho mấy đứa em”. Còn những bức hình thì có thể làm bà Phước xúc động: hình chụp hạ sĩ Cang bò trườn trên bến bắc, cố mời một ông khách mua vé số; hay hình trung sĩ Lộc có đôi mắt trũng sâu như hai cái hố thẳm, quần áo, mủ nón, tay chân rách nát, chỉ có cây gậy trên tay là còn nguyên hình dáng. Bà Phước biết Cang và Lộc từ khi hai người lính này phục vụ trong đại đội của ông Phước. Cứ như vậy mà ông Phước thi hành chiến thuật tầm ăn dâu, thỉnh thoảng cho vợ đọc những bức thư hay xem vài tấm ảnh, hay những khi vợ chồng vui chuyện, ông Phước nói về người này, người nọ nhờ món tiền của ông gởi về mà giải quyết được bao nhiêu vấn đề khó khăn. Nhứt là những món tiền gởi vào dịp Tết tuy không nhiều nhưng niềm vui của họ thì thật nhiều; niềm vui của ông còn nhiều hơn nữa! Mới nghe vài lần đầu bà Phước ậm ừ cho qua.  Những lần sau bà có ý hỏi lại hay góp vài lời. Qua thời gian, sắt đá còn phải mòn, huống chi là lòng người. Ông Phước nghĩ như vậy. Còn đối với các con thì ông nói chuyện với chúng nó về những gì đang xảy ra tại đây, một cách cụ thể, giấy trắng mực đen hẳn hòi.  Chẳng hạn như chuyện Hội Người Cùi Việt Nam tại Nam Cali kết hợp với Hội Blessed Damien Society thuộc giáo phận New Orleans ở tiểu bang Louisiana làm bao nhiêu việc tốt đẹp cho người cùi Việt Nam từ cả chục năm nay. Bác sĩ trẻ Trần Mai Khanh là điển hình của những tấm lòng vàng nầy. Chỉ cần 140 dollars tiền thuốc men là có thể chữa hết bịnh cùi cho một người cùi. Hay nói ngược lại: vì không có đủ 140 dollars mà một người cùi phải chịu khổ suốt đời, chịu rụng tay, rụng chân, mù mắt.... Nghe như vậy có đứa gục gặt đầu ra điều thông cảm. Cô dâu Tô Cách Lan thì cứ  really, really liền miệng, có vẻ xúc động. Bà Phước tuy không trực tiếp ngồi nghe nhưng coi bộ đồng tình. Ông Phước ghi cho các con cái web site của Hội để chúng nó tìm hiểu thêm. Cũng như ông Phước đã nói về Quỹ Từ Thiện Têrêsa cho các con nghe. Chúng nó có vẻ thích thú khi biết chỉ cần 2 dollars là mua 10 kí gạo cho một người già ở Việt Nam có cơm ăn một tháng. Xem như vậy thì làm nhân đạo đâu có tốn tiền, tốn sức nhiều ! Hôm người phụ trách Quỹ Từ Thiện Têrêsa là Phó tế Vũ Thành An từ Portland về Houston tổ chức một buổi họp mặt, ông Phước rất ngạc nhiên là chỉ cần một lời đề nghị của ông mà cả gia đình đều muốn đi tham dự để biết thêm về quỹ từ thiện nầy. Bữa đó về nhà cô dâu Tô Cách Lan và bà mẹ chồng nói nhiều về chuyện này. Họ còn biết hơn ông là hiện đã có cả ngàn cụ tại Việt Nam đang được sự trợ cấp này. Tình hình trong ngôi nhà này có vẻ khả quan lắm. Tằm ăn dâu mà! Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Phước biết chẳng sớm thì muộn cả nhà sẽ cùng góp sức với ông. Tiên trị kỳ gia, hậu trị kỳ quốc. Giải quyết xong những người nhà, ông Phước sẽ gợi ý với những bằng hữu khác, tại đây và tại các nơi khác... Rồi cả ngàn thùng “Aluminium Cans Only” sẽ rải đều khắp nơi.  

      

    Việc thiện thì nhiều, nhưng mỗi người một tay thì sẽ...vỗ nên bộp. Người xưa đã nói  vậy rồi.

    Ông Phước bỗng nhớ ra là mình đã nghĩ ngợi quá nhiều trên giường bịnh.

    Ba tuần lễ nay chuyện giúp người cùi hay người già xảy ra như thế nào ở nhà thì ông Phước không biết. Ông chỉ biết là ông nằm đây cả tháng thì làm sao mà đi lượm hộp lon, mấy cái thùng “Aluminium Cans Only” của ông chắc đã đầy ứ. Nằm đây thì làm sao mà có tiền gởi về kịp đầu tháng tới. Hôm nay đã gần cuối tháng rồi. Tết cũng cận kề rồi.

 

    Đêm nay ông Phước suy nghĩ nhiều quá, khiến ông mất ngủ.

 

                                                              xxx

 

    Cuối cùng thì ông Phước được xuất viện với cái chân băng bột. Ông có thể xê dịch chút ít được với cây nạng. Chân ông coi như không có vấn đề. Ruột gan ông cũng không có vấn đề gì. Nhưng khi về đến nhà, vào căn phòng riêng của ông thì lòng dạ ông có vấn đề. Ông Phước thấy những tấm giấy biên nhận gởi tiền để trên bàn ngủ của ông. Tên người gởi là tên vợ ông, còn tên người nhận trên các hóa đơn là Cang, là Lộc, là Nam, là An, Thiện, Đồng... Ngày gởi thì mới hôm qua, ngày đầu tháng. Ông Phước thấy tim mình quả thật có vấn đề, nó đập liên hồi, đập không thứ tự, điều mà ông không gặp từ thật nhiều năm nay. Cầm những tờ biên nhận gởi tiền mà tay ông run. Tên vợ ông đó. Tên những người bạn nghèo khổ của ông đó. Ông đâu có hoa mắt, đâu có lầm lẫn gì. Ông Phước với tay cầm cây nạng, lê bước về phía cửa sổ, ông biết trời hôm nay phải đẹp. Ông muốn nhìn bầu trời đẹp hôm nay. Ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh, không gợn môt chút mây, ông nghĩ tới những nụ cười của bằng hữu quê nhà, rồi nhìn xuống phía cuối sân sau, chỗ góc sân bên trái, nơi ông dùng để chứa hộp lon. Trời! Có thật không đây? Niềm vui òa vỡ. Ông Phước thấy một đống lon đầy vun. Rõ ràng mà! Một đống lon đầy vun! Hai mắt ông Phước bây giờ tuy có ướt nhưng ông không lầm lẫn đâu. Ông thấy rõ mà. Ông nhớ trước khi bị tai nạn ông đã bán hết số lon. Bây giờ một đống lon đầy tại góc sân, không có một tấm vỉ thiếc nào che chắn hết. Một đống lon đầy đó bà con ơi! Dưới ánh nắng chiều, màu sắc từ các hộp lon như nhảy múa rộn ràng. Từ hồi nào mà vợ con ông đã mở lòng, đã xăn tay áo làm công việc của ông vậy cà? Như vậy là quà Tết cũng sẽ đến sớm như mọi năm. Mùa Xuân năm nay cũng đến sớm với bằng hữu của ông, như mười mấy năm qua.

 

    Ông Phước thấy lòng mình no đầy một niềm vui, và gan ruột ông cũng đang rộn ràng nhảy múa.

 

    Tết chưa đến mà ông Phước nghe có tiếng pháo nổ thật giòn và thật rộn rã. Nghe như pháo tết của quê nhà.

 

Trần Bang Thạch

 

 

THỦY TÁNG

Gà chưa gáy sáng thì ghe đã rời bến. Nhờ nước xuôi nên ông Giáo nhẹ đẩy hai mái chèo chiếc ghe cũng đi ngọt sớt. Bà Giáo ngồi trước mũi ghe, vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa cột những chiếc bánh ú thành chùm. Ông bà Giáo ép thằng Nhứt nằm trong mui ghe tam bản ngủ thêm một chút để dưỡng sức. Thằng cháu nội này sẽ phải dùng sức trai chèo mấy chặn nước ngược trước khi tới nơi thấy mặt ba nó.

        Ra khỏi sông Vàm Ngo thì trời vừa đứng bóng. Thằng Nhứt đã thức dậy từ lâu, đã lót bụng bằng mấy cục xôi vò và mấy trái chuối nấu cọng thêm một bụng nước sông nên trông tươi tỉnh. Nó bò ra phía sau chèo thay ông nội. Tội nghiệp thằng nhỏ, từ lúc mới đẻ cho tới bây giờ là 14 tuổi nó nào có biết chèo chống gì đâu, bơi lội thì cũng bì bõm, vừa đủ để bắt cá, giăng câu cho ra vẻ con nhà đồng áng. Nghe nói phải đi thăm ba bằng chiếc ghe tam bản mượn của bác Năm, hôm qua thằng Nhứt quyết lòng tập chèo từ trưa cho tới tối mò để chuẫn bị cho chuyến đi ngày hôm nay. Quanh năm suốt tháng, ngay từ hồi còn trong bụng mẹ nó đã theo cha ở hết hậu cứ này đến hậu cứ khác. Ngay sau ngày giải phóng, ba nó đưa mẹ con nó về sống nhờ ông bà nội. Non một tháng sau nó nghe nói ba nó đi học tập cải tạo vì là sĩ quan ngụy. Sau mấy tháng sống cơ cực ở quê chồng, má nó gởi nó cho ông bà nội, nói là đi tìm chồng rồi dông mất tiêu. Hai hôm trước, sau cả năm không tin tức, ông bà nội nó mới biết chỗ ba nó đang học tập. Những chữ như học tập, cải tạo, giải phóng, ngụy... thằng Nhứt chỉ mới nghe người lớn nói, nó cũng bắt chước nói theo mà chẳng biết ý nghĩa gì. Thằng Nhứt tuy nhỏ tuổi nhưng nhờ ăn nhiều mau lớn nên tay chèo khá mạnh. Ông Giáo cầm dầm ra trước mũi ghe bơi tiếp thằng cháu. Ngồi trong mui nhìn ra sau lái, bà Giáo thấy tự nhiên sao hôm nay thằng cháu lớn xộn, chắc tại trong lòng nó đang vui. Tay chèo của nó khá vững nhờ đôi tay dài. Cái điệu bỏ chưn mặt ra đằng sau rồi nhún mình một chút, hất mặt lên một chút mỗi khi đẩy hai mái chèo tới trước coi sao mà giống thằng cha nó quá. Tội nghiệp thằng con trai của bà, vợ chồng nó đặt tên con trai đầu lòng là Nhứt để mong tiếp tục với con Nhì, thằng Ba...Rốt lại cũng giống như vợ chồng bà : một cây sanh vỏn vẹn một trái. Bây giờ thì coi như hết rồi.

      Khi bắt đầu đi vào sông Yên, thằng Nhứt đẩy mạnh mái chèo tay mặt, lơi mái chèo tay trái để đưa chiếc ghe  cập theo cái voi rộng trồng lát. Dễ chừng có tới cả công lát xanh mịt. Mũi ghe lần lần đi vào sông Yên. Nước bắt đầu ngược. May mà chiếc ghe nhỏ nên cũng nhẹ chèo. Sông thì rộng mà nhà cửa hai bên thì chẳng có bao nhiêu, thưa thớt như đồng hoang. Ngồi trước mũi ghe, ông Giáo đẩy mạnh thêm cây dầm. Có lúc thằng Nhứt dở cả hai cây chèo khỏi mặt nước để tránh mấy dề lục bình đang trôi ngược thì chiếc ghe gần như đứng lại. Bà Giáo ngồi trong mui ghe, hai tay vịn chặt be ghe như ngầm tiếp sức đẩy ghe về phía trước. Trước khi đi tới một nơi hoàn toàn xa lạ này, ông bà Giáo đã nghe ngóng, hỏi han đường đi nước bước. Họ biết trước là sẽ phải đi nước ngược trên sông Yên. Rồi đi nước ngược trên sông Thượng, sông Đối, trước khi đến Khu Trại Ngọc Trai nằm trong vùng U Minh Hạ. Trại Ngọc Trai, không phải chỉ ông bà Giáo  mới nghe lần đầu, mà cả những người lối xóm như ông bà Chín Nâu, ông Hai Cảnh là những người từng ở vùng U Minh Hạ cũng chưa nghe tới bao giờ. Họ chỉ nghe mang máng là trại Ngọc Trai mới có sau ngày giải phóng. Ông Hai Cảnh nói nếu muốn đi nước xuôi thì ngay sau khi ra khỏi sông Vàm Ngo, đậu ghe lại năm bảy tiếng, chờ nước lớn thì đi dễ hơn, đỡ vất vả. Lúc đầu ông bà Giáo vì tay chân già yếu chỉ muốn đi đường bộ, nhưng người ta nói đi đến đó chỉ có xuồng ghe là phương tiện tiện lợi nhứt, lại chở được nhiều đồ tiếp tế. Vùng đó dẫy đầy sông rạch, ít cầu, nhiều nơi nước nổi, có khi dễ gặp mìn bẫy vì ở đó nghe nói trước kia là vùng trái độn, mặc bên nào nấy chôn mìn, bẫy, lựu đạn. Khi nghe người ta nói đã có nhiều người học tập bị đạp mìn, chết không còn miếng thịt, ông bà Giáo càng lo hơn. Thật sự thì ông bà Giáo đã mất ăn mất ngủ từ cả năm nay, từ ngày thằng con trai giả từ gia đình, nói là chỉ đi học tập một tháng rồi về. Một tháng, rồi hai, ba tháng vẫn không thấy về; chỗ ở cũng không biết. Hỏi đầu làng cuối xóm cũng không ai biết; hỏi xã, hỏi huyện thì cũng chẳng ai cho tin. Có đứa học trò cũ nay đang làm Chủ Tịch Huyện, hỏi nó, nó nói để nó dọ hỏi giùm. Nó còn khuyên ông thầy đừng nóng, để ảnh học tập tốt, lao động tốt rồi cũng sớm về. Cả năm rồi có nghe nó cho tin tức gì đâu. Tới cơ quan tìm nó thì lần nào cũng cho hay là bận họp hành. Tới nhà thì nói nó đi vắng. Ông Giáo nhớ ngày xưa nó là thằng trốn học có tiếng trong cái lớp tư của ông dạy; lên các lớp trên nó cũng đi học bữa đực bữa cái. Cuối năm lớp nhứt, thi rớt vào lớp đệ thất trường tỉnh, nó bỏ học đi bưng. Phải nó siêng hơn một chút, chắc bây giờ là thủ tướng! Nhưng  ông bà Giáo cũng có cái số may. Hai hôm trước, ông Giáo đang ngồi uống cà phê ngoài vàm,  tình cờ có người khách lạ cho biết chỗ ở của thằng con. Nghe tin con, ông bà Giáo vui hơn đào được hũ vàng, vội vã cơm gạo đi thăm và tiếp tế. Ông bà Giáo dư biết là con trai họ đang đói khổ vì làm người tù sau ngày mất nước, chớ chẳng phải giải phóng giải phiết hay học tập cải tạo cải tiết gì hết. Lòng già thương con càng nghĩ càng đau. Đi tới trời, ông bà cũng đi tới nói chi mấy khúc sông con.

     Ghe càng đi vào sông Yên thì gặp thêm gió ngược thổi mạnh. Sóng lớn. Ghe nhỏ lại chở đồ nhiều nên chòng chành. Nóng lòng gặp con, ông bà Giáo quyết đi không nghỉ ngơi gì hết. Thằng Nhứt cũng nóng lòng gặp ba nên chèo hoài không biết mệt. Nước ngược cũng đi. Sóng gió cũng đi. Hơn một năm chờ đợi, lâu quá rồi. Ông Giáo đã nghe nói nhiều về con sông Yên. Tên là Yên nhưng nhiều sóng gió. Sông Yên là con sông cái nối những con sông nhỏ, đưa nước ra biển qua ngả Bảy Giá. Ngày xưa người địa phương nặng mê tín, và cũng vì lòng ước ao nên đặt là sông Yên để hy vọng sông sẽ trở thành yên lặng, bình yên, không sóng to gió lớn; cũng như người dân quê nghèo rớt mồng tơi, sanh con đặt tên là Giàu, là Đủ, là Dư...Người ta chỉ đoán sông Yên rộng chừng hơn trăm thước, dài chỉ non cây số, nhưng là con sông dữ, có nhiều ghe xuồng bị chìm, nhứt là ghe xuồng của người từ xa mới tới lần đầu. Có lời đồn đãi là người ta đã vài lần thấy cá mập từ Bãi Giá lội vào. Thời chiến tranh bốn lăm năm mươi, sông Yên là nơi tập hợp các thằng chõng chết trôi, những xác người cụt đầu, cụt chưn, cụt tay trôi về từ các nhánh sông con. Có ngày nhiều quá chôn không kịp, người ta đẩy xác luôn ra biển. Thủy táng. Bây giờ thì ông bà Giáo và thằng cháu nội thấy thế nào là con sông dữ khi chiếc ghe tam bản đến gần chỗ giao lưu của sông Yên với ba con sông nhỏ là sông Thượng, sông Hạ và sông Giữa. Nước từ ba con sông nhỏ đổ vào sông Yên tạo thành vùng nước xoáy mạnh. Chỗ này lòng sông rộng hơn và gió thì thêm mạnh. Ra khỏi vùng nước xoáy, nước chảy xiết. Trời đã xế chiều mà chiếc ghe vẫn còn trong vùng nước xoáy, vài phút đồng hồ mới đi được một xãy tay. Thằng Nhứt giữ vững tay chèo, cốt sao cho ghe đỡ chồng chành và không bị lật úp. Thằng nhỏ chưa quen chèo nhưng nhờ mạnh tay nên giữ được ghe đi gần bờ. Ông Giáo cũng ráng hết sức giữ cho mũi ghe không quay vòng. Bà Giáo thì ngồi yên, lâm râm niệm Phật.

      Trong tiếng cầu kinh, trong tiếng gió vù vù và tiếng nước xoáy, cả ba người trên chiếc ghe tam bản bên này bờ sông bỗng thấy phía bên trái, chỗ vàm sông Hạ, thấp thoáng trong màu chiều, một bè rồi hai, rồi ba, bốn, năm... chiếc bè gỗ trôi ra từ sông Hạ, nhập vào sông Yên rồi dừng lại ở đầu voi. Ông Giáo nhớ ngay lời người ta nói về những người tù và những chiếc bè tràm từ thượng nguồn sông Hạ theo con nước ròng đổ vào sông Yên. Tại chỗ nước xoáy này, khi vừa tới voi, những bè tràm sẽ cắm sào dừng lại, đợi khi nước lớn sẽ theo sông Thượng bè tiếp về trại tù Ngọc Trai ở thượng nguồn sông Đối. Khi thêm một chiếc bè vừa ra khỏi vàm sông Hạ, lúc ráng chiều nhuộm đỏ khúc sông, thằng Nhứt dụi mắt hai ba lần, nó thấy người đàn ông ngồi trên bè hơi quen. Nó lớn tiếng kêu ông bà nội cùng nhìn người đàn ông. Có phải đây là sự nhiệm mầu, hay là vì thần giao cách cảm, để linh tính cho người tù trên bè tràm và ba người trên ghe tam bản biết rằng họ là những người máu mũ ruột thịt. Họ đã cùng cất tiếng gọi nhau. Ba. Má. Con. Ba. Con. Con. Ba. Má....Những tiếng gọi lẩn vào nhau, chồng chất lên nhau. Gọi nhiều lần. Tiếng gọi bay trong gió,  vang trong chiều tà. Có một tíc tắc, thằng Nhứt đã quên tay chèo, cúi khum người, hai tay nó bụm miệng kêu lớn ba, ba. Thiếu người cầm lái, chiếc ghe xoay vòng, ngã nghiêng như chiếc lá trong phong ba. Ông Giáo ngồi phía trước dồn hết sức lực trên đôi tay già, cầm chắc cây dầm giữ cho ghe thăng bằng. Khi bà Giáo  thấy đầu hai cây chèo đập vào sau ót thằng Nhứt, máu phun thành vòi thì thằng Nhứt đã lọt tũm xuống sông. Ngay lúc đó người tù cũng bỏ bè tràm, phóng mình về phía chiếc ghe. Nước xoáy. Gió mạnh. Bà Giáo la một tiếng thất thanh, bà thấy một vùng tối mênh mông trước mặt mình. Ông Giáo thì thấy một màu đỏ ối nhuộm hết khúc sông, nhuộm hết bầu trời. Những con sóng như những bàn tay máu vung cao. Nước xoay vòng bè tràm như cây tăm trong ly nước khuấy. Chiếc ghe cũng xoay vòng rồi trôi theo dòng nước. Bè tràm như ngựa không cương, trôi nhanh về phía hạ lưu. Người tù cũng trôi đâu mất, không thấy trồi lên mặt nước. Những bạn tù chưa kịp lặn tìm xác bạn thì bị nòng súng chĩa sau lưng. Có một người tù nhanh trí vội vã lấy hai cây tràm làm thành hình thập tự giá cắm ngay tại vàm sông Hạ, chỗ đất bồi.

    Ba ngày sau, xác người tù tấp vào một tay đáy ở Bãi Giá, bụng sình chương, hai hốc mắt trống hoác. Xác thằng Nhứt thì không ai thấy; có lẽ trôi tuốt ra biển. Bà Giáo chết đi sống lại nhiều lần trước cái xác tròn như trái banh lông và trước cửa biển mênh mông trời nước, không một bóng người. Ông Giáo thì cứ ngậm hoài trên đôi môi điếu thuốc rê không cháy.

   Từ đó ông bà Giáo cúng hết vườn đất cho chùa, dọn nhà về vùng sông Yên. Căn nhà sàn nhỏ dựng ngay dưới bến sông, chỗ ngả ba nước xoáy, nơi có cắm cây tràm thập tự giá. Mỗi buổi chiều, khi ráng đỏ nhuộm một gốc trời ông bà Giáo bắt ghế ngồi ngoài hàng hiên, mỗi người một góc. Nước vỗ như lời than khóc dưới chân. Nhiều khi nước phát ra những tiếng Ba. Má. Nội. Ba. Má. Nội....thành những tràng dài như tiếng hú rớt xuống từ cõi xa xăm mộng tưởng. Có khi dưới chân, nước là những con bạch tuột có hàng trăm vòi. Là máu. Là cái bụng sình chương. Là đôi con mắt thiếu tròng. Là giọt máu phun ra từ cái đầu xanh non như lá cỏ. Sóng nước ở một bãi bờ xa lạ trong một đất nước bỗng nhiên xa lạ đã thủy táng hai người thân yêu nhứt của ông bà giáo già. Nhưng mà, lạ chưa, bây giờ ông bà cũng muốn sống hết đời ngay trên những lớp phong ba của một dòng sông dữ! Ôi! Cũng là một cách thủy táng đau thương! Ông bà ngồi đây mà tâm hồn thì đang bập bềnh trên sóng nước. Muôn đời oan hồn người con trai duy nhứt và đứa cháu nội duy nhứt đang trôi nổi bồng bềnh đâu đây trong khói, trong sương, trong màu chiều đỏ như máu và trong màn đêm đen như mực.    

 

     Trời nước mênh mông, phong ba cuồng nộ đã chôn sống hai người thân yêu nhứt của họ, cũng đang chôn sống thể xác họ, nhưng không chôn hết được nỗi buồn của người bỗng khánh tận lúc cuối đời.

x Xx

Từ đó và mãi cho đến bây giờ, sau gần bốn mươi năm, người địa phương gọi khúc sông nầy là Sông Oan.

TBT

TL_Redkettle.jpg

NGƯỜI SUỐT ĐỜI

LẮC CHUÔNG GIỮA CHỢ

 

      Gần cuối tháng 12 dương lịch năm nay có một thiệp chúc Xuân đến với tôi thật sớm, trước Tết Nguyên Đán cả tháng . Đó là một điều lạ. Tôi chưa hề nhận một thiệp xuân nào sớm như vậy, từ trước đến nay. Điều lạ thứ hai là cùng một bao thư với thiệp chúc xuân này, tôi có cả một thiệp chúc mừng Giáng Sinh đến trễ cả tuần. Hai điều lạ này được giải thích trong một mảnh giấy nhỏ viết tay kèm theo. Qua mảnh giấy nhỏ này, thắc mắc của tôi được giải tỏa: anh con thấy trong các giấy tờ để lại của người cha mới chết một thiệp Giáng Sinh và một thiệp chúc mừng Năm Mới Ất Dậu. Mỗi tấm thiệp được để trong một bao thơ có đề sẵn địa chỉ của tôi. Anh con bỏ cả hai tấm thiệp vào một bao thơ rồi gởi cho tôi. Coi như thay người chết gởi lời chúc tới ông bạn còn sống. Lá thư bất ngờ cũng báo cho tôi biết một cái chết bất ngờ. Cùng một lúc với những lời chúc tốt đẹp là một nỗi buồn thật lớn đến với tôi. Tôi biết từ nay tôi vĩnh viễn mất một ông bạn hàng xóm tốt bụng của tôi từ hơn hai mươi lăm năm qua. Tội nghiệp ông già, biết mình tuổi đã cao, sống nay chết mai, nên ông đã chuẩn bị sẵn những gì cần phải làm. 24 lần Giáng Sinh và 24 lần Tết Nguyên Đán đã qua chưa lần nào gia đình tôi thiếu các tấm thiệp chúc mừng của ông. Năm nay, năm thứ 25, ở giờ phút thứ 25, giờ phút cuối của cuộc đời, ông vẫn không quên chúng tôi.

      Thật sự thì chúng tôi là bạn hàng xóm chỉ trong hai năm đầu khi chúng tôi đến Mỹ. Mới chân ướt chân ráo nhập vào một dòng sống hoàn toàn mới lạ, không có một người thân quen, chúng tôi thấy tạm yên lòng cư ngụ trong một căn nhà nhỏ tại một khu khá tạp nhạp, toàn là dân da đen và dân Nam Mỹ có lợi tức thấp; hiếm thấy một người da trắng lạc lõng đi ngang qua xóm. Sau hai năm gia đình chúng tôi làm ăn có khấm khá hơn và các con cũng cần có những trường tốt hơn nên chúng tôi dời đến một nơi khác, cách chỗ cũ hơn một giờ lái xe. Hai năm ở cạnh nhau đã đủ cho một tình hàng xóm nẩy nở. Những năm còn lại chúng tôi vẫn hay gặp gỡ, nhứt là vào những dịp lễ lạc hay ăn mừng năm mới, mừng sinh nhật....hoặc thăm hỏi tin tức nhau qua thư từ và điện thoại. 

          

      Thuở đó là vào khoảng cuối năm 80, chúng tôi đến Mỹ trong cái lạnh cóng da của một nhiệt độ đông đá. Căn nhà chúng tôi mướn thuộc căn nhà đã quá cũ, cả trăm năm tuổi, vách ván, sàn gỗ kê trên những cục gạch xi măng khiến gió lạnh chui vào nhà một cách dễ dàng từ bốn bên và từ dưới sàn nhà. Ba đứa con tôi tuổi từ một rưỡi đến 12 tuổi, chúng mặc vào nhiều lớp áo quần mà răng vẫn đánh lặp cặp. Đó là những giờ đầu tiên khi chúng tôi mới dọn vào nhà. Tôi thấy một cái máy sưởi đặt âm trong vách nơi phòng khách, tôi vặn hết nút nầy đến nút nọ mà vẫn không thấy hơi nóng phát ra. Túng cùng, vợ tôi đưa ý kiến là nên nhờ người ở nhà kế bên sang chỉ dẫn. Tôi rất ngại ngùng khi phải gõ cửa nhà người hàng xóm không quen vì lúc đó đã hơn mười giờ đêm. Chỉ cần không đầy một phút, ông hàng xóm đã làm chiếc máy sưởi tỏa hơi nóng. Rồi vợ con ông mang cả đống quần áo ấm cho chúng tôi, có cả mấy bao potato chips họ nói là ăn cho ấm bụng. Cả nhà chúng tôi cảm ơn. Ông hàng xóm nắm chặt tay tôi, ông nói rõ và chậm từng lời, sợ rằng tôi chưa quen tiếng Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như in hình dáng cao gầy, gương mặt đen mun làm rõ hàm răng trắng và đôi tròng mắt trắng nhìn thẳng vào mắt tôi. Ông nói là ông luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi, đừng ngại ngùng gì hết. Ông cho tôi số điện thoại, bảo cứ gọi ông hay vợ con ông bất cứ khi nào chúng tôi cần. Ông nói ông tên là Otis Clark, nhưng ông thích được gọi là The Bell Ringer, hãy gọi ông là Ringer cho gọn. Thuở đó cả nhà chúng tôi gọi ông là Ringer, coi như là một cái tên riêng; sau nầy mới biết ý nghĩa của nó và  biết vì sao ông Otis thích được gọi như vậy. Sau cái đêm đầu tiên đó thì chúng tôi cần họ nhiều trăm lần nữa trong suốt hai năm ở gần nhau và cả khi ở xa nhau. Ông bà là cố vấn của gia đình chúng tôi về đủ mọi chuyện. Từ chuyện ông Ringer dạy tôi cách sử dụng máy cắt cỏ, máy xén cỏ đến việc thay nhớt cái xe. Bà Ringer thì từ việc đưa vợ tôi và các con đi ghi danh ở trường, đến việc dạy vợ tôi tiết kiệm bằng cách mua hàng sale và cách dùng coupons khi đi chợ. Khi chuyện trò với chúng tôi, họ nói chậm rãi, rõ ràng từng tiếng. Đặc biệt là họ hay gợi chuyện để chúng tôi nói. Tiếng Mỹ chúng tôi khá hơn nhờ gia đình này. Cách sinh hoạt chúng tôi được xuôi chèo mát mái hơn trong cái xã hội lạ lẫm nầy phần lớn là nhờ họ. Cũng qua gia đình nầy chúng tôi có cái cảm tưởng đầu tiên là người Mỹ tử tế.Về sau chúng tôi biết ông bà Otis không những chỉ tử tế với riêng gia đình chúng tôi hay vài gia đình trong khu xóm, mà ông bà nầy tử tế với tất cả mọi người. Điều nầy thì tôi xin được nói sau. Cái ấm áp của đêm đầu tiên đó đã bắt đầu cho một nghĩa tình lân lý kéo dài suốt hai mươi lăm năm nay. Suốt thời gian đó chúng tôi thương mến và hiểu nhau hơn. Bà Otis mất 12 năm trước, sau đó cậu con trai duy nhứt đi làm xa, ông già Otis đã nghỉ hưu từ hơn hai mươi năm trước. Ông sống một mình trong căn nhà cũ, nhưng ông không cô đơn vì chừng như công việc chiếm hết thì giờ của ông. Muốn đến thăm ông, chúng tôi phải thông báo vài ngày trước. Hoặc đôi khi tự dưng ông ghé nhà tôi ngủ một đêm để kể cho chúng tôi nghe chuyện đời. Các con tôi rất thích nghe Uncle Ringer kể chuyện. Càng hiểu tâm tình của ông và càng biết nhiều những sinh hoạt của ông, chúng tôi càng quí trọng ông. Bây giờ thì ông đã đi rồi. Tấm thiệp Xuân Ất Dậu tôi chưa kịp gởi cho ông. Những dòng tưởng nhớ này như lời cuối cùng chúng tôi tiễn đưa ông, người hàng xóm tốt bụng.

       Nhớ tới ông Otis là tôi nhớ tới điều mà ông đã nói với tôi khi hai người ngồi uống bia ở sau nhà ông hơn hai mươi năm trước. Ông chỉ nói có một lần mà tôi mãi nhớ hoài. Ông Otis nói ông nợ cuộc đời quá nhiều, sợ rằng cả đời của ông, ông cũng không trả nổi. Ông mất ở tuổi tám mươi lăm. Một đời người như thế cũng gọi là dài. Nhưng cái nợ với cuộc đời mà ông tự nguyện gánh trên vai đã hết chưa hay ông vẫn còn khệnh khạng vác xuống tuyền đài? Nghĩ tới điều nầy khiến tôi càng thương ông, vì tôi biết một khi thế giới nầy còn hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh, bịnh tật và xã hội này còn những kẻ nghèo đói, tật nguyền, không nhà, không miếng ăn, không cái mặc... thì The Bellringer thỏi đồng đen của tôi vẫn ngày ngày muốn làm người lắc chuông nơi cửa chợ. Tôi biết ông muốn mãi mãi là người lắc chuông, dù cho trăm năm, dù cho ngàn năm nữa. Người đàn ông da đen cao, gầy, xương xẩu, ít học mà có trái tim to như trái núi, một tấm lòng dào dạt mênh mông như nước đại dương. Gần cả đời lắc chuông giữa chợ kêu gọi tình thương, chắc chỉ có một ông Otis Clark nầy. Ông nói từ khi nhận diện được những đau khổ của cuộc đời đến với riêng ông, ông muốn được góp phần nhỏ mọn của mình làm vơi đi ít nhiều những đau khổ cho càng nhiều người càng tốt. Ông Otis kể với mọi người về cuộc đời của ông. Cậu bé Otis lúc mới 5 tuổi đã là một bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Người ta nói cha mẹ cậu một hôm từ thị trấn Cheyenne của tiểu bang Wyoming mang đứa con trai Otis 5 tuổi xuôi nam lập nghiệp, mong thoát khỏi kiếp tôi đòi. Lúc tới gần dãy Rocky Mountains thì ông bà Clark mất tích trong một trận bão tuyết. May mắn được cứu, cậu bé Otis sống lang thang không nhà với người cha nuôi nghiện rượu và với một con chó đói. Cha con ngày ngày kiếm miếng ăn nơi khu Lincoln Park của tiểu bang Colorado. Khi cha nuôi chết, cậu Otis 10 tuổi đã biết phải tìm cái sống bằng chính sức lực và ý chí của mình. Tiếp tục ước muốn của cha mẹ, Otis xuôi nam, sống vất vưởng trên các đường phố với đủ ngành nghề, từ bán báo đến quét dọn nhà hàng, lau chùi cầu tiêu công cộng.... Lớn hơn một chút, Otis về vùng đồng cỏ Texas làm các công việc nơi trang trại, chăn bò, vắt sữa, lái máy cày. Cuộc đời Otis thật sự thay đổi ở tuổi 18 khi một ân nhân đem Otis về thành phố lớn, dạy cho ít chữ nghĩa và dạy nghề thợ tiện. Từ đó Otis đứng vững vàng trên hai chân mình. Cũng từ đó chàng thanh niên Otis bắt đầu nghĩ tới một sự trả ơn cho người đã cứu mình ra khỏi vùng u tối. Otis cũng không thể quên những cảnh khổ chung quanh, cảnh khổ mà suốt quãng đời niên thiếu mình đã chịu. Những ngày cuối tuần người ta thấy chàng thanh niên Otis la cà nơi các công viên, hay các góc đường dưới cầu xa lộ mang những bịch đồ ăn thức uống cho những người không nhà. Nhiều người trong số nầy đã được Otis giới thiệu việc làm, tạo dựng lại cuộc đời và tiếp tục trả ơn đời như anh Otis. Một thanh niên da trắng thất tình thất chí, bỏ học, bỏ nhà cửa đi làm homeless, Otis tới lui, chuyện trò, khuyên nhủ, rồi đem về nhà nuôi ăn học. Ngày anh thanh niên nhận bằng kỹ sư điện, anh đã ôm Otis giữa hội trường mà khóc như một đứa con nít. Nhiều lần Otis đến các nhà tạm trú cùng với các người thiện nguyện phục vụ những bữa ăn cho người vô gia cư. Sau khi tham dự  thế chiến thứ Hai, người lính giải ngũ Otis biết được các hoạt động cứu trợ rất hữu hiệu của hơn 3000 đơn vị phục vụ thuộc tổ chức thiện nguyện The Salvation Army. Otis bắt đầu tham gia hoạt động cho The Salvation Army kể từ đó. Cũng kể từ đó Otis chỉ thích được gọi là Người Lắc Chuông- The Bell Ringer. Từ mùa đông năm 1945 The Bellringer tên Otis bắt đầu mặc bộ đồng phục của The Salvation Army, cầm cái chuông đồng đứng tại các cửa chợ vào những ngày lễ để kêu gọi lòng hảo tâm của con người đối với con người.

      Những ngày đầu ở Mỹ, không ai trong gia đình tôi biết The Salvation Army là gì. Chúng tôi chỉ biết tổ chức thiện nguyện Đạo Binh Cứu Khổ này qua người hàng xóm mà chúng tôi gọi là Ringer. Vào những ngày cuối tuần hay những ngày lễ như Thanksgiving hay Christmas chúng tôi thấy Ringer cùng các bạn của ông mặc vào  tấm áo choàng màu đỏ, choàng phủ phía trước ngực và phía lưng, trên có in dấu hiệu của The Salvation Army và có dòng chữ: I Am A Bellringer. Người  bell ringer tay cầm cái chuông đồng nhỏ đứng lắc chuông bên cạnh cửa ra vào tại các khu chợ. Người hảo tâm bỏ tiền vào cái thùng đỏ có nắp  khóa kín, treo trên cái giá 3 chân. Hai năm ở bên cạnh ông tôi biết thêm rất nhiều điều về The Salvation Army, một tổ chức quốc tế  được hình thành từ năm 1865 tại Luân Đôn để giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất cho cho những người kém may mắn trên toàn thế giới, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Bằng vào cố gắng tích cực của cô bé 16 tuổi tên Eliza Shirley, một di dân gốc Anh, Tổ chức được du nhập vào Mỹ từ năm 1880 với chi nhánh đầu tiên ở New York City. Các con tôi thì có bên cạnh một nhân vật sống để nghe, để biết và để học những bài học quí giá về tình người. Thằng con lớn của tôi đã gia nhập The Salvation Army ngay sau khi tốt nghiệp đại học hồi năm 1992. Ông Ringer trông thật hào hứng mỗi lần nói chuyện với chúng tôi về công việc lắc chuông của ông. Công việc nào thì cũng có niềm vui, nỗi buồn. Nhưng với ông Ringer thì suốt mấy mươi năm lắc chuông, ông chỉ có niềm vui, ông quả quyết nói với chúng tôi như vậy. Ông không có nỗi buồn. Ông lắc chuông xin tiền, có người cau có với ông, ông cười tươi đáp lễ. Có người ngước mặt làm ngơ, ông thương cho họ và cầu nguyện cho họï.Thỉnh thoảng có người mua cho ông bữa ăn trưa hay một chai nước uống, ông vui vẻ cảm ơn. Trên chục năm trước, có em nhỏ tự nhiên rời tay mẹ, chạy tới kéo ông ngồi xuống, hun một cái chụt vào má ông, rồi bé kề tai nói với ông rằng bé thương ông quá, khi lớn bé sẽ làm như ông. Chuyện đã xảy ra thật. Cô bé 5 tuổi lúc ấy đã không đợi khi lớn mới thực hiện được lời hứa với người Bell Ringer nơi cửa chợ. Lúc 7 tuổi, cô bé biết bày ra một cái bàn đặt bên lối ra vào công viên gần nhà để bán nươc giải khát vào mỗi cuối tuần. Cô bé đã kiếm được vài chục đồng mỗi tháng. Người ta mua nước lemonade của em như là một cách giúp em thực hiện ước muốn của mình. Mỗi năm, đúng vào buổi chiều trước ngày Lễ Giáng Sinh,  Christmas Eve, như một hẹn ước bất thành lời, cô bé đến gặp người Bellringer của cô, thân mật nói những lời chúc lành với ông rồi nhét vội món tiền góp nhặt cả năm vào cái thùng 3 chân màu đỏ. Năm nào cô cũng làm như vậy, hơn chục năm rồi. Cô bé gọi ông là Ringer. Ông gọi cô là Little Santa. Như vậy là đã đủ cho một sự quen biết nhau. Có lẽ cả hai không thấy cần phải biết tên thật của nhau. Họ biết họ đang làm gì. Có một lần vào đầu năm 82, ông Ringer hăm hở nói với tôi về một đồng tiền vàng,  một loại gold coin, trị giá hơn 200 đô la, lần đầu tiên được một người bí mật nào đó bỏ vào thùng tiền tại Chicago. Rồi sau đó cứ mỗi lần một nơi nào đó nhận những đồng gold coins thì ông Ringer đều cho tôi hay để cùng vui với ông. Nhiều khi ông chỉ ghé nhà tôi một vài phút đồng hồ chỉ để thông báo những tin vui như vậy. Chẳng hạn như hồi năm 85, một người nào đã bỏ vào thùng ở thành phố Kirsville, bang Missouri,  một đồng gold coin sản xuất 20 năm trước cuộc Nội Chiến, có giá trị cả ngàn đô la; đủ cho một nhóm hơn trăm người nghèo có một bữa ăn Giáng Sinh thịnh soạn. Hàng năm, như là một trò chơi nhân hậu tốt đẹp từ một hay nhiều nhà hảo tâm bí mật, những đồng gold coins cứ rơi vào nơi nầy, nơi nọ; đến nay tổ chức The Salvation Army nhận được hơn 300 đồng gold coins. Năm năm trước, ông Ringer của tôi muốn có một đồng gold coin rớt vào cái thùng của ông coi như quà sinh nhật thứ 80 của ông. Mùa Giáng Sinh năm đó rồi cũng qua, lễ mừng sinh nhật của ông cũng đã qua mà đồng gold coin cũng chưa chịu đến với ông. Ông than với tôi là các đồng gold coins vẫn chưa chịu xuôi Nam. Tôi an ủi ông rằng ông đã nhận và đã cho biết bao nhiêu là những đồng gold coins từ cả sáu mươi năm nay rồi. Một tuần trước lễ Giáng Sinh năm nay, từ một nơi cách xa tỉnh nhà hàng ngàn dặm, xem báo tôi thấy loan tin nhân viên Salvation Army tìm thấy một đồng vàng tên là South African Krugerrand bọc trong một đồng bạc giấy, có lẽ người bí mật muốn tránh tiếng kêu khi bỏ vào thùng ở trước cửa một tiệm Walgreens trên đường West University của Houston. Đây là lần đầu tiên một đồng gold coin trị giá 400 đô la đã xuôi Nam, đã đến Houston. Tự nhiên tôi thấy vui và nghĩ ngay tới ông bạn già Ringer của tôi. Tôi bỏ lững cột báo tại đây, không muốn đọc tiếp tên người bell ringer để được hồi hộp mà nghĩ rằng chính cái thùng tiền của người Ringer thân mến của tôi đã nhận được đồng tiền quí hiếm ấy. Có thể lắm chứ. Ở cái tuổi 85, người Bellringer của tôi không còn bao nhiêu ngày tháng nữa. Chẳng lẽ niềm mơ ước của ông không thành sự thật sao?

       Bây giờ nhận được tin ông mất, tôi thấy dù cho đồng tiền ấy có rơi vào thùng của ông hay không thì ông cũng là người đón nhận và phân phát nó, cũng như ông đã đón nhận hàng vạn tấm lòng vàng và phân phát hàng ngàn đồng tiền vàng trong suốt hơn sáu mươi năm làm người lắc chuông giữa chợ.

      Cả cuộc đời ông, ông cũng đã cho thiên hạ rồi!

      Ông Otis Clark, người Bellringer của tình thương, chúc ông ngàn đời yên ngủ trong niềm mến yêu của những người khốn khó. Ông ngủ nhưng tiếng chuông đồng của ông vẫn còn rung trên tay của cả ngàn người khác tiếp nối ông. Khi những trái tim còn biết thổn thức thì tiếng chuông đồng còn ngân vang. Bằng cách nầy hay bằng cách khác, tình thương luôn có mặt trên thế gian nầy. Cô bé 7 tuổi đã biết đem những đồng tiền nhân nghĩa đến gởi gấm ông. Cô bé ấy bây giờ là một thiếu nữ và vẫn là người Santa Nhỏ Bé của ông, vẫn hàng năm làm nhiệm vụ của một Ông-Già-Nô-En-Có-Thật.        

      Ngủ đi ông, The Bellringer, người hàng xóm tuyệt vời của tôi.

Trần Bang Thạch

CÓ MỘT NGƯỜI DƯNG

 

Tới giờ nầy mà nàng vẫn không thể phát âm trúng tên chàng. Còn chàng thì đâu có khá gì hơn. Tên người ta viết là Phương mà chàng thì cứ bừa bãi phát ngôn là Pung, Pung. Làm như dùi đục gõ lên trống chầu. Còn tên chàng là Charles,…y như tên vị hoàng tử xứ Hồng Mao, quen tên và dễ kêu muốn chết vậy mà nàng cứ Chặt, Chặt…Miệng thì nói dẽo queo còn tay thì chặt chặt, khứa khứa, như chặt đầu lá lóc! Nghe mà ớn da gà! Gần 1 năm hương lửa mặn nồng chớ có ít ỏi gì đâu mà cứ Pung,  Pung, Chặt Chặt. Mà dù có phết thêm con số 1 hay số 2 trước cái con số 1 đó thì cũng vẫn cứ là Chặt Chặt, Pung Pung. Vui miệng nói chơi với bạn một chút xíu về cái gọi là ngôn ngữ bất đồng mà người đời thường nói tới trong những cuộc hôn nhân gọi là dị chũng, chớ ngày ngày mà cứ tự nhiên Pung Pung, Chặt Chặt thì tình nghĩa mặn nồng vẫn cứ là nồng mặn, chẳng hề giảm một gờ ram muối khoáng nào. Bạn đừng cười, một khi mà chàng ôm gọn ngang eo ếch nàng thì nàng muốn “bung” ra hay muốn “chặt” bỏ cái gì đó…hì, hì…thì đâu phải dễ. Khắn với nhau thì có. Lúc đó hai người muốn gì thì chỉ có…giường chiếu chăn nệm gối gắm biết.

    Chàng là tui đó bạn. Còn nàng thì bạn biết rồi đó. Phải, chính nàng. Nàng là người cùng xứ duy nhứt với bạn, là người hàng xóm của bạn trong khu gia cư nầy. Đối với tôi thì trước đây hơn 2 năm, nàng chánh hiệu là một người dưng của tôi. Thuở ấy trước mắt tôi, nàng lạ lẫm vô cùng. Dáng dấp, gương mặt, tiếng nói, điệu bộ…thật sự là không giống ai chung quanh đây. Ở cái thị trấn nhỏ bằng bàn tay trên dưới trăm nóc gia nầy hầu như ai cũng quen biết nhau. Vậy mà chẳng ai biết nàng. Hơn chục năm trước chắc bạn có xem phim giả tưởng E.T kể chuyện những con người tay chưn mình mẫy thì nhỏ xíu mà cái đầu to như trái dừa khô từ một hành tinh xa lạ nào đó bay xuống trái đất. Thoạt gặp nàng lần đầu tôi có ý nghĩ nàng là một trong những người ấy còn yêu thích trần gian nên cố tình đi lạc vào thị trấn nầy ở chơi cho hết mấy tuần vơ-cấy-sân. Ý tưởng nầy nhiều lúc nhớ lại tôi muốn nhắc với nàng cho vui, nhưng nghĩ lại đó là một ý tưởng hết sức tầm bậy, đáng đánh cho trăm hèo.

    Tôi gặp nàng lần đầu tại tiệm Wal-Mart. Nói cho cùng thì ở đây ai cũng phải tới cửa hàng duy nhứt nầy để mua sắm. Người ta gặp nhau ở đây cũng là lẽ đương nhiên. Vậy mà chuyện tôi gặp nàng ở đây thì vừa đương nhiên vừa khác thường. Nó khác thường vì hôm đó chẳng những chúng tôi gặp nhau mà còn đeo theo nhau nữa. Gặp tình cờ, mà đeo theo nhau cũng tình cờ. Nói như vậy thì cũng oan cho nàng, chính thật tôi mới là người đeo, còn nàng thì hình như tạo cái cớ cho tôi đeo theo. Đến giờ nầy tôi vẫn không muốn tìm hiểu xem cái gọi là hình như nầy. Có biết bao điều về nàng tôi còn chưa hiểu nổi thì tìm hiểu làm chi cái việc hình như hình nhiếc ấy cho mệt bộ óc đang bắt đầu lão hóa. Câu chuyện nó như thế này: Hôm đó, hơn 2 năm trước, tôi đi chợ Wal-Mart mua ít đồ cho tuần lễ sắp tới. Tôi đang đứng trước kệ tủ bày các hộp cereal trên cao. Tôi chọn một hộp. Bỗng tôi nghe tiếng nói từ sau lưng: “one more for me”. Tôi chưa hiểu hết ý nghĩa của câu tiếng Anh lạ tai thì mắt tôi cũng cảm thấy là lạ khi tôi xoay thân hình 6 feet tư của tôi lại để thấy một người nữ đứng chỉ cao ngang bụng mình. Không phải một bé gái mà là một bà có tuổi với mái tóc muối tiêu. “One more!” Lần này nàng nói mà như ra lịnh. Tôi bỏ một hộp cereal vào xe đẩy của nàng như một cái máy. Nàng gật đầu rồi đẩy xe đi. Không nói thêm một lời nào. Tôi theo sau nàng để tìm thêm vài món hàng nữa ở dãy kệ đằng kia. Nhìn từ phía sau lưng nàng tôi chợt nhớ một đoạn phim E.T trong đó người đàn bà E.T đang đẩy cái xe với một baby E.T nằm ngủ. Tôi mỉm cười một mình. Sao mà giống hịt! Tôi muốn xem lại đoạn phim E.T nầy thêm nữa nên cứ đẩy xe đi sau nàng. Tới nơi trưng bày thuốc men, nàng dừng lại. Tôi cũng dừng lại. “Please!” Nàng nói với tôi rồi chỉ hộp thuốc ho trên cái kệ cao nhứt nhờ tôi lấy giùm. Lần nầy nàng lí nhí: “Thank you so much”. Phát âm có lạ một chút nhưng thật dễ hiểu. Rồi thì ai nấy lo việc của mình. Có vài lần tôi ở đầu dãy hàng  gặp nàng ở cuối dãy, cả hai hơi cúi đầu chào và hơi mỉm cười với nhau. Cả buổi chọn món nầy, bỏ món kia, tính tiền rồi đẩy cái xe ra chỗ đậu xe, tôi lại gặp nàng. Nàng đang loay hoay nơi cốp xe, hì hục với mấy bao phân bao đất làm vườn. Trông nàng thảm não quá. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà mấy bao đất vẫn nằm yên trong xe đẩy. Ngẫng lên thấy tôi mắt nàng như sáng lên, nàng hướng hai tia mắt tới các bao phân nằm lọt lòng trong cái xe đẫy, rồi liếc đến cái cốp xe đang mở. Tôi biết tôi phải làm gì rồi. Cái thân hình 6 feet tư đâu có ngại gì ba cái lẻ tẻ ấy. Bao bị đâu vào đó, tôi nhẹ nhàng đóng cốp xe, chưa kịp xoa tay phũi bụi thì nàng đã lái xe đi sau cái mỉm cười và cái gật đầu tỏ ý cảm ơn. Đó là lần gặp gỡ đầu. Buổi gặp gỡ mà nàng chỉ hơi mỉm cười và chỉ nói trống không mấy tiếng, còn tôi thì chưa kịp thốt một lời nào. Lần thứ nhì thì ồn ào và khẩn cấp hơn trước. Hôm ấy, tôi đang cắt cỏ sân sau, nghe tiếng chó sủa dồn dập trước nhà, chạy ra nhìn, tôi thấy nàng Wal-Mart đứng thu lu trước cửa nhà tôi. Nàng như cố thu người cho thật nhỏ. Tôi áng chừng cái thân hình không quá 5 feet, nặng không đầy trăm pounds chỉ có thể nhỏ đến như vậy là cùng. Miệng nàng há hốc, mắt nàng trợn trừng trong nỗi sợ hãi cao độ. Nhánh cây  cụt ngủn trên tay nàng cũng buông xuôi. Bây giờ kể lại thì hơi dài dòng, chớ lúc ấy, ngay cái lúc tôi vừa mở cửa, thấy nàng đứng bất động giữa hai con chó đen sì đang chõm mõ vào nàng, sũa dữ dội, tôi đã là gã hiệp khách hành, lách mình một cái ào xung vào giữa trận tiền, cắp nách nàng bay ra khỏi trận địa. Hai con chó có lẽ vì quá ngạc nhiên hay vì quá bất ngờ mà lùi lại mấy bước rồi cong đuôi chạy mất, để lại trong tay tôi một thân người mềm nhũn với gương mặt xanh như tàu lá. Chàng hiệp sĩ bất đắc dĩ này chắc đã thành bị thịt nếu hai con chó không phải là hai con chó … quen từ ngôi nhà kế cận. Nhiều khi làm bạn với chó cũng có lợi! Sau đó là những gặp gỡ hằng ngày khi nàng mỗi sáng đi bộ ngang qua nhà chàng. Còn chàng thì mỗi sáng  đúng giờ, đúng phút ấy đứng trước nhà mình làm bộ như tỉa cành, cắt nhánh mấy khóm hoa kiểng để chờ dịp good morning với nàng. May là cái sự làm bộ nầy không kéo dài nên các hoa kiểng chưa trụi lũi cành lá. Sau mấy lần good morning thì chàng bắt đầu đi bộ sau lưng người dưng. Người dưng đi tới đâu chàng đi tới đó, cứ lẽo đẽo theo sau. Đường ta ta cứ đi. Ruộng người ta thì ta chớ có cày. Cho tới một hôm hình như cái chất người dưng với nhau bắt đầu nhạt dần thì nàng đi chầm chậm như cố ý chờ. Phải tới lúc thôi. Cứ làm hoài cái đuôi để thiên hạ cười sún răng hết sao. Có dịp sánh vai đi song đôi, người dưng trở thành người quen lúc nào không ai biết. Nàng không nói được nhiều tiếng Anh; còn chàng thì cố học hoài mấy tiếng anh, chị, em, ông, bà, cô, chú… mà lúc dùng thì cứ lộn tùng phèo. Khi chàng gọi nàng là anh thì nàng cười ngất, ra điều thông cảm cho anh Mỹ già học nói tiếng Việt; khi gọi là bà, hay chị thì nàng cười mím chi, làm như gọi sao cũng được. Nhưng hình như, lại hình như, khi chàng vô tình hay cố ý gọi nàng là em thì nàng có vẻ bối rối thấy rõ, mắt nàng chớp chớp, chân nàng bước hơi trật xuống lề đường; vói tay dìu nàng đi lại cho ngay ngắn thì nàng lại bối rối hơn .Chàng biết nàng mới dọn về vùng nầy sau khi đứa con trai út lấy vợ rồi mua nhà mới, vừa lúc nàng tới tuổi hưu non. Đã nhiều năm ở chung với vợ chồng thằng con trai lớn mà nàng đã ý nhị gọi là những năm dài đáng quên, người mẹ góa chồng từ hơn ba mươi năm nay thấy cần phải dọn về đây để có một nơi yên tĩnh sống những ngày còn lại. 

    Bạn ạ, một nơi xa thành phố, xa các trục lộ chánh, nằm gọn trong một cánh rừng thưa với một cái hồ Livingston thiên nhiên rộng lớn, có hơn 80% cư dân là những người hưu trí, thì đích thị nơi đây là nơi yên tĩnh rồi; còn người đồng hương của bạn có sống yên tĩnh hay không, có an hưởng tuổi vàng của mình không thì… mời bạn hãy nghe hết câu chuyện nầy để mà thẩm định.

    Đến đây thì chắc bạn đã biết câu chuyện của tôi và bà Phương đã đi đến đâu rồi. Phải, chúng tôi đã bắt đầu một chuyện tình. Chuyện tình nầy không biết nó rớt vào đâu: Tình vợ chồng? Tình bạn đường? Tình già? Cho tới nay chúng tôi cũng không mấy quan tâm. Mà có cần không để quan tâm khi một mối tình đã thật sự có mặt, một hạnh phúc với đầy những niềm vui đang có mặt? Bà Phương rất ít nói và hiểu rất ít những gì tôi muốn nói, nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi không hiểu nhau. Ngược lại, chúng tôi hiểu nhau rất nhiều. Nhiều khi ngôn ngữ không đóng vai trò chánh cho sự cảm thông. Có người nói một khi mà người ta rất thương yêu nhau và lo lắng cho nhau từng chút một thì sự thông hiểu nhau sẽ đi liền theo đó. Trường hợp của chúng tôi thì đúng y như vậy. Không nói thì bạn cũng biết, chuyện tình của chúng tôi không phải bắt đầu bằng tiếng sét, tiếng sấm, hay bằng lời ngon tiếng ngọt nào hết; nàng 62, chàng 66 thì đã qua rồi những thứ ấy; mà nó đã bắt đầu bằng sự lo lắng của chúng tôi dành cho nhau. Những tháng đầu khi mới quen nhau, chúng tôi đã thật sự tương kính như đôi bạn già tri kỷ. Mỗi sáng đúng 6 giờ tôi đã đến trước nhà bà Phương cùng bà đi đến công viên gần đó để đi bộ. Đi sớm để tránh nắng. Trước kia khi chưa có ông hộ pháp là tôi làm bảo vệ thì bà Phương đi bộ rất trễ, chờ khi có nhiều người nơi công viên, cho an toàn. Còn tôi thì thú thật với bạn, trước khi gặp bà Phương tôi không có thói quen đi bộ. Trời hè nắng sớm mà đi chỉ mấy vòng thôi đã thấy khói ra lỗ tai. Ngày đông tháng giá, khăn áo giày vớ mũ nón nặng nề, đi chưa tới góc đường đã nhảy mũi khì khịt. Mấy cái đó tôi sợ lắm. Nằm khoèo đắp chăn ngủ cho sướng, nướng cho đủ. Nhưng, như bạn biết rồi đó, trên đời có những cái còn sướng hơn ngủ, phải vậy hông, ông bạn trẻ? Ai bảo walking là khổ? Walking với nàng sướng lắm chứ!!! Quen nhau gần bốn tháng như vậy mà mỗi chúng tôi không ai bước qua khỏi khung cửa nhà của mỗi người. Đi ba đồng bảy đỗi mỗi ngày một tiếng đồng hồ rồi bà mở cửa vào nhà mình, còn tôi thẳng bước về nhà tôi. Sau này tôi mới biết, theo tập tục của dân tộc bà, lúc ấy tình thân của chúng tôi chưa đến độ để người đàn bà góa chồng mời một ông độc thân vào nhà, dù chỉ để mời một ly nước mát.

    Nhưng có một hôm thì nàng đã trải qua những đêm dài với chàng! Nghe có vẻ hấp dẫn và rùng rợn quá bạn nhĩ? Hấp dẫn thì không có đâu, mà rùng rợn thì có. Trở về từ cõi chết dù chưa thấy cảnh hãi hùng của địa ngục a tỳ thì khi sống lại cũng thấy tóc gáy của mình còn dựng ngược! Hôm ấy khi tôi mở mắt thì đã thấy người đàn bà ngồi trước mặt mình; hình ảnh rất nhạt nhòa nhưng tôi cũng biết ngay đó là bà Phương. Tôi đã bất tỉnh hơn mười tiếng đồng hồ sau khi bị đụng xe trong lúc nhoài người đẫy bà Phương vào lề. Người thân duy nhứt ở bên cạnh tôi tại bịnh viện suốt đêm hôm đó là bà Phương. Cả một tuần sau cũng vậy. Người ta nói đủ thứ về tôi, nào là anh hùng, nào là quên mình để cứu người. Tôi thấy những điều này sai hết. Trong lúc một thân người cứ băng qua lộ, không hề để ý tới cái xe chẳng những không giảm mà còn có vẽ như tăng tốc độ, thì tôi còn giây phút nào nữa mà nghĩ với ngợi, anh hùng với tiểu nhân. Nằm tại bịnh viện một tuần thì tôi về nhà với hai ống chân bó bột. Bà Phương vẫn là người giúp tôi nhiều nhứt. Đến giai đoạn này thì dù không nói chắc bạn cũng biết là bà Phương đã lọt vào phía trong của cánh cửa nhà tôi rồi. Và tôi, dù đang bịnh, vẫn còn đủ sáng suốt để hiểu rằng tình bạn bấy lâu nay của chúng tôi đang bước sang một ngả rẽ. Tôi cũng mang máng thấy rằng cái tập tục gọi là tiết phụ gặp hoàn cảnh này đã thay đổi vài góc độ cho hợp tình hợp lý. Cái tình, cái lý ở đây thì đã khá rõ ràng: Chúng tôi chắc đã thương yêu nhau từ hồi nào rồi, nay thấy tôi bịnh hoạn, một thân một mình, chẳng lẽ thương nhau mà làm ngơ sao.  Tôi đâu có ngờ người đàn bà nhỏ nhoi ốm yếu, tuổi trên lục tuần mà sức chịu đựng như một người khổng lồ. Tôi không có nói ngoa đâu. Đỡ đần, chăm nom từng miếng ăn, từng viên thuốc, từng ly nước…bà Phương làm còn chuyên nghiệp hơn một y tá chánh cống, cả đêm lẫn ngày. Đặc biệt những chén cháo thịt bầm nấu với gừng, tiêu và hành lá làm cho cơn sốt của tôi tan mau; còn những bữa cơm rau đậu, ngon mà đơn giản, ít dầu mỡ làm nhẹ bụng và ngủ ngon. Sự có mặt của nàng với những chăm sóc chu đáo, không nệ khó, với dáng vẻ dịu dàng, cử chỉ chừng mực làm cho thế giới quanh tôi sáng lóng lánh như có nạm vàng dát bạc. Khi nàng chuyện trò với con cháu, hay nói điện thoại với người thân quen bằng những lời lẽ nhỏ nhẻ, lên bỗng xuống trầm, tôi nghe như có tiếng chim hót trong nhà. Có lẽ nhờ vậy mà tôi bình phục nhanh. Không biết tôi có nên nói với bạn là tình yêu đã làm cho tôi có thêm sức lực và thêm niềm vui để sớm vượt qua cơn bịnh?

    Tình yêu đã thật sự có mặt giữa hai chúng tôi. Tôi coi đó như là một niềm vui và một hạnh phúc mà tôi đã chờ đợi từ lâu.  Nhưng đối với riêng nàng Phương của tôi thì đó không phải là chuyện dễ. Bạn hãy nghĩ xem một người đàn bà Á Đông đã có hơn ba thập niên thủ tiết nuôi con, nay ở cái tuổi gần đất xa trời lại đi thêm bước nữa với một người khác chủng tộc đâu phải là chuyện dễ tính toán. Tôi biết người đầu tiên mà bà Phương phải đối diện là tập quán phong tục của đất nước bà, người kế tiếp là chính bà, rồi tới các con trong một buổi họp gia đình.

    Cảm ơn Trời đất mọi chuyện đều trôi chảy để từ cái ngày bà Phương bán căn nhà dọn về nhà chồng thì căn nhà tôi đã sống từ thuở thiếu thời bỗng trở thành một mái ấm. Hết rồi cái thời tối ám, âm u, bừa bãi của căn nhà. Hết rồi cái thời người đàn ông ra vào một mình một bóng, sống ngày nay mà chẳng có một tính toán gì cho ngày mai. Sống chung với nhau suốt thời gian qua tôi thấy mình có một đời sống hoàn toàn khác trước. Một người đàn ông độc thân làm sao tránh khỏi những tật xấu. Những đêm cuối tuần khuya lơ ở các quán rượu đã mất đi. Mỗi ngày một bao thuốc lá đã thành dĩ vãng. Tánh bừa bãi, hoang phí không cánh mà bay đi đâu mất tiêu. Những viên thuốc cao máu, cao mỡ trước đây thì bữa đực bữa cái, nay thì người nội tướng của tôi nhắc nhỡ hàng ngày. Nhiều khi có cả viên thuốc và ly nước trước mặt. Đi tiệc tùng mà nàng của tui cũng không quên lận theo mấy viên Glucotrol! Còn ba cái thứ Coke, Sprite hay Cake thì …cái thằng tui chớ có dại mà lăm le trước đôi mắt của nàng. Chuyện ăn uống của tôi cũng bị kiêng cử tối đa. Nhiều khi vui bữa với bạn bè dùng nhiều thịt, nhiều bơ thì liền bị nhắc khéo. Tự nhiên mà cái bắp vế nhói đau thì biết mình phải làm gì rồi; không cần đợi cái thứ hai đau hơn. Nói chung thì sức khỏe của tôi được vợ nhà chăm sóc tối đa, làm tôi có ý nghĩ chắc đời trước tôi đã yêu một bác sĩ mà không thành, nay thì...ố là la! toại nguyện! Toại nguyện rồi bà con ơi!

    Hình như bạn cho là tôi quá nhờ vã vào vợ mình? Bạn này kỳ! Vợ mình mình nhờ chớ nhờ vợ người ta sao mà sợ! Hì hì! Giỡn với bạn cho vui vậy thôi chớ bây giờ chúng tôi chỉ có nhau thôi, không tựa vào nhau thì làm sao mà đứng vững. Trước hết tôi là vệ sĩ trung thành nhứt của nàng. Nàng đi bộ mỗi sáng, nàng đi chợ búa, nàng dạo bờ hồ, nàng đi câu: Dạ bẩm nàng, có hạ tướng. Lâu lâu nhớ cháu nội dưới phố xa, muốn đi thăm: Có gã lái xế vô cùng tận tụy này. Ồ! vỏ xe bị xẹp rồi hả?: Có qua đây cưng. Cái máy xe kêu khục khặc hay tới ngày thay dầu mỡ: Có tui đây mình ơi! Có một chuyện thuộc loại phòng the nói ra không biết có mang tội công xúc tu sỉ không, đó là chuyện tui đấm bóp nàng hầu như thường xuyên. Bạn thử nghĩ nếu nàng cứ mang bo bo cái tiết phụ khả phong của nàng thì chuyện này ai mó tay vào được, họa chăng là vài năm một lần khi nàng dành dụm tí tiền sang quê hương của chàng Yao Ming làm mấy phùa mát-say mát-xiết cho đỡ ghiền.

    Nói như vậy thì có thể bạn cho là chưa đủ hết đâu, phải không? Còn đời sống tình cảm với nhau nữa chớ! Chuyện này mà nói ra thì có khi là thừa. Nghe tôi thao thao bất tuyệt từ nãy giờ bạn đã hiểu rồi mà. Chỉ vắn tắt với bạn là chúng tôi tự thấy mình là đôi uyên ương hạnh phúc nhứt trên trần đời. Phát ngôn như vậy nếu có ai thưa thì chúng tôi vác chiếu đi hầu 3 tòa quan lớn. 

    Thương yêu, nhường nhịn, giúp đỡ, chăm sóc, giữ gìn, quí trọng nhau …thì bạn thử cho tôi một chữ gì khác ngoài chữ Hạnh Phúc đi, có được không?

    Tới đây thì chắc bạn đồng ý với tôi là hôn nhân dù là dị chủng hay đồng chủng mà thiếu những cái trên đây thì Hạnh Phúc sẽ không bao giờ có mặt. Vậy thì đặt ra là “Đồng”, là “Dị”  làm chi rắc rối cho cuộc đời vốn đã có quá nhiều cái rắc rối. Cho nên ngôn ngữ bất đồng cũng không phải là cái làm cho thiếu Hạnh Phúc. Hơn một năm rồi vợ tôi có học thêm được một chữ Anh, chữ Mỹ nào đâu mà Hạnh Phúc thì cứ theo năm tháng mà tăng hoài.

 

    Là Pung, là Chặt… hay là gì đi nữa thì…thưa bạn, xin cho phép tôi nói với cái “House” của tôi: “Honey, I love you!”

 

Trần Bang Thạch

TƯỢNG PHẬT

 

 

     Khi người học trò cũ từ quê nhà trở lại Houston trao cho tôi một bao thơ, trong có lá thơ thật dài của em gái tôi và một tượng Phật Bà Quan Thế Âm, tôi thấy mình choáng váng, muốn ngã quị. Đó là ngày gia đình chúng tôi làm cái thất thứ hai cho má tôi, tức là mười bốn ngày sau khi má tôi mất. Từ ngàn trùng tôi đã âm thầm khóc và cầu nguyện cho vong linh má tôi được sớm về cõi phúc. Bất ngờ nhận được tượng Phật, tôi nghĩ ngay rằng má tôi chưa đi đâu hết mà đang đến với tôi. Má muốn đem tượng Phật, đem cái may mắn đến cho tôi dù má đã xa đời. Trời ơi, người con bất hiếu là tôi đang biền biệt phương nào trong những giờ phút cuối đời của má, để vong linh má phải đi tìm tới tận nơi nầy. Còn nhớ hồi năm 2000 chúng tôi về thăm má tại quê nhà, má đã lẫn nặng, lúc nhớ lúc quên, nói năng khó khăn, thiếu đầu thiếu đuôi. Nhưng có một câu mà má tôi cứ hỏi tôi hoài: “Không biết đến lúc má già con có về được không?”. Mỗi lần nghe câu hỏi đó tôi đã vuốt đôi vai gầy của má, thế cho câu trả lời, vì nghĩ rằng xa xôi quá chỉ sợ về không kịp. Quả thật là không kịp. Má tôi ngã bịnh nhanh quá, ra đi nhanh quá và chôn cất cũng nhanh trước khi một năm mới sắp đến. Cũng là lỗi của tôi, cứ nghĩ má còn ở với con cháu lâu hơn nữa, cứ nghĩ vài tuần lễ nữa sẽ về, như lịch trình đã xin phép ở sở làm, chắc còn kịp. Tôi đã không về kịp thì hôm nay, qua tượng Phật, má tôi đã đến với tôi. Má bao dung của tôi chắc không trách, nhưng tôi thấy cái lỗi của mình quá nặng.

    Trên mười trang giấy đầy chữ em gái tôi kể lể từng chi tiết một kể từ ngày má trở bịnh cho đến giờ má nhắm mắt. Dòng cuối, em tôi viết: “Đúng 8 giờ 15 tối ngày 28 Tết má đã bỏ anh em mình mà ra đi!”. Tôi biết em gái tôi đã không cầm được nước mắt khi viết câu nầy nên bức thư phải chấm dứt ở đó, cũng như nước mắt tôi chảy nhiều hơn mỗi lần tôi đọc câu ấy.  Từ nhỏ cho tới giờ em gái tôi chưa hề sống xa mẹ, cho nên bên nầy tôi buồn một thì bên kia em gái tôi phải buồn mười. Mỗi lần nói chuyện với tôi trên điện thoại, em tôi chỉ khóc và khóc. Trên một tờ giấy nhỏ khác em tôi cho hay đã tìm thấy trong mớ tập vở cũ của tôi cái tượng Phật đã được để trong bao thơ với tên người nhận là tôi, nên em gởi sang cho tôi. Bị run tay và mất trí nhớ từ vài năm nay, má tôi chắc phải khó khăn lắm mới nhớ được và viết ra được tên tôi với nét chữ ngoằn ngoèo và dán thơ bằng cơm nguội. Chút cơm nguội khô còn dính trên bao thơ cho biết lá thơ nầy má dán không bao lâu trước ngày má mất. Má tôi trí óc đã lú lẫn mà ở những ngày cuối đời vẫn còn nhớ tới đứa con ở xa. Còn đứa con xa xôi nầy có bao nhiêu lần tưởng nghĩ tới má? Áp tượng Phật vào tim mình, tôi nghe hơi ấm của má. Tôi chợt hiểu rằng vĩnh viễn người mẹ luôn ấp ủ con cái của mình dù mẹ có đi tới đâu, dù con đang ở một chân trời góc biển nào. Và tôi cũng chợt nhớ rằng đã từ thật lâu tôi đã quên hết những cử chỉ, lời nói thương yêu đối với má. Bây giờ cầm tượng Phật trên tay, tôi như đang thấy má, muốn nói “má ơi con thương má” thì còn má đâu để mà nghe!

    Tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đồng chỉ nhỏ bằng ngón tay út nhưng đối với má tôi nó trọng đại vô cùng. Tượng đã ở trên cổ má từ những ngày má mới chào đời. Má là đứa em gái út của 8 anh trai. Bà ngoại sanh má khi ngoại đã 49 tuổi, sau 12 năm ngưng sanh nở và sau bao nhiêu lần vào ra các chùa chiền, lăng miễu xin phật trời ban cho một đứa con gái. Má thuật lại chuyện bà ngoại cùng với hai người hầu gái một buổi chiều chạng vạng ghé cái miễu hoang nằm bên bờ rạch nhỏ của con sông Kế Sách, sau khi cắm 3 nén nhang vào kẻ hỡ ba cục đá trong miễu, ngoại thấy một vật sáng trước mặt, ngoại cầm lên coi thì thấy đó là tượng Phật Bà Quan Thế Âm nhỏ xíu. Hai người hầu gái trước đó cũng làm như ngoại nhưng họ không thấy một đóm sáng nào. Những miễu trong thôn ấp thường được dựng lên sơ sài để thờ mấy cục đá coi như là thổ địa. Nhưng miễu nầy lại có tượng Phật là điều lạ, ngoại không dám lấy về dù trong thâm tâm rất muốn. Đêm đó về nhà ngoại nằm mơ thấy có con bướm vàng bay vào bụng ngoại rồi bay lộn trở ra. Ba đêm liên tiếp như vậy. Chuyện ấy rồi cũng qua đi cho tới ba tháng sau thì mọi người bỗng nhớ lại cái tượng Phật và con bướm vàng khi ngoại thổ huyết nặng, ngoại ọc ra từng bụm máu tươi. Ông ngoại nghĩ tới tượng Phật và cái bào thai không thành nên khuyên mọi người nên trở lại cái miễu hoang ở Kế Sách để cầu nguyện. Sau khi cắm 3 nén nhang vào kẻ hỡ 3 cục đá như lần trước, bà ngoại và những người tháp tùng chờ một nguồn sáng từ đâu đó trong miễu. Không có một vệt sáng nào hết. Chờ một hồi lâu cũng không có gì mọi người phải rời khỏi miễu vì đã quá khuya. Khi mọi người đã an vị trong khoang ghe bầu thì ông ngoại mới nhớ là đã để quên cây dù dưới gốc cây mù u bên miễu. Đi chưa tới gốc mù u thì ông ngoại đã thấy một đóm sáng thật nhỏ ở đoạn đường ngắn chừng xảy tay giữa gốc mù u và cái miễu. Tưởng là con đom đóm, thoạt đầu ông ngoại không chú ý; khi đến thật gần, đóm sáng vẫn còn, nhìn kỹ thì đó là tượng Phật Bà. Ông ngoại trở lại ghe kêu bà ngoại trở lên bờ thỉnh cái tượng Phật. Bà ngoại không muốn lấy, ông ngoại bảo đó là vật trời phật cho mình, không lấy thì ban ngày ban mặt người trong làng cũng thấy và họ sẽ lấy thôi. Đem về nhà, ngoại đeo tượng Phật vào cổ. Ba tháng sau thì ngoại có mang. Đúng 10 tháng 10 ngày sau thì má mới ra đời. Ngoại nói má là đứa con cầu tự. Ngoài cái tên cúng cơm, ông ngoại còn gọi con gái là Trích Tiên, nàng tiên bị đọa xuống dương trần để làm con nhà họ Lê của ngoại. Về sau tôi cứ nghĩ cái tên Trích Tiên này đã vận vào má suốt đời để má trở thành nàng tiên mắc đọa quanh năm sầu khổ. Từ ngày có đứa con gái út, ông ngoại tôi không còn cái tật rượu chè, trai gái. Trong hai năm liền, ngoại tôi miễn hẳn việc thâu lúa ruộng của cả mấy chục tá điền ở rải rác khắp vùng đồng ruộng ở Bãi Xàu, Kế Sách, Vũng Thơm... thuộc tỉnh  Sóc Trăng. Còn bà ngoại thì đi khắp chùa chiền đình miếu đem tiền bạc thóc gạo bố thí. Má tôi trở thành con gái rượu của ông ngoại, được cưng chiều như trứng mỏng, tối ngày không ngồi trên lưng ngoại thì cũng cỡi trên vai 8 ông anh. Lúc bốn tuổi má tôi đã ngồi ghe bầu hay ngồi ngựa với ông ngoại đi thăm các sở ruộng mênh mông. Ngoài chuyện làng nước, tối ngày ông ngoại lẩn quẩn ở nhà chơi với con gái. Lúc má tôi được hơn 5 tuổi thì bà ngoại tôi trở bịnh nặng rồi mất. Ông ngoại tôi buồn bã trở lại rượu chè và mất sau đó không lâu. Trước khi mất ông ngoại tôi nhờ vợ chồng người bạn đồng liêu làm hương chủ ở Cần Thơ đem má tôi về làm con nuôi. Đi đưa má tôi về làm con nhà họ Nguyễn có bầu đoàn thê tử của cả 8 ông anh ngồi chật cả chiếc ghe chài mấy trăm giạ có mui và có giàn hát máy hát suốt đoạn đường sông. Đi kèm theo ghe lớn còn có hàng chục ghe nhỏ của những tá điền, làm rộn rã những khúc sông đoàn ghe đi qua. Má tôi được đưa về làng Thường Đông, cách quận Cái Răng hơn một giờ chèo ghe cùng với bốn cái rương gỗ to cẩn xa cừ và tượng Phật Bà trên cổ. Hôm đó ông bà ngoại nuôi mở đại tiệc mừng có đứa con gái nuôi. Gian nhà khách to lớn cùng cái rạp che lá dừa trên sân phơi lúa rộng hàng trăm chiếc đệm chật ních người, có cả quan cai tổng và quan bố chánh về dự. Đờn ca hát xướng 2 đêm 3 ngày liền. Một con lân trắng, một con lân đen và bốn ông địa thay nhau múa suốt buổi. Trống lân vang dội tới cuối làng. Xác pháo đỏ ngập sân. Sau nầy má nói tuy mới 6 tuổi nhưng hôm đó má buồn khóc như mưa, mấy ông lân và mấy ông địa làm đủ trò cho má cười, nhưng má chỉ có khóc, má chỉ muốn theo các ông anh trở về nhà cũ. Trước đó hai năm, Cậu Hai tôi cũng được đem về làm con nuôi từ một gia đình ở Cái Côn vì ông bà ngoại nuôi tôi có nhiều ruộng đất mà không có mụn con nào. Sau đó cũng nhờ có cậu Hai lúc nào cũng chơi đùa bầu bạn nên má cũng nguôi ngoai. Rồi má cùng cậu Hai đi học trường làng rồi trường quận. Khi cậu Hai đi học ở chợ Cần Thơ thì má ở nhà để ngoại dạy công dung ngôn hạnh, chờ đến khi lấy chồng. Má nói má bớt cô đơn cũng nhờ cái tượng Phật, má như thấy mẹ ruột lúc nào cũng ở bên cạnh mình, vỗ về, an ủi. Má nói đó là vị thần hộ mạng của má. Còn tôi thì từ ngày còn nhỏ đã coi tượng Phật chính là má tôi. Tôi nhớ khi đã sáu bảy tuổi rồi mà tôi vẫn thích nằm trong lòng má, tay mân mê tượng Phật má lúc nào cũng đeo trên cổ, gọi má là Phật Bà. Má tôi thì gọi tôi là Na Tra bởi lúc nhỏ tôi là thằng bé mũm mĩm, đầu chừa ba vá cho tới khi biết mắc cỡ khi tắm sông ở truồng. Năm tôi lên chín tuổi thì ba tôi có vợ hai. Vào một ngày mưa giông tầm tã, sau lần nói chuyện với ba tôi mà trong đó má tôi khóc nhiều hơn là nói, má tôi rời nhà chồng ở Xẽo Môn cùng với hai anh em tôi, đem theo mấy bộ đồ và món nữ trang duy nhứt là cái tượng Phật Bà. Trước khi rời nhà chồng, má tôi bắt tôi cùng với má vào nhà từ đường lạy khắp nơi có bàn thờ, rồi lạy ông bà nội mỗi người bốn lạy coi như là mẹ con tôi xin được ông bà tha cho tội bất hiếu, đã không thể ở đây để thờ phụng ông bà. Tôi không quên được con đường đất trơn trợt từ Rạch Xẽo Môn dẫn tới chợ Bang Thạch nằm trên liên tỉnh lộ 4. Người đàn bà yếu ớt vừa mới sanh con hơn hai tháng, từ nhỏ chỉ biết may vá thêu thùa, bánh mứt, chưa một lần rời khỏi đôi guốc, đôi dép; bây giờ phải bồng con nhỏ vừa khóc vừa đi như chạy dưới mưa, chân trần bấm từng tấc đất để khỏi bị té. Lúc bắt đầu học làm thơ hồi 14 tuổi, bài thơ đầu tiên của tôi nói về suối nước mắt của má đã đổ xuống nhiều gấp trăm ngàn lần nước mưa của cả bầu trời quê nội hôm đó, suối nước mắt để khóc cho thân phận mình. Hôm ấy tuy còn nhỏ, té lên té xuống, mà tôi đã biết dìu má và biết nhìn tượng Phật trên cổ má  khấn thầm cho trời đất thương mẹ con tôi mà chấm dứt cơn mưa để mẹ con tôi bớt khổ. Tới quốc lộ, bên trái là về Cần Thơ với cha mẹ nuôi, bên phải là về Sóc Trăng với các anh ruột, má tôi cuối cùng lên xe về hướng Sóc Trăng, rồi dừng lại nửa đường. Sau nầy tôi mới biết là má không muốn bất cứ người thân nào của hai bên ngoại biết hoàn cảnh gia đình bất hạnh của má, số phần của má thì chỉ có má là người nhận chịu, nên khi xe đò Cosara ghé trạm kiểm soát ở ngả ba An Trạch thì má bồng con xuống xe, đón xe bò đi rẽ vào một sóc Miên cách quốc lộ vài cây số.

    Vào một ngày mưa gió, với một đứa con đỏ hỏn trên tay và một đứa lúp xúp vừa chạy vừa té, má đã can đảm chấp nhận ngả rẽ cho duyên phận của mình, thì từ đây con đường đời của má cũng dẫy đầy những ngả rẽ, những khúc quanh, những ghềnh thác mà má một đời phải chịu đựng. Khúc quanh lớn nhứt trong đời má chắc chắn phải là việc ly hôn khi tuổi đời chưa tới ba mươi, ở cái thời buổi xã hội coi đó là một điều không chấp nhận được, nhứt là miệng đời chỉ kết tội cho người đàn bà. Họ có thói quen cho rằng người đàn ông có thể năm thê bảy thiếp, còn gái chính chuyên thì chỉ một chồng. Trước mắt nhiều người, thời buổi đó mà má tôi không chịu cho chồng mình có vợ bé mới là điều kỳ cục! Nhưng khi má tôi đã dắt con rẽ vào một sóc Miên toàn là người xa lạ thì người đàn bà tiểu thơ bất hạnh ấy đã có một quyết định cho đời mình. Đó là tham gia phong trào kháng chiến đang rầm rộ nổi lên ở khắp vùng Nam bộ. Người ta nói tới việc đuổi Pháp, việc chống xâm lăng, nói tới tự do, độc lập, dân chủ, hòa bình, cơm ăn áo mặc; nhứt là khẩu hiệu giải phóng người phụ nữ khỏi áp bức, giải phóng người nông dân khỏi bóc lột bởi nạn cường hào ác bá. Chánh trị hay chủ nghĩa nầy nọ thì má tôi đâu có hiểu gì, nhưng má nghĩ tới mình rồi nghĩ tới hàng ngàn những phụ nữ như má, nghĩ tới cả trăm ngàn những thân phận đàn bà hẩm hiu trong những góc tối gia đình phong kiến. Cách mạng đối với má chỉ đơn giản như vậy, không dài dòng Engel Karl Marx Đệ Tứ Đệ Tam hay Nam Tào Bắc Đẩu gì hết. Má hăm hở tham gia hội Phụ nữ Cứu quốc vì chính cái ý nghĩa cao đẹp của các từ ngữ này, hơn là những gì khác nằm sau lưng của nó. Má tôi không phải là cán bộ cốt cán vì có gốc là thành phần tiểu tư sản, nên lúc nào cũng làm phó và cho đến ngày ngưng bắn tháng 7 năm 1954 má vẫn là dự bị đảng viên. Má tôi không màng chuyện đó. Chánh yếu là trong kháng chiến má tôi đã dạy hàng ngàn người đàn bà, trẻ con, người lớn nơi các vùng sâu biết đọc biết viết, biết địa vị con người của mình dù phải sống dưới bất kỳ hoàn cảnh nào; đặc biệt đi đến đâu má tôi cũng nói với người phụ nữ về quyền bình đẳng đối với nam giới, quyền làm vợ, quyền làm người. Má tôi không ra mặt trận, nhưng những thương bịnh binh ở cả hai bên từ mặt trận đưa về, má tôi đều săn sóc chu đáo. Không ai tưởng tượng được tại vùng giải phóng ở Trà Lồng có người nữ cán bộ vừa băng bó vết thương cho thằng Tây Ma-Rốc rạch mặt, vừa nói chuyện với nó bằng tiếng Tây. Có những thằng Tây tù binh non choẹt kể cho má tôi nghe nỗi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ nhà, nhớ người yêu. Nó khóc, má tôi dỗ nó như đứa con nít. Mẹ con chúng tôi theo cơ quan đi khắp khu 9 miền Tây Nam bộ. Bao nhiêu nguy hiểm như có mặt hằng ngày với má, nhứt là khi má đi công tác vùng ven. Một lần trốn dưới một bàu bông súng ngay sát con lộ đám lính Tây đang ruồng bố, má tôi ngậm tượng Phật Bà và thầm nguyện Phật Bà cứu độ. Nhiều lần như vậy, má tôi đều thoát. Chuyện nầy khi người nữ thủ trưởng của má tôi biết được, bà bắt má tôi phải không được tin những điều nhảm nhí như vậy. Còn cái tượng Phật mà má tôi đeo, theo họ, chỉ làm mất bản chất của người cách mạng, cũng không được đeo. Má tôi nhứt quyết không nghe. Sau đó má tôi nhiều lần bị hạ từng công tác, cuối cùng chỉ còn nhiệm vụ là lo cơm nước, lo nuôi heo, gà cho cơ quan. May mắn là mỗi tối dưới ánh đèn mù u má tôi còn được dạy mấy lớp bình dân học vụ mà đa số học viên là trẻ con chăn trâu mướn và phụ nữ quần thô áo vá. Má nói làm được như vậy là đã quá đủ cho cái gọi là lý tưởng của má rồi. Rất đơn giản, má tôi nói cách mạng là làm cho các trẻ chăn trâu ngồi trên chính con trâu của mình và biết ê a đọc sách; là làm cái áo cái quần của người đàn bà lành lặn để ngước mặt mà đi tham gia việc làng việc xã. Tôi nhớ lúc phong trào chống Bảo Đại trong vùng kháng chiến, với bức tranh vẽ Vua Bảo Đại mắc câu, có một ông gì lớn lắm nghe nói từ trung ương ghé qua cơ quan mở hội nghị với các cán bộ cốt cán toàn khu Tây nam Bộ. Xong hội nghị, ông ra tận sàn nước dưới bến sông, nơi má tôi đang rửa một đống nồi ơ, chén bát, nói chuyện với má thật lâu, rồi bỗng nhiên tôi thấy má quày quả bỏ đi, người đại cán đứng ngẩn người một lúc, vỗ mạnh vào cái xắc cốt bằng da bò láng bóng mang bên hông, rồi mới hậm hực bước xuống xuồng chèo, rời khỏi cơ quan. Sau đó tôi có hỏi, má nói vẫn là chuyện cái tượng Phật và những lời đe dọa của một người có tánh lăng nhăng mèo mã gà đồng. Má nói má ghét cay ghét đắng những người như vậy, nhứt là những ai đụng chạm tới cái tượng Phật của má.

    Cái tượng Phật nhỏ xíu như vậy mà đã làm cho má xấc bất xang bang suốt mấy năm trong vùng kháng chiến. Cho tới một ngày sau Hiệp Định Genève 1954  má trở về làng Thường Đông nuôi bịnh mẹ thì tai nạn mới hết.

 

    Những năm tháng còn sống trong gia đình, cứ mỗi lần sắp đưa ông táo về trời là tôi có bổn phận đánh bóng tất cả mấy bộ lư đồng, thích nhứt là được tỉ mỉ đánh bóng tượng Phật trên sợi dây chuyền của má. Tôi tẩn mẩn dùng bông gòn hay sợi chỉ thấm dầu bóng lau từ những kẻ ngón tay nhỏ bằng sợi tóc cho tới từng nếp áo, từng giọt nước cam lồ chảy ra từ cái bình nhỏ bằng hột gạo. Mỗi khi đánh bóng xong, tôi muốn được má khen và muốn tự mình đeo tượng Phật vào cổ má, để thừa dịp má không để ý, hun má một cái chụt rồi chạy mất. Còn nhớ năm đầu vào đại học trên Sài Gòn, má tôi đeo tượng Phật vào cổ tôi, nói là để được may mắn. Tới năm sau thì tự nhiên tôi cảm thấy mắc cỡ với đám bạn bè sinh viên của Sài Gòn hoa lệ, vì nghĩ rằng đàn ông con trai mà mang dây chuyền dây cổ với cái tượng Phật sao có vẻ quê mùa tỉnh lẻ quá, nên tôi trả về cho má. Càng lớn, đi học xa, rồi đi làm xa, tôi càng ít nghĩ tới  tượng Phật. Tôi không nhớ là đã bao nhiêu năm tôi không còn nghĩ tới tượng Phật nhỏ xíu ấy nữa. Hai mươi bốn năm ở xứ người, hình như tôi đã quên phứt cái tượng Phật mà hồi nhỏ tôi gọi là Má. Cũng quên luôn mình đã từng được má thương yêu gọi là Na Tra. Có lẽ tôi cũng ít khi nghĩ tới sẽ có một ngày rất gần mình phải mồ côi mẹ.

         Hôm nay thì tượng Phật đang áp sát trên ngực trái của tôi, ướt sũng những giọt nước mắt.

 

 

Trần Bang Thạch

CHẤP CHỚI BÀN TAY MẸ

 

       

                Trong một tấm hình trên báo, bé Jordan gợi cho ta hình ảnh một tàn binh đang lang thang trên trận địa hoang tàn sau trận đánh long trời lở đất. Chiếc mũ lưỡi trai nhà binh trên đầu, cái bình đựng nước bên hông, một cây gậy trên tay, thằng bé sáu tuổi nầy đang khập khiễng chui qua những thân cây ngã, lội qua những con lạch, bước qua những mãnh tôn, những gỗ ván gạch đá, rác rưỡi. Cả một vùng rộng lớn nầy với đầy chướng ngại sau trận cuồng phong hai hôm trước hình như không một nơi nào thiếu bước chân của bé Jordan. Suốt một ngày trời, bé Jordan đã thấy hằng ngàn cây nhỏ, cây to đứt ngọn, những tấm tôn quấn quanh các thân cây như tấm giấy thiếc bọc chiếc hotdog. Khóm cây pecan sau nhà mà Jordan thường leo trèo nay chỉ là những thân cây cụt ngọn, còn sót những cành treo lủng lẳng như những cánh tay gãy.

 

Giữa những hoang tàn đỗ nát đó, bé Jordan đã tìm lại được nhiều thứ lắm. Trước hết là chiếc xe hơi của mẹ. Chiếc xe bị đè dưới một thân cây to, mui xe dẹp gần tới tay lái, các cửa kính đã bể nát. Một bức ảnh trên báo chụp Jordan đang đứng trên cái thùng gỗ để đủ cao nhìn vào bên trong cửa xe. Chiếc xe nầy từ bao năm nay, dù mưa giông, dù nắng gió, mẹ đã đưa đón Jordan từ những năm nhà trẻ cho đến nay là năm Jordan học lớp một. Chiếc xe nằm đây mà mẹ thì đâu rồi! Cây gậy đánh khúc côn cầu của Jordan nằm chơ vơ bên chiếc thùng phuy móp méo cạnh khung gỗ của cái sofa. Ðôi găng tay chơi banh thì vắt vẻo trên một nhánh cây cao. Và chiếc xích đu. Chiếc xích đu mẹ đã mất trọn một tuần nghỉ phép để cưa, để đục, sơn phết, rồi hì hục leo lên cây sồi trước nhà máng hai sợi dây xích vào một nhánh to. Sau đó gần như mỗi năm, mẹ lại hì hục trèo lên nhánh cây để thâu ngắn hai sợi dây xích theo chiều cao lớn của Jordan. Chiếc xích đu bây giờ nằm lăn lóc trong vũng nước cạn, lấm lem bùn sình. Cái màu đỏ tươi của những miếng ván đã bay đâu mất. Bé Jordan nhớ lắm cái ngày bé nằng nặc đòi mẹ phải thay màu cam bằng màu lục; rồi ít lâu sau Jordan lại khóc lóc đòi mẹ thay màu lục bằng màu đỏ. Mỗi lần như vậy mẹ đã phải tháo gỡ cái đu xuống, dùng giấy nhám đánh đi từ những mãng sơn nhỏ trên mấy miếng gỗ, rồi tỉ mỉ sơn lên màu khác. Mẹ vừa làm vừa hát những bài hát thật vui. Mẹ nói mẹ muốn chính mẹ tự tay làm cái xích đu nầy cho Jordan, theo ý thích của Jordan. Jordan không thể hiểu mẹ muốn nói gì, lúc đó. Nay thì cái xích đu đã bay xa khỏi thân cây cổ thụ mà Jordan vẫn chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa câu nói của mẹ. Jordan cũng tìm thấy mấy bức ảnh gia đình. Có một bức chụp mẹ và Jordan đang xích đu, chân mẹ đong đưa, một tay mẹ quàng cổ Jordan, một tay mẹ cầm quyển truyện nhi đồng đang mở rộng. Jordan nhớ quá những buổi chiều mẹ con say sưa hay buồn vui ngậm ngùi theo từng chuyện cổ tích. Những cánh chim trên cành cao như cũng ân cần góp chuyện. Lạch nước kế bên miên man chảy, hình như không bao giờ ngưng những tiếng róc rách, thầm thì. Lòng của Jordan hình như lúc nào cũng ấm vì hơi thở của mẹ miên man phả chung quanh cho dù Jordan đang ở trường hay đang chạy chơi nơi một góc vườn hay một góc phố. Còn tiếng nói của mẹ hình như lúc nào cũng róc rách, thầm thì bên tai, ân cần, ngọt dịu, thương yêu, trìu mến. Mẹ là cả một thế giới riêng của Jordan.

             Mẹ Kara từ hồi nào đã là con lạch nước bên nhà, là cây sồi cổ thụ trước nhà, là cả một vườn pecan rợp bóng sau nhà, là chái nhà, là góc bếp. Căn mobile home nhỏ nhoi như một túp nhà chòi nhưng đầy tiếng cười, giọng hát của hai mẹ con. Mẹ thấp thoáng trong dáng dấp những bà tiên hiền từ mẹ đã kể cho Jordan nghe trong những đêm hai mẹ con ôm nhau nghe mưa rầm rì trên mái tôn, hay những buổi chiều êm ả hai mẹ con tay trong tay đi dưới vòm pecan cao nghệu. Mẹ là vòng tay ôm, là hơi thở ấm. Vậy mà bỗng chốc mẹ hoàn toàn biến mất. Mẹ đã biến mất hoàn toàn. Jordan không thể nào tin được điều ấy. Chẳng lẽ sau một cơn lốc dữ mẹ cũng biến dạng như cả một rừng cây nầy, như căn mobile home nầy, như cái xe móp méo kia? Hay mẹ vốn là một bà tiên, giữa cơn phong ba đã bay về cõi khác? Không. Chắc chắn mẹ đang ở quanh đây. Mẹ Kara thương yêu Jordan lắm mà. Mẹ sẽ không bỏ Jordan mà đi đâu hết. Mẹ đang thất lạc ở một nơi nào đó, hay đang bị kẹt dưới một gốc cây to. Mẹ. Mẹ. Mẹ. Jordan đã trăm ngàn lần gọi mẹ suốt một ngày nay, gọi khan cả tiếng, gọi nát cả tim, gọi bong cả phổi. Jordan đã nằm bịnh viện mấy hôm nay để được băng bó ba cái xương sườn gãy, được chửa trị cái chân sưng vù và cái lưng đầy vết trầy trụa. Ðây là lần đầu tiên trong đời Jordan thiếu mẹ bên cạnh khi Jordan đau ốm, nhất là khi phải nằm bệnh viện. Vừa ra khỏi bịnh viện sáng nay, Jordan đã nói với bà ngoại , “Chúng ta phải đi tìm Mẹ”. Rồi với đôi giày bố và cây gậy, cái mũ và bi-đông nước, Jordan đã khập khiễng trở về căn nhà giờ đây chỉ là một đống ngổn ngang những tôn, những ván giữa những thân cây gãy ngọn. Nơi trú ngụ đã không còn, chắc mẹ đang lẩn quẩn đâu đây. Jordan nhớ rõ lắm mà: Mới ngày hôm kia, trong cơn lốc xoáy dữ dội, căn mobile home rung rinh như cành cây bị gió giật trên cao. Các cửa kính đã bể hết. Mẹ đã ôm chặt Jordan. Rồi mấy miếng tôn trên mái lần lần bay mất. Khoảng trống trên đầu là mưa, là gió, là sấm, là sét. Một cành cây lớn đã rơi ngay giữa phòng khách. Mẹ càng ôm Jordan chặt hơn, thân người bé nhỏ của mẹ như cố trùm phủ Jordan, chở che Jordan khỏi trăm ngàn mảnh vụn bay loạn đả từ tứ phương tám hướng. Tường nhà kêu răng rắc như cũng sắp bay đi. Trời tối thui nếu không có những tia chớp trên nền trời. Mẹ con lần tìm lối đi vào phòng tắm, chỗ duy nhất trong nhà còn một chút mái che. Mẹ túm tất cả mấy cái khăn lông trùm đầu và quấn quanh mình Jordan. Hai mẹ con tay chặt trong tay cùng cầu nguyện. Gió vẫn đánh sầm sập chung quanh. Tiếng bay vun vút của những cành cây gãy, những tôn, những ván , những cát, những đá....càng làm cho Jordan lạnh run thêm. Có một khắc giây nào thật là ngắn Jordan cảm thấy thân mình như được nhấc bổng, đôi tay mình nắm  một khoảng hư không chớ không phải là đôi bàn tay ướt sủng của mẹ.

         Jordan chỉ thực sự thấy mất mẹ khi được chú Jim hàng xóm kéo lên từ con lạch gần nhà.

         Vừa thất thểu đi tìm mẹ, bé Jordan cứ nói với những người bé gặp trên đường, “Phải chi mình nắm tay Mẹ chặt hơn nữa, chặt hơn nữa”. Bé vừa khập khiễng đi vừa nói, “Phải chi...Phải chi ....” Bé Jordan bây giờ là một kẻ mộng du trên vùng đất vừa quen thuộc vừa lạ lùng, ác độc.

 

                                                                      xXXx

 

              Em Jordan thương quí,

 

         Mấy hôm nay anh có theo dõi cơn thần phong ở Oklahoma qua truyền hình và báo chí. Anh biết đó là một cơn lốc dữ dội có cây ngã, có nhà cửa bị cuốn đi, có người chết và mất tích. Thực tâm anh có thương cảm cho các nạn nhân, có, nhưng không nhiều. Cho đến hôm nay được nhìn mấy tấm ảnh của em trên tờ báo địa phương và được đọc một bài báo ngắn về em, anh đã xúc động thật nhiều. Anh như thấy trước mặt mình đứa bé sáu tuổi ở cái thị trấn Bridge Creek xa xôi, lạ hoắc kia là một biểu tượng tuyệt vời, đầy ý nghĩa đối với anh.

         Jordan ơi, em có muốn biết anh là ai không? Anh là người đang muốn được là em bây giờ đó. Anh đang muốn là đứa bé con sáu tuổi luôn nghĩ rằng mẹ mình đang bị lạc đường để suốt ngày lang thang tìm mẹ, suốt ngày chơi trò trốn tìm cùng mẹ. Thật là hạnh phúc cho em khi em không tin lời xác nhận của người giảo nghiệm tử thi. Lão nói gì mặc lão. Bà ngoại Mary, dì Susan, cậu Steve, chỉ là những người mau nước mắt thôi. Bà Dì Darlene còn nói lằng nhằng nào là từ nay Jordan phải ở với Ngoại, nào là Jordan phải nghe lời Ngoại.... Jordan thấy những lời nầy sao lạ tai quá! Mẹ Kara của Jordan chắc đang ở một nơi nào đó. Trên một tầng mây cao, hay một chân đồi thấp. Ở đâu thì Mẹ Kara vẫn kề cận bên em đó Jordan ạ. Em là người con xứng đáng được mẹ thương yêu cận kề. Còn anh, Jordan biết không, anh ước muốn được trở lại cái tuổi ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng như em, như hằng trăm ngàn trẻ thơ khác được mẹ ấp ủ trong lòng, được nói với mẹ muôn lời thương yêu. Ước muốn, có nghĩa là trong thực tế anh đã qua rồi cái tuổi ngây thơ của em. Hai mươi sáu năm làm người (hay nói cho đúng là hai mươi sáu năm có mặt trên đời), anh đã có tám năm làm người con bất hiếu, anh đã có quá nhiều tội lỗi đối với mẹ; khi nhận biết điều nầy thì mẹ đã không còn nơi cõi thế nầy cho anh nói lời xin lỗi hay bày tỏ một cử chỉ yêu thương, và ôm mẹ mà nói rằng: Mẹ ơi con thương Mẹ vô cùng.

             Jordan à, chuyện của anh thì buồn lắm, anh không định kể cho em nghe vì không muốn em lây cái buồn của anh. Nhưng anh nghĩ rồi đây sau những ngày lặn lội đi tìm mẹ, sẽ có lúc em cảm thấy buồn. Và anh cũng biết một ngày nào đó em sẽ buồn lắm, buồn vô cùng tận. Nghe chuyện buồn của anh có thể làm em bớt buồn chăng, vì em biết có một người lạ hoắc lạ huơ ở một nơi xa xôi nầy đang muốn cùng em chia sẻ nỗi buồn mất mẹ, nỗi buồn lớn nhất của một đời người đó em.

              Nói chuyện với em cũng là một cái cớ: anh đang nói với chính mình, đang mượn những lời nầy để mong làm dịu bớt nỗi buồn của mình. Cho nên em đừng nên cảm thấy xốn xang khi em không thể hiểu  hết những điều anh nói, nhe em.

 

              Tấn thảm kịch hình như chỉ thật sự bắt đầu tám năm trước khi anh vừa xong trung học và quyết định theo đại học tại một trường cách xa nhà hơn ba giờ lái xe.

         - Như vậy là con thật sự muốn sống xa gia đình ?

         - Con đâu có nói như vậy. Con chỉ muốn đi học trường con thích thôi.

         - Hay là mẹ con mình dời đến thành phố đó ở cho tiện ?

         - Con thấy không cần thiết đâu.

         - Nếu má thấy cần thiết thì sao ?

         - Còn nhà cửa, việc làm của má ở đây ?

         - Ðối với má, có cái gì trên đời nầy quí hơn con của má, hả con ?

         - Má tính sao cũng được hết.

         Thâm tâm anh là muốn có một đời sống tự do không bị dòm ngó, ràng buộc; mà mẹ anh thì hình như lúc nào cũng dòm, cũng ngó, cũng nhắc nhở, hỏi han, cũng ngăn cái nầy, cấm cái nọ... nên anh đã nói dối một cách rất tài tình :

         - Má cứ ở đây. Có gia đình bên cạnh học hành khó khăn lắm. Vài tuần con sẽ về một lần.

         - ...

         Từ đó anh như con chim chưa đủ lông, đủ cánh nhưng sớm sổ lồng, nên đã bước những bước chuệnh choạng, nghiêng bên nầy, ngã bên kia, lắm lúc lạc phương, lạc hướng. Bắt đầu năm học thứ hai anh đã có một vài lầm lỗi cá nhân trầm trọng. Tuy ở xa nhưng với giác quan thứ sáu của người mẹ, mẹ anh đã có vài lần dạm hỏi anh về chuyện nầy chuyện nọ. Sau nầy em sẽ biết là khi ta có một lỗi lầm nào đó, ta ít khi muốn gặp gỡ hay chuyện trò với những người thân, những người hằng quan tâm đến ta, nhất là cha mẹ ta. Cụ thể là càng ngày anh càng thấy xa mẹ, thấy mất dần những sự ràng buộc gia đình. Anh ít khi điện thoại về nhà. Những lần về nhà cũng càng ngày càng thưa. Mẹ anh thì vẫn đều đặn gọi anh mỗi tuần đôi lần như từ trước. Không gọi được ban ngày, mẹ gọi anh khi nửa đêm hay lúc một hai giờ sáng để mẹ được an tâm. Số lần mẹ nhắn tin trên máy nhiều gấp trăm lần mẹ con trực tiếp nói chuyện với nhau. Mẹ anh thì chỉ có thể lái xe loanh quanh vài dặm từ nhà đến chỗ làm, đâu có lái được trên xa lộ, nhất là lái đường xa vài trăm dặm, nên họa hoằng lắm mẹ mới quá giang người quen đi thăm anh. Vài lần mẹ đi không rồi về không vì không gặp con. Hình như những lúc đó anh bận những gì khác, không phải là bận chuyện sách đèn trường ốc. Nhưng khi mẹ hỏi, anh chỉ có thể trả lời là bận học cho an ổn mọi bề.

         Tình trạng cứ như vậy mà kéo dài cho đến hết niên học thứ tư là năm anh đỗ bằng cử nhân thương mại, ngành quản trị xí nghiệp. Lúc bấy giờ mẹ anh đã muốn trực tiếp can thiệp vào công việc của anh, điều mà từ lâu anh đã không bằng lòng. Cho nên chẳng những không về gần mẹ như mẹ muốn mà anh còn đi xa hơn, tới một tiểu bang khác, lấy cớ là có được một việc làm lương cao, giờ giấc không bị bó buộc nên thuận tiện cho việc tiếp tục học để lấy bằng cao hơn. Anh nhớ như in cái khắc giây ngay sau khi mẹ nghe anh tính toán như thế: lưng mẹ đang cong oằn trên cái bàn may máy, đầu mẹ cố ngẩng lên nhìn anh đang đứng cao lêu nghêu kế bên, miệng mẹ mở rộng mà không nói lên được tiếng nào. Anh thấy rõ đôi mắt mẹ đỏ lên sau đôi tròng kính lão, và hai hàng nước mắt. Jordan ơi, hai hàng nước mắt, hai hàng nước mắt của mẹ đêm hôm ấy, bây giờ là hai con trốt xoáy trong lòng anh mãi cho đến suốt đời.

         Vài ngày sau anh khăn gói đi nhận việc ở tiểu bang xa. Sáng hôm đó, trước giờ ra sân bay, mẹ còn cẩn thận nhắc anh nhớ đem theo các giấy tờ cần thiết và cái túi nhỏ mẹ để sẵn những thuốc men trị bịnh thông thường. Mẹ đứng ngay cửa tiễn anh đi. Anh đã bước qua khung cửa, chỉ kịp nói với mẹ: con đi. Vỏn vẹn hai chữ ấy. Và không có một cử chỉ thân yêu nào. Anh nghe tiếng khóc của mẹ sau lưng.

           Ði làm xa nhà, chi tiêu nhiều, đồng lương có cao nhưng anh có giữ lại được bao nhiêu đâu. Mẹ anh vẫn ngày ngày đi quét dọn mấy tòa biệt thự gần nhà, đêm đêm thức đến khuya lơ khuya lắt bên chiếc máy may, bên đống áo quần vải vóc. Một mình một bóng.

         Jordan ơi, một đồng lương của anh đã chưa nằm trong túi mẹ, cái bằng MBA anh chưa có trong tay mà anh đã vĩnh viễn mất đi người mẹ của anh rồi !

                                                

                                                                  xxXxx

              

                 Con trai yêu của má,

                

          Má không biết phải bắt đầu từ đâu và phải ăn nói thế nào để con còn có thể đọc tiếp lá thư nầy. Má nhớ mẹ con mình hơi khó chuyện trò với nhau vì má vốn ít học, ăn nói luộm thuộm, rầy trách không có căn cứ mà diễn tả lại không rõ ràng, nên ít khi mình đưa câu chuyện đến bờ đến bến; thường thì má đành yên lặng, tiếp tục việc may vá, còn con thì hoặc lớn tiếng với má bằng lý nầy lẽ nọ hay không nói gì hết, không nghe gì hết mà chỉ việc bỏ đi. Nghĩ cũng kỳ: mẹ muốn bàn chuyện với con mình mà phải chờ cơ hội, phải thế nầy, thế nọ, phải chuẩn bị kỹ lưỡng những lập luận, phải ăn nói tế nhị, mềm mỏng để không chạm tự ái con, phải biết tiến, biết thối... Cho nên có biết bao nhiêu chuyện má muốn nói với con mà nào có cơ hội, trong đó có chứng tức ngực thường xuyên từ vài năm nay của má, mà nếu có cơ hội liệu má nói với con được bao nhiêu và con nghe má được bao nhiêu. Trên cái xứ lạ quê người nầy chỉ có hai mẹ con mình là gần gũi nhất, mà không thường được chuyện trò vui vẻ với nhau thì chắc không có nỗi bi đát nào hơn phải không con? Ở những ngày tháng gần xa con vĩnh viễn như bây giờ má thấy má muốn nói với con vài điều, kẽo má không còn dịp nào nữa. Mà không nói với con được những điều nầy thì khi chết làm sao má nhắm mắt được hỡ con?

          Trước hết má muốn nói thật lớn với con rằng má yêu thương con lắm. Má cứ thắc mắc hoài điều nầy: Má đã có lỗi gì với con đến nỗi hình như con không còn thương yêu má nữa. Má cạn nghĩ ví dù cha mẹ có làm lỗi với các con chẳng lẽ không được con cái tha thứ hay sao? Ngược lại lỗi lầm của con lớn cách mấy mà con cho má biết má cũng tha thứ và tìm cách giúp đỡ con hoàn thiện. Má biết con cứ nghĩ là má chỉ thương anh chị con với đám cháu nội ngoại ở quê nhà nên má phải cật lực làm hai ba công việc để gởi tiền về. Người mẹ nào cũng yêu thương các con bằng nhau hết. Còn việc con cứ muốn sống xa má, muốn được tự do bay nhảy, tự do phung phí đồng tiền và tuổi trẻ, chứng tỏ rằng con quá ích kỹ, chỉ biết có mình, cả mẹ mình mà mình còn không nghĩ đến thì rồi đây con sẽ làm được gì cho người khác. Má dốt nát không biết cái bằng cử nhân, cao học của con nó lớn thế nào nhưng má biết trái tim con chưa đủ lớn để làm người, nhất là làm người con; cái tài quản trị xí nghiệp của con má không biết đã tuyệt vời đến đâu nhưng trong cái ý nghĩ nông cạn của má con chưa biết quản trị cuộc đời của chính con. Má ít học nhưng có một câu mà má còn nhớ nằm lòng, là : Có học phải có hạnh. Con có học, có bằng cấp nầy nọ, má có thấy mừng nhưng cũng thấy buồn: con đã không có cái hạnh, không có cái hiếu để, không có cái lòng vị tha. Mẹ mình càng ngày càng già cả bệnh tật, mà cứ làm lụng vất vả. Sao con không nghĩ một ngày nào đó người hàng xóm tình cờ khám phá thân xác má đã nguội lạnh từ lâu mà không ai biết sớm?

          Ðôi bàn tay của má ở gần mà con không chịu nắm thì nói gì đến việc nắm tay các anh, chị, các cháu của con ở quê nhà, hay nắm tay người khác.

          Linh hồn má sẽ hoài hoài cầu nguyện cho con để con sớm NÊN NGƯỜI.

         Má của con, người suốt đời thương yêu con.

 

                                                        xxXxx

 

         Jordan thương quí,

 

         Lá thư trên đây mẹ anh viết cho anh nhưng có lẽ người không muốn cho anh đọc nên đã để một chỗ rất khó thấy. Anh chỉ tìm được sau gần một tháng an táng mẹ.

         Em, đứa bé sáu tuổi, đã nắm thật chặt tay mẹ em trong cơn lốc dữ, vậy mà em, đứa bé sáu tuổi, cứ hối hận là để vuột tay mẹ và cứ ngày ngày đi tìm mẹ. Còn anh, tay mẹ cứ đưa ra, cứ chấp chới đưa ra cho đến cuối đời mà anh không chịu nắm lấy một lần!

 

 

TRẦN BANG THẠCH

 

 

 

Một bên là núi, một bên là rừng

 

 

MỘT.

Quán là một túp lều nhỏ nằm dưới chân đồi, bên lề con đường mòn dẫn từ hương lộ đến tận đỉnh đồi. Phía sau quán là bãi cỏ tranh cao khỏi đầu. Hương lộ là con đường đất trộn cát nhiều hơn đá, đầy ổ gà, rộng vừa đủ cho một chiếc xe hơi. Cách đó vài trăm thước là một ngã ba với khu chợ gồm mấy dãy hàng quán vách ván lợp tôn. Gần tới ngã ba, phía bên trái khu chợ là nhà máy xay lúa đã từ lâu không còn hoạt động, tấm bảng hiệu đã trốc hết sơn, cột ống khói gãy ngoặt như bị cứa cổ, vách trống hơ bốn phía, nhiều tấm tôn trên nóc đã bị lấy mất. Nằm xéo cái quán cốc, bên kia hương lộ là ngôi giáo đường mà người ta chỉ thấy ngọn tháp chuông nhọn hoắt nhô lên khỏi rừng cây xanh. Từ lâu tiếng chuông hình như không  ngân lên đều đặn mỗi chiều, hay chuông có ngân mà vì người bõ già đã không đủ sức kéo chuông nên âm thanh không vượt thoát ra khỏi bức trường thành bằng một rừng cây lá. Thật lâu mới có một chiếc xe đò hay xe nhà nước chạy trên khúc đường vắng vẻ này, còn đa số xe thì quẹo mặt chỗ ngã ba để tới thị trấn miền biển. Cho nên trên khúc hương lộ này người ta lưu thông bằng xe đạp hay đi bộ; khi chuyên chở nặng, xe bò là phương tiện hữu hiệu nhứt.

Nhìn trong quán người ta thấy một người đàn bà tuổi ngoài năm mươi đang ngồi trên cái sạp gỗ, mắt ngó bâng quơ con đường trước mặt. Mấy chai nước ngọt, vài cái keo đựng  ít bánh, kẹo, đậu phộng, hạt dưa ... để trên kệ; mấy khúc khô cá thiều, cá đuối, mấy con khô mực mốc cời bọc trong cái túi ny lông, cùng nải chuối sứ còn sót mấy trái, da đã thâm kim, treo lủng lẳng trên sợi dây gai căng ngang hai vách lá. Trên chiếc bàn hẹp té kê bên góc nhà, một chai rượu trắng đầy và một chai lưng hơn phân nửa có chiếc ly thủy tinh trong vắt úp ngược trên miệng chai. Chiều đã xuống từ lâu. Tiếng chim chiều nghe rõ hơn khi khắp cả ngọn đồi tiếng búa đẽo đá đã ngưng. Chiếc xe bò cuối cùng của lão lưng gù đã đổ dốc rồi khuất sau một vòm đá bên đường. Những người lấy củi và đập đá đã về nhà hết rồi. Con đường mòn dẫn lên đồi và con hương lộ không còn một bóng người. Hàng ngày vào khoảng giờ này, sau hồi chuông từ ngôi giáo đường, người đàn bà không mong có người khách nào ghé quán, nhưng bà biết người đàn ông đó sẽ tới, sẽ từ khu rừng cây bên kia băng qua đường rồi bước vào quán ngồi trên chiếc ghế độc nhất đó, như mọi khi. Bà sẽ rót đầy ly rượu trao cho người đàn ông; ông đón lấy bằng hai ngón tay, rồi nhẹ nhàng để trên bàn. Hai bàn tay của hai người vẫn hơi rung, như mọi khi. Người đàn ông sẽ không uống vội. Họ sẽ nói với nhau vài điều mưa nắng, như mọi khi. Thường thì chỉ có người đàn ông nói, giọng khàn khàn của người cao tuổi, còn người đàn bà thì thỉnh thoảng mới góp vào vài lời. Ngồi một lúc, nhiều khi không nói với nhau lời nào, trước khi đứng dậy, như mọi khi, người đàn ông cầm ly rượu uống ực một cái cạn ly rồi bước ra khỏi quán, nói gọn tui về nhen. Người đàn bà bây giờ mới thật sự đóng cửa quán, và bắt đầu lên đèn.

 

HAI

Mấy hôm nay người đàn bà không nghe tiếng chuông chiều, như mọi khi. Người đàn ông cũng không thấy đến, như mọi khi. Tiếng  xe bò lốc cốc, kẻo kẹt của lão gù lưng đã chìm sau vòm đá. Tiếng chim cu rút  từ vách đá phía sau quán, nghe sao não nùng. Người đàn bà đóng cửa quán mà nghe lòng thật nặng. Cửa đã cài then nhưng đôi mắt người đàn bà còn vẩn vơ ở đâu bên kia lộ và ở đâu bên kia rừng. Thêm một đêm nữa người đàn bà không muốn lên đèn.

Trong bóng đêm, người đàn bà thấy rõ cái tháp chuông cao nghệu vươn khỏi tấm thảm đen kịt. Tấm thảm ấy đã một lần cuốn lấy chàng, dìm chàng đâu đó trọn một thời thanh xuân giữa bốn bên tường gạch. Hình như mỗi đêm, từ trong lòng tấm thảm ấy người đàn bà thấy người con gái mười lăm mười bảy đứng thập thò sau vách núi nhìn chàng tay chân cuồn cuộn với những nhát búa đập nhịp nhàng lên từng khối đá xanh. Chàng. Chàng như một chúa tể. Chàng như một thiên thần giữa trùng trùng đá tảng. Núi rừng nầy đâu phải của riêng chàng, nhưng tại sao chàng ngang nhiên chiếm ngự tất cả những con dế con trùng, tất cả những đồi cao, bãi thấp, những lá cỏ, nhành cây. Cả cái trái tim nhỏ nhoi của người con gái ngoại đạo này đã chui vào đôi bàn tay chàng từ hồi nào vậy? Những ngón tay chàng không khép, nhưng hơi ấm từ lòng bàn tay cũng đủ thiêu sống một thời thanh xuân của người con gái tội nghiệp.

 

  BA

Chiều nay người đàn bà tưởng mình lầm khi nghe hồi chuông thứ nhất. Đến hai hồi chuông kế tiếp thì bà mới biết rằng rừng cây bên kia đường đã thực sự lên tiếng, những tiếng ngân vang thân thuộc từ nóc giáo đường. Và người đàn ông quen thuộc cũng vừa bước ra khỏi khu rừng, như mọi khi. Người đàn bà thấy như hòn đá tảng bà mang mấy ngày nay bỗng rớt khỏi lòng mình.  Người đàn ông băng qua đường, dừng lại trước quán, hai tay vịn thành cửa, đầu hơi cúi xuống giữa hai ống tay toàn xương khiến cho chiếc thánh giá rơi ra từ cái cổ áo không kịp cài nút trên. Ông thở một hơi dài rồi mới bước vào quán, ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc. Hôm nay trông người đàn ông có vẻ khác với mọi khi.

“Mấy hôm nay tôi bị cảm thương hàn”.

“Vậy sao? Cơ khổ! Tôi nào có biết”.

“Tay chưn mình mẩy lạnh ngắt, lại ho thật nhiều, tưởng đã không ngồi dậy nổi”.

“Trời ơi, thật khổ cho ông. Hôm nay thì ông thấy thế nào? Đã bớt nhiều chưa? Uống những thuốc gì? Sao ông không mặc thêm áo ấm? Chưa hết bịnh mà đi đứng làm chi hổng biết nữa!”

 Lần đầu tiên bà thấy mình nói quá nhiều, khác với mọi khi.

“Thì tôi cũng uống mấy thứ lá rừng. Chưa bớt nhưng cũng ráng xuống đây”.

 

Chưa bớt nhưng cũng ráng xuống đây, câu nói sao nghe nặng hơn chì khiến người đàn bà chừng như muốn khóc. May mà người đàn ông, như thường lệ, đã nốc xong ly rượu, nói tui về nhen, rồi bước ra cửa, dáng đi lạng quạng, muốn té. Chiếc áo sơ mi màu cháo lòng mỏng dánh không cản được ngọn gió va vào lồng ngực kẹp lép như một cánh lá khô. Mấy sợi tóc trắng phau phất phơ trong trời chiều, cô đơn như người đàn ông đang tan dần trong màu xanh của lá và đang mất dần trong màu tối của đêm. Tấm thảm đêm đen kịt, như mọi khi, cuốn lấy người đàn ông thêm một lần nữa.

Cửa quán đã đóng rồi mà tầm mắt người đàn bà vẫn còn lẩn quẩn bên kia rừng. Rừng đang trôi hun hút vào bóng đêm. Hòn đá vừa mới rơi xuống hồi nãy bỗng ai đó đã nhặt lên rồi bỏ vào lòng người đàn bà. Hòn đá bây giờ nghe nặng hơn trước thật nhiều.

Tối nay người đàn bà cũng không buồn lên đèn. Bà đọc mấy câu chú Quán thế âm trong bóng đêm.

Đêm vẫn đen và nặng như chì.

 

 CUỐI CHUYỆN

Khi biết mình còn mấy hơi thở cuối, người bõ già cố trèo lên tháp chuông, nắm sợi dây như một thói quen từ mấy chục năm nay, nhưng tiếng chuông không vượt khỏi cái dày đặc thâm u của cây rừng. Tấm thảm đen muôn đời vẫn đen kịt. Sau đó thì tiếng chuông vĩnh viễn im bặt từ tháp giáo đường. Cái quán cốc thì cũng vĩnh viễn đóng cửa. Không còn người khách mỗi chiều nhô ra từ bên kia con đường, chỗ bìa rừng, như mọi khi, thì quán mở cửa làm chi. Tiếng niệm chú Quán Thế Âm mỗi đêm cũng không  một âm vang nào để dội từ vách núi.

Phía xa đằng kia khu chợ vẫn người đi kẻ đến; đâu có ai biết một chút đổi thay đã xảy ra trên khúc hương lộ vắng tanh này.

Con hương lộ tuy không rộng đủ cho hai chiếc xe hơi qua mặt, nhưng cũng đủ để chia đôi một bên là núi, và một bên là rừng.

Trần Bang Thạch

tl_LibStaBurningBldings.jpg

CHUYỆN NEW YORK,

MỘT NGÀY

 

 

    Gần nửa đêm rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn mặt vuông là cái computer. Xung quanh chị  ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần chị Suzanne muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống nơi góc phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một giấc, rồi mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa xong chị cố nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi ghi chép, rồi lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một ngày thật quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của công ty nơi chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng thương mại với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới và khó nuốt, đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc. Thất bại lần này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản. Từ vài tháng nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng. Nhân viên lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa mới tới ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng trong các phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này. Còn cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không khá gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt. Nhiều khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn hẹn nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn dọn dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới.

    Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày mai chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người còn lại, trong đó có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh. Chứng dị ứng thời tiết cứ làm chị khốn đốn mỗi năm mấy tuần. Nhưng người chủ trực tiếp của chị là bà phó giám đốc Helen sau mười ngày đi Bắc Kinh, khi trở về tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm từ sáng hôm nay. Bà nói  kết quả chuyến đi của bà đến sớm không ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh sẽ đại diện chánh phủ đến Công ty duyệt xét toàn bộ vấn đề để chánh thức ký hợp đồng hay không. Hơn một tháng nay công sức của bà phó giám đốc Helen đã đổ quá nhiều trong cái dịch vụ này, nó không thể thất bại được. Công ty không thể chết được. Bà nói bà cần tới cái tài cung ứng tài liệu của chị Suzanne để trình với phái đoàn ngày mai. Đến gần sáng thì chị Suzanne đã có những printouts cần thiết với chi chít những con số và những biểu đồ đủ màu sắc để cung cấp cho bà Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời bàn giấy. Chị đi đến cửa sổ, vén màn rồi mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai hít thở không khí trong mát buổi sáng tinh mơ của New York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm, sang cả và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho mình một ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại tấm chăn, hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén nằm cạnh chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không thể nào mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của mình sau một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà hàng đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không thể tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn nên chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà nhìn. Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những cơn hắt hơi sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương và tội nghiệp vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép kẹp đó không biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp nhiều thứ quá: những tràng hắt hơi như cơn địa chấn nhỏ trong nội tạng và bao nỗi lo toan của một người đang gánh nặng cái gánh gia đình với hai đứa con nhỏ và người chồng thất nghiệp. Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank mặt mũi méo xệch nhận tờ giấy màu hồng của sở thông báo anh tạm nghỉ việc tại hãng hàn xì này thì  người vợ ốm yếu của anh phải mang thêm trên vai vài hòn đá tảng. Một cái xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền lương khiêm nhường của một nữ thư ký và chút ít tiền trợ cấp thất nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm đủ chi tiêu cho việc ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng tháng trả tiền thuê căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc mỏ này. Tuy vợ không nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng cho những ngày sắp tới, những ngày mà cả hai vợ chồng đều thất nghiệp. 

 

    Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ. Anh Frank đang mớm sữa cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén cereal trộn với sữa tuơi. Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong nhà, kiêm luôn người giữ trẻ. Người father mom này mỗi khi đi chợ búa hay đi xin việc đều có con bé chưa đầy tuổi trên tay và thằng bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới chân. Thấy mà tội nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm biệt chồng và hai con rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị Suzanne như phòng lên cao hơn so với bình thường, một phần vì giấy tờ quá nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm hy vọng của cả nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây chị Suzanne chợt mỉm cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle 8 tháng tuổi cũng cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của nó vào cái samsonite của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào lề, vẫn đúng giờ như thường lệ. Vẫn những tiếng hi, hi quen thuộc, thân mật, rộn rã. Một ngày như mọi ngày. Gió vẫn mát lạnh từ dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe cộ vừa thở vừa bò. Người bạn đồng hành người Á đông với mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn trên người mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường 14 rồi xuống xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu China Town trên đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành quen thuộc từ người Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời nào ông gặp trên xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà phát thèm sáng nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở băng cuối. Và cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết tin tức trang đầu của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi chị phải bước xuống, đó là toà cao ốc phía nam của Trung tâm thương mại thế giới. Từ dòng Hudson ở hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng khi  New York đang bước vào thu. Tượng Nữ thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao ngạo, vĩ đại, vừa thân thương, gần gũi.

 

    Một buổi sáng như mọi buổi sáng New York. Như mọi buổi sáng của người New York.

 

    Tuy giờ làm việc bắt đầu từ chín giờ nhưng khoảng  tám giờ rưỡi thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt. Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu, kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này. Chị còn cho  Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm bằng câu: I love you. See you soon, Honey.

    Vậy mà sau câu nói thương yêu đó họ không còn gặp nhau nữa. Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã mất nhau. Thật sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa vĩ đại phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng nổ kinh hồn, trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi chồng, gọi nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết.

    Rồi ầm ầm như sấm nổ, như sét rền, như đất chuyển trời rung. Như trời sập. Mọi người mạnh ai nấy chạy. Tiếng kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc. Có người chạy loanh quanh, không còn biết đâu là lối ra cầu thang hay thang máy. Trời đất tối sầm. Người ta dồn cục khắp hành lang.

    Ở một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng lên không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên bầu trời New York.

 

    Trong căn phòng khách ở tầng thứ 41 của tòa chung cư trên đường số 23, anh Frank thấy mặt thằng Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay trong không khí, mồm nói với anh mấy lời mà anh không nghe rõ; anh nhìn màn ảnh truyền hình trước mặt thì những chú thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay vào đó là một trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc. Anh Frank mở cửa chạy ra hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng hốt của người xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái lửa. Anh chạy vào nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền hình. Anh Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện thoại khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng trả lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt không khi thấy một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi vợ anh đang làm việc? Không, không thể nào có chuyện như thế được. Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là sấm động, phong ba. Cả dòng Hudson cũng là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng Nữ thần Tự do thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen.

    Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang bốc cháy. Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình, anh Frank bỏ hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống chỗ để xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi . Xe anh chỉ chạy được một đoạn đường thật ngắn thì phải dừng lại, không thể nhích thêm một thước nào nữa. Mọi người đang đổ ra đường. Tiếng la hét, tiếng còi hụ inh ỏi một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường rồi hai tay bồng hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để đến gần hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì anh hoàn toàn bị cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái lửa như con ác quỉ vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ trên vai anh, còn thằng Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng trên đường và cụm khói trước mặt. Không thể đi thêm được nữa, anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và trong hỗn loạn. Hàng ngàn người chen lấn trên cầu Brooklyn và cầu Manhattan. Vô số người đổ dồn về phía bến cảng số 11 để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người nhấp nhô. Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người phóng ra từ  cửa sổ của một từng lầu gần chót vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai toà nhà lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng, như hai người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên hào thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ khắp nơi và hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện Cựu chiến binh cách mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng về phía hai trái núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường West Broadway anh thấy khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn. Tro than bao trùm các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm cái áo len màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả là những áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không biết bây giờ là lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ. Cái điện thoại ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã bị cắt đứt từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó bâng quơ, anh Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm chặt hai con mà khóc.

                                                                   xXx

 

    Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn hai con đứng nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt anh và xung quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh vật ở đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của hai tòa cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng giữa lòng New York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp nơi là gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi, cong queo, ám khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như trời trồng, như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn u minh nào chợt tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính trên từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử với cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như cũng biết trông ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này nó nằm yên trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước mặt. Còn thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm nay thì tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn ruột. Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank  gọi vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn. Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ.

    Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng nấc của các oan hồn.

 

    Nữ Thần Tự Do từ đằng xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt.

Tháng 9 – 2001

Trần Bang Thạch

 

Trên vách núi

một dòng sông

 

     Lúc tôi đến thì ông K. đang ở sân sau.  Ông đang ngồi trên một khúc cây sần sùi, hướng mặt về ngọn đồi thấp sau nhà. Xa nữa là dãy núi cao như đụng trời. Nửa điếu thuốc trên tay ông không còn một chút lửa. Đêm ở đây đến thật muộn. Gần một giờ trước, khi tôi vừa tới trạm xe buýt thị trấn thì đèn đường đã sáng choang. Vậy mà ở đây, bây giờ, trời vẫn chưa tối hẳn, để tôi còn có thể nhìn dáng dấp ông K. nhỏ nhoi, bất động in trên nền trời xanh nhạt có những dãy mây chết cứng. Chừng như gió cũng không tới thung lũng này. Trước mắt tôi là một bức tranh tĩnh vật có đồi có núi và có người đàn ông của mấy mươi năm cũ. Thiên nhiên mênh mông mà im lặng quá. Người tình có đó mà như không. Tôi đang đứng sau lưng K. mấy bước mà như ngàn ngàn dặm xa.

 

“Chứng bịnh của ba con mấy tuần nay trầm trọng quá. Ba con hầu như quên hết mọi chuyện đã qua. Có một cái tên duy nhất mà ba cứ nhắc hoài. Đó là tên của cô đó, cô T. ạ. Đôi mắt của ba bây giờ tệ lắm, chỉ thấy mờ nhạt dáng người. Nhiều lúc Ba cũng chẳng nhận ra con. Chuyện vặt trong nhà ba vẫn làm được, nhờ quen tay và quen chỗ”

 

     Tôi nghe tiếng khóc của cháu Nga bên kia đầu giây điện thoại. Tôi như nghe cả cái quặn thắt của cõi lòng Nga từ hàng trăm dặm xa xôi. Hay là chính cõi lòng tôi đang trùng trùng sóng vỗ?

 

“Ngày nào cũng như ngày nấy, dù nắng dù mưa dù sáng dù tối, ba một mình ngồi lặng lẽ ở sân sau, mắt vô hồn nhìn ngọn đồi trước mặt. Chắc đã nhiều ngày rồi ba không gọi cô?”.

“Phải, nhiều ngày rồi. Con biết đó, cả tháng nay cô chỉ có thể nói chuyện với con thôi. Có lẽ ba cũng đã quên người cố vấn tâm thần nầy rồi”.

“Chắc con phải đưa ba trở lại bệnh viện tuần tới. Cô T. à, tự nhiên con nghĩ rằng sự có mặt của cô tại đây rất là cần thiết, trong lúc này. Cô đồng ý đến đây một lần nhe cô, cô T.?”

“Ừ. Đón cô tại trạm xe buýt thị trấn lúc 6 giờ chiều mai”. Tôi nói nhanh , chỉ sợ mình đổi ý.

“Cô nói thật phải không cô? Phải không cô T. ?”

“Thật”.

“Cám ơn Trời Phật. Cô làm con ngạc nhiên quá. Con cảm ơn cô”.

“Cô sẽ khoác cái áo gió màu tím than, đó là dấu hiệu để con dễ nhận ra cô”.

“Không khó nhận nhau đâu, thưa cô. Vì vào giờ đó, tại thị trấn đèo heo hút gió nầy, chắc chỉ có hai người Việt Nam là cô cháu mình thôi. Cô làm con mừng quá. Với sự có mặt của cô, con nghĩ bệnh của ba con sẽ giảm”.

 

     Kể cũng thật là lạ.Tôi đã có một quyết định quá nhanh mà tôi không ngờ. Tôi sẽ phá bỏ một lề luật mà tôi đã cố giữ từ hơn hai năm nay. Tôi đã đầu hàng dễ và nhanh đến vậy sao? Tôi sắp tới một nơi mà tôi nghĩ suốt đời tôi sẽ không tới. Không nên bao giờ đặt chân tới. Phố núi Prairie View, chưa thấy lần nào mà đã sợ, chưa đến lần nào mà chừng như đã quá thân quen. Từ ba năm trở lại đây, nơi chốn ấy đã cất giữ gần hết phần hồn của tôi, chứ không phải phố biển Seal Beach này với người chồng tên Steven, là nơi tôi đã gởi tấm thân từ hơn ba mươi năm nay.

 

     Phố núi Prairie View nghe chừng ngọt ngào như hơi thở. Vì nơi đó có K.

 

     K. đã đến đất nước nầy thật muộn màng. Nhưng chàng đã đến trong đời tôi thật sớm, và ở lại thật lâu, cho tới tận bây giờ. Ở một khắc giây nào đó của hơn ba mươi năm trước, Steven đã đan cho tôi một chiếc lồng muôn hồng ngàn tía, rồi nhấc bỗng tôi đi, vượt bao sông dài biển lớn tới cái xứ sở lạ hoắc lạ lơ nầy. Nhưng K., chính K. mới là người sập xuống cánh cửa lồng nhốt chặt mảnh linh hồn của tôi, để con tim tôi cứ đập rộn rã ở quê nhà, cõi lòng tôi vẫn cứ bập bềnh theo con nước lớn nước ròng trên dòng sông cũ, và ánh mắt tôi cứ dõi về một phương trời lửa đạn ở một chiến trường xa. Và người xưa ...

 

     Người xưa đã vì tôi mà một ngày thật xa nào đó, đã bỏ lớp, bỏ trường đi vào binh lửa, cố quên hình bóng một người tình. Rồi một ngày sau hơn bốn mươi năm, người lính trở thành người tù đó đến xứ sở nầy với một tấm thân bệnh hoạn, một trí não lúc nhớ lúc quên, lúc mê lúc tỉnh, nhưng con tim vẫn hướng về người tình phụ năm xưa.

 

     Bóng tối đang lên, xóa mờ những đỉnh núi xa. Ở đó bây giờ là bóng đêm. Vùng đồi thấp sau nhà cũng bắt đầu nhạt nhòa sương khói. Tôi không nghe một hơi thở nào quanh đây, nhưng tôi nghe chút gió bay qua tóc mình, và nghe một tiếng chim cô đơn lạc lõng giữa buổi chiều tà. K. đứng lên, ném nửa điếu thuốc đã tắt từ lâu, định quay vào nhà.

 

“Ông K. Kính chào ông K. Thành thật xin lỗi nếu tôi đã làm ông bất ngờ”.

“Dạ ...Dạ ...”

“Tôi là Cindy Trần, người thường nói chuyện với ông qua điện thoại đó. Ông K. không nhận ra tiếng tôi sao?”

“Có, có. Dạ, kính chào bà Trần. Tôi không ngờ được gặp bà hôm nay. Thật là không ngờ. Bà làm tôi ngạc nhiên quá, thưa bà Trần”.

“Trái đất nầy tròn mà ông K. Mình là bạn từ hơn 2 năm nay thì sao không có ngày gặp!”

“Ờ...Ờ...Phải, phải. Hơn 2 năm nay cứ nghe tiếng nói nhau mà hôm nay cha con tôi mới được hân hạnh gặp bà. Kính mời bà Trần vào nhà. Trời sắp lạnh rồi”.

 

      Tôi bước theo K., vào nhà. Căn nhà như một cái lều nhỏ của người dân da đỏ quanh đây. Vách là những khúc gỗ chưa lột da xếp chồng lên nhau làm thành bốn góc của cái hộp hình chữ nhựt. Hai mái nhà cao chụm lại trên chóp như một nóc giáo đường. Cửa trước hướng ra chiếc sân rộng. Chiếc sân ngó xuống ga xe lửa dưới chân đồi, có con đường liên tỉnh chạy ngoằn ngoèo hai bên thành đá dựng . Chỉ một bóng đèn mờ nơi gọi là phòng khách, không đủ sáng để tôi nhìn rõ mặt người đàn bà trong khung ảnh nhỏ đặt trên đầu tủ ngăn phòng khách với căn phòng phía sau, có lẽ là nhà bếp.

 

      Nga khoác lên người chiếc áo dạ, nói con phải xuống phố mua ít món đãi cô Cindy một bữa ăn vùng núi mới được.

 

      Tôi kiếm chỗ máng cái áo gió rồi ngồi trên cái ghế sắt cạnh cửa ra vào. Ông K. đứng giữa phòng khách cứ xoa xoa hai bàn tay với nhau, có vẻ khó mở lời.

 

“Dạ...Kính mời bà Trần ngồi nghỉ. Xin phép bà Trần cho tôi mấy phút để pha bình trà”.

“Dạ...Không dám làm phiền ông, ông K. ạ”.

 

      Trời ơi , chúng tôi phải ăn nói lịch sự, trang trọng, khách sáo đến như vậy sao? Từ bao giờ chúng tôi chỉ là hai người quen, hai người đồng hương bình thường, chớ không phải là hai người đã có thời yêu nhau tha thiết? Cái mặc cảm thua thiệt của K. hơn mấy mươi năm trước hay chứng bịnh quên trước nhớ sau, quên hình nhớ bóng của K. bây giờ? Hay là cái mặc cảm tội lỗi quá lớn của tôi đã giăng một màng sương tuy mỏng mà lạnh căm, để chúng tôi thành hai pho tượng băng giá đứng giữa trời đông nhìn nhau mà không cất lên được lời nào. Hơn hai năm qua , mỗi tháng đôi lần trên đường giây điện thoại có lẽ chúng tôi đã nói quá nhiều, quá đủ về một chuyện tình thật xa nhưng không bao giờ cũ. Chuyện người nữ sinh mười tám tuổi đã bỏ cái thị trấn tuổi nhỏ nghèo nàn để bước vào đời; đã bỏ người tình từ thuở học trò để lấy chồng rồi về quê hương chồng ở một chốn xa xôi Seal Beach đó. Chuyện người con trai hai mươi đã không giữ được người yêu thì màng chi đến việc đèn sách. Chuyện tình như vậy thì đâu có gì là lạ trong thế gian. Và người tình si suốt đời, thế gian cũng đâu bao giờ cấm cản. Qua điện thoại, người mang bệnh tâm thần tên K. cứ tiếng còn tiếng mất, lúc tỉ tê, lúc ngọt ngào, khi giận hờn, khi tức tối ...Chuyện tình cũ theo đó mà mới hoài. Từ hơn hai năm nay tôi dần dà trở thành người kịch sĩ thượng thặng trong vai trò người chuyên viên khoa tâm lý trị liệu bất đắc dĩ với cái tên Cindy Trần. Tôi diễn xuất nhập vai đến nỗi bên kia đầu giây tại phố núi Prairie View, K. không ngờ mình đang nói chuyện với người tình tên T. của gần bốn mươi năm trước. Và tôi, lắm khi trí não tôi cũng lững lững lơ lơ, tâm trạng tôi cũng mờ mờ ảo ảo trong câu chuyện tình của chính mình. Có lúc tôi thấy mình là T., cô Phan Ngọc T. của thị trấn đìu hiu Long Thạnh đang lắng nghe tâm sự của người tình cũ; có lúc tôi thấy mình thật là khốn đốn, khổ sở trong vai trò người chuyên viên tâm lý Cindy Trần của phố biển Seal Beach. Trong những lần điện đàm như vậy, có thể có lần tôi khóc, hay từ bên kia đầu giây chính K. cũng khóc; có thể một lúc nào đó hai trái tim chúng tôi cùng một nhịp, cùng thổn thức, cùng nghẹn ngào. Chúng tôi đã sống lại những ngày yêu thương cũ tại hai nơi hoàn toàn xa lạ đối với mỗi người “ Bà Trần biết không, có bao giờ tôi nghĩ tới một ngày tôi phải bỏ con sông thân yêu chảy lặng lờ phía trước nhà, nơi tuổi trẻ tôi đã từng ngụp lặn, nơi chúng tôi đứng bên nhau hàng giờ nhìn từng cụm lục bình bình thản trôi. Những đêm trăng sáng, con nước lớn như ngừng trôi để chúng tôi thấy bóng mình in trên sóng nước. Làm sao tôi biết được một ngày nào đó tôi phải vĩnh viễn mất T., người yêu đầu đời của tôi. T. bỏ đi. Tôi cũng bỏ lại sau lưng dòng sông tuổi nhỏ, bỏ lại đoạn quốc lộ sụp lở vào những mùa nước nổi”. Trời ơi, K. đã nhắc tới những góc thật nhỏ của quê hương tôi, đã rung hồi chuông thật khẽ mà làm từng giây thần kinh tôi đau nhức. Làm sao tôi không nhớ được những đêm trăng trên bến nước, nhớ lắm, nhớ thật nhiều, nhớ từng cánh lục bình trôi; tôi như thấy trước mắt mình hình ảnh K. đã từng dìu tôi bước qua đoạn quốc lộ tróc lở đó để vào trường tiểu học. Rồi cũng chính K. là người dìu tôi qua mấy đoạn đường trơn trợt để vào trường trung học. Vậy mà có một ngày tôi đã bỏ lại tất cả. Và bây giờ định mệnh nào đã trớ trêu để chúng tôi gặp nhau trong tình cảnh lỡ làng nầy. Suốt hơn hai năm chuyện trò qua điện thoại, nhiều lần tôi phải tự nhủ mình : hãy đi theo con đường mình đã chọn từ khi hay tin K. đến Mỹ: Chuyện tình của hơn bốn mươi năm trước, từ thuở tóc hãy còn xanh, đã trót dỡ dang; mỗi người bây giờ tóc đã hoa râm, mỗi người có một hoàn cảnh riêng, trân quí giữ trong sâu thẳm lòng mình những thân ái cũ chẳng phải là một hạnh phúc sao?

 

       K. trở ra phòng khách với bình trà. Ông đã mặc vào bộ bà ba trắng còn nguyên nếp gấp. Râu ria cũng được cạo sạch nên trông K. bớt đi cái vẻ tiều tụy so với lúc tôi vừa mới gặp. Nhưng đôi mắt K. thì vẫn vậy: như có lớp mây mỏng che ngang khiến sự di chuyển có phần nghiêng chao. Hình như tôi chưa tìm gặp dấu vết thân quen nào đó trên dáng dấp của người đàn ông dấu mặt đã từ hơn bốn mươi năm nay vẫn đi bên cạnh đời tôi. Tôi kịp nén một tiếng thở dài.

 

“Để bà Trần ngồi lâu một mình, tôi thành thật xin lỗi. Kính mời bà Trần dùng ly trà nóng”.

“Dạ không dám. Kính mời ông K.”

“Dám hỏi bà Trần, cơ may nào đưa bà Trần ghé thăm nhà chúng tôi ?”

“Chỉ tiện đường ghé qua thôi. Thưa ông K.”.  Tôi hơi nhếch mép cười sau câu trả lời không thật ấy.

“Cảm ơn, rất cảm ơn bà Trần”.

“Dạ, không dám, thưa ông K.”

 

        Những lời vô cùng khách sáo như vậy cứ như thế mà tuôn ra suốt buổi hay sao ? Cách nhau cái bàn chỉ rộng mấy gang tay mà trước đôi mắt mờ mịt của K. tôi vẫn là Bà Trần xa xôi chớ đâu phải là người tình tên Phan Ngọc T. của khung trời yêu thương bốn mươi năm cũ! Về phần tôi, đã bao năm nước chảy qua cầu với bao nhiêu mây trôi gió nổi, mấy bận đất ngã trời nghiêng, tôi đâu còn tôi của những đêm trăng cùng K. đứng trên bến sông nhìn những dề lục bình rau mát lặng lẽ trôi dưới gậm cầu. Tôi đâu còn tôi của những ngày lễ nghỉ học cùng K. ngồi xe lam từ thành phố Cần Thơ về thăm thị trấn đìu hiu Long Thạnh. Tôi thật sự đã làm mất tôi trong cuộc tình đầu. Cánh cổng của một tòa lâu đài tình yêu đã đóng. Tôi ngác ngác ngơ ngơ giữa trời cao đất rộng. Tôi chới với chơi vơi giữa mộng và thực. Có lúc tôi thấy mình như tận lực dang tay ra cố chụp bắt một chiếc bong bóng nhiều sắc màu đang lửng lơ trước mặt. Đồng thời tôi cũng thấy mình co lại đôi tay, nén chặt vuông ngực để trái tim đừng lên tiếng nói.Tôi là gì và K. là ai, hai kẻ đang ngồi cách nhau mấy gang tay ? Tôi nghĩ tình cảnh này sao chua xót quá. Hơn bốn mươi năm cách xa nhau có chua xót bằng mấy giây hội ngộ đêm nay không? Tôi biết tôi đang khóc. Tôi cũng biết K. sẽ không thấy vài giọt nước đọng trên mi tôi đâu, cả cái dáng hình tôi trước mặt bây giờ K. cũng còn không nhận ra nữa kia mà. Có cần thiết để nhận nhau trong giây phút này? Hay hãy để tình yêu xưa muôn đời ngủ thiếp trong từng ngăn kéo kỷ miệm riêng tư?. Tôi vụt nói với K. tôi phải rời đây ngay bây giờ. K. ngỡ ngàng đứng lên, hơi nghiêng ngã làm đổ chén trà trên tay, nói, sao bà Trần vội quá vậy, không chờ cháu Nga về đưa bà Trần ra trạm xe buýt. Tôi tưởng Bà Trần ở lại dùng bữa cơm với cha con tôi mà. Bà Trần. Bà Trần. Cái tên nghe mà chua xót! Cái tên giả mà thực bỗng được nhắc tới liên tục ngay trong giờ phút này càng khiến bước chân tôi rời khỏi căn nhà càng nhanh càng tốt, trước khi tôi lỡ buột miệng nói với K. tôi là T., Phan Ngọc T. của thị trấn Long Thạnh. Là em đây. Là em đây. Hãy nhìn thật rõ trước mắt anh là T. của ngày nào. Tôi thoát đi như chạy. Chân tôi còn nhanh hơn những lời tôi sắp nói.

 

       Con dốc ngắn, ngoằn ngoèo, lỡm chỡm đá sỏi đưa tôi xuống dòng xe cộ dưới chân đồi. Đi hơn nửa con dốc, tôi ngoái nhìn lên để thấy căn nhà gỗ nhạt nhòa trong sương đêm, và thấy một cái bóng trắng cao, gầy giữa khung cửa mở. Phía sau căn nhà là vách núi cao như chạm trời. Ô kìa trên vách núi ! Tôi có hoa mắt không ? Ai ? Ai đã thần tình chạm trỗ một dòng sông đêm với cánh lục bình nằm lẻ loi dưới bến?

 

      Nhìn xuống chân đồi tôi thấy người con gái tên T. nào đó đang bồng bềnh trôi trong dòng xe cộ giữa hai vách đá. Con tàu đêm rú một hồi còi dài, dừng lại mấy giây rồi tiếp tục húc đầu vào núi.

 

      Mọi sự đang ở phía sau lưng.

 

trần bang thạch

ÔNG GIÀ TRÊN BÃI RÁC BÓT SỐ 10

 

     Qua khỏi thị trấn Cái Răng, chỗ gần đường Lộ Tẽ Hàng Gòn thì bánh xe sau của chiếc Honda ôm bắt đầu xẹp. Bánh trước cũng lần lần xẹp theo. Chú tài xế tên Chi càu nhàu:

-Biết mà vẫn không tránh khỏi!

Gió ngược. Ngồi phía sau xe, ông Năm cố nói lớn tiếng:

-Chú biết cái gì vậy?

-Thì cái vụ rãi đinh xuống mặt đường.

-Thường xảy ra lắm sao?

-Không thường thì bọn nó lấy gì ăn.

-Ăn đinh?

-Bố ơi, mấy thằng vá vỏ xe ở đằng trước kìa. Nó không ăn đinh, nhưng mình bị ăn đá.

-Chuyện gì nghe lạ quá vậy?

-Chuyện xã nghĩa mà bố. Cái gì cũng lạ hết. Ai mà dám mở miệng cằn rằn mấy thằng vá xe về cái việc chúng nó rãi đinh, cả cái việc tụi nó tính tiền thẳng tay, thì coi chừng bị tụi nó. Bánh xe mình ăn đinh còn mình thì ăn đòn.

-Dân Cần Thơ, Cái Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà. Bây giờ sao lạ vậy?

-Thì có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây từ sau cái ngày ông cột đèn biết vượt biên nên cớ sự mới ra nông nỗi nầy. Dân Cái Răng mình cũng đi tứ tán nhiều. Kẻ lạ càng ngày càng nhiều và càng hung hăng con bọ xít.

-Còn chánh quyền ở đâu?

-Ở khắp nơi, nhưng cá mè một lứa. Có quyền mà không có chánh thì trị ai được. Mỗi người ăn mỗi kiểu. Chức quyền ăn theo quyền chức. Dân khu đen ăn theo dân đen khu. Bố lưu lại vài tuần ở cái Việt Nam nầy, bất cứ nơi đâu, bố sẽ thấy hết những điều mà mấy mươi năm cuộc đời của bố chưa từng thấy.

       Ông Năm không nghe rõ vì còn bận nghĩ tới cái vỏ xe sắp hết hơi. Định xuống Phụng Hiệp thăm thằng bạn nối khố từ thời tiểu học, nhậu quắc cần câu với nó một bữa rồi chiều tối trở về Cần Thơ để sáng mai lên Sài Gòn bay về Mỹ. Trục trặc kỷ thuật như thế nầy thì biết bao giờ mới tới Phụng Hiệp. Ông Năm cũng chợt nhớ đoạn đường nầy lúc ông còn là cậu học trò trung học hàng tuần từ nhà trọ ở Cần Thơ về thăm nhà ở Cái Chanh. Ngay ở đây ngày xưa là bót Tây số 9. Thêm 1 cây số nữa ở đằng trước là bót số 10. Thuở đó ông Năm mười mấy tuổi nhưng ông vẫn còn nhớ người lớn bàn tán thật nhiều về trận đánh đoàn công-voa Tây trên đoạn đường nầy. Trận đó có một thiếu niên trạc tuổi ông tên là Hai Cọp đã gan dạ chạy lăn xả vào chiếc xe jeep có viên đại úy Tây tên gọi là Tây Râu Đỏ. Cậu bé quăng trái lựu đạn vào xe, giết ngay tên Tây Râu Đỏ. Dân quân thắng lớn. Từ đó người thiếu niên Hai Cọp phải bỏ xứ đi đâu mất. Cũng từ đó Tây dựng thêm bót số 10 ở ngay nơi xảy ra trận đánh.

       Đến lúc hai bánh xe bắt đầu xẹp lép thì cũng là lúc ông Năm thấy hai, ba cái lều nhỏ che tạm bên lề đường với những vật dụng vá xe lỉnh kỉnh. Khỏi mấy cái lều là đống rác to và cao như một quả đồi nhỏ. Gió từ hướng phía trước đưa mùi rác rưởi về phía hai người. Ông Năm lấy tay che mũi. Xe chưa dừng lại hẳn trước cái lều đầu tiên thì đã có mấy thằng nhỏ giành giựt khách. Đứa thì nắm cổ xe, đứa thì đẩy yên xe về phía lều vá xe của nó. Tài xế Chi hình như đã quen với cảnh nầy nên để mặc mấy đứa nhỏ muốn làm gì thì làm với cái xe xẹp bánh của mình. Chi dẫn khách vượt khỏi đống rác, đi về hướng cái quán nước trên gió. Quán cũng lụp xụp nhưng được hai mái che bằng lá, vách thì bằng mấy tấm giấy dày. Hai cái bàn thấp với mấy cái ghế mũ cũng thấp lè tè, đầy bụi bặm. Bà chủ quán đon đả mời khách, còn người đàn ông đang nằm võng trong góc đang đọc báo, không buồn ngó đến khách, có lẽ là ông chủ quán.Tháng mười trời hơi âm u, sắp mưa. Gió thổi mạnh nên mát. Tài xế Chi kéo ghế.

-Ngồi xuống đi bố, nghỉ chưn một chút. Bây giờ muốn đi gấp cũng không được.

       Hàng trong quán thật sơ sài, trên kệ mấy chai nước lọc bên cạnh mấy chai 7-up, vài chai bia Hậu Giang và một rỗ ổi, cốc, chuối xiêm, chuối già. Tất cả mốc cời vì bụi.Tài xế Chi kêu một ly đá lạnh, Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá ở đây; kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại những nơi kém sang trọng như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không dám đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả tánh tình, tâm sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời nầy ở đây cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng bé Chi nghe người lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác sĩ. Có ông cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp 7! Còn bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến sĩ. Chị giám đốc thì cái bằng tiến sĩ coi như bình thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có hoa vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây giờ thì chiều nay tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ! Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm đời nầy. Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường gốc miền ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí, tới món tráng miệng bằng kem, cô tiến sĩ giám đốc dùng bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly cà-rem đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô giám đốc nói là “nàm cho cà-lem bớt lóng mà lồng chí”!!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn chui xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không biết cà-lem xã hội chủ nghĩa “lóng” hay cái hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo chơi thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới đó bỗng cười. Ông Năm không biết nó cười vì cái gì. Ông lấy cái bị đeo sau lưng để xuống bàn, lấy ra chai nước lọc, tu ngon lành. Ông Năm ngó lơ ngơ về hướng bãi rác. Bên kia bãi rác là hai hàng xoài chạy dọc theo con lộ nhỏ dẩn vào xóm nhà và khu vườn nằm phía sau cánh đồng sát mặt lộ. Ông Năm loáng thoáng nhớ là bót số 10 lúc trước nằm bên nầy lộ, đối diện với con lộ hàng xoài. Hơn năm mươi năm rồi, hàng xoài đã bao lần thay cây đổi lá. Bãi rác nay đã thay chỗ của cái bót số 10. Ông Năm bắt gặp một ông già đi về hướng quán. Gió ngược làm cho cái bọc ny lông to ông quẩy trên vai như muốn bay về phía sau. Ông già cẩn thận để cái bọc ny lông dựa vào vách, uể oải bước vào quán, kéo ghế ngồi bên chiếc bàn trống. Ông già mặc cái quần kaki xanh lá mạ bạc màu, vá tứ tung và cái áo thun 3 lỗ màu đất, ướt mồ hôi. Có điều ông Năm lấy làm lạ về cái đôi dép bằng vỏ xe trên đôi chân ông già; loại dép nầy trước ngày xuống tàu hải quân tại bến Bạch Đằng vào đêm 29 rạng 30 tháng Tư bảy lăm, chàng thanh niên Năm Hùng chưa hề thấy nhưng nghe nói nó đã biến mất từ mấy năm nay rồi mà. Bây giờ cán bộ văn minh hơn nhiều, giày da, áo vest, xách samsonite. Ông Năm đoán ông già cỡ tuổi mình, chắc cũng đã trên bảy mươi. Tự nhiên ông Năm xàng qua ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải khát. Ông già từ chối. Ông Năm hỏi chuyện, ông già không mặn mà trả lời, có thể vì ông mệt, cũng có thể ông không muốn nói chuyện nhiều với người lạ, mới gặp ngoài đường.

-Khá hông ông anh?

-Lượm rác mà khá cái nỗi gì!

-Không, tui muốn hỏi là nghề nầy sống được hông?

-Nghề nào mà sống hổng được. Không nghề cũng đâu có chết. Có khi còn làm cha thiên hạ.

       Biết ông già nói ngang như cua bò, ông Năm chuyển đề tài:

-Hồi tui còn ở đây, đống rác nầy hình như chưa có?

Tài xế Chi chen vào:

-Có rồi. Có từ trước bảy lăm. Lúc đó rác rưỡi đã có nhưng chưa nhiều. Sau bảy lăm thì rác nhiều hơn, rác khắp nơi.

      Biết tài xế Chi ưa nói chuyện ngoắc nghoéo, ông Năm không muốn xen vào. Nhưng ông già lượm rác như bắt được cái ý lắc léo của tài xế Chi:

-Rác từ làng lên tỉnh, từ trên xuống dưới. Chú em còn nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn há.

       Ông Năm giả vờ đưa chai nước lên miệng, uống một ngụm.

       Tài xế Chi vỗ tay vào vế một cái bạch rồi oang oang:

-Đúng y chang! Tiá nuôi nói trúng hết xẫy! Rác từ từng dưới lên từng trên, từ từng trên leo tuốt lên sân thượng, từ đồng bằng ra hải đảo!

-Có cái gì mà không trúng. Hỏi bất cứ thằng nhỏ nào trên đống rác kia, nó cũng biết như vậy. Nó biết cái tòa biệt thự nầy có mấy đống rác, biệt thự kia có mấy ổ chí, ổ rận. Nó còn biết cái tỉnh nầy có bao nhiêu chuột lớn, chuột nhỏ đụt khoét khắp mọi nơi.

Thấy câu chuyện mỗi lúc thêm trầm trọng, ông Năm lại chuyển đề tài một lần nữa :

-Ông anh có con cháu gì nhiều hông ?

-Có mà như không.

-Chắc các cháu đi xa ?

-Cũng có đứa ở gần.

-Vậy thì cũng có con săn sóc cho ông anh được.

-Thời nầy mạnh ai nấy lo ông bạn ơi.

      Nghe ông già gọi mình bằng bạn, ông Năm biết ông già đang có vẻ cởi mở rồi đây. Ông Năm đi xa hơn một chút, mục đích là để cho qua thì giờ đang khi chờ cái vỏ xe vá xong.

-Ông anh chắc là dân cố cựu ở đây ?

-Ừ. Nhưng mà chỉ đúng một nửa.

       Bà chủ quán xen vào :

-Tui mới là người cố cựu. Còn anh Hai đây chỉ mới trở về sau bảy lăm.

-Chắc ông anh đi làm ăn hay đi lính ở xa ?

       Ông già ngó lơ, làm như không muốn trả lời. Bà chủ quán chen vào gọn hơ :

-Đúng là đi lính xa. Xa thiệt là xa. Mút mùa lệ thủy.

-Ở đâu lận ?

Bà chủ quán hăm hở :

-Thì tận ở ngoải. Ở ngoài Bắc đó, phải không anh Hai ? Kể chuyện Lạng Sơn Cao Bằng cán gáo cho người ta nghe chơi đi anh Hai, nhứt là cái chuyện mấy anh tập kết nổi loạn đòi dìa đó. Còn chuyện vượt Trường Sơn nữa.

       Ông Hai vẫn làm thinh. Câu chuyện có vẻ lý thú, ông Năm hỏi tiếp:

-À! Vậy là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách.

-Tui xin lỗi anh Hai nhen : Hiển hách hay không thì không thấy chớ tui thấy anh Hai bây giờ càng ngày càng rách như cái túi ny lông cũ.

Bà chủ quán buông tiếng ứ hự ở cuối câu nói rồi cầm cây quạt mo cau đuổi ruồi bay quanh mấy nải chuối. Mưa bắt đầu rải hột lắc rắc. Thằng bé dẩn cái xe tới, dựng trước quán. Tài xế Chi trả tiền. Một phần vì trời sắp mưa lớn, phần khác là ông Năm thấy câu chuyện tới hồi khá thích thú nên muốn ngồi nán lại một chút nữa. Ông Năm biết gặp phải một đồng chí lão thành nên ăn nói cẩn thận hơn :

-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ hưu từ lâu rồi ?

Ông Hai vẫn ngó mông lung ra ngoài con lộ, tay vo vo mấy cọng râu bạc dưới càm. Bà chủ quán trả lời thế :

-Nếu được cho về hưu cũng là may. Cái nầy là bỏ việc đó. Chửi lộn một trận rồi bỏ hết sạch, phải không anh Hai ? Lon lá, chức tước, đảng điếc, nhà cửa...bỏ hết. Không ở tù là may. Nói đi anh Hai, nói hết nghe chơi.

Ông Hai vẫn làm thinh. Tài xế Chi xen vào :

-Uổng vậy tía. Một đời đi cầm bảng đỏ, giận một chút rồi bỏ...đảng sao tía ?

Ông Năm kề tai nói nhỏ với tài xế Chi : 

-Nói nhỏ nhỏ vậy, nên cẩn thận nhen chú mầy. Tai vách mạch rừng.

-Bố đừng có lo. Thời nầy những câu chuyện như vầy là chuyện nghe qua rồi bỏ. Người ta bận rộn với mấy cái « cây » và mấy tờ  « đô xanh». Chẳng ai mà để ý mấy cái chuyện bây giờ được xếp vào loại chó cán xe như vầy. Chỉ những Việt kiều như bố mới run. Tụi tui thì...còn khuya mới sợ. Nói đi tía nuôi, nói cái chuyện giận một chút đó đi tía.

       Bây giờ thì bà chủ quán dừng tay đuổi ruồi. Bà ngồi xuống ghế, cạnh tài xế Chi :

-Không phải chuyện một chút đâu à chú em. Ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tui nghe anh Hai nói cái gì là đạo đức cách mạng, cái gì là cần kiệm liêm chánh gì đó. Anh Hai nói ảnh không sống nổi với mấy cái cách mạng giả, liêm chánh giả nên nghỉ chơi, phủi áo một cái xạch rồi về nhà làm ruộng. Không chơi với mấy thằng người giả đó nữa. Già, làm ruộng không nổi, đi lượm bao ny lông cho nhẹ. Coi như bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ chơi chịu. Cũng có nhiều người cán bộ hồi kết tàng tàng như anh Hai vậy đó. Cuối cùng chỉ còn cái xác ốm o, thui thủi một mình. Con cái đứa thì đi lính bên nầy, đứa bên kia rồi chết trận, đứa thì đi học tập. Có đứa lại nghe lời mẹ, không nhận ông già.

-Con mà không nhận cha ? Sao vậy ?

Tài xế Chi ra vẻ sành đời :

-Nhiều nguyên nhân lắm bố ơi. Nào là có ngài hồi kết đem bà vợ do cơ quan cưới từ Bắc vào, bà vợ cũ và con cái không nhìn; nào là có ông quan to nón cối súng ngắn súng dài đâu dám đứng ra bảo lãnh đứa con đang học tập cải tạo. Vậy là hai đàng ô rờ lui, ba đường ba, tui đường tui, tình nghĩa đen thui của cha con mình có thế thui ! Ôi thôi, cả một ngàn lẻ một cái « nào là ».

       Đến đây thì nét mặt ông già hình như chùng xuống, ông lia lịa vò vò mấy sợi râu rồi không nói không rằng ông đứng lên định bước ra khỏi quán. Ông Năm kịp nắm tay ông già giữ lại :

-Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái đã.

Ông già cố rút tay về. Ông Năm phải buông tay ông già để lấy trong túi áo tờ 50 đô-la đưa cho ông già. Thật bất ngờ, ông già cầm tờ giấy bạc để trên bàn, nhìn thẳng vào mắt ông Năm, nói từng tiếng:

-Tui không phải là người ăn xin. Không có danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí. Xin lỗi.

-Không, đây là tôi tự nguyện giúp đỡ ông anh chút ít hút thuốc lá mà.

       Ông già chừng như không muốn nghe thêm. Ông bước ra khỏi quán, vát cái bọc ny lông, dòm hai đầu quốc lộ rồi bước qua bên kia đường. Bóng ông khuất giữa hai hàng xoài dưới trời mưa lất phất.

      Nhìn cái vẻ tiu nghỉu của ông Năm, bây giờ ông chủ quán mới buông tờ báo, rời võng đến bên ông Năm, cắt nghĩa:

-Ông đừng ngạc nhiên. Ông Hai Cọp là như vậy. Ông không bao giờ nhận sự thương sót của ai. Ông còn có cái mộng khác người là lượm hết rác của cái xã hội nầy, cho nên chung quanh căn chòi của ông đầy những rác, thượng vàng hạ cám. Ông nói một ngày không còn đất chứa rác, ông sẽ đốt. Có người cắc cớ hỏi :« Như vậy là ông đốt cái chòi của ông luôn sao ? » ông Năm không ngần ngại : Đốt luôn. Cái chòi mình nằm giữa một đống rác to tổ bố của cả nước thì còn tiếc cái gì nữa. Cái nhà lầu cũng không tiếc. Ông anh và chú tài nghĩ coi : Nhiều lắm là ông Hai  sống thêm chừng mươi năm nữa, không biết ông sẽ hốt hết rác hay đống rác sẽ mọc tay mọc chưn tiến qua phía bên kia đường, chôn luôn căn chòi của ông Hai lúc ông đang lum khum trong chòi, chưa kịp đốt lên cái mồi lửa.

 

        Ông Hai Cọp ? Hai Cọp ? Ông chủ quán mới nhắc tới cái tên nầy, phải không ? Ông Năm bóp trán. Hai tiếng nầy bỗng hiện ra trong đầu óc ông Năm, mới đầu còn lờ mờ, sau rõ dần, rõ dần. Hai Cọp. Cái tên Hai Cọp hiện ra cùng với cái tên Tây Râu Đỏ và trận đánh đoàn công-voa của Tây. Hơn nửa thế kỷ rồi! Đứa con của Cái Răng trước sau vẫn vậy.

-Đúng rồi. Đúng cha nầy! Hèn chi!

       Ba người trong quán không biết ông Năm nói cái gì. Nhưng ông Năm biết ngày mai ông chưa về Mỹ được. Ông muốn trở lại đây một lần nữa.

 

      Rớt xuống từ trời bây giờ là cơn mưa lớn. Những giọt mưa như những giọt lệ sót thương cho một đất nước đầy rác mà ông Hai Cọp suốt một đời phục vụ và ông Năm đã nửa đời bỏ lại.

 

Trần Bang Thạch

(để tặng những người bạn Cái Răng và anh chị Huỳnh)

MÓN QUÀ GIÁNG SINH

 

       Không thể như thế được. Anh Armin nói thầm với mình nhiều lần như vậy. Không thể có chuyện nầy. Nhưng cuối cùng Armin phải nhận đó là sự thật. Chữ nghĩa lõm bõm, nhưng Armin có thể đọc và hiểu được. Trước mắt anh là bản tin nhỏ nằm khiêm nhường dưới góc mặt của trang báo Tin Địa Phương : Tin về cái chết của bà Jean DeLong. Đúng hai tuần lễ sau khi đưa bà Jean lên xe cứu thương, Armin mới biết được tin tức của bà. Một tin rất buồn đối với anh. Tên của bà Jean nằm giữa 12 tên khác. Đây là tên của những người mới chết, tử thi đã được giảo nghiệm nhưng vẫn còn để trong nhà xác của quận hạt Harris vì không có thân nhân nhận xác. Bài báo cũng có nói là chuyện này xảy ra rất thường. Tháng nào cũng có vài trường hợp như vậy. Sau một thời gian thông báo, tử thi nào vẫn không có người nhận thì văn phòng chung sự quận hạt sẽ lo việc chôn cất, dĩ nhiên là tại một nghĩa trang công cộng nghèo nàn và thiếu hẳn những nghi thức an táng trọng thể trước khi hạ huyệt. Sẽ không có một thân nhân nào khóc thương hay nói lời giả biệt cuối cùng với người chết. Sẽ không có một cành hoa từ bàn tay thân nhân thả rơi xuống nắp quan tài. Nghĩ đến điều nầy Armin thấy đau lòng thêm. Con mèo, con chó khi chết còn có người chủ mình khóc lóc tiễn đưa và trang trọng chôn cất nơi nghĩa trang đặc biệt dành cho những con vật thương yêu. Có con chó chết đi còn để lại món tiền kếch sù do cái “ will” của người chủ đã chết. Có con mèo chết đi khiến người chủ khóc lóc suốt tuần, mất ăn, biếng ngủ. Armin không phải là thân nhân bà Jean, cũng không có khả năng tài chánh để làm người hảo tâm tình nguyện đứng ra lo việc chi tiêu mai táng người đàn bà mà nhiều năm nay Armin đã coi như người thân nhứt của mình. Armin nghèo quá, lại một thân một mình nơi xứ lạ này.

 

       Armin không quên được giờ phút cuối cùng anh thấy bà Jean. Hôm đó, hai tuần lễ trước, bà Jean quị ngã sau cánh cửa bà vừa mở để Armin bước vào nhà. Armin buông vội túi giấy đựng thực phẩm và mấy món gia dụng trên tay để kịp thời đỡ bà Jean không va đầu xuống nền nhà. Ngồi dựa vào anh, bà Jean ngoẽo đầu sang một bên, hơi thở nặng nề, đứt quãng. Bà cố nói, tiếng được tiếng không, Armin không hiểu gì nên càng lúng túng, nhưng anh cũng biết điều cần thiết phải làm ngay. Armin bồng bà Jean để nằm trên sofa rồi bấm số 911.

       Khi nhân viên xe cứu thương đến làm vài động tác cấp cứu, bà Jean trông tĩnh hơn một chút, bà cầm tay Armin thì thào hai tiếng “cám ơn”. Armin cũng muốn nói tiếng “cám ơn” với bà nhưng mọi chuyện bây giờ khẩn cấp quá. Armin phải đứng dang xa để nhân viên cấp cứu làm phận sự. Armin nắm vội mấy ngón tay xương xẫu của bà Jean trước khi người ta đưa bà lên xe. Armin khóa cửa nhà rồi trao chìa khóa cho nhân viên cứu cấp. Armin biết từ đây sẽ không có ai vào ra căn nhà nhỏ nầy ngoại trừ bà Jean khi bà mạnh khỏe trở về. Từ đó Armin mỗi ngày trông ngóng bà Jean trở về. Điện thoại nhà bà không có người trả lời. Cửa nhà vẫn khóa, bên trong không một ánh đèn.Vốn tiếng Anh tiếng Mỹ nghèo nàn, lại mang thân phận người di dân thiếu giấy tờ hợp pháp, Armin không biết đi tới bịnh viện nào để thăm viếng bà Jean. Cũng không có ai là thân nhân của bà Jean để hỏi. Ngày ngày trôi qua. Trong lòng Armin như có lửa đốt. Bản tin ngắn gọn hôm nay đã làm thành ngọn lửa đốt cháy niềm mong đợi của Armin.

 

       Như vậy là vĩnh viễn người đàn bà già nua, nghèo khó, cô đơn ấy sẽ không trở lại căn nhà nầy nữa rồi. Armin cũng không còn mỗi tuần một lần mang đến cho bà Jean túi thực phẩm đủ để bà dùng suốt tuần lễ. Công việc nầy Armin đã làm từ gần hai năm nay. Lúc đó Armin vừa chân ướt chân ráo đến thành phố nhỏ Waller này từ một làng nhỏ thuộc tỉnh Lerado nằm bên kia biên giới Mỹ và Mễ Tây Cơ. Armin may mắn được nhận chân bán hàng tại một tiệm bách hóa nằm ngoài rìa thành phố với đồng lương thật thấp, chỉ vừa đủ trả phòng trọ và hai bữa ăn. Nhà bà Jean cũng ở gần tiệm, cách chừng hai dặm đường. Mỗi tuần một lần bà Jean đi bộ đến tiệm mua thức ăn và vài món cần dùng cho nhà cửa. Khi biết được sức khỏe bà Jean không tốt và bà đi đứng rất khó khăn với cái tuổi trên bảy mươi, Armin tình nguyện làm người mang thực phẩm cho bà hàng tuần. Vốn là đứa bé thiếu mẹ từ lúc mới chào đời, mười tám năm nay Armin lúc nào cũng thấy mình bất hạnh, không có mẹ để được thương yêu. Chỉ cần vài lần tới lui với bà Jean, dù hai người rất khó khăn khi nói chuyện với nhau vì vấn đề ngôn ngữ, nhưng tình người hình như lúc nào cũng đi trước nên bà Jean và Armin càng ngày càng thấy gần gũi. Armin như tìm được điều mình đã mất là tình mẫu tử. Armin cũng thấy bà Jean đối với mình như người mẹ. Giáng Sinh năm ngoái là lần đầu tiên Armin biết thế nào là bữa Tiệc Nửa Đêm. Bữa ăn rất đơn sơ với mấy miếng thịt gà chiên và chai rượu chát đỏ nhưng thật đậm đà tình nghĩa. Hai người nghèo khó chung một niềm vui Giáng Sinh trong căn nhà nhỏ. Đêm đó trong ánh nến lung linh huyền ảo của Đêm Thánh Vô Cùng,  lần đầu tiên Armin đã khóc trên cánh tay của người đàn bà mà Armin thấy trước mặt là dáng hình Đức Mẹ Maria nhân ái. Đêm đó, không nói một lời, bà Jean đã tháo sợi dây chuyền trên cổ, bà thân ái đeo vào cổ Armin. Đó cũng là quà Giáng Sinh đầu tiên của đứa con côi cút trong suốt gần hai mươi năm có mặt trên đời. Sợi dây chuyền bằng bạc đơn sơ với tượng thánh giá nhỏ bằng ngón tay út. Có lẽ đó là món đồ quý giá nhất của bà Jean. Bà Jean nghèo lắm, nhiều lần bà Jean nhờ chủ tiệm cho bà mua thiếu. Chủ tiệm cũng là người tốt bụng. Ông nói ông biết bà Jean từ vài năm nay. Đó là người đàn bà hoàn toàn cô đơn, sống một thân một mình trong căn nhà biệt lập với các nhà hàng xóm. Nói là nhà chớ thật sự nơi bà cư ngụ là túp lều nhỏ nằm phía sau một nền nhà còn dấu vết của một cơn hỏa hoạn nhiều năm trước; cây cỏ xung quanh mọc tự do. Con lộ lót sỏi dẫn vào nhà, cách xa đường xe cộ lưu thông, thiếu bước chân đi lại nên cỏ mọc lan ra tới gần giữa đường. Khi có những cơn mưa lớn, con lộ ngập đầy nước. Căn nhà của bà cũng ngập nước. Thỉnh thoảng vào những ngày nghỉ việc, Armin chỉ đủ sức dọn dẹp cỏ rác quanh nhà cho phong quang một chút. Hai năm qua tới lui với bà, Armin chưa một lần nghe bà Jean nói tới một thân nhân nào; dễ chừng bà Jean đã sống cô đơn như thế nầy từ nhiều năm rồi.

 

       Như vậy những năm tháng cô đơn trên thế gian của bà Jean đã hết. Nhưng sự cô đơn cố bám theo cái tử thi tàn lạnh của bà thì đau đớn quá, bi thảm quá. Một tử thi vô thừa nhận nằm mười mấy ngày trong nhà xác để từ mấy hôm nay người ta phải rêu rao trên báo tìm thân nhân. Hàng trăm, hàng ngàn bàng dân thiên hạ biết rằng trên thế gian nầy có những người vô cùng bất hạnh. Đánh mất một món đồ người ta còn tìm kiếm. Còn bà Jean, cho tới chết vẫn biệt tăm thân nhân để lo bề an táng. Hay thân nhân có biết nhưng vẫn làm ngơ? Chồng con bà đâu? Cháu chắt bà đâu? Rồi đây người đàn bà xấu số của mấy mươi năm trên đời sẽ từ giả cõi đời trong lặng lẽ, âm thầm, không tang lễ. Thân xác bà sẽ vùi chôn trong một nghĩa trang công cộng, không người viếng thăm.

Không được. Không thể nào như vậy được. Người đàn bà đã có lần là hiện thân của Đức Mẹ trước mặt Armin trong đêm Giáng Sinh năm ngoái không thể ra đi cô đơn như vậy được. Món quà Giáng Sinh của bà Jean, Armin đang đeo trên cổ, phải chăng đêm ấy bà Jean muốn nói với Armin rằng “con là người thân nhất của ta bây giờ”? Trong trí nhớ của Armin là một bà Jean  ít nói, sống khép kín với lối xóm chung quanh, nhưng không buồn bã. Mỗi lần gặp bà Jean là Armin thấy nụ cười trên gương mặt già nua nhăn nheo của bà, mười lần như một. Armin nghĩ bà Jean vừa lòng với số phận và hoàn cảnh của mình, không một tiếng oán than, không trách mình cũng không trách người. Nhiều khi Armin có cảm tưởng bà Jean chỉ thích nói chuyện với  mình, nhứt là mỗi khi hai người dọn dẹp cỏ rác, cây cối quanh nhà. Giữa thiên nhiên trông bà Jean thật vui và thật năng động. Bà vừa vun bón mấy chậu hoa, vừa hát khẽ một bài hát có âm điệu vui mà Armin đã nghe nhiều lần. Gặp con sâu, con dế hay cả con rắn nhỏ bà Jean chỉ xua chúng đi chỗ khác. Có khi bà nói về dãy mây lang thang trên nền trời, mây bay vô định, không cửa không nhà, vô thân tứ cố, nhưng mây có cuộc sống vô tư, có ai nói là mây có tâm sự buồn đâu. Con sóc, con chim trên cây sau nhà cứ chạy nhảy, ca hót, nào có nghĩ tới nhà cao cửa rộng, mồ yên mã đẹp gì đâu. Phải rồi. Lúc sống bà Jean  sống an bần, lạc đạo trong căn nhà nhỏ bằng cái hộp, thiếu những tới lui, thăm hỏi của thân nhân ruột thịt…thì khi chết chắc bà cũng không nghĩ gì tới những lễ nghi, lắm khi hời hợt, theo lề theo thói. Có nghĩa gì mấy lời thương tiếc của những người thân đã quên mất bà từ lâu. Ý nghĩ nầy đưa đến cho Armin một quyết định dứt khoát. Armin phải làm một cái gì trước khi quá trễ. Thêm một Giáng Sinh sắp tới rồi. Giáng Sinh năm ngoái, Armin không có một món quà nào cho bà Jean thân thương của mình. Năm nay phải có. Armin tuy nghèo nàn, không một đồng xu dính túi nhưng phải có một món quà Giáng Sinh cho bà Jean. Bà Jean cũng nghèo nàn, nhưng bà đã cho Armin cây thánh gíá, vật gần gũi của bà. Trong giây phút nhiệm mầu của một đêm Thánh, Bà Jean nghèo tiền, nghèo bạc nhưng giàu tình thương, qua món quà là vật thiết thân của mình,  đã cho Armin niềm tin và tình mẫu tử, cái mà mười mấy năm làm người Armin còn thiếu.

 

       Nghĩ là làm. Armin đem chuyện an táng bà Jean bàn với ông chủ của mình. Ông chủ cũng đồng ý với Armin là có lẽ bà Jean cũng không mong có thân nhân đọc tin báo rồi tìm đến nhận xác bà rồi đem chôn cất nơi đàng hoàng tử tế. Giá mà có ai thương tình mà tình nguyện làm việc đó thì chắc bà Jean cũng không hài lòng. Sống thế nào thì thác thế ấy. Sống đơn giản, chết đơn giản.

-Nhưng tui muốn được đưa tiễn bà Jean.

-Đưa tiễn thì được, nhưng lãnh bà về chôn cất thì chắc mình không làm nổi. Tốn kém lắm.

-Nhờ ông chủ liên lạc với nhà xác để cho tui biết ngày giờ họ đưa bà ra nghĩa trang.

-Việc ấy thì không khó.

 

       Chiều nay thời tiết trở nên lạnh hơn những ngày trước. Gió tháng chạp lạnh như dao cắt. Trời rắc những hạt mưa nhỏ, vừa đủ ướt áo. Ngày mai là Giáng Sinh rồi. Armin mặc phong phanh chiếc áo gió nên run lập cập. Armin đã tới nghĩa trang từ trưa. Nghĩa trang nằm cạnh cánh rừng, trong vuông đất trũng có thật nhiều cây cao xung quanh, xa phố xá và nhà cửa. Đường đi trơn trợt, nhiều đất hơn đá. Mộ là những phần đất nhỏ, bằng mặt. Không có lấy một núm mồ. Mộ bia là những trụ xi măng nhỏ, thấp, nhiều cái nghiêng ngã. Không một cây hoa kiểng. Có nơi cỏ mọc cao che hết phần mộ.Lúc chập tối đoàn đưa xác mới đến. Người ta để bốn cái quan tài chung trong một chiếc xe mui đen. Không có xe mô-tô cảnh sát hộ tống.Bốn cái lỗ huyệt đã được đào sẵn, nằm gần nhau. Như vậy là những tử thi khác theo thông báo đã có người nhận. Khi bốn quan tài đưa xuống từ chiếc xe thì thủ tục an táng làm thật nhanh, cũng có vị mục sư đọc kinh tập thể rất ngắn cho bốn quan tài. Ai cũng muốn làm xong cho nhanh để về. Chỉ có mấy nhân viên nhà xác và Armin. Không có một thân nhân nào của bốn người chết. Khi các quan tài hạ xuống huyệt, Armin đọc thầm mấy lời kinh rồi ném một bó hoa huệ trên mỗi nắp áo quan, tiễn đưa người chết. Riêng phần huyệt của bà Jean thì Armin cúi đầu thật lâu, miệng thì thầm mấy lời vĩnh biệt. Ngoài bó hoa huệ, Armin bỏ xuống lòng huyệt vòng nguyệt quế với dãy lụa trắng viết chữ đen :  « Thành kính tặng Mẹ món quà Giáng Sinh năm nay ».

 

       Đoàn người và xe đã về từ lâu. Armin vẫn còn muốn ở lại đây cho tới khuya để trông thấy một thiên thần bay lên vùng trời cao rộng  với vòng nguyệt quế còn ấm tay mình.


 

Xmas 2007 .  Trần Bang Thạch

ĐEM THEO, NGÀY XA XỨ

              Có một sự kiện hầu như bất di bất dịch từ nhiều năm nay: hai cây mai trước nhà nở đầy bông vào hạ tuần tháng Tư Tây mỗi năm. Dù bà Thuận có bón phân, tỉa cành, lặt lá… có săn sóc thế nào đi nữa hai cây mai vẫn không nở rộ đúng vào dịp Tết Âm lịch mỗi năm như cây mai mẹ ở sân nhà thuở trước. Cũng là mấy cái hột từ cây mai ở quê nhà vậy mà nó cứ một mực nở trái mùa. Chắc mai cũng mang thân phận của người xa xứ, gởi thân nơi xứ người cho nên phải ít nhiều uốn nắn cách sống của mình cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh. Hay mai nở muộn để nhắc một ngày ngang trái nào đó đáng nhớ trong đời của ông bà chủ của mình? Mỗi lần nhìn hoa nở như hai trái cầu vàng bên ngoài khung cửa sổ trước nhà, các đóa hoa sáu cánh hai từng vàng nghệ nhắc ông bà Thuận là ngày 30 tháng Tư lại sắp trở về. Không phải ông bà Thuận quên cái ngày này; ông bà nhớ lắm chớ, nhiều khi nhớ bất chợt, nhớ bất cứ vào ngày nào, tháng nào khi có một sự kiện nào đó liên quan tới ngày đau buồn này. Chẳng hạn như khi nhớ chuyện thằng con lớn ra biển rồi biệt tích hay như chuyện giỗ quãy mấy người bạn tù… là cái ngày 30 tháng Tư bất chợt hiện ra . Nhiều khi nghĩ tới cha mẹ, anh em… ông bà Thuận cũng lại nhớ tới ngày 30 tháng Tư. Thật là trớ trêu khi cái hận của một ngày đen tối luồn lách vào nỗi nhớ và nỗi buồn của người ta. Như hạt cát chui vào chiếc giầy, thật là khó chịu. Không có ngày oan nghiệt 30 tháng Tư thì đâu có các thảm cảnh này. Màu vàng của các hoa mai như hồi chuông gióng lên mỗi năm một lần trong trí nhớ ông bà Thuận.

              Không phải chỉ hai cây mai nhắc ông bà Thuận ngày này. Từ cả tuần nay, các đài phát thanh và truyền hình Việt ngữ không ngớt nói về ngày 30 tháng Tư. Gặp các nhân vật thường hay sinh hoạt cộng đồng cũng nghe nói về các buổi hội họp, hội thảo, mết-tinh…nhân ngày kỷ niệm sắp đến. Những năm cuối thập niên bảy mươi và kéo dài cho tới đầu thập niên tám mươi, cái điệp khúc nghe hoài: “Hôm nay mình tụ họp ở đây, hẹn năm sau chúng ta cùng gặp nhau ở Sài Gòn, gặp nhau ở Sài Gòn, Sài Gòn, Sài Gòn!” phát ra từ cái micro trên tay các ông cộng đồng trên khán đài các buổi mết-tinh, lúc đầu thì cả một rừng người hưởng ứng, miệng hô to, tay đưa cao nắm đấm; dần dần những năm sau khí thế hình như hơi nguội. Điệp khúc nầy từ hơn chục năm nay có chiều hướng thay đổi, có lẽ vì “đường đi sao quá xa”. Người ta vẫn có những buổi hội họp mỗi năm. Hội họp lớn thì cả ngàn người với cờ xí, biểu ngữ trống kèn, ca hát; các bài diễn văn mỗi năm hình như có ít hơn, ngắn hơn và vắng bớt những kêu gào của thập niên đầu, thay vào là những đòi hỏi tự do nhân quyền, tự do tôn giáo…. Và hình như những buổi tổ chức nếu muốn có thật đông người tham dự thì có lẽ phải có đông ca sĩ nổi tiếng từ thủ đô tị nạn Cali. Ca nhạc, xổ số…nhiều năm có cả múa lân rình rang. Trước kia đâu có truyền thanh hay truyền hình Việt ngữ để đọc thông báo, thơ mời, nhưng qua truyền miệng hay qua vài tờ báo Việt ngữ địa phương, dù cho không có lấy một ca sĩ nổi danh, người ta nô nức chờ và tham dự rất đông. Bây giờ các thông báo, thơ mời, hội thoại liên quan tới ngày 30 tháng Tư nghe hoài hằng bữa trên các đài. Có lẽ người ta nghĩ càng  có nhiều người tham dự thì buổi tổ chức ngày quốc hận càng thành công và càng thêm ý nghĩa chăng? Hay cái hận này trong một số người đã mõi mệt, cần thêm những lều thuốc để lên giây cót? Nếu vậy thì quả là không thể được. Niềm đau thấu trời xanh thì trăm năm vẫn còn; còn trong trí nhớ thì cũng vẫn còn đau.

        Dầu gì thì cũng nên gặp nhau để nhắc nhớ một ngày đau buồn. Những buổi gặp gỡ nhỏ thì năm bảy chục, hay trăm ngoài. Người ta ngồi lại để cùng nhau kể chuyện, như chuyện giờ thứ 25 của Sài Gòn, hay chuyện vượt biên, rồi chuyện thành đạt của thế hệ thứ nhất, thứ một rưỡi, thứ hai…của cộng đồng mình nơi xứ này. Nếu có chen đôi chút chánh trị thì nói chuyện càng ngày càng có thêm các chánh quyền địa phương chấp nhận cờ vàng là lá cờ của cộng đồng tị nạn Việt Nam, hay chuyện các nhà tranh đấu cho quyền làm người ở Việt Nam đang sinh sống trong nước hay tại hải ngoại. Những chuyện nho nhỏ như vậy cũng đủ cho người ta sống những giờ phút buồn, vui trong ngày đáng nhớ của mỗi người tị nạn.

                Sống nhiều năm tại hải ngoại, sau những năm tháng vất vả tạo dựng một nếp sống ổn định trên đất mới cho cả gia đình, ngày 30 tháng Tư vẫn còn đó nhưng có lẽ người ta càng ngày càng muốn biết những bí ẩn đằng sau cái chết tức tưởi của một chánh quyền đang lần lần được hé mở từ những hồ sơ đang được giải mật, từ những bài nghiên cứu, những trang hồi ký hay từ những nhân vật có thẩm quyền thời đó. Người ta cũng nhìn ngày 30 tháng Tư qua những bước đi càng ngày càng vững vàng của lớp con cháu trong dòng sống của đất nước tạm dung này. Nhớ hồi năm ngoái, tại một trung tâm sinh hoạt người cao niên một cựu tướng lãnh vùng 4 đã làm cho nhiều người rơi lệ khi nhắc tới ngày giờ cuối cùng của một quân đoàn thiện chiến Miền Tây. Súng đạn, lính tráng còn đủ, kế hoạch hành quân sẵn sàng nhưng cuối cùng thì cấp chỉ huy người tự sát, người vào tù, dân, quân tứ tán, nhà tan, cửa nát.

           Hôm qua một bạn văn ở Melbourne, gởi qua email một bài thơ nhân ngày mà anh gọi là ngày nước mắt, nhà tan. Anh còn mở ngoặt, đóng ngoặt nói thêm: “mắt chớ hổng phải  mất, đất nước này còn giành lại sao mà mất được”. Điều nầy chắc có nhiều người cho là chí lý! Từ hồi nào tới giờ ôngThuận và một số bạn đâu có dễ dàng chấp nhận cái từ “mất nước” này. Dù có đúng đi nữa thì cũng không lòng dạ nào mà chấp nhận. Bị Tàu cai trị cả ngàn năm, xài cả chữ viết của họ, rồi bị đô hộ hết Nhật đến Tây cả trăm năm, nước mình cũng đâu có mất. Nước mình còn ràng ràng ra đó mà. Hồn thiêng sông núi vẫn chập chờn trên Hồng Lĩnh, Thất Sơn. Anh linh tiền nhân, khí phách anh hùng, liệt nữ vẫn trải dài trên sông Hồng, sông Cửu. Vẫn một dãy giang san gấm vóc hình chữ S bên bờ biển Đông. Mất là mất cái chánh quyền tự do dân chủ miền nam, khiến cho người dân miền nam cũng mất luôn tất cả những quyền căn bản của con người. Người ta chỉ tạm thời chiếm đoạt được cái ghế ngồi trong căn nhà quyền lực mà thôi. Họ ngồi đó mà thấy cửa nhà dần dần mục nát, người bỏ nhà đi tứ tán,  người còn lại thì lòng bất an, tâm bất phục, sống với hy vọng đổi đời. Kẻ chiếm quyền chủ nhà ngồi trên cái ghế một chân thì làm sao mà bền cho được.

           Gia đình ông bà Thuận cũng là người từ căn nhà bị chiếm đoạt ấy mà ra đi. Không đi quá sớm như nhiều người lên máy bay hay lên mẫu hạm, cũng không quá trễ như hàng trăm hàng ngàn cựu tù nhân chánh trị, nhưng thời gian gần ba mươi năm đủ để ông bà Thuận nhận biết những mất, những được và những còn trong gia đình ông bà.

          Nhớ ngày chuẩn bị ra đi, ông Thuận tìm những khai sanh, hôn thú, bằng cấp đủ cỡ đủ hạng, và đào bới từ cháy nhà, góc bếp chứng chỉ tại ngũ, chứng minh thư, giấy khen, huân chương, quân hàm. Tất cả bỏ vào một túi ny-lông rồi ép kín miệng lại. Ông hy vọng những thứ này sẽ rất hữu ích nếu ông có may mắn vào một đất nước tự do, nhất là vào được nước Mỹ, một đồng minh cũ của nước ông. Vô hình chung ông gói niềm hy vọng lớn vào một cái túi nhỏ chỉ bằng bàn tay. Vậy mà từ khi trải qua nhiều cuộc phỏng vấn ở trại tị nạn cho đến khi đặt chân lên nước Mỹ và khi làm thủ tục thi quốc tịch, ông bà Thuận chưa khi nào buộc phải xuất trình những thứ giấy tờ cá nhân này. Nhiều khi ông Thuận tự hỏi không biết người ta nghe nhưng có tin lời mình hay không: ông muốn xòe tờ giấy trước mặt họ để chứng tỏ mình khai thật. Ông điền đơn thế nào thì người ta biết lý lịch mình như vậy. Kể cả cái Chứng chỉ tại ngũ hay hai cái bằng cấp đại học ông cũng không cần trưng ra, làm như CIA đã nắm hết lý lịch và hồ sơ cá nhân của ông không bằng! Lâu dần ông mới biết người ta mướn ông và giữ chân ông lâu hay mau là do khả năng thật sự của ông. Bây giờ sắp hưu trí, nghĩ lại gần 30 năm làm việc cho một công ty duy nhất quả là một thời gian dài, nghĩ tới mà giựt mình. Các đồng nghiệp trong sở ai nghe qua cái thâm niên này cũng thè lưỡi thán phục. Có người trầm trồ: Làm một công việc mỗi ngày trong suốt ba mươi năm, quả là superman! Có gì lạ đâu: lạc nghiệp để được an cư mà; dại gì làm cái con job hopper như nhiều người khác, nhảy hoài cũng có ngày lọi tay, què cẵng, có khi còn là homeless chớ chẳng phải chơi! Ăn chắc mặc bền mà hay. Đoạn đường dài đi làm mỗi ngày ông Thuận đã chứng kiến nhiều thay đổi trong một thành phố đổi thay từng giờ, từng phút. Ông cũng thấy tâm trạng mình cũng có nhiều đổi thay. Người Mỹ chia loại nhân viên thành white collars và blue collars. Không phải là điều dễ dàng khi ông Thuận vốn là một cổ trắng từ bên nhà đang trở thành một cổ xanh tại hãng xưởng này. Sa vào hoàn cảnh này, tư tưởng ông Thuận chạy nhảy lung tung lắm. Mặc cảm nầy nọ cũng không thiếu. Chữ nghĩa, quyền lực ngày nào của ông chạy đi đâu hết rồi. Xếp của ông bây giờ là những con người cục cằn, thô lỗ, dốt nát đó sao? Ta ơi, hãy nuốt vào, nuốt vào đi, nuốt vào đi ta những hào quang cũ, nuốt vào đi ta những chén đắng nghẹn ngào này. Ông Thuận đã thật lực cố hết sức mình để đôi tay, đôi chân thành thạo với cái bù lon, đinh ốc, với máy móc, búa kềm. Tâm trạng của ông cũng phải uốn cho nó đi song song nhuần nhuyễn với đôi tay đôi chân. Những năm đầu, ông Thuận đã đem theo ông con người Việt Nam Cổ Trắng để đặt vào giữa trung tâm của thế giới Mỹ Mễ Cổ Xanh, và phải làm như họ; nhiều khi ông muốn tập nói như họ, có khi tập nghĩ như họ để gọi là hòa đồng cho dễ làm lụng với nhau. Uốn nắn tay chân thì cố gắng vài tuần hay một tháng cũng làm được; vã lại công việc cũng không nặng nhọc gì so với việc đào kinh đắp đê trên cánh đồng xã nghĩa sau tháng Tư đen; nhưng tập cách nói, cách nghĩ như họ thì quả là khó. May mắn cho ông, cái khó này chưa làm được thì ông nhận rằng có lẽ không cần thiết khi ông đã chân cứng, đá mềm với công việc quen tay hàng ngày. Ông lao động còn hơn bao nhiêu đồng nghiệp khác nhờ ông siêng năng, chịu khó, tháo vát và làm việc có sáng kiến. Mấy đợt sa thải cộng chung cả mấy trăm mà ông Thuận đã không hề hấn gì mà lại còn leo lên từng bậc thang nghề nghiệp. Nhiều ông xếp cũng lần lượt ra đi, bây giờ nếu muốn kể lại tên của họ, ông Thuận cũng không nhớ hết. Gần ba mươi năm bộ mặt của công ty và cả cái tên công ty đã đổi thay mấy lần, ông Thuận vẫn vừa là cái bánh xe trong cổ máy, vừa là người đứng nhìn các bánh xe đang lăn. Ông Thuận cũng lần lần hiểu rằng nhờ tay nghề của một cổ xanh mà ông còn được giữ lại và có lẽ nhờ không ăn nói tục tằng trây trúa mà ông giữ được một chút con người cổ trắng của mình. Rõ ràng là mình nên học cái tốt mà không học cái thói quen xấu. Vừa giữ được nồi cơm, vừa giữ được cái vốn quí nhân cách trong con người của mình.

      Nước mắt, nhà tan. Phải. Đêm từ biệt cha mẹ và anh em ra đi, nước mắt của những người ở lại đã đi theo gia đình ông mấy chục năm nay, nước mắt của ông một phần đã để lại bến sông quê nhà, một phần ông đã mang theo cho tới bây giờ. Có một cái ông Thuận đã mang theo cho đến nay đã gần hết cuộc đời, không phải cái túi ny-lông đựng bằng cấp, đựng quân hàm, mà đó là nhân cách của một người tị nạn chánh trị Việt Nam. Điều này lúc ra đi ông Thuận không hề nghĩ tới, vậy mà hôm nay nó là vật tùy thân quí giá. Nó làm cho ông dù không ngẫng cao đầu nhưng chưa phải cúi gằm trước mọi người. May là ông không đánh mất trong dòng đời xuôi ngược tại xứ người.

               Còn bà Thuận thì đơn giản hơn ông. Ngày ra đi bà không có gì nhiều để mang theo. Ngoài con người nội trợ đảm đang có sẵn từ thời con gái đến người vợ rồi người mẹ hết dạ lo cho chồng con, ngoài những vật dụng, áo quần cần thiết cho cả nhà, bà Thuận đem theo mấy hột giống rau cỏ, hoa trái từ vườn nhà. Hột ổi, hột cam, hột ngò gai, hột quế, hột bầu, hột bí…đặc biệt là mấy hột mai sáu cánh, hai từng. Mấy hột mai nầy bà cất giữ từ cây mai ông Thuận đã trồng trước sân nhà để kỷ niệm cái tết đầu tiên của vợ khi về làm dâu nhà chồng. Đặt chân tới Mỹ, sau vài tháng ổn định, bà Thuận đã đi làm ngay cho một cửa hàng bán thực phẩm. Vốn là người siêng năng, tháo vát bà Thuận không thấy khó khăn gì đối với công việc buôn bán hàng ngày. Bà cũng không có cái mặc cảm cổ xanh, cổ trắng gì như ông chồng nên bà như người bơi xuồng, cứ cho xuồng ra giữa dòng rồi bơi, nước trong, nước đục, nước lớn nước ròng gì bà cũng đâu có quan tâm; miễn sao mỗi chiều về nhà bà nấu một bữa cơm ngon để cả nhà ngồi ăn, vừa nghe chuyện chồng con, vừa nhìn hạnh phúc của mình trong căn nhà nhỏ. Về sau, những bữa ăn không đủ mặt các con, có đứa này thì vắng đứa kia, nhưng những thành tích học tập và tánh tình của các con cũng đã phần nào làm cho hạnh phúc gia đình bà vẫn luôn có mặt.

             Không biết có phải vì lúc ra đi bà Thuận đã vô tình đem theo một nội tướng tài ba trung thành, hắn tiềm ẩn  trong cái dáng vấp nhỏ nhắn của bà mà gia đình vợ chồng bà từ lâu đã thành một tổ ấm giữa xứ người, có ngăn có nắp, có trên có dưới, có tình có nghĩa, có thành có đạt. Cũng có thể là do cái khuôn mẫu của một gia đình nề nếp đã theo ông bà Thuận vượt biên tới đây.

              Nói gì thì nói, ngoài con người nội tướng của vợ mà ông đã biết từ lâu, ông Thuận phục sát đất bà vợ của mình đã rất “hiện thực chủ nghĩa” khi bước xuống ghe đem theo gói hột giống. Chỉ một gói giấy nhỏ nằm gọn trong túi áo bà ba mà từ nhiều năm nay khu vườn rau trái sau nhà luôn luôn có mặt, để cả nhà nhìn nó như nhìn một góc sân quê nhà, để có hoài hương vị vườn nhà trong các bữa ăn. Đặc biệt là hai cây mai hai từng, sáu cánh trổ bông vàng nghệ vào khoảng cuối tháng Tư hàng năm. Rõ ràng, ngoài bao nhiêu thứ khác, người vợ yêu quí của ông vào phút cuối đã đem theo kỷ niệm của vợ chồng ông. Bốn mươi năm trước, người rễ mới đã âu yếm trồng cây mai tặng cô dâu mới để kỷ niệm ngày bắt đầu của một hạnh phúc. Vợ ông thích loại mai nầy khi ông bà chưa cưới nhau. Bông mai có hai từng như cái bông sen, mỗi từng 6 cánh; từng dưới nâng đỡ từng trên như chồng nâng đỡ vợ, cho nên mai được đặt tên là mai phu thê. Một lần, nhìn mai, ông Thuận nói với vợ: Chúng ta phải có một lố con như 12 cánh mai vàng hực nầy!Bây giờ, bốn mươi năm sau, một cây mai mẹ ở quê nhà nay đã thành hai cây mai lưu vong đầy bông vàng nghệ, vẫn 6 cánh dưới mạnh mẽ nâng 6 cánh trên. 12 cánh mai như đàn con 12 đứ chạy lúo súp dưới chân cha mẹ. Phải chăng đó là hạnh phúc đã nhân đôi, nghĩa phu thê đã chói lòa hào quang rực rỡ? Ở chân trời góc biển nào thì kỷ niệm vẫn đi theo, hạnh phúc vẫn có mặt khi người ta biết trân quý, giữ gìn nó.

             Hàng năm mỗi lần Tết đến, ông bà Thuận ước chi hai cây mai nở đầy trước mắt như ngày xưa ở quê nhà hai người nhìn mai đón Tết, nhìn mai rồi kín đáo nhìn nhau để nhớ cái thuở ban đầu. Nhớ trọn vẹn. Vui trọn vẹn. Nhiều năm nay ông bà Thuận cũng có dịp nhìn mai nở rộ trái mùa mỗi năm để nhớ ngày cưới của mình và sống với kỷ niệm. Nhưng thật là lạ lùng,  đâu có ai bỏ túi hay lộn lưng ngày Tháng Tư Đen oan nghiệt, đáng ghét ấy, cớ sao nó cứ đi theo bước chân hai người để chen vào các đóa hoa mai kỷ niệm của vợ chồng, để hai người vừa sống với kỷ niệm riêng, vừa nhớ, vừa đau nỗi đau chung của dân tộc.

          Lịch sử thật là oái oăm sanh làm chi cái ngày Tháng Tư Đen để nước mất, nhà tan; lại còn khiến cho cây mai dù đã lưu vong vẫn phải ép bụng nở hoa trái mùa! Thương cho hoa mà cũng thương cho mình!

Trần Bang Thạch

ĐIỀU CHƯA KỊP NÓI VỚI BA

      Sau ngày má tôi mất thì ba tôi như một cánh lá khô, chỉ chờ thêm một chút gió để lìa cành.

      Hơn một năm nay ba tôi cứ hết bịnh này tới bịnh khác, một phần là do hậu quả của chứng muộn phiền, của tinh thần tuột dốc; phần khác là do chứng cao huyết áp. Hai chứng bịnh này không biết đã hiện diện từ bao giờ trong cơ thể ba tôi nhưng bác sĩ chỉ mới phát hiện gần đây thôi. Một đêm đi làm về tôi thấy ba nằm bất tỉnh trong phòng tắm, đầu ngoẻo trên thành bồn cầu, áo quần chưa kịp mặc. Một bệt máu đã khô phía trước trán. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là nỗi kinh hoàng . Đến ngày thứ ba sau khi được chở khẩn cấp vào bịnh viện thì ba tôi bắt đầu tỉnh được chốc lát rồi lại khi mê, lúc tỉnh. Những ống dẫn dưỡng khí, thuốc men và thực phẩm nối từ miệng mũi không biết kéo dài cái sống của ba tôi được bao lâu . Hơn bảy mươi tuổi với một cuộc đời đầy sóng gió, rày đây mai đó, bảy nổi ba chìm, rồi sẽ phải chấm dứt ở cái phòng hẹp té đầy mùi ê-te này với sự có mặt của mỗi một mình tôi là người thân duy nhất. Còn anh Trọng, người anh cùng cha khác mẹ của tôi, trước ngày ba tôi ngã bịnh đã lấy hai tuần phép, hiện anh đang ở đâu đó bên Âu châu mà tôi không liên lạc được. Điều hiện nay tôi quan tâm không phải là cái chết của ba mà là sự trở về và sự có mặt của anh Trọng trước khi các ống dẫn được tháo gỡ và tấm vải trắng được phủ lên mặt khi người ta đưa xác ba tôi xuống lầu. Tôi đang quan tâm cái quan tâm cuối cùng của ba tôi. Tôi đang ước mơ cái ước mơ độc nhất bây giờ của ba tôi. Tôi biết giờ phút này, trong trí não, trong đầu óc của ba tôi, cho dù đang dần dần chết cứng, là sự trở về của anh Trọng . Nếu có được cái khắc giây ngắn ngủi lúc ba tôi chợt ra khỏi cơn hôn mê và nhìn thấy khuôn mặt đứa con trai duy nhất của mình thì đó quả là điều vô cùng diệu kỳ, tôi nghĩ như vậy. Và lúc đó chắc chắn ba tôi sẽ ngậm cười nơi chín suối.

      Mấy hôm truóc, khi còn chút tỉnh táo, ba tôi chỉ hỏi tôi mỗi một câu này : anh con đã về chưa . Tôi cứ dối quanh, nói là đã liên lạc được với anh Trọng, nói là anh sẽ tức tốc trở về. Tôi còn dám nói láo là anh Trọng thương ba lắm , vv. . . Tôi biết là không nên nói dối trước một người sắp chết nhưng tôi không làm sao hơn . Tôi không muốn ba tôi tuyệt vọng ở những giây phút cuối cùng của một đời người . Hơn hai mươi năm là cha con mà ba tôi và anh Trọng đã có mấy lần gặp nhau trong tình cha con thân ái đậm đà như bao nhiêu những người cha con khác trên quả địa cầu này! Điều này, tôi biết, đã không làm cho ai vui hết, nhất là ba tôi, người đã gần hết một đời đứng trên sân khấu làm vui thiên hạ, mà có mấy mươi năm cuối đời không thể làm vui cho bản thân mình và cho đứa con trai duy nhất của mình.  Ba tôi, người nghệ sĩ tên H. T. đó trong suốt cuộc đời đi hát là nguòi lúc nào cũng được khán thính giả yêu thương; mỗi tâm tình, mỗi lời ca, mỗi câu nói được đón nhận tận tình. Người ta vui, buồn, cười, khóc theo ba tôi trong suốt mấy chục năm. Vậy mà đứa con trai như bịt tai, nhắm mắt trước người cha ruột đau khổ của mình. Hình như cái thảm kịch gia đình này bắt đầu từ khi tôi vừa mới được sinh ra, lúc anh Trọng bắt đầu có chút nghĩ suy trong đầu óc một đứa trẻ lên mười. Bây giờ anh Trọng đã gần ba mươi. Hơn hai mươi năm cho một vết nứt trong tình cha con không phải là dài lắm sao! Đớn đau vô cùng. Tôi biết ba tôi đã bao nhiêu năm nay âm thầm sống trong cái đớn đau đó. Và anh Trọng của tôi cũng chẳng khác gì. Vậy mà vết nứt vẫn chưa có một chút hàn gắn nào, hơn hai mươi năm! Quá dài!

      Bắt đầu cho cái hơn hai mươi năm đó, theo lời kể của má tôi, là cái chết của má anh Trọng, người vợ lớn của ba tôi. Sau này tôi còn nghe nhiều người trong gia đình nói rằng chính cuộc sống của một nghệ nhân thường xuyên đi lưu diễn, năm thì mười thuở mới có mặt ở nhà đã góp phần không nhỏ trong sự lạnh nhạt tình nghĩa vợ chồng và tình cha con. Người nghệ nhân đó không biết thương yêu vợ lớn của mình cỡ nào chớ những mối tình dọc đường thì không thể đếm hết được là bao nhiêu. Còn đối với má tôi, người vợ sau cùng, thì ba tôi sống thật trọn vẹn. Đó chẳng qua là do nơi thời thế đẩy đưa. Má tôi thường nói: Đi ra cái nước ngoài này đâu còn lưu với diễn, bướm với hoa, chỉ cơm nhà áo vợ mới làm trọn đạo làm chồng. Điều này thì tôi không biết có đúng hay không, nhưng tôi biết chắc một điều: Việc ba tôi trong cơn thất tán cuối tháng Tư năm 75 đã chỉ đủ thì giờ dẫn theo má tôi, người vợ nhỏ của mình, để lại người vợ lớn đang sống với đứa con trai vừa mới tập đi tập nói ở một vùng quê miền Hậu giang.

      Rồi do những ràng buộc luật pháp xứ này, lại ít hiểu biết về thủ tục, ba tôi chưa dám nghĩ đến việc bảo lãnh má con anh Trọng. Tôi dần dà biết được câu chuyện trở nên phức tạp hơn khi ba má tôi bằng cách này cách nọ giúp đỡ má con anh Trọng mà đều bị từ chối. Khi có tin má con anh Trọng không còn ở chỗ cũ và không ai biết hai mẹ con đã dời đi đâu thì coi như bặt vô âm tín. Điều này càng làm cho ba tôi sống trong tâm trạng bồn chồn lo âu, khắc khoải, đợi chờ. Nỗi ăn năn cũng theo ngày tháng mà lớn dần. Tôi biết được điều đó là do ba má tôi thầm thì những đêm khuya vắng. Thuở đó chưa có những chuyến về thăm quê hương nên ba má tôi không thể làm sao hơn được. Người nghệ sĩ trong ba tôi có lẽ đây mới chính là những tháng ngày sống thật cái niềm đau của chính mình, không thương vay khóc mướn như những ngày đứng trên một sân khấu đại ban. Niềm đau này từ mười  năm nay đã dâng lên tới tột đỉnh khi anh Trọng vượt biên bằng đường bộ đến xứ này và ngụ cùng thành phố với chúng tôi. Lần đầu tiên gặp chúng tôi tại nhà của người bảo lãnh, anh chỉ nói mỗi một câu: “má tôi đã chết”. Sau đó anh không nói gì thêm nữa nhưng đôi tròng mắt thì mênh mông còn đôi hốc mắt thì sâu thăm thẳm, hai tay anh nắm ghì thành cửa, nửa như  không muốn phải quị ngã trước mặt chúng tôi, nửa như muốn đè nén cơn xúc động đang chực dâng trào như thác đổ. Cũng có thể lúc ấy anh muốn nói với chúng tôi rằng: cánh cửa đang mở, các người hãy bước ra khỏi căn nhà này và đừng bao giờ trở lại. Điều này tôi chỉ suy luận được về sau khi biết anh không muốn chúng tôi, đặc biệt là ba tôi, tới nơi anh cư ngụ,  bấy giờ là căn chung cư nghèo nàn ở phía đông thành phố. Sau đó đã bao nhiêu lần ba tôi đi ngang nhà anh để thấy cánh cửa luôn đóng kín, mà anh Trọng thì rất ít khi ra đường ngoài hai lượt đi về mỗi ngày. Đã mười  năm tình trạng vẫn không khá hơn. Ba tôi có cái mặc cảm của một người chồng, người cha phạm tội, đã vô trách nhiệm đối với vợ con nên chỉ biết tối ngày ăn năn, buồn bã, khó mở lời với đứa con mà mình đã không làm tròn bổn phận của một người cha. Dù vậy cũng có lúc ba tôi càng muốn đến gần thì anh Trọng càng dang xa. Hai năm trước, lúc mẹ tôi mất, anh Trọng có đến nhà quàn và đưa linh cữu mẹ tôi đến phần mộ. Hai cha con vẫn không nói với nhau một lời vì anh Trọng cứ cố tránh cha mình. Hôm ấy trông ba tôi thật là tội nghiệp, mang quá nhiều nỗi buồn trong một ngày tang khó. Mẹ mất, trong nhà chỉ còn hai người : Ba tôi thì thường xuyên bịnh hoạn; tôi thì vừa làm vừa học nên nhiều đêm khuya khoắt mới về đến nhà. Thân nhân bây giờ không còn ai ngoài ba cha con chúng tôi. Giá mà anh Trọng về với chúng tôi thì tốt đẹp biết chừng nào. Tôi và anh Trọng, có lẽ nhờ chút huyết thống, nên chúng tôi có gặp nhau thỉnh thoảng. Những dịp này tôi cố tìm lời nói với anh tôi về cơn bịnh của ba, về cảnh cửa nhà quạnh quẽ , về cái khổ tâm của ba, về nỗi ăn năn dằn dặt trong tâm tư ba suốt từ bao nhiêu năm qua. Anh Trọng cũng có lần tiết lộ với tôi rằng anh không ghét ba nhưng anh cũng không quên được cuộc sống lầm than khốn khó, và thiếu thốn của hai mẹ con trên một vùng hoang vu nước độc đã đem đến cơn bịnh ngặt nghèo, rồi dẫn tới cái chết của mẹ. Mẹ anh với tâm trạng bị chồng bỏ rơi và với sự tự trọng tuyệt đối đã từ chối tất cả những trợ giúp từ cha mẹ tôi, bà đã ôm con trốn tất cả mọi người để không ai tìm ra tông tích. Và anh, một đứa con  bị cha bỏ rơi từ những ngày còn non dại. Anh, một thằng bé lúc mới lên mười, trong túp lều trống hoang trống hoác giữa những đêm mưa mịt mùng đã  bong gân rát họng kêu trời gọi đất, mà đất trời cũng không ngăn được những cơn đau quằn quại của mẹ. Anh đã hơn một lần cắn môi chảy máu để không được khóc như lời mẹ dặn, dù cho đó là những lúc bịnh hoạn, đói khát, dù cho đó là lần cuối cùng còn thấy mẹ trên đời. Anh, một đứa con của một người đàn bà khốn khổ, thà đem sức cùn lực kiệt mà sống, thà vắt cạn bầu sữa nuôi con hơn là nhận sự đoái hoài từ một người đàn ông vô tâm. Tôi thường nói với anh cái thảm trạng chung của đất nước dẫn tới bao nhiêu thảm trạng của mỗi gia đình, mỗi cá nhân, nếu cứ nuôi hoài niềm phẩn uất, nỗi oán hờn, nhất là đối với người thân, thì thảm trạng sẽ không bao giờ dứt được. Hệ lụy sẽ thêm chất chồng. Tình phụ tử chắc chắn là điều không có gì thay thế, càng không thể bức tử nó bằng những nghiệt oan của lịch sử. Tôi nói với anh tình trạng già yếu, bịnh hoạn của ba. Tôi cần phải có anh tiếp tay, và chỉ có anh mới làm cho ba bớt muộn phiền. Anh Trọng lắng nghe mà không nói gì, đôi mắt vẫn cứ xa xăm. Sau đó tôi nghiệm ra một điều: Ba tôi và anh Trọng, mỗi người cứ mang hoài trong tâm tư mình một điều muốn nói .

                                                      x X x

      Có thật là sức lực của tôi không còn một chút nào hết ? Tay chân tôi sao cứng đơ thế này? Miệng lưỡi cũng trơ ra như đông đá. Tôi có đang mơ hay không: hãy nhìn kìa, quí ông bà cô bác, mặt thằng con tôi đã kề sát mặt tôi, tôi nghe tiếng khóc từ trong cổ họng của nó, tiếng khóc thật nhỏ như một âm vang từ xa thăm thẳm. Tôi thấy từng phiến đau khổ hằn trên gương mặt nó. Hình như tôi còn nghe âm âm u u những tiếng  gọi  ba, ba . . . những âm thanh tôi chờ trọn một đời, đến bây giờ mới nghe được. Ôi hạnh phúc biết chừng nào. Tôi thấy đây là giờ phút sung sướng nhất đời tôi. Con trai tôi đâu còn thù ghét tôi, nó đã gọi tôi bằng ba. Phải, nó đã kêu lên nhiều tiếng ba, ba, ba . . . Tôi không lầm được đâu. Cuối cùng rồi con cũng đến với ba. Tôi biết tiếng nói của tôi không phát ra được nhưng thằng con tôi sẽ nghe từ trái tim còn ấm của tôi, nó sẽ nghe tôi nói tôi thương yêu nó, ba thương yêu con, Trọng à. Lỗi lầm của ba, ba không mong được tha thứ, nhưng được con trở về thăm và nói với ba những lời ba mong đợi thì đã quá đủ để ba giữ làm hành trang đi về cõi khác.

                                                  x X x

      Giữa hai dãy ghế thưa thớt người đứng cúi đầu tiễn đưa người quá cố là chiếc quan tài màu huyết dụ với vòng nguyệt quế đính phía trước. Vị sư tụng hồi kinh cuối cho lễ di quan. Chỉ có hai người mặc tang phục là anh Trọng và tôi. Hai tay anh Trọng cầm ngang ngực tấm ảnh bán thân của ba tôi chụp trong khi đóng vai Lử Bố với mặt mũi đầy phấn son và trên đầu là chiếc mũ nạm ngọc với cặp lông công màu cẩm thạch. Lúc sinh tiền Ba tôi thích tấm ảnh này nhất trong số các ảnh hiện còn giữ được.

      Đám tang ba tôi không có nhiều người đưa tiễn, chỉ có mấy người bạn già của ba ở trong thành phố; đến từ xa thì có vài nghệ sĩ một thời đứng chung với ba trên sân khấu và vài nghệ sĩ đàn em, cùng với mấy bạn bè của tôi và của anh Trọng. Cái chết của ba thật êm như ngủ, đám tang ba cũng lặng lẽ, âm thầm, không kèn không trống. Đó là ý nguyện của ba. Lúc sinh thời ba nói cả cuộc đời ba đã bị du vào quá nhiều cơn lốc; những cơn lốc tàn nhẫn ngoài đời và những cơn lốc tự mình nhập vai trên sân khấu; gươm giáo loang xoang, trống kèn inh ỏi;  cho nên khi nhắm mắt xuôi tay xin cho ba một lần đi trong thinh lặng.

      Khi chiếc quan tài được đẩy từ từ vào cái hộc vuông của lò thiêu, anh Trọng trong giây phút xúc động tột cùng đã ôm lấy phần cuối của chiếc quan tài, nói trong tiếng khóc: “ Đứa con bất hiếu này đã không còn dịp nào nữa để nói rằng con rất thương yêu ba”.

      Tôi thì tôi tin rằng ba tôi đã thấy hết và đã nghe hết. Thấy một đứa con đã trở về và nghe những  tiếng mà lúc sanh tiền ba chưa nghe được.

      Xin ba thương yêu của anh em chúng con hãy đời đời an nghỉ.

      Tôi đã thay anh Trọng mà bấm cái nút ON khi cánh cửa lò thiêu vừa khép lại. Một cánh màn đã khép lần cuối cho cuộc đời của một nghệ sĩ về chiều.

TBT

Không thể là sự thật

 

Mặc dầu ông Glen Cliffs đã nghỉ dạy học từ hơn ba mươi năm nay, những người quen biết ông vẫn gọi ông là thầy. Còn những học trò hay những người trẻ có nhiều dịp gần gũi và tiếp xúc với ông thì thân mật gọi ông là "Pappy", là Bố, vì đối với họ ông Cliffs quả rất xứng đáng là bố qua lối cư xử, cách dạy dỗ, cả cách rầy la, nhất nhất đều tiết ra cái tình cha con. Người ta nói ông Cliffs có trái tim vĩ đại hơn cái hồ Lake Champlain, rộng 431 dặm vuông, ở tiểu bang Vermont của ông, vì tim ông có thể chứa hàng ngàn người trong đó. Còn riêng ông, ông thích tự gọi mình là Người Dọn Dẹp, một "Cleanup Man" thứ thiệt. Số là vào cuối thập niên bốn mươi, trường ông Cliffs dạy không có thư viện, ông bà Cliffs phải dọn dẹp cái nhà kho chứa than đốt của trường rồi ông bà vừa gởi thơ xin sách báo từ các bạn bè gần xa, vừa tiện tặn mua sách vở làm cái thư viện đầu tiên của trường Cambridge High School. Nhiều người còn cho rằng đó là thư viện đầu tiên của thành phố Cambridge. Vị hiệu trưởng của trường thời đó có nói một câu bóng bẩy:

"Thầy Cliffs đã làm một công hai việc: xây dựng thư viện và dọn sạch sẽ đầu óc các học trò để nhét vào đó những cuốn sách quí".

Bây giờ ngồi một mình nhớ lại câu nói đó, ông Cliffs cảm thấy vui vui. Nó nhắc nhở cho ông nhiều thứ quá. Bao nhiêu thứ, bao nhiêu sự việc đang trôi bồng bềnh trong óc ông, có lớp có lang. Thời gian cũng lũ lượt kéo qua đời ông, đi ngang rồi đi khuất. Còn những kỷ niệm thì vẫn trụ hình, có tình có tự, trong lòng ngực, trong tim óc ông. Gần một thế kỷ có mặt trên đời, hay chính xác hơn, chín mươi mốt năm làm người, ông Cliffs làm sao không thể có nhiều điều đáng nhớ.

Đã từng là một nông dân, rồi thành người bán bảo hiểm, rồi tham gia quân đội. Sau trận thế giới đại chiến lần thứ hai chàng trung niên cựu quân nhân Glen Cliffs, lúc đó đã ngoài ba mươi tuổi mới vào ngành giáo dục. Người ta nói mỗi người có một quãng đời để sống, còn những quãng đời khác, những quãng đời không biết sống, thì chỉ để có mặt trên trần ai mà thôi, không có ý nghĩa gì hết. Hơn ba mươi năm dạy học là một quãng đời ông Glen Cliffs đã sống hết đời mình. Ông căng đôi tay ra để ôm chầm, ôm chắc nghề dạy học. Ông nâng niu nó kể cả những năm dài nghỉ hưu. Ông trải quả tim ông ra để thương yêu tất cả các học trò của mình. Các học trò hình như chẳng có đứa nào ghét ông, ông nghĩ vậy. Thời gian càng dài, sự gắn bó thầy trò càng khắn khít.

"Hello, Thầy ơi, con đây. Đầu tháng tới con sẽ gởi Thầy cái vé máy bay để mời Thầy sang đây dự ngày ra trường của thằng út tụi con nhen Thầy...!"

Đó là cú điện thoại của gần hai mươi năm trước. Lời mời thì ngắn mà lời thăm hỏi, lời trò chuyện lan man thì dài. Người gọi không nói tên, nhưng ông Cliffs vẫn biết đó là chị Lisa ở Seattle. Ông có biết thằng Út đó là thằng Kevin sắp tốt nghiệp nha y. Mấy chục năm nay biết bao nhiêu là những cú điện thoại tương tự đến từ hàng trăm cựu môn sinh ở rải rác khắp nơi. Quan hôn tang tế cũng là dịp gặp gỡ của đồng môn, của thầy trò. Chỉ nghe mấy tiếng đầu từ bên kia là ông Cliffs biết đó là ai; biết cả cái quá khứ, hiện tại, tương lai của người gọi.

Thầy giáo Cliffs làm sao quên được cái giọng khàn đục của anh Donald, biệt hiệu là Don Juan, người học trò cao to ngồi cuối lớp, học thì ít mà chơi thì nhiều, chọc phá các cô cũng dữ, đã nghỉ hưu từ hai năm nay, sẽ theo đứa cháu nội là thằng Mack tháng tới đi làm tùy viên văn hóa toà đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Còn chị Jane Pellerin thì nói tiếng Mỹ bằng giọng Tây đặc sệt. Chị nói ông của chị từng là một vị Toàn quyền Đông Dương. Chị ngồi ngay ở đó đó, ở ngay cửa sổ ngó ra khoảng sân rộng, có cây cột cờ cao gần đụng trời. Chị Jane thường nhìn những con hoạ mi hermit ca hát véo von trên cây nhã phong lẻ loi ở một góc sân. Chim thì cứ ca hót trên cây, chị Jane thì cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ làm thơ trong giờ học nên cứ bị thầy Cliffs rầy hoài. Kể từ cuối tháng Tư mười năm trước, người thầy hưu trí Cliffs không còn nghe tiếng líu lo như chim của chị Jane trên đường dây viễn liên nữa. Chị Jane đã bỏ thầy mà đi trước rồi! Từ đó cứ cuối tháng Tư mỗi năm, thầy giáo già Cliffs đều tình cờ đi ngang qua ngôi trường cũ, rồi tình cờ nhìn mấy cánh họa mi đậu ơ hờ buồn bã trên nhánh nhã phong trụi lá, tình cờ nhìn về hướng cửa sổ của một lớp học xưa mà tự dưng làm rơi mấy giọt nước mắt.

Từ vài chục năm nay nhiều cựu môn sinh đã từ giã thầy mà đi về cõi khác, để ông giáo già lụ khụ này rơi lệ tiễn đưa. Người học trò ra đi trước nhất có lẽ là anh Herman. Quan tài của anh được phủ lá quốc kỳ, đưa về từ vùng đất nằm bên kia bờ Thái Bình Dương. Thầy Cliffs không quên được buổi tối mùa đông đầu năm sáu mươi tám đó, cổ xe tang tứ mã lốc cốc đưa xác anh Herman Fernandez đi ngang qua trường. Hôm ấy tuyết trắng xóa mênh mông không làm rõ được cỗ xe đang như cánh lá thâm đen trôi dật dờ trước ngôi trường cũ. Sân trường không một bóng người. Cây nhã phong âm u. Lá cờ rũ trên cột cao; rũ như cõi lòng người thấy giáo cũ đang co ro, ủ rũ đứng bên kia đường, vừa đưa cánh tay khẳng khiu vẫy tiễn đưa một thân xác thân yêu nằm lạnh căm trong lòng xe tứ mã, vừa gạt nhanh những giọt lệ chực đóng băng trên mắt mình. Rồi tư đó, những Robert, những Suzane, những Tyler, Kathy...thay nhau mà vĩnh viễn ra đi , không kịp nói với thầy mình một lời từ giả! Nhắc tới Kathy King, người học trò có mái tóc đen mượt dài tới gối và đôi mắt nâu màu hạt dẽ, ông Cliffs nhớ mấy năm trước, trong khi nói chuyện qua điện thoại ông trách người học trò cũ này quá cỡ chỉ vì chị Kathy cứ dông dài chuyện này chuyện nọ mà quên không nói tới tình trạng học hành của thằng cháu nội Dillan của chị. Không biết từ hồi nào, ông Cliffs có thói quen hay quan tâm tới gia đình các môn sinh cũ, những người thường liên lạc với ông. Số này thì khá đông. Ông quan tâm nhất là về sự học hành, về tư cách,  đạo đức của các con cháu của các môn sinh. Người ta không ngạc nhiên khi ông Cliffs biết được là nhà toán học đã tính toán chính xác tốc độ để một chiếc xe hơi bay an toàn ngang qua mấy toa xe lửa đang chạy nhanh chính là thằng Andre, cháu nội anh Ken Tate, người trưởng tràng gần nửa thế kỷ trước. Ông Cliffs còn biết cả cặp học trò cũ Nancy và Nick đã ly dị; biết anh Francis, ở tuổi quá lục tuần, vừa mới cưới người bạn cùng lớp năm xưa là chị Josephine. Cô dâu chú rể được bao quanh bởi mấy chục con cái, dâu, rể và các cháu nội, ngoại. Ngày đó vui hết sức, ông Cliffs thấy mình như vị thái thượng hoàng được cô dâu chú rể già cùng các con cháu cúi mình cảm tạ và chúc phúc. Có lần ông Cliffs đến một thành phố xa vừa dự xong lễ cưới của gia đình người học trò này thì dự lễ tang của gia đình một học trò khác.

Các học trò cũ cũng quan tâm tới Thầy Cliffs của họ rất nhiêu, nhất là từ khi vợ ông mất bảy năm trước.

"Hello, hello, hello...Thầy ơi, Thầy! Thầy!..."

"Chị Tammy đó hả? Có chuyện gì mà ..."

"Ồ, Thanks God. Nghe tiếng Thầy con mừng quá. My Goodness! Cảm tạ trời đất. Thầy vẫn khỏe hả thầy?"

"Từ từ mà nói. Có gì mà nghe có vẽ quan trọng quá vậy?"

"Mấy tuần nay, bận nhiều chuyện quá, hôm nay con mới nhớ, không biết thầy có mệnh hệ gì không. Nghe tiếng thầy là con mừng. Thầy vẫn ăn được, ngủ được hả thầy? Thầy vẫn còn tập 5 thế thể dục Suối Nguồn Tươi Trẻ hả thầy? Thầy tránh bớt ăn nhiều dầu mỡ và những thức ăn mặn nhen thầy. Thầy nên...Thầy đừng...Thầy đừng... Thầy nên...."

Cứ như vậy mà câu chuyện kéo dài. Đó chỉ là một phần ngắn cú điện thoại tháng trước của chị Tammy Schneider gọi từ Frankfurd, Đức quốc. Đó cũng là một trong bao nhiêu cú điện thoại thân thương từ bao nhiêu năm nay. Đó là những tia nắng mai rực rỡ làm ấm cõi hoàng hôn của người thầy giáo già.

 

oOo

 

Trời bây giờ đang sụp tối. Tiếng rít của bánh sắt xe lửa từ bên kia dãy đồi phía sau nhà báo cho ông Cliffs biết đã 5 giờ chiều rồi. Đây có lẽ là con tàu cuối năm, cũng là con tàu cuối thế kỷ chạy ngang qua thị trấn này. Thời gian vẫn trôi. Con tàu tuổi nhỏ của ông vẫn ngày ngày miệt mài trôi trên cùng một đường sắt, cả trăm năm nay. Ông Cliffs đứng dậy tăng thêm nhiệt độ lò sưỡi, bật lên tất cả các ngọn đèn trong phòng khách. Phòng khách sáng choang để ông Cliffs có thể nhìn rõ những tấm ảnh treo gần kín một khung tường, đa số là ảnh đen trắng; có nhiều tấm không còn nguyên vẹn. Nhưng đâu có hề gì. Thầy giáo Cliffs nhắm mắt cũng hình dung được từng khuôn mặt, nhớ hết từng cá tính, thói quen, nết tốt và cả tật xấu của từng người trong ảnh vì đó là những học trò của thầy Cliffs. Còn trên chiếc bàn dài đặt ở bên góc trái căn phòng là mấy chục tập ảnh gồm ảnh xưa lúc thầy trò còn ở trường và ảnh nay lúc thầy trò đã mỗi người mỗi ngả. Ông Cliffs đã bao nhiêu lần lật đi lật lại những tập ảnh đến nỗi ông thuộc từng vị trí của mỗi tấm ảnh. Nhiều chục năm thầy giáo Cliffs đã sống với các hình ảnh học trò cũ như sống với những người quen thuộc trong cùng một ngôi nhà cổ. Trong tập ảnh thứ nhất, trang thứ 5 là toàn thể 28 học sinh lớp 9 niên học 49-50. Trang 12, 13 và 14 của tập ảnh thứ ba là ảnh picnic năm 1956 của các lớp 11 tại Mt.Mansfield, dãy núi có độ cao 4,400 bộ. Còn tập ảnh thứ 12 là của người học trò cũ tên Antonio tặng ông gồm tất cả hình ảnh chụp trong ngày Họp mặt truyền thống năm 1998 của học sinh cấp lớp 12 niên khóa 1953, cả thầy lẫn trò đều là những ông già bà cả mà trông mặt mũi người nào cũng tươi trẻ như mới đôi mươi! Nguyên tập ảnh thứ 15 là hình ảnh những chuyến "thăm dân cho biết sự tình" của ông thầy Cliffs đến nhà các học trò cũ trong những năm ông bà Cliffs về hưu và còn mạnh khỏe. Đa số là những chuyến đi ngắn trong tiểu bang hay các tiểu bang lân cận. Có những chuyến đi dài như chuyến đi Hòa Lan lúc anh Henderson đang làm Giám đốc ngân hàng ở đó. Hay chuyến đi Etopia vào năm 1976 của ông Cliffs rất thú vị khi ông cùng vợ tháp tùng đoàn y tế của chị học trò cũ Flores đi cho thuốc và khám bịnh dân chúng tận các vùng rừng sâu. Các môn sinh thường hay gởi cho ông ảnh của các con cháu chụp ngày ra trường trung học, đại học... ông Cliffs để chung vào tập ảnh số 17, đây là tập ảnh dày nhất vì con cháu mỗi ngày một đông thêm. Sáu tập bìa da dày cộm để trên kệ sách đằng kia là các bài luận văn của học trò cũ lúc ông dạy môn English  mà ông đã đọc không biết bao nhiêu lần rồi. Trong đó có cả mấy bài thơ viết tay của chị Jane gởi thầy chỉ vài ngày trước khi chị qua đời vì bịnh ung thư phổi. Mỗi trang thơ đều có những chữ bị loang vết mực, ông Cliffs không còn nhớ đó là nước mắt của người làm thơ, hay ngấn lệ rớt xuống từ đôi tròng mắt sâu của người thầy cũ thương nhớ người học trò tài hoa mệnh bạc.

Ông Cliffs vói lấy cây gậy rồi bước lần ra phía cửa. Con đường trước nhà giờ này có nhiều xe cộ chạy vội vã. Ông Cliffs biết người ta đang muốn về sớm cùng với gia đình ăn bữa cơm tối tiễn đưa năm cũ và đặc biệt là chào đón năm đầu của một thế kỷ mới, năm 2000. Riêng ông Cliffs thì ông biết ông phải làm gì cho cái ngày đầu của thiên niên kỷ này. Hôm qua, chị Louise đã điện thoại nhắc ông về cái hẹn ngày mai. Phải, cái hẹn ngày mai, một cuộc hẹn thật là đặc biệt, cũng là một trò chơi đánh cuộc xảy ra từ đầu năm 1949, từ 51 năm trước. Ngày đó thầy Cliffs đang dạy môn khoa học tại trường Cambridge High School, bài dạy hôm đó là Thời Gian và Khoảng Cách. Trong khi giảng có một lúc nào đó thầy Cliffs nói tới năm 2000 thì bé Louise Sander, lớp 9, 13 tuổi, bèn đưa tay đứng lên xin nói:

"Dạ thưa thầy, sao thầy lo chi tới cái năm 2000 xa quá là xa đó. Lúc ấy chắc thầy trò mình không còn để mà thấy nó. Cả cái Time Square người ta đến đó ôm nhau mừng năm mới chưa biết có còn không nữa!"

"Xin lỗi cô bé, cô đang nói gì thầy không hiểu?"

Biết thầy có vẻ bất nhẫn vì câu nói của mình, bé Louise bèn dịu giọng:

"Tất cả chúng ta chưa biết ai còn ai mất 51 năm sau, thưa thầy".

Ngay sau đó thầy trò cả lớp bày ra trò chơi đánh cuộc: Thầy trò sẽ gặp nhau đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm 2000 tại sân nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main, để xem ai mất, ai còn.

 

Hôm nay là ngày cuối năm 1999.

Mới đó mà đã 51 năm! Thầy Glen Cliffs đã 91 tuổi còn trò Louise Sander thì 64. Các trò khác thì cũng trên lục tuần. Suốt thời gian nửa thế kỷ đó, mỗi đầu năm thầy trò cùng nhau đếm số ngược từ 51 lui dần để cuối cùng hôm nay là con số 1. Con số 1 đã đứng đó chờ đợi thầy trò ông Cliffs đã 51 năm nay. Thầy Cliffs vẫn còn đó, chị Louise, chị Rosaline, anh Kenneth, anh Adrian....vẫn còn đó để đếm thời gian; còn những Jane, những Herman, những Jerry, Cook, Janet... thì đã bỏ cuộc chơi, bỏ lại những con số càng ngày càng nhỏ! Cũng đâu biết được những người học trò sớm ra đi này đang đứng đâu đó trên vùng trời thênh thang trên cao cùng đếm con số 1 với thầy và bạn mình dưới thấp?

Từ hôm đầu tháng 12 năm nay, chị Louise đã chuẩn bị cho ngày hội ngộ vô cùng kỳ thú này: Chị hoạch định hẳn một chương trình hành động, gọi là Project 2000. Đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng 12, chị Louise đã bắt loa truyền hịch cho hải nội chư quân, bàng dân thiên hạ năm châu bốn biển hãy mau kíp về đây dự ngày tụ hội. Năm mươi mốt năm mới có một ngày! Mại dô, mại dô! Bà con cô bác! Chị Louise cẩn thận dặn những người ở địa phương mỗi người làm món ăn mà Thầy Cliffs của mình thích nhất: Chị Peg nấu món măng hầm thịt nạc bò và củ hành trắng, mà phải nấu sao cho mềm rệu, thầy không còn răng thật đâu. Chị Rosaline nấu món súp hải sản, phải có rong biển thật nhiều, đừng quên thêm vào một chút rượu vang cho thơm. Lúc sanh tiền, anh Greg chuyên trị món kem trái cây tráng miệng, nay thì việc này giao cho Greg phu nhân vậy...Bộ sậu ban tổ chức Ngày Tụ Hội 2000 cũng không quên chuẩn bị một đêm ca nhạc kịch và dạ vũ với nhiều màn tự biên tự diễn vui nhộn để thầy trò chào mừng năm mới và đánh dấu một ước nguyện đã thành: Gặp nhau năm 2000. Một cuộc chơi dài 51 năm sẽ chấm dứt sáng mai. Project 2000 sắp hoàn tất! Tất cả sẽ là những người thắng cuộc. Cả tháng nay mọi chuyện tiến hành tốt đẹp. Người người nôn nóng. Nhà nhà nôn nao. Những con cháu cũng thấp thỏm chờ đợi như cha mẹ ông bà của chúng. Chúng có những trận cười thích thú khi chứng kiến các buổi tập kịch của ông bà tại nhà. Từ cử chỉ, cách ăn mặc cho tới việc tô son vẽ phấn để biến thành những teenagers trông thật tức cười. Thằng cháu ngoại 10 tuổi cười lộ hết mấy cái răng sún khi ông ngoại nó đóng vai chàng nam sinh lớp 12 năn nỉ ỉ ôi xin một chút tình từ cô nữ sinh cùng lớp trên đường đi học, do bà ngoại nó đóng. Anh Frank thì đóng vai thầy Cliffs y như thật, từ tiếng nói rổn rảng đến cái phác tay, cái nhướn mày, trừng mắt...Không biết anh Frank tìm đâu được cái áo bành tô màu cứt ngựa y hệch cái áo mà ông Cliffs thường mặc vào nửa thế kỷ trước.

Nửa thế kỷ đã chờ được, chỉ còn một tí nửa thôi mà trái tim mỗi người như muốn bái bai cái lòng ngực, chờ được nhảy tung trên đường.

Phần ông giáo Cliffs thì ông cũng nôn nao. Hôm trước anh Daniel muốn rước thầy Cliffs đến nơi gặp mặt, nhưng thầy Cliffs đã từ chối, ông bảo mọi người hãy đến chỗ hẹn, đừng bận tâm về ông, ông muốn tự mình chu toàn lời hứa cũ. Ông hỏi về chương trình ngày mai, các học trò tuyệt đối giấu ông những gì họ sẽ làm. Ngày mai, ngày đầu thiên niên kỷ thứ ba, ngày hẹn. Phải, ngày hẹn nhau 51 năm trước sắp tới rồi. Sắp tới rồi! Trong niềm vui, tự nhiên ông Cliffs cảm thấy hơi buồn khi nhớ tới bà vợ Majorie. Vợ ông cũng đã chờ với ông trong mấy mươi năm. Cái chết đã làm bà mất cơ hội cùng ông vui ngày sum họp vô cùng đặc biệt này. Và còn thiếu thêm những ai trong số những môn đệ của ông? Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?

Trong nỗi vui buồn lẫn lộn đó, ông Glen Cliffs đi ngủ sớm để có mặt ngày mai trên đường Main, trước sân nhà thờ The First Church of Christ.

 

oOo

 

Trong phần tin tức lúc 7 giờ sáng, làn sóng 640 AM của đài phát thanh địa phương có loan một bản tin ngắn: "Cuối cùng thì thầy giáo Glen Cliffs không đến được chỗ hẹn trước nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main. Theo khám nghiệm thì ông giáo 91 tuổi mất khoảng 6 giờ  sáng nay, ngày 1 tháng Giêng năm 2000. Ông Cliffs đã bước những bước đi đầu tiên từ những năm đầu Thiên Niên Kỷ thứ hai, đã đặt chân lên Thiên Niên Kỷ thứ ba. Ông chỉ thiếu có hơn 1 tiếng đồng hồ để đặt chân lên chỗ hẹn, để hoàn thành lời ước từ 51 năm về trước".

 

Và người ta thấy một số những lão ông, lão bà tuổi lục tuần, thất tuần đang ngồi khóc tại một góc phố trên đường Main. Hình như không có ai trong số những người nầy tin những lời phát thanh là sự thật. Năm mươi mốt năm chờ đợi đã trôi qua như một giấc mộng. Con số 0 đã hiện ra để chấm dứt 51 năm chờ đợi, thì một con người vĩ đại đã biến mất. Một con số 0 khác bỗng xuất hiện như một cánh lá thu đang chao nghiêng bay về với đất. Ôi cái Có và cái Không! Sự ra đi đột ngột của người thầy kính yêu dù có nằm mơ cũng không thể xảy ra được. Thật hay mơ?

Thiên Niên Kỷ mới đã đem cho họ một nỗi buồn quá lớn lao.

 

Houston, trong khi chờ đợi ngày đầu năm 2000

TBT

bottom of page