top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
ba.JPG.w300h453.jpg

      TRẦN BANG THẠCH

                    Houston, Texas

Trích từ FB TC  Quỳnh Như:

Cảm ơn anh Tran Bang Thach. Bài viết thoạt đầu đọc cứ tủm tỉm cười, rồi càng đọc càng nặng nề theo những xáo động của đất nước... Đọc để biết nhiều hơn rõ hơn về một thời đã qua, và để cùng ngậm ngùi với những cuộc tình mong manh trong thời chiến...

Mời các anh chị và bạn bè cùng đọc.

 

CUỘC TÌNH LÊNH ĐÊNH

Tặng Cao Vị Khanh, Trần Thị Nguyệt Mai, Quỳnh Như để nhớ lại một thời tuổi trẻ.

------------------

Nhà thầy giáo Ba đối diện nhà tôi, hai nhà cách nhau con đường tráng xi măng nhỏ, chỉ rộng vừa đủ cho hai người đi song đôi. Ngay khi thấy mặt và tình cờ biết được tên của người con trai mới đến trọ học tại nhà thầy giáo Ba, thì tôi đã linh cảm được cuộc đời tình ái của tôi sau nầy rồi. Không hiểu sao lúc đó mới mười mí mà tôi nhạy ba cái chuyện người lớn dữ như vậy. Tôi mường tượng thấy nó sẽ ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh. Nguyên do là như thế này. Cái tên Ly của tôi, Trần Phương Ly, mà ghép vào với cái tên Từ của người con trai đó thì nghe sao bi đát quá chừng. Hai cái tên này mà đụng vào nhau thì không u đầu sứt trán thì cũng ruột tím gan bầm tim thổn thức. Thuở ấy tôi còn ngây thơ lắm vậy mà đã nằm lòng câu thơ: “Đưa người ta không đưa qua sông sao nghe tiếng sóng ở trong lòng”… Cho nên Từ Ly hay Ly Từ thì cũng đều âm u, buồn bã, đớn đau, chua xót hết cả… Hình ảnh chàng tại Tương giang đầu thiếp tại Tương giang vĩ tuy hết sức thơ mộng trong thi ca, nhưng nếu cái đầu sông cuối sông ấy mà va vào phận số của mình thì chắc là buồn lắm. Yêu nhau thấu trời mà phải Từ với Ly thì chỉ có nước đi… tu cho nhẹ lòng nhẹ dạ. Tên Ly của tôi thì vô phương sửa đổi rồi. Đó chắc phải là cái tên ba má tôi thích lắm; có lẽ ông bà đã nhiều đêm trong phòng vắng vừa tâm sự rả rít với nhau vừa tìm tên cho đứa con đầu lòng sắp ra đời, và lúc tôi gặp anh chàng thì cái tên Ly đó đã đi theo tôi mười ba mùa mưa nắng trên cuộc đời nầy rồi, dễ gì mà thay với đổi. Còn cái tên Từ được làm khai sanh cho thằng con út chắc ông bà ngầm thông tin với nhau rằng: Kể từ đây mình nên treo miễn chiến bài và giã từ vũ khí để còn có sức lực lo cho 8 đứa con nheo nhóc. Chớ cái điệu đầu năm sanh con trai, cuối năm đẻ con gái theo lời thiên hạ chúc ngày đám cưới thì chỉ có cách cả nhà uống nước sông cho no bụng. Cho nên cái chuyện đổi hay thay gì thì là ở cái nơi tạm cư của anh chàng đó. Thế giới này rộng thênh thang, tỉnh lỵ này cũng đâu có nhỏ, Thủ Đô Miền Tây mà, tự dưng rồi Lê Văn Từ từ một làng quê nào đó chui vào con hẻm cụt này mà ở trọ; rồi chẳng biết ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào mà lại ở chường ngay trước mặt người ta. Phải chi anh chàng đến ở tại những nơi khác thì tôi đâu có quen biết gì anh chàng để mà thắc mắc và sầu đời. Phải, tôi đã sầu gần suốt cuộc đời này rồi đó quý vị ạ. Sầu quá kỹ cho nên mới trên năm mươi mà tóc bạc gần hết. Thì ai biểu quen biết với người ta làm chi để bây giờ dài dòng văn tự? Xin lỗi quý vị đừng phán như vậy. Quý vị đừng có binh vực người ta mà quá bất công với tui à nghen. Từ khởi thủy tui có muốn nhìn cái bản mặt cô hồn của anh ta đâu mà cho rằng tui muốn làm quen hay làm bạn; tui muốn làm lạ thì có. Nói trắng ra là những tháng đầu tôi thấy cái con người gì mà thật dễ ghét, quê một cục. Tình cờ chạm mặt người ta trên đường đến trường, cái cục quê này nào có thấy người ta đang tập mang đôi guốc cao gót Đa-kao hay cài con bướm bằng ny-lông trên tóc, hay khi người ta ráng chịu đau cắn môi trên môi dưới cho môi thêm hồng thêm mọng, cái cục quê ngó lơ như bận tâm nhìn phố xá, hay cứ gầm mặt xuống mà đi, giống như người đi lượm bạc cắc ngoài đường; tui rủa anh chàng bữa nào đó đụng cây cột đèn u đầu gãy gọng để bọn tóc bím tụi tui cười cho đỡ buồn. Anh chàng ăn mặc còn bắt cười hơn nữa: cái áo sơ-mi trắng rộng thùng thình chồng vô thân hình ốm như cò ma, cái quần tây xanh gọi là quần dài mà cụt ngủn để lòi đôi ống chân cao lỏng nhỏng, còn đóng phèn, mốc cời; bước đi thì kéo lê đôi giày săn-đan, làm như từ nhỏ đến giờ chưa từng biết mang guốc mang giày, mà chỉ biết quét đường bằng săn-đan không bằng; bước ra đường là có cái nón rơm che cái đầu hớt cua trông như trọc, nói năng chẳng biết thưa gởi là gì, phát âm thì cứ con-cá-gô-nhảy-chong-gỗ-kêu-gọt-gẹt-gọt-gẹt, tui nghe mà phát “gung” phát “ghét” phát “gầu” thúi “guột” thúi gan. Gần hết năm đầu thì tình hình có khá hơn một chút. Cái đầu hớt ca-rê phật được thay bằng cái đầu chải bảy ba tươm tất, nhiều khi có thêm chút bri-ăng-tin ba con năm và thêm cái ổ gà phía trước. Đầu năm chắc đã đếm cột đường nhiều quá rồi nên chán, giờ đây chịu ngước mặt nhìn lên tí chút. Cũng hỏng chừng chàng ta sợ cứ cuối đầu xuống hoài e rằng hột gà từ trên đầu rơi xuống lả tả thì hứng đâu kịp!!!|

Năm thứ hai, thứ ba thì mọi chuyện cũng bình thường thôi: ăn mặc như người thành phố, nói năng đàng hoàng, nhân cách hơn. Không biết từ hồi nào anh chàng đã quên khuấy mấy đồng bạc cắc trên mặt đường mà để mắt ngó nghiêng nhìn dọc mấy cái áo dài. Thấy đẹp mà không nhìn thì có là mù! Chắc cũng từ đó mà răng phe ta cắn cặp môi phe nhà thường hơn, trên tóc có thêm vài con bướm màu mè sặc sỡ hơn. Đặc biệt là mỗi sáng đứng lấp ló trong cửa nhà trọ, anh chàng đã biết nhìn vào khung cửa của nhà đối diện, và chờ để lẽo đẽo đi sau lưng người ta. Biết có người tình nguyện hộ tống phía sau, con nhỏ bèn tương kế tựu kế: khi thì làm rớt cây viết, lúc thì cuốn tập hay cái khăn mù-soa, khiến cây tre miễu cúi xuống đường lượm rồi ân cần, lễ phép trao cho nhỏ, ra điều rất lấy làm hân hạnh. Làm vậy vừa bõ ghét vừa tập cho anh chàng quen khom lưng để vợ dễ dạy sau này! Nhiều bữa con nhỏ nhà đối diện này bèn chơi độc. Nó canh còn đúng 17 phút để nó từ nhà vừa kịp bước vào lớp. Những hôm đó anh chàng bị trễ học là cái chắc, vì từ trường nữ của Bà Đoàn phải đi thêm đúng 2 phút rưỡi nữa mới tới trường nam của Cụ Phan! Mà giờ vào lớp của hai trường thì cùng một lúc. Vậy mới chết cửa tứ cho chàng ta. Trễ học là cái chắc. Chém chết cũng bị cồng-xin ngày chủ nhựt, và phải chép đi chép lại cả ngàn lần câu: “Từ đây tôi không dám đi trễ”. Cho bỏ tật ham làm cái đuôi! Sau năm bảy lần như vậy thì cái đuôi khôn hơn: chờ đến khi còn vài chục thước đến trường nữ, cái đuôi tiến lên ngang hàng, nheo mắt một cái ra điều bái-bai, rồi phóng nước đại, ngựa phi ngựa phi đường xa, vừa kịp lách vào thì cánh cổng trường khép lại.

Nhưng thú thật với quý vị sang đến đầu năm lớp Đệ Nhị thì cái đuôi này thành cái đuôi sam, chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, đốt không cháy. Ngay tình mà nói cả hai đương sự đâu có ai muốn bứt hay muốn chặt nó đâu. Dại gì mà làm chuyện đau khổ ấy. Trong Hồn Bướm Mơ Tiên, cô nàng Lan của Điệp sau khi làm hai chuyện ruồi bu là cắt tóc và cắt đứt dây chuông chắc tiếc hùi hụi, ước gì nối tóc và nối dây chuông lại được thì vui thấu trời xanh, Tiên lại về với Bướm. Nói gần nói xa không qua nói thiệt: Tình yêu hổng biết do đâu mà có mặt giữa hai người, lại đến đúng vào năm cả hai chuẩn bị kỳ thi Tú tài một. Lúc tâm trạng người ta dao động, âu lo là lúc người ta dễ nương tựa vào nhau nhứt. Giữa chốn rừng núi âm u dẫy đầy đạo tặc, một thân một mình với tì nữ Kim Liên, dù cho anh chàng Vân Tiên họ Lục vừa khoát tay vừa nói khoan khoan ngồi đó chớ ra nàng là phận gái ta là phận trai thì nàng Nguyệt Nga họ Kiều cũng chỉ muốn sa ngay vào đôi tay rắn chắc của chàng Lục cho yên bề …. an ninh nội địa. Tình yêu của tôi và chàng có lẽ bắt nguồn từ chỗ đó. Từ đầu năm học đệ tứ chúng tôi đã đi học các lớp toán, lý hóa và sinh ngữ ban đêm ở tư thục Thủ Khoa Huân, đi về có nhau cho đỡ lạnh cẳng. Năm này chúng tôi đã biết gọi tên nhau và đã biết chờ nhau đi học. Mộng mơ thì chúng tôi chưa thượng thừa nhưng chắc đã lên hàng bảy, tám túi. Vừa vẽ tim gan phèo phổi cho môn vạn vật của Thầy Đại Bằng vừa chép thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Prévert … Vừa học tìm sin lấy đối chia huyền, cos thì hai cạnh kề huyền chia nhau vừa đọc Mười Đêm Ngà Ngọc, Để Tưởng Nhớ Một Mùi Hương… Đêm đêm hai đứa, trên hai cái gác đối diện, thi nhau thức khuya học bài và học … yêu. Không nói ra nhưng hai đứa nhứt quyết phải giành cho được cái bằng Trung học Đệ nhứt cấp. Ê mặt lắm nếu bảng hổ không đề tên. Năm đó thì tâm trạng chúng tôi cũng dao động và âu lo lắm. Và hai con tim thì đã thấy có gì khang khác, nó lửng lửng lơ lơ, ảo ảo mờ mờ như sương như khói. Con chữ con nghĩa, con toán con hóa sao nó cứ nhùng nhằng ẩn ẩn hiện hiện gương mặt người từ căn gác đối diện; đầu trang sách là một nét cười, cuối trang là chút âu sầu trên môi trên mắt. Học Nguyễn Du: mai cốt cách, tuyết tinh thần mà sao cứ thấy có nàng ở trong! Học Benzene, Acêtylene, thấy nơi gác trọ chàng nghiêng nghiêng nhìn! Thấy chàng ngồi đó làm thinh. Thấy nàng trong cửa lén nhìn người dưng. Năm đó chắc có thần ái tình phù hộ dẫn lối đưa đường nên hai đứa đều đậu. Hú hồn! Tưởng là sẽ tởn tới già đừng đi nước mặn mà hà ăn chưn; nói cho rõ là sẽ không dám lần khân với ái tình. Tưởng là sẽ chẳng nên tương tàu tương hột tương tư làm chi cho ốm o gầy mòn long thể. Nhưng ông thần tình ái dường như đã cho chúng tôi vay lần trước quá nhiều nên bây giờ muốn lấy lại cả vốn lẫn lời. Hắn cho chúng tôi xang bang xất bất ngay đúng cái năm Đệ Nhị gai góc. Bài vở học thi thì cao bằng núi mà sự thương nhớ thì cao bằng trời. Không nhìn thấy ánh điện bên kia cửa sổ thì nhớ. Không đi chung lối đến trường thì buồn. Những khi chàng phải về quê đôi ngày thì chắc chắn sau đó chúng tôi đọc thư của nhau mệt nghỉ. Tui viết rằng: những đêm học bài khuya, nhỏ đạp xe một mình ra bến Ninh Kiều mua xôi vò, không có chàng, nhỏ ăn cả phần xôi nhỏ mua cho chàng, để nhớ chàng thêm, nhớ gấp đôi lận đó. Còn chàng của nhỏ thì viết rằng: anh leo lên cây quít đầy kiến lửa và chơm chởm gai, bẻ một trái quít vàng mọng rồi lột vỏ, đớp nhẹ vài múi, và chợt nhớ đến nhỏ, nhớ vô cùng là nhớ, nhớ bất tận. Câu văn tuy có hơi hướm thơ Tô Thùy Yên nhưng nghe vẫn phát thương. Ước chi chàng ăn nguyên trái bưởi to kềnh thì niềm thương nhớ chắc phải bự hơn! Có lẽ chàng của tui bắt đầu làm thơ từ những ngày này. Cái kiểu lục bát như vầy: Ngoài kia có lạnh không em? Anh nơi này đứng bên thềm ướt mưa. Nhớ em biết mấy cho vừa. Nhớ em biết mấy cho vừa, nhỏ ơi! Cái câu Nhớ em biết mấy cho vừa, nhỏ ơi! này chàng viết đi viết lại đầy nửa trang giấy còn lại của năm tờ giấy pelure xanh da trời, giống như ngày nào chàng chép bài phạt ngày Chủ nhựt. Nhân ngày sinh nhựt của tôi, chàng mua tặng quyển truyện Thương Hoài Ngàn Năm của Võ Phiến, còn viết thêm lời nhạc của Phạm Mạnh Cương: Ngàn năm yêu hoài một mối tình thôi. Ảnh hình mỗi người không còn thập thò nơi cuối sách hay đầu sách, mà hiển hiện kín cả trang, che cả chữ. Ghét thương, hờn giận, nhung nhớ, âu sầu… như những chùm nho treo lủng lẳng trên cả hai căn gác, muốn hái vài trái liệng đi mà sao lòng không nỡ, chúng nó hình như đã là máu thịt rồi. Lắm khi tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Người ta thường nói khi bị tình phụ mới gọi là thất tình. Không phải vậy đâu, kính thưa chư liệt vị, kinh nghiệm tình yêu của tui và chàng là càng yêu nhau càng thất tình đậm nếu hiểu thất tình là nhung là nhớ, dù là đau là khổ, là vàng võ tương tư bầm gan tím ruột, có khi là khóc như trẻ thơ, giận hờn như con nít, mè nheo như giữa con với mẹ… Những cái lẻ tẻ này thì chúng-mình-hai-đứa đều có hết. Phải chăng như thế mới tình?!

 

Trên đây chỉ là màn giáo đầu của tôi về cuộc tình lênh đênh này. Cuộc tình lênh đênh! Nghe sao có vẻ tình không biên giới quá. Tình muốn đi đâu thì đi, trôi đâu cũng mặc, vô bờ vô bến. Có lúc tình cứ thẳng băng một dòng mà chảy. Có khi tình như con sóng, dâng cao như cái nhà lầu, xuống thấp như rơi vào đáy vực, có lúc xoáy trôn ốc chừng như muốn gãy làm đôi. Nghe thì ghê quá, nhưng ngẫm lại mà coi, tình ai mà chẳng vậy. Nếu không vậy thì hổng phải là tình. Phải không thưa chư liệt vị?

 

Năm đó thần ái tình vẫn phù trợ chúng tôi, có lẽ không muốn cho đứa đậu đứa rớt mà sẽ xảy ra chuyện xa mặt cách lòng, hay cái lênh đênh của phận Kiều trong bài nghị luận văn chương năm đó đã nhập vào trang viết của chúng tôi, làm cho chúng tôi đều đậu, dù là đậu passable.

 

Một lần đã tởn tới già. Đừng vội nghĩ chúng tôi đã sợ tình yêu. Chuyện này chắc còn khuya. Tởn đây là tởn cái ban A mà chúng tôi đã chọn hai niên học vừa qua. Sang năm đệ Nhứt chúng tôi ngoéo tay nhau vào học ban C. Năm nay thì tất cả hơn hai mươi con-người-văn-chương-lớp-C của chúng tôi ra vẻ rất ư là văn chương, rất ư là văn nhơn thi sỡi. Chúng tôi mơ mộng gấp mười lần hơn trước; chúng tôi làm như trên đời này làm gì có chữ vui mà chỉ có một chữ buồn to hơn cái cửa sông Bá-Sắc. Chúng tôi uống cà phê đen nơi quán cóc, nghe Sylvie Vartan, Thanh Thúy, mấy anh chàng tập hút thuốc Bastos xanh. Chúng tôi cầm trên tay những Bùi Giáng Mưa Nguồn, Phạm Công Thiện Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, J.P. Sartre La Nausée, H. Miller Tropic of Cancer, Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi… Có chị cháu ông nguyên quốc trưởng còn cất công đi xe đò lên nhà sách Albert Portail đường Tự Do, Sài Gòn đặt mua báo dài hạn Les Temps Modernes của Sartre tận bên Tây, chúng tôi chia nhau vừa tra tự điển vừa đọc. Năm 1964 khi Sartre của chúng tôi từ chối nhận giải Nobel văn chương, chúng tôi thức trọn đêm, nấu một nồi cháo cá ăn mừng, cũng để hỗ trợ cho cái chịu chơi của thần tượng. Giải Nobel chỉ lớn bằng cọng lông chưn của thần tượng Buồn Nôn của chúng tôi! Nhận làm gì cho mất tiếng! Có anh để tóc dài quá ót, còn mang vào đôi kính trắng không độ, gọng mủ đen kịch cợm, cho ra vẻ trí thức. Có chị cắt tóc kiểu demi-garçon để đêm nằm mộng thấy mình thành Audrey Hepburn. Chúng tôi lập nhóm thơ văn, gởi thơ truyện đăng báo, thật xôm trò. Có lẽ cũng từ đó mà việc viết lách thêm nhuần nhuyễn và tinh thần triết học thấm vào da, nên bài thi triết năm đó đa số chúng tôi được cao điểm để vượt qua bậc trung học. Mấy nhà văn nhà thơ tự phong tỉnh lẻ chúng tôi bây giờ mới thấy được chữ vui, tuy rất nhỏ.

 

Màn kế của chuyện tình này thì nó dài thườn thượt, vui ít buồn nhiều. Đúng là: Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sầu. Cái vui cái buồn tiếp tục con đường thiên lý quanh co thác ghềnh của nó bằng chuyến xe Đại Đồng từ tỉnh nhà lên Sài-Gòn.

Chân ướt chân ráo, chúng tôi nhập vào cái quái trận đồ của đô thành. Chàng định cư ở cái đại học xá đường Minh Mạng, gần Nhà thờ Ngã sáu, kế trường Chu Văn An, còn tôi thì gởi thân cho các dì phước cai quản cư xá nữ sinh viên Sao Mai, trên đường Trần Hoàng Quân, cũng gần ngã sáu Chợ Lớn. Nhiều đêm chàng xúi tôi leo tường vượt ngục, tránh mấy cái áo chùng trắng tinh để nhập vào thế tục. Hai đứa ở khá gần nên gặp gỡ cũng thường và giận hờn cũng lắm. Người xưa bảo yêu nhau lắm cắn nhau đau, thật là chí lý. Tôi giận chàng thường là vì ghen. Cũng phải thôi, ai đời cứ đem chuyện cô học-trò-kèm-tư-gia ra mà nói, hết cô này rồi tới cô kia, hết cô kia rồi tới cô nọ, làm như đọc tiểu thuyết phơi-ơ-tông Quỳnh Dao không bằng! Có lần chờ chàng đến chở đi tiệm sách Khai Trí, rồi tiện đường ăn bò viên và uống nước mía Viễn Đông, chờ hoài không thấy bèn đến kiếm chàng tại đại học xá, thấy chàng đã ngồi nơi phòng tiếp khách nói chuyện rất ư là thân mật với một bom-bê thuộc tuổi-thích-ô-mai từ hồi nào. Thế có giận không chớ. Giận thì giận nhưng chiều tối đó cùng chàng ra ngồi lề đường Nguyễn Tri Phương, góc đường Bà Hạt, cho mấy thau nghêu vào thì hờn giận cũng xách gói đi ra. Cùng học Văn Khoa nên chàng tình nguyện lái cái mô-bi-lét xanh cũ mèm đưa người tình đi học. Thuở đó trường Văn Khoa còn ở đường Nguyễn Trung Trực, gần nhà chợ Bến Thành nên sáng nào cũng ráng tấp vào chợ, ngồi chồm hổm ăn tô bún bì, húp nước mắm rồn rột. Nhiều lần xe chàng trở chứng, chàng phải ngồi sau cái vê-lô-sô-lếch của tôi, trông thật buồn cười. Chân dài thượt không biết gác ở đâu, tay cũng dài ngoằng không biết ôm cái chỗ nào cho khỏi mang tội công xúc tu sĩ và cho khỏi té. Nhờ dạy mấy trường tư và kèm trẻ, chàng tiện tặn sắm được cái Lambretta tuy cũ nhưng tình hình lưu thông khá hơn, chàng đỡ vất vả trong cái nắng Sài-Gòn anh đi mà chợt nóng; chàng khỏi phải đẩy cái vê-lô hay đạp cái mô-bi-lét hàng cây số. Bù lại, những ngày đi học, được đến giảng đường sớm hơn để không bị mất chỗ ngồi, những ngày nghỉ thì đèo nhau ra Bãi Sau, Bãi Trước vừa tắm biển vừa tránh cái ngột ngạt của Sài-Gòn. Chỉ tránh được vài lần, sau đó chính chàng góp phần tạo ra những cái ngột ngạt ấy. Quả tình Sài-Gòn thời đó thật là xáo động. Biểu tình, lựu đạn cay như cơm bữa. Bãi khóa, tuyệt thực, xuống đường. Đại Học Xá Minh Mạng thường bị lựu đạn cay suốt đêm, trong túi người nào cũng thủ sẵn vài trái chanh và cái khăn ướt. Phong trào Cha Trần Hữu Thanh, phong trào Bà Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, các cha thuộc nhà dòng Chúa Cứu Thế như Cha Nguyễn Ngọc Lan với Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá, cha Phan Khắc Từ trong bộ quần áo của người lao công hốt rác, cha Chân Tín với báo cấm Đối Diện. Tiếp nối các lãnh tụ sinh viên thời 63 Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Tôn Thất Tuệ, thời hậu 63 có các lãnh tụ sinh viên Tô Lai Chánh, Hồ Hữu Nhựt, Nguyễn Thành Công, rồi Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, rồi Nguyễn Đăng Trừng, Trần Văn Chi, Đoàn Kỉnh, Phạm Hào Quang, Hạ Đình Nguyên, học sinh Lê Văn Nuôi… tổ chức thường xuyên những cuộc hội thảo, xuống đường chống đủ thứ. Nhạc Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh… “Tôi có ngưới yêu chết trận Pleime” hay “Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng. Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương” … được nghe và được hát khắp các khuôn viên đại học. Nữ Hoàng Chân Đất KL bắt đầu nổi danh tại Quán Văn, phía sau Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực. Các giáo sư Trần Anh, Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí bị ám sát ngay trên đường phố Sài-Gòn. Súng nổ ở Đêm Tất Niên Văn Khoa đường Cường Để làm bị thương sinh viên Ngô Vương Toại và hàng chục người khác trong một đêm hát nhạc sinh viên. Ứng cử viên chức chủ tịch Ban Đại Diện Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhựt bị bắn chết trong sân trường. Tại trường Y, anh sinh viên con thẩm phán nổi tiếng họ Trần rơi xuống đất từ từng sân thượng; người thì cho là tự tử, người thì bảo bị thanh toán vì lý do chánh trị. Chiến trường thì đã sát nách Sài-Gòn. Đến Tết 68 thì súng đã thay tiếng pháo mà nổ khắp Sài-Gòn, Chợ Lớn, Gia Định; nổ khắp nơi, khắp các tỉnh, các quận toàn quốc. Một số sinh viên quen biết đã vào tù hay ra mật khu. Ác hại thay: tranh đấu, biểu tình, tuyệt thực là chàng, làm báo chui là chàng, ngồi tù cũng chàng mà ra bưng cũng chàng! Ôi, chàng của tôi. Không nói, quý vị cũng biết lúc đó tôi khổ biết chừng nào. Thời gian này tôi rất ít khi gặp chàng. Nhớ chàng lắm mà chẳng biết tìm chàng nơi mô. Cha tôi một công chức cấp cao của Nha cảnh sát vùng 4 biết rất rõ tình trạng gia đình và cá nhân của chàng, bắt tôi phải xa chàng. Tôi thì đâu có nỡ. Chàng bận tranh đấu, xuống đường, họp báo, hội thảo… tôi ghi và lấy giảng khóa cho chàng. Chàng bị dùi cui chảy máu, bong gân, u đầu, sứt trán… tôi thoa dầu gió, xức thuốc đỏ, băng bó cho chàng. Sau những ngày tuyệt thực ở trụ sở Tổng Hội số 4 Duy Tân, chàng xanh xao vàng võ, tôi phải cơm cháo bồi bổ cho chàng. Những tháng ngày chàng ngồi tù Tân Hiệp tôi đều đặn cơm nách xách mang thăm nuôi. Ngay sau Tết Mậu Thân chàng đi mất mà không một tiếng giã từ. Tôi buồn biết bao nhiêu. Trên những chuyến xe đò về miền Tây thăm nhà, nhìn qua ngó lại thấy người ngồi bên cạnh không phải là chàng, tôi khóc như người vợ vừa tiễn đưa xác chồng ra phần mộ.

 

Cái tên Từ, Ly chắc bắt đầu nghiệm ứng từ đó.

 

Tôi mang cái buồn đi theo khi tôi rời khỏi nước, trước lúc chàng mang K54 trở về trong một miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Người ta nói chàng theo đoàn cán bộ cao cấp vào tiếp thu trường Phan Thanh Giản của chúng tôi. Người ta còn kể ngày người ta đập tượng Cụ Phan tại sân trường, có người thấy chàng đứng sau khung cửa sổ của từng hai, dãy đầu, nơi có phòng Sư Đạo Tôn, tay chặm nước mắt.

 

Chuyện của tôi kể đến đây quý vị có thể coi như là hết. Nhưng đối với tôi và chàng, chuyện chưa kết thúc. Ở bên này và ở bên kia biển Thái Bình Dương chúng tôi là Ngưu Lang và Chức Nữ, coi như kẻ đầu sông người cuối sông Ngân. Người xưa suốt đời nhớ nhau, mong đàn chim về bắt cầu Ô Thước mỗi năm để có phút giây gặp gỡ. Còn tôi và chàng là Từ với Ly thì coi như dây cũng chùn mà cầu cũng đứt để đúng với hai cái tên tiền định Từ, Ly. Biết là tiền định, nhưng tình thì không định. Tình cứ lênh đênh như sóng, mãi mãi dào dạt trong lòng.

 

Trần Bang Thạch

ĐIỀU CHƯA KỊP NÓI VỚI BA

 

      Sau ngày má tôi mất thì ba tôi như một cánh lá khô, chỉ chờ thêm một chút gió để lìa cành.

 

      Hơn một năm nay ba tôi cứ hết bịnh này tới bịnh khác, một phần là do hậu quả của chứng muộn phiền, của tinh thần tuột dốc; phần khác là do chứng cao huyết áp. Hai chứng bịnh này không biết đã hiện diện từ bao giờ trong cơ thể ba tôi nhưng bác sĩ chỉ mới phát hiện gần đây thôi. Một đêm đi làm về tôi thấy ba nằm bất tỉnh trong phòng tắm, đầu ngoẻo trên thành bồn cầu, áo quần chưa kịp mặc. Một bệt máu đã khô phía trước trán. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là nỗi kinh hoàng . Đến ngày thứ ba sau khi được chở khẩn cấp vào bịnh viện thì ba tôi bắt đầu tỉnh được chốc lát rồi lại khi mê, lúc tỉnh. Những ống dẫn dưỡng khí, thuốc men và thực phẩm nối từ miệng mũi không biết kéo dài cái sống của ba tôi được bao lâu . Hơn bảy mươi tuổi với một cuộc đời đầy sóng gió, rày đây mai đó, bảy nổi ba chìm, rồi sẽ phải chấm dứt ở cái phòng hẹp té đầy mùi ê-te này với sự có mặt của mỗi một mình tôi là người thân duy nhất. Còn anh Trọng, người anh cùng cha khác mẹ của tôi, trước ngày ba tôi ngã bịnh đã lấy hai tuần phép, hiện anh đang ở đâu đó bên Âu châu mà tôi không liên lạc được. Điều hiện nay tôi quan tâm không phải là cái chết của ba mà là sự trở về và sự có mặt của anh Trọng trước khi các ống dẫn được tháo gỡ và tấm vải trắng được phủ lên mặt khi người ta đưa xác ba tôi xuống lầu. Tôi đang quan tâm cái quan tâm cuối cùng của ba tôi. Tôi đang ước mơ cái ước mơ độc nhất bây giờ của ba tôi. Tôi biết giờ phút này, trong trí não, trong đầu óc của ba tôi, cho dù đang dần dần chết cứng, là sự trở về của anh Trọng . Nếu có được cái khắc giây ngắn ngủi lúc ba tôi chợt ra khỏi cơn hôn mê và nhìn thấy khuôn mặt đứa con trai duy nhất của mình thì đó quả là điều vô cùng diệu kỳ, tôi nghĩ như vậy. Và lúc đó chắc chắn ba tôi sẽ ngậm cười nơi chín suối.

      Mấy hôm truóc, khi còn chút tỉnh táo, ba tôi chỉ hỏi tôi mỗi một câu này : anh con đã về chưa . Tôi cứ dối quanh, nói là đã liên lạc được với anh Trọng, nói là anh sẽ tức tốc trở về. Tôi còn dám nói láo là anh Trọng thương ba lắm , vv. . . Tôi biết là không nên nói dối trước một người sắp chết nhưng tôi không làm sao hơn . Tôi không muốn ba tôi tuyệt vọng ở những giây phút cuối cùng của một đời người . Hơn hai mươi năm là cha con mà ba tôi và anh Trọng đã có mấy lần gặp nhau trong tình cha con thân ái đậm đà như bao nhiêu những người cha con khác trên quả địa cầu này! Điều này, tôi biết, đã không làm cho ai vui hết, nhất là ba tôi, người đã gần hết một đời đứng trên sân khấu làm vui thiên hạ, mà có mấy mươi năm cuối đời không thể làm vui cho bản thân mình và cho đứa con trai duy nhất của mình.  Ba tôi, người nghệ sĩ tên H. T. đó trong suốt cuộc đời đi hát là nguòi lúc nào cũng được khán thính giả yêu thương; mỗi tâm tình, mỗi lời ca, mỗi câu nói được đón nhận tận tình. Người ta vui, buồn, cười, khóc theo ba tôi trong suốt mấy chục năm. Vậy mà đứa con trai như bịt tai, nhắm mắt trước người cha ruột đau khổ của mình. Hình như cái thảm kịch gia đình này bắt đầu từ khi tôi vừa mới được sinh ra, lúc anh Trọng bắt đầu có chút nghĩ suy trong đầu óc một đứa trẻ lên mười. Bây giờ anh Trọng đã gần ba mươi. Hơn hai mươi năm cho một vết nứt trong tình cha con không phải là dài lắm sao! Đớn đau vô cùng. Tôi biết ba tôi đã bao nhiêu năm nay âm thầm sống trong cái đớn đau đó. Và anh Trọng của tôi cũng chẳng khác gì. Vậy mà vết nứt vẫn chưa có một chút hàn gắn nào, hơn hai mươi năm! Quá dài!

 

      Bắt đầu cho cái hơn hai mươi năm đó, theo lời kể của má tôi, là cái chết của má anh Trọng, người vợ lớn của ba tôi. Sau này tôi còn nghe nhiều người trong gia đình nói rằng chính cuộc sống của một nghệ nhân thường xuyên đi lưu diễn, năm thì mười thuở mới có mặt ở nhà đã góp phần không nhỏ trong sự lạnh nhạt tình nghĩa vợ chồng và tình cha con. Người nghệ nhân đó không biết thương yêu vợ lớn của mình cỡ nào chớ những mối tình dọc đường thì không thể đếm hết được là bao nhiêu. Còn đối với má tôi, người vợ sau cùng, thì ba tôi sống thật trọn vẹn. Đó chẳng qua là do nơi thời thế đẩy đưa. Má tôi thường nói: Đi ra cái nước ngoài này đâu còn lưu với diễn, bướm với hoa, chỉ cơm nhà áo vợ mới làm trọn đạo làm chồng. Điều này thì tôi không biết có đúng hay không, nhưng tôi biết chắc một điều: Việc ba tôi trong cơn thất tán cuối tháng Tư năm 75 đã chỉ đủ thì giờ dẫn theo má tôi, người vợ nhỏ của mình, để lại người vợ lớn đang sống với đứa con trai vừa mới tập đi tập nói ở một vùng quê miền Hậu giang.

      Rồi do những ràng buộc luật pháp xứ này, lại ít hiểu biết về thủ tục, ba tôi chưa dám nghĩ đến việc bảo lãnh má con anh Trọng. Tôi dần dà biết được câu chuyện trở nên phức tạp hơn khi ba má tôi bằng cách này cách nọ giúp đỡ má con anh Trọng mà đều bị từ chối. Khi có tin má con anh Trọng không còn ở chỗ cũ và không ai biết hai mẹ con đã dời đi đâu thì coi như bặt vô âm tín. Điều này càng làm cho ba tôi sống trong tâm trạng bồn chồn lo âu, khắc khoải, đợi chờ. Nỗi ăn năn cũng theo ngày tháng mà lớn dần. Tôi biết được điều đó là do ba má tôi thầm thì những đêm khuya vắng. Thuở đó chưa có những chuyến về thăm quê hương nên ba má tôi không thể làm sao hơn được. Người nghệ sĩ trong ba tôi có lẽ đây mới chính là những tháng ngày sống thật cái niềm đau của chính mình, không thương vay khóc mướn như những ngày đứng trên một sân khấu đại ban. Niềm đau này từ mười  năm nay đã dâng lên tới tột đỉnh khi anh Trọng vượt biên bằng đường bộ đến xứ này và ngụ cùng thành phố với chúng tôi. Lần đầu tiên gặp chúng tôi tại nhà của người bảo lãnh, anh chỉ nói mỗi một câu:  “ má tôi đã chết”. Sau đó anh không nói gì thêm nữa nhưng đôi tròng mắt thì mênh mông còn đôi hốc mắt thì sâu thăm thẳm, hai tay anh nắm ghì thành cửa, nửa như  không muốn phải quị ngã trước mặt chúng tôi, nửa như muốn đè nén cơn xúc động đang chực dâng trào như thác đổ. Cũng có thể lúc ấy anh muốn nói với chúng tôi rằng: cánh cửa đang mở, các người hãy bước ra khỏi căn nhà này và đừng bao giờ trở lại. Điều này tôi chỉ suy luận được về sau khi biết anh không muốn chúng tôi, đặc biệt là ba tôi, tới nơi anh cư ngụ,  bấy giờ là căn chung cư nghèo nàn ở phía đông thành phố. Sau đó đã bao nhiêu lần ba tôi đi ngang nhà anh để thấy cánh cửa luôn đóng kín, mà anh Trọng thì rất ít khi ra đường ngoài hai lượt đi về mỗi ngày. Đã mười  năm tình trạng vẫn không khá hơn. Ba tôi có cái mặc cảm của một người chồng, người cha phạm tội, đã vô trách nhiệm đối với vợ con nên chỉ biết tối ngày ăn năn, buồn bã, khó mở lời với đứa con mà mình đã không làm tròn bổn phận của một người cha. Dù vậy cũng có lúc ba tôi càng muốn đến gần thì anh Trọng càng dang xa. Hai năm trước, lúc mẹ tôi mất, anh Trọng có đến nhà quàn và đưa linh cữu mẹ tôi đến phần mộ. Hai cha con vẫn không nói với nhau một lời vì anh Trọng cứ cố tránh cha mình. Hôm ấy trông ba tôi thật là tội nghiệp, mang quá nhiều nỗi buồn trong một ngày tang khó. Mẹ mất, trong nhà chỉ còn hai người : Ba tôi thì thường xuyên bịnh hoạn; tôi thì vừa làm vừa học nên nhiều đêm khuya khoắt mới về đến nhà. Thân nhân bây giờ không còn ai ngoài ba cha con chúng tôi. Giá mà anh Trọng về với chúng tôi thì tốt đẹp biết chừng nào. Tôi và anh Trọng, có lẽ nhờ chút huyết thống, nên chúng tôi có gặp nhau thỉnh thoảng. Những dịp này tôi cố tìm lời nói với anh tôi về cơn bịnh của ba, về cảnh cửa nhà quạnh quẽ , về cái khổ tâm của ba, về nỗi ăn năn dằn dặt trong tâm tư ba suốt từ bao nhiêu năm qua. Anh Trọng cũng có lần tiết lộ với tôi rằng anh không ghét ba nhưng anh cũng không quên được cuộc sống lầm than khốn khó, và thiếu thốn của hai mẹ con trên một vùng hoang vu nước độc đã đem đến cơn bịnh ngặt nghèo, rồi dẫn tới cái chết của mẹ. Mẹ anh với tâm trạng bị chồng bỏ rơi và với sự tự trọng tuyệt đối đã từ chối tất cả những trợ giúp từ cha mẹ tôi, bà đã ôm con trốn tất cả mọi người để không ai tìm ra tông tích. Và anh, một đứa con  bị cha bỏ rơi từ những ngày còn non dại. Anh, một thằng bé lúc mới lên mười, trong túp lều trống hoang trống hoác giữa những đêm mưa mịt mùng đã  bong gân rát họng kêu trời gọi đất, mà đất trời cũng không ngăn được những cơn đau quằn quại của mẹ. Anh đã hơn một lần cắn môi chảy máu để không được khóc như lời mẹ dặn, dù cho đó là những lúc bịnh hoạn, đói khát, dù cho đó là lần cuối cùng còn thấy mẹ trên đời. Anh, một đứa con của một người đàn bà khốn khổ, thà đem sức cùn lực kiệt mà sống, thà vắt cạn bầu sữa nuôi con hơn là nhận sự đoái hoài từ một người đàn ông vô tâm. Tôi thường nói với anh cái thảm trạng chung của đất nước dẫn tới bao nhiêu thảm trạng của mỗi gia đình, mỗi cá nhân, nếu cứ nuôi hoài niềm phẩn uất, nỗi oán hờn, nhất là đối với người thân, thì thảm trạng sẽ không bao giờ dứt được. Hệ lụy sẽ thêm chất chồng. Tình phụ tử chắc chắn là điều không có gì thay thế, càng không thể bức tử nó bằng những nghiệt oan của lịch sử. Tôi nói với anh tình trạng già yếu, bịnh hoạn của ba. Tôi cần phải có anh tiếp tay, và chỉ có anh mới làm cho ba bớt muộn phiền. Anh Trọng lắng nghe mà không nói gì, đôi mắt vẫn cứ xa xăm. Sau đó tôi nghiệm ra một điều: Ba tôi và anh Trọng, mỗi người cứ mang hoài trong tâm tư mình một điều muốn nói .

 

                                                      x X x

 

      Có thật là sức lực của tôi không còn một chút nào hết ? Tay chân tôi sao cứng đơ thế này? Miệng lưỡi cũng trơ ra như đông đá. Tôi có đang mơ hay không: hãy nhìn kìa, quí ông bà cô bác, mặt thằng con tôi đã kề sát mặt tôi, tôi nghe tiếng khóc từ trong cổ họng của nó, tiếng khóc thật nhỏ như một âm vang từ xa thăm thẳm. Tôi thấy từng phiến đau khổ hằn trên gương mặt nó. Hình như tôi còn nghe âm âm u u những tiếng  gọi  ba, ba . . . những âm thanh tôi chờ trọn một đời, đến bây giờ mới nghe được. Ôi hạnh phúc biết chừng nào. Tôi thấy đây là giờ phút sung sướng nhất đời tôi. Con trai tôi đâu còn thù ghét tôi, nó đã gọi tôi bằng ba. Phải, nó đã kêu lên nhiều tiếng ba, ba, ba . . . Tôi không lầm được đâu. Cuối cùng rồi con cũng đến với ba. Tôi biết tiếng nói của tôi không phát ra được nhưng thằng con tôi sẽ nghe từ trái tim còn ấm của tôi, nó sẽ nghe tôi nói tôi thương yêu nó, ba thương yêu con, Trọng à. Lỗi lầm của ba, ba không mong được tha thứ, nhưng được con trở về thăm và nói với ba những lời ba mong đợi thì đã quá đủ để ba giữ làm hành trang đi về cõi khác.

 

                                                  x X x

 

      Giữa hai dãy ghế thưa thớt người đứng cúi đầu tiễn đưa người quá cố là chiếc quan tài màu huyết dụ với vòng nguyệt quế đính phía trước. Vị sư tụng hồi kinh cuối cho lễ di quan. Chỉ có hai người mặc tang phục là anh Trọng và tôi. Hai tay anh Trọng cầm ngang ngực tấm ảnh bán thân của ba tôi chụp trong khi đóng vai Lử Bố với mặt mũi đầy phấn son và trên đầu là chiếc mũ nạm ngọc với cặp lông công màu cẩm thạch. Lúc sinh tiền Ba tôi thích tấm ảnh này nhất trong số các ảnh hiện còn giữ được

      Đám tang ba tôi không có nhiều người đưa tiễn, chỉ có mấy người bạn già của ba ở trong thành phố; đến từ xa thì có vài nghệ sĩ một thời đứng chung với ba trên sân khấu và vài nghệ sĩ đàn em, cùng với mấy bạn bè của tôi và của anh Trọng. Cái chết của ba thật êm như ngủ, đám tang ba cũng lặng lẽ, âm thầm, không kèn không trống. Đó là ý nguyện của ba. Lúc sinh thời ba nói cả cuộc đời ba đã bị du vào quá nhiều cơn lốc; những cơn lốc tàn nhẫn ngoài đời và những cơn lốc tự mình nhập vai trên sân khấu; gươm giáo loang xoang, trống kèn inh ỏi;  cho nên khi nhắm mắt xuôi tay xin cho ba một lần đi trong thinh lặng.

      Khi chiếc quan tài được đẩy từ từ vào cái hộc vuông của lò thiêu, anh Trọng trong giây phút xúc động tột cùng đã ôm lấy phần cuối của chiếc quan tài, nói trong tiếng khóc: “ Đứa con bất hiếu này đã không còn dịp nào nữa để nói rằng con rất thương yêu ba”.

      Tôi thì tôi tin rằng ba tôi đã thấy hết và đã nghe hết. Thấy một đứa con đã trở về và nghe những  tiếng mà lúc sanh tiền ba chưa nghe được .

      Xin ba thương yêu của anh em chúng con hãy đời đời an nghỉ.

      Tôi đã thay anh Trọng mà bấm cái nút ON khi cánh cửa lò thiêu vừa khép lại. Một cánh màn đã khép lần cuối cho cuộc đời của một nghệ sĩ về chiều.

TBT

TBT_OngGiatrenbairac.JPG

Truyện Trần Bang Thạch trên Website www.caovikhanh.com:

ÔNG GIÀ TRÊN BÃI RÁC BÓT SỐ 10.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

 

http://www.caovikhanh.com/pdf/NG%20GI%C3%80%20TR%C3%8AN%20B%C3%83I%20R%C3%81C%20B%C3%93T%20S%E1%BB%90%2010.pdf

Qua khỏi thị trấn Cái Răng, chỗ gần đường Lộ Tẽ Hàng Gòn thì bánh xe sau của chiếc Honda ôm bắt đầu xẹp. Bánh trước cũng lần lần xẹp theo. Chú tài xế tên Chi càu nhàu:

-Biết mà vẫn không tránh khỏi!

Gió ngược. Ngồi phía sau xe, ông Năm cố nói lớn tiếng:

-Chú biết cái gì vậy?

-Thì cái vụ rãi đinh xuống mặt đường.

-Thường xảy ra lắm sao?

-Không thường thì bọn nó lấy gì ăn.

-Ăn đinh?

-Bố ơi, mấy thằng vá vỏ xe ở đằng trước kìa. Nó không ăn đinh, nhưng mình bị ăn đá.

-Chuyện gì nghe lạ quá vậy?

-Chuyện xã nghĩa mà bố. Cái gì cũng lạ hết. Ai mà dám mở miệng cằn rằn mấy thằng vá xe về cái việc chúng nó rãi đinh, cả cái việc tụi nó tính tiền thẳng tay, thì coi chừng bị tụi nó. Bánh xe mình ăn đinh còn mình thì ăn đòn.

-Dân Cần Thơ, Cái Răng mình hồi nào tới giờ hiền lành lắm mà. Bây giờ sao lạ vậy?

-Thì có những kẻ lạ từ đâu kéo tới đây từ sau cái ngày ông cột đèn biết vượt biên nên cớ sự mới ra nông nỗi nầy. Dân Cái Răng mình cũng đi tứ tán nhiều. Kẻ lạ càng ngày càng nhiều và càng hung hăng con bọ xít.

-Còn chánh quyền ở đâu?

-Ở khắp nơi, nhưng cá mè một lứa. Có quyền mà không có chánh thì trị ai được. Mỗi người ăn mỗi kiểu. Chức quyền ăn theo quyền chức. Dân khu đen ăn theo dân đen khu. Bố lưu lại vài tuần ở cái Việt Nam nầy, bất cứ nơi đâu, bố sẽ thấy hết những điều mà mấy mươi năm cuộc đời của bố chưa từng thấy.

       Ông Năm không nghe rõ vì còn bận nghĩ tới cái vỏ xe sắp hết hơi. Định xuống Phụng Hiệp thăm thằng bạn nối khố từ thời tiểu học, nhậu quắc cần câu với nó một bữa rồi chiều tối trở về Cần Thơ để sáng mai lên Sài Gòn bay về Mỹ. Trục trặc kỷ thuật như thế nầy thì biết bao giờ mới tới Phụng Hiệp. Ông Năm cũng chợt nhớ đoạn đường nầy lúc ông còn là cậu học trò trung học hàng tuần từ nhà trọ ở Cần Thơ về thăm nhà ở Cái Chanh. Ngay ở đây ngày xưa là bót Tây số 9. Thêm 1 cây số nữa ở đằng trước là bót số 10. Thuở đó ông Năm mười mấy tuổi nhưng ông vẫn còn nhớ người lớn bàn tán thật nhiều về trận đánh đoàn công-voa Tây trên đoạn đường nầy. Trận đó có một thiếu niên trạc tuổi ông tên là Hai Cọp đã gan dạ chạy lăn xả vào chiếc xe jeep có viên đại úy Tây tên gọi là Tây Râu Đỏ. Cậu bé quăng trái lựu đạn vào xe, giết ngay tên Tây Râu Đỏ. Dân quân thắng lớn. Từ đó người thiếu niên Hai Cọp phải bỏ xứ đi đâu mất. Cũng từ đó Tây dựng thêm bót số 10 ở ngay nơi xảy ra trận đánh.

       Đến lúc hai bánh xe bắt đầu xẹp lép thì cũng là lúc ông Năm thấy hai, ba cái lều nhỏ che tạm bên lề đường với những vật dụng vá xe lỉnh kỉnh. Khỏi mấy cái lều là đống rác to và cao như một quả đồi nhỏ. Gió từ hướng phía trước đưa mùi rác rưởi về phía hai người. Ông Năm lấy tay che mũi. Xe chưa dừng lại hẳn trước cái lều đầu tiên thì đã có mấy thằng nhỏ giành giựt khách. Đứa thì nắm cổ xe, đứa thì đẩy yên xe về phía lều vá xe của nó. Tài xế Chi hình như đã quen với cảnh nầy nên để mặc mấy đứa nhỏ muốn làm gì thì làm với cái xe xẹp bánh của mình. Chi dẫn khách vượt khỏi đống rác, đi về hướng cái quán nước trên gió. Quán cũng lụp xụp nhưng được hai mái che bằng lá, vách thì bằng mấy tấm giấy dày. Hai cái bàn thấp với mấy cái ghế mũ cũng thấp lè tè, đầy bụi bặm. Bà chủ quán đon đả mời khách, còn người đàn ông đang nằm võng trong góc đang đọc báo, không buồn ngó đến khách, có lẽ là ông chủ quán.Tháng mười trời hơi âm u, sắp mưa. Gió thổi mạnh nên mát. Tài xế Chi kéo ghế.

-Ngồi xuống đi bố, nghỉ chưn một chút. Bây giờ muốn đi gấp cũng không được.

       Hàng trong quán thật sơ sài, trên kệ mấy chai nước lọc bên cạnh mấy chai 7-up, vài chai bia Hậu Giang và một rỗ ổi, cốc, chuối xiêm, chuối già. Tất cả mốc cời vì bụi.Tài xế Chi kêu một ly đá lạnh, Chi biết ông khách sẽ không dám rớ tới ly nước đá ở đây; kể cả nước lọc trong chai đóng nút, nên không mời. Chi biết mọi thứ bày bán tại những nơi kém sang trọng như vầy mấy Việt kiều mười người như một sẽ không dám đụng tới. Họ nói đó là nước lọc giả, bia giả, thuốc lá giả. Một số còn nói cả tánh tình, tâm sự, lời nói của người ta cũng giả. Nghĩ cũng ngộ. Thời nầy ở đây cái gì mà không giả! Giả từ lâu lắm rồi. Nhớ hồi hai, ba mươi năm trước thằng bé Chi nghe người lớn nói anh y tá đi bộ đội lâu năm trở thành bác sĩ. Có ông cán bốn túi từ Bắc vào chễm chệ ngồi vào ghế Viện trưởng cái đại học duy nhứt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long này; về sau biết ra thì cán ta chỉ xong lớp 7! Còn bây giờ thì anh công an huyện cũng có bằng phó tiến sĩ. Chị giám đốc thì cái bằng tiến sĩ coi như bình thường; ai không có mới là điều lạ. Chiều nay có hoa vàng trước ngõ. Lúc trước người ta ca như vậy. Bây giờ thì chiều nay tiến sĩ giấy bay đầy trước ngõ! Có nhiều giai thoại nói về các tiến sĩ hàm đời nầy. Người ta kháu nhau rằng có cô tiến sĩ chủ nhiệm nông trường gốc miền ngoài trong một bữa tiệc chiêu đãi báo chí, tới món tráng miệng bằng kem, cô tiến sĩ giám đốc dùng bàn tay bự như cái quạt ba tiêu lia lịa quạt quạt ly cà-rem đang bốc khói, người bên cạnh thắc mắc hỏi nhỏ, cô giám đốc nói là “nàm cho cà-lem bớt lóng mà lồng chí”!!! Đồng rận lúc đó chắc chỉ muốn chui xuống gầm bàn huống chi là “lồng chí”. Không biết cà-lem xã hội chủ nghĩa “lóng” hay cái hàm tiến sĩ của cô sắp cháy! Bằng cấp để treo chơi thì có chết thằng tây nào đâu. Tài xế Chi nghĩ tới đó bỗng cười. Ông Năm không biết nó cười vì cái gì. Ông lấy cái bị đeo sau lưng để xuống bàn, lấy ra chai nước lọc, tu ngon lành. Ông Năm ngó lơ ngơ về hướng bãi rác. Bên kia bãi rác là hai hàng xoài chạy dọc theo con lộ nhỏ dẩn vào xóm nhà và khu vườn nằm phía sau cánh đồng sát mặt lộ. Ông Năm loáng thoáng nhớ là bót số 10 lúc trước nằm bên nầy lộ, đối diện với con lộ hàng xoài. Hơn năm mươi năm rồi, hàng xoài đã bao lần thay cây đổi lá. Bãi rác nay đã thay chỗ của cái bót số 10. Ông Năm bắt gặp một ông già đi về hướng quán. Gió ngược làm cho cái bọc ny lông to ông quẩy trên vai như muốn bay về phía sau. Ông già cẩn thận để cái bọc ny lông dựa vào vách, uể oải bước vào quán, kéo ghế ngồi bên chiếc bàn trống. Ông già mặc cái quần kaki xanh lá mạ bạc màu, vá tứ tung và cái áo thun 3 lỗ màu đất, ướt mồ hôi. Có điều ông Năm lấy làm lạ về cái đôi dép bằng vỏ xe trên đôi chân ông già; loại dép nầy trước ngày xuống tàu hải quân tại bến Bạch Đằng vào đêm 29 rạng 30 tháng Tư bảy lăm, chàng thanh niên Năm Hùng chưa hề thấy nhưng nghe nói nó đã biến mất từ mấy năm nay rồi mà. Bây giờ cán bộ văn minh hơn nhiều, giày da, áo vest, xách samsonite. Ông Năm đoán ông già cỡ tuổi mình, chắc cũng đã trên bảy mươi. Tự nhiên ông Năm xàng qua ngồi chung bàn với ông già. Ông muốn mời ông già giải khát. Ông già từ chối. Ông Năm hỏi chuyện, ông già không mặn mà trả lời, có thể vì ông mệt, cũng có thể ông không muốn nói chuyện nhiều với người lạ, mới gặp ngoài đường.

-Khá hông ông anh?

-Lượm rác mà khá cái nỗi gì!

-Không, tui muốn hỏi là nghề nầy sống được hông?

-Nghề nào mà sống hổng được. Không nghề cũng đâu có chết. Có khi còn làm cha thiên hạ.

       Biết ông già nói ngang như cua bò, ông Năm chuyển đề tài:

-Hồi tui còn ở đây, đống rác nầy hình như chưa có?

Tài xế Chi chen vào:

-Có rồi. Có từ trước bảy lăm. Lúc đó rác rưỡi đã có nhưng chưa nhiều. Sau bảy lăm thì rác nhiều hơn, rác khắp nơi.

      Biết tài xế Chi ưa nói chuyện ngoắc nghoéo, ông Năm không muốn xen vào. Nhưng ông già lượm rác như bắt được cái ý lắc léo của tài xế Chi:

-Rác từ làng lên tỉnh, từ trên xuống dưới. Chú em còn nhỏ mà rành chuyện đời nay bộn há.

       Ông Năm giả vờ đưa chai nước lên miệng, uống một ngụm.

       Tài xế Chi vỗ tay vào vế một cái bạch rồi oang oang:

-Đúng y chang! Tiá nuôi nói trúng hết xẫy! Rác từ từng dưới lên từng trên, từ từng trên leo tuốt lên sân thượng, từ đồng bằng ra hải đảo!

-Có cái gì mà không trúng. Hỏi bất cứ thằng nhỏ nào trên đống rác kia, nó cũng biết như vậy. Nó biết cái tòa biệt thự nầy có mấy đống rác, biệt thự kia có mấy ổ chí, ổ rận. Nó còn biết cái tỉnh nầy có bao nhiêu chuột lớn, chuột nhỏ đụt khoét khắp mọi nơi.

Thấy câu chuyện mỗi lúc thêm trầm trọng, ông Năm lại chuyển đề tài một lần nữa :

-Ông anh có con cháu gì nhiều hông ?

-Có mà như không.

-Chắc các cháu đi xa ?

-Cũng có đứa ở gần.

-Vậy thì cũng có con săn sóc cho ông anh được.

-Thời nầy mạnh ai nấy lo ông bạn ơi.

      Nghe ông già gọi mình bằng bạn, ông Năm biết ông già đang có vẻ cởi mở rồi đây. Ông Năm đi xa hơn một chút, mục đích là để cho qua thì giờ đang khi chờ cái vỏ xe vá xong.

-Ông anh chắc là dân cố cựu ở đây ?

-Ừ. Nhưng mà chỉ đúng một nửa.

       Bà chủ quán xen vào :

-Tui mới là người cố cựu. Còn anh Hai đây chỉ mới trở về sau bảy lăm.

-Chắc ông anh đi làm ăn hay đi lính ở xa ?

       Ông già ngó lơ, làm như không muốn trả lời. Bà chủ quán chen vào gọn hơ :

-Đúng là đi lính xa. Xa thiệt là xa. Mút mùa lệ thủy.

-Ở đâu lận ?

Bà chủ quán hăm hở :

-Thì tận ở ngoải. Ở ngoài Bắc đó, phải không anh Hai ? Kể chuyện Lạng Sơn Cao Bằng cán gáo cho người ta nghe chơi đi anh Hai, nhứt là cái chuyện mấy anh tập kết nổi loạn đòi dìa đó. Còn chuyện vượt Trường Sơn nữa.

       Ông Hai vẫn làm thinh. Câu chuyện có vẻ lý thú, ông Năm hỏi tiếp:

-À! Vậy là ông anh đi làm cách mạng. Thật là hiển hách.

-Tui xin lỗi anh Hai nhen : Hiển hách hay không thì không thấy chớ tui thấy anh Hai bây giờ càng ngày càng rách như cái túi ny lông cũ.

Bà chủ quán buông tiếng ứ hự ở cuối câu nói rồi cầm cây quạt mo cau đuổi ruồi bay quanh mấy nải chuối. Mưa bắt đầu rải hột lắc rắc. Thằng bé dẩn cái xe tới, dựng trước quán. Tài xế Chi trả tiền. Một phần vì trời sắp mưa lớn, phần khác là ông Năm thấy câu chuyện tới hồi khá thích thú nên muốn ngồi nán lại một chút nữa. Ông Năm biết gặp phải một đồng chí lão thành nên ăn nói cẩn thận hơn :

-Sau nhiều năm phục vụ nhân dân chắc ông anh về nghỉ hưu từ lâu rồi ?

Ông Hai vẫn ngó mông lung ra ngoài con lộ, tay vo vo mấy cọng râu bạc dưới càm. Bà chủ quán trả lời thế :

-Nếu được cho về hưu cũng là may. Cái nầy là bỏ việc đó. Chửi lộn một trận rồi bỏ hết sạch, phải không anh Hai ? Lon lá, chức tước, đảng điếc, nhà cửa...bỏ hết. Không ở tù là may. Nói đi anh Hai, nói hết nghe chơi.

Ông Hai vẫn làm thinh. Tài xế Chi xen vào :

-Uổng vậy tía. Một đời đi cầm bảng đỏ, giận một chút rồi bỏ...đảng sao tía ?

Ông Năm kề tai nói nhỏ với tài xế Chi : 

-Nói nhỏ nhỏ vậy, nên cẩn thận nhen chú mầy. Tai vách mạch rừng.

-Bố đừng có lo. Thời nầy những câu chuyện như vầy là chuyện nghe qua rồi bỏ. Người ta bận rộn với mấy cái « cây » và mấy tờ  « đô xanh». Chẳng ai mà để ý mấy cái chuyện bây giờ được xếp vào loại chó cán xe như vầy. Chỉ những Việt kiều như bố mới run. Tụi tui thì...còn khuya mới sợ. Nói đi tía nuôi, nói cái chuyện giận một chút đó đi tía.

       Bây giờ thì bà chủ quán dừng tay đuổi ruồi. Bà ngồi xuống ghế, cạnh tài xế Chi :

-Không phải chuyện một chút đâu à chú em. Ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tui nghe anh Hai nói cái gì là đạo đức cách mạng, cái gì là cần kiệm liêm chánh gì đó. Anh Hai nói ảnh không sống nổi với mấy cái cách mạng giả, liêm chánh giả nên nghỉ chơi, phủi áo một cái xạch rồi về nhà làm ruộng. Không chơi với mấy thằng người giả đó nữa. Già, làm ruộng không nổi, đi lượm bao ny lông cho nhẹ. Coi như bao nhiêu năm đi làm cách mạng mất cả chì lẫn chài. Đâu có sao. Dân Nam Kỳ mà, đã chịu chơi thì không bao giờ chơi chịu. Cũng có nhiều người cán bộ hồi kết tàng tàng như anh Hai vậy đó. Cuối cùng chỉ còn cái xác ốm o, thui thủi một mình. Con cái đứa thì đi lính bên nầy, đứa bên kia rồi chết trận, đứa thì đi học tập. Có đứa lại nghe lời mẹ, không nhận ông già.

-Con mà không nhận cha ? Sao vậy ?

Tài xế Chi ra vẻ sành đời :

-Nhiều nguyên nhân lắm bố ơi. Nào là có ngài hồi kết đem bà vợ do cơ quan cưới từ Bắc vào, bà vợ cũ và con cái không nhìn; nào là có ông quan to nón cối súng ngắn súng dài đâu dám đứng ra bảo lãnh đứa con đang học tập cải tạo. Vậy là hai đàng ô rờ lui, ba đường ba, tui đường tui, tình nghĩa đen thui của cha con mình có thế thui ! Ôi thôi, cả một ngàn lẻ một cái « nào là ».

       Đến đây thì nét mặt ông già hình như chùng xuống, ông lia lịa vò vò mấy sợi râu rồi không nói không rằng ông đứng lên định bước ra khỏi quán. Ông Năm kịp nắm tay ông già giữ lại :

-Ủa ? Đi sao ông anh? Ngồi cho hết mưa cái đã.

Ông già cố rút tay về. Ông Năm phải buông tay ông già để lấy trong túi áo tờ 50 đô-la đưa cho ông già. Thật bất ngờ, ông già cầm tờ giấy bạc để trên bàn, nhìn thẳng vào mắt ông Năm, nói từng tiếng:

-Tui không phải là người ăn xin. Không có danh nghĩa là kẻ ăn mày nên tui không nhận của bố thí. Xin lỗi.

-Không, đây là tôi tự nguyện giúp đỡ ông anh chút ít hút thuốc lá mà.

       Ông già chừng như không muốn nghe thêm. Ông bước ra khỏi quán, vát cái bọc ny lông, dòm hai đầu quốc lộ rồi bước qua bên kia đường. Bóng ông khuất giữa hai hàng xoài dưới trời mưa lất phất.

      Nhìn cái vẻ tiu nghỉu của ông Năm, bây giờ ông chủ quán mới buông tờ báo, rời võng đến bên ông Năm, cắt nghĩa:

-Ông đừng ngạc nhiên. Ông Hai Cọp là như vậy. Ông không bao giờ nhận sự thương sót của ai. Ông còn có cái mộng khác người là lượm hết rác của cái xã hội nầy, cho nên chung quanh căn chòi của ông đầy những rác, thượng vàng hạ cám. Ông nói một ngày không còn đất chứa rác, ông sẽ đốt. Có người cắc cớ hỏi :« Như vậy là ông đốt cái chòi của ông luôn sao ? » ông Năm không ngần ngại : Đốt luôn. Cái chòi mình nằm giữa một đống rác to tổ bố của cả nước thì còn tiếc cái gì nữa. Cái nhà lầu cũng không tiếc. Ông anh và chú tài nghĩ coi : Nhiều lắm là ông Hai  sống thêm chừng mươi năm nữa, không biết ông sẽ hốt hết rác hay đống rác sẽ mọc tay mọc chưn tiến qua phía bên kia đường, chôn luôn căn chòi của ông Hai lúc ông đang lum khum trong chòi, chưa kịp đốt lên cái mồi lửa.

 

        Ông Hai Cọp ? Hai Cọp ? Ông chủ quán mới nhắc tới cái tên nầy, phải không ? Ông Năm bóp trán. Hai tiếng nầy bỗng hiện ra trong đầu óc ông Năm, mới đầu còn lờ mờ, sau rõ dần, rõ dần. Hai Cọp. Cái tên Hai Cọp hiện ra cùng với cái tên Tây Râu Đỏ và trận đánh đoàn công-voa của Tây. Hơn nửa thế kỷ rồi! Đứa con của Cái Răng trước sau vẫn vậy.

-Đúng rồi. Đúng cha nầy! Hèn chi!

       Ba người trong quán không biết ông Năm nói cái gì. Nhưng ông Năm biết ngày mai ông chưa về Mỹ được. Ông muốn trở lại đây một lần nữa.

 

      Rớt xuống từ trời bây giờ là cơn mưa lớn. Những giọt mưa như những giọt lệ sót thương cho một đất nước đầy rác mà ông Hai Cọp suốt một đời phục vụ và ông Năm đã nửa đời bỏ lại.

 

Trần Bang Thạch

(để tặng những người bạn Cái Răng của tui)

TBT_ToiDiHoc.JPG

Mùa tựu trường, mời đọc truyện đi học của người học trò già Trần Bang Thạch:

TÔI-ĐI-HỌC.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

http://www.caovikhanh.com/pdf/T%C3%94I-%C4%90I-H%E1%BB%8CC.pdf

Trước thềm ĐH XXIV PTGĐTĐ-BOSTON 2022, kính mời đọc lại 1 chuyện Thầy Trò 22 năm trước:

KHÔNG THỂ LÀ SỰ THẬT

Từ blogspot

Long Hồ Vĩnh Long: Không Thể Là Sự Thật - Trần Bang Thạch (longhovinhlong.blogspot.com)

Mặc dầu ông Glen Cliffs đã nghỉ dạy học từ hơn ba mươi năm nay, những người quen biết ông vẫn gọi ông là thầy. Còn những học trò hay những người trẻ có nhiều dịp gần gũi và tiếp xúc với ông thì thân mật gọi ông là "Papy", là Bố, vì đối với họ ông Cliffs quả rất xứng đáng là bố qua lối cư xử, cách dạy dỗ, cả cách rầy la, nhất nhất đều tiết ra cái tình cha con. Người ta nói ông Cliffs có trái tim vĩ đại hơn cái hồ Lake Champlain, rộng 431 dặm vuông, ở tiểu bang Vermont của ông, vì tim ông có thể chứa hàng ngàn người trong đó. Còn riêng ông, ông thích tự gọi mình là Người Dọn Dẹp, một "Cleanup Man" thứ thiệt. Số là vào cuối thập niên bốn mươi, trường ông Cliffs dạy không có thư viện, ông bà Cliffs phải dọn dẹp cái nhà kho chứa than đốt của trường rồi ông bà vừa gởi thơ xin sách báo từ các bạn bè gần xa, vừa tiện tặn mua sách vở làm cái thư viện đầu tiên của trường Cambridge High School. Nhiều người còn cho rằng đó là thư viện đầu tiên của thành phố Cambridge. Vị hiệu trưởng của trường thời đó có nói một câu bóng bẩy:

 

"Thầy Cliffs đã làm một công hai việc: xây dựng thư viện và dọn sạch sẽ đầu óc các học trò để nhét vào đó những cuốn sách quý".

 

Bây giờ ngồi một mình nhớ lại câu nói đó, ông Cliffs cảm thấy vui vui. Nó nhắc nhở cho ông nhiều thứ quá. Bao nhiêu thứ, bao nhiêu sự việc đang trôi bồng bềnh trong óc ông, có lớp có lang. Thời gian cũng lũ lượt kéo qua đời ông, đi ngang rồi đi khuất. Còn những kỷ niệm thì vẫn trụ hình, có tình có tự, trong lòng ngực, trong tim óc ông. Gần một thế kỷ có mặt trên đời, hay chính xác hơn, chín mươi mốt năm làm người, ông Cliffs làm sao không thể có nhiều điều đáng nhớ.

 

Đã từng là một nông dân, rồi thành người bán bảo hiểm, rồi tham gia quân đội. Sau trận thế giới đại chiến lần thứ hai chàng trung niên cựu quân nhân Glen Cliffs, lúc đó đã ngoài ba mươi tuổi mới vào ngành giáo dục. Người ta nói mỗi người có một quãng đời để sống, còn những quãng đời khác, những quãng đời không biết sống, thì chỉ để có mặt trên trần ai mà thôi, không có ý nghĩa gì hết. Hơn ba mươi năm dạy học là một quãng đời ông Glen Cliffs đã sống hết đời mình. Ông căng đôi tay ra để ôm chầm, ôm chắc nghề dạy học. Ông nâng niu nó kể cả những năm dài nghỉ hưu. Ông trải quả tim ông ra để thương yêu tất cả các học trò của mình. Các học trò hình như chẳng có đứa nào ghét ông, ông nghĩ vậy. Thời gian càng dài, sự gắn bó thầy trò càng khắn khít.

 

"Hello, Thầy ơi, con đây. Đầu tháng tới con sẽ gởi Thầy cái vé máy bay để mời Thầy sang đây dự ngày ra trường của thằng út tụi con nhen Thầy...!"

 

Đó là cú điện thoại của gần hai mươi năm trước. Lời mời thì ngắn mà lời thăm hỏi, lời trò chuyện lan man thì dài. Người gọi không nói tên, nhưng ông Cliffs vẫn biết đó là chị Lisa ở Seattle. Ông có biết thằng Út đó là thằng Kevin sắp tốt nghiệp nha y. Mấy chục năm nay biết bao nhiêu là những cú điện thoại tương tự đến từ hàng trăm cựu môn sinh ở rải rác khắp nơi. Quan hôn tang tế cũng là dịp gặp gỡ của đồng môn, của thầy trò. Chỉ nghe mấy tiếng đầu từ bên kia là ông Cliffs biết đó là ai; biết cả cái quá khứ, hiện tại, tương lai của người gọi.

 

Thầy giáo Cliffs làm sao quên được cái giọng khàn đục của anh Donald, biệt hiệu là Don Juan, người học trò cao to ngồi cuối lớp, học thì ít mà chơi thì nhiều, chọc phá các cô cũng dữ, đã nghỉ hưu từ hai năm nay, sẽ theo đứa cháu nội là thằng Mack tháng tới đi làm tùy viên văn hóa toà đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Còn chị Jane Pellerin thì nói tiếng Mỹ bằng giọng Tây đặc sệt. Chị nói ông của chị từng là một vị Toàn quyền Đông Dương. Chị ngồi ngay ở đó đó, ở ngay cửa sổ ngó ra khoảng sân rộng, có cây cột cờ cao gần đụng trời. Chị Jane thường nhìn những con hoạ mi hermit ca hát véo von trên cây nhã phong lẻ loi ở một góc sân. Chim thì cứ ca hót trên cây, chị Jane thì cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ làm thơ trong giờ học nên cứ bị thầy Cliffs rầy hoài. Kể từ cuối tháng Tư mười năm trước, người thầy hưu trí Cliffs không còn nghe tiếng líu lo như chim của chị Jane trên đường dây viễn liên nữa. Chị Jane đã bỏ thầy mà đi trước rồi! Từ đó cứ cuối tháng Tư mỗi năm, thầy giáo già Cliffs đều tình cờ đi ngang qua ngôi trường cũ, rồi tình cờ nhìn mấy cánh họa mi đậu ơ hờ buồn bã trên nhánh nhã phong trụi lá, tình cờ nhìn về hướng cửa sổ của một lớp học xưa mà tự dưng làm rơi mấy giọt nước mắt.

 

Từ vài chục năm nay nhiều cựu môn sinh đã từ giã thầy mà đi về cõi khác, để ông giáo già lụ khụ này rơi lệ tiễn đưa. Người học trò ra đi trước nhất có lẽ là anh Herman. Quan tài của anh được phủ lá quốc kỳ, đưa về từ vùng đất nằm bên kia bờ Thái Bình Dương. Thầy Cliffs không quên được buổi tối mùa đông đầu năm sáu mươi tám đó, cỗ xe tang tứ mã lốc cốc đưa xác anh Herman Fernandez đi ngang qua trường. Hôm ấy tuyết trắng xóa mênh mông không làm rõ được cỗ xe đang như cánh lá thâm đen trôi dật dờ trước ngôi trường cũ. Sân trường không một bóng người. Cây nhã phong âm u. Lá cờ rủ trên cột cao; rũ như cõi lòng người thầy giáo cũ đang co ro, ủ rũ đứng bên kia đường, vừa đưa cánh tay khẳng khiu vẫy tiễn đưa một thân xác thân yêu nằm lạnh căm trong lòng xe tứ mã, vừa gạt nhanh những giọt lệ chực đóng băng trên mắt mình. Rồi từ đó, những Robert, những Suzanne, những Tyler, Kathy...thay nhau mà vĩnh viễn ra đi , không kịp nói với thầy mình một lời từ giả! Nhắc tới Kathy King, người học trò có mái tóc đen mượt dài tới gối và đôi mắt nâu màu hạt dẻ, ông Cliffs nhớ mấy năm trước, trong khi nói chuyện qua điện thoại ông trách người học trò cũ này quá cỡ chỉ vì chị Kathy cứ dông dài chuyện này chuyện nọ mà quên không nói tới tình trạng học hành của thằng cháu nội Dillan của chị. Không biết từ hồi nào, ông Cliffs có thói quen hay quan tâm tới gia đình các môn sinh cũ, những người thường liên lạc với ông. Số này thì khá đông. Ông quan tâm nhất là về sự học hành, về tư cách, đạo đức của các con cháu của các môn sinh. Người ta không ngạc nhiên khi ông Cliffs biết được là nhà toán học đã tính toán chính xác tốc độ để một chiếc xe hơi bay an toàn ngang qua mấy toa xe lửa đang chạy nhanh chính là thằng Andre, cháu nội anh Ken Tate, người trưởng tràng gần nửa thế kỷ trước. Ông Cliffs còn biết cả cặp học trò cũ Nancy và Nick đã ly dị; biết anh Francis, ở tuổi quá lục tuần, vừa mới cưới người bạn cùng lớp năm xưa là chị Josephine. Cô dâu chú rể được bao quanh bởi mấy chục con cái, dâu, rể và các cháu nội, ngoại. Ngày đó vui hết sức, ông Cliffs thấy mình như vị thái thượng hoàng được cô dâu chú rể già cùng các con cháu cúi mình cảm tạ và chúc phúc. Có lần ông Cliffs đến một thành phố xa vừa dự xong lễ cưới của gia đình người học trò này thì dự lễ tang của gia đình một học trò khác.

 

Các học trò cũ cũng quan tâm tới Thầy Cliffs của họ rất nhiều, nhất là từ khi vợ ông mất bảy năm trước.

"Hello, hello, hello...Thầy ơi, Thầy! Thầy!..."

"Chị Tammy đó hả? Có chuyện gì mà ..."

"Ồ, Thanks God. Nghe tiếng Thầy con mừng quá. My Goodness! Cảm tạ trời đất. Thầy vẫn khỏe hả thầy?"

"Từ từ mà nói. Có gì mà nghe có vẻ quan trọng quá vậy?"

"Mấy tuần nay, bận nhiều chuyện quá, hôm nay con mới nhớ, không biết thầy có mệnh hệ gì không. Nghe tiếng thầy là con mừng. Thầy vẫn ăn được, ngủ được hả thầy? Thầy vẫn còn tập 5 thế thể dục Suối Nguồn Tươi Trẻ hả thầy? Thầy tránh bớt ăn nhiều dầu mỡ và những thức ăn mặn nhen thầy. Thầy nên...Thầy đừng...Thầy đừng... Thầy nên...."

 

Cứ như vậy mà câu chuyện kéo dài. Đó chỉ là một phần ngắn cú điện thoại tháng trước của chị Tammy Schneider gọi từ Frankfurt, Đức quốc. Đó cũng là một trong bao nhiêu cú điện thoại thân ái từ bao nhiêu năm nay. Đó là những tia nắng mai rực rỡ làm ấm cõi hoàng hôn của người thầy giáo già.

oOo

 

 

Trời bây giờ đang sụp tối. Tiếng rít của bánh sắt xe lửa từ bên kia dãy đồi phía sau nhà báo cho ông Cliffs biết đã 5 giờ chiều rồi. Đây có lẽ là con tàu cuối năm, cũng là con tàu cuối thế kỷ chạy ngang qua thị trấn này. Thời gian vẫn trôi. Con tàu tuổi nhỏ của ông vẫn ngày ngày miệt mài trôi trên cùng một đường sắt, cả trăm năm nay. Ông Cliffs đứng dậy tăng thêm nhiệt độ lò sưởi, bật lên tất cả các ngọn đèn trong phòng khách. Phòng khách sáng choang để ông Cliffs có thể nhìn rõ những tấm ảnh treo gần kín một khung tường, đa số là ảnh đen trắng; có nhiều tấm không còn nguyên vẹn. Nhưng đâu có hề gì. Thầy giáo Cliffs nhắm mắt cũng hình dung được từng khuôn mặt, nhớ hết từng cá tính, thói quen, nết tốt và cả tật xấu của từng người trong ảnh vì đó là những học trò của thầy Cliffs. Còn trên chiếc bàn dài đặt ở bên góc trái căn phòng là mấy chục tập ảnh gồm ảnh xưa lúc thầy trò còn ở trường và ảnh nay lúc thầy trò đã mỗi người mỗi ngả. Ông Cliffs đã bao nhiêu lần lật đi lật lại những tập ảnh đến nỗi ông thuộc từng vị trí của mỗi tấm ảnh. Nhiều chục năm thầy giáo Cliffs đã sống với các hình ảnh học trò cũ như sống với những người quen thuộc trong cùng một ngôi nhà cổ. Trong tập ảnh thứ nhất, trang thứ 5 là toàn thể 28 học sinh lớp 9 niên học 49-50. Trang 12, 13 và 14 của tập ảnh thứ ba là ảnh picnic năm 1956 của các lớp 11 tại Mt.Mansfield, dãy núi có độ cao 4,400 bộ. Còn tập ảnh thứ 12 là của người học trò cũ tên Antonio tặng ông gồm tất cả hình ảnh chụp trong ngày Họp mặt truyền thống năm 1998 của học sinh cấp lớp 12 niên khóa 1953, cả thầy lẫn trò đều là những ông già bà cả mà trông mặt mũi người nào cũng tươi trẻ như mới đôi mươi! Nguyên tập ảnh thứ 15 là hình ảnh những chuyến "thăm dân cho biết sự tình" của ông thầy Cliffs đến nhà các học trò cũ trong những năm ông bà Cliffs về hưu và còn mạnh khỏe. Đa số là những chuyến đi ngắn trong tiểu bang hay các tiểu bang lân cận. Có những chuyến đi dài như chuyến đi Hòa Lan lúc anh Henderson đang làm Giám đốc ngân hàng ở đó. Hay chuyến đi Ethiopia vào năm 1976 của ông Cliffs rất thú vị khi ông cùng vợ tháp tùng đoàn y tế của chị học trò cũ Flores đi cho thuốc và khám bịnh dân chúng tận các vùng rừng sâu. Các môn sinh thường hay gởi cho ông ảnh của các con cháu chụp ngày ra trường trung học, đại học... ông Cliffs để chung vào tập ảnh số 17, đây là tập ảnh dày nhất vì con cháu mỗi ngày một đông thêm. Sáu tập bìa da dày cộm để trên kệ sách đằng kia là các bài luận văn của học trò cũ lúc ông dạy môn English mà ông đã đọc không biết bao nhiêu lần rồi. Trong đó có cả mấy bài thơ viết tay của chị Jane gởi thầy chỉ vài ngày trước khi chị qua đời vì bịnh ung thư phổi. Mỗi trang thơ đều có những chữ bị loang vết mực, ông Cliffs không còn nhớ đó là nước mắt của người làm thơ, hay ngấn lệ rớt xuống từ đôi tròng mắt sâu của người thầy cũ thương nhớ người học trò tài hoa mệnh bạc.

 

Ông Cliffs vói lấy cây gậy rồi bước lần ra phía cửa. Con đường trước nhà giờ này có nhiều xe cộ chạy vội vã. Ông Cliffs biết người ta đang muốn về sớm cùng với gia đình ăn bữa cơm tối tiễn đưa năm cũ và đặc biệt là chào đón năm đầu của một thế kỷ mới, năm 2000. Riêng ông Cliffs thì ông biết ông phải làm gì cho cái ngày đầu của thiên niên kỷ này. Hôm qua, chị Louise đã điện thoại nhắc ông về cái hẹn ngày mai. Phải, cái hẹn ngày mai, một cuộc hẹn thật là đặc biệt, cũng là một trò chơi đánh cuộc xảy ra từ đầu năm 1949, từ 51 năm trước. Ngày đó thầy Cliffs đang dạy môn khoa học tại trường Cambridge High School, bài dạy hôm đó là Thời Gian và Khoảng Cách. Trong khi giảng có một lúc nào đó thầy Cliffs nói tới năm 2000 thì bé Louise Sander, lớp 9, 13 tuổi, bèn đưa tay đứng lên xin nói:

 

"Dạ thưa thầy, sao thầy lo chi tới cái năm 2000 xa quá là xa đó. Lúc ấy chắc thầy trò mình không còn để mà thấy nó. Cả cái Time Square người ta đến đó ôm nhau mừng năm mới chưa biết có còn không nữa!"

"Xin lỗi cô bé, cô đang nói gì thầy không hiểu?"

Biết thầy có vẻ bất nhẫn vì câu nói của mình, bé Louise bèn dịu giọng:

"Tất cả chúng ta chưa biết ai còn ai mất 51 năm sau, thưa thầy".

 

Ngay sau đó thầy trò cả lớp bày ra trò chơi đánh cuộc: Thầy trò sẽ gặp nhau đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm 2000 tại sân nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main, để xem ai mất, ai còn.

 

Hôm nay là ngày cuối năm 1999.

 

Mới đó mà đã 51 năm! Thầy Glen Cliffs đã 91 tuổi còn trò Louise Sander thì 64. Các trò khác thì cũng trên lục tuần. Suốt thời gian nửa thế kỷ đó, mỗi đầu năm thầy trò cùng nhau đếm số ngược từ 51 lui dần để cuối cùng hôm nay là con số 1. Con số 1 đã đứng đó chờ đợi thầy trò ông Cliffs đã 51 năm nay. Thầy Cliffs vẫn còn đó, chị Louise, chị Rosaline, anh Kenneth, anh Adrian....vẫn còn đó để đếm thời gian; còn những Jane, những Herman, những Jerry, Cook, Janet... thì đã bỏ cuộc chơi, bỏ lại những con số càng ngày càng nhỏ! Cũng đâu biết được những người học trò sớm ra đi này đang đứng đâu đó trên vùng trời thênh thang trên cao cùng đếm con số 1 với thầy và bạn mình dưới thấp?

 

Từ hôm đầu tháng 12 năm nay, chị Louise đã chuẩn bị cho ngày hội ngộ vô cùng kỳ thú này: Chị hoạch định hẳn một chương trình hành động, gọi là Project 2000. Đúng 7 giờ sáng ngày 1 tháng 12, chị Louise đã bắt loa truyền hịch cho hải nội chư quân, bàng dân thiên hạ năm châu bốn biển hãy mau kíp về đây dự ngày tụ hội. Năm mươi mốt năm mới có một ngày! Mại dô, mại dô! Bà con cô bác! Chị Louise cẩn thận dặn những người ở địa phương mỗi người làm món ăn mà Thầy Cliffs của mình thích nhất: Chị Peg nấu món măng hầm thịt nạc bò và củ hành trắng, mà phải nấu sao cho mềm rệu, thầy không còn răng thật đâu. Chị Rosaline nấu món súp hải sản, phải có rong biển thật nhiều, đừng quên thêm vào một chút rượu vang cho thơm. Lúc sanh tiền, anh Greg chuyên trị món kem trái cây tráng miệng, nay thì việc này giao cho Greg phu nhân vậy...Bộ sậu ban tổ chức Ngày Tụ Hội 2000 cũng không quên chuẩn bị một đêm ca nhạc kịch và dạ vũ với nhiều màn tự biên tự diễn vui nhộn để thầy trò chào mừng năm mới và đánh dấu một ước nguyện đã thành: Gặp nhau năm 2000. Một cuộc chơi dài 51 năm sẽ chấm dứt sáng mai. Project 2000 sắp hoàn tất! Tất cả sẽ là những người thắng cuộc. Cả tháng nay mọi chuyện tiến hành tốt đẹp. Người người nôn nóng. Nhà nhà nôn nao. Những con cháu cũng thấp thỏm chờ đợi như cha mẹ ông bà của chúng. Chúng có những trận cười thích thú khi chứng kiến các buổi tập kịch của ông bà tại nhà. Từ cử chỉ, cách ăn mặc cho tới việc tô son vẽ phấn để biến thành những teenagers trông thật tức cười. Thằng cháu ngoại 10 tuổi cười lộ hết mấy cái răng sún khi ông ngoại nó đóng vai chàng nam sinh lớp 12 năn nỉ ỉ ôi xin một chút tình từ cô nữ sinh cùng lớp trên đường đi học, do bà ngoại nó đóng. Anh Frank thì đóng vai thầy Cliffs y như thật, từ tiếng nói rổn rảng đến cái phác tay, cái nhướn mày, trừng mắt...Không biết anh Frank tìm đâu được cái áo bành tô màu cứt ngựa y hệt cái áo mà ông Cliffs thường mặc vào nửa thế kỷ trước.

 

Nửa thế kỷ đã chờ được, chỉ còn một tí nữa thôi mà trái tim mỗi người như muốn bái bai cái lòng ngực, chờ được nhảy tung trên đường.

 

Phần ông giáo Cliffs thì ông cũng nôn nao. Hôm trước anh Daniel muốn rước thầy Cliffs đến nơi gặp mặt, nhưng thầy Cliffs đã từ chối, ông bảo mọi người hãy đến chỗ hẹn, đừng bận tâm về ông, ông muốn tự mình chu toàn lời hứa cũ. Ông hỏi về chương trình ngày mai, các học trò tuyệt đối giấu ông những gì họ sẽ làm. Ngày mai, ngày đầu thiên niên kỷ thứ ba, ngày hẹn. Phải, ngày hẹn nhau 51 năm trước sắp tới rồi. Sắp tới rồi! Trong niềm vui, tự nhiên ông Cliffs cảm thấy hơi buồn khi nhớ tới bà vợ Marjorie. Vợ ông cũng đã chờ với ông trong mấy mươi năm. Cái chết đã làm bà mất cơ hội cùng ông vui ngày sum họp vô cùng đặc biệt này. Và còn thiếu thêm những ai trong số những môn đệ của ông? Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?

 

Trong nỗi vui buồn lẫn lộn đó, ông Glen Cliffs đi ngủ sớm để có mặt ngày mai trên đường Main, trước sân nhà thờ The First Church of Christ.

oOo

 

Trong phần tin tức lúc 7 giờ sáng, làn sóng 640 AM của đài phát thanh địa phương có loan một bản tin ngắn: "Cuối cùng thì thầy giáo Glen Cliffs không đến được chỗ hẹn trước nhà thờ The First Church of Christ trên đường Main. Theo khám nghiệm thì ông giáo 91 tuổi mất khoảng 6 giờ sáng nay, ngày 1 tháng Giêng năm 2000. Ông Cliffs đã bước những bước đi đầu tiên từ những năm đầu Thiên Niên Kỷ thứ hai, đã đặt chân lên Thiên Niên Kỷ thứ ba. Ông chỉ thiếu có hơn 1 tiếng đồng hồ để đặt chân lên chỗ hẹn, để hoàn thành lời ước từ 51 năm về trước".

 

Và người ta thấy một số những lão ông, lão bà tuổi lục tuần, thất tuần đang ngồi khóc tại một góc phố trên đường Main. Hình như không có ai trong số những người nầy tin những lời phát thanh là sự thật. Năm mươi mốt năm chờ đợi đã trôi qua như một giấc mộng. Con số 0 đã hiện ra để chấm dứt 51 năm chờ đợi, thì một con người vĩ đại đã biến mất. Một con số 0 khác bỗng xuất hiện như một cánh lá thu đang chao nghiêng bay về với đất. Ôi cái Có và cái Không! Sự ra đi đột ngột của người thầy kính yêu dù có nằm mơ cũng không thể xảy ra được. Thật hay mơ?

 

Thiên Niên Kỷ mới đã đem cho họ một nỗi buồn quá lớn lao.

 

 

Houston, trong khi chờ đợi ngày đầu năm 2000

Trần Bang Thạch

CÓ MỘT CHỖ ĐỂ VỀ

(khởi đi từ 1 ngày tháng Tư Đen)                       

Đường sá của người

Đâu phải của ta

Sao ta cứ miệt mài đi, về năm tháng

Dù đông lạnh căm

Dù hè cháy nắng

Ta ngựa già nối những dặm xa

 

Gió ở đây cũng là gió của người ta

Đâu phải gió đồng bằng

Đâu phải mưa châu thổ

Nước mặn Đại Tây Dương

Đâu bằng nước ngọt phù sa quạch đỏ

Ta nghe chừng thiếu một hơi quen

Nên mỗi ngày qua

thêm một nỗi buồn riêng
thêm một chút ngậm ngùi cố thổ
ở ở, đi đi ta làm khách trọ
sớm nắng chiều mưa bóng nhỏ bên đường

Để mỗi đêm dài điếm cỏ cầu sương
ta mơ làm người Lý Bạch
đê đầu tư cố hương
thấy hồn mình lượn lờ nơi viễn phố

Thấy mẹ lưng còng
trên sân rêu phủ
mắt lệ nhòa từ buổi con đi
ngày ngóng đêm trông từng cánh chim về
nghe sao nặng tháng ngày đứt ruột

Thấy cha một mình
trên dòng kinh nước đục
đêm ba mươi một chiếc xuồng câu
tiếng độc huyền cầm chảy suốt đêm thâu
(cha muốn gởi gì trong hơi đồng sũng nước?)

Thấy mái chùa cong
thấy ngôi trường buổi trước
ta nhìn ta một thuở rong chơi
ta nhìn em tóc bím, môi cười
trao ánh mắt cho ta
mà con tim giữ lại

Và cứ giữ nghe em
những ngày xưa ấy

Giữ giùm ta một góc trời quê
để hồn ta còn có chỗ trở về
khi đất lạ ta mồ xanh cỏ.

Trần Bang Thạch

NNH_NY 2000.JPG

CHUYỆN NEW YORK,

MỘT NGÀY

 

 

    Gần nửa đêm rồi mà chị Suzanne vẫn còn ngồi trước ông bạn mặt vuông là cái computer. Xung quanh chị  ngổn ngang giấy tờ, hồ sơ trên bàn, trên kệ, trên thảm...Đã nhiều lần chị Suzanne muốn đặt lưng xuống cái khoảng thảm còn trống nơi góc phòng, hay cứ gục đầu xuống bàn mà ngủ một giấc, rồi mọi sự ra sao thì ra. Nhưng nghĩ tới công việc chưa xong chị cố nhướng mắt tiếp tục sục sạo, tìm tòi, rồi ghi chép, rồi lướt 10 ngón tay trên dàn chữ. Sáng mai là một ngày thật quan trọng cho chị. Đúng ra là ngày quan trọng của công ty nơi chị làm việc. Công ty sẽ ký một hợp đồng thương mại với một khách hàng khổng lồ hoàn toàn mới và khó nuốt, đó là bộ công thương nghiệp Trung Quốc. Thất bại lần này công ty chắc phải chuẩn bị khai phá sản. Từ vài tháng nay, do kinh tế suy trầm, công ty bị ảnh hưởng nặng. Nhân viên lần lượt ra đi. Còn hơn một tháng rưỡi nữa mới tới ngày lễ Halloween mà bóng ma thất nghiệp cứ lảng vảng trong các phòng làm việc của cái cao ốc 110 từng phía nam này. Còn cái cao ốc anh em sanh đôi ở mặt bắc kia chắc cũng không khá gì hơn, người đi làm càng ngày càng thưa thớt. Nhiều khung cửa sổ đã không thấy ánh đèn. Hôm qua còn hẹn nhau đi ăn trưa, hôm nay phải dành giờ ăn phụ tiếp bạn dọn dẹp nơi làm việc để move out ! Bạn bè hôm trước còn nói cười rôm rã, còn chat nhau trên net, hôm sau ứa nước mắt chia tay. Phút bịn rịn họ chỉ có thể nói với nhau lời chúc may mắn. Người đi, kẻ ở không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới.

    Cho nên chuyện thành bại của công ty ngày mai chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người còn lại, trong đó có chị Suzanne. Đúng ra tuần này chị Suzanne vẫn còn nghỉ bịnh. Chứng dị ứng thời tiết cứ làm chị khốn đốn mỗi năm mấy tuần. Nhưng người chủ trực tiếp của chị là bà phó giám đốc Helen sau mười ngày đi Bắc Kinh, khi trở về tức tốc yêu cầu chị Suzanne đi làm từ sáng hôm nay. Bà nói  kết quả chuyến đi của bà đến sớm không ngờ: Xế chiều ngày mai, thứ Ba, một phái đoàn từ Bắc Kinh sẽ đại diện chánh phủ đến Công ty duyệt xét toàn bộ vấn đề để chánh thức ký hợp đồng hay không. Hơn một tháng nay công sức của bà phó giám đốc Helen đã đổ quá nhiều trong cái dịch vụ này, nó không thể thất bại được. Công ty không thể chết được. Bà nói bà cần tới cái tài cung ứng tài liệu của chị Suzanne để trình với phái đoàn ngày mai. Đến gần sáng thì chị Suzanne đã có những printouts cần thiết với chi chít những con số và những biểu đồ đủ màu sắc để cung cấp cho bà Helen. Chị Suzanne đứng dậy, rời bàn giấy. Chị đi đến cửa sổ, vén màn rồi mở tung hai cánh cửa kính. Chị vươn vai hít thở không khí trong mát buổi sáng tinh mơ của New York. New York như người thiếu phụ nửa chừng xuân, lịch lãm, sang cả và rực rỡ như kim cương. Chị Suzanne tự thưởng cho mình một ly sữa lạnh rồi sang phòng ngủ của hai con, đắp lại tấm chăn, hôn mỗi đứa trước khi lên giường rón rén nằm cạnh chồng, anh Frank. Thật sự thì anh Frank chưa ngủ. Anh không thể nào mà ngủ được khi người vợ đang đau ốm của mình sau một ngày vất vả tại sở làm còn đem về nhà hàng đống hồ sơ để làm tiếp cho xong. Anh Frank thì không thể tiếp gì được cho vợ. Anh vốn là người thợ hàn nên chuyện hồ sơ giấy má anh chỉ biết đứng đó mà nhìn. Nhiều lúc nghe vợ mình cố đè nén những cơn hắt hơi sợ làm thức giấc chồng con, anh Frank thấy thương và tội nghiệp vợ vô cùng. Cái lồng ngực mỏng manh lép kẹp đó không biết ngày nào sẽ nổ tung vì chứa chấp nhiều thứ quá: những tràng hắt hơi như cơn địa chấn nhỏ trong nội tạng và bao nỗi lo toan của một người đang gánh nặng cái gánh gia đình với hai đứa con nhỏ và người chồng thất nghiệp. Phải, từ hơn bảy tháng nay, từ ngày anh Frank mặt mũi méo xệch nhận tờ giấy màu hồng của sở thông báo anh tạm nghỉ việc tại hãng hàn xì này thì  người vợ ốm yếu của anh phải mang thêm trên vai vài hòn đá tảng. Một cái xe đã bị chủ nợ kéo đi. Tiền lương khiêm nhường của một nữ thư ký và chút ít tiền trợ cấp thất nghiệp, anh chị vén khéo lắm mới tạm đủ chi tiêu cho việc ăn uống sinh sống hàng ngày và hàng tháng trả tiền thuê căn chung cư cũ kỹ trong vùng Manhattan mắc mỏ này. Tuy vợ không nói ra nhưng anh Frank biết vợ anh đang lo lắng cho những ngày sắp tới, những ngày mà cả hai vợ chồng đều thất nghiệp. 

 

    Chị Suzanne thức dậy lúc gần tám giờ. Anh Frank đang mớm sữa cho con bé Michelle đang nằm trong nôi. Thằng Bobbie nơi bàn ăn với chén cereal trộn với sữa tuơi. Gần đây Frank lo hết mọi chuyện trong nhà, kiêm luôn người giữ trẻ. Người father mom này mỗi khi đi chợ búa hay đi xin việc đều có con bé chưa đầy tuổi trên tay và thằng bé mới hơn ba tuổi xoắn xít dưới chân. Thấy mà tội nghiệp. Chị Suzanne sửa soạn qua loa, hôn tạm biệt chồng và hai con rồi ra trạm xe buýt. Cái samsonite trong tay chị Suzanne như phòng lên cao hơn so với bình thường, một phần vì giấy tờ quá nhiều, một phần vì nó có chứa thêm niềm hy vọng của cả nhà chị Suzanne trong đó. Nghĩ đến đây chị Suzanne chợt mỉm cười: Phải rồi, biết đâu con bé Michelle 8 tháng tuổi cũng cố nhét cái hy vọng nhỏ tí xíu của nó vào cái samsonite của chị? Chiếc xe buýt số 32 B tấp vào lề, vẫn đúng giờ như thường lệ. Vẫn những tiếng hi, hi quen thuộc, thân mật, rộn rã. Một ngày như mọi ngày. Gió vẫn mát lạnh từ dòng Hudson. Đường phố vẫn đông nghẹt người. Xe cộ vừa thở vừa bò. Người bạn đồng hành người Á đông với mấy lớp áo mũ nặng chình chịch luôn luôn trên người mỗi ngày vẫn đón chuyến búyt ở đường 14 rồi xuống xe ở đường Canal để vào làm việc tại khu China Town trên đường Broadway. Vẫn tiếng chẫu sành quen thuộc từ người Tàu già khi gặp chị Suzanne hay bất cứ nguời nào ông gặp trên xe. Vẫn cái mùi từ ly cà phê ngửi mà phát thèm sáng nào cũng trên tay của ông Do Thái ngồi ở băng cuối. Và cũng như thường ngày, khi chị Suzanne đọc hết tin tức trang đầu của tờ Wall Street Journal thì xe buýt dừng lại nơi chị phải bước xuống, đó là toà cao ốc phía nam của Trung tâm thương mại thế giới. Từ dòng Hudson ở hướng Tây gió vẫn mát lạnh. Và lá vẫn chớm vàng khi  New York đang bước vào thu. Tượng Nữ thần Tự do vẫn mịt mờ trong sương ở vùng vịnh Upper Bay. New York vẫn là New York vừa cao ngạo, vĩ đại, vừa thân thương, gần gũi.

 

    Một buổi sáng như mọi buổi sáng New York. Như mọi buổi sáng của người New York.

 

    Tuy giờ làm việc bắt đầu từ chín giờ nhưng khoảng  tám giờ rưỡi thì hầu hết nhân viên và ban giám đốc đã có mặt. Bà Helen và vài nhân viên khác đã đến đây từ sáng sớm. Bà nói mọi chuyện phải sẵn sàng cho một ngày quan trọng. Mọi người đều biết đó là ngày gì. Mọi người có vẻ ăn mặc trang phục đẹp nhất của mình. Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Bà Helen mừng ra mặt khi chị Suzanne bày trước mặt bà những đồ biểu và tài liệu, kể cả những negative phóng ảnh. Giọng bà Helen chắc nịch: “Như vầy là ăn chắc. Cái khế ước thương mại này không chạy đi đâu được”. Rồi mọi người hỉ hả nâng cao cốc cà phê buổi sáng như thầm nói với nhau: Mình còn làm việc nơi tầng cao thứ 101 này thêm ít nhất là 3 năm nữa. Chị Suzanne gọi cho Frank để chia sẻ niềm vui đầu ngày này. Chị còn cho  Frank hay ngày mai chị được nghỉ phép cho đến hết tuần để đánh vật với thằng dị ứng đã theo chị từ hơn tháng nay. Chị nói chị sẽ ném xác nó xuống Đại Tây Dương nên đề nghị với Frank là ngày cuối tuần sẽ đi xuống cực nam của Brooklyn cho hai con chơi ở Astroland, rồi ghé Kings Plaza shopping center mua sắm ít đồ mùa đông đang đại hạ giá. Bao giờ họ cũng chấm dứt điện đàm bằng câu: I love you. See you soon, Honey.

    Vậy mà sau câu nói thương yêu đó họ không còn gặp nhau nữa. Không bao giờ gặp nhau nữa. Vĩnh viễn họ đã mất nhau. Thật sự thì lúc 8 giờ 45 phút ngay sau khi một trái lửa vĩ đại phụt ra từ tòa cao ốc phía bắc cùng với tiếng nổ kinh hồn, trong nỗi thảng thốt cùng tột, chị Suzanne có gọi chồng, gọi nhiều lần. Không có tiếng trả lời. Từ tòa cao ốc phía nam này nhiều người chạy ra cửa sổ nhìn tòa nhà phía bên kia. Khói. Lửa. Tiếng nổ. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Hay đầu óc mọi người cũng đang nổ tung để không ai còn biết trời trăng mây nước gì nữa hết.

    Rồi ầm ầm như sấm nổ, như sét rền, như đất chuyển trời rung. Như trời sập. Mọi người mạnh ai nấy chạy. Tiếng kêu gào thất thanh. Tiếng la. Tiếng khóc. Có người chạy loanh quanh, không còn biết đâu là lối ra cầu thang hay thang máy. Trời đất tối sầm. Người ta dồn cục khắp hành lang.

    Ở một khắc giây nào đó chị Suzanne thấy mình bay bỗng lên không trung rồi như một mảng bông tuyết tan ra trắng xóa trên bầu trời New York.

 

    Trong căn phòng khách ở tầng thứ 41 của tòa chung cư trên đường số 23, anh Frank thấy mặt thằng Bobbie bỗng nhiên ngơ ngơ, đôi bàn tay nhỏ nhắn xòe ra xoay xoay trong không khí, mồm nói với anh mấy lời mà anh không nghe rõ; anh nhìn màn ảnh truyền hình trước mặt thì những chú thỏ con nhiều màu đã biến mất, thay vào đó là một trái lửa vĩ đại từ tòa cao ốc. Anh Frank mở cửa chạy ra hành lang chung cư, tai còn nghe giọng nói hoảng hốt của người xướng ngôn viên. Anh Frank tận mắt thấy trái lửa. Anh chạy vào nhà, trái lửa choán hết màn ảnh truyền hình. Anh Frank đã dùng hết điện thoại nầy đến điện thoại khác mà anh có trong nhà để gọi vợ. Không có tiếng trả lời. Anh chạy ra hành lang. Cục lửa bây giờ là một đụn khói khổng lồ bao trùm gần hết vòm trời Manhattan. Rồi anh Frank có hoa mắt không khi thấy một chiếc phi cơ ghim ngay giữa tòa nhà phía nam, nơi vợ anh đang làm việc? Không, không thể nào có chuyện như thế được. Lửa. Lửa. Tất cả là khói, là lửa. Là sấm động, phong ba. Cả dòng Hudson cũng là lửa khói. Ở tít phía nam kia, tượng Nữ thần Tự do thoát hiện, thoát biến trong màn khói đen.

    Không còn nghi ngờ gì nữa: hai tòa cao ốc đang bốc cháy. Cũng không cần biết gì thêm từ cái truyền hình, anh Frank bỏ hai con vào một xe đẩy, hộc tốc đi thang máy xuống chỗ để xe, lái về hướng đám lửa to như quả núi . Xe anh chỉ chạy được một đoạn đường thật ngắn thì phải dừng lại, không thể nhích thêm một thước nào nữa. Mọi người đang đổ ra đường. Tiếng la hét, tiếng còi hụ inh ỏi một góc trời. Anh Frank bỏ xe bên vệ đường rồi hai tay bồng hai đứa nhỏ cố đi ngược dòng người để đến gần hai tòa cao ốc. Đến ngả tư đường Houston và Park Avenue thì anh hoàn toàn bị cảnh sát chận lại. Trước mặt anh trái lửa như con ác quỉ vĩ đại đen ngòm với hàng ngàn cái lưỡi đỏ lòm như máu tươi. Con bé Michelle đã ngủ trên vai anh, còn thằng Bobbie thì ngơ ngác trước cảnh tượng trên đường và cụm khói trước mặt. Không thể đi thêm được nữa, anh Frank rẽ vào trường đại học New York, bế hai con lên từng cao, hy vọng thấy vợ mình trong đám người đang hơ hải chạy phía duới. Từ đây anh Frank thấy hết mũi Manhattan trong khói lửa và trong hỗn loạn. Hàng ngàn người chen lấn trên cầu Brooklyn và cầu Manhattan. Vô số người đổ dồn về phía bến cảng số 11 để lên phà sang New Jersey. Khắp nơi là đầu người nhấp nhô. Ở một giây bất ngờ, anh Frank thấy một thân người phóng ra từ  cửa sổ của một từng lầu gần chót vót trên cao, thân người chơi vơi như tờ giấy trắng bay phất phơ trong gió. Rồi như cảnh tượng trong phim ảnh, hai toà nhà lần lượt sụp đổ theo sau những tiếng nổ kinh hoàng, như hai người khổng lồ bị trúng tên độc ngã chúi trên hào thành. Hàng trăm xe cứu hỏa, xe cảnh sát từ khắp nơi và hàng đoàn xe cứu thương từ khu Bịnh viện Cựu chiến binh cách mấy block đường hụ còi inh ỏi hướng về phía hai trái núi sắt đang bốc lửa. Nhìn xuống con đường West Broadway anh thấy khói xám bốc lên từng đợt như sóng lượn. Tro than bao trùm các con phố. Anh Frank cố giương mắt thật to tìm cái áo len màu hồng phấn mà vợ anh mặc sáng nay. Tất cả là những áo quần xám ngoẹt đầy tro than. Không biết bây giờ là lần thứ mấy trăm anh Frank bấm số gọi vợ. Cái điện thoại ác ôn vẫn im tiếng. Đường giây đã bị cắt đứt từ lâu rồi. Đôi mắt vô hồn, nhìn ngó bâng quơ, anh Frank bây giờ chỉ biết đứng bên đường, ôm chặt hai con mà khóc.

                                                                   xXx

 

    Không biết hôm nay là ngày thứ mấy anh Frank dẫn hai con đứng nơi góc đường West và Chambers nầy. Trước mặt anh và xung quanh khu đổ nát là những bảng cấm vượt qua. Cảnh vật ở đây sao lạ lẫm vô cùng với sự vắng mặt của hai tòa cao ốc. Có phải nơi đây vẫn là New York? Anh Frank đang đứng giữa lòng New York hay đang bơi giữa hành tinh xa lạ nào? Khắp nơi là gạch đá vương vãi, là sắt thép trần trụi, cong queo, ám khói. Có những cột sắt đen thui đứng thẳng như trời trồng, như còn ngạc nhiên cho cái tai họa từ một chốn u minh nào chợt tới. Khắp nơi là nỗi kinh hoàng còn bám dính trên từng mảnh gạch vụn, là hàng ngàn oan hồn uổng tử với cái chết tức tưởi đang chấp chới bay trong không gian đầy tro bụi. Hàng trăm xe cần trục, xe xúc, xe ủi, xe vòi rồng ... cùng với hàng ngàn con người làm việc ngày đêm từ mấy hôm nay vẫn chưa đem về cho Frank người vợ thương yêu. Hình như mỗi người lái xe cần trục, mỗi người lính cứu hỏa đang làm phận sự tại hiện trường đều có nghe người cha đầu bù tóc rối với hai đứa con còn nhỏ hỏi han về một cái áo len màu hồng phấn. Người đàn ông với đôi mắt thất thần nhiều khi nói mà như mê. Con bé Michelle hình như cũng biết trông ngóng mẹ nên mỗi ngày nơi góc phố này nó nằm yên trong xe đẩy, mở mắt thao láo nhìn phía trước mặt. Còn thằng Bobbie thì cứ khóc đòi mẹ. Tới ngày hôm nay thì tiếng nó đã khan rồi. Anh Frank như đứt từ đoạn ruột. Đường dây điện thoại đã nối. Anh Frank  gọi vợ hàng trăm lần mỗi ngày, anh mong được nghe tiếng vợ mình đang đi lạc ở một khu phố nào đó, hay đang điều trị tại một bịnh viện; hay trong tình huống xấu nhất là được nghe tiếng rên thoi thóp của nàng từ dưới đống gạch vụn. Anh Frank viết tên vợ trên những tấm giấy cứng rồi đeo trước ngực và sau lưng mình. Thằng Bobbie cũng mang một tấm trước ngực chạy lăng xăng vừa khóc vừa gọi mẹ.

    Có nhiều lúc ba cha con ngồi ôm nhau mà khóc giữa tiếng ầm ầm của các loại xe cơ giới và trong hơi gió âm u như tiếng nấc của các oan hồn.

 

    Nữ Thần Tự Do từ đằng xa kia chắc cũng đang rơi nước mắt.

Tháng 9 – 2001

Trần Bang Thạch

Mời đọc truyện TBT trên blog CVK:

 

1/ Ngoại tôi và dòng sông nhỏ:

ngoai-toi-va-dong-song-nho-tbt.pdf | Cao Vị Khanh (caovikhanh.com)

2/ Tôi với những khổ hình

http://www.caovikhanh.com/pdf/toi-va-nhung-kho-hinh.pdf

XUÂN SỚM

- Chút quà văn chương gởi anh VTT, chị KQ & nhóm thiện nguyện Cái Răng nhân dịp Xuân về

 

 

    Bà Phước bóp nhẹ mấy ngón tay xương xẩu của chồng rồi cùng con trai bước ra khỏi phòng. Người nữ y tá cũng bước ra theo, sau khi chúc ông Phước ngủ ngon. Ông Phước còn lại một mình trong phòng. Hai chiếc giường kia đã bỏ trống từ hồi trưa. Một người được xuất viện, người kia trở bịnh nặng, phải đưa về khu cấp cứu; không biết có còn trở lại đây nữa không, hay được đưa thẳng xuống nhà xác, như ông Mễ nằm giường ấy cách đây hai tuần. Ba tuần trước, ông Phước từ phòng cấp cứu được chuyển vào phòng này. Coi như bịnh trạng của ông đã qua thời kỳ nguy hiểm. Bây giờ là thời gian điều trị. Ống chân trái của ông Phước bị gãy, các lóng xương bể đã được sắp xếp lại và nẹp bằng một thanh bạch kim. Bác sĩ nói tuần tới chân ông sẽ được bó bột. Nhưng việc xuất viện thì chưa biết, vì có dấu hiệu xuất huyết đường ruột nên vài thử nghiệm phải tiến hành song song với việc chữa trị vết thương chân.

    Từ ngày ông rời nước, đến thành phố này vào năm 1994 đây là lần đầu tiên ông Phước vào nằm bịnh viện vì một tai nạn, có thể gọi đó là tai nạn nghề nghiệp. Số là sáng sớm hôm ấy, như thường lệ, ông Phước đẩy cái xe thùng tự chế của ông đến khu công viên gần nhà, rồi đến khu thương mại sầm uất nằm trên ngả tư trục lộ giao thông. Hơn mười lăm năm rồi, chỉ trừ khi mưa giông hay khi đau yếu, hiếm khi ông Phước bỏ sót một ngày đẩy xe trên các con đường này. Ông đi  vừa là một cách tập thể dục, vừa là dịp để ông thu lượm những lon nhôm bên đường, tại khu công viên, hay từ các bao rác tại các cơ sở thương mại. Ông Phước rất cẩn thận mỗi khi băng qua đường. Hôm ấy nhiều sương mù, khi đến ngả tư, tuổi già mắt kém, nhìn gà hóa cuốc, ông Phước nhìn đèn xanh tưởng là đèn đỏ, liền đẩy xe tay tự chế xuống lộ qua đường bên kia. Khi thấy chiếc xe đen thui trờ tới thì mắt ông đã tối sầm. Ông Phước được đưa vào bịnh viện ngay sau đó. Bác sĩ cho biết ống chân trái của ông bị gãy, nhưng không quá trầm trọng.

    Đúng là một phút xui xẻo, may mà không mất mạng. Bao nhiêu năm nay ông đã biết bao lần đi trên lộ trình đó. Lộ trình nằm trong khu nhà ở nên xe cộ lưu thông rất chừng mực. Từ nhà đi hơn nửa dặm đường thì tới công viên. Từ công viên đi thêm độ một dặm đường nữa là tới khu thương mại. Đoạn đường dài vừa đủ cho một người già đi bộ thể thao mỗi ngày. Khu công viên khá rộng lớn tọa lạc giữa trường tiểu học và các sân bóng rổ, sân quần vợt. Rải rác trong công viên có những nhà bát giác và những lò nướng lộ thiên, rất tiện lợi cho các buổi picnic cuối tuần. Vào các ngày thường cũng có nhiều người tụ tập buổi chiều và buổi tối, già cả bé lớn đều có đủ. Họ đi bộ, chơi thể thao, hẹn hò, gặp gỡ, ăn uống, chuyện trò...Cho nên khu công viên là địa điểm cung cấp cho ông Phước nhiều lon nhôm nhứt; nhiều hôm lượm đầy một bao, ông Phước phải bỏ lên xe tay, đẩy về nhà rồi trở lại tiếp tục. Còn tại khu thương mại thì từ hai năm nay công việc thu nhặt lon nhanh và gọn hơn trước sau khi ông trình bày ý nghĩa của việc ông làm với các chủ nhân. Họ hiểu và rất thông cảm nên mỗi cơ sở cho ông Phước để một cái thùng loại đựng rác, bên trong lót sẵn những bao ny-lông. Mỗi thùng đều có đề chữ “Aluminium Cans Only” hẳn hòi. Mỗi sáng sớm ông Phước chỉ gom các bao lon ấy chất lên xe đẩy. Trước kia thì ông Phước phải vất vả bươi tìm lon trong một cái thùng rác công cộng to, cao và, dĩ nhiên, rất dơ bẩn; nhiều khi ông phải đứng hẳn vào trong thùng rác mới kiếm được nhiều lon nhôm. Mấy tuần nằm trong bịnh viện, bao nhiêu công việc bị trễ nải hết. Lon liếc, bao bị đang chờ ông. Chân ông đau không bằng ngọn lửa đốt trong lồng ngực ông. Ông Phước không biết chân ông rồi sẽ ra sao? Và các dự  định của ông? Ông Phước có ý muốn là sẽ mở thêm phạm vi hoạt động tới các vùng xa hơn. Ông cũng sẽ thực hiện đúng kế hoạch mà ông gọi là Kế hoạch Diều hâu, theo đó thì ông để sẵn tại mỗi tiệm, mỗi văn phòng dịch vụ một thùng chứa lon, mỗi ngày ông ghé qua xớt gọn nguyên bọc, như diều hâu xớt mồi. Nhanh và gọn. Chừng đó thì cái xe thùng nhỏ của ông sẽ chỉ được sử dụng cho những nơi gần nhà. Như vậy càng tốt. Ông sẽ dùng cái xe truck để đi các tuyến đường xa.  Nhiều lon thì nhiều tiền hơn. Ông Phước nghĩ tới cả một vùng Tây Bắc là vùng ông đang ở, rồi lan sang vùng Tây Nam là địa bàn thương mại của người Á Châu, là nơi họ sẽ dễ dàng thông cảm và giúp đỡ ông. Nếu tiện thì ông xoay qua vùng Đông Bắc là nơi bạn ông có mấy nhà hàng và cây xăng, tha hồ mà gom lon. Rồi tại Hội Chợ Tết Việt Nam sắp tới, hội chợ Tết tại các chùa, các nhà thờ…ông Phước sẽ đặt sẵn những cái thùng để đồng bào đi du xuân bỏ những lon không vào. Cả chục ngàn người thì biết bao nhiêu là lon. Những bạn bè của ông nơi quê nhà sẽ có thêm chút tiền mua bánh trái, kẹo mứt cúng kiến ông bà, các cháu nhỏ có bộ quần áo mới. Tết nhứt sắp tới rồi mà chân cẳng thì như vầy, thiệt là họa vô đơn chí.

        

    Nghĩ xa rồi ông Phước không khỏi nghĩ gần. Cái gần chính là cái gia đình gồm vợ con ông. Họ ở bên cạnh ông mà ý nghĩ của họ và ý nghĩ của ông xa nhau hàng ngàn dặm. Thật sự thì ông Phước đã thấy việc này từ ngày ông còn ở Việt Nam. Ông nhớ hồi năm 1984 khi ở tù về, ông được vợ bảo lãnh theo diện đoàn tụ. Lúc đó cha mẹ ông già yếu, ông là con một, nên ông Phước không chịu đi. Đến khi có vấn đề HO, ông Phước cũng chưa chịu đi vì cha ông vừa mất, mẹ thì già yếu thêm. Do vậy vợ con ông trách ông rất nhiều, cho rằng ông không nghĩ gì đến họ. Không chừng họ còn nghi ông có bồ nhí ở quê nhà! Từ đó thỉnh thoảng vợ ông gởi tiền cho ông mà không có một thư từ nào, không có cả thư của các con. Ông bắt đầu biết mọi người đã không hiểu nhau rồi. Khi đến Mỹ ở chung với vợ con, sự cách biệt càng rõ, từ cách sống cho đến cách nghĩ. Vợ ông thay đổi nhiều quá. Các con cũng vậy. Anh em nói tiếng Mỹ cả ngày với nhau làm ông nhức đầu. Càng chán ngán tình cảnh của gia đình mình, ông Phước càng nghĩ nhiều đến những người bạn đồng cam cộng khổ của ông ở quê nhà. Tài chánh eo hẹp với đồng lương quá thấp, ông Phước phải tìm phương cách khác để giúp họ. Ông nghĩ tới việc đi lượm lon nhôm. Ông Phước không quên những ngày đầu của công việc này. Thật sự thì thời gian đầu rất là êm thắm. Ông bắt đầu công việc ngay tại gia đình ông. Ông Phước cũng muốn nhân cơ hội lượm lon giúp người nghèo để cho các con cháu ông biết về lòng thương người và biết quí trọng đồng tiền. Muốn dạy cho con cháu bài học vở lòng về đạo làm người. Nhà ông con cháu đông lại hay uống nước ngọt, vợ chồng thằng con lớn thì hay uống bia, cuối tuần thì hay có tiệc tùng,  nên lon bia, lon nước ngọt cũng nhiều, bỏ đi thì uổng, mỗi pound lúc đó giá là 42 xu. Mỗi tháng ông Phước có trên 20 pounds lon không tại chính nơi ông ở, trị giá cả chục đồng. Riêng tại chỗ làm của ông là một tiệm giặt lớn, có để máy nước ngọt, ông chỉ lượm lon không bỏ vào bao đựng rác. Cứ mỗi cuối tuần  ông đem về nhà một bao  đầy, nặng ba, bốn chục pounds. Đầu tiên ông Phước chứa những lon trong thùng rác, để phía sau vách nhà; rồi đợi khi rảnh, ông Phước cùng hai đứa cháu nội đạp dẹp mỗi lon cho bớt cồng kềnh. Đầu tiên hai cháu chỉ làm lấy vui; sau nghe ông nội nhét vào đầu mỗi ngày một vài chữ, chúng nó hiểu công việc ông cháu đang làm là một loại charity. Rồi ông cháu hì hục mang ra xe đem đi bán. Hai đứa cháu nội trên mười tuổi có vẻ thuộc bài học mà ông muốn dạy. Những người khác thì chưa. Một hai tháng đầu thì trong nhà chẳng ai để ý hay phàn nàn gì về việc làm của ông Phước. Đến tháng thứ ba thì những con kiến, đặc biệt là những con gián từ đống lon làm cả nhà chú ý. Trước hết là vợ ông rồi tới con trai, con gái, rồi con dâu. Bà Phước vượt biên sang Mỹ từ năm 79 với 3 con, thằng lớn lúc đó mới 14 tuổi; thằng Út sanh ra năm 75, khi ông mới vào tù  vài tháng. Bà Phước làm công chức cho City hơn ba chục năm nay. Bà có cái nhìn khác ông về nhiều vấn đề. Chỉ một con gián trước mắt bà đã là chuyện lớn rồi. Ba đứa con thì lúc nào cũng cùng chiến tuyến với mẹ. Con dâu người Tô Cách Lan thì sợ gián hơn sợ ma. Tình trạng này thì thật nguy. Vợ con ông mà không cho ông để lon ở nhà thì không biết ông phải làm sao. Trước mắt là ông Phước cấp tốc dời địa điểm. Ông chuyển tất cả lon ra cái góc sân sau, sát hàng rào, rồi che kín mít bằng mấy tấm vỉ thiếc. Hy vọng không ai thấy; nhứt là không thấy những con gián. Khi đống lon nhiều đủ cho một chuyến truck thì ông đem đi bán. Việc làm ăn của ông Phước coi mòi trôi chảy. Nhưng có một lần ông tưởng rằng kế hoạch của ông bị ngưng. Chuyện xảy ra hồi hè năm trước. Đó là một hôm vợ ông làm sinh nhựt cho cô con gái bằng bữa BBQ ngoài sân sau. Mẹ con bàn tính với nhau, ông Phước không biết chi tiết. Bạn bè của vợ ông, bạn bè của các con, có cả người tình của con gái và của cậu út tham dự. Tất cả trên năm chục người, đầy cả sân sau. Chuyện rắc rối bắt đầu khi tấm vỉ thiếc bị ai đó làm ngã xuống, bày ra một đống lon nhôm, cộng với hàng ngàn con gián to bằng ngón tay, mập ú, láng coóng.  Nghe được mùi thịt nướng, các chú gián càng linh động, bò lổn ngổn khắp sân như những con ma đói. Mạnh ai nấy la làng. Mạnh ai nấy nhảy cà tưng. Thịt thà trà rượu văng tứ tung. Tiệc thịt nướng Tếch-xịt mà phải dời vào trong nhà, thành indoor Bar-B-Q, thì... 12 con giáp chẳng giống con giáp nào. Mặt mày ai nấy đều dài thoòng, nhăn nhó như cái bánh bao chiều, nhứt là phu nhân và các quí tử của ông Phước. Đâu có ai ngờ được là phía sau căn nhà rộng, hai từng, trướng gấm màn nhung, mặt trước hoa kiểng ngay lối thẳng hàng, trong nhà ghế bành, tràng kỷ, đàn piano lung tung... mà phía sau nhà chứa hộp lon để bán! Ai đời nhà của một bà phụ tá trưởng phòng mãi dịch thành phố, nhà của một kỹ sư trưởng công ty điện lực, nhà của cô ba dược sĩ vv... mà chứa cả đống hộp lon dơ dáy trị gía vài xu một cái! Tình cảnh y như cô đào thương sau khi diễn tuồng gột rửa hết mấy lớp phấn son. Thôi thì hôm ấy Mỹ tây, Mỹ ta đều có một big surprised party! Và dĩ nhiên là ông Phước đâu tránh khỏi một big, big problem! Cái mà ông thấy rõ trước hết là cô con gái cưng của ông chạy vào phòng ngủ, đóng kín cửa, chắc là để khóc cho đã vì xấu hổ với người tình đang hành nghề thầy thuốc. Cậu út thì cũng chẳng khác gì cô chị, bạn gái nó cứ đập cửa, kêu ho-ni ơi,  ho-ni à hoài mà nó không mở, chắc để giấu cái cục quê to bằng cái nhà nó đang ở. Vợ ông, con trai lớn, con dâu... chắc cũng có cùng tâm trạng như vậy. Họ cũng cố nói nói, cười cười mà cái cười như mếu. Cũng phải thôi, họ không hiểu một tí gì về ý nghĩa việc làm của ông thì họ xấu hổ trước bàng dân thiên hạ là phải. Còn ông Phước ư? Lúc khách khứa nhảy cà tưng cà tang giữa sân cỏ, lúc vợ con ông tóc tai dựng ngược, muốn chôn sống mấy con gián qủi sứ và một đống lon nham nhở, thì ông Phước đang ung dung đứng sau cửa sổ trên lầu, vén màn nhìn xuống. Ông muốn làm nhà hùng biện nói trước công chúng. Ông sẽ dõng dạc, hùng hồn mà dang tay nói rằng: Các người đang thấy những con gián bò đi tìm mồi dưới chân các người. Vài người bạn của tôi nơi quê nhà hiện giờ cũng như con dế, con giun đang vất vả đi tìm miếng sống. Tôi hãnh diện làm cái việc lượm hộp lon này. Các người cứ thảy ra đi, tôi lượm hết. Tiền của các người vứt bỏ, tôi lượm về, rồi thân ái gởi cho bạn tôi, có gì là xấu hổ! Các người đâu có biết một pound thịt bò để nướng ngày hôm nay ở đây đủ cho bạn tôi mua gạo ăn 2 tháng. Cả mấy chục pounds thịt bò và rượu, và bia...hôm nay có giá trị tương đương với cả ngàn ngày bạn tôi bò lê trên vĩa hè bằng hai đầu gối, giữa nắng trưa, giữa mưa dầm, giữa bụi bặm, bán từng tấm vé số. Nghĩ như vậy cho vui vậy thôi chớ ông Phước dư biết mỗi người có số, các người dưới kia có số tốt thì cứ tận hưởng cái số tốt của mình, cũng không sao, không chết thằng tây nào. Không nói thì ai cũng biết là sau hôm đó ông Phước bị vợ, rồi các con hành hạ tơi bời. Để giữ hòa khí trong gia đình, lần này ông cố giải thích, ông nói cho mọi người biết hoàn cảnh của từng người mà ông giúp đỡ. Tình hình tạm yên, tuy rằng còn có những chống đối ngầm. Họ có vẻ chống đối vì họ không hiểu hết mục đích lượm lon của ông; hay họ biết mà không thể hiểu nỗi. Sống tại nước Mỹ này mà có người kỳ cục, ở nhà lầu, vợ con thành danh, thành đạt...mà nhịn ăn, nhịn mặc, lượm từng cái lon dơ mà không biết xấu hổ. Chuyên cần lượm lon để bán lấy tiền đem cho người khác ở tận đâu đâu! Thiệt hết chỗ nói! Các dâu và con không hiểu đã đành, vợ ông mà không hiểu thì đáng buồn và thêm rắc rối. Cái rắc rối là bà thường xuyên ngăn cản việc làm của ông, còn chê ông làm cái nghề hạ tiện, làm mất mặt mẹ con bà. Quả thật là vợ ông đã quên hết cái khổ của chính bà trong những năm sau 75, quên cái khổ của bao nhiêu người thân quen khác. Ông Phước nói với vợ rằng ông sang Mỹ nhưng những người lính thuộc cấp ngày trước của ông, những bạn bè đã cùng chiến đấu với ông không có điều kiện để đi, họ đang sống trong nghèo nàn, đói khát, bịnh tật. Ông nhắc tới hạ sĩ Cang, người lính truyền tin của ông ở trung đoàn 31, cụt cả hai chân, đang bán vé số tại bến bắc Cần Thơ; binh nhì Nam, người đã cỗng ông cả cây số khi ông bị thương ở trận Tầm Vu, đang nằm một chỗ vì chứng tai biến mạch máu não, vợ con bữa no bữa đói. Hôm ấy mà Nam chạy bỏ ông thì ông chỉ nằm chờ chết. Rồi những An, những Thiện, Đồng...đã một thời sống chết với ông, đang cần sự giúp đỡ, dù ít dù nhiều. Ông Phước là người đến Mỹ muộn màng, sau khi mẹ ông qua đời, nên ông thông hiểu từng hoàn cảnh của những người lính cũ của ông. Sang được bên này, ông muốn tự mình làm ra đồng tiền gởi về cứu giúp họ. Mỗi người vài chục đồng mỗi tháng để họ vui mà ông cũng vui. Mỗi lần lượm những chiếc lon rỗng mà ông Phước thấy lòng mình thêm đầy. Đầy niềm vui. Lúc còn ở quê nhà, nhận tiền gởi về từ vợ con, ông Phước đã ân cần chia sẻ với họ. Cái gọi là tình chiến hữu của ông đơn giản là như vậy, không đao to búa lớn gì hết. Ông biết khi tuổi già sức yếu, ông sẽ không giúp họ được nhiều, nhưng còn hơi thở là ông biết rằng ông chưa bỏ cuộc.

    Điều trước mắt là ông Phước sẽ không bỏ cuộc trong việc vận động vợ con ông tham gia cùng với ông. Ông Phước biết trước đó là một việc vô cùng khó khăn. Cái “lì” trong công việc của ông từ mười mấy năm nay cũng là một cách để khẳng định rằng ông đã suy nghĩ đúng và làm đúng. Tốt hơn hết là họ nên xét lại lối suy nghĩ của mình. Hai đứa cháu nội chỉ hơn mười tuổi mà đã biết giúp ông nội, biết cầm đồng tiền khó khăn kiếm được từ những lon nhôm, cùng với ông đem gởi về quê nội. Thỉnh thoảng, làm như là tình cờ, ông Phước cho vợ xem mấy bức thư hay những tấm ảnh của những người nhận tiền của ông hàng tháng tại quê nhà. Đại để những dòng thư như: “ ...nhờ món tiền của ông thầy gởi về kịp lúc mà má em được chữa trị kịp thời, nếu không thì...” hay: “...số tiền của ông thầy gởi về lần này em dùng hết để bốc mộ vợ em, đưa nó về nằm gần với ông bà cha mẹ, chờ em xuống nằm chung với nó cho đỡ lạnh chưn”…. Đặc biệt là có một thư rất vui: “ Ông thầy biết hông, thằng con lớn của em vừa mới ra kỹ sư. Đó là nhờ bốn năm nay ông thầy cho nó tiền đóng học phí. Từ đây thằng anh sẽ lo cho mấy đứa em”. Còn những bức hình thì có thể làm bà Phước xúc động: hình chụp hạ sĩ Cang bò trườn trên bến bắc, cố mời một ông khách mua vé số; hay hình trung sĩ Lộc có đôi mắt trũng sâu như hai cái hố thẳm, quần áo, mủ nón, tay chân rách nát, chỉ có cây gậy trên tay là còn nguyên hình dáng. Bà Phước biết Cang và Lộc từ khi hai người lính này phục vụ trong đại đội của ông Phước. Cứ như vậy mà ông Phước thi hành chiến thuật tầm ăn dâu, thỉnh thoảng cho vợ đọc những bức thư hay xem vài tấm ảnh, hay những khi vợ chồng vui chuyện, ông Phước nói về người này, người nọ nhờ món tiền của ông gởi về mà giải quyết được bao nhiêu vấn đề khó khăn. Nhứt là những món tiền gởi vào dịp Tết tuy không nhiều nhưng niềm vui của họ thì thật nhiều; niềm vui của ông còn nhiều hơn nữa! Mới nghe vài lần đầu bà Phước ậm ừ cho qua.  Những lần sau bà có ý hỏi lại hay góp vài lời. Qua thời gian, sắt đá còn phải mòn, huống chi là lòng người. Ông Phước nghĩ như vậy. Còn đối với các con thì ông nói chuyện với chúng nó về những gì đang xảy ra tại đây, một cách cụ thể, giấy trắng mực đen hẳn hòi.  Chẳng hạn như chuyện Hội Người Cùi Việt Nam tại Nam Cali kết hợp với Hội Blessed Damien Society thuộc giáo phận New Orleans ở tiểu bang Louisiana làm bao nhiêu việc tốt đẹp cho người cùi Việt Nam từ cả chục năm nay. Bác sĩ trẻ Trần Mai Khanh là điển hình của những tấm lòng vàng nầy. Chỉ cần 140 dollars tiền thuốc men là có thể chữa hết bịnh cùi cho một người cùi. Hay nói ngược lại: vì không có đủ 140 dollars mà một người cùi phải chịu khổ suốt đời, chịu rụng tay, rụng chân, mù mắt.... Nghe như vậy có đứa gục gặt đầu ra điều thông cảm. Cô dâu Tô Cách Lan thì cứ  really, really liền miệng, có vẻ xúc động. Bà Phước tuy không trực tiếp ngồi nghe nhưng coi bộ đồng tình. Ông Phước ghi cho các con cái web site của Hội để chúng nó tìm hiểu thêm. Cũng như ông Phước đã nói về Quỹ Từ Thiện Têrêsa cho các con nghe. Chúng nó có vẻ thích thú khi biết chỉ cần 2 dollars là mua 10 kí gạo cho một người già ở Việt Nam có cơm ăn một tháng. Xem như vậy thì làm nhân đạo đâu có tốn tiền, tốn sức nhiều ! Hôm người phụ trách Quỹ Từ Thiện Têrêsa là Phó tế Vũ Thành An từ Portland về Houston tổ chức một buổi họp mặt, ông Phước rất ngạc nhiên là chỉ cần một lời đề nghị của ông mà cả gia đình đều muốn đi tham dự để biết thêm về quỹ từ thiện nầy. Bữa đó về nhà cô dâu Tô Cách Lan và bà mẹ chồng nói nhiều về chuyện này. Họ còn biết hơn ông là hiện đã có cả ngàn cụ tại Việt Nam đang được sự trợ cấp này. Tình hình trong ngôi nhà này có vẻ khả quan lắm. Tằm ăn dâu mà! Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Phước biết chẳng sớm thì muộn cả nhà sẽ cùng góp sức với ông. Tiên trị kỳ gia, hậu trị kỳ quốc. Giải quyết xong những người nhà, ông Phước sẽ gợi ý với những bằng hữu khác, tại đây và tại các nơi khác... Rồi cả ngàn thùng “Aluminium Cans Only” sẽ rải đều khắp nơi.  

      

    Việc thiện thì nhiều, nhưng mỗi người một tay thì sẽ...vỗ nên bộp. Người xưa đã nói  vậy rồi.

    Ông Phước bỗng nhớ ra là mình đã nghĩ ngợi quá nhiều trên giường bịnh.

    Ba tuần lễ nay chuyện giúp người cùi hay người già xảy ra như thế nào ở nhà thì ông Phước không biết. Ông chỉ biết là ông nằm đây cả tháng thì làm sao mà đi lượm hộp lon, mấy cái thùng “Aluminium Cans Only” của ông chắc đã đầy ứ. Nằm đây thì làm sao mà có tiền gởi về kịp đầu tháng tới. Hôm nay đã gần cuối tháng rồi. Tết cũng cận kề rồi.

 

    Đêm nay ông Phước suy nghĩ nhiều quá, khiến ông mất ngủ.

 

                                                              xxx

 

    Cuối cùng thì ông Phước được xuất viện với cái chân băng bột. Ông có thể xê dịch chút ít được với cây nạng. Chân ông coi như không có vấn đề. Ruột gan ông cũng không có vấn đề gì. Nhưng khi về đến nhà, vào căn phòng riêng của ông thì lòng dạ ông có vấn đề. Ông Phước thấy những tấm giấy biên nhận gởi tiền để trên bàn ngủ của ông. Tên người gởi là tên vợ ông, còn tên người nhận trên các hóa đơn là Cang, là Lộc, là Nam, là An, Thiện, Đồng... Ngày gởi thì mới hôm qua, ngày đầu tháng. Ông Phước thấy tim mình quả thật có vấn đề, nó đập liên hồi, đập không thứ tự, điều mà ông không gặp từ thật nhiều năm nay. Cầm những tờ biên nhận gởi tiền mà tay ông run. Tên vợ ông đó. Tên những người bạn nghèo khổ của ông đó. Ông đâu có hoa mắt, đâu có lầm lẫn gì. Ông Phước với tay cầm cây nạng, lê bước về phía cửa sổ, ông biết trời hôm nay phải đẹp. Ông muốn nhìn bầu trời đẹp hôm nay. Ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh, không gợn môt chút mây, ông nghĩ tới những nụ cười của bằng hữu quê nhà, rồi nhìn xuống phía cuối sân sau, chỗ góc sân bên trái, nơi ông dùng để chứa hộp lon. Trời! Có thật không đây? Niềm vui òa vỡ. Ông Phước thấy một đống lon đầy vun. Rõ ràng mà! Một đống lon đầy vun! Hai mắt ông Phước bây giờ tuy có ướt nhưng ông không lầm lẫn đâu. Ông thấy rõ mà. Ông nhớ trước khi bị tai nạn ông đã bán hết số lon. Bây giờ một đống lon đầy tại góc sân, không có một tấm vỉ thiếc nào che chắn hết. Một đống lon đầy đó bà con ơi! Dưới ánh nắng chiều, màu sắc từ các hộp lon như nhảy múa rộn ràng. Từ hồi nào mà vợ con ông đã mở lòng, đã xăn tay áo làm công việc của ông vậy cà? Như vậy là quà Tết cũng sẽ đến sớm như mọi năm. Mùa Xuân năm nay cũng đến sớm với bằng hữu của ông, như mười mấy năm qua.

 

    Ông Phước thấy lòng mình no đầy một niềm vui, và gan ruột ông cũng đang rộn ràng nhảy múa.

 

    Tết chưa đến mà ông Phước nghe có tiếng pháo nổ thật giòn và thật rộn rã. Nghe như pháo tết của quê nhà.

 

Trần Bang Thạch

CHẤP CHỚI BÀN TAY MẸ

 Trong một tấm hình trên báo, bé Jordan gợi cho ta hình ảnh một tàn binh đang lang thang trên trận địa hoang tàn sau trận đánh long trời lở đất. Chiếc mũ lưỡi trai nhà binh trên đầu, cái bình đựng nước bên hông, một cây gậy trên tay, thằng bé sáu tuổi nầy đang khập khiễng chui qua những thân cây ngã, lội qua những con lạch, bước qua những mãnh tôn, những gỗ ván gạch đá, rác rưỡi. Cả một vùng rộng lớn nầy với đầy chướng ngại sau trận cuồng phong hai hôm trước hình như không một nơi nào thiếu bước chân của bé Jordan. Suốt một ngày trời, bé Jordan đã thấy hằng ngàn cây nhỏ, cây to đứt ngọn, những tấm tôn quấn quanh các thân cây như tấm giấy thiếc bọc chiếc hotdog. Khóm cây pecan sau nhà mà Jordan thường leo trèo nay chỉ là những thân cây cụt ngọn, còn sót những cành treo lủng lẳng như những cánh tay gãy.

Giữa những hoang tàn đỗ nát đó, bé Jordan đã tìm lại được nhiều thứ lắm. Trước hết là chiếc xe hơi của mẹ. Chiếc xe bị đè dưới một thân cây to, mui xe dẹp gần tới tay lái, các cửa kính đã bể nát. Một bức ảnh trên báo chụp Jordan đang đứng trên cái thùng gỗ để đủ cao nhìn vào bên trong cửa xe. Chiếc xe nầy từ bao năm nay, dù mưa giông, dù nắng gió, mẹ đã đưa đón Jordan từ những năm nhà trẻ cho đến nay là năm Jordan học lớp một. Chiếc xe nằm đây mà mẹ thì đâu rồi! Cây gậy đánh khúc côn cầu của Jordan nằm chơ vơ bên chiếc thùng phuy móp méo cạnh khung gỗ của cái sofa. Ðôi găng tay chơi banh thì vắt vẻo trên một nhánh cây cao. Và chiếc xích đu. Chiếc xích đu mẹ đã mất trọn một tuần nghỉ phép để cưa, để đục, sơn phết, rồi hì hục leo lên cây sồi trước nhà máng hai sợi dây xích vào một nhánh to. Sau đó gần như mỗi năm, mẹ lại hì hục trèo lên nhánh cây để thâu ngắn hai sợi dây xích theo chiều cao lớn của Jordan. Chiếc xích đu bây giờ nằm lăn lóc trong vũng nước cạn, lấm lem bùn sình. Cái màu đỏ tươi của những miếng ván đã bay đâu mất. Bé Jordan nhớ lắm cái ngày bé nằng nặc đòi mẹ phải thay màu cam bằng màu lục; rồi ít lâu sau Jordan lại khóc lóc đòi mẹ thay màu lục bằng màu đỏ. Mỗi lần như vậy mẹ đã phải tháo gỡ cái đu xuống, dùng giấy nhám đánh đi từ những mãng sơn nhỏ trên mấy miếng gỗ, rồi tỉ mỉ sơn lên màu khác. Mẹ vừa làm vừa hát những bài hát thật vui. Mẹ nói mẹ muốn chính mẹ tự tay làm cái xích đu nầy cho Jordan, theo ý thích của Jordan. Jordan không thể hiểu mẹ muốn nói gì, lúc đó. Nay thì cái xích đu đã bay xa khỏi thân cây cổ thụ mà Jordan vẫn chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa câu nói của mẹ. Jordan cũng tìm thấy mấy bức ảnh gia đình. Có một bức chụp mẹ và Jordan đang xích đu, chân mẹ đong đưa, một tay mẹ quàng cổ Jordan, một tay mẹ cầm quyển truyện nhi đồng đang mở rộng. Jordan nhớ quá những buổi chiều mẹ con say sưa hay buồn vui ngậm ngùi theo từng chuyện cổ tích. Những cánh chim trên cành cao như cũng ân cần góp chuyện. Lạch nước kế bên miên man chảy, hình như không bao giờ ngưng những tiếng róc rách, thầm thì. Lòng của Jordan hình như lúc nào cũng ấm vì hơi thở của mẹ miên man phả chung quanh cho dù Jordan đang ở trường hay đang chạy chơi nơi một góc vườn hay một góc phố. Còn tiếng nói của mẹ hình như lúc nào cũng róc rách, thầm thì bên tai, ân cần, ngọt dịu, thương yêu, trìu mến. Mẹ là cả một thế giới riêng của Jordan.

             Mẹ Kara từ hồi nào đã là con lạch nước bên nhà, là cây sồi cổ thụ trước nhà, là cả một vườn pecan rợp bóng sau nhà, là chái nhà, là góc bếp. Căn mobile home nhỏ nhoi như một túp nhà chòi nhưng đầy tiếng cười, giọng hát của hai mẹ con. Mẹ thấp thoáng trong dáng dấp những bà tiên hiền từ mẹ đã kể cho Jordan nghe trong những đêm hai mẹ con ôm nhau nghe mưa rầm rì trên mái tôn, hay những buổi chiều êm ả hai mẹ con tay trong tay đi dưới vòm pecan cao nghệu. Mẹ là vòng tay ôm, là hơi thở ấm. Vậy mà bỗng chốc mẹ hoàn toàn biến mất. Mẹ đã biến mất hoàn toàn. Jordan không thể nào tin được điều ấy. Chẳng lẽ sau một cơn lốc dữ mẹ cũng biến dạng như cả một rừng cây nầy, như căn mobile home nầy, như cái xe móp méo kia? Hay mẹ vốn là một bà tiên, giữa cơn phong ba đã bay về cõi khác? Không. Chắc chắn mẹ đang ở quanh đây. Mẹ Kara thương yêu Jordan lắm mà. Mẹ sẽ không bỏ Jordan mà đi đâu hết. Mẹ đang thất lạc ở một nơi nào đó, hay đang bị kẹt dưới một gốc cây to. Mẹ. Mẹ. Mẹ. Jordan đã trăm ngàn lần gọi mẹ suốt một ngày nay, gọi khan cả tiếng, gọi nát cả tim, gọi bong cả phổi. Jordan đã nằm bịnh viện mấy hôm nay để được băng bó ba cái xương sườn gãy, được chửa trị cái chân sưng vù và cái lưng đầy vết trầy trụa. Ðây là lần đầu tiên trong đời Jordan thiếu mẹ bên cạnh khi Jordan đau ốm, nhất là khi phải nằm bệnh viện. Vừa ra khỏi bịnh viện sáng nay, Jordan đã nói với bà ngoại , “Chúng ta phải đi tìm Mẹ”. Rồi với đôi giày bố và cây gậy, cái mũ và bi-đông nước, Jordan đã khập khiễng trở về căn nhà giờ đây chỉ là một đống ngổn ngang những tôn, những ván giữa những thân cây gãy ngọn. Nơi trú ngụ đã không còn, chắc mẹ đang lẩn quẩn đâu đây. Jordan nhớ rõ lắm mà: Mới ngày hôm kia, trong cơn lốc xoáy dữ dội, căn mobile home rung rinh như cành cây bị gió giật trên cao. Các cửa kính đã bể hết. Mẹ đã ôm chặt Jordan. Rồi mấy miếng tôn trên mái lần lần bay mất. Khoảng trống trên đầu là mưa, là gió, là sấm, là sét. Một cành cây lớn đã rơi ngay giữa phòng khách. Mẹ càng ôm Jordan chặt hơn, thân người bé nhỏ của mẹ như cố trùm phủ Jordan, chở che Jordan khỏi trăm ngàn mảnh vụn bay loạn đả từ tứ phương tám hướng. Tường nhà kêu răng rắc như cũng sắp bay đi. Trời tối thui nếu không có những tia chớp trên nền trời. Mẹ con lần tìm lối đi vào phòng tắm, chỗ duy nhất trong nhà còn một chút mái che. Mẹ túm tất cả mấy cái khăn lông trùm đầu và quấn quanh mình Jordan. Hai mẹ con tay chặt trong tay cùng cầu nguyện. Gió vẫn đánh sầm sập chung quanh. Tiếng bay vun vút của những cành cây gãy, những tôn, những ván , những cát, những đá....càng làm cho Jordan lạnh run thêm. Có một khắc giây nào thật là ngắn Jordan cảm thấy thân mình như được nhấc bổng, đôi tay mình nắm  một khoảng hư không chớ không phải là đôi bàn tay ướt sủng của mẹ.

         Jordan chỉ thực sự thấy mất mẹ khi được chú Jim hàng xóm kéo lên từ con lạch gần nhà.

         Vừa thất thểu đi tìm mẹ, bé Jordan cứ nói với những người bé gặp trên đường, “Phải chi mình nắm tay Mẹ chặt hơn nữa, chặt hơn nữa”. Bé vừa khập khiễng đi vừa nói, “Phải chi...Phải chi ....” Bé Jordan bây giờ là một kẻ mộng du trên vùng đất vừa quen thuộc vừa lạ lùng, ác độc.

 

                                                                      xXXx

 

              Em Jordan thương quí,

 

         Mấy hôm nay anh có theo dõi cơn thần phong ở Oklahoma qua truyền hình và báo chí. Anh biết đó là một cơn lốc dữ dội có cây ngã, có nhà cửa bị cuốn đi, có người chết và mất tích. Thực tâm anh có thương cảm cho các nạn nhân, có, nhưng không nhiều. Cho đến hôm nay được nhìn mấy tấm ảnh của em trên tờ báo địa phương và được đọc một bài báo ngắn về em, anh đã xúc động thật nhiều. Anh như thấy trước mặt mình đứa bé sáu tuổi ở cái thị trấn Bridge Creek xa xôi, lạ hoắc kia là một biểu tượng tuyệt vời, đầy ý nghĩa đối với anh.

         Jordan ơi, em có muốn biết anh là ai không? Anh là người đang muốn được là em bây giờ đó. Anh đang muốn là đứa bé con sáu tuổi luôn nghĩ rằng mẹ mình đang bị lạc đường để suốt ngày lang thang tìm mẹ, suốt ngày chơi trò trốn tìm cùng mẹ. Thật là hạnh phúc cho em khi em không tin lời xác nhận của người giảo nghiệm tử thi. Lão nói gì mặc lão. Bà ngoại Mary, dì Susan, cậu Steve, chỉ là những người mau nước mắt thôi. Bà Dì Darlene còn nói lằng nhằng nào là từ nay Jordan phải ở với Ngoại, nào là Jordan phải nghe lời Ngoại.... Jordan thấy những lời nầy sao lạ tai quá! Mẹ Kara của Jordan chắc đang ở một nơi nào đó. Trên một tầng mây cao, hay một chân đồi thấp. Ở đâu thì Mẹ Kara vẫn kề cận bên em đó Jordan ạ. Em là người con xứng đáng được mẹ thương yêu cận kề. Còn anh, Jordan biết không, anh ước muốn được trở lại cái tuổi ngây thơ, hồn nhiên, trong trắng như em, như hằng trăm ngàn trẻ thơ khác được mẹ ấp ủ trong lòng, được nói với mẹ muôn lời thương yêu. Ước muốn, có nghĩa là trong thực tế anh đã qua rồi cái tuổi ngây thơ của em. Hai mươi sáu năm làm người (hay nói cho đúng là hai mươi sáu năm có mặt trên đời), anh đã có tám năm làm người con bất hiếu, anh đã có quá nhiều tội lỗi đối với mẹ; khi nhận biết điều nầy thì mẹ đã không còn nơi cõi thế nầy cho anh nói lời xin lỗi hay bày tỏ một cử chỉ yêu thương, và ôm mẹ mà nói rằng: Mẹ ơi con thương Mẹ vô cùng.

             Jordan à, chuyện của anh thì buồn lắm, anh không định kể cho em nghe vì không muốn em lây cái buồn của anh. Nhưng anh nghĩ rồi đây sau những ngày lặn lội đi tìm mẹ, sẽ có lúc em cảm thấy buồn. Và anh cũng biết một ngày nào đó em sẽ buồn lắm, buồn vô cùng tận. Nghe chuyện buồn của anh có thể làm em bớt buồn chăng, vì em biết có một người lạ hoắc lạ huơ ở một nơi xa xôi nầy đang muốn cùng em chia sẻ nỗi buồn mất mẹ, nỗi buồn lớn nhất của một đời người đó em.

              Nói chuyện với em cũng là một cái cớ: anh đang nói với chính mình, đang mượn những lời nầy để mong làm dịu bớt nỗi buồn của mình. Cho nên em đừng nên cảm thấy xốn xang khi em không thể hiểu  hết những điều anh nói, nhe em.

 

              Tấn thảm kịch hình như chỉ thật sự bắt đầu tám năm trước khi anh vừa xong trung học và quyết định theo đại học tại một trường cách xa nhà hơn ba giờ lái xe.

         - Như vậy là con thật sự muốn sống xa gia đình ?

         - Con đâu có nói như vậy. Con chỉ muốn đi học trường con thích thôi.

         - Hay là mẹ con mình dời đến thành phố đó ở cho tiện ?

         - Con thấy không cần thiết đâu.

         - Nếu má thấy cần thiết thì sao ?

         - Còn nhà cửa, việc làm của má ở đây ?

         - Ðối với má, có cái gì trên đời nầy quí hơn con của má, hả con ?

         - Má tính sao cũng được hết.

         Thâm tâm anh là muốn có một đời sống tự do không bị dòm ngó, ràng buộc; mà mẹ anh thì hình như lúc nào cũng dòm, cũng ngó, cũng nhắc nhở, hỏi han, cũng ngăn cái nầy, cấm cái nọ... nên anh đã nói dối một cách rất tài tình :

         - Má cứ ở đây. Có gia đình bên cạnh học hành khó khăn lắm. Vài tuần con sẽ về một lần.

         - ...

         Từ đó anh như con chim chưa đủ lông, đủ cánh nhưng sớm sổ lồng, nên đã bước những bước chuệnh choạng, nghiêng bên nầy, ngã bên kia, lắm lúc lạc phương, lạc hướng. Bắt đầu năm học thứ hai anh đã có một vài lầm lỗi cá nhân trầm trọng. Tuy ở xa nhưng với giác quan thứ sáu của người mẹ, mẹ anh đã có vài lần dạm hỏi anh về chuyện nầy chuyện nọ. Sau nầy em sẽ biết là khi ta có một lỗi lầm nào đó, ta ít khi muốn gặp gỡ hay chuyện trò với những người thân, những người hằng quan tâm đến ta, nhất là cha mẹ ta. Cụ thể là càng ngày anh càng thấy xa mẹ, thấy mất dần những sự ràng buộc gia đình. Anh ít khi điện thoại về nhà. Những lần về nhà cũng càng ngày càng thưa. Mẹ anh thì vẫn đều đặn gọi anh mỗi tuần đôi lần như từ trước. Không gọi được ban ngày, mẹ gọi anh khi nửa đêm hay lúc một hai giờ sáng để mẹ được an tâm. Số lần mẹ nhắn tin trên máy nhiều gấp trăm lần mẹ con trực tiếp nói chuyện với nhau. Mẹ anh thì chỉ có thể lái xe loanh quanh vài dặm từ nhà đến chỗ làm, đâu có lái được trên xa lộ, nhất là lái đường xa vài trăm dặm, nên họa hoằng lắm mẹ mới quá giang người quen đi thăm anh. Vài lần mẹ đi không rồi về không vì không gặp con. Hình như những lúc đó anh bận những gì khác, không phải là bận chuyện sách đèn trường ốc. Nhưng khi mẹ hỏi, anh chỉ có thể trả lời là bận học cho an ổn mọi bề.

         Tình trạng cứ như vậy mà kéo dài cho đến hết niên học thứ tư là năm anh đỗ bằng cử nhân thương mại, ngành quản trị xí nghiệp. Lúc bấy giờ mẹ anh đã muốn trực tiếp can thiệp vào công việc của anh, điều mà từ lâu anh đã không bằng lòng. Cho nên chẳng những không về gần mẹ như mẹ muốn mà anh còn đi xa hơn, tới một tiểu bang khác, lấy cớ là có được một việc làm lương cao, giờ giấc không bị bó buộc nên thuận tiện cho việc tiếp tục học để lấy bằng cao hơn. Anh nhớ như in cái khắc giây ngay sau khi mẹ nghe anh tính toán như thế: lưng mẹ đang cong oằn trên cái bàn may máy, đầu mẹ cố ngẩng lên nhìn anh đang đứng cao lêu nghêu kế bên, miệng mẹ mở rộng mà không nói lên được tiếng nào. Anh thấy rõ đôi mắt mẹ đỏ lên sau đôi tròng kính lão, và hai hàng nước mắt. Jordan ơi, hai hàng nước mắt, hai hàng nước mắt của mẹ đêm hôm ấy, bây giờ là hai con trốt xoáy trong lòng anh mãi cho đến suốt đời.

         Vài ngày sau anh khăn gói đi nhận việc ở tiểu bang xa. Sáng hôm đó, trước giờ ra sân bay, mẹ còn cẩn thận nhắc anh nhớ đem theo các giấy tờ cần thiết và cái túi nhỏ mẹ để sẵn những thuốc men trị bịnh thông thường. Mẹ đứng ngay cửa tiễn anh đi. Anh đã bước qua khung cửa, chỉ kịp nói với mẹ: con đi. Vỏn vẹn hai chữ ấy. Và không có một cử chỉ thân yêu nào. Anh nghe tiếng khóc của mẹ sau lưng.

           Ði làm xa nhà, chi tiêu nhiều, đồng lương có cao nhưng anh có giữ lại được bao nhiêu đâu. Mẹ anh vẫn ngày ngày đi quét dọn mấy tòa biệt thự gần nhà, đêm đêm thức đến khuya lơ khuya lắt bên chiếc máy may, bên đống áo quần vải vóc. Một mình một bóng.

         Jordan ơi, một đồng lương của anh đã chưa nằm trong túi mẹ, cái bằng MBA anh chưa có trong tay mà anh đã vĩnh viễn mất đi người mẹ của anh rồi !

                                                

                                                                  xxXxx

              

                 Con trai yêu của má,

                

          Má không biết phải bắt đầu từ đâu và phải ăn nói thế nào để con còn có thể đọc tiếp lá thư nầy. Má nhớ mẹ con mình hơi khó chuyện trò với nhau vì má vốn ít học, ăn nói luộm thuộm, rầy trách không có căn cứ mà diễn tả lại không rõ ràng, nên ít khi mình đưa câu chuyện đến bờ đến bến; thường thì má đành yên lặng, tiếp tục việc may vá, còn con thì hoặc lớn tiếng với má bằng lý nầy lẽ nọ hay không nói gì hết, không nghe gì hết mà chỉ việc bỏ đi. Nghĩ cũng kỳ: mẹ muốn bàn chuyện với con mình mà phải chờ cơ hội, phải thế nầy, thế nọ, phải chuẩn bị kỹ lưỡng những lập luận, phải ăn nói tế nhị, mềm mỏng để không chạm tự ái con, phải biết tiến, biết thối... Cho nên có biết bao nhiêu chuyện má muốn nói với con mà nào có cơ hội, trong đó có chứng tức ngực thường xuyên từ vài năm nay của má, mà nếu có cơ hội liệu má nói với con được bao nhiêu và con nghe má được bao nhiêu. Trên cái xứ lạ quê người nầy chỉ có hai mẹ con mình là gần gũi nhất, mà không thường được chuyện trò vui vẻ với nhau thì chắc không có nỗi bi đát nào hơn phải không con? Ở những ngày tháng gần xa con vĩnh viễn như bây giờ má thấy má muốn nói với con vài điều, kẽo má không còn dịp nào nữa. Mà không nói với con được những điều nầy thì khi chết làm sao má nhắm mắt được hỡ con?

          Trước hết má muốn nói thật lớn với con rằng má yêu thương con lắm. Má cứ thắc mắc hoài điều nầy: Má đã có lỗi gì với con đến nỗi hình như con không còn thương yêu má nữa. Má cạn nghĩ ví dù cha mẹ có làm lỗi với các con chẳng lẽ không được con cái tha thứ hay sao? Ngược lại lỗi lầm của con lớn cách mấy mà con cho má biết má cũng tha thứ và tìm cách giúp đỡ con hoàn thiện. Má biết con cứ nghĩ là má chỉ thương anh chị con với đám cháu nội ngoại ở quê nhà nên má phải cật lực làm hai ba công việc để gởi tiền về. Người mẹ nào cũng yêu thương các con bằng nhau hết. Còn việc con cứ muốn sống xa má, muốn được tự do bay nhảy, tự do phung phí đồng tiền và tuổi trẻ, chứng tỏ rằng con quá ích kỹ, chỉ biết có mình, cả mẹ mình mà mình còn không nghĩ đến thì rồi đây con sẽ làm được gì cho người khác. Má dốt nát không biết cái bằng cử nhân, cao học của con nó lớn thế nào nhưng má biết trái tim con chưa đủ lớn để làm người, nhất là làm người con; cái tài quản trị xí nghiệp của con má không biết đã tuyệt vời đến đâu nhưng trong cái ý nghĩ nông cạn của má con chưa biết quản trị cuộc đời của chính con. Má ít học nhưng có một câu mà má còn nhớ nằm lòng, là : Có học phải có hạnh. Con có học, có bằng cấp nầy nọ, má có thấy mừng nhưng cũng thấy buồn: con đã không có cái hạnh, không có cái hiếu để, không có cái lòng vị tha. Mẹ mình càng ngày càng già cả bệnh tật, mà cứ làm lụng vất vả. Sao con không nghĩ một ngày nào đó người hàng xóm tình cờ khám phá thân xác má đã nguội lạnh từ lâu mà không ai biết sớm?

          Ðôi bàn tay của má ở gần mà con không chịu nắm thì nói gì đến việc nắm tay các anh, chị, các cháu của con ở quê nhà, hay nắm tay người khác.

          Linh hồn má sẽ hoài hoài cầu nguyện cho con để con sớm NÊN NGƯỜI.

         Má của con, người suốt đời thương yêu con.

 

                                                        xxXxx

 

         Jordan thương quí,

 

         Lá thư trên đây mẹ anh viết cho anh nhưng có lẽ người không muốn cho anh đọc nên đã để một chỗ rất khó thấy. Anh chỉ tìm được sau gần một tháng an táng mẹ.

         Em, đứa bé sáu tuổi, đã nắm thật chặt tay mẹ em trong cơn lốc dữ, vậy mà em, đứa bé sáu tuổi, cứ hối hận là để vuột tay mẹ và cứ ngày ngày đi tìm mẹ. Còn anh, tay mẹ cứ đưa ra, cứ chấp chới đưa ra cho đến cuối đời mà anh không chịu nắm lấy một lần!

 

 

TRẦN BANG THẠCH

Khởi đi từ cái ngày 30/4 ấy....

 

Người ngậm tăm suốt ngày

 

Không biết có nên gọi ông Lê là người ngậm tăm suốt ngày hay suốt đời. Thật sự thì quỹ thời gian của ông Lê gần cạn, cho nên ông có ngậm tăm suốt ngày, suốt tháng hay suốt đời không phải là điều cần quan tâm. Cái mà có người muốn biết là tại sao lúc nào gặp ông Lê là thấy cây tăm xĩa răng trên miệng, như là vật bất ly thân. Ăn xong buổi trưa, ông phóng cây tăm nằm giữa đôi môi thì có thể hiểu được; chớ cái việc sáng sớm uống xong một tách cà phê rồi điểm tâm bằng một que tăm thì ít thấy trên đời. Có người còn tỏ vẽ thắc mắc là sao ít nghe ông Lê nói chuyện. Câu hỏi lảng xẹt: Đã thấy cây tăm lúc nào cũng nằm chình ình giữa hai hàm răng thì bắt ông phải nói bằng hai cái lổ mũi à?

Tôi thì chẳng có một thắc mắc gì về cái mục ngậm tăm này của ông. Ông Lê lúc nhỏ còn có biệt danh là Lê Câm vì cái tánh ít nói, lớn lên lúc đi học ở Sài Gòn còn thêm tên Lê Cận vì đôi mục kỉnh dày như cục đường thốt lốt lúc nào cũng ngự trên đôi mắt. Chúng tôi là đôi bạn nhỏ ở Ba Chúc, Xà Tón thuộc vùng Bảy Núi, nơi được coi là đất Phật. Hầu hết gia đình ở vùng Xà Tón, sau còn gọi là Tri Tôn, theo đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nên người ta có đời sống như người cư sĩ, ít nói, ít bon chen, thuần hậu, chất phác, ăn mặc áo quần kín đáo màu nâu hay đen, đàn ông bới tóc như đàn bà, nhưng cái búi tóc thì nhỏ hơn. Người ta nói tóc tai cũng là của cha mẹ, không được phí phạm. Thời còn nhỏ khi chưa biết đọc, chúng tôi đã thuộc nằm lòng câu thơ của Đức Phật Thầy Tây An: "Loài cầm thú còn hay biết ổ, huống chi người nỡ bỏ Tứ Ân". Thuộc thì đứa trẻ nhỏ nào trong làng cũng thuộc, nhưng 4 cái Ân hầu như bọn trẻ chỉ biết có 1 là Ân Tổ Tiên,Cha Mẹ; còn 3 cái Ân khác như Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo và Ân Đồng Bào Nhân Loại, mà kẻ xuất gia gọi là Ân Đàn Na Thí Chủ thì lớn lên chúng tôi mới hiểu. Thời niên thiếu của ông Lê và tôi thì đa số thanh niên không còn bới tóc, nhưng đời sống vẫn còn ít nhiều khép kín. Có những người già lão cả đời chưa thấy cái đồng hồ trước nhà chợ Sài Gòn. Có lẽ vì Xà Tón, Ba Chúc nằm lọt thõm giữa một bên là các dãy Liên Hoa Sơn, Ngọa Long Sơn và Thiên Cấm Sơn hùng vĩ, ngăn che phần nào sự tiếp xúc của người Ba Chúc với các vùng lân cận, và một bên là cánh rừng bát ngát tiếp giáp với nước láng giềng Campuchia. Chen giữa những dãy núi là rừng gỗ quí, gỗ tạp, cỏ tranh và cây thốt lốt. Con đường liên tỉnh từ Châu Đốc đi Rạch Giá, Hà Tiên qua ngả Tri Tôn đã không sử dụng được từ khoảng đầu thập niên sáu mươi, một phần vì đường thấp, hay ngập lụt nên lồi lõm, khúc khuỷa, một phần vì có những đoạn đường thường bị đắp mô, phá cầu, cắt đường; cho nên những sinh hoạt ồ ạt của nền văn minh thị tứ cũng chậm tới vùng Lương Phi, Châu Lang, Ba Chúc...Đến những tháng ngày sau tháng Tư 75 thì vùng Xà Tón, đặc biệt là xã Ba Chúc có nhiều biến động làm thay đổi nếp sống an bần đạo hạnh của cư dân. Gia đình ai cũng có người đi tù vì mang tội ngụy quân ngụy quyền, có người vượt biên rồi mất tích. Nhiều gia đình có người thân từ Bắc hay từ vùng sâu trở về tạo nên những tranh chấp về chánh kiến, về đất đai, tài sản, có khi chồng vợ dỡ khóc dỡ cười sau mấy mươi năm ly biệt. Ở một nơi mà ai cũng thương nhau từ trong nhà ra ngõ, đến đầu làng cuối xóm, đã mấy trăm năm nay, bỗng nhiên sau một cuộc thương hải biến vi tang điền, người trong gia đình cũng tranh chấp nhau, thì Ba Chúc đã biến dạng quá nhiều. Biến cố lớn nhứt là cuộc tấn công của Khờ Me Đỏ Pôn Pốt năm 78 sát hại cả ngàn đồng bào Ba Chúc. Cả gia đình của ông Lê 9 người gồm cha mẹ và các anh chị em đã cùng chết thảm bên trong chùa Phi Lai. Trong tù ông Lê có nghe tin, chỉ biết từ xa, từ bên trong vòng rào kẽm gai, mà ngóng về. Ông đã uất ức khóc đến chảy máu mắt. Ở tù trở về năm 82, gã trung niên thất thế sa cơ, thất điên bát đảo và thất chí Trần Văn Lê như người mất trí. Ông vốn là người ít nói, nay ông càng âm thầm lặng lẽ hơn; nếu có mở miệng thì hình như ông chỉ nói với những bóng hình khuất mặt. Trước khi ông Lê cùng gia đình vượt biên bằng đường bộ qua ngả Cam Bốt giữa năm 83, tôi có gặp ông nhiều lần. Mãi đến đầu năm 94 khi tôi theo diện HO sang Mỹ tôi mới gặp lại ông. Ông vẫn ít nói như hồi nào.

"Tất cả là ác mộng. Là ác mộng, ông à."

"Tôi tưởng cả chục năm qua ông đã quên hết chuyện cũ"

"Có những chuyện muốn quên thì càng thêm nhớ".

"Thì cũng cố mà quên hết. Như một đoạn đời đã trôi qua"

"Ừ, một đoạn đời dù thảm khốc cách mấy thì cũng phải trôi qua; nhưng vẫn còn đó cả ngàn chiếc sọ người và còn đó bàn tay nhỏ vấy máu vẫn bám dính trên chưn tường chùa Phi Lai quê mình".

"Nhớ làm chi những chuyện ấy cho thêm mệt. Cuộc sống quá đỗi chóng mặt nơi đây chưa đủ làm ông ngất ngư sao?"

"Trái lại ông ạ. Rồi thì ông cũng sẽ như tôi. Muốn không nhớ cũng không được. Tôi vẫn nghe đâu đó quanh đây tiếng đọc kinh rầm rì của má tôi nơi bàn thông thiên trước sân mỗi buổi tối. Bên tai tôi vẫn có tiếng chó hoang tru đêm trên sườn núi Cấm. Nhớ những ngày gạo sấy, lương khô. Nhớ người bạn tù bỏ xác ngoài vòng kẽm gai trại Hàm Tân. Không ai nhắc mà sao cứ nhớ hoài một đất nước đã bỏ lại!".

"Ông làm tôi nhớ  chuyện xưa. Ngày xưa Việt Vương Câu Tiễn phải nằm gai, nếm mật, phải nếm phân kẻ thù, và phải nhờ thuộc tướng nhắc nhở hàng ngày để không quên cái hận vong quốc".

"Bây giờ thì ông đã thông rồi đó. Sự ra đi tức tưởi hôm nay chính là lời nhắc nhở hùng hồn nhứt trong lòng mỗi người ở đây đó ông à".

Trên mặt bàn nhỏ đặt phía sau nhà ông Lê đã đầy những lon bia không. Hôm ấy, lần đầu tiên gặp lại người bạn cũ sau nhiều năm, ông Lê đã nói nhiều hơn trước. Và ông chỉ nói nhiều đêm hôm ấy. Tôi thấy ông Lê đã không say vì bia rượu mà ông chếnh choáng vì chất men của một quá khứ não nùng. Rõ ràng một người mang tâm trạng của con chim quốc tha hương thì khó mà an vui cùng thiên hạ. Từ đó ông Lê càng ít nói hơn.

Sau đó tôi gặp ông Lê hàng ngày tại sở làm khi tôi được ông giới thiệu vào làm cùng công ty với ông. Nhờ đó tôi biết thêm nhiều điều đã khiến ông Lê suốt ngày ngậm tăm, ít nói.

Ông Lê suốt ngày ngậm tăm. Điều này thì ai cũng đã thấy từ lâu. Nhiều người cũng không hơi đâu mà để ý hay tỏ vẻ thắc mắc.  Làm việc với ông vài tháng là tôi biết rõ lý do ngậm tăm của người bạn mình. Chỗ chúng tôi làm là một hãng sản xuất và chế biến hàng trăm sản phẩm hóa chất dùng cho ngành nông nghiệp cung cấp cho nội địa và cho cả những nước khác. Công ty tọa lạc trên gần trăm mẫu đất nằm dọc Hải Cảng Houston. Trên bờ là cả trăm bồn chứa to cao như tòa nhà nhiều từng, là hàng trăm toa xe lửa và xe vận tải 18 bánh vận chuyển hàng hóa tới lui hàng ngày. Dưới bến sông lúc nào cũng có ít nhứt một chiếc tàu hàng to như dãy building trên mặt nước, đèn đuốc sáng choang, thủy thủ và người bốc dỡ hàng lên xuống tấp nập. Máy móc thì chỗ này, chỗ nọ ầm ì chạy suốt ngày đêm. Những người thợ chúng tôi mỗi người làm một chỗ, có chỗ nặng nề làm hai người, làm bằng tay chân với búa kềm bù loong mõ lết và bằng sự hiểu biết của mình, không cần thiết phải nói với nhau; khi rất cần thì liên lạc bằng điện thoại nội bộ. Là công nhân của hãng này từ hơn 20 năm nay, mỗi ngày 8 tiếng, có khi 12, hay 16 tiếng, có lúc ban ngày, có lúc ban đêm, làm bạn với những bồn chứa im lìm, những toa xe lửa lầm lì, những dàn máy ồn ào... có lẽ là một trong những nguyên nhân đã khiến ông Lê trở nên ít nói. Nói làm sao được với những khối sắt vô hồn vô tri nầy!

Về sau tôi thật là thích thú khi khám phá thêm một nguyên do khiến người bạn tôi ngậm tăm suốt ngày. Đó là việc cây tăm nhỏ xíu nằm thường trực trên môi bạn tôi chính là cái mộc che hữu hiệu để ông Lê không phải nghe hay phải nói nhiều với những xếp và những đồng nghiệp, cộng chung đến gần 30 người. Đó là những lúc đầu giờ, cuối giờ, hay lúc nghỉ giải lao và giờ ăn trưa tại phòng nghỉ công nhân, hay những khi gặp nhau tại trạm làm việc. Số là những người cai của chúng tôi từ Mỹ đen, Mỹ trắng, đến Mễ hay cả cai Việt Nam đa số là khó thương. Thật ra thì có ông cai nào mà dễ thương bao giờ, phải không? Còn các đồng nghiệp thì mỗi người mỗi vẻ, không vẻ nào giống vẻ nào và không vẻ nào là cần cho mình lê la, chuyện trò thân mật. Đó là ý nghĩ của ông bạn tôi. Tình cờ một hôm ông Lê đã tâm sự với tôi về chuyện này. Có lẽ bạn tôi vơ đũa cả nắm; nhưng nhìn kỷ vấn đề thì tôi thấy bạn tôi cũng có lý phần nào. Điểm chung của gần 30 người ở đây là thuộc thành phần cổ xanh "blue collar", chánh gốc lao động nên cử chỉ, tánh tình hay lời ăn tiếng nói cũng rất ư là bình dân lao động; câu nói thường có thói quen chen vào những tiếng tục tằn. Cũng lắm khi ông Lê tình cờ đi ngang nghe nhóm này cằn nhằn nhóm nọ, nghe người này nói chuyện người kia...Ông bạn Lê của tôi gốc người đất Phật Ba Chúc nói năng mềm mỏng, làm thầy giáo trước khi nhập ngũ, nên những tiếng chửi tục ít khi nào ông muốn nó lọt vào tai mình. Góp vào những câu chuyện thày lay như vậy thì đời nào ông muốn. Cho nên ông cứ ngậm cây tăm ngồi ở một góc phòng, hay đi về một lối khác. Người ta cũng nghĩ vì ông có cây tăm trong miệng nên không muốn tham gia chuyện vảng với họ chớ không phải vì "unfriendly". Trong sở cũng có chục người Việt, vài ba người có trình độ học vấn và hiểu biết cao. Những người này cũng ít khi nghe ông Lê thân mật trò chuyện. Điều này lúc đầu tôi cũng lấy làm thắc mắc. Nhưng nghe kỹ lại thì một lần nữa ông bạn Lê của tôi có lý. Một đồng nghiệp đã từng theo học ban Triết Đông với bạn tôi ở Văn Khoa thường giảng rất thông suốt về Đạo Phật, Đạo Cao Đài, Đạo Hòa Hảo, về các Đấng, về luật Nhân Quả, về Tu Thiền, vv...Anh nói say mê như một nhà đạo học, nhưng nếu thử đối chiếu lời nói với tánh khí của anh trong lúc làm việc với nhau hàng ngày thì sao thấy có điều không ổn. Bạn tôi thuật là một lần nghe anh hiền triết nói về Phật, về tu, về Niết Bàn, bạn tôi cũng lắng nghe, nhưng cuối cùng bạn tôi phải rút cây tăm ra khỏi miệng, nói:

"Làm được một phần ngàn những lẽ Đạo anh nói chắc không phải dễ. Tui thì chỉ dám học lõm bõm ba chữ Đạo Làm Người. Học hoài mà gần hết đời vẫn chưa thuộc nửa chữ!".

Còn một đồng nghiệp Việt Nam khác thì thường nói về chống cái nầy, tẩy chay cái nọ, về lập thuyết, lập đảng, lập phong trào, vv...Có lẽ những năm đầu bạn tôi còn cho một ít vào lỗ tai, nhưng hơn hai mươi năm nay cứ nghe hoài một điệp khúc thì lỗ tai bằng sáp cũng phải thấy mệt. Một anh bạn khác cứ đọc xong mục Thư Sài Gòn trên các báo với những chuyện như bia ôm ôm bi, bóng đá đá bóng là ồm ồm kể lại, nghe như nghe chuyện dài xe cán chó. Ông bạn khác thì luôn khoe là vừa có bà hai nhí ở Thủ Thừa nhân chuyến về quê hương năm ngoái:

"Tui nói tui 64 mà Bà hai nhí đâu có tin, nó cứ nói là tui xạo: Em biết anh mới có 46 hè. Còn xuân lắm. Em biết anh có vợ mà hổng hiểu sao em vẫn thương anh quá chừng chừng. Cưng ơi là cưng!!! Tsương quá là tsương!!!"

Những chuyện như vậy thì bạn tôi không muốn nghe và không muốn góp lời là phải.

Cho nên tại sở làm bạn tôi chủ yếu dùng cây tăm để ngậm tăm cả ngày. Vừa được việc, vừa không bị mang tiếng làm cao. Bạn tôi khôn thật!

Vậy còn ở nhà thì sao? Thì vẫn như vậy. Ngậm tăm cả ngày. Bạn tôi đã cắt nghĩa ngọn ngành cho tôi nghe về chuyện lạ khó tin nhưng có thật nầy. Khó tin vì ở, ăn, ngủ... chung nhà mà vợ chồng, con cái ít nói với nhau thì chẳng lẽ ai cũng chuyện trò với cái bàn, cái ghế sao? Số là như vầy: Bạn tôi vốn ít nói, còn bà vợ thì  sang đây học được cái bằng kế toán hai năm, làm việc bàn giấy ở một công ty nhiên liệu lớn, là một "white collar" nên có vẽ làm cao với người chồng lao động chân tay của mình, nên nói năng đã nhiều lại không được mềm mõng, và hay gắt gỏng với chồng. Bà tự do mua sắm hay tự ý gởi tiền bạc về cha mẹ anh em bên nhà. Ông Lê có góp ý đôi lần; mỗi lần như vậy thì sóng thêm to, gió thêm lớn trong nhà. Từ ngày ông Lê có cây tăm trong miệng thì sóng lặng, gió êm. Nhà cửa thoạt nhìn như một tổ ấm, nhìn lâu thì thấy tổ ong!!! Tương tự như chuyện hai thằng con. Con cái làm chuyện này chuyện nọ ông Lê thấy không được, bèn góp mấy lời. Đứa nào cũng nói: "Con lớn rồi, ba khỏi phải lo!". Nói chuyện với con cái mà ông già phải lựa ý, chọn lời! Rắc rối quá! Ông Lê nhớ lúc ông đã là một đại đội trưởng mà ba má ông còn lo lắng và dặn dò ông từ chuyện nhỏ, như đừng quên đem theo chai dầu Nhị Thiên Đường lúc đi hành quân, đến chuyện lớn là nên đối xử tử tế với dân, với nước. Nhứt nhứt ông đều nghe theo và vô cùng cảm ơn cha mẹ. Ông nói năm thằng lớn xong trung học, ông muốn nó học ngành thuốc, nó nói gọn hơ:

"Sao người Việt Nam nào cũng muốn con cái làm bác sĩ, dược sĩ, luật sư! Con không thích mấy cái nầy!".

Nó không thích làm bác sĩ nhưng bây giờ dù không thích nó vẫn phải vác đơn đi xin việc; không phải ngành Quản Trị Thương Mại như đã học thì làm người bán hàng ở Gallery Furniture "you save money"; làm được vài tháng lại vác đơn xin việc chỗ khác sau khi ăn hết tiền thất nghiệp. Còn thằng em thì theo bạn bè nhuộm hai ba màu tóc, lại còn dựng đứng như rể tre. Má thì cứ áp dụng chặt chẽ phương án 4 không mà dạy dỗ con cái: không nghe, không thấy, không biết và không nói. Nhưng ông già Xà Tón thì nhịn không được, bèn có mấy tiếng la rầy nhẹ nhàng. Thằng con bỏ đi nửa ngày rồi trở về nhà với cái đầu trọc Yul Bruner! Ông già mà nói thêm vài tiếng nữa không biết cái da đầu có bị nó lột luôn không. Cho ông già hay càm ràm tức chơi!

Từ nhà ra ngõ, không còn chỗ nào là chỗ của ông bạn tôi. Thật là thương cho ông, cây quất bị bứng từ nước Yên sang trồng bên nước Tần.

 

oOo

 

Có lẽ ông bạn tôi cũng không thích suốt ngày phải ngậm tăm đâu, nhưng dầu sao cây tăm cũng là vật thiết thân, là người đồng hành của ông bây giờ. Trốn đời chỉ bằng 1 cây tăm! Ông bạn tôi cao tay thiệt!

Cái khổ là thằng tôi đây. Chẳng lẽ tôi lại bắt chước bạn mà tìm tăm để ngậm suốt ngày?

 TRẦN BANG THẠCH

BÓNG TỐI NGỌT NGÀO

 

 

         Buổi chiều cuối tuần, bịnh viện thật vắng vẻ. Các băng đá trong sân bịnh viện cũng nằm ủ rủ dưới tàn cây. Trời vừa chớm thu. Lá chưa thật sự vàng nhưng người ta đã thấy vài chiếc lá chết rơi ơ hờ trên ghế đá.

          Những ngày cuối tuần bịnh nhân thường được thân nhân đưa về nhà để đoàn tụ với con cháu. Mấy tháng đầu khi mới đưa vợ vào đây, ông Kim cũng rước bà Kim về nhà hai ngày cuối tuần. Nhưng từ hơn ba tháng nay bà Kim không chịu về nhà. Bà không nói lý do gì hết, bà chỉ không chịu bước lên xe. Nài nỉ cách mấy thì bà cũng chỉ mỉm cười, làm thinh, ngó về hướng khác.

         Ông Kim chú ý từ vài tháng nay vợ mình thích ra nơi công viên hơn là nằm trong căn phòng bịnh viện. Tại công viên bà Kim hầu như quên hẳn người chồng đang ở bên cạnh; bà còn có vẻ như không thích có ai ở gần để bà thong thả đi từ gốc cây nầy qua bồn hoa khác, lượm hòn sỏi này, nhặt chiếc lá kia. Có lẽ những chú sóc con trên cành cây hay những con chim sáo đậu trên các thành dựa ghế đá làm bà Kim thích thú nhất. Bà rón rén đến gần, nhỏ nhẹ nói chuyện với từng con. Chúng bay chuyền trước mắt bà như mời bà cùng chơi trò cút bắt. Có con chim vụt bay mất khi nghe tiếng chân bà từ xa khiến bà ngồi buồn trên ghế đá. Những khi ấy thì tốt hơn hết là ông Kim nên đứng xa mà nhìn niềm vui lẫn nỗi buồn của vợ mình.

         Hôm qua bà Tâm nói với ông Kim là chiều nay bà sẽ ghé bịnh viện. Đây không phải là lần đầu. Bà Tâm vẫn thỉnh thoảng ghé thăm vợ ông tại bịnh viện. Nhưng hôm nay thì tình cảnh hình như có cái gì khác. Hồi sáng, trên giường bịnh, bà Kim bỗng nắm tay ông Kim nói: "Bỗng nhiên em muốn anh trở thành một con chim đi tìm một cành cây khác". Ông Kim chưa kịp suy nghĩ hay có một phản ứng nào thì bà Kim đã nói chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào chẳng ra chuyện nào hết. Bà đã trở lại trạng thái nửa tỉnh nửa mê mất rồi. Vợ ông đã nghĩ gì trong một giây tỉnh thức để phát ra những lời nhắn gởi ấy? Ông Kim gọi điện thoại bảo bà Tâm đừng đến bịnh viện hôm nay. Ông không nói là vì lý do gì. Thật sự thì ông cũng không chắc những gì ông đang nghĩ.

         – Ông nầy kỳ há. Tuần rồi em đã không đến được thì hôm nay phải đến chứ. Lâu không gặp cũng thấy nhớ, không biết nó xanh xao vàng võ đến cỡ nào. Phải làm mấy món ăn chơi cho con nhỏ nữa, kẽo nó thèm mà ốm o gầy mòn.

         Bà Tâm vẫn hay chuyện trò thân mật như vậy, nhất là đối với bà Kim, người bạn gái mang tên Hồng rất thân từ thời trung học.

         Ý muốn của bà Tâm nghe thật đơn giản nhưng hôm nay biết đâu sẽ có nhiều phức tạp. Đi tìm một cành cây khác? Vợ ông đã nghĩ tới điều gì đây? Bà đã biết hết những gì đang reo âm ĩ trong lòng ông? Tự dưng ông Kim ước ao trên đời nầy không có người đàn bà tên Tâm ấy; hay nếu có thì chỉ là người xa lạ với gia đình ông. Đàng nầy tự nhiên dòng đời đưa đẩy để hai người đàn bà ông yêu cùng có mặt trong đời ông ở cái buổi chiều xế bóng này; lại đang lúc vợ ông đau yếu.

         Đầu óc ông Kim bây giờ sao quá rối bời. Cả tháng nay cuồn chỉ rối trong đầu óc ông càng ngày càng rối. Nhiều chuyện để suy nghĩ quá. Hết điều nọ xọ điều kia. Ông suy nghĩ rồi quyết định. Quyết định rồi thay đổi. Bà Kim đang ngồi đó, trên chiếc băng đá dưới gốc cây sồi có tàn lá rộng như cái dù giương trên cao. Chắc chắn vợ ông không giúp gì được cho ông rồi, bài toán khó quá. Một chút nữa đây bà Tâm sẽ đến. Ông Kim biết rõ tánh ý bà Tâm từ mấy mươi năm trước, khi hai người là đôi bạn nhỏ rồi khi lớn lên hai người yêu nhau. Mấy mươi năm sau gặp lại, người tình năm xưa vẫn dịu dàng, mềm mỏng, tánh tình đơn sơ, mộc mạc, hết lòng hết dạ đối với người quen kẻ thân. Dường như tánh tình người đàn bà ấy cả đời cũng chẳng có một chút thay đổi nào. Còn ông, con đường sắp tới sẽ đưa ông đi về đâu? Bài toán khó nầy chỉ một mình ông là tìm ra đáp số, không ai khác, càng không thể từ hai người đàn bà đang có mặt trong đời ông. Từ dãy hành lang bịnh viện, ông Kim ngó ra phía cổng. Bãi đậu xe cũng thưa thớt. Ông không chờ nhưng mắt vẫn trông về hướng cổng. Chắc cũng đã gần đến giờ người đàn bà ông không mong sẽ đến.

         Ở xa xa, bên cánh trái hành lang, trong bộ áo choàng trắng bà Kim ngồi đó như một gốc cây trơ trụi xám ngắt, chỉ có đôi chân quơ qua quơ lại trên mặt đất như đang vẽ tranh, đôi tay thì khoanh tròn trước ngực. Mấy chú sóc, chú chim đi đâu hết rồi. Từ xa, ông Kim không thấy được đôi mắt vợ mình đang nhắm hay đang mở, thường thì bà nhắm mắt. Những khi tỉnh táo bà than phiền với ông là nhiều khi bà thấy đầu óc bà tối mò, dù có mở mắt cũng không biết mình đang thấy cái gì, tốt nhất là nhắm mắt cho thoải mái. Với đôi mắt nhắm và chỉ có đôi chân di động tới, lui, lòng vòng trên mặt đất quanh chỗ ngồi là bà có thể đi thật lâu, thật xa. Bà không nói bà đi những đâu và tưởng nghĩ những gì. Dù có gạn hỏi thì bà cũng không biết trả lời ra sao, nhiều lắm là chỉ ậm ậm ừ ừ rồi tâm thần trở lại trạng thái ngu ngơ trong cái xác không hồn. Từ hơn năm nay bịnh lảng trí của bà Kim trở nặng, lúc tỉnh lúc mê. Bà Kim như đứa trẻ, lúc nhớ, lúc quên; mới chuyện trò thân mật với chồng rồi ngay sau đó bà chuyển câu chuyện sang một đề tài hoàn toàn khác, không dính líu gì đến ông chồng đang đi bên cạnh, bà cũng không biết người đang nắm tay mình là ai. Ông Kim trách cơn bịnh ngặt tới với bà Kim quá sớm. Ở tuổi sáu mươi bà Kim bỗng nhiên bị mất hết tất cả sáu mươi năm sống đã qua và phần đời còn lại bà sống từng ngày trong cái chết. Những con, những cháu bà thương biết bao vậy mà lắm khi bà có nhận ra đứa nào đâu. Vò đầu thằng cháu ngoại mà cứ hỏi nó là con ai. Nhiều khi thấy vợ ngồi khóc ngon lành trên ghế đá mà ông không hiểu vì lý do gì; cứ làm ngơ để bà sống trong thế giới của mình.

         Nghĩ tới vợ rồi ông Kim bỗng nghĩ tới mình. Ông muốn quên tất cả những gì đã xảy ra cho ông từ hơn một năm qua. Ông muốn mọi chuyện tan biến hết để tình cảm của ông không có một chút nào thay đổi. Dự báo thời tiết nói cơn bão đang ở ngoài khơi Vùng Vịnh, đêm nay sẽ có cơn mưa to. Gió bây giờ thổi mạnh hơn. Trong ánh sáng của mấy ngọn đèn trong sân, ông Kim thấy mái tóc dài buông xõa của vợ mình bay theo chiều gió. Gió, gió hãy cuốn đi chuyện tình cũ bỗng trở lại từ năm qua. Chuyện tình ơi, hãy như là những xác lá khô nằm yên đâu đó trong vuông vườn cổ tích, hay là những thân lá ép kỷ niệm học trò trong tập lưu bút ngày xanh. Tâm, tại sao mình gặp lại làm chi để cả ba người chúng mình rơi vào một tình cảnh éo le?  Thế giới rộng lớn quá mà, sao mình còn gặp lại trên mảnh đất xa xôi nầy làm chi? Từ bao năm nay, cuộc tình đã có nơi trú ngụ trong mỗi góc đời của mình rồi mà. Em thì vẫn như hồi nào, từ hơn bốn mươi năm nay vẫn ôm ấp một tình yêu đã mất, một mình mình biết, một mình mình hay. Nghĩ mà thương em hết sức. Tôi thì đang dật dờ giữa mộng và thực. Gần cuối đời rồi mà sao tôi còn đi dây giữa tình nghĩa vợ chồng và mối tình vừa trở lại. Từ ngày rời xa em, hơn bốn mươi năm nay có khi nào mà tôi không tưởng nghĩ đến em. Gặp lại em tôi như đứa bé vừa tìm lại món đồ chơi thân yêu bị đánh mất. Tôi không biết hiện tại tôi đang yêu em hay yêu một mối tình của thời mới lớn. Hay là tôi đang tiếc thương từng giọt máu ứa ra từ trái tim thương tật của em hơn bốn mươi năm trước, khi tôi vội vã bỏ đi? Tôi biết tôi không là người tình tốt của em và không còn là người chồng chung thủy với vợ, tôi đang nhẫn tâm cứa những vết dao trên tâm thức bịnh hoạn của người đã sống với tôi hơn ba mươi năm nay.

         Trong tôi bây giờ sao có quá nhiều tiếng gọi. Và tôi không tìm được một tiếng trả lời!

         Một chiếc xe đang tiến vào cổng bịnh viện. Trời nhá nhem tối nhưng ông Kim cũng biết đó là xe của bà Tâm. Ông rời hành lang tới chỗ bà Tâm đậu xe. Đằng kia bà Kim vẫn khoanh tay ngồi trên băng đá, chân vẽ hình trên đất, mái tóc của bà bây giờ bao phủ cả mặt, làm thành một vũng đen trên màu áo trắng bệt. Một luồng gió làm mái tóc bà Kim bay ngược về phía sau, làm thành một dòng sông đêm. Dòng sông uốn lượn như sóng tràn bờ.

         – Em từ nhà anh đến đây. Mâm cơm tối đã sẵn ở nhà. Chốc nữa anh về ăn một mình nhé. Em dùng rồi.

         – Cảm ơn em. Nhọc nhằn em quá.

         – Em có làm cả chút sương sa cho Hồng, ăn cho mát. Lại có cả món canh bầu mà Hồng rất thích. Em đến thăm Hồng đây. Gặp anh sau.

         Bà Tâm đi về phía bà Kim. Ông Kim trở vào hành lang bịnh viện. Ông không muốn nghe hai người đàn bà ông yêu sắp nói những gì. Có thể họ không nói gì hết về cuộc tình tay ba nầy vì vợ ông thì chắc không nói gì sau khi đã xa xôi, bóng gió nhắn gởi mấy lời cần thiết với chồng mình; còn bà Tâm thì cứ vô tư như đang sống trong mối tình đơn phương mà bà đã đeo mang từ khi ông Kim bỗng rời xa thành phố. Khi mới gặp lại nhau sau mấy mươi năm xa cách, bà Tâm không ngại ngần gì mà không thố lộ tâm trạng mình khi vợ chồng ông Kim hỏi về gia cảnh của mình:

         – Thì vẫn một thân, một bóng. Sống như vậy cũng hạnh phúc chán!

         Hơn một năm trước đây, khi gặp lại vợ chồng ông Kim, bà Tâm reo vui như con nít. Rồi họ tới lui, thăm viếng nhau hàng tuần. Những kỷ niệm cũ làm họ thân thiết như người một gia đình. Khi biết bịnh tình mình trở nặng phải thường xuyên vào bịnh viện, bà Kim nhờ bà Tâm tới lui lo cơm nước cho chồng mình và chăm lo nhà cửa. Có lần hai người bạn gái nói đùa với nhau:

         – Ê Tâm, mi đơn thân độc mã, sao không về đây mà ở cho vui. Thấy mi lo lắng cho tụi tao cả năm nay mà bắt thương.

         – Tao không làm thí công cho mi hoài đâu. Tao lo là lo cho con bịnh của mi và lo cho ông chồng già lão tội nghiệp của mi đấy. Dại gì mà làm "nanny" thường trực. Phải trả công bội hậu đấy nhé.

         – Thì trả công bằng cái ông Kim già nua ấy, chịu không?

         – Có mà thèm vào!

         Rồi hai người bạn cười ngất như thời trẻ tuổi. Ông Kim cũng thấy vui lây.

 

         Anh yêu dấu,

         Em biết phải nói làm sao để anh tin những lời nầy? Nghe em nói đi anh. Em đang rất là tỉnh trí. Người bác sĩ vừa ra khỏi phòng với ánh mắt đăm chiêu, dường như ông muốn nói với em điều gì. Cô y tá vừa chích cho em mũi thuốc an thần. Em đang rất tỉnh. Em phải nói chuyện với anh trước khi một giấc ngủ dài có thể đưa em đi thật xa. Đi xa anh mãi mãi. Không xa hôm nay thì cũng ngày mai, ngày mốt, ngày kia. Không lâu lắm đâu anh.

         Như anh biết đó, em vẫn hay nhắm mắt để sống cùng bóng tối. Trước hết bóng tối là của em, em muốn sống trong bóng tối của mình lúc nào cũng được, không phải đợi đến đêm về.  Nhắm mắt lại là em sống với con hẻm nhỏ ở khu cư xá Chí Hòa, nghe tiếng bánh sắt ngọt ngào nghiến trên đường rầy và nghe hoài thành ghiền tiếng còi tàu mỗi sáng mỗi chiều để nghĩ tới những chuyến đi xa. Nhắm mắt là em thấy anh, người gia sư quần xanh áo trắng, mỗi chiều dựng chiếc mobilette nơi hàng ba nhà em, rồi bên kia chiếc bàn học, anh ngồi đối diện với em, em thấy trên đôi tròng kính cận dày mo của anh có đôi mắt em đang nhìn anh giữa những sin, những cos, những phương trình của bài đại số. Bóng tối có khi cũng cho em thấy lại những phút sống muộn phiền khi em tình cờ thấy anh tay trong tay với người ta trên hè phố Lê Lợi. Có một điều em cần nói với anh đây. Anh vẫn đang nghe em phải không anh? Bóng tối nhiều khi rất ngọt ngào, thơm tho, đầm ấm và vô cùng hạnh phúc anh ơi. Đó là khi bóng tối phả vào khắp cả châu thân em, luồn vào từng mạch máu em hơi thở người chồng bên cạnh. Hơi thở của anh đó. Nhắm mắt để được sống bên anh hằng phút, hằng giờ. Anh đi đâu, anh nghĩ gì thì khi nhắm mắt em vẫn có anh bên cạnh. Không ai chia sẻ được điều nầy với em đâu anh ạ. Từ lâu em biết anh không quên mối tình cũ. Bốn mươi năm tình cũ của anh làm sao có mặt được trong bóng tối của em khi em nghĩ về người chồng thương yêu của mình. Không gian, thời gian và con người chẳng làm gì chi phối được bóng tối của em. Bóng tối của em chỉ có một mình em là bạn. Em chơi với nó. Em sống yên vui, nồng nàn với nó.

         Như vậy thì, anh yêu quí, ba mươi năm qua em vẫn hay nhắm mắt để sống cho mình. Em ích kỷ quá phải không anh? Em biết ngần ấy năm sống bên em mà tình cảm anh trôi về hướng khác; có khi rất mịt mù, xa lắc, xa lơ. Biết vậy mà em vẫn như người vô tâm, không một lần cố gắng nào để vun phân, tưới nước cho cây tình nghĩa vợ chồng mình. Chưa một lần làm người trồng bonsai chuyên nghiệp hướng dẫn những lá cành để cây bonsai tình yêu trở nên tươi tốt trong căn nhà êm ấm của chúng ta. Anh thì vẫn sống ba mươi năm tội nghiệp bên em và hơn bốn mươi năm âm thầm, ngậm ngùi tiếc thương mối tình đã mất. Còn em thì dè sẻn từng chút bóng tối để sống thênh thang hạnh phúc với hơi thở ngọt ngào của anh.

         Bóng tối rồi sẽ tàn. Một ngày nào cái nhắm mắt cuối cùng của đời em sẽ tới, sẽ vùi trong huyệt mộ. Người ta giấu dĩ vãng trong cái chết; còn em thì sống thế giới ngọt ngào của mình, sống hoài cái hạnh phúc của riêng mình dưới những đêm sâu.  Ngày rồi sẽ lên. Ngày lên để ánh dương rực rỡ chiếu sáng một mối tình, làm cho nó hồi sinh sau bốn mươi năm nằm ngủ trong giấc mơ dài. Anh, anh hãy đón lấy ánh sáng ấy và sống lại một thời đã mất.

         Em không vĩnh biệt anh mà vĩnh biệt sáu mươi năm ánh sáng của em, ngay từ bây giờ. Thưa anh, anh yêu dấu.

TRẦN BANG THẠCH

Chuyện thời chiến

trên một đất nước hòa bình

 

 

1. CHUYỆN NGƯỜI CẦU THỦ BIẾT THƯƠNG YÊU TỰ DO

 

Tiếp theo phát súng lục khô khan của người sĩ quan chỉ huy, hai mươi tám quan tài đã cùng lúc được hạ xuống lòng huyệt trong tiếng nổ đì đùng của 21 phát đại bác. Sau chỉ hơn một tiếng đồng hồ thì buổi lễ chấm dứt. Những tiếng kèn đồng cuối cùng như cố bay vất vưởng trong lớp sương chiều, rồi khoắc khoải đọng lại trên từng mộ bia, từng ngọn thông bao quanh khu nghĩa trang.  Đời người chỉ có vậy thôi sao? Đến cũng nhanh mà đi thì càng nhanh hơn nữa. Mà cũng đơn giản hơn nhiều. Màu cờ trên quan tài. Những tấm huy chương. Hai hàng quân. Những người thân xung quanh. Bài ca tử sĩ. Tiếng kèn đồng ai oán. Sau đó là bình thường. Mọi người, mọi vật trở lại bình thường. Súng vẫn nổ từ ngàn dặm xa. Tại đây, bên ngoài rào, từng dòng xe cộ vẫn hối hả ngược xuôi như mọi ngày. Ở góc đường đối diện khu nghĩa trang, anh chàng cựu quân nhân homeless vẫn đứng đó, không nói một lời, vẫn mang trước ngực tấm bảng: "Why lie? I need some beer!" như mọi ngày. Rồi ngày mai, ngày mốt, ngày kia... cảnh tượng tương tự sẽ xảy ra trên vuông đất bên trong vòng rào này. Đội quân dàn chào thì vẫn những khuôn mặt ấy, nhưng nằm yên trong quan tài thì mỗi ngày có  những khuôn mặt khác. Hàng ngàn huy chương vẫn được ngày đêm sản xuất đủ để theo người chết xuống huyệt cùng với tiếng kèn đồng nức nở. Chỉ có người ra đi là đi mãi, đi mãi, đi không về.

 

Ông Rogers rời nghĩa trang. Ông không muốn cùng đi xe chung với những người thân về nhà. Ông đi bộ về hướng cánh rừng phong cuối nghĩa trang. Có tiếng cú rút đâu đó trong trời chiều. Mùa thu. Lá phong vàng như nghệ. Rừng phong như giải lụa vàng óng ả phơi trên nền trời. Ông Rogers thì thấy lòng mình tím ngắt. Người em út của ông vừa bỏ ông mà đi. Bây giờ ông Rogers vẫn không tin đó là sự thật. Người nằm trong quan tài ấy phải là một người nào khác, không thể nào là thằng Ken được. Giữa cái mênh mông của vùng trời vàng nghệ và cái góc tâm tư tím như than của mình, ông Rogers thấy mình trôi trong màu đen đặc sệt cùng với thân hình cao lớn, vạm vỡ của Ken trên các cầu trường khắp nước Mỹ. Đội bóng bầu dục tỉnh nhà đã hai lần vô địch toàn quốc phần lớn là do công trạng của Ken, người được gọi là "the best wide receiver" suốt ba mùa bóng. Cho đến đầu năm 2004 thì Ken biến mất trên cầu trường, lúc người đại diện đang tiến hành thủ tục ký bản hợp đồng cho 5 năm tới với số tiền khổng lồ kỷ lục. Ông Rogers như còn thấy trước mắt buổi sáng đầu năm Ken đến thăm ông và báo tin sẽ lên đường đi Afganistan ngày mai. Tin đến với ông thật nhanh và thật gọn. Đơn giản như cử chỉ và lời nói của Ken hôm ấy:

"Đời đã đãi ngộ em nhiều lắm rồi. Hơn ba mươi năm. Đã đủ. Nhưng biết bao nhiêu người vẫn còn thiếu. Thiếu nhiều thứ lắm. Cái thiếu lớn nhứt là Tự Do".

"Tự Do? Hình như anh nghe em nói tiếng này lần đầu?"

"Khi đã mặc nhiên có được Tự Do thì không ai khát khao, càng không quan tâm".

"Nhưng mà em sẽ làm được gì cho cái gọi là Tự Do của hàng triệu người ở một nơi xa xăm ấy?"

"Có lẽ em sẽ không một sớm một chiều đem Tự Do cho họ, dù chỉ một chút xíu, dù cho chỉ một, hai người. Có lẽ em cũng chưa làm được điều gì trước giờ phút xuôi tay".

"Vậy thì cái giá em phải trả cho một chút Tự Do không chắc chắn đó, có quá cao không, khi em bỏ hết danh vọng trên cầu trường, bỏ hết tiền bạc, có khi bỏ cả mạng mình và..."

"Em xin phép ngắt lời anh. Dạ thưa anh, Tự Do là vô giá. Không thể so sánh với bất cứ cái gì trên đời này, kể cả cái mạng nhỏ nhoi của mình".

"Vậy thì em có thể chờ cho đến khi giải nghệ, hay cho đến cuối mùa bóng này?"

"Hàng triệu người đàn bà Afgan đã bị đối xử tàn tệ, bất bình đẳng từ mấy chục năm nay. Tai, mắt họ đã bị che kín từ bấy lâu nay. Chữ nghĩa cũng không đến được với họ. Hôm qua 2 em bé Afgan chưa quá 12 tuổi bị bọn Taliban treo trên cây, đầu trút xuống. Những người bịt mặt, bịt mũi, tay dao, tay súng la hét buộc hai em bé phải nhận tội làm gián điệp. Những em bé này chắc chắn không thể chờ thêm, dù chỉ một giờ, để có người đến giải cứu. Rồi ngày mai, em biết chắc sẽ có vài em bé khác, vài người vô tội khác sẽ là nạn nhân của tội ác."

"Anh không hiểu tại sao em tự buộc mình phải là người đi giải cứu."

"Không ai buộc em hết, kể cả chính mình. Chỉ có lương tâm nó buộc mình."

"Vậy thì mình còn cần phải tìm hiểu cái gía trị đích thực của cuộc chiến mà mình sắp bước vào nữa chứ."

"Cái giá trị đích thực bây giờ không phải là lý thuyết suông về cái lý của cuộc chiến, mà là nhìn. Là nhìn. Nhìn hàng ngàn anh em mình đang ra mặt trận, đang hy sinh cho lý tưởng Tự Do, cho mục đích giải phóng con người ra khỏi chỗ âm u, đen tối. Nhìn những người dân vô tội ở bất cứ đâu, ở Afganistan, ở Iraq...đang là nạn nhân của tội ác. Đứng xa mà nhìn thì cũng không được, anh ạ. Chẳng có ích gì hết."

 

Sáng hôm sau ông Rogers ra sân bay tiễn Ken lên đường. Đó là buổi sáng của hai năm trước. Còn buổi chiều hôm nay thì thân xác Ken mấy phút trước đây đã vùi sâu dưới ba thước đất cùng với hàng chục chiếc huy chương trên ngực áo. Cả nước thương tiếc một cầu thủ xuất sắc đã sớm bỏ cầu trường, bỏ tiền tài, danh vọng đi đến một đất nước xa xôi rồi chết đột ngột ở đó. Nhưng ông Rogers, sau những phút giây xúc động, đã chợt hiểu em mình. Ông biết Ken trước khi bị trúng đạn đã hướng dẩn trung đội của mình giải cứu hàng chục phụ nữ cùng với các con nhỏ thoát khỏi một nhà giam của Taliban trong vùng núi sâu. Và còn biết bao chiến công khác nữa trong suốt hai năm dài chiến đấu không ngừng nghỉ. Ông biết Ken là một chiến sĩ của Tự Do và đã chết vì hai chữ Tự Do. Bây giờ thì ông Rogers thấy lung linh bóng dáng vạm vỡ của em mình như cánh đại bàng bay phất phới theo màu cờ xanh trắng, giữa màu vàng rực rỡ của rừng phong. Ken bây giờ to lớn gấp bội anh chàng The Best Wide Receiver trên sân đấu năm nào.

Rừng phong đang ung dung thả những chiếc lá vàng xuống đất để đất thành phân và phân làm xanh thêm cây lá.

 

Ông Rogers quay trở lại nghĩa trang. Ông đứng nghiêm, mắt hướng về lá quốc kỳ đang buông rũ trên cột cờ, rồi nghiêng mình trước hàng trăm mộ bia tử sĩ đang nằm yên nghỉ dưới sương chiều.

 

2. QUÀ SINH NHẬT

 

Ngay sau khi đứa cháu ngoại 22 tuổi giả từ ông theo đoàn quân lên đường sang Iraq, ông Frank quyết định bỏ hết để xuôi nam; bỏ hết mọi thứ trong căn nhà to rộng trên đường West 79, đối diện với Riverside Park, bên dòng Hudson, thành phố Nữu Ước . Ông chỉ mang theo mấy bức ảnh. Đây là những bức ảnh vô cùng quý giá đối với ông. Những bức ảnh cuối cùng của những người thân nhất đời ông. Trong khung ảnh, vợ ông  trong chiếc áo len màu đỏ thắm, ngồi tươi cười sau bàn làm việc trên tầng lầu thứ 42 của tòa  nhà Thương Mại Thế Giới phía nam. Trong khung ảnh khác, con gái và con rễ ông chụp ngay trước bồn nước phun bên cánh trái, trong khung viên Ngũ Giác Đài, ngay phía trước văn phòng làm việc của hai người. Hai bức ảnh chụp trước tai nạn thảm khốc 11 tháng 9 chỉ có vài ngày. Còn bức ảnh thứ ba chụp hai người lính là thằng con thứ tư của ông đang đứng bên cạnh Chú Út của nó khi hai chú cháu gặp nhau tại thị trấn al-Hillah, bên cạnh di tích thành Babylon. Bức ảnh này ông có được chỉ sau khi cả chú em và thằng con bị thiệt mạng cách nhau ba ngày trong hai trận đánh khác nhau tại chiến trường Iraq.

Những người thân yêu đó đã từ ngôi nhà này, từ đại gia đình này vĩnh viễn ra đi, để lại cho ngôi nhà một sự trống vắng thật đáng ghê sợ. Họ đã đột ngột ra đi không kịp nói với ông một lời nào, họ để lại cho ông những khung ảnh này và một nỗi đớn đau vô cùng to lớn, không cách nào hàn gắn lại được.

Ông Frank còn nhớ hôm đó tiệc sinh nhật thứ 60 của vợ ông chấm dứt lúc gần nửa đêm. Sáng hôm sau ông Frank còn mõi mệt nên ở nhà. Vợ ông một mình đến công ty định giải quyết vài công việc khẩn cấp rồi trở về cùng ông hôm sau đi Boston nghỉ mát một tuần. Hôm đó là ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cũng là ngày bà Betty Frank vùi thân trong đống gạch vụn của tòa cao ốc phía nam. Còn bức ảnh của con gái và anh con rễ là bức ảnh duy nhất của họ chụp tại sở làm sau hai mươi năm vợ chồng cùng đến đây làm việc mỗi ngày. Họ chụp bức ảnh để làm kỷ niệm trước khi về hưu vào ngày 12 tháng 9 để cùng đi Boston với ông bà Frank. Ngày định mệnh 11 tháng 9 đã đến trước mọi dự định của ông bà Frank, của con gái và con rễ và của hơn ba ngàn người thiệt mạng hôm đó tại hai toà cao ốc của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới và tại một gốc của Ngũ Giác Đài.

Từ ngày vợ, con gái và rễ tử nạn ngày 11 tháng 9, rồi con trai và chú em tiếp tục bỏ ông mà đi vĩnh viễn, ông Frank gượng sống với thằng cháu ngoại côi cút tên Wayman lúc đó đang học trung học. Ông Frank đã ít nói mà thằng Wayman thì tối ngày chỉ lặng câm. Ông Frank không còn muốn làm ăn gì nữa. Một mái ấm gia đình bỗng tan tác chỉ trong một ngày thì tiền của, tài sản còn đó để mà làm gì. Cuộc đời ông cũng chẳng còn có một ý nghĩa nào. Ông Frank đã bán toàn bộ cổ phần của ông trong đại công ty tài chánh do ông bà thành lập từ gần bốn mươi năm nay. Các bất động sản trãi dài suốt vùng Đông Bắc ông Frank cũng bán hết. Phần lớn số tiền ông đóng góp vào quỹ cứu trợ 11 tháng 9. Ông chỉ còn giữ lại một chút rất ít để sống những ngày tàn.

Khi thằng cháu ngoại Wayman tham gia quân đội ngay sau khi tốt nghiệp đại học, ông không muốn phải mất thêm một người thân yêu nữa trong cùng căn nhà rộng mênh mông này. Ông quyết định bán hết nhà cửa tại New York, trở về trang trại của gia tộc ông trong vùng Victoria, phía nam thành phố Houston, Texas. Gần một năm nay ông Frank sống ở đây một mình. Căn nhà nhỏ nằm trên ngọn đồi thấp, giữa cánh đồng cỏ bao la bao quanh bởi hàng rào gỗ sơn trắng. Ngày ngày người cựu tỉ phú cô đơn gần bảy mươi tuổi lúc thì lái máy cày xới đất, khi thì lái máy cắt cỏ, lúc thì vui chơi với đàn bò và mấy chú dê con. Ông Frank sống với những tiện nghi cần thiết tối thiểu. Không TV, không radio, không điện thoại. Ông bỏ ngoài tai tất cả tin tức thời sự. Chính trị, quân sự, kinh tế, thị trường chứng khoán...là điều ông Frank không còn muốn quan tâm nữa. Có lẽ trong vài năm qua gia đình ông có nhiều cái chết đến đột ngột, nên lúc nào ông Frank cũng nghĩ tới điều bất hạnh cho đứa cháu ngoại của mình. Ông sợ phải nghe những tin xấu từ một chiến trường xa lắc, nơi đó thằng cháu ngoại thương yêu của ông đang phải đối diện hàng ngày với muôn điều bất trắc. Lâu lâu cô con gái út có về thăm ông đôi ba ngày. Cô biết ý cha nên chẳng nói, chẳng bàn bạc gì về thằng cháu. Hôm nay cô biết nó an lành, nhưng cô đâu biết những gì xãy ra cho nó ngày mai. Nhìn thấy cha mình đang sống từng ngày với nỗi lòng khoắc khoải, lo âu cô cũng thấy đau lòng. Nỗi buồn, nỗi lo càng ngày càng đè nặng khiến thân xác ông thêm còm cõi. Thằng Wayman vẫn thường gởi thư về ông ngoại, nhưng ông ngoại vẫn không an tâm, vẫn nghĩ tới những điều ngược lại với những dòng chữ trong thư.

 

 

Cho tới một ngày ông Frank gặp phải một sự thật vô cùng bất ngờ.

Hôm đó là ngày sinh nhật của ông Frank. Ông Frank có nhớ, nhưng ông không làm gì hết để đón mừng ngày sinh thứ bảy mươi của mình. Ông nghĩ mình còn sống đây là chỉ để tiếp nối nỗi buồn từ năm năm trước và để chờ một tin buồn khác bay về từ một vùng trời xa. Cho nên chiều hôm đó ông Frank uống gấp đôi phần rượu vang ông thường uống mỗi ngày trong bữa ăn tối. Ông muốn chóng ngủ để quên một tuổi đời ông không chờ không đợi. Từ phòng ăn, ông Frank đi lần ra cửa trước. Vừa định khép và khóa cửa thì cô con gái ông đã có mặt ở đó từ hồi nào cùng với mấy chục người là những bà con ở xa và những láng giềng gần. Rồi đèn đuốc sáng choang, pháo nổ rì rào. Hoa giấy bay loạn xạ. Và kìa, ông có hoa mắt không khi người đàn ông vạm vỡ trong bộ quân phục rằn ri vẹt đám đông tiến về phía trước chính là thằng Wayman. Phải, thằng cháu ngoại của ông, thằng Wayman. Ông Frank muốn gọi lớn tên nó mà ông không thốt nên lời. Thằng Wayman ôm ông trong đôi tay cứng chắc. Thằng Wayman nâng ông lên cao bằng một tay, còn tay kia đánh nhịp, miệng ồn ồn bắt giọng cho mọi người đồng ca: "Happy birthday to you, happy birthday to you, happy birthday to grandpa, happy birthday to Frank".

 

Ông Frank phát khóc trong cánh tay cứng như sắt của món quà sinh nhật bằng xương bằng thịt vô cùng thương yêu này.

Thanksgiving 2006

 Trần Bang Thạch

BÓNG NGOẠI

1.

Khi chiếc xe buýt ra khỏi khuôn viên nhà thờ thì trời bắt đầu tối. Chiều Thứ Năm, xe buýt khởi hành hơi trễ nên xa lộ 45 đi về hướng Dallas không bị kẹt xe. May mà suốt ngày hôm nay trời nắng tốt. Những hôm trước thì mưa cả ngày. Nghe ra dô nói có cơn bão khác ở ngoài khơi vùng biển xa, đang thổi vào đất liền, sức gió rất mạnh. Chuyến hành hương nầy sẽ làm ông bà An  vắng nhà mấy hôm. Bão thì bà An không sợ vì nhà ở cách biển gần năm mươi dặm; mấy lần bão lớn trước, vùng Tây Bắc của Houston này chỉ bị bão liếm sơ sơ một chút. Nhưng nếu mưa nhiều quá nước vô nhà thì nguy lắm...Giông bão sẽ làm thiệt hại khu vườn rau quả của bà. Nhưng điều làm bà An lo nhứt là lo cái dây bầu sau vườn. Mưa to, gió lớn biết dây bầu có chịu thấu hay không. Công lao của thằng cháu ngoại Tony từ mấy tháng nay đó. Tony làm cỏ, dọn đất rồi ương hột. Một cái hột nhỏ xíu bằng móng tay út của nó; dẹp lép, khô khốc vậy mà từ đâu dưới lớp đất chui lên mầm xanh, rồi lá xanh, rồi nụ, rồi bông, rồi trái…

Từ lúc thấy cái lá đầu tiên nhú lên, thằng Tony vui quá quên ăn, quên chơi. Nó nói đó là magical! Hơn 9 tuổi rồi mà có khi nào nó thấy hiện tượng này đâu. Hình như Tony lớn theo độ lớn như thổi của dây bầu. Mỗi ngày sau khi làm bài xong nó ra vườn săn sóc dây bầu, nhổ cỏ, tưới nước. Nắng che, mưa đậy. Nó không cho ai rớ tới dây bầu của nó. Nó muốn tự  chăm lo sản phẩm xanh của nó vươn lên từ đất và từ công khó của nó.

Nó đếm từ cái lá xanh. Đếm từ cái bông trắng. Trái bầu xanh non đầu tiên thòng xuống lỗ mắt cáo của cái giàn. Trắng xanh, nõn nà. Tony khoe với mọi người. Mỗi chiều, trước khi lên xe theo mẹ về nhà Tony không quên chạy ra vườn xoa xoa trái bầu từ giã. Nhìn cháu vui với thành quả của nó ông bà ngoại cũng thấy lòng mình rộn ràng vui theo.

Không biết có phải vì Tony cứ tới lui chăm sóc hoài nên dây bầu làm nũng,

 

không chịu sanh thêm trái nào nữa. Trái bầu duy nhứt càng ngày càng bự, bụng phình, thân dài. Tony vui lắm. Nó coi đây như là một công trình vĩ đại mà nó chưa từng nghĩ là nó sẽ làm được. Thằng cháu vui bao nhiêu thì ông bà ngoại vui gấp chục lần.

Bà An nhớ lại câu chuyện giữa hai bà cháu mấy tháng trước. Đó là vài ngày sau khi bãi trường.

-Ngoại ơi, hè nầy ba đi làm xa, mẹ không dẫn con đi đâu hết. Ở nhà hoài, buồn chết! Chơi game thì ông ngoại không cho. Tối ngày biết làm gì đâu.

-Để ngoại tính cho con nghe. Con có muốn gởi tặng cô giáo Linda của con một tấm hình thật đẹp hông?

-Thì năm nào đi nghỉ hè xa con cũng đều gởi về cô giáo những ảnh chụp  nơi con đã đi qua. Ảnh nào cũng đẹp hết.

-Ậy, tấm ảnh nầy sẽ là tấm ảnh đẹp nhứt. Ảnh chụp con đứng bên cạnh trái bầu do con trồng. Chắc chắn cô giáo con sẽ vô cùng ngạc nhiên và thán phục. Không biết chừng có người sẽ đem tấm ảnh đăng báo nữa đó con!

-Trái bầu? Trái bầu ra làm sao hả ngoại ?

 -Ừ, trái bầu là như vầy, như vầy nè.

Bà An dùng 2 ngón tay trỏ vẽ trong không gian trước mắt Tony hình dáng của trái bầu. Rồi bà An chậm rãi phác họa một tấm ảnh độc đáo bằng lời: Tony đứng dưới giàn bầu xanh tươi, tay nó ôm trái bầu dài cả thước, tròn, mập cỡ bắp vế của nó. Thằng Tony nghe mà chưa hình dung được hình ảnh nầy. Nó chưa thấy trái bầu lần nào. Nhưng nó lờ mờ hiểu: bà nó muốn tự nó làm ra thức ăn. Tony từng thấy bà nó đã tạo ra cả một vườn rau tươi tốt sau nhà. Nó cũng nhớ là năm ngoái bà nó trồng những dây bí rợ bò trên cỏ ở vườn sau, lá to như cái quạt, xám xanh. Chỉ qua đêm nó đã thấy những bông màu vàng, chen giữa lá, chạy dọc theo dây bí, giống như một hàng sao trời rớt xuống từ đêm qua. Rồi những trái bí màu cam xậm xuất hiện như một phép lạ. Nó biết đôi tay của bà đã làm ra những bí, những khổ qua, những cà chua, những rau, ớt, bạc hà…Các bữa ăn ở nhà ngoại lúc nào cũng có rau tươi từ khu vườn rau của ngoại. Tony ăn riết rồi thành quen. Những ngày cuối tuần ở nhà ba mẹ, có lúc Tony bỗng thèm một tô canh chua bạc hà nấu với rau muống, rải lên những lát nhỏ rau ngò om, rau cần dày lá và ngò gai. Thơm ngon không chịu được! Còn canh rau đay nhơn nhớt thì lúc đầu Tony không ăn được, sau rồi cũng thèm, đâm ra ghiền.

-Ngoại ơi, con sẽ làm được. Con sẽ trồng bầu. Bầu sẽ ra trái. Con sẽ ôm trái bầu chụp hình rồi gởi cho cô Linda.

Thế là dự án bắt đầu. Bà An cũng bắt đầu dự tính những công việc sắp tới của mình. Bà tính trong những tháng hè, ông bà sẽ dạy thằng cháu học toán và tiếp tục học chữ Việt. Chữ nghĩa ông bà không nhiều nhưng cũng đủ trình độ toán lớp bốn, lớp năm. Dạy chữ Việt thì chính là nghề tay trái của bà. Mẹ thằng Tony và các cậu của nó ai cũng biết đọc và viết suông sẻ chữ Việt từ lúc mới sáu, bảy tuổi. Bà An còn tính dạy nó thuộc lòng thêm vài trăm câu ca dao tục ngữ nữa. Lại còn những bài hát tuổi thơ, phải dạy nó mới được. Hôm trước ông bà tìm mua được tập Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp đồng ấu, ông bà sẽ dạy thằng cháu đọc từng bài. Chắc  chắn thằng cháu ngoại của bà sẽ bận rộn lắm. Ba tháng nghỉ hè tuy dài, nhưng bà An không biết có đủ để ông bà thực hiện hết những dự tính không. Nhứt là dự tính về tấm ảnh thằng Tony đứng bên trái bầu của nó.

 

Trời bây giờ đã tối hẳn rồi. Trong xe, những câu chuyện đã thưa dần. Ông bạn hăng say kể chuyện khắp thế giới biểu tình theo hành trình rước đuốc của thế vận hội Bắc Kinh ngồi sau lưng bà An chắc đã ngủ. Nhiều người trong xe đã bắt đầu nhắm mắt. Bên cạnh bà, ông An cũng đang lim dim. Ông tài xế nhìn phía trước, chăm chú lái, không nói một lời. Xe đi vào vùng tối trước mặt. Bà An cố ngủ một chút nhưng tự nhiên trước mắt bà hiện ra hình ảnh trái bầu xanh non treo lủng lẳng trên giàn. Rồi liền đó cơn bão ụp tới, trái bầu lắc lư trong cơn gió mạnh, oằn oại dưới mưa bão. Rồi hình ảnh giàn bầu gãy cụp, nát vụn nằm yên trên cỏ, trái bầu thì đã bay đâu mất. Bà An thấy ánh mắt buồn hiu của thằng cháu ngoại đứng một mình giữa khoản đất trống không, dưới chân là nước ngập, trôi lềnh bềnh những cành cây gẫy, lá vụn và rác rưởi. Bà An cố nhắm mắt để xua đuổi hình ảnh ấy. Nhưng không biết sao mắt bà ráo hoảnh. Bà An biết những ngày Đại Hội Thánh Mẫu sắp tới tại Carthage sẽ rất bận rộn, nhộn nhịp, không ai có thể ngủ được. Đây không biết là lần thứ mấy ông bà An tham dự chuyến hành hương về Missouri này. Những năm trước, khi ông An còn khỏe mạnh, ông bà tự lái xe đi. Từ 3 năm nay, ông An không còn lái xe được do chứng bịnh run rẩy chân tay nên ông bà cùng đi chung xe buýt với nhiều người khác, hầu hết là già cả. Ai không biết chớ mỗi năm ông bà An nôn nóng chờ  ngày hành hương này, mọi chuyện khác đều phải gác lại. Chuyến hành hương nào cũng đông vui và thật nhiều ý nghĩa.

Vui nhưng bà An không khỏi nhớ thằng cháu ngoại khi phải xa nó vài ngày. Nhớ nó rồi nhớ cơn bão sắp tới, nhớ trái bầu đong đưa trước gió. Mưa sa, bão táp có làm mất đi nỗi vui và niềm hy vọng của thằng cháu ? Nói dại, một ngày nào thằng Tony rời khỏi vòng tay ông bà, những cơn mưa bão nào của dòng đời, của xã hội sẽ làm cho nó đi xa, sai đường, mất hướng ? Đúng là hết lo cho con, giờ lo tới cháu ! Lo cho tới chết vẫn còn lo !

Đến đây thì bà An không còn muốn suy nghĩ gì nữa, bà muốn giữ trọn niềm tin và niềm vui suốt chuyến đi. Biết mình không ngủ được nhưng bà An cũng nhắm mắt để tịnh dưỡng.

2.

Có người trong xe nghe một tiếng nổ thật to. Sau đó người ta thấy một chiếc buýt nằm nghiêng trên mép bờ con lạch dưới cầu. Hàng đoàn máy bay trực thăng và xe cấp cứu đổ tới hiện trường. Tiếng chong chóng trực thăng bành bạch. Tiếng còi cấp cứu inh ỏi. Tiếng la. Tiếng khóc. Tiếng khóc. Và tiếng khóc...

 

 

3.

 

Buổi học đầu tiên chấm dứt. Thằng bé thật khó khăn lắm mới tìm được chiếc buýt của nó. Từ ngày vào lớp Pre-K đến nay, đây là ngày đầu tiên nó đi học bằng school bus. Suốt bốn năm qua thì bà ngoại lái xe đưa đón nó hàng ngày. Đi học xong là về nhà ngoại, ăn uống, tắm rửa, làm bài...đợi chiều tối mẹ rước về nhà. Mọi chuyện có ngoại lo hết. Ngoại xem bài bé làm trong lớp, ngoại kiểm soát điểm hạnh kiểm, ngoại nhắc bé làm bài, nhắc bé học. Hai ngày cuối tuần thì bé không đến nhà ngoại, nó đến sân tập đá banh hay đến nhà thờ tập võ ; nhiều lúc ông bà ngoại cũng đến xem, các cậu, các chú cũng đến. Sau đó cùng nhau đi nhà hàng ăn cơm tối. Gia đình vui hết sức.

Hôm nay thì mọi chuyện đã đổi khác. Thật sự thì đã có nhiều cái khác thường từ gần nửa tháng nay. Từ ngày bà ngoại bé không về nhà nữa.

Xe dừng trước nhà, thằng bé uể oải bước xuống chiếc buýt vàng. Ông ngoại ngồi đợi nó ở cửa. Tay chân ông vẫn run run như mọi ngày. Chiếc băng trắng quấn quanh đầu như vành khăn tang. Ông đón bé trong vòng tay. Ông không nói với nó lời nào. Ông và bé cùng mang một nỗi buồn như nhau. Nỗi buồn quá lớn. Ông nó đã cạn hết nước mắt. Nó cũng không còn nước mắt để khóc.

Bé bước vào nhà, dừng trước ảnh bà ngoại trên bàn thờ, dưới tượng Đức Mẹ, khoanh tay cúi đầu thật thấp. Nụ cười, ánh mắt của ngoại vẫn vui như ngày nào mỗi khi bé cúi đầu chào ngoại tại cửa trường trước khi lên xe ngoại về nhà. Bé thấy ngoại quanh quẩn đâu đây. Nơi phòng khách. Nơi nhà bếp. Đâu đâu cũng có bóng ngoại. Ngoại lái xe đưa bé đi học rồi đón bé về. Ngoại với cái kiếng xệ xuống sống mũi lật từng trang bài vở của bé. Ngoại dọn cơm, bắt bé phải ăn nhiều cơm, ăn nhiều rau cải. Thấy ống quần của bé cao khói mắt cá chân, ngoại cười vui nói bé lớn mau như thổi, rồi ngoại mang kim chỉ ra xuống từng cái lai quần cho bé. Có lúc mê đọc sách, tới chương trình hoạt họa The Simpsons trên TV ngoại phải nhắc bé. Ngoại, ngoại là cả cái nhà nầy. Ngoại là cả cái sân trước với những hoa những kiểng. Ngoại là cả cái sân sau với rau quả, cây trái. Ngoại là cả khung trời thơ ngây ngọt ngào của bé. Ngoại là vùng trời yêu thương của bé.

Vậy mà bây giờ ngoại đã đi đâu mất. Bé đã hoàn toàn mất ngoại rồi. Mất ngoại rồi. Người ta đã chở ông bà ngoại từ Sherman tới nhà thương Parkland Memorial ở Dallas, từ phòng cứu cấp tới phòng giải phẫu. Rồi ông ngoại được đưa tới lầu 5 của Orthopedics, Rehabilitation and High Risk Pregnancy. Bà ngoại thì được trực thăng tiếp chuyển tới Baylor ICU. Từ đó thì bà ngoại đã ra đi. Xuất viện, ông ngoại về nhà, thẫn thờ như người mất trí. Có bé ở đây mà ông coi như không. Ông hay ngồi bất động hàng giờ  trên sofa, mắt hướng về tượng Đức Mẹ trên vách nhà. Bé thương ông ngoại của bé quá. Càng nhìn ông ngoại, bé càng muốn khóc.

Bé bước ra vườn sau. Gần hai tuần nay bé đâu có dịp ghé đây. Bé theo cha mẹ tới các nhà thương thăm ngoại, rồi tới nhà quàn, tới thánh đường làm lễ an táng bà ngoại. Ô kìa, trước mặt bé bây giờ là một hình ảnh khó mà tưởng tượng nổi: trái bầu của bé thòng gần tới đất, da xanh màu ve chai với những đốm trắng. Bé nhớ tới tấm ảnh ngoại đã vẽ tưởng tượng trước mặt nó hôm nào: tấm ảnh bé ôm trái bầu to gởi tặng cô giáo Linda.

 

4.

Tony đón cô giáo Linda tại chỗ đậu xe của các giáo viên. Nó cúi đầu thật thấp chào cô Linda rồi trao cho cô cái phong bì nói là tặng cô một tấm ảnh. Năm nay cô giáo Linda không dạy Tony, đứa học trò rất giỏi và rất ngoan của cô ở lớp Hai năm trước và ở lớp Ba năm rồi. Cô Linda có nghe tin về tai nạn thảm khốc ấy và đã gởi thư chia buồn với gia đình Tony. Thầy Hiệu Trưởng cũng đã đến thánh đường dự tang lễ chung của những người quá cố trong tai nạn ở Sherman. Cô Linda đã nhiều lần gặp bà Nguyễn tại trường. Lúc đầu nghe cô giáo gọi họ Nguyễn của mình hơi khó nên bà Nguyễn nói cô cứ gọi là bà An cho dễ. Nhưng lần hồi Cô Linda và vài giáo viên khác cũng phát âm tên bà rất trúng.

Mỗi khi có những cuộc họp giữa phụ huynh và nhà trường thì đều có mặt của bà Nguyễn. Bà không nói được nhiều tiếng Anh, nhưng mỗi lời nói của bà là một đề nghị xây dựng hữu ích cho nhà trường, mỗi lời khích lệ của bà là mỗi niềm vui cho thầy cô giáo. Những khi nhà trường có lễ lạc, bà Nguyễn là người tình nguyện đầu tiên. Bà có thể làm đủ thứ việc, từ lau bàn lau ghế đến việc xếp từ lá thư bỏ vào phong bì, dán từng con tem. Nhiều thầy cô giáo khi gặp bà Nguyễn tại trường, bà chỉ cúi đầu nhỏ nhẹ nói Thank you, một cử chỉ biết ơn và biết quí trọng thầy cô mà hiếm khi Linda thấy trong suốt hơn 10 năm dạy học của mình. Cô Linda còn nghe nói bà Nguyễn đã đề nghị với nhà trường từ niên khóa nầy cho bà tình nguyện làm người cầm bảng STOP đứng chận xe cộ trên con lộ phía trước trường vào mỗi buổi sáng trước giờ học sinh vào lớp. Người đàn bà nhỏ nhắn mà có tấm lòng thật rộng và vô cùng cao cả. Tiếc là bà đã vội vã ra đi, để lại bao nhiêu tiếc thương cho người ở lại.

 

 

 

Về đến nhà cô giáo Linda cẩn thận cắt phong bì, lấy ra một tấm ảnh: Ảnh chụp bé Tony đứng dưới một giàn lá xanh, hai tay ôm ngang một trái gì có hình dáng như một cái chai khổng lồ, da xanh như ngọc thạch. Kèm theo một tấm giấy ghi mấy dòng chữ: “Trái bầu nầy là thành quả trong mấy tháng hè của con. Bà ngoại con đã dạy con làm việc nầy. Trong ảnh cô sẽ không thấy bà ngoại con đâu, nhưng con biết bà con đang đứng sau lưng con đó, thưa cô”. Mấy chữ ngắn ngủi đã làm Linda rơi nước mắt. Phải, bà Nguyễn chắc chắn là đang đứng sau lưng Tony, bà sẽ suốt đời đứng sau lưng đứa cháu ngoại cưng của bà, đứng sau lưng suốt đời nó. Linh hồn trong sáng của bà sẽ nâng đỡ Tony, dìu nó đi suốt hành trình làm người của nó. Tự dưng cô Linda cảm thấy nơi nào trong khung viên trường Klein Elementary School nầy cũng có bóng dáng người đàn bà Việt Nam thiện nguyện tuyệt vời nầy. 

Cầu nguyện ơn trên cho linh hồn Anna đời đời an nghỉ trong vườn hoa Vĩnh Cửu nước Thiên Đàng.

Trần Bang Thạch

Cuộc tình lênh đênh

 

Nhà thầy giáo Ba đối diện nhà tôi, hai nhà cách nhau con đường tráng xi măng nhỏ, chỉ rộng vừa đủ cho hai người đi song đôi. Ngay khi thấy mặt và tình cờ biết được tên của người con trai mới đến trọ học tại nhà thầy giáo Ba, thì tôi đã linh cảm được cuộc đời tình ái của tôi sau nầy rồi. Không hiểu sao lúc đó mới mười mí mà tôi nhạy ba cái  chuyện người lớn dữ như vậy. Tôi mường tượng thấy nó sẽ ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh. Nguyên do là như thế này. Cái tên Ly của tôi, Trần Phương Ly, mà ghép vào với cái tên Từ của người con trai đó thì nghe sao bi đát quá chừng. Hai cái tên này mà đụng vào nhau thì không u đầu sứt trán thì cũng ruột tím gan bầm tim thổn thức. Thuở ấy tôi còn ngây thơ lắm vậy mà đã nằm lòng câu thơ: “Đưa người ta không đưa sang sông sao có tiếng sóng ở trong lòng”...  Cho nên Từ Ly hay Ly Từ thì cũng đều âm u, buồn bã, đớn đau, chua xót hết cả... Hình ảnh chàng tại Tương giang đầu thiếp tại Tương giang vĩ tuy hết sức thơ mộng trong thi ca, nhưng nếu cái đầu sông cuối sông ấy mà va vào phận số của mình thì chắc là buồn lắm. Yêu nhau thấu trời mà phải Từ với Ly thì chỉ có nước đi ... tu cho nhẹ lòng nhẹ dạ. Tên Ly của tôi thì vô phương sửa đổi rồi. Đó chắc phải là cái tên ba má tôi thích lắm; có lẽ ông bà đã nhiều đêm trong phòng vắng vừa tâm sự rả rít với nhau vừa tìm tên cho đứa con đầu lòng sắp ra đời, và lúc tôi gặp anh chàng thì cái tên Ly đó đã đi theo tôi mười ba mùa mưa nắng trên cuộc đời nầy rồi, dễ gì mà thay với đổi. Còn cái tên Từ được làm khai sanh cho thằng con út chắc ông bà ngầm thông tin với nhau rằng: Kể từ đây mình nên treo miễng chiến bài và giả từ vũ khí để còn có sức lực lo cho 8 đứa con nheo nhóc. Chớ cái điệu đầu năm sanh con trai, cuối năm đẽ con gái theo lời thiên hạ chúc ngày đám cưới thì chỉ có cách cả nhà uống nước sông cho no bụng. Cho nên cái chuyện đổi hay thay gì thì là ở cái nơi tạm cư của anh chàng đó. Thế giới này rộng thênh thang, tỉnh lỵ này cũng đâu có nhỏ, Thủ Đô Miền tây mà, tự dưng rồi Lê Văn Từ từ một làng quê nào đó chui vào con hẻm cụt nầy mà ở trọ; rồi chẳng biết ma đưa lối quĩ dẫn đường thế nào mà lại ở chường ngay trước mặt người ta. Phải chi anh chàng đến ở tại những nơi khác thì tôi đâu có quen biết gì anh chàng để mà thắc mắc và sầu đời. Phải, tôi đã sầu gần suốt cuộc đời này rồi đó quí vị ạ. Sầu quá kỹ cho nên mới trên năm mươi mà tóc bạc gần hết. Thì ai biểu quen biết với người ta làm chi để bây giờ dài dòng văn tự ?  Xin lỗi quí vị đừng phán như vậy. Quí vị đừng có binh vực người ta mà quá bất công với tui à nghen. Từ khởi thủy tui có muốn nhìn cái bản mặt cô hồn của anh ta đâu mà cho rằng tui muốn làm quen hay làm bạn; tui muốn làm lạ thì có. Nói trắng ra là những tháng đầu tôi thấy cái con người gì mà thật dễ ghét, quê một cục. Tình cờ chạm mặt người ta trên đường đến trường, cái cục quê này nào có thấy người ta đang tập mang đôi guốc cao gót Đa-kao hay cài con bướm bằng ny lông trên tóc, hay khi người ta ráng chịu đau cắn môi trên môi dưới cho môi thêm hồng thêm mọng, cái cục quê ngó lơ như bận tâm nhìn phố xá, hay cứ gầm mặt xuống mà đi, giống như người đi lượm bạc cắc ngoài đường; tui rủa anh chàng bữa nào đó đụng cây cột đèn u đầu gảy gọng để bọn con gái tụi tui cười cho đỡ buồn. Anh chàng ăn mặc còn bắt cười hơn nữa: cái áo sơ-mi trắng rộng thùng thình chồng vô thân hình ốm như cò ma, cái quần tây xanh gọi là quần dài mà cụt ngủn để lòi đôi ống chân cao lỏng nhõng, còn đóng phèn, mốc cời; bước đi thì kéo lê đôi giày săn-đan, làm như từ nhỏ đến giờ chưa từng biết mang guốc mang giày, mà chỉ biết quét đường bằng săn-đan không bằng; bước ra đường là có cái nón rơm che cái đầu hớt cua trông như trọc, nói năng chẳng biết thưa gởi là gì, phát âm thì cứ con-cá-gô-nhảy-chong-gỗ-kêu-gọt-gẹt-gọt-gẹt, tui nghe mà phát “gung” phát “ghét” phát “gầu” thúi “guột” thúi gan . Gần hết năm đầu thì tình hình có khá hơn một chút. Cái đầu hớt ca-rê phật được thay bằng cái đầu chải bảy ba tươm tất, nhiều khi có thêm chút bri-ăng-tin ba con năm và thêm cái ổ gà phía trước. Đầu năm chắc đã đếm cột đường nhiều quá rồi nên chán, giờ đây chịu ngước mặt nhìn lên tí chút. Cũng hỏng chừng chàng ta sợ cứ cuối đầu xuống hoài e rằng hột gà từ trên đầu rơi xuống lả tả thì hứng đâu kịp !!!

 

Năm thứ hai, thứ ba thì mọi chuyện cũng bình thường thôi: ăn mặc như người thành phố, nói năng đàng hoàng, nhân cách hơn. Không biết từ hồi nào anh chàng đã quên khuấy mấy đồng bạc cắc trên mặt đường mà để mắt ngó nghiêng nhìn dọc mấy cái áo dài. Thấy đẹp mà không nhìn thì có là mù! Chắc cũng từ đó mà răng phe ta cắn cặp môi phe nhà thường hơn, trên tóc có thêm vài con bướm màu mè sặc sỡ hơn. Đặc biệt là mỗi sáng đứng lấp ló trong cửa nhà trọ, anh chàng đã biết nhìn vào khung cửa của nhà đối diện, và chờ để lẽo đẽo đi sau lưng người ta. Biết có người tình nguyện hộ tống phía sau, con nhỏ bèn tương kế tựu kế: khi thì làm rớt cây viết, lúc thì cuốn tập hay cái khăn mù-soa, khiến cây tre miễu cuối xuống đường lượm rồi ân cần, lễ phép trao cho nhỏ, ra điều rất lấy làm hân hạnh. Làm vậy vừa bỏ ghét vừa tập cho anh chàng quen khom lưng để vợ dễ dạy sau này! Nhiều bữa con nhỏ nhà đối diện này bèn chơi độc. Nó canh còn đúng 17 phút để nó từ nhà vừa kịp bước vào lớp. Những hôm đó anh chàng bị trễ học là cái chắc, vì từ trường nữ của bà Đoàn phải đi thêm đúng 2 phút rưỡi nữa mới tới trường nam của Cụ Phan! Mà giờ vào lớp của hai trường thì cùng một lúc. Vậy mới chết cửa tứ cho chàng ta. Trễ học là cái chắc. Chém chết cũng bị cồng-xin ngày chủ nhựt, và phải chép đi chép lại cả ngàn lần câu: “Từ đây tôi không dám đi trễ”.  Cho bỏ tật ham làm cái đuôi ! Sau năm bảy lần như vậy thì cái đuôi khôn hơn: chờ đến khi còn vài chục thước đến trường nữ, cái đuôi tiến lên ngang hàng, nheo mắt một cái ra điều bái-bai, rồi phóng nước đại, ngựa phi ngựa phi đường xa, vừa kịp lách vào thì cánh cổng trường khép lại.

 

Nhưng thú thật với quí vị sang đến đầu năm lớp Đệ Nhị  thì cái đuôi này thành cái đuôi sam, chặt không đứt, bứt không rời, phơi không khô, đốt không cháy. Ngay tình mà nói cả hai đương sự đâu có ai muốn bứt hay muốn chặt nó đâu. Dại gì mà làm chuyện đau khổ ấy. Trong Hồn Bướm Mơ Tiên, cô nàng Lan của Điệp sau khi làm hai chuyện ruồi bu là cắt tóc và cắt đứt dây chuông chắc tiếc hùi hụi, ước gì  nối tóc và nối dây chuông lại được thì vui thấu trời xanh, Tiên lại về với Bướm. Nói gần nói xa không qua nói thiệt: Tình yêu hổng biết do đâu mà có mặt giữa hai người, lại đến đúng vào năm cả hai chuẩn bị kỳ thi Tú tài một. Lúc tâm trạng người ta giao động, âu lo là lúc người ta dễ nương tựa vào nhau nhứt. Giữa chốn rừng núi âm u dẫy đầy đạo tặc, một thân một mình với tì nữ Kim Liên, dù cho anh chàng Vân Tiên họ Lục vừa khoát tay vừa nói khoan khoan ngồi đó chớ ra nàng là phận gái ta là phận trai thì nàng Nguyệt Nga họ Kiều cũng chỉ muốn sa ngay vào đôi tay rắn chắc của chàng Lục cho yên bề .. ..  an ninh nội địa. Tình yêu của tôi và chàng có lẽ bắt nguồn từ chỗ đó. Từ đầu năm học đệ tứ chúng tôi đã đi học các lớp toán, lý hóa và sinh ngữ ban đêm ở tư thục Thủ Khoa Huân, đi về có nhau cho đỡ lạnh cẳng. Năm này chúng tôi đã biết gọi tên nhau và đã biết chờ nhau đi học. Mộng mơ thì chúng tôi chưa thượng thừa nhưng chắc đã lên hàng bảy, tám túi. Vừa vẽ tim gan phèo phỗi cho môn vạn vật của Thầy Đại Bằngvừa chép thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Prévers .. .. Vừa học tìm sin lấy đối chia huyền, cos thì hai cạnh kề huyền chia nhau vừa đọc Mười Đêm Ngà Ngọc, Để Tưởng Nhớ Một Mùi Hương.. ..Đêm đêm hai đứa, trên hai cái gác đối diện, thi nhau thức khuya học bài và học ... yêu. Không nói ra nhưng hai đứa nhứt quyết phải giành cho được cái bằng Trung học Đệ nhứt cấp. Ê mặt lắm nếu bảng hổ không đề tên. Năm đó thì tâm trạng chúng tôi cũng giao động và âu lo lắm. Và hai con tim thì đã thấy có gì khan khác, nó lửng lửng lơ lơ, ảo ảo mờ mờ như sương như khói. Con chữ con nghĩa, con toán con hóa sao nó cứ nhùn nhằn ẩn ẩn hiện hiện gương mặt người từ căn gác đối diện; đầu trang sách là một nét cười, cuối trang là chút âu sầu trên môi trên mắt. Học Nguyễn Du: mai cốt cách, tuyết tinh thần mà sao cứ thấy có nàng ở trong! Học Benzen, Acêtylene, thấy nơi gác trọ chàng nghiêng nghiêng nhìn! Thấy chàng ngồi đó làm thinh. Thấy nàng trong cửa lén nhìn người dưng. Năm đó chắc có thần ái tình phù hộ dẫn lối đưa đường nên hai đứa đều đậu. Hú hồn! Tưởng là sẽ tởn tới già đừng đi nước măn mà hà ăn chưn; nói cho rõ là sẽ không dám lần khân với ái tình. Tưởng là sẽ chẳng nên tương tàu tương hột tương tư làm chi cho ốm o gầy mòn long thể. Nhưng ông thần tình ái dường như đã cho chúng tôi vay lần trước quá nhiều nên bây giờ muốn lấy lại cả vốn lẫn lời. Hắn cho chúng tôi xang bang xấc bất ngay đúng cái năm Đệ Nhị gai góc. Bài vở học thi thì cao bằng núi mà sự thương nhớ thì cao bằng trời. Không nhìn thấy ánh điện bên kia cửa sổ thì nhớ. Không đi chung lối đến trường thì buồn. Những khi chàng phải về quê đôi ngày thì chắc chắn sau đó chúng tôi đọc thư của nhau mệt nghỉ. Tui viết rằng: những đêm học bài khuya, nhỏ đạp xe một mình ra bến Ninh Kiều mua xôi vò, không có chàng, nhỏ ăn cả phần xôi nhỏ mua cho chàng, để nhớ chàng thêm, nhớ gấp đôi lận đó. Còn chàng của nhỏ thì viết rằng: anh leo lên cây quít đầy kiến lửa và chơm chỡm gai , bẻ một trái quít vàng mọng rồi lột vỏ, đớp nhẹ vài múi, và chợt nhớ đến nhỏ, nhớ vô cùng là nhớ, nhớ bất tận. Câu văn tuy có hơi hướm thơ Tô Thùy Yên nhưng nghe vẫn phát thương. Ước chi chàng ăn nguyên trái bưởi to kềnh thì niềm thương nhớ chắc phải bự hơn! Có lẽ chàng của tui bắt đầu làm thơ từ những ngày này. Cái kiểu lục bát như vầy: Ngoài kia có lạnh không em? anh nơi này đứng bên thềm ướt mưa. Nhớ em biết mấy cho vừa. Nhớ em biết mấy cho vừa, nhỏ ơi! Cái câu nhớ em biết mấy cho vừa nhỏ ơi này chàng viết đi viết lại đầy nửa trang giấy còn lại của năm tờ giấy pelure xanh da trời, giống như ngày nào chàng chép bài phạt ngày chủ nhựt. Nhân ngày sinh nhựt của tôi, chàng mua tặng quyển truyện Thương Hoài Ngàn Năm của Võ Phiến, còn viết thêm lời nhạc của Phạm Mạnh Cương: Ngàn năm yêu hoài một mối tình thôi. Ảnh hình mỗi người không còn thập thò nơi cuối sách hay đầu sách, mà hiển hiện kín cả trang, che cả chữ. Ghét thương, hờn giận, nhung nhớ, âu sầu ... như những chùm nho treo lủng lẳng trên cả hai căn gác, muốn hái vài trái liệng đi mà sao lòng không nỡ, chúng nó hình như đã là máu thịt rồi. Lắm khi tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Người ta thường nói khi bị tình phụ mới gọi là thất tình. Không phải vậy đâu, kính thưa chư liệt vị, kinh nghiệm tình yêu của tui và chàng là càng yêu nhau càng thất tình đậm nếu hiểu thất tình là nhung là nhớ, dù là đau là khổ, là vàng võ tương tư bầm gan tím ruột, có khi là khóc như trẻ thơ, giận hờn như con nít, mè nheo như giữa con với mẹ...Những cái lẻ tẻ này thì chúng- mình- hai- đứa đều có hết. Phải chăng như thế mới tình?!

 

Trên đây chỉ là màn giáo đầu của tôi về cuộc tình lênh đênh này. Cuộc tình lênh đênh! Nghe sao có vẻ tình không biên giới quá. Tình muốn đi đâu thì đi , trôi đâu cũng mặc, vô bờ vô bến. Có lúc tình cứ thẳng băng một dòng mà chảy. Có khi tình như con sóng, dâng cao như cái nhà lầu, xuống thấp như rơi vào đáy vực, có lúc xoáy trôn ốc chừng như muốn gãy làm đôi. Nghe thì ghê quá, nhưng ngẫm lại mà coi, tình ai mà chẳng vậy. Nếu không vậy thì hỗng phải là tình. Phải không thưa chư liệt vị?

 

Năm đó thần ái tình vẫn phù trợ chúng tôi, có lẽ không muốn cho đứa đậu đứa rớt mà sẽ xảy ra chuyện xa mặt cách lòng, hay cái lênh đênh của phận Kiều trong bài nghị luận văn chương năm đó đã nhập vào trang viết của chúng tôi, làm cho chúng tôi đều đậu, dù là đậu passable.

 

Một lần đã tởn tới già. Đừng vội nghĩ chúng tôi đã sợ tình yêu. Chuyện này chắc còn khuya. Tởn đây là tởn cái ban A mà chúng tôi đã chọn hai niên học vừa qua. Sang năm đệ Nhứt chúng tôi ngoéo tay nhau vào học ban C. Năm nay thì tất cả hơn hai mươi con-người-văn-chương-lớp-C của chúng tôi ra vẻ rất ư là văn chương, rất ư là văn nhơn thi sỡi. Chúng tôi mơ mộng gấp mười lần hơn trước; chúng tôi làm như trên đời này làm gì có chữ vui mà chỉ có một chữ buồn to hơn cái sông Bá-Sắc. Chúng tôi uống cà phê đen nơi quán cóc, nghe Sylvie Vartan,Thanh Thúy, mấy anh chàng tập hút thuốc Bastos xanh. Chúng tôi cầm trên tay những Bùi Giáng Mưa Nguồn, Phạm Công Thiện Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học, J.P.Sartre La Nausée, H.Miller Tropic of Cancer , Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi...Có chị cháu ông nguyên quốc trưởng còn cất công đi xe đò lên nhà sách Albert Portaille đường Tự Do Sài-gòn đặt mua báo dài hạn Les Temps Modernes của Sartre tận bên Tây, chúng tôi chia nhau vừa tra tự điển vừa đọc. Năm 1964 khi Sartre của chúng tôi từ chối nhận giải Nobel văn chương, chúng tôi thức trọn đêm, nấu một nồi cháo cá ăn mừng, cũng để hổ trợ cho cái chịu chơi của thần tượng. Cái Nobel chỉ lớn bằng cọng lông chưn của thần tượng Buồn Nôn của chúng tôi! Nhận làm gì cho mất tiếng! Có anh để tóc dài quá ót, còn mang vào đôi kính trắng không độ, gọng mủ đen kịch cợm, cho ra vẻ trí thức. Có chị cắt tóc kiểu demi garçon để đêm nằm mộng thấy mình thành Audrey Hephur. Chúng tôi lập nhóm thơ văn, gởi thơ truyện đăng báo, thật xôm trò. Có lẽ cũng từ đó mà việc viết lách thêm nhuần nhuyễn và tinh thần triết học thấm vào da, nên bài thi triết năm đó đa số chúng tôi được cao điểm để vượt qua bậc trung học. Mấy nhà văn nhà thơ tự phong tỉnh lẻ chúng tôi bây giờ mới thấy được chữ vui, tuy rất nhỏ.

 

Màn kế của chuyện tình này thì nó dài thườn thượt, vui ít buồn nhiều. Đúng là: Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần sầu. Cái vui cái buồn tiếp tục con đường thiên lý quanh co thác ghềnh của nó bằng chuyến xe Đại Đồng từ tỉnh nhà lên Sài-Gòn.

 

Chân ướt chân ráo, chúng tôi nhập vào cái quái trận đồ của đô thành. Chàng định cư ở cái đại học xá đường Minh Mạng, gần Nhà thờ Ngả sáu, kế trường Chu Văn An, còn tôi thì gởi thân cho các dì phước cai quản cư xá nữ sinh viên Sao Mai, trên đường Trần Hoàng Quân, cũng gần ngả sáu Chợ Lớn. Nhiều đêm chàng xúi tôi leo tường vượt ngục, tránh mấy cái áo chùng trắng tinh để nhập vào thế tục. Hai đứa ở khá gần nên gặp gỡ cũng thường và giận hờn cũng lắm. Người xưa bảo yêu nhau lắm cắn nhau đau, thật là chí lý. Tôi giận chàng thường là vì ghen. Cũng phải thôi, ai đời cứ đem chuyện cô học-trò-kèm-tư-gia ra mà nói, hết cô này rồi tới cô kia, hết cô kia rồi tới cô nọ, làm như đọc tiểu thuyết phơi-ơ-tông Quỳnh Dao không bằng! Có lần chờ chàng đến chở đi tiệm sách Khai Trí, rồi tiện đường ăn bò viên và uống nước mía Viễn Đông, chờ hoài không thấy bèn đến kiếm chàng tại đại học xá, thấy chàng đã ngồi nơi phòng tiếp khách nói chuyện rất ư là thân mật với một bom-bê thuộc tuổi-thích-ô-mai từ hồi nào. Thế có giận không chớ. Giận thì giận nhưng chiều tối đó cùng chàng ra ngồi lề đường Nguyễn Tri Phương, góc đường Bà Hạt, cho mấy thau nghêu vào thì hờn giận cũng xách gói đi ra. Cùng học Văn Khoa nên chàng tình nguyện lái cái mô-bi-lét xanh cũ mèm đưa người tình đi học. Thuở đó trường Văn Khoa còn ở đường Nguyễn Trung Trực, gần nhà chợ Bến Thành nên sáng nào cũng ráng tấp vào chợ, ngồi chồm hỗm ăn tô bún bì, húp nước mắm rồn rột. Nhiều lần xe chàng trở chứng, chàng phải ngồi sau cái vê-lô-sô-léc của tôi, trông thật buồn cười. Chân dài thượt không biết gác ở đâu, tay cũng dài ngoằn không biết ôm cái chỗ nào cho khỏi mang tội công xúc tu sĩ và cho khỏi té. Nhờ dạy mấy trường tư và kèm trẻ, chàng tiện tặn sắm được cái Lambretta tuy cũ nhưng tình hình lưu thông khá hơn, chàng đỡ vất vã trong cái nắng Sài-gòn anh đi mà chợt nóng; chàng khỏi phải đẩy cái vê-lô hay đạp cái mô-bi-lét hàng cây số. Bù lại, những ngày đi học, được đến giảng đường sớm hơn để không bị mất chỗ ngồi, những ngày nghỉ thì đèo nhau ra Bãi Sau, Bãi Trước vừa tắm biển vừa tránh cái ngột ngạt của Sài-gòn. Chỉ tránh được vài lần, sau đó chính chàng góp phần tạo ra những cái ngột ngạt ấy. Quả tình Sài-gòn thời đó thật là xáo động. Biểu tình, lựu đạn cay như cơm bữa. Bãi khóa, tuyệt thực, xuống đường. Đại Học Xá Minh Mạng thường bị lựu đạn cay suốt đêm, trong túi người nào cũng thủ sẵn vài trái chanh và cái khăn ướt. Phong trào Cha Trần HữuThanh, phong trào Bà Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, các cha thuộc nhà dòng Chúa Cứu Thế như Cha Nguyễn Ngọc Lan với Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá, cha Phan Khắc Từ trong bộ quần áo của người lao công hốt rác, cha Chân Tín với báo cấm Đối Diện. Tiếp nối các lãnh tụ sinh viên thời 63 Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho, Tôn Thất Tuệ, thời hậu 63 có các lãnh tụ sinh viên Tô Lai Chánh, Hồ Hữu Nhựt, Nguyễn Thành Công, rồi Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, rồi Nguyễn Đăng Trừng, Trần Văn Chi, Đoàn Kĩnh, Phạm Hào Quang, Hạ Đình Nguyên, học sinh Lê Văn Nuôi...tổ chức thường xuyên những cuộc hội thảo, xuống đường chống đủ thứ. Nhạc Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Trần Long Ẩn, Trương Quốc Khánh... “ tôi có ngưới yêu chết trận Pleime” hay “Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng. Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”...được nghe và được hát khắp các khuôn viên đại học. Nữ Hoàng Chân Đất KL bắt đầu nỗi danh tại Quán Văn, phía sau Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực. Các giáo sư Trần Anh, Nguyễn Văn Bông, Lê Minh Trí bị ám sát ngay trên đường phố Sài-gòn. Súng nổ ở Đêm Tất Niên Văn Khoa làm bị thương sinh viên Ngô Vương Toại và hàng chục người khác trong một đêm hát nhạc sinh viên. Ứng cử viên chức chủ tịch Ban Đại Diện Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhựt bị bắn chết trong sân trường. Tại trường Y, anh sinh viên con thẩm phán nổi tiếng họ Trần rơi xuống đất từ từng sân thượng; người thì cho là tự tử, người thì bảo bị thanh toán vì lý do chánh trị. Chiến trường thì đã sát nách Sài-gòn. Đến Tết 68 thì súng đã thay tiếng pháo mà nổ khắp Sài-gòn, Chợ Lớn, Gia Định; nổ khắp nơi, khắp các tỉnh, các quận toàn quốc. Một số sinh viên quen biết đã vào tù hay ra mật khu. Ác hại thay: tranh đấu, biểu tình, tuyệt thực là chàng, làm báo chui là chàng, ngồi tù cũng chàng mà ra bưng cũng chàng! Ôi, chàng của tôi. Không nói, quí vị cũng biết lúc đó tôi khổ biết chừng nào. Thời gian này tôi rất ít khi gặp chàng. Nhớ chàng lắm mà chẳng biết tìm chàng nơi mô. Cha tôi một công chức cấp cao của Nha cảnh sát vùng 4 biết rất rõ tình trạng gia đình và cá nhân của chàng, bắt tôi phải xa chàng. Tôi thì đâu có nỡ. Chàng bận tranh đấu, xuống đường, họp báo, hội thảo.. .. tôi ghi và lấy giảng khóa cho chàng. Chàng bị dùi cui chảy máu, bong gân, u đầu, sứt trán .. ..tôi thoa dầu gió, xức thuốc đỏ, băng bó cho chàng. Sau những ngày tuyệt thực ở trụ sở Tổng Hội số 4 Duy Tân, chàng xanh xao vàng võ, tôi phải cơm cháo bồi bổ cho chàng. Những tháng ngày chàng ngồi tù Tân Hiệp tôi đều đặn cơm nách xách mang thăm nuôi. Ngay sau Tết Mậu Thân chàng đi mất mà không một tiếng giả từ. Tôi buồn biết bao nhiêu. Trên những chuyến xe đò về miền Tây thăm nhà, nhìn qua ngó lại thấy người ngồi bên cạnh không phải là chàng, tôi khóc như người vợ vừa tiễn đưa xác chồng ra phần mộ.

 

Cái tên Từ, Ly chắc bắt đầu nghiệm ứng từ đó.

 

Tôi mang cái buồn đi theo khi tôi rời khỏi nước, trước lúc chàng mang K54 trở về trong một miền Nam hoàn toàn sụp đổ. Người ta nói chàng theo đoàn cán bộ cao cấp vào tiếp thu trường Phan Thanh Giản của chúng tôi. Người ta còn kể ngày người ta đập tượng Cụ Phan tại sân trường, có người thấy chàng đứng sau khung cửa sổ của từng hai, dãy đầu, nơi có phòng Sư Đạo Tôn, tay chặm nước mắt.

 

Chuyện của tôi kể đến đây quí vị có thể coi như là hết. Nhưng đối với tôi và chàng, chuyện chưa kết thúc. Ở bên này và ở bên kia biển Thái Bình Dương  chúng tôi là Ngưu Lang và Chức Nữ, coi như kẻ đầu sông người cuối sông Ngân. Người xưa suốt đời nhớ nhau, mong đàn chim về bắt cầu Ô Thước mỗi năm để có phút giây gặp gỡ. Còn tôi và chàng là Từ với Ly thì coi như dây cũng chùn mà cầu cũng đứt để đúng với hai cái tên tiền định Từ, Ly. Biết là tiền định, nhưng tình thì không định. Tình cứ lênh đênh như sóng, mãi mãi dào dạt trong lòng.

 

 

Trần Bang Thạch

CĂN NHÀ MÙA XUÂN

 

                                                                          Thân tặng người dân Long Hồ

 

 

 

Bỗng nhiên ông Khương thấy con đường từ nhà bếp và phòng ăn dẩn ra phòng khách như ngắn lại. Có lúc ông Khương còn thấy cái bàn, cái ghế, bộ sa lông, cái TV…sao mà lớn hơn ngày thường và các phòng ngủ cũng hẹp hơn. Sáng sớm hôm nay hình như ông Khương đã mường tượng những điều đó khi ông vừa thức dậy và biết rằng hôm nay là ngày vợ ông xuất viện. Chỉ mới hôm qua và những ngày trước ông Khương còn thấy căn nhà như quá rộng khi thiếu bóng dáng vợ ông trong nhà. Hôm nay thì vợ ông sắp về nhà. Vợ ông sắp về rồi. Từ sáng đến giờ không biết ông Khương đã nghĩ đến điều đó bao nhiêu lần. Càng nghĩ thì càng trách mình tại sao không bỏ cái hẹn với ông nha sĩ để cùng với con gái đi rước vợ. Chỉ có hơn nửa giờ để làm cái răng giả mà ông để lỡ hết việc thật, nhứt là một việc rất thật là đi rước vợ ông về nhà sau gần một tuần lễ nằm bịnh viện. Đích thực là vợ ông không nằm bịnh, mà bà  đến bịnh viện của ông bạn thân cách đây hơn tám mươi dặm để ông bạn kiểm soát toàn bộ sức khỏe của bà, chớ bà chưa có dấu hiệu của những căn bịnh già! Giá mà mắt mũi ông còn tốt, mỗi ngày lái xe đi thăm bà một chuyến thì chắc cũng đỡ nhớ. Có câu ca dao nói “thương em mấy núi anh cũng trèo, mấy sông anh cũng lội”, còn ông chỉ có ngồi xe lái phom phom trên xa lộ mà cũng không làm nổi! Chỉ có năm ngày mà ông Khương coi như thế kỷ! Mấy tờ lịch cũng dỡ chứng, cứ ngồi lì trên vách, không chịu rớt xuống. Ông đã ngồi không yên, mà đứng cũng không lâu. Các cây kim giờ của mấy cái đồng hồ tự nhiên hôm nay làm một cuộc thi đi chậm! Cái radio ông mở ra đó như thói quen. Mọi khi ông bà đón nghe chương trình đài VOA, đài BBC và đài địa phương nghe con gái đọc truyện. Hôm nay radio nói cái gì mà cứ rỉ rả ông có nghe hiểu gì đâu. Đã bao nhiêu lần ông Khương cứ đi tới đi lui, đi quanh đi quẩn hết nhà ăn ra phòng khách, hết phòng khách ra vườn sau, hết vườn sau ra vườn trước. Quái lạ, tất cả lối đi sao mà ngắn hơn và hẹp hơn bình thường. Nhưng mà hồi sáng khi đi bách bộ như mọi ngày trên con đường lót gạch đỏ chạy xung quanh hàng rào khoảnh vườn sau nhà, ông Khương lại thấy thời gian dài hơn, mà con đường thì rộng hơn. Cũng vẫn là 50 vòng, vẫn những bước đều trên 148 miếng gạch vuông mỗi chiều 2 feet. Còn hai cây mai tứ quí ở góc vườn mới mấy hôm trước ông khen bà lặt lá để mai trỗ bông đúng dịp Tết, bây giờ trông nó trụi lủi trụi lơ như những nhánh xương khô! Bông biếc làm sao mà có! Rõ ràng là ông Khương lung tung quá. Nghĩ ngược rồi nghĩ xuôi. Nghĩ ngợi lung tung đủ điều, không cái gì ra cái gì.

Chợt ông Khương mĩm cười khi có ý nghĩ rằng trí óc mình bây giờ là con ngựa bất kham. Nếu có vợ ông trong nhà con ngựa chắc đâu có chạy bốn phương tám hướng như vậy ! Ủa ! Như vậy là làm sao? Chẳng lẽ từ bao lâu rồi mình đã “ghiền” cái hàm thiếc tự nguyện ấy rồi sao? Cũng chẳng sao hết. Đọc lại Tây Du Ký đi. Giá mà không có cái kim cô của Phật Tổ tròng vào đầu thì còn lâu Tề Thiên mới thành Đại Thánh ! Hồi nhỏ ông Khương có nghe người ta ví người vợ rồi cũng sẽ là người mẹ của ông chồng. Hồi đó ông đâu chịu tin. Làm sao mà có cái chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy được! Bây giờ có lẽ ông phải nghiêng theo chủ nghĩa xét lại rồi.

Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa. Ông Khương đang ở cái tuổi thất thập, tuy trí nhớ lúc nắng lúc mưa, nhưng ông nhớ rõ là đã thật lâu, lâu lắm, hơn ba mươi năm rồi, ông bà chưa một lần xa nhau, dù chỉ một ngày. Đi đâu là phải có đôi. Như chim liền cánh, như cây liền cành. Ông Khương nhớ từ ngày chánh quyền Miền Nam mất, ông Khương cũng bị mất mấy cái ghế trên các bục giảng nơi các giảng đường của ba bốn trường đại học, mất cả mấy chục ngàn môn sinh của mình mỗi năm, và dĩ nhiên là ông bị cho nghỉ dạy; điều mà bạn bè ông thường túm khụm nói chơi cho vui là chúng mình ôm bằng cấp treo trên nhà bếp để trở thành người mất dạy. Nghe thật tức cười nhưng cũng rất là “biện chứng” : Trong một xã hội kẻ chột làm vua thì người sáng mắt phải đi chỗ khác chơi, cho được việc nhà nước!!! Trước đó, lúc ông bà mới cưới và chưa có tí nhau nào, những lần đi gác hay chấm thi ông bà thường đi chung với nhau, coi như mỗi năm một lần “honey moon” cho đậm đà tình nghĩa. Không biết mấy ông Giám Đốc Nha Khảo Thí cố ý hay vô tình cứ đưa ông đi hết Nha Trang rồi Đà Lạt, rồi Vũng Tàu; có lần còn đi xem lăng tẩm ở Huế. Toàn là thánh địa của tình yêu. Ôi gió mát trăng thanh, rì rào sóng biển, non nước hữu tình. Khỏi nói thì ai cũng biết: chuyện tư, chuyện công, ông bà hoàn thành vô cùng tốt đẹp. Những năm đó thi cử còn khó khăn, còn sót những giáo sư cà vạt cổ cồn từ thời Pháp thuộc,  nên“mười người rớt bảy còn ba, rớt oral còn một mới ra anh Tú Tài”. Có lẽ vì ảnh hưởng cái khó khăn của thí sinh mà Khương Phu Nhân cũng chậm cho ra lò các quý tử. Ở trường thi, Khương Giáo sư là người mát tay, chấm đâu thí sinh đậu đó, còn chấm gà nhà thì sao cứ trật vuột hoài, tức ơi là tức! Khi Nha Khảo Thí bỏ thi hạch miệng, rồi ông Mỹ chỉ cho cách thi cử IBM, gọi nôm na là ABC khoanh, các giáo sư khó khăn cỡ giáo sư Trần văn Lúa nghỉ hưu thì thí sinh đậu nhiều hơn. Trong dân gian câu nói “ lúa rồi” để chỉ người trợt vỏ chuối dần dần biến mất trong giới thí sinh. Thí sinh đã bắt đầu khoanh giỏi và Khương giáo sư cũng từ từ giỏi khoanh hay là vì Khương Phu Nhân gặp thời thế thế thời phải thế, cũng theo phong trào đậu mà lần lượt cho ra đời các quý nam, mỗi năm một quý ! Quý nữ chót thì phải đợi khi Khương giáo sư hồi loan sau hai năm tu nghiệp ở Hồng Kông. Đó là thời gian hai người xa nhau lâu nhứt trong đời vợ chồng. Ôi hai cái năm đó mỗi lần nhớ tới là ông Khương thấy sót dạ đau lòng. Hai vợ chồng đều là nhà giáo, con đông, đồng lương ít ỏi mà sinh sống ở Sài thành hoa lệ, bà con không có, nhà cửa, giá cả sinh hoạt mắc mỏ như vàng, tháng nào đủ cho tháng đó đã là may. Ông Khương đi xa, mất một số tiền lớn khi dạy tư ở các trường khác, để lại đồng lương căn bản cộng với đồng lương nhà giáo của bà nhiều khi không đủ chi tiêu. Bà vốn là thiếu nữ yếu đuối chỉ biết sống bằng nghề dạy học. Viết thư cho vợ bao giờ ông Khương cũng bắt đầu bằng câu “Vợ yêu quí của anh”: “Vợ yêu quí của anh, bây giờ đã gần nửa đêm, anh đang ngồi đây trên tầng lầu thứ 59 của chung cư Ô Thước. Biển Thái Bình Dương mịt mùng ở xa. Phố xá nhạt nhòa dưới thấp. Mưa thì đang bay lất phất ngoài cửa sổ. Anh thì ngồi trong nầy thì thầm gọi tên em. Nhớ em và các con vô cùng. Hởi em yêu quí, ngay giờ phút nầy anh ước chi mình là cánh chim nhỏ vượt đại dương, rồi biến thành cánh bướm khuya bay vào cửa sổ nhà mình để ngắm nhìn em và các con đang an giấc điệp. Cánh bướm sẽ để lại một đóa hồng nhung nhỏ xíu trên chiếc gối bỏ trống nằm cạnh em. Em, em có đang nằm mơ thấy anh không? Anh thì luôn luôn thấy em, kể cả trong giấc ngủ. Không hiểu sao anh thường nằm mơ thấy em tất tả đi trong lòng phố, môi mắt buồn hiu, đầu trần đội nắng, tóc lệch đường ngôi, cánh áo dài màu thiên thanh nhập nhòa cát bụi. Anh cũng thấy nhiều lần cái gốc đường Cộng Hòa –Thành Thái ngày xưa, nơi mình gặp nhau mỗi sáng”. Về phía bà giáo Khương thì thư gởi cho chồng, mười cái như một, đại khái như thế nầy: “Anh yên tâm lo học hành, nghiên cứu. Việc nhà, việc con cái, em đều lo được hết. Anh đừng bận tâm, em bây giờ giỏi gấp mười lần trước. Các con cũng giỏi và ngoan lắm. Cuộc sống cũng đầy đủ, không thiếu gì đâu. Lúc anh mới đi, em buồn và nhớ anh lắm, nhưng bây giờ thì đã nguôi ngoai dần. Lo đi dạy, lo cho con, anh nghĩ coi em còn thì giờ đâu nữa mà ngồi buồn”. Những lời thư như vậy làm ông Khương yên tâm. Có thư vợ ông còn viết những lời chọc ghẹo ông: “Nè, em nói cho mà biết, đừng có loạng quạng với các tiểu muội The China Doll má thắm môi hồng xường xanh xường xám mà chết với em đó nhen cưng! Không giấu em được đâu. Mười móng tay em nhọn hoắc và dài tới mấy ngàn cây số lận đó! Hoạn Thư mà sống dậy cũng còn thua em xa.”  Những lời thư như vậy làm ông Khương càng yên chí vợ mình không quá buồn não như ông nghĩ. Nhưng có một lá thư do con trai lớn ông gởi qua khiến ông phải rơi nước mắt. Càng đọc thư con, ông càng thương nhớ vợ: “ Ba ơi, má bây giờ cực lắm. Xong giờ dạy ở trường, má còn đi kèm trẻ ở trong Chợ Lớn, đạp xe hàng năm, bảy cây số tới tối mịt mới về. Những đêm mưa, đường xá ngập nước, con hẽm nhà mình nước mưa lên tới đầu gối, má đội mưa, dắt xe đạp mà về, mình mẫy ướt hết. Má lo cho anh em con ở nhà giữa mưa sa, sấm chớp. Chị Hai giúp việc má cho nghỉ lâu rồi. Về nhà má còn lo cơm nước, giặt giũ, rồi ngồi chấm bài tới khuya. Mà ba ơi, nhiều đêm nửa khuya chợt thức giấc, con thấy má ngồi trong góc bếp rấm rức khóc, khóc một mình trong bóng đêm. Má bây giờ ốm lắm, như cây tăm. Tụi con biết, nhiều lần trước mặt các con, má cười như mếu, má cố đè nén cơn ho cũng như đè nén nỗi buồn”. Ôi! còn nỗi buồn nào lớn hơn nỗi buồn của ông Khương lúc đó. Họa chăng chỉ có nỗi buồn lớn như trời như biển của người vợ yêu quí của ông đang kham khổ nơi quê nhà mới có thể lớn hơn được. Ngày về nước, ông biết hết mọi chuyện. Các con nói cho ông nghe hết. Vợ ông chỉ biết khóc. Đêm đầu tiên trở về căn nhà mái tôn vách lá đơn sơ trong con hẽm nhỏ ở vùng Đa Kao, Tân Định, ông bà Khương chỉ biết ôm nhau mà khóc. Bao nhiêu nhớ nhung của tháng ngày xa cách bây giờ đọng thành suối nước mắt. Những thương khó của vợ trong suốt hai năm trời cao như núi. Bao nhiêu ngàn sạn đạo nàng đã một mình một bóng lầm lũi lê bước đi qua; nhiều khi đi giữa những ma quỉ chập chờn, những âm binh, chướng khí của một Sài Gòn hoang lạc về đêm. Người hiền phụ ấy đã như người nhắm mắt bịt tai đi trong những tiếng đời xao động. Ôi! Cây thập giá đời cả ngàn năm sau đã rơi xuống đôi vai mõng như lá mềm như sương của người con gái đất Long Hồ. Rạng sáng hôm sau, ông Khương dọn mình sạch sẽ, mặc bộ bà ba trắng tinh, đứng trước sân, đốt mấy nén nhang, trước là cảm tạ trời đất đã gìn giữ cho ông một mái ấm gia đình, sau là ông cảm tạ ba má vợ đã cho ông một hiền phụ chung tình, chịu thương chịu khó, chỉ biết có chồng con. Giữa trời đất tinh khôi với vầng Đông vừa ló dạng, ông cũng thầm cám ơn vợ đã cho ông biết được đầy đủ ý nghĩa của hai chữ Tào Khang. Từ đó đến nay đã gần tròn năm mươi năm rồi. Năm mươi năm chồng chất những thương yêu, tình nghĩa. Sợi dây ân tình mỗi ngày thêm bền chặt, gắn bó như keo sơn. Mỗi ngày bên nhau là một hạt nghĩa, mỗi hơi thở thương yêu là một hạt tình. Đến nay thì những hạt nghĩa tình lóng lánh ấy đã kết thành xâu chuỗi ngọc quí nhất trên đời. Mới đây, khi nghĩ tới đoạn đường dài tình nghĩa ông bà đã dắt nhau đi, ông Khương hứng chí làm mấy câu thơ:

 

Một đoạn đường dài, vạn nẽo chông chênh

ta nắm chặt tay nhau vượt ngàn thương khó

Hương lửa ba sinh mặn nồng từ thuở đó

hun tình yêu nồng thắm đến bây giờ.

 

Tạ ơn người tình, người vợ, người thơ

đã hết dạ cùng anh kết tròn xâu chuỗi ngọc

 

Những bài thơ có tình ý thiết tha như thế này, ông Khương dành riêng cho mình ngâm nga cho vui; chớ từ ngày con cái đã lớn, rồi có cháu nội, ngoại, rồi tuổi càng ngày càng cao, ông bà hình như mất dần những cử chỉ thân mật, những chăm sóc đượm tình như đôi mươi năm trước, nhất là ở những nơi đông người. Ở đây gặp nhau người ta hay “hug” nhau, ôm nhau, tỏ cử chỉ thân mật. Ông bà Khương biết đó là điều tốt, nhưng ông bà làm chưa được.

 

Những ngày đầu ở nước mới, như mọi người, ông bà Khương đâu tránh khỏi những âu lo. Vợ ông thêm một lần nữa chịu thương chịu khó. May là các con đã biết tự lo cho cuộc sống tương lai của mình. Khi tất cả các con đã nên danh phận, mỗi đứa một mái ấm gia đình riêng, cũng là lúc ông bà Khương nghỉ hưu. Tưởng rằng căn nhà sẽ trở nên buồn tẻ sau khi tiễn con gái út lấy chồng. Thực tế là không phải vậy. Gả con hay cưới dâu chính là dịp ông bà Khương có thêm con, thêm cháu. Thêm niềm vui. Mỗi ngày thêm niềm vui mới. Không biết từ hồi nào, căn nhà đã trở thành căn nhà mùa xuân. Xuân quanh năm suốt tháng. Xuân là những người có mặt trong nhà, xuân là tiếng cười ròn rã, là tiếng ca đớt đát của các cháu nội, ngoại. Nhà ông bà bây giờ ở đâu cũng thấy đồ chơi con nít. Hai đứa cháu nội Cu tí, Cu Ti, rồi cháu ngoại Mina, Mimi lần lượt chào đời cứ nối dài những tràng cười cho ông bà nội ngoại. Lúc cháu còn nhỏ, ông bà săn sóc, nuôi dưỡng từng đứa; lớn hơn một chút thì ông bà đưa cháu đi học, dạy nói tiếng Việt, nghe tiếng Việt, dạy chữ Việt. Người ta nói các ông bà thương cháu hơn thương con. Điều này thì ông bà Khương chưa xác quyết được, nhưng tình thương bây giờ hình như ông bà dành nhiều thật nhiều cho mấy đứa cháu. Có lẽ vì ông bà gần gũi với mấy cháu hơn là với cha mẹ chúng nó. Nghe đứa cháu này bặp bẹ mấy tiếng nói đầu tiên, thấy đứa cháu kia tập đi từng bước, té lên, ngã xuống, ông bà đã thấy đầy niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui và hạnh phúc thật gần, có xa xôi gì đâu; vói tay là đụng tới. Mỗi lần nghe con Mina đớt đát ca: “Con mèo trèo lên cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà, chú chuột đi chợ đường xa, mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo”  là ông bà Khương ôm bụng cười lăn, trăm lần như một. Có một câu mà mỗi lần Cu Tí ca là cả nhà không nín được cười: “công cha như búa Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong buồng chảy ra”. Cả nhà cười như bể chợ. Anh con rễ người Việt nhưng không hiểu nhiều tiếng Việt cũng cười nghiêng ngữa. Cô con dâu người Đức không hiểu “búa” hay “núi” cũng như không hiểu “nguồn” hay “buồng”  là gì cũng cười ngoặt ngoẽo. Vợ chồng thằng con trai thứ chưa có con nên nếu muốn cười thì cứ về nhà cha mẹ mà cười cho bể bụng. Trước kia khi chưa có đứa cháu nào ra đời, vợ chồng anh con trai thứ này rất lười về nhà. Nay thì hết vợ tới chồng đeo theo mấy đứa cháu. Nhà ông bà Khương ngang nhiên trở thành một hí viện chuyên trị hài kịch. Các đứa cháu đóng kịch, ba má chúng nó đóng kịch, cả hai ông bà cũng đóng kịch. Ông Khương có biệt tài nhái giọng con Elmo trên đài số 8 cho các cháu cười vui thỏa thích. Kịch sĩ hay hay dỡ thì không biết, chỉ biết căn nhà lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười. Những buồn phiền, những căng thẳng ở sở làm, những “road rage” trên đường phố, những biêu những biếc, những lo những liếc, v.v… đều bị bỏ hết phía ngoài cửa. Trước cửa nhà ông bà Khương thiếu điều có treo tấm bảng “ No Stress Allowed ” hay “Stress Free”.

Nói đi thì cũng phải nói lại. Có khi ông bà Khương cũng buồn thấu xương. Hai ngày cuối tuần, hay ngày lễ, các cháu ở nhà cha mẹ chúng nó; nhà ông bà Khương trống vắng, đìu hiu. Chỉ xa có đôi ngày thôi mà nhớ thì vẫn nhớ. Gọi điện thoại tới lui mà vẫn nhớ. Sáng Thứ Bảy hay Chủ Nhựt nghe đứa nầy gọi, đứa kia gọi thăm ông bà; ông bà nội ngoại vui no đầy, không cần ăn sáng cũng no. Cứ mỗi sáng sớm Thứ Hai, ông bà chờ nghe tiếng mở cửa để ôm mấy cháu vào lòng cho thỏa cái nhớ. Hay là những lúc các cháu theo cha mẹ đi xa, hoặc có đứa này, đứa kia bị bịnh, căn nhà lúc đó vắng tiếng cười. Như mấy ngày nay đây, bà Khương vào bịnh viện, các con nghỉ phép ở nhà săn sóc con cái cho nên đâu có đứa nào tới nhà ông. Căn nhà vắng vẻ như am mây. Mùa xuân không kèn không trống dông đâu mất. Đi tới đi lui cũng một mình. Biết vậy thì vào bịnh viện luôn với bà cho đỡ tức.

Cái tức chưa hết thì điện thoại reo, ông Khương gắn bộ phận trợ thính vào hai tai rồi nhấc máy.

-Ông ngoại ơi, con Mina đây nè ngoại.

-Ừa, con Mina. Ngoại nghe đây. Con đang ở đâu vậy?

-Dạ, con đang ở tại hospital.

-Ừa, con có gặp bà ngoại chưa?

- Dạ rồi. Sao ông ngoại không đi rước bà ngoại vậy?

-Ông ngoại không rãnh con à.

Tiếng thằng Cu Tí chen vào:

-Ông ngoại hư lắm nghen. Chừng bà ngoại về, bà ngoại bắt ông ngoại đứng corner đó nghen.

Ông Khương nghe tiếng cười khục khục trong máy. Chắc có người đang dành điện thoại để nói. Chuyện đứng corner bây giờ thì ông không phải thi hành rồi, nhưng nhớ lại ông cũng là người đứng góc đường chuyên nghiệp. Chàng là sinh viên Đại Học Sư Phạm trên đường Cộng Hòa, còn nàng là nữ sinh Sư Phạm Thực Hành trên đường Thành Thái, ngang với học viện Bác Ái. Mỗi sáng đứng góc đường nhìn cái mặt nàng một phát mới yên tâm vào lớp. Mấy năm trước đó, tại đất Long Hồ, thằng con trai tỉnh lẻ hĩ mũi còn chưa sạch mà lại thích trồng cây si ngay trước cổng nhà nàng nữa. Quả là con nít quĩ! Nhớ tới mà mắc cỡ quá trời.

-Ngoại ơi, sao ngoại không nói gì hết vậy?

Mãi nghĩ tới chuyện ngày xưa yêu nhau mà quên phứt cái điện thoại.

-Ừ, ờ…Chừng nào thì về vậy con?

-Một chút nữa thôi.

Tiếng con Mimi chen vào:

-Bà ngoại nói bà ngoại nhớ ông ngoại lắm đó, nhớ nhiều thiệt là nhiều.

Ông Khương dằn tay trên ngực để ngăn chút xúc động vừa đến dù ông biết con bé đang dở quẻ chọc ghẹo ông ngoại đây; chớ ông dư hiểu vợ ông đâu có nói câu đó trước mặt ai. Ông biết vợ ông: già mà vẫn mắc cỡ như gái tơ!

- Mà…mà …ông ngoại có nhớ bà ngoại hông? Hì…Hì…

Con bé tiếp tục đùa dai đây. Ông cũng vậy, ông muốn nói ngay với cháu ngoại là ông cũng nhớ bà ngoại lắm. Nhưng cũng như vợ, lâu rồi những lời thương yêu ấy chỉ nằm đâu đó trong bụng, đâu có thoát ra khỏi miệng ông được khi có bá quan văn võ trước mặt, nên ông chỉ ậm ừ cho qua:

- A..a..a. mà con sắp về chưa?

- Sắp về rồi. Ông ngoại nhớ “hug” bà ngoại nhen.

Đến đây thì ông chịu thua con bé. “Hug” giữa thanh thiên bạch nhựt là chuyện khó dàn trời đối với vợ chồng ông bây giờ. Tay chưn còn ít khi nắm nói chi đến chuyện ôm với ấp. Làm sao ông hứa với nó được. May là ông nghe tiếng vợ ông, nhỏ nhẹ như hơi gió, ngọt lịm như đường phèn:

-Mình ơi, mình nấu giùm em miếng cháo nhen. Thấy thèm cơm nhà quá trời đi.

-Mà mình muốn ăn cháo gì?

-Biết rồi mà còn phải hỏi!

Bà ngừng nói một cái rụp. Điện thoại cũng im. Chừng đó ông Khương mới thấy rõ ràng ông là ông già lẩm cẩm. Còn gì mà phải hỏi nữa chớ: Chỉ còn thiếu có vài ngày nữa thôi thì chung chiếu chung chăn vừa đủ nửa thế kỷ, ông đã biết quá rõ là từ hồi năm thìn bão lụt đến bây giờ vợ ông chỉ thích có một thứ cháo duy nhứt, đó là cháo bát thảo. Trí óc ông lại tối u như đêm ba mươi, đang nói về cháo mà bà chêm vô cái gọi là “thèm cơm nhà” mà chẳng hiểu mô tê gì hết lại còn hỏi một câu lãng xẹt. Bà bóng gió nói là bà nhớ ông đó, hiểu chưa ông già chậm tiêu!

Như vậy là ông Khương có việc để làm, để đoái công chuộc tội. Nồi cháo hôm nay phải là nồi cháo của thế kỷ. Những tuyệt chiêu ông phải đem ra hết. Từ hôm qua ông đã biết rõ là mấy giờ trưa nay thì vợ ông xuất viện, mấy giờ là về đến nhà. Nhìn đồng hồ, còn đúng một giờ hai mươi tám phút nữa, chắc là đủ cho ông nấu xong nồi cháo bát thảo. Cũng không khó khăn gì, ông Khương đã quen với việc này rồi. Bà Khương hay bất thường muốn ăn cháo bát thảo do chính ông Khương nấu. Đã có sẵn trong tủ lạnh: Hột vịt bát thảo, thịt xay, tôm, hành lá, hành phi… Chỉ thiếu ngò rí và giá sống là đủ bộ. Mà giá sống phải tươi, mập, ngắt đầu, ngắt đuôi bà Khương mới chịu. Nồi cháo cũng phải thật nóng, nguội là bà chê. Cháo còn dư đừng hòng bà Khương ngó tới. Trong lúc chờ thịt xay và tôm hết đông đá, ông Khương chạy ngay ra đầu đường xách về một pound giá sống vừa tươi, vừa mập, trắng nõn và một nhúm ngò rí xanh rì. Nhớ hồi xưa có lần lặt giá với vợ, ông buộc miệng:

-Coi cọng giá nè em, sao nó giống như là cánh tay trắng nõn nà, tròn trịa của người đẹp.

Vợ ông ngừng tay, liếc nhìn chồng một cái bén ngót như dao cau, rồi gằn từng tiếng nói, răng nghiến trèo trẹo:

-Người… đẹp… nào… vậy.. hở… anh chồng yêu quí của em?

Nhìn vợ và nghe cách nói của vợ, ông Khương biết ngay là cơm không lành canh không ngọt rồi. Ông ú ớ chưa trả lời xong thì dòm quanh ông Khương thấy còn lại một mình mình trong bếp. Bà Khương đã vào buồng nằm khóc. Người xưa đã dạy: không quen nói chơi thì chỉ nên nói thật, hay tốt nhứt là đừng nói. Chí lý thay.

Bây giờ lặt từng cọng giá mà ông Khương nghe lòng thật vui. Ông nhớ mỗi lần vợ ông sanh, ông kho một nồi thịt nạc kho tiêu, vợ chồng ăn cả tuần lễ vẫn thấy ngon, vừa ăn vừa hít hà, vừa sung sướng nhìn con say ngủ. Có lần ông còn mua cho bà chai rượu chát đỏ hiệu con mèo để bà uống cho ấm bụng. Ông Khương liếc nhìn đồng hồ. Còn đúng mười bốn phút hai mươi hai giây nữa. Rồi mười hai phút. Năm phút. Ông Khương nếm nồi cháo. Tất cả đều chín, nhưng hột gạo chưa nhừ. Trời, gạo chưa nhừ! Cháo mà không nhừ thì không được với bà Khương. Chết cửa tứ rồi. Phải vặn lửa lớn hơn thôi. Đến đây tự nhiên ông Khương nhớ hồi bà có mang thằng con thứ ba, bà không chịu được mùi cá cho nên gần chín tháng trời ông phải thủ bếp. Cơ khổ, ông Khương chỉ lan man nhớ cái bếp từ đời nào mà quên luôn cái bếp đang đỏ điện bây giờ. Khi có tiếng cửa mở thì ông Khương cũng vừa nhớ nồi cháo. Ông dỡ nấp nồi. Mùi khét làm ông Khương đứng như trời trồng. Như vậy là coi như thua cháy túi! Ông Khương tự trách mình. Đã lẩm cẩm, bây giờ lại thành ông già vô tích sự. Nấu một nồi cháo đãi vợ cũng không xong. Vậy mà cũng nói thương với yêu! Mùa xuân tưởng đã sắp về, bây giờ bỗng bay đâu mất! Rõ khổ!

Vợ ông, rồi cháu chắt,và vợ chồng con gái ùa vào nhà để nghe mùi khét lẹt từ trong bếp bay ra. Ông Khương tưởng như mình cũng đang bị nhấc bổng bay vào một góc nhà bếp.

-Ông ngoại ơi! Bà ngoại về rồi nè.

-Ừ, ông ngoại biết.

-Mà ông ngoại đang ở đâu?

Đứa khác chen vào:

-Bà ngoại giận ông ngoại rồi.

Đầu óc ông Khương bây giờ bay đi đâu đó, chắc cùng bay theo mùi khét của “nồi cháo thế kỷ” mà ông đã vận đủ mười thành công lực để tạo nên. Ông đứng trong góc bếp mà thần trí lang thang ở bể nội non ngàn nào.

Rồi ông nghe tiếng nói thật vui của vợ ông, vẫn dịu như mía lau, ngọt như đường phèn:

-Ông ngoại con đang đứng corner để chờ bà ngoại đi học đó.

Không ai hiểu bà Khương nói gì, ngoài hai bạn già gốc Long Hồ đã từng hẹn hò tại góc đường Cộng Hòa và Thành Thái hơn năm mươi năm trước.

 

Cả chục nồi cháo mà có khét, thậm chí có cháy, có thành than, thành đá đi nữa thì tình vẫn là tình, nghĩa vẫn là nghĩa, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó phải không, kính thưa chư liệt vị bốn phương? Năm mươi hay trăm năm thì tình có bao giờ cũ đâu. Muôn năm tình vẫn mới.

Căn nhà đã là mùa Xuân thì cánh hoa nào ở trong đó cũng là hoa xuân, kể cả hoa dại.

 

Trần Bang Thạch

Đóa chung tình

 

Những dòng thư của Y-Linh như hàng trăm, hàng ngàn nốt nhạc bất ngờ len vào từng ngỏ ngách da thịt tôi. Tôi cảm nhận hết những nốt cao, nốt trầm. Những cung oán cung thương chạy vào từng tế bào não, rồi chạy xuống tế bào tim để tôi nhớ hết một cuộc tình của mấy chục năm qua. Nhớ hết để buồn thêm nhiều.

 

Tôi nhận lá thư khi vừa về đến nhà sau lễ mãn tang vợ tôi tại Linh Sơn Tự. Từ lâu lắm rồi, dễ chừng cả chục năm nay, từ ngày cha mẹ tôi rồi các anh chị em lần lượt nối nhau qua đời tại quê nhà, tôi không nhận được một thư nào từ Việt Nam hết. Tuổi càng cao càng không thích viết thư. Thư viết đã không có thì thư nhận cũng không. Cho nên khi thoạt nhìn thấy loại bao thư có những vệt xanh, đỏ viền quanh thường dùng ở Việt Nam, tôi đã hết sức ngỡ ngàng. Tôi đọc  tên người gởi đề trên bao thư: Hoa Chung Tình. Ba chữ này hiện lên như một lằn chớp sáng giữa đêm đen của trí nhớ tôi. Tôi cảm thấy một cơn gió mạnh làm bật dậy hết những mảng ký ức đã nhiều năm vùi sâu dưới lớp bụi thời gian.

 

Hoa Chung Tình. Hoa Chung Tình. Hoa Chung Tình. Tôi cứ lập lại ba tiếng ấy như lật lại từng trang, từng trang quyển sách của một đoạn đời mà tôi đã xếp lại từ hơn ba mươi năm nay. Thật sự thì cũng có đôi lúc tôi lơ mơ đọc vài trang sách ấy như người nhàn tản lạc bước trở về một góc vườn xưa, thấy lại một đóa hoa dại chừng như đã gặp đôi lần, nghe một chút hương quen, cảm một chút mùi nhớ. Rồi thôi. Cái chết của vợ tôi ba năm trước như để lại hàng ngàn mũi kim nhọn cứ thay nhau mà làm tôi đau nhức. Tôi thương nhớ vợ tôi như thương nhớ nỗi mất mát vô cùng lớn của mình. Niềm đau nhức này chưa nguôi thì nỗi đau khác ụp đến. Lá thư của Y-Ling viết: « Em là Y-Ling. Chắc anh không còn nhớ em, đứa em gái út của chị Y-Lang. Bất ngờ nhận thư này, có lẽ anh cũng không nhớ chị Y-Lang là ai nữa. Còn cái tên Hoa-Chung-Tình chẳng lẽ anh cũng quên? Không sao. Rồi em sẽ lần lượt nhắc lại cho anh. Lâu quá rồi mà, hơn ba mươi năm, đủ để người ta quên những nhặt nhạnh của đời sống. Lúc biết anh, em chỉ mới hơn mười tuổi. Bây giờ em đã gần năm mươi. Gia đình em vẫn ở buôn làng Strưng, vẫn ngôi nhà sàn dưới chân đồi, cạnh ngôi giáo đường có cái tháp chuông cao nghệu. Con đường sỏi đỏ trước nhà vẫn chạy giữa hai vệ đường đầy hoa sim tím hướng về sông Ba. Con sông Ba vẫn muôn thu rì rào tiếng sóng. Chỉ có chị Y-Lang của em thì không còn. Chị Y-Lang đã mất rồi anh ạ! Mới mất hôm qua. Phải, chị Y-Lang đã ra đi vĩnh viễn hôm qua. Giá mà chị Y-Lang còn sống thì chắc chắn anh không có lá thư này.Và chắc chắn anh sẽ không phải bận tâm suy nghĩ về một câu chuyện đã quá cũ. Ước muốn cuối cùng của chị Y-Lang là những dòng chữ cuối đời của chị phải được gởi đến anh sau khi anh mãn tang vợ.Thư tới hay không, sau hay trước ngày cuối của ba năm tang chế của anh thì em không chắc. Em chỉ biết gởi thư đi và cầu nguyện cho ước vọng của chị em được thành. »

 

Tôi ngừng đọc lá thư dài của Y-Ling để đọc lá thư  của Y-Lang: « Anh yêu, cuối cùng thì em cũng phải đến với anh. Đừng trách em. Em không còn bao nhiêu thì giờ nữa. Hơn ba mươi năm nay em đã đứng thật xa mà nhìn. Em im lặng mà nhìn một nửa đời mình đang trôi giạt ở một nơi chốn nào đó. Mỗi lúc một xa. Em nói một nửa đời em đã theo anh, điều này chắc anh hiểu nếu anh còn nhớ tới ý nghĩa của cánh hoa Chamtsieng, cánh Hoa Chung Tình mà anh đã tặng em từ mấy mươi năm trước... »

 

Hoa Chamtsieng. Hoa Chung Tình. Làm sao tôi quên được. Bây giờ trí nhớ của tôi như con nước ngược dòng mì mò trôi về bến cũ. Bến sông Ba. Buôn làng Strưng. Người con gái thượng. Tôi nhớ hết. Buổi chiều đó Y-Lang và tôi đi lang thang về phía sông Ba. Mùa thu ở đây hiển hiện trên những cánh lá vàng ối . Đặc biệt là lá tuy vàng nhưng có khi cả một, hai tháng lá mới chịu lìa khỏi cành. Người ta nói ở đây cái gì cũng chung tình, từ những chiếc lá vàng úa đến chim chóc, hoa lá và con người. Người ta biết mùa thu đã về khi nhìn thấy đồi núi, cỏ cây như được bao phủ bởi một mảng lưới khổng lồ màu vàng. Ở đây cũng có một loài chim, người Rađê địa phương gọi là chim hnê. Chim hnê dáng nhỏ như chim sáo dưới đồng bằng. Tiếng hót thật trầm, dường như chỉ thốt ra những lời nhỏ to tình tự giữa con mái và con trống. Chim có bộ lông vàng mượt, mỏ đỏ, chân đen, thường bay hay đậu từng cặp; không hề thấy một con lẻ bạn. Dù có bay từng đàn vài trăm con thì vẫn là từng nhóm hai con bay sát với nhau. Tôi nói với Y-Lang là tôi muốn đặt tên loài chim này là chim Uyên Ương. Y-Lang rất thích cái tên này. Người ta chỉ thấy chim hnê khi mùa thu trở về. Những mùa khác thì chim đi mất biệt, không thấy một con. Màu vàng của núi rừng, màu vàng của chim và màu áo vàng của Y-Lang mặc chiều hôm đó cho tôi cái cảm tưởng Y-Lang là chim, là lá, là hoa, là khói, là sương, thoáng ẩn, thoáng hiện giữa một núi rừng dát vàng, dát bạc. Trong một thoáng bàng hoàng, tôi thấy trước mắt tôi là một nữ thiên thần dung nhan kiều diễm với đôi cánh mỏng chấp chới bay trong sương chiều. Tôi nhớ rõ chính cái ý nghĩ sợ rằng trong một khắc giây bất chợt, đôi cánh thiên thần sẽ biến mất trong khu rừng cổ tích mênh mông trước mắt, nên tôi đã bất thần ghì chặt nàng tiên vào lòng. Trí óc tôi lúc ấy đang đi lang thang trong vùng uyễn mộng. Hồn tôi cũng chấp chới bay theo đôi cánh của thiên thần.Tôi hôn nàng tiên của tôi như điên dại... Có lúc tôi thấy Y-Lang là một dải mây mỏng cô đơn trôi bồng bềnh trên mặt sông Ba. Sợ mây trôi mất, tôi chạy theo dải mây, bắt mây giam cứng trong lòng ngực mình. Dải mây Y-Lang không môt chút chống cự. Nàng như một cái xác mềm nhũng trong vòng tay tôi. Nàng chỉ biết khóc. Tôi say sưa uống từng giọt nước mắt của nàng. Những lời tình tự hình như đã được thốt ra từ hai kẻ mộng du. Rồi trong một phút giây chợt tỉnh, Y-Lang thoát khỏi vòng tay tôi, nghiêng ngã chạy về phía bờ sông.  Tôi cũng vừa bước ra khỏi cơn mê. Mặc cho đá sỏi, gai chông, nàng chạy như cố thoát một hình ảnh ma quái đang rượt đuổi phía sau. Cuối cùng Y-Lang ngồi xuống phiến đá nằm trên một nhánh nước cạn của con sông Ba. Hai đứa tôi ngồi ôm nhau trên phiến đá. Tôi dợm nói mấy lời xin lỗi, nhưng Y-Lang vừa lắc đầu vừa đặt nhẹ hai ngón tay còn ấm nước mắt lên môi tôi, tỏ ý không cho tôi nói lời nào hết. Hai đứa tôi ôm nhau mà khóc. Tôi khóc vì hành động nông nỗi của mình. Nàng nói nàng khóc cho cuộc tình này. Thuở ấy tôi không hiểu ý nghĩa sâu xa trong câu nói đầy nước mắt của Y-Lang. Bây giờ thì tôi đã hiểu. Nàng đã thấy trước những gì nàng phải gánh chịu. Người con gái buôn làng ngây thơ hồn nhiên yếu đuối, cả đời con gái chỉ biết yêu thương cái cỏ cái cây, cái hoa cái lá, đất đá, côn trùng, chim muông, mây trắng... giờ đây đang biết mình tự kề đôi vai nhỏ nhoi mà gánh gồng một gánh tình quá nặng, khi tuổi đời vừa chớm hai mươi.

 

 Mỗi chiều, trên chiếc băng gỗ sần sùi nơi góc giáo đường là Y-Lang với muôn lời cầu nguyện cho cuộc tình mà nàng sớm cảm nhận sẽ lắm trái ngang.

 

Những ngày sau đó chúng tôi là đôi tình nhân hạnh phúc nhất trong vườn địa đàng dát vàng dát bạc này. Con sông Ba như cùng vui với chúng tôi. Nước từ đầu nguồn chảy về nghe êm như khúc nhạc tình. Đứng trên mõm đá cao, cầu vòng ngũ sắc ngay trên đầu như giăng hoa kết đèn cho một đêm hợp cẩn. Từng cặp chim Uyên Ương rầm rì trong vòm lá; chúng nói với nhau về đôi uyên ương hạnh phúc trước mặt. Có một chiều, chúng tôi đi về phía hạ lưu sông Ba. Rồi do một tình cờ dun rủi, chúng tôi đến một ngọn đồi thấp nằm bên tả ngạn. Một lạch nước nhỏ chạy vòng vòng ngọn đồi theo chiều trôn ốc. Chúng tôi chân trần dắt nhau đi theo dòng nước. Lúc nào cũng có đôi chim Uyên Ương bay trên đầu, rầm rì tình tự. Dòng nước đưa chúng tôi tới một bãi hoang. Nơi đây cánh áo vàng của rừng cây vào độ giữa thu chừng như bay đi đâu mất, để lại  những cây xanh có hoa tím mọc thành chùm, mỗi chùm chỉ có hai đóa như hai chiếc vòng ngọc sa-phia kết dính vào nhau tạo hình con số 8.

- Hoa Chamtsieng! Hoa Chamtsieng!  Y-Lang reo vui như đứa trẻ gặp một món đồ chơi mong ước từ thật lâu. Rồi ngay sau đó Y-Lang quay mặt về hướng khác, nàng đứng thẩn thờ như đang suy nghĩ một điều gì. Thấy nàng thích hoa, tôi nhanh tay hái cho nàng một đoá. Y-Lang liền ngăn tôi lại, nhưng không còn kịp. Rồi nàng nói cho tôi nghe về hoa Chamtsieng. Hoa Chamtsieng chỉ nở vào mùa thu, thường kéo dài ba tháng. Mỗi ba năm mới nở một lần. Chỉ có buôn làng Strưng mới có loại cây hoa dại này. Những buôn làng khác không hề có. Người ta nói làng Strưng có hoa Chamtsieng chính là điều đại kỵ. Hoa Chamtsieng chỉ nở tại buôn Strưng để đời đời con gái Strưng phải trả cái quả báo mà những tội lỗi do những người nữ tổ tiên của họ đã gây ra. Tương truyền rằng giòng họ Strưng nhiều trăm năm trước là một họ trong năm họ lớn của sắc dân Ra-đê, sống du mục quanh vùng rừng núi Kontum, Phú Bổn, Ban Mê Thuột. Người Ra-đê luôn thương yêu và đùm bọc nhau. Một luật lệ khắc nghiệt của người Ra-đê là người đàn bà Ra-đê một khi chồng chết thì chỉ có hai chọn lựa: hoặc tái giá với anh hay em chồng để giữ phần tài sản nhà chồng; hoặc nếu không có anh em chồng thì ở giá mãn đời. Một luật lệ khác là cấm ngặt chuyện hôn nhân giữa người của họ với người kinh, hay bất cứ với một sắc dân nào khác. Điều luật tai ác này một hôm đã xãy đến cho bộ tộc Strưng: Một hôm cả ba cô con gái của trưởng tộc Strưng phải lòng ba anh thợ rừng người kinh. Giữa đêm cả ba cô gái trốn nhà theo tình nhân. Họ theo bè gỗ xuôi theo dòng sông Ba về phía hạ lưu. Cả bộ lạc được cấp tốc báo động.Trưởng tộc Strưng cùng các trưởng tộc khác và tráng đinh cả bộ lạc nộ khí xung thiên với tin động trời này. Với gậy gộc, giáo mác, cung tên, họ chia nhau lục xoát rừng núi. Quá nửa đêm, toán truy lùng bắt gặp cả ba đôi nam nữ trên bè gỗ. Bè cứ xuôi dòng mặc cho tiếng reo hò hai bên bờ sông. Nhiều mũi tên bay đi. Trên bè gỗ, từng đôi, từng đôi, họ ôm nhau mà thọ tiễn. Máu nhuộm đỏ một khúc sông. Sau đó bộ tộc Strưng bị các bộ tộc khác thù ghét; bị cho là người Strưng đã phạm tới thánh thần. Họ dời lần về phía sông Ba, xuống vùng hạ lưu, sống cách biệt với các bộ tộc khác. Mùa thu ba năm sau, tại một cánh rừng sâu, giữa một rừng lá vàng, người ta thấy một loài hoa tím mọc từng chùm hai đóa trên những bụi cây xanh cao vừa bằng đầu người. Tục truyền rằng máu của những kẻ chết vì tình này trôi dạt lên bờ rồi mọc thành hoa. Hoa được đặt tên là Chamtsieng, có nghĩa là chết vì tình. Từ đó vô phước cho cô gái Strưng nào đang có người tình mà trông thấy hoa Chamtsieng, hay được người tình vô tình mà trao cho một đóa thì coi như nàng đã biết trước đoạn kết đau thương của mối tình mình. Cho nên vào mùa thu, các cô gái Strưng không dám cùng tình nhân đi vào rừng sâu và họ sợ thấy những cành lá xanh. Họ cũng tuyệt đối không dám thương yêu người kinh hay người bộ lạc khác. Từ đó dân bộ tộc Strưng mỗi lúc một thưa dần. Lúc tôi đến Strưng thì dân số chưa quá một trăm. Đó là lần thứ nhì, cũng là lần sau cùng tôi trở lại Strưng vào khoảng đầu năm 72. Tôi đã lưu lại Strưng gần một tháng để sưu tầm tài liệu cho bài luận văn Cao học Nhân chủng của tôi tại Văn Khoa. Y-Lang đã giúp tôi rất nhiều trong công việc này. Tình yêu cũng đã đến với chúng tôi vào những ngày tôi sắp rời Phú Bổn. Tôi cũng đã thấy và biết ý nghĩa của loài hoa hiếm này. Y-Lang rất đồng ý với cái tên Hoa Chung Tình tôi đặt cho hoa Chamtsieng. Lần đầu tôi đến Phú Bổn vào năm 1967 cùng với phái đoàn gần 30 sinh viên chứng chỉ Văn Minh Việt Nam tại Văn Khoa do thầy Nghiêm Thẫm hướng dẫn. Lần đó tôi đã quen biết người nữ y tá tên Y-Lang tại quân y viện Phú Bổn khi tôi được đưa vào chữa trị  vết rắn cắn nơi ống chân trái. Tôi cũng được biết người thanh niên gốc từ buôn làng Strưng tên B. là người đang cố theo đuổi Y-Lang mà chưa được đáp lại.

 

“... Anh biết không, ngày anh rời Phú Bổn chị em khóc hết nước mắt. Chiếc C47 đưa anh đi xa chừng nào thì chị em gần với nỗi đau chừng ấy. Lúc đó chiến sự thêm khốc liệt, chị Y-Lang vùi mình trong công việc ở bịnh viện. Những lúc rảnh tay ngồi nơi một góc tối trong bịnh viện, hay những lúc một mình trong căn nhà vắng thì chị em mới tự do mà rơi lệ. Nếu ba em hay dân trong buôn biết thì không hiểu sự thể xấu tới đâu. Và những gì sẽ đến với chị khi mà luật lệ của bộ lạc vẫn muôn đời không thay đổi. May mắn là chỉ có em biết mối tình của anh chị . Anh nghĩ ngoài em ra thì Y-Lang còn dám thổ lộ tâm tình với ai nữa. Hơn ba mươi năm cũng chính em là người duy nhất nghe và hiểu tiếng thở dài não nuột của chị em giữa đêm khuya. Mỗi độ thu về thì lòng Y-Lang cũng theo hằng vạn cánh lá thu mà héo úa. Lá úa thì cũng phải lìa cành, phải rơi; dù cho lá ở đây cũng là lá chung tình với cây với cội. Còn nỗi lòng của Y-Lang thì chị cố giữ, giữ chặt cho riêng mình. Em có cảm tưởng Y-Lang vì cố nuốt  ngàn giọt nước mắt của mình trở vào lòng nên nước mắt của chị cứ chảy hoài, không dứt. Chảy suốt thiên thu. Trên ba mươi năm biết bao nhiêu là lá đã vàng. Biết bao nhiêu là tàn phai của một nhan sắc. Biết bao nhiêu là ướt đẫm gối chăn. Em đã nhiều lần khuyên chị nên quên. Quên mối tình đầu. Quên luôn người đã ra đi biền biệt, bặt hơi tăm cá. Bây giờ anh đừng trách em: em đã nhiều lần nói với chị anh là người không tốt, nên xếp cái chuyện tình một sớm một chiều ấy vào đáy rương ký ức để làm lại một cuộc đời mới. Người phó hành chánh tên B. cứ chờ một tiếng trả lời của chị. Anh ấy cũng đã chờ hơn ba mươi mùa lá rụng. Năm trước anh ấy mất mà mắt cứ mở trừng trừng; chỉ nhắm lại khi chị Y-Lang vuốt nhẹ. Em còn nhớ hồi năm 1973 nghe tin anh đậu bằng cao học, chị Y-Lang có một thoáng vui hiếm quý. Rồi vài tháng sau hay anh cưới vợ em tưởng chị Y-Lang sẽ đáp lại mối tình của anh B. Không, chị Y-Lang vẫn tha thiết với mối tình đầu. Cuối năm 73 nghe anh nhập ngũ rồi ra chiến trường, chị Y-Lang bỗng có niềm mơ ước lạ lùng là biết đâu có ngày chị được gặp lại anh, người thương bệnh binh được chị săn sóc. Sau năm 75, hay anh và gia đình đang ở nước ngoài, chị Y-Lang có một chút vui. Sau đó là nỗi buồn thiên thu trở về với chị. Anh B. vẫn là kẻ chờ mong, chờ cho đến chết...”

 

Càng đọc thư của Y-Linh tôi càng thấy mình hiện hình rõ ràng là một tội đồ, kẻ tội đồ đã làm hại những con chiên ngoan của đạo chung tình. Tôi nhớ hết. Tôi nhớ anh B., người Ra-đê ở buôn làng Strưng, tốt nghiệp Phó đốc sự trường Quốc Gia Hành Chánh, giữ chức vụ phụ tá hành chánh tỉnh Phú Bổn. Anh là người cao to, càm vuông, ngực nở, vai rộng, da dẽ như dát đồng; vậy mà tiếng nói của anh nhỏ nhẹ, chậm rãi, nói mà như ngâm thơ. Tôi biết anh từ lần đầu tôi đến Phú Bổn. Lần thứ hai thì anh và tôi trở thành bạn rất thân. Y-Lang, Y-Linh, anh B. và tôi có những lúc sinh hoạt chung rất là vui. Anh B. có tài chơi  khèng và đàn violon. Có lẽ anh B. là người nhạc sĩ Việt Nam duy nhất dùng khèng để sáng tác nhạc và chơi những tấu khúc JJ Strauss. Hai chị em Y-Lang thì hát rất hay, người có giọng kim, người giọng thổ, tiếng hát hồn nhiên như chim, như gió. Còn tôi chỉ biết vừa nghe vừa nấu những món ăn dưới kinh đãi mọi người sau những đêm vui. Rượu cần hấp nóng uống cho tới sáng mà ít có người say. Vậy mà khi về lại Sàigòn tôi gần như quên hết mọi chuyện; chỉ có những xấp tài liệu dầy cộm về người Ra-đê, đặc biệt là bộ tộc người Strưng thì tôi tra cứu hàng ngày cho cái bằng cao học của tôi. Trước hết là chuyện học hành, chuyện bằng cấp, chuyện cái ăn cái mặc trong bon chen, chụp giựt, nhốn nháo của một Sàgòn nửa chiến tranh nửa ăn chơi, tham nhũng. Rồi vợ con, lính tráng tận vùng U Minh, Chương Thiện... khiến tôi quay cuồng với bao nhiêu là công việc. Đôi khi tôi có chợt nhớ đến những ngày bên dòng sông Ba. Nhớ một chút người con gái trong căn nhà sàn cạnh ngôi giáo đường cũ kỹ. Có lần tôi nghe tin anh B. từ chối lời đề nghị về Sàigòn làm phụ tá cho Tổng trưởng Bộ Sắc tộc. Anh chỉ muốn  ở lại Phú Bổn. Tôi cũng có nghe anh điều trần trước Quốc Hội về một đề nghị cấm chỉ vài luật lệ gắt gao, lỗi thời vẫn còn đang thực hiện tại các buôn làng, trong đó có việc bộ lạc Ra-đê cấm con cái mình kết hôn với người ngoài bộ lạc. Đề nghị ấy rồi ra sao, tôi không theo dõi. Không hiểu từ một lý do nào mà tôi đinh ninh rằng Y-Lang quả rất xứng hợp với B. và thầm cầu nguyện cho hai người được hạnh phúc. Bây giờ hiểu được mọi chuyện thì mới biết rằng mình có một ý nghĩ quá hồ đồ, chỉ nhằm chạy trốn một tình yêu và một lời hứa cũ.

 

“... Anh yêu, khi yêu anh em biết tình yêu của mình là một định mệnh chua xót, kết liền với một lịch sử oan khiên. Anh còn nhớ không, ngay cái giây phút anh hái đóa Hoa Chung Tình em đã biết mình, chỉ một mình em, là phải trả cái giá cho tổ tiên em. Cho nên trong chuyện này anh không có một cái lỗi nào hết. Còn lời hứa cũ của anh thì dù có muốn giữ thì chúng mình cũng không làm được khi mà em vẫn là người của bộ tộc Strưng. Cho nên người giữ lời hứa phải là em, duy nhất là em. Em chôn chặc nó ở trong lòng thì nó sẽ còn mãi mãi với em, nở hoa nở trái trong tim em. Không ai và không một luật lệ nào lấy đi được, cả anh cũng không thể, phải không anh?”

 

Luật lệ! Luật lệ khắc nghiệt của một xã hội nhỏ Rađê, hay là luật của kẻ được cá quên đăng, được trăng quên đèn, một luật lệ vô tâm mà tôi đã vô tình đặt để cho mình và cứ nhắm mắt mà thi hành. Hơn ba mươi năm, người quên thì cứ quên, người nhớ cứ âm thầm lệ nhỏ.

 

“... Anh thì chắc không thể nào nghĩ được rằng chị Y-Lang và em, dù không cố ý, vẫn có được tin tức về anh, từ mấy mươi năm nay. Ngay khi hay tin vợ anh mất tại nước ngoài, nơi quê nhà chị em đã làm một mâm cơm với đồ ăn của người kinh, thành kính cúng chị. Chúng em cũng gởi cho gió lời chia buồn đến anh và lời chúc vong linh chị sớm về miền miên viễn. Đối với riêng em thì anh đã trọn đạo tào khang với vợ anh khi chị đã nằm xuống trên tay anh. Cho nên em đã nghĩ tới đạo công bằng. Chị Y-Lang của em phải thấy sự công bằng, công bằng trong tình yêu. Hơn ba mươi năm chị Y-Lang đã âm thầm đi bên cạnh hạnh phúc của anh chị. Bây giờ có phải là đến lúc để anh nhìn lại bóng dáng của một thiên tình sử cũ, nhớ lại một đóa hoa dại đã mỗi ngày một héo rũ bên bờ sông Ba? Em thì nghĩ như vậy, nhưng chị Y-Lang thì không. Chị nói hãy để mọi sự, mọi việc y như vậy, như từ hơn ba mươi năm nay. Ít nhứt là để tâm hồn anh sống trọn vẹn với người quá cố trong ba năm tang chế. Nhưng anh ơi, tháng trước chị em ngã bịnh nặng, rồi qua đời hôm qua, như đoạn thư trên em đã nói. Chúng em đều biết còn mươi ngày nữa là anh mãn tang vợ. Chị em không thể kéo dài sự chờ đợi thêm nữa! Có chuyện lạ lùng là tuy vô cùng yếu đuối bởi căn bịnh lao phổi nhiều năm nay, đi đâu phải có em hay chồng em dìu, vậy mà chị em đã một mình trốn chúng em đi về phía hạ lưu sông Ba. Và, anh ơi, chị em nói là chị đã gặp những đóa hoa oan khiên của chị!”

 

Trời ơi, tôi đã không còn kịp nữa! Tôi đã quá chậm suốt bao nhiêu năm! Con nước sông Ba lúc nhanh lúc chậm, lúc thấp lúc cao, lúc trong lúc đục. Nước sông Ba còn có dịp bốc thành mây để mây trôi về dòng sông cũ. Còn tôi thì chậm chạp suốt đời. Suốt đời tôi bơi lội trong dòng nước đục của đời mình. Tôi là cánh mây trôi biền biệt. Cứ ba năm, mùa Hoa Chung Tình vẫn theo hơi thu của rừng núi Strưng mà trở về. Chim Uyên Ương mỗi năm theo gió thu mà từng cặp bay về tô vàng thêm cánh lá. Tôi thì hơn ba mươi mùa thu không có một bước chân, không có một lời thư trở về đất đai, nguồn cội của mối tình đầu. Rõ ràng người tình tội nghiệp của tôi có trái tim rộng như núi rừng, mênh mông như mây trời, thơm như hoa đồng cỏ nội. Nàng không muốn có một gợn mây nhỏ nào ẩn hiện trên vòm trời hạnh phúc trong như ngọc thạch của gia đình tôi. Trong khi đó nàng ẩn nhẫn cả đời dang tay đón nhận hết cho riêng mình lớp lớp mây đen.

 

“... Anh, hôm trước một phép mầu đã đưa em trở lại vùng tả ngạn sông Ba, trở lại ngọn đồi thấp, em men theo dòng nước nhỏ chạy hình trôn ốc xuống chân đồi. Từ lâu vì đau yếu em đã không màng biết tới chuyện ngày tháng, mùa màng. Thu hay đông, xuân hay hạ thì có khác gì với em đâu. Hôm nay nhìn rừng lá vàng em mới biết là trời đã sang thu. Lá vàng vẫn tiếc những giây phút cuối trên cành. Chim Uyên Ương vẫn từng cặp đứng bên nhau thủ thỉ. Mọi sự vẫn còn nguyên anh ạ. Chỉ thiếu có anh. Và em thì đã thành bà lão yếu đau, lụm cụm. Mắt em đã mờ nhiều, nhưng anh ơi, em đã thấy hiển hiện trước mắt mình hai đóa Hoa Chung Tình. Chỉ có hai đóa...Gặp lại cánh hoa cũ, trên vùng đồi núi cũ, em như thấy mới đây, mới mấy hôm trước hai đứa mình đã đứng đây. Hôm ấy em đã nói nhiều với anh về Hoa Chung Tình. Nhưng em muốn giấu anh một điều: Người nữ nào đón nhận đóa Hoa Chung Tình thì trong vòng 49 ngày sau khi chết nàng phải được người bạn tình còn sống góp nhặt đủ 102 đóa Hoa Chung Tình trãi dài trên núm mộ thì vong linh nàng mới được thần thánh đón nhận về trời. 100 đóa để nàng cùng người tình tạ lỗi song thân. 2 đóa để nàng và chàng sum hợp nơi cõi trời. Em muốn sau khi em chết, và phải sau khi anh mãn tang vợ, Y-Ling sẽ gởi thư này đến anh. Anh yêu, xin anh tha lỗi, tha lỗi cho lòng tham lam ích kỷ của em, giờ phút này em không thể dối anh, càng không thể dối mình. Mùa thu sắp hết rồi. Hoa Chung Tình cũng sắp tàn. Thời gian của đất trời và thời gian của riêng em không còn nhiều. Em muốn nói với anh là anh hãy trở về chốn cũ cho em xin ít nhất là 2 đoá Hoa Chung Tình. Chỉ hai đóa thôi cũng đủ để mãi mãi em được gần anh nơi cõi khác. Có được không anh?”

 

Được. Được. Được. Hằng trăm lần tôi đã nói với Y-Lang tiếng này trong nước mắt. Hơn ba mươi năm Y-Lang chỉ đòi hỏi có một lần. Một lần sau khi nàng đã vĩnh viễn ra đi.

 

“...giờ phút cuối chị Y-Lang muốn anh về để đặt hai đóa Hoa Chung Tình trên mộ chị để hai người sẽ được bên nhau, điều mà lúc sống anh chị đã không làm được. Nhưng anh ơi, mùa thu năm ngoái Hoa Chung Tình đã nở rồi thì thu này làm sao mà có hoa cho được. Có chăng là phải đợi hai năm nữa! Nhưng em nghĩ tới những cánh hoa lạc lõng mà có thể chị Y-Lang đã thực sự gặp, nên sáng nay em cùng chồng và các con đi khắp vùng rừng núi chung quanh, đến cả ngọn đồi thấp bên tả ngạn mà chị Y-Lang nói tới trong thơ. Ngọn đồi toàn một màu vàng ối, không một chồi xanh. Không một cánh Hoa Chung Tình. Có lẽ chị em đã thấy lại đóa hoa xưa trong mộng tưởng. Cuộc tình bị chôn vùi quá nhiều năm, có lẽ đó là phút giây duy nhất chị hoàn toàn sống với mối tình của chị. Một lần sống với người tình xa vời vợi. Sống trong mộng mị “.

...............

Y-Lang ơi, khi sống mộng ước của em không tròn. Nay mất rồi mà Hoa Chung Tình không nở để anh về hái 102 đóa đặt trên mộ em. Mộng ước của em đến chết vẫn không tròn. Em yêu dấu, Em hãy ngủ bình an trên nước trời. Mình sẽ vĩnh viễn bên nhau không cần phải có một đóa Chung Tình nào hết. Chính em là một Đại Đóa Chung Tình to hơn trái núi.

 

Sau thời kinh sám hối, tôi đốt thêm một nén nhang trên bàn thờ vợ tôi. Một nén khác tôi đem cắm nơi bàn thông thiên trước nhà. Tôi khấn thầm: Nén nhang này anh đốt cho em, em yêu dấu.

 

Trần Bang Thạch

TÔI ĐI HỌC

 

 

    Buổi học đầu tiên chấm dứt. Người thầy dạy là một nữ giáo sư còn thật trẻ, có lẽ chưa quá ba mươi. Đúng ra là giáo sư Susan Smith dùng hai tiết học vừa qua để làm một orientation, vừa làm quen với sinh viên, vừa giới thiệu giảng khóa Kinh Tế Nhập Môn mà bà phụ trách.

    Bây giờ thì tôi mới có dịp nhìn ngắm chung quanh.Tôi đã đến đây nhiều lần lắm rồi. Trường đại học này đâu có lạ gì với tôi. Ba đứa con tôi đã đi học và tốt nghiệp ở đây. Tôi cũng đã có mặt nhiều lần ngay tại giảng đường này để tham dự lễ tốt nghiệp của các con, các cháu của mình, hay của các bạn bè, thân hữu. Vợ tôi còn có cái máu ghiền được nhìn ngắm những tân khoa với mũ áo chỉnh tề, mặt mày rạng rỡ. Nàng nói tất cả những tương lai, những hy vọng, những niềm vui đang hiển hiện ngay trước mắt mình, thấy thích làm sao! Cả đời mình không có được, bây giờ nhìn con cháu xuênh xoang mũ áo như thấy chính niềm vui của mình vậy. Tuy tôi đã có mặt nơi đây cả chục lần hơn, thế mà hôm nay tôi thấy mọi vật hình như đã đánh phấn tô son để thành những thực thể hoàn toàn mới, xinh như một cô gái đang thì. Tại sao lạ vậy? Có lẽ tại  lòng tôi đang rộn lên những niềm vui mới. Hay nói như Thanh Tịnh: Hôm nay tôi đi học.

 

    Toà cao ốc như một chiếc hộp khổng lồ trùm úp lên hàng trăm ngọn cây xanh trong khuôn viên trường đại học UH. Mấy mươi tòa nhà thấp hơn ẩn hiện giữa những lá, những hoa trên vuông đất rộng nhiều trăm mẫu. Đứng trên từng lầu cao nhất của đại giảng đường Holman, qua khung cửa kính tôi thấy bạt ngàn màu xanh của lá. Tôi cũng thấy màu nắng thật nhạt, thật ngọt ngào trên những dãy mây thấp. Màu chiều cũng lãng đãng quanh đây. Ngoài kia gió chiều chắc cũng đang mơn man từng cánh lá. Các sinh viên lũ lượt rời khỏi giảng đường. Bà giáo sư trẻ đang sắp xếp các giấy tờ, thu gọn các âm bản và máy chiếu. Tôi muốn đứng lại đây, một mình, giữa cái giảng đường rộng mênh mông, cao nghều nghệu như trên mấy tầng trời này. Tôi đang đứng trên màu xanh của lá. Lá. Lá.Lá. Nhìn đâu cũng thấy lá. Những dãy mây mỏng trôi chầm chậm trên đầu cho tôi cái cảm tưởng tôi cũng đang thông thả bước đi trên tấm thảm xanh của một tương lai mới chớm, một hy vọng mới hình thành. Có thật vậy sao? Có thật tôi đã trở lại giảng đường đại học ngày đầu tiên hôm nay? Có cái gì nghe quen thuộc, gần gũi quá mà cũng xa xôi quá. Ba mươi năm, một giấc mộng dài đang trở thành sự thật: Tôi đang tiếp nối những bước đi dang dở từ lứa tuổi thanh xuân. Ba mươi năm trước, tôi đã giả từ trường lớp, giả từ thầy, bạn, bước ra khỏi chiếc cổng xi măng màu gạch cua của một trường đại học nằm trên đường Cộng Hòa, đối diện với Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành, để “vào nơi gió cát”. Từ chiếc cổng vàng thếch, lỗ chỗ nhiều vết đạn, con đường trải đá xanh với hai hàng còng già sụ, da dẻ sần sùi dẫn vào dãy nhà trệt lợp ngói âm dương dùng làm câu lạc bộ và các phòng sinh hoạt sinh viên, rồi tới giảng đường SPCN to như một quả đồi con nổi lên giữa những gian nhà thấp. Trong cái giảng đường khổng lồ này hàng năm bảy trăm con người ngồi chen chúc trên các băng ghế được xếp thoai thỏai hình trôn ốc từ nền cho tới gần chạm trần nhà. Vị linh mục giảng dạy môn Sinh Vật với cánh áo dòng trắng tinh, một tay cầm chiếc micro không giây, một tay cầm phấn, vừa vẽ vừa giảng suốt hai tiếng đồng hồ mà không một lần nhìn vào bài soạn. Con đường trải đá xanh đó tôi đã tới tới lui lui hơn ba năm trời. Những buồn vui đã thật đầy như những chồng bài vở quay ronéo dày cộm. Hơn ba năm tôi nhìn cuộc chiến đang mỗi ngày một đến gần. Tôi nghe người ta hát Tôi có người yêu chết trận Pleime. Tôi biết có ông tướng phường tuồng mang theo cục đất khi lên máy bay rời đất nước.Tôi nhìn tôi muôn ngàn vất vả qua những kỳ thi, nhìn người-lính-tôi đang chực chờ ngoài cửa lớp, chỉ chờ một sơ xẫy của người-sinh-viên-tôi là xông vào, cuốn tôi đi theo chiều gió. Tôi nhìn em xanh xao vàng võ trong chiếc áo blouse trắng rộng thùng thình nơi phòng thí nghiệm sinh hóa. Tôi nhìn bạn bè tôi lăng xăng với những cuộc xuống đường, bãi khóa, những đả đảo, hoan hô, những hơi cay và nước mắt. Có những đêm dài tôi phải bó mình trong Đại Học Xá Minh Mạng để tránh lựu đạn cay. Các nhạc sĩ sinh viên Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng đi đến đâu là có dùi cui, có lựu đạn cay đến đó. Bạn bè tôi, những đầu bù, tóc rối, kiếng cận, quần loa ngồi gật gù thâu đêm bên tách cà phê đen, thuốc lá đen và đêm đen trong các quán Xuân Hương, Hầm Gió, Thằng Bờm.Tôi đã khóc trước linh cữu ông thầy dạy Cơ Thể Học bị ám sát trên đường Trần Hoàng Quân, ngay bên cạnh Đại Học xá Minh Mạng. Tin nơi nầy đánh lớn, nơi kia đánh nhỏ. Tin thằng bạn nầy ngã gục, thằng bạn kia vào Thủ Đức….

 

     Những biến động dập dồn trên cả nước đâu có dừng lại trước một cánh cổng trường nào đâu. Cho nên, giữa năm học cuối tôi đã bỏ lại tất cả để lăn vào cuộc chiến, bỏ lại tiếng vélo bình bịch của người em Sinh Hóa. Chiến cuộc và toàn thể Miền Nam bị chết tức tưỡi. Tôi cũng tức tưỡi chui vào tù; như một định mệnh đã an bày. . Cái hụt hẫng này phải đợi đến hơn hai mươi năm nơi xứ người, phải đợi đến hôm nay mới được tiếp nối.

 

    Chiều nay, đứng trên tầng cao của đại giảng đường Holman, tôi như thấy trước mắt con đường trải đá xanh với hai hàng còng già nua của ba mươi năm cũ  đang lập lờ uốn lượn bên ngòai vuông cửa sổ. Và, ơ kìa, ở cuối tầm mắt, chỗ vòm cây xanh giáp với xa lộ liên bang I- 45, tôi bỗng thấy thấp thoáng một chàng thanh niên đang đứng dưới vòm cong của chiếc cổng thật quen. Chiếc cổng màu gạch cua trên đường Cộng Hòa mang nhiều thương tích. Chàng thanh niên dừng lại một chút rồi theo con đường trải đá xanh bước vào cái giảng đường to như một quả đồi non. Rồi quả đồi non ấy bỗng tan loãng vào dòng xe cộ hướng về phía Downtown.

 

    “ Xin lỗi, tôi...tôi có thể nói chuyện với ông vài phút được không?”

    Có lẽ bà giáo sư đã đứng sau lưng tôi từ hồi nào. Tôi không nghe tiếng bước chân của bà, nhưng hình như  tôi có ngửi được một mùi hương lạ.

    “Dạ, kính chào bà. Xin bà cứ tự nhiên. Tôi là Nguyễn, thưa bà Smith.”

    “ Có lẽ tôi hơi đường đột nhưng xin hỏi ông Nguyễn: ông có làm sao không? Ông vẫn bình thường chứ?

“ Dạ…dạ…”

“ Hay là ông đang chờ người đến đón về? Tôi có thể giúp gì được cho ông không, ông Nguyễn?”

    “Dạ cảm ơn bà, bà Smith. Tôi không sao đâu. Xin bà yên tâm. Tôi cũng không chờ ai cả. Thành thật cảm ơn bà đã quan tâm.”

    “Ông Nguyễn à, ông thấy đó: trời đã tối rồi, mọi người đã rời khỏi giảng đường. Còn ông thì vẫn đứng đây, nhìn bên ngoài cửa sổ.”

    “Thưa bà, hôm nay là ngày đầu của một niên học mới. Là ngày đầu, là ngày đầu. Thưa bà”.

    “Điều nầy thì tôi biết. Điều tôi không biết là hình như ông có tâm trạng gì đối với ngày khai giảng hôm nay.”

    “Thưa bà, tôi muốn sống thêm những khắc giây của ngày hôm nay tại đây, ngày đầu tiên tôi trở lại giảng đường.”

    “Chắc ông Nguyễn cũng đã thấy trong số hàng trăm sinh viên vừa ra khỏi lớp, nhiều người cũng đã lớn tuổi, cũng có người ngày đầu tiên tiếp tục những gì đã bỏ dở, như ông. Và họ đã ra về hết rồi, tôi cũng phải rời nơi đây. Chỉ còn ông là nán lại. Điều này thì thật sự tôi không hiểu. Có lẽ mình còn nhiều dịp khác để trò chuyện thêm. Chúc ông Nguyễn một buổi tối an lành.”

    “Tôi cũng kính chúc bà như vậy. Kính chào bà Smith.”

 

    Bà giáo trẻ này làm sao hiểu được một trang đời đầy ắp chữ nghĩa đã bị tức tưởi xếp lại, đóng lại trong suốt ba mươi năm. Bà cũng không thể hiểu được cái mộng ước đã được ấp ủ hai mươi năm nơi xứ người. Hôm nay, chính ngày hôm nay, tất cả là sự thực. Trang đời cũ đang được mở ra. Những ước vọng đang hình thành. Phải, bà Smith và mọi người thân mến, tôi muốn đứng đây thêm một chút nữa để thấy bước chân hụt hẫng năm xưa đang lần về lối cũ, muốn nghe hoài tiếng sỏi lạo xạo dưới chân, nghe tiếng trái còng khô rơi nhẹ nhàng trên sân cỏ. Hình như tôi nghe được cả tiếng lào xào của bút giấy, tiếng rào rạo của phấn trắng bảng đen và tiếng vélo bình bịch của em ngoài cửa lớp. Những điều này bà giáo trẻ Smith làm sao nghe được, có phải không? Tại nước Mỹ này việc đi học đâu có khó khăn gì, cho nên bà giáo trẻ của tôi sẽ vô cùng ngạc nhiên nếu biết rằng để có được ngày hôm nay, tôi phải có hàng hai mươi năm để chuẩn bị thực hiện ước mơ này. Sống với ngày này thêm vài phút nữa thật chẳng phí chút nào.

 

    Hơn hai mươi năm trước, vợ chồng chúng tôi đến đây với đôi bàn tay rỗng và ba đứa con, đứa lớn nhất 11 tuổi, đứa nhỏ nhất chỉ mới bập bẹ mấy tiếng ba ba. Trước mắt, chúng tôi phải tạo dựng lại tất cả; ưu tiên là một mái ấm gia đình với đàn con đủ ăn, đủ mặc, đủ học hành. Tình yêu thương, sự giáo dục dạy dỗ từ cha mẹ cũng phải đủ. Những ưu tiên căn bản này có tính tương đối nên từ buổi đầu chúng tôi thực hiện không khó lắm. Chúng tôi không mong mỏi nhiều. Chỉ cần vừa đủ là được rồi. Cái khó là tìm nơi cư ngụ bình thường tại một khu xóm an ninh và có một học khu tốt. Chúng tôi chỉ cần những tiện nghi tối thiểu, một phương tiện di chuyển an toàn để công ăn việc làm được trôi chảy. Xe mới, nhà to,... cho đến nay chúng tôi cũng chưa hề nghĩ đến nói chi lúc chân ướt chân ráo đến thành phố này. Phương án thực hiện của chúng tôi rất gọn: vợ tôi ở nhà săn sóc con cái, chăm lo nhà cửa, giặt giũ, nấu nướng. Thuở đó, khoảng năm tám mươi, tìm việc không khó, nên dù chỉ nhớ lõm bõm vài tiếng Anh, không tay nghề, không một chút kinh nghiệm, tôi vẫn được may mắn nhận vào làm việc cho một nhà máy sản xuất các sản phẩm nông nghiệp với đồng lương của một người thợ không có tay nghề nhưng cũng tạm gọi là đủ để chi phí hàng tháng trong gia đình. Đó là công việc ngoài trời, nặng nhọc, dầm mưa dãi nắng, với mỏ lết dài cả thước tây, với búa kìm nặng trình trịch, bù loong, đinh ốc. Các chủ cả thì bất công, cai kiết thì kỳ thị, khó khăn, mặt mày lúc nào cũng nhăn nhăn nhó nhó, lúc nào ngồi buồn vì chuyện nhà cửa vợ con thì đào bới việc cho người ta làm, bất kể là nắng cháy da hay trời đang mưa ngập đất; các đồng nghiệp thì ma cũ hiếp ma mới, ức hiếp, đùa việc, ganh tị, tham lam, ích kỷ, nói năng tục tĩu, chữi thề chữi bọng lung tung, cần sa ma túy gần như là công khai ngay khi làm việc...Bước vào cái thế giới trăm phần trăm lao động chân tay này thằng tôi trung niên mũi tẹt da vàng có chút chữ nghĩa phải cố hết sức mình dùng chân tay lao động gấp đôi để được tự chìm lấp, đủ để được có mặt hàng ngày bên những bao bịt nặng hàng trăm kí lô, để được thường xuyên chui dưới gầm những toa xe lửa nối những ống cao su thật nặng với những hệ thống ống đồng chảy vào các bồn chứa có dung tích cả chục ngàn tấn dung dịch đủ loại, từ đường mía, đến đủ thứ át-xít, đủ loại mỡ đặc, mỡ lỏng, u-rê, phân bón.... Tôi cũng phải luyện cái mũi cho quen dần với đủ thứ mùi vị khó ngữi của các hóa chất này, phải luyện đôi màng nhĩ quen với tiếng rầm rầm của hàng chục cái máy vĩ đại nổ cùng một lúc, luyện cái cổ thật cứng để giờ phút nào cũng đội trên đầu cái nón an toàn vừa nặng vừa khó chịu với miếng faceshield bằng mũ trong, che hết mặt mũi. Tôi phải khổ sở biết bao nhiêu với bộ quần liền áo bằng cao su dày mặc hoài bất kể trời mưa hay trời chang chang nắng để chất hóa học không thấm vào người. An toàn hay không thì chưa thấy nhưng mồ hôi mồ kê thì tôi có thể cảm nhận từng giây trên từng vuông da thịt. Bộ đồng phục màu cứt ngựa thì hầu như trên người suốt ngày, suốt tuần.  Nhớ vô cùng thằng bé nhà quê đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, lưng trần chạy nhảy tung tăng trên  đường làng mấy mươi năm trước. Ưỡn ngực, vung tay cũng không ôm hết đất trời tinh khiết. Tai có mở rộng cũng không chứa hết tiếng líu lo của từng bầy chim trong vườn cũ. Còn người trung niên bây giờ tìm hoài cũng không thấy một chút mình. Mình bây giờ là một mớ thịt da bọc trong bộ đồng phục ; lâu thật lâu mới ghé Kmart hay Goodwill, thường là mua những cái quần ngắn và áo lót, hiếm khi cần một bộ đồ mới. Mình bây giờ là con ốc trong cỗ máy, lăn hoài, lăn hoài. Ngày nhỏ xem chàng hề Charlie Chaplin đóng vai người thợ máy trong phim Modern Times với những động tác thành thói quen máy móc làm mình vừa cười vừa thương cảm. Bây giờ thì, ta ơi, hãy tự cười thật to để lấy hơi mà phóng tới.

 

    Nhiều đêm khuya khoắt, một mình đứng giữa những bộn bề công việc, giữa những dãy xe lửa im lìm, đen ngòm, dài thườn thượt, dưới những cơn mưa nặng hạt, những luồng gió lạnh cắt da, tôi thấy mình bỗng rơi nước mắt. Rồi liền đó, cũng chính tôi, tôi tự nhủ mình: sông có khúc, người có lúc. Chính đó là những lúc tôi biết tôi sẽ phải làm gì. Trước hết là phải quên cái thân tôi hiện tại trong lòng mưa u ám. Quên tôi dưới vòm trời đen kịt giữa khuya đêm nay và hãy nghĩ rằng ngày mai chắc chắn mặt trời sẽ lên chói chang từ phương đông. Ngày mai sẽ là một ngày mới, một ngày hoàn toàn mới.  Và tôi, phải, chính tôi cùng với vợ con tôi tay trong tay cùng đi về hướng mặt trời mọc, cùng ngước mặt chào đón một bình minh chan hòa hương sắc. Tôi ơi, hãy tự nhủ như vậy đi. Không ai có thể làm thế cho mình. Không ai dựng mình dậy được nếu mình cứ thành một thứ ù lì.

 

    Nói và nghĩ thì không khó, nhưng làm thì thật chẳng dễ gì. Con đường dài thăm thẳm hơn hai mươi năm đó vợ chồng con cái chúng tôi cùng dắt nhau qua suối qua sông, lên non xuống biển, vượt ghềnh vượt thác; nhiều khi ngụp lặn trong vũng lầy, té ngã liên miên trên đoạn đường nhân sinh thương khó. Cũng có lúc chúng tôi được tạm dừng chân nghỉ bên đường, để uống một chén trà sen, hân hoan nhìn ngắm ngàn ngàn hoa cỏ rộ nở quanh mình, để nghe chim hót, quyên ca trên từng nhánh đời rộn rã. Chúng tôi biết muôn vàn tâng tiu đoá hoa hạnh phúc lúc nào cũng rực rỡ trong căn nhà nhỏ gọn này; cho dù bên ngoài khung cửa ầm vang mưa sa, bão chớp. Chúng tôi vui muốn khóc những lần thấy hoa sứ hoa mai cứ thay phiên nở rộ trên các báo cáo học lực, trên các phiếu điểm của các con. Vợ chồng chúng tôi ôm nhau mà không nói được lời nào khi thấy hoa quỳnh, hoa ngâu khoe màu rực rỡ trên các bằng cấp trung học, đại học mà các con lần lượt mang về nhà. Vợ tôi đã phải úp mặt vào lòng đôi bàn tay để che giấu niềm hân hoan và nỗi xúc động trong lúc trên khán đài đứa con trai đầu lòng với văn bằng tiến sĩ trong cánh áo chùng mũ rộng đang chững chạc đại diện các tân khoa nói lời cảm tưởng giữa một hội trường to như cái sân vận động. Tiếng vỗ tay rào rào sau đó làm tim chúng tôi muốn ngưng đập. Đêm đó vợ tôi viết vội mấy chữ gởi về quê hương cho cha mẹ chồng: “Chúng con cảm ơn Ba Má đã cho chúng con những đứa cháu nội chăm ngoan của ba má”. Những dòng thư nầy vợ tôi có dịp viết gởi về quê thêm một lần nữa khi con gái lấy bằng MBA tại UT.Và khi đứa con út đem bằng Ph.D từ Harvard về thì cha mẹ chồng không còn nữa để mà nghe tin vui từ bên kia trái đất!

 

                                                            ***

 

    Bà Smith kết thúc bài giảng Đặc Điểm Chung Của Thương Trường Thế Giới bằng câu nói của nhà kinh tế Mỹ Pete Hutchinson: “Quốc gia nào có mạng lưới thương mãi rộng, dày và chắc sẽ là một tân đế quốc”. Rồi như thường lệ, bà giáo trẻ Smith chờ câu hỏi về bài học vừa rồi. Sau đó,cũng như thường lệ, mọi người lục tục đứng lên rời khỏi chỗ ngồi. Người có tuổi không thích chen chúc nên từ ba tháng nay, tôi luôn là người rời khỏi giảng đường sau cùng. Hôm nay cũng như ngày đầu tiên khóa học, bà Smith vẫn còn ở nán lại trong phòng học. Tôi thì không còn cái háo hức, cái xúc động của ngày đầu trở lại trường ba tháng trứơc. Tôi ngồi nán lại vì không có gì để gấp rút. Bà giáo Smith đóng lại cái laptop, cuốn lại sợi dây điện, rồi đi về phía tôi, phía cuối giảng đường. Một mùi hương đã thành quen thuộc sau ba tháng học môn Kinh Tế Nhập Môn với bà Smith.

    “ Chào ông Nguyễn. Mạnh giỏi chứ? Mãn khóa học rồi, mình có thể chuyện trò một chút được không?”

    “Chắc chắn rồi. Tại sao không, thưa bà.”

    “Qua các buổi hội luận và các bài làm của ông, tôi thấy ông rất hiểu biết về các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị... Xin phép được khen ông một lời: ông là một sinh viên xuất sắc. Các đồng nghiệp của tôi cũng có cùng ý nghĩ này về ông. Chúng tôi khâm phục những cố gắng của ông, ông Nguyễn ạ.”

    “Xin cảm ơn tất cả quý vị.”

    Rồi sau đó thầy trò chúng tôi không nói gì thêm về chuyện học hành, mà nói về trận động đất khủng khiếp mới đây ở Thổ Nhĩ Kỳ, nói về cơn bão nhiệt đới Bret đang ở ngoài khơi vịng Mễ Tây Cơ, chỉ còn cách bờ biển Galveston hơn trăm dặm. Đây là những câu chuyện tôi nói cho qua lề, để tránh nói một chuyện khác.

    Điều tôi muốn nói với bà Smith hay bất cứ một giáo sư nào của tôi là: Thành quả bước đầu tôi có được sau ba tháng trở lại trường là hậu quả của những chuỗi sự kiện, là cố gắng của nhiều người. Bắt đầu phải kể là nỗi ấm ức của một người trẻ tuổi bị đứt ngang sự học giữa chừng, lòng dạ lúc nào cũng muốn trở lại trường, không năm nầy thì vài năm nữa, mười năm, hai mươi năm nữa... có sao đâu. Kế đến là không thể không nói tới thời gian chuẩn bị: Trước khi nghĩ tới mình, chúng tôi phải tận lực lo cho đàn con có đầy đủ vốn liếng vào đời bằng đôi chân vững, bằng trí khôn và bằng nhân cách. Các con được như vậy thì sự ra đi của chúng tôi hai mươi năm trước mới có thêm ý nghĩa, và sự nhọc nhằn của vợ chồng chúng tôi là không phí phạm. Cần có thời gian chuẩn bị để tôi, một hảo hán về chiều, tự luyện cho mình thêm nhiều thành công lực cho trận thư hùng cuối đời sắp tới, dù có chậm nhưng không được thua. Phải thắng. Không còn công sức và thời gian để làm lại. Ba mươi năm rời trường tôi đã quên hết những gì đã học. Những giây phút rảnh rổi hiếm quí tôi phải học lại tất cả, học từ sách vở, báo chí, từ các phương tiện truyền thông, và nhất là học từ các con tôi. Lúc các con còn nhỏ tôi nắm tay dắt từng đứa đi lên. Rồi đứa lớn dìu đứa nhỏ. Lúc tôi mang cái tuổi già trở lại giảng đường các con đã quay trở lại nắm tay tôi cho tôi tiếp tục đi tới. Đứa thì nắm tay, đứa thì đun đít.Vợ tôi thì ít khi dìu tôi đi nhưng đã nhiều lần nâng tôi dậy mỗi khi tôi té ngã. Chắc cũng cần phải nhắc tới những cái mặt quạu đeo, khó khăn, nhăn nhó, kỳ thị, sỗ sàng, tục tằn của mấy người cai Mỹ trắng, Mỹ đen, Mỹ vàng nơi nhà máy đã vô hình chung góp phần không nhỏ cho việc trở lại trường của tôi?

    Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với bà giáo Smith sau lời khen tặng của bà. Tôi còn muốn nói với bà là tôi đang rảo bước trên con đường trải đá xanh với hai hàng còng gìa nua trong khuôn viên một đại học trên đường Cộng Hòa, tôi đang nghe tiếng vélo bình bịch của người tình áo blouse trắng ở cuối dãy hành lang, nơi phòng thí nghiệm sinh hóa.

    Mà thôi. Tôi không muốn phải nghe lại câu nói của bà Smith ngày đầu niên học ba tháng trước: “Điều này thì thật sự tôi không hiểu!”

 

Trần Bang Thạch

CHUYỆN MỘT NGƯỜI LÍNH HOA KỲ

 

    Bạn muốn nghe chuyện của tôi à? Thật sự thì chuyện của tôi không có gì đáng để kể hết.

    Chuyện của một anh chàng trung niên, không vợ con, tình nguyện vào lính, rồi ra chiến trường hơn ba năm nay, chưa có một thành tích cá nhân nào tạm gọi là xuất sắc, chưa bị thương lần nào, cũng chưa một lần bị bắt rồi được giải cứu như người nữ chiến hữu tên  Lynch hiện đang nổi danh như cồn. Một cách vắn tắt, tôi là hạ sĩ Dian Clark, thuộc sư đoàn 4 bộ binh đang trú quân tại Tikrit miền Bắc nước Iraq. Trong số hơn hai trăm ngàn lính Mỹ đang có mặt tại Iraq hiện nay thì tôi chỉ là một hạt cát dưới lòng sông Tigris mà thôi. Có là tướng tiếc, là anh hùng anh hiếc gì đâu mà được nhà báo các anh chiếu cố chớ?

    Nhưng nếu bạn muốn nghe chuyện lính tráng thì tôi xin kể bạn nghe tí chút về một bức ảnh. Kể cho vui vậy thôi chớ không một ngụ ý gì hết à nghen...

    Hôm qua tôi nhận được thư của mẹ tôi, có kèm theo một bức ảnh. Nói nhỏ cho bạn nghe: Mẹ con tôi rất ít khi xài email, mà chỉ thích đọc những hàng chữ viết tay, thấy chữ viết như thấy người, cho đỡ nhớ. Email thì cụt ngũn, gọn lõn, trơ trơ như mấy con chữ đứng sắp hàng. Thiếu cái tình, thiếu cái hồn, phải không bạn? Ngoài những chuyện thương nhớ, những kể lể này nọ, trong lá thư khá dài ấy mẹ tôi nói bức ảnh đã làm bà khóc suốt đêm. Mẹ nói bức ảnh này mẹ đã cắt từ tờ báo địa phương, và có thể các báo khác ở nhiều nơi trên toàn nước Mỹ cũng có đăng. Tôi ngạc nhiên hết sức khi nhìn bức ảnh. Đó là tôi, phải, chính là tôi trong bộ quân phục bộ binh tác chiến rằn ri màu cát sa mạc. Trong ảnh, tôi với mũi súng trút xuống đất, dây ba chạc mang đầy những túi đạn và con dao găm cận chiến. Có cả dây mang hàng chục trái lựu đạn vắt ngang một bên vai. Người nhiếp ảnh chiến trường nào đó quả là có tài khi nhằm ngay lúc tôi gập lưng xuống và ngay lúc cái nón sắt của tôi chệch qua một bên mà bấm máy để gương mặt của tôi hiện rõ trước ống kính, thiếu điều lộ cả cái nút ruồi bằng hột đậu đen gần sống mũi. Điều tai quái của bức ảnh là phía sau cái cơ thể cong quặp của tôi là hậu cảnh trái ngược. Đó là hằng chục đứa trẻ cao, lùn đủ cỡ, đứng thẳng lưng và thẳng tay ném những hòn đá nhắm vào cái mục tiêu rất gần trước mặt của chúng là thằng tôi. Chính là tôi: cái bị thịt trong vai trò người chiến binh quân lực Mỹ. Là tôi, người có súng trong thời chiến mà phải trút mũi xuống đất, ngón tay không dám bóp cò và  lưỡi lê thì nằm yên trong bao da. Là tôi với tấm thân cao lêu khêu 6 feet 4, cân nặng 270 pounds, cố thu người cho nhỏ lại với vũ khí dùng để chống đỡ duy nhất lúc ấy là cái nón sắt khi thì đội nghiêng qua bên này, lúc bên kia để tránh những đá cát bay tới như mưa rào. May là ông phóng viên không có máy quay phim nên trong ảnh người ta chỉ có thể thấy được vài hòn đá bay về phía tôi lúc bấm máy, chớ nhiếp ảnh gia không ghi được hàng trăm hòn đá khác đã rơi khắp thân tôi, từ chân tới đầu. Ảnh cũng không chụp được ngay cái giây phút tôi ngạc nhiên tột độ với cái mồm tôi đang há hốc, đôi mắt tôi đang mở lớn như cái khu tô khi bên tai tôi có nhiều tiếng la và bất thần nghe vai mình đau nhói với một viên đá không biết bao lớn vừa ném trúng đích. Ảnh cũng không ghi được mấy giọt máu chảy từ vết thương nơi mu bàn tay trái không mang găng tay của tôi. Như vậy cũng tốt. Nếu mẹ tôi thấy được hết những chi tiết này thì chắc bà phải khóc cả tháng. Càng tốt hơn nếu mẹ tôi không nhìn thấy bức ảnh ấy để bà khỏi đau lòng. Đau cho thằng con chỉ biết lấy tấm thân dềnh dàng chống trả với trận địa cát đá do mấy đứa con nít ồ ạt tấn công. Thù hận từ đâu đã rớt xuống đầu con bà vậy?

    Tội nghiệp mẹ tôi, tuổi đời tròm trèm sáu mươi rồi mà những nghiệt oan của lịch sử chưa chịu buông tha bà. Có vẻ như tôi sắp kể lể chuyện của mẹ tôi rồi đây. Nhưng kể chuyện mẹ mà thiếu chút chuyện của ba thì chắc là nhạt nhẽo lắm. Vậy thì xin bạn cứ kiên nhẫn mà nghe tôi lan man tâm sự nhé.

    Bạn thử nghĩ xem có phải là điều nghịch thường không khi một người đàn bà sống trong một đất nước giàu mạnh, tự do, không chiến tranh mà phải cõng trên vai mình hai cuộc chiến xảy ra thật xa bên ngoài đất nước của bà và trùm phủ trên con người của bà biết bao là hệ quả đau thương của nó?

   Có dịp nào mời bạn ghé qua nhà mẹ con tôi. Từ Downtown Houston, bạn đi về hướng Tây  Nam, sau gần ba giờ lái xe bạn sẽ đến nhà chúng tôi trong vùng thị trấn Victoria, gần với biên giới Mễ Tây Cơ. Mẹ tôi đang ở đó, một mình từ khi tôi vào lính. Căn nhà nhỏ 3 phòng ngủ nằm trên một vuông đất cao trồng toàn thông xanh. Cửa chánh không hướng về phía xa lộ 59 với dòng xe cộ tấp nập ở dưới, mà hướng về phía mấy dãy núi thấp ẩn hiện ở thật xa cuối chân trời. Xin bạn chớ có tò mò mà hỏi mẹ tôi về cái tên mấy ngọn núi ấy hay tên thành phố nào đó nằm phía sau núi. Từ lâu bà đã không muốn tìm biết mấy cái tên này vì bà có lý do của riêng bà. Chuyện này tôi bật mí ngay với bạn đây. Mẹ tôi thích ngôi nhà này lắm. Từ vùng Beaumont phía Bắc Houston mẹ tôi dọn về đây ngay sau khi ba tôi vừa đặt chân xuống Cam Ranh. Căn nhà có một vị trí đặc biệt cả trên phương diện địa lý lẫn tâm lý của mẹ tôi. Bà nói bước ra cửa, nhìn dãy núi vô danh che chắn một địa điểm vô danh, bà có thể tưởng nghĩ tới bất kỳ một đất nước nào hay một địa danh nào ở phía bên kia núi, chẳng hạn như một đất nước tận bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi chồng bà đã chiến đấu và đã hy sinh. Rồi giờ đây cũng hướng về dãy núi xa xăm ấy bà nghĩ tới đất nước tận vùng Trung Đông mà con trai bà đang có mặt. Biết đâu sau này nó trở thành tên một địa điểm nào đó ở Iran hay Bắc Hàn khi con trai của bà trú quân ở đó? Như vậy, bạn thấy rồi đấy, dãy núi và thành phố sau lưng chính là nơi giòng tư tưởng của bà đậu lại theo bước chân của hai người đàn ông thương nhất của cả đời bà. Bà muốn nó là Núi Châu Thới và thị trấn Dĩ An của Việt Nam cũng được. Nhưng khi bà muốn nó là núi Baktaki hay thị trấn Tikrit của Iraq thì chúng mang những tên ấy.  Có sao đâu! Mẹ tôi đó, người phụ nữ thuần chủng Native American, thuộc bộ tộc da đỏ Apache, chưa đến tuổi đôi mươi đã sống trong một cuộc chiến tranh không giáp mặt, đã gởi hết tâm tình của người vợ trẻ theo chân người chồng lính chiến ở vùng đất đỏ Dĩ An mà bà chưa hề đặt chân đến. Không có mặt bên chồng, không có mặt trong cuộc chiến nhưng mẹ tôi như hàng ngày gần gũi với những trận đánh ở Gò Dầu Thượng, Gò Dầu Hạ, Dakto, Daksut, ở Núi Bà Đen, Mỏ Vẹt, chiến khu Dương Minh Châu...Bà như thấy những đổ nát của chiến tranh, thấy những bất hạnh của đàn bà, trẻ con trong lửa đỏ, trong bom đạn... Đó là nhờ những lá thư của ba tôi, khi thì viết vội nơi tháp canh, khi thì nơi một bìa rừng cao su, khi thì vừa mới xong một trận đánh; và nhờ những hình ảnh ba tôi cắt từ các báo. Không phải tất cả thư từ hay hình ảnh ba tôi gởi về đều  mang bóng dáng chiến tranh. Ba tôi cũng thường gởi về những hình ảnh trẻ thơ trong bộ áo quần rách rưới mà gương mặt thật dễ thương, đôi mắt thì tròn như hạt nhãn. Có bức ảnh ba tôi đang bồng đứa bé trai hai, ba tuổi, đầu to, bụng ỏng, chân nhỏ như que cây; ba nói khi về nước ba sẽ xin đứa bé về làm con nuôi. Mẹ nói với ba bà muốn ba mang về vài đứa nữa cho đủ nửa tá; rứt đứa trẻ nào ra khỏi lửa đạn, khỏi cảnh đói nghèo thì tốt cho đứa đó. Có một bức ảnh chụp tuy rất nghệ thuật nhưng đầy bi đát: một đứa trẻ chừng năm sáu tuổi, gầy đét như cánh lá khô đang đong đưa trên chiếc cầu khỉ nối hai bờ đá của con suối cạn, hai bên cầu là hai ngụm lửa đỏ; đứa bé không biết chạy về đâu giữa hai lằn đạn. Cuối cùng có lẽ nó chỉ có một lựa chọn: buông tay để rơi xuống vực, hy vọng vướng vào một nhánh cây nào ở sâu phía dưới! Bức ảnh làm bà khóc suốt buổi trong phòng. Mẹ tôi nói bà thích nhất là khi bà nhận những câu ca dao, tục ngữ mà ba tôi học được từ những người bạn đồng minh Việt Nam. Mỗi câu gởi về ba tôi chép nguyên văn chữ Việt rồi cắt nghĩa rõ ràng. Có câu ca dao khiến mẹ tôi rơi nước mắt mỗi lần đọc lại sau khi ba tôi mất: Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu đời đắng cay. Mẹ tôi chưa hề thấy một cây rau răm, vậy mà bà cứ nghĩ mình là một cọng rau răm cong queo, tàn úa bị chồng bỏ lại. Mấy mươi năm sau, đọc lại câu ấy, mẹ tôi vẫn khóc và khóc nhiều hơn. Tất cả những hình ảnh, thư từ ba tôi gởi về suốt sáu năm có mặt trong cuộc chiến Việt Nam, mẹ tôi đều giữ đủ. Bà có hàng mấy trăm bức thư, toàn là thư tình hai người gởi cho nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện: Tình yêu, chiến tranh, cái chết, cái sống, cái nhớ, cái thương.... Ảnh thì có cả ngàn bức ảnh đủ thứ, đa số là ảnh từ các báo: ảnh mặt trận đang bốc khói, ảnh di tản thương bệnh binh, ảnh tù binh mặt mày non choẹt như con nít, ảnh ba tôi đội đá vá đường, ảnh các bạn ba tôi dạy các trẻ con học tiếng Anh; đặc biệt có những tấm ảnh ba tôi chụp chung với các người lính Việt Nam mang những cái tên thật ngộ mà ba chú thích trong thư: Binh nhì Dương dê xồm, Thượng sĩ Thái dúi, Thiếu úy Đậu mùa, Đại úy Ba cà nông. Còn cả trăm câu ca dao, tục ngữ Việt Nam thì mẹ tôi chép lại nguyên văn  với nét chữ khổ to, thường là mỗi trang giấy chỉ có hai câu. Bà dùng nguyên một gian phòng để làm phòng trưng bày những thứ ấy. Chúng tôi gọi gian phòng đó là Một Góc Việt Nam, A Việt Nam Corner. Tất cả được dán trên những khuôn giấy cứng trên ba phía vách tường. Còn vách tường đối diện cửa phòng là tấm ảnh lớn chụp ba tôi đang làm nhiệm vụ của một công binh chiến đấu trên trục lộ gần quận Dĩ An Biên Hòa: mình trần trùn trục, lấm tấm mồ hôi, đang khuân từng ky đá trải trên mặt đường. Phía trên ảnh ba tôi, mẹ tôi treo một tấm bản đồ Việt Nam khổ lớn. Trong phòng cũng có một số sách vở chữ Anh viết về Việt Nam và những sách tiếng Việt viết về sử ký, địa lý Việt Nam. Mẹ tôi đã tìm hiểu về Việt Nam từ khi ba tôi vừa đặt chân tới bến tàu Cam Ranh lần đầu tiên. Có một lần ba tôi viết trong thư: “Ngồi tại Texas mà Em còn hiểu Việt Nam hơn anh và các đồng đội, những người đang ngày đêm lặn lội trên đất nước này!”

    Thật sự thì mẹ tôi vì thương chồng mà muốn theo dõi những bước đi của chồng trên một đất nước quá xa lạ đối với bà. Càng tìm hiểu về cuộc chiến, mẹ tôi càng thêm lo. Những sông rạch chằng chịt, những rừng cây bạt ngàn, những đường mòn, những địa đạo…đâu đâu mẹ tôi cũng thấy tàng ẩn hầm chông, mìn bẫy và...cái chết. Tìm hiểu chưa đến đâu một đất nước hình chữ S tên gọi Việt Nam  thì mẹ tôi đã phải đón nhận thi thể của chồng trong chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ Quốc. Lúc đó tôi vừa mới lên ba, chưa một lần biết mặt cha mình, cũng chưa biết gì là nỗi khổ mất cha. Khoảng 3 năm sau thì cuộc chiến chấm dứt. Thị trấn Dĩ An nhỏ bé và cả đất nước Việt Nam to lớn đã đổi chủ từ đó. Đứa bé tên Dian là tôi được ba mẹ đặt tên để nhớ vùng đất Dĩ An ba tôi đã từng có mặt .

   Sau này lớn lên tôi mới thấy hết ý nghĩa của gian phòng Việt Nam Corner kế phòng ngủ của tôi. Ba tôi ra đi để lại cho mẹ tôi quá nhiều kỷ niệm, bà sống trong gian phòng đó như sống với một kỷ niệm thân thương và bi tráng. Sau này mẹ con tôi có vài dịp ghé thăm đất nước đã một thời ba tôi sống, chiến đấu và đã ra đi vĩnh viễn. Sau những chuyến đi ấy căn phòng có thêm những hình ảnh mới: Người thương binh với hai ống chưn cụt tới háng, mấy em bé trai, gái năm sáu tuổi quần cụt, mình trần ngồi trên đống rác cao như một ngọn đồi thấp, bà mẹ mù còng lưng gần sát đất tay quơ gậy trúc tay chìa ra cái lon xin tiền….Có cái băng cassette mẹ tôi ghi âm tiếng đàn bầu và mấy câu hát của một người hành khất mặc cái áo trận rách tả tơi khi mẹ con tôi chờ qua bắc Cần Thơ. Người hát thì như ai oán khóc than, điệu hát thì mang âm điệu của một bài kinh khổ. Mẹ tôi không hiểu gì hết ý nghĩa của bài hát nhưng bà thường mở máy nghe vào buổi tối trước khi đi ngủ.

    Bạn có ý muốn nghe chuyện của một người lính phải không? Thì đó, tôi vừa mới kể cho bạn nghe đó. Lại còn bonus cho bạn chuyện của một người lính khác là mẹ tôi. Không phải sao ? Mẹ tôi cũng là một người lính vậy chớ bộ giỡn sao bạn. Mẹ tôi thời trẻ tuổi đã sống đời sống người lính của ba tôi, bây giờ sống đời sống người lính của đứa con trai duy nhứt của bà. Ngày tôi mới nhập ngũ, mẹ tôi tươi cười khi nhìn tôi lần đầu trong màu áo trận, mái tóc dài nửa inch. Rồi Mẹ tôi khóc thầm khi đưa tôi ra sân bay. Từ đó nước mắt bà theo tôi ra mặt trận. Bà cứ chảy nước mắt theo bất kỳ người lính nào trên chiến trường xa khi chiếc trực thăng bị bắn rớt, khi chiếc xe tuần tiểu bị gài bom, hay khi nhóm lính bị tàn quân bắn sẻ. Mỗi cái chết của bất cứ người lính nào đều làm thành nỗi đau của mẹ tôi. Có một lần tôi rất ngạc nhiên khi bà nói rằng bà đã khóc thật nhiều khi hay tin thằng Ryan rớt trực thăng trong vùng sa mạc Hijarah. Ryan là bạn chí cốt của tôi, hai đứa được đưa sang Iraq cùng lúc, vậy mà tôi hay tin dữ này sau mẹ tôi!

   Nói thật bạn nghe, trong quân ngũ người lính có những buồn vui đời quân ngũ, người lính chiến đấu ít khi buồn lo, chết thì chết, chơi thì cứ chơi, sợ sệt thì ai cầm súng; còn người vợ, người mẹ ở hậu phương thì chỉ có buồn và lo và thương và nhớ và...gì gì nữa..đủ thứ... Khi người lính bị thương thì người mẹ nào cũng đau gấp mười, gấp trăm lần. Khi người ta mang xác chồng con về thì bà như đã là cái thân đang chết, cái tim thì tan nát mà cái hồn thì lãng đãng lang thang nơi hạc nội mây ngàn theo dáng người vừa mới ra đi. Mẹ tôi đó, người đàn bà chỉ có mấy tháng bên chồng sau ngày hợp hôn, rồi mõi mắt chờ những lần chồng về phép ngắn ngủi. Mẹ tôi đó, người vợ, người mẹ chiến sĩ suốt đời sống với những tháng ngày chinh chiến xa xôi của chồng con và sống với cái Việt Nam Corner ngay trong nhà từ mấy chục năm nay. Cũng do cái Việt Nam Corner đó mà bà để tôi ra trận như một tiếp nối những gì ba tôi chưa hoàn thành. Các tấm  ảnh chụp những em bé đói khát, bịnh tật, lem luốc, da vàng, bụng ỏng càng ngày càng có nhiều trong căn phòng Việt Nam Corner của mẹ tôi thì việc ra đi của tôi thêm nhiều ý nghĩa. Cái Việt Nam Corner đó sau mấy mươi năm gần gũi đã dạy cho tôi bài học về tình người. Trẻ con bất cứ ở đâu thì cũng phải được thương yêu và nuôi nấng. Chúng tôi đã cầm súng để bảo vệ lẽ phải và duy trì hòa bình cho người dân vô tội được sống bình an và chúng tôi đã cầm tay từng em bé dạy chúng viết từng chữ ABC để sau này trở thành những cánh tay tiếp nối làm đẹp đất nước của mình. Chúng tôi dạy các em học, dạy các em hát bất cứ ở đâu, nơi góc phố đổ nát hay dưới chân tượng đài đã ngã sập. Người lính quân y của chúng tôi cho các em những viên thuốc bổ, chữa cho các em những ghẻ lở, thương tích. Chúng tôi cứu chữa cả những người mấy phút trước đây đã cầm súng bắn sẻ chúng tôi. Chúng tôi muốn đem bài học tình thương rao giảng với mọi người. Chúng tôi chiến đấu mà không một chút hận thù. Nói thật với bạn, nếu hàng trăm ngàn người lính chúng tôi, một sáng đẹp trời nào đó, được lịnh bỏ súng để dọn mình trở thành người truyền giáo hay thành sứ giả của tình thương thì bạn sẽ thấy súng ống bị vứt đầy đường và đầy đường sẽ là những giáo sĩ và những tín hữu hòa bình. Họ sẽ rao giảng kinh Thánh, kinh Koran, kinh Phật hay bất cứ kinh gì dạy mọi người sống hòa bình, nhân ái.

    Mấy mươi năm trước ba tôi đã quên những giây phút riêng tư của mình với người vợ mới cưới để đến một đất nước xa xôi vừa chiến đấu, vừa vá đường, vừa thương những đứa trẻ tội nghiệp như con. Thì nay, chuyện của tôi cũng vẫn là chuyện của tình thương và chiến đấu. Nhìn chúng tôi bị cả những em bé mà chúng tôi vừa mới cho kẹo ném những viên đá vào đầu xem ra thật là nghịch lý. Càng nghịch lý hơn nếu cứ vô tình để tâm hồn của các em bé như thế suốt đời bị màn u minh của một giáo điều che kín. Ngày hôm nay các em bé thơ ném đá vào tôi, nhưng sự có mặt cần thiết của chúng tôi biết đâu sẽ tạo cơ hội cho sự xuất hiện của những bộ óc hay những cánh tay biết xây dựng dân chủ, hòa bình, công bằng, tự do, bác ái, .…trên đất nước nầy trong vài năm nữa. Có  thành quả nào mà thiếu sự hy sinh, mất mát đâu.

 

    Tôi hy vọng mẹ tôi sẽ đọc được những dòng này để bức ảnh ấy không làm buồn lòng bà. Và để khi tôi có dịp về nhà tôi sẽ nhìn thấy bức ảnh được dán chung với hàng trăm những bức ảnh khác trong căn phòng đặc biệt được gọi là Việt Nam Corner của mẹ con chúng tôi. Chừng đó chúng tôi có thêm những kỷ niệm để sống.

 

Trần Bang Thạch

Mẹ Từ Trên Mây

 

 

"Thành quả mà chúng tôi có ngày hôm nay đều là do mẹ tôi hết. Từ trên mây, mẹ tôi luôn nhìn xuống anh em chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi từng bước làm theo mẹ".

 

     Mở đầu cho bài phỏng vấn đăng trên tờ báo địa phương The NorthWest Star hôm nay là câu nói trên của người con trai nhỏ nhất của gia đình Hays, cậu Stanley, tháng này vừa tròn 22 tuổi, một tân khoa của Đại học Texas tại Austin. Bài báo có kèm bức ảnh màu chụp bốn cha con nhà Hays đứng sau mộ bia bà Carol tại khu nghĩa trang nằm trên đường Montgomery, vùng Tây Bắc Houston. Cả bốn người đàn ông đều có nụ cười rạng rỡ . Và tôi chắc chắn nơi suối vàng, hay theo cách nói của Stanley, nơi mấy từng mây bạc trên cao, bà Carol cũng đang có cái cười thật tươi khi nhìn xuống thấp. Hôm nay đây là lần đầu tiên sau 14 năm cả bốn cha con mới có dịp cùng nhau mang niềm vui của mỗi người đến nghĩa trang tặng cho người vợ, người mẹ thân yêu đã chết 14 năm trước. Thời gian 14 năm để ước vọng thành hình chắc là không quá dài; nhưng 14 năm để phần hồn một người chết còn nặng nợ trần ai, cứ quẩn quanh nơi cõi thế này thì thật là dài. Dù sao thì đem thành quả đạt được trong học tập để dâng lên mẹ cũng là một hành động báo hiếu thật nhiều ý nghĩa và quí giá hơn bao nhiêu điều khác. Tôi nhớ tháng này cũng vào mùa Vu Lan, mùa báo hiếu. Chắc bốn người đàn ông trong ảnh không biết gì về ý nghĩa  mùa Vu Lan của văn hóa ta đâu, nhưng chuyện hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ thì ai cũng có và có thể thể hiện bất kỳ lúc nào. Sự trùng hợp này cũng là một điều thú vị.

 

    Hôm đó tôi trách người làm bản tin đã không có bức ảnh nào của bà Carol Hays in trên trang báo để đọc giả mến mộ nhìn được dung nhan của bà. Sau này nghĩ lại tôi thấy người ký giả ấy nếu không tế nhị thì cũng cao tay ấn lắm: Ông muốn nói với những đọc giả có ý nghĩ hời hợt như tôi rằng: lúc còn sống bà Carol đã quên mình mà lo cho chồng con thì khi đã chết rồi còn sá gì cái nhân diện của tấm thân ngũ uẩn. Phương chi nói tới thành quả của chồng con bà hôm nay chính là nhắc nhớ một đời vượt khó của bà, một đời tận tụy với chồng con, một đời đem niềm ước mơ của mình gieo vào tâm trí mấy đứa nhỏ. Đó, trên gương mặt vui tươi của người chồng có hình ảnh người vợ đã một đời đắng cay, khổ cực mà không một tiếng than. Đó,  nơi khóe mắt sáng ngời của ba đứa con là tấm lòng bao la như trời như biển của người mẹ. Và trong niềm vui hôm nay của mọi người trong ảnh ta thấy lúc ẩn lúc hiện đâu đó trên mấy tầng mây bạc một dáng hình như thần như thánh với nụ cười làm sáng rực một vùng không gian.  Cho nên hình ảnh bà Carol Hays mênh mông, vĩ đại quá, làm sao có trang báo nào thể hiện được hết. Chắc chắn người vui nhất hôm nay phải là bà Carol Hays, người đàn bà da màu nghèo khó, phải đợi cho đến 14 năm sau khi chết mới thấy được ước mong của mình đã hoàn thành. Thật sự nếu ta biết được tình cảnh gia đình Hays lúc bà Carol còn sinh tiền thì ta mới thấy được hôm nay niềm vui của người chết to lớn tới cỡ nào.

 

          Từ thời còn nhỏ, cô Carol La Salle đã sớm thấy cảnh đời đen tối của mình. Thuở đó chưa có những gì gọi là phong trào đòi nhân quyền rầm rộ, người da màu bị kỳ thị ở nhiều nơi. Đến đầu thập niên sáu mươi mới có những vận động tích cực của những người như Mục sư tiến sĩ Martin Luther King. Gia đình La Salle từ Morocco di dân sang Hoa Kỳ từ sau thế giới đại chiến lần thứ nhì, cô con gái đầu lòng Carol lúc đó chỉ hơn một tuổi. Những năm tiếp theo bà La Salle sinh thêm 2 trai nữa. Cha là một cựu quân nhân thuộc quân đội Anh, trở thành một phế nhân với ống chân mặt đã bị miễn đạn cứa đứt, thị giác chỉ còn hoạt động một nửa, đó là những thương tích để lại sau trận Nuremberg hồi giữa tháng Tư 1945, trận đánh quyết định chiến trường Âu Châu. Mẹ là người đàn bà quê mùa sống ở miền quê hẻo lánh vùng cực bắc của Morocco, không chữ nghĩa, chẳng có một nghề trong tay và chẳng biết một tiếng Anh nào. Sang Mỹ, ông bà như bị đẩy vào một thế giới lạ lẩm, không bạn bè, không người thân. Mỹ quốc là một nước giàu, nhưng gia đình La Salle là những người nghèo nàn nhất trong số những người nghèo. Sau khi sanh người con trai út cuối năm 51 thì ông La Salle từ trần; mấy năm sau thì bà La Salle cũng theo ông mà ra đi, lúc đó cô con gái Carol chưa quá 10 tuổi. Chị em cô được một gia đình không con nhận nuôi. Tình trạng chị em Carol đã không khá mà còn tệ hơn nữa. Cha mẹ nuôi cũng là  người da màu, không có nghề nghiệp nhất định; cả hai đều nghiện rượu rất nặng, họ sống thiếu thốn trong căn chung cư nghèo nàn vùng Fifth Ward. Bao nhiêu tiền trợ cấp của chánh phủ bị đổ vào bia rượu. Ba chị em Carol thường xuyên bị đói lạnh và bị đánh chửi. Trời sanh trời dưỡng, ba chị em côi cút rồi cũng theo thời gian mà lớn lên như cây như cỏ; nhưng việc học hành thì bị gián đoạn thường xuyên vì gia đình cha mẹ nuôi cứ di chuyển hết khu nghèo nàn này đến khu u tối khác. Nhiều đêm Carol mơ thấy mình mặc một chiếc áo đầm mới, mang một đôi giày mới; mơ thấy mình cùng các em ngồi trong lớp đàng hoàng, không lo lắng, sợ sệt; mơ một ngày cả ba chị em cùng ra trường, mũ áo chỉnh tề, nét mặt rạng rỡ, hân hoan như hàng trăm ngàn các học sinh khác trên toàn nước Mỹ.  Đời thì có bao giờ giống như giấc mơ. Không học hành được bao nhiêu thì khi vừa đúng 16 tuổi Carol phải bỏ học để đi làm cho một công ty quét dọn nhà cửa. Đến năm 17 tuổi thì Carol lấy chồng. Cũng năm đó hai thằng em trai bỏ nhà đi mất. Sau này biết được một thằng bị băng đảng thanh toán ngay trên đường phố giữa ban ngày; còn một thằng thì ngồi tù chung thân vì tội giết người. Những khốn khó như cánh tay hộ pháp nối dài theo ngày tháng tiếp theo cứ dìm Carol người đàn bà da màu bé nhỏ xuống hết vũng lầy này đến những hố thẳm khác, dìm thật sâu, không cho nàng một lúc nào nguôi ngoai để ngước nhìn một chút mặt trời le lói trên thân phận mình. Gặp phải một người chồng vũ phu, nghiện ngập, hút sách, bà Carol như một cánh lá sắp rụng xuống vực sâu nếu không có mấy đứa con làm lẽ sống. Là người đã mất cha mẹ từ nhỏ, bà Carol đã hiểu thế nào tình cảnh cút côi, nên nhiều lần bà gạt bỏ ý nghĩ ly dị. Bà cắn răng chịu đựng để các con còn sống dưới một mái nhà với cha. Là người hiểu rất rõ thế nào là cảnh sống của người thất học trong một xã hội văn minh, kỹ thuật, càng ngày càng trọng chữ nghĩa, nơi nào cũng đòi hỏi nghề nghiệp chuyên môn và xem trọng bằng cấp, nên bà Carol đã tận tâm, tận lực tạo điều kiện để các con thành những học sinh bình thường như những học sinh khác. Sự việc cậu con cả Andy bị đuỗi học giữa năm lớp 11, rồi phải đi làm lao động cho một hãng thầu xây cất là một thất bại và là một nỗi đau quá lớn cho bà Carol, bà buồn khổ thật nhiều, bà đã khóc thật nhiều, nhưng bà không nản lòng. Bà biết sự cố gắng của bà chưa đủ, sự dạy dỗ của bà đối với các con vẫn còn thiếu sót. Bà biết  bà cần phải cố gắng hơn nữa. Bà bỏ thêm  nhiều thời giờ với các con hơn nữa. Bà tìm cơ hội đến nói chuyện với các thầy cô giáo của các con, bà tham dự các buổi họp phụ huynh học sinh, bà cùng các con, nhiều khi có cả ông chồng, tham dự các thánh lễ mỗi Chủ Nhật. Là người ít học, nhưng bà Carol biết rõ một điều : cuộc sống là một sự vươn lên, vươn lên không ngừng, mỗi ngày mình thêm mới, thêm tốt đẹp thì tương lai sáng sủa càng đến gần. Cha mẹ bà và chính bà đã không có cơ hội nào để vươn lên nên tương lai tốt đẹp không hề đến với họ. Rất may cho bà, cậu con kế Antoine và cậu con út Stanley rất thương yêu mẹ và có vẻ rất nghe lời dạy bảo của mẹ. Bà Carol mường tượng tới một ngày chồng bà rời bỏ con đường nghiện ngập để trở lại làm người cha tốt; cậu con cả trở lại lớp để ít nhất cũng có bằng tốt nghiệp trung học và có được một nghề chuyên môn; hai cậu con kế thì phải hoàn tất bậc đại học. Càng nghĩ nhiều tới viễn ảnh tốt đẹp ấy, bà Carol ngoài công việc nặng nhọc nơi chỗ làm, ở nhà bà kiên nhẫn, nhịn nhục săn sóc chồng, tận tâm dạy dỗ con cái. Bà như đã quên mình từ lâu. Có thể cái tên của bà bà cũng không còn nhớ!

 

     Cho đến một ngày bà Carol không còn có mặt trên đời này để nghĩ đến mình hay tự tay săn sóc chồng con nữa. Có chăng là từ một cõi khác, bà Carol đã phù trợ cho những người thân yêu còn lại.

 

    "Năm đó tôi chỉ mới 8 tuổi thôi, nhưng tôi không bao giờ quên được đêm mùa đông lạnh lẽo, khắc nghiệt ấy. Đêm đó một cơn bão dữ dội đi ngang qua thành phố từ vịnh Mễ Tây Cơ. Tin tức thời tiết đã có dự báo về cơn bão này nhưng không ngờ nó mạnh bạo đến như vậy. Nhà cửa, cây cối sập ngã nhiều nơi. Trên TV đã chiếu nhiều đám cháy. Đã có người chết. Mưa như trút nước từ một đại dương trên cao. Gió xoáy cuộn như những con vụ khổng lồ. Ba thì chắc đang say sưa ở một quán rượu nào đó. Còn mẹ thì có một lần điện thoại về, mẹ nói mẹ cố hoàn tất công việc quét dọn tại một ngôi biệt thự khu cực bắc ngoại ô thành phố. Anh Andy thì đang kẹt đâu đó nơi chỗ làm. Trong nhà chỉ có anh Antoine và tôi. Anh Antoine năm đó 12 tuổi. Không còn điện, nhà cửa tối om. Căn chung cư bằng cây gỗ có số tuổi gần trăm năm không biết còn đứng vững được bao lâu trong cơn lốc xoáy đêm nay. Hai anh em chỉ biết nhìn cơn mưa đục trắng cả bầu trời mà mong những người thân trở về. Trong cơn giận dữ của trời đất với mưa to, gió lớn, sấm nổ rền trời, giữa cái lóe sáng của một loạt tia chớp, từ khung cửa sổ căn chung cư tầng thứ tư, anh em chúng tôi thấy mẹ như một cái bóng trắng mong manh len lách giữa hàng cây to ven đường, có lúc mẹ là chiếc lá nhỏ nhoi đong đưa trong trùng trùng gió bão. Sau này tôi nghĩ ông Trời đã nhiệm mầu làm nên những tia chớp đúng lúc chúng tôi nhìn về hướng ấy để thấy thật rõ ràng giây phút mẹ tôi đang lảo đảo rồi từ từ khụy xuống mặt đường. Khi hai anh em chúng tôi xuống tới nơi thì mẹ đã ngất xỉu. Chung cư nghèo nàn không có thang máy, anh Antoine ráng sức cổng mẹ chạy lên cả trăm bậc thang gỗ. Không có điện, chúng tôi thắp lên một ngọn nến nhỏ. Không còn đường dây điện thoại để gọi cấp cứu, anh em chúng tôi dùng phương pháp hô hấp nhân tạo và xoa nắn, ủ ấm, hy vọng mẹ tỉnh lại. Tôi chạy khắp các hành lang, gõ cửa từng nhà. Đâu có ai nghe được tôi trong tiếng thét gào của mưa gió và tiếng sấm rền. Thỉnh thoảng vài tia chớp ngoài cửa sổ để chúng tôi thấy tay chân mẹ có nhiều vết trầy sướt rịn máu đỏ; còn mặt mẹ thì như tờ giấy trắng nhầu nát. Ngay lúc đó, dù còn bé, tôi cũng đã hiểu rằng mẹ đã một thân một mình chống chọi với cơn giận dữ của thiên nhiên để về với con cái. Mẹ đã quên mẹ hoàn toàn, mà trước mắt mẹ chỉ có mấy đứa con nhỏ dại trong cơn phong ba bão táp. Mẹ biết giờ phút ấy hai đứa con nhỏ của mẹ đang lo lắng, sợ sệt trong cái chung cư ọp ẹp, cũ kỷ, có thể sụp đổ hay phát hỏa bất cứ lúc nào. Như một tia chớp ngoài trời, mẹ bỗng ưỡn người tỉnh lại. Trong bóng đêm nhập nhòa, tôi thấy đôi mắt mẹ bỗng sáng rực và đôi môi mẹ nhếch cười. Mẹ tìm bàn tay của anh em tôi, nắm thật chặt, cố gắng nâng hai cánh tay chúng tôi đưa lên cao. Mẹ không làm được, chúng tôi phải cầm tay mẹ nâng lên, mẹ lộ vẻ hài lòng. Với bốn cánh tay vươn cao, mẹ thì thào: "Vươn lên...lúc nào cũng phải vươn lên...tiếp tục vươn lên làm con người tốt, có học và có đức. Phải có mục đích để nhắm tới. Đạt được một mục đích chưa phải là xong...Còn nhiều mục đích kế tiếp...Mẹ xin lỗi phải ra đi quá sớm, nhưng mẹ sẽ tiếp tục cầu nguyện, dẫn dắt và phù trợ các con, cả cha các con nữa. Hãy tha thứ cho mẹ... ". Mẹ tôi còn nói nhiều nữa nhưng người chỉ thì thào trong cổ họng. Rồi như ngọn bạch lạp lóe sáng lên lần cuối, mẹ bóp chặt tay anh em chúng tôi, nở một nụ cười thật rạng rỡ, rồi từ từ xuôi tay, nhắm mắt. Anh em chúng tôi chỉ còn biết kêu lên thảng thốt: "Mẹ, mẹ, mẹ...". Anh Antoine chạy đi đập cửa khắp nơi. Đôi ba người đến, làm vài động tác sờ nắn, nói vài lời gì đó rồi buồn bã bỏ đi khi biết họ không thể làm gì được cho người đàn bà nghèo khó, xấu số, trong đêm mưa bão này. Chúng tôi cứ bấm số cái điện thoại vô hồn đã mất liên lạc với tổng đài từ lâu. Chúng tôi khan cổ gào khóc, cuối cùng tôi chỉ biết ngồi ôm xác mẹ suốt đêm; còn anh Antoine thì cũng suốt đêm quì ngoài hành lang giữa mưa to gió lớn cầu nguyện, hy vọng đấng quyền năng đã có mãnh lực làm nên mưa bão thì cũng có thể đưa mẹ trở về với chúng tôi. Tờ mờ sáng hôm sau thì anh Andy về nhà; mới hay mẹ đã chết từ đêm qua; anh thấy cái xe của mẹ đậu cách chung cư một con đường, nước ngập gần tới tay lái; còn ba thì về nhà sau khi thi thể mẹ đã được chở đi giảo nghiệm tại quận hạt Harris.

     Từ đó tôi đã cảm nhận được thân phận lẻ loi của mình. Tôi biết cái bóng mát dịu dàng đã xa anh em chúng tôi. Tôi biết tôi không còn nghe tiếng khóc rấm rức não nuột giữa khuya của mẹ. Và có lẽ cũng từ cái đêm bão bùng đau đớn đó, anh em chúng tôi đã thấu hiểu sâu xa ước vọng của mẹ và những lời trăn trối của người.

    Mười bốn năm đã qua rồi mà tôi còn nhớ như mọi việc chỉ mới xảy ra hôm qua. Bốn cánh tay chấp chới đưa lên cao và những lời thì thào trong mưa bão: Vươn lên...vươn lên...Mười bốn năm, như một thói quen từ nhỏ không bỏ được, ngày nào tôi cũng nhìn mẹ tôi trên mấy từng mây bạc, lắng nghe từng lời âu yếm của người. Không biết từ khi nào tôi có ý nghĩ rằng cũng từ trên cao đó mẹ tôi ân cần dẫn dắt những người thân yêu của mẹ vượt ngàn thương khó. Bao nhiêu sạn đạo chúng tôi đã đi qua chắc chắn có mẹ tôi đồng hành. Tấm lòng của mẹ muôn đời vẫn là biển cả mênh mông, ngàn đời vẫn là rừng sâu núi dựng. Cây cành chúng tôi mỗi ngày một vươn cao, xanh tốt chắc chắn là cũng từ phân bón mẹ. Tôi biết mẹ tôi vui vô cùng khi tôi 14 tuổi đã đoạt giải Khoa Học Quốc Gia dành cho những nhà khoa học tương lai và suốt những năm học sau đó tôi được xếp vào hàng ngũ học sinh xuất sắc nhất của toàn nước Mỹ. Mẹ tôi đã dạy: Vươn lên nếu không muốn bị nhận chìm xuống đáy. Hai tháng trước tôi đã nhận bằng cử nhân toán với hạng tối ưu. Tôi dự trù thêm 4 năm nữa để hoàn tất chương trình tiến sĩ giáo dục, hy vọng được làm một giáo viên tiểu học tại một học khu nghèo nàn. Anh Antoine của tôi, với bằng cao học vật lý,  đang là một giáo viên dạy lớp Ba tại khu Fifth Ward, nơi mẹ tôi cư ngụ thời con gái; anh cũng đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ 2 năm tới. Còn anh cả Andy của tôi thì đã trở lại lớp vào ban đêm để học xong chương trình trung học, tuy có chậm nhưng cũng đã hoàn thành  năm trước. Anh vừa lấy chứng chỉ điện tại trường đại học cộng đồng tuần rồi. Hiện tại anh là một thợ điện của công ty điện lực lớn nhất thành phố. Từ trên cao nhìn xuống những thành quả của ba đứa con sớm côi cút của mình, tôi biết mẹ tôi vui lắm. Nhưng có lẽ một sự kiện khác cũng làm mẹ tôi vui thêm: đó là việc hoàn thiện của ba tôi. Từ nhiều năm qua chắc chắn mẹ tôi nghe được những lần cha con chúng tôi nói chuyện, nhiều lúc thật gay go, như hai bên là hai kẻ thù sắp tận diệt nhau. Trong cơn say và nghiện thuốc thì ba tôi còn có khả năng phân biệt trái phải gì nữa. Nhưng những khi tỉnh, nghe chúng tôi nhắc tới mẹ, nhắc tới ước vọng của mẹ muốn mọi người thương yêu còn lại trên đời của mẹ trở thành người tốt, nghe gợi lại hình ảnh đau thương của mẹ vào một ngày bão nỗi với đôi tay khẳng khiu, run rẩy, kiệt lực, bê bết máu mà cố đưa lên cao, ba tôi đã chạnh lòng. Biết đâu có nhiều lúc nào đó mẹ tôi đã tỉ tê với ba tôi những ân tình còn nặng giữa hai người. Năm này tháng nọ, dù có lâu nhưng cuối cùng ba tôi cũng đã trở lại làm người lành mạnh như bao nhiêu người bình thường khác. Còn hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh một ông già trên sáu mươi, trong một đêm trăng sáng đã ăn mặc trịnh trọng, mày râu nhẵn nhụi, quì trước sân nhà mình, hai tay chắp trước ngực, mắt hướng lên vùng trời đầy sao, nói thì thầm với người vợ đã khuất.

     Mười bốn năm nay, chúng tôi vẫn viếng mộ mẹ, có khi thì một trong anh em chúng tôi, có khi thì cả ba anh em, có khi thì chỉ một mình ba tôi. Cùng đi chung như thế này thì chưa bao giờ, từ 14 năm nay. Cha con chúng tôi đã có ước hẹn là một khi mỗi cá nhân chúng tôi đã làm được những gì mẹ mong muốn chừng đó mới xứng đáng cùng nhau đến thăm mộ mẹ, coi như đó là một món quà cho mẹ. Chúng tôi biết niềm vui của mẹ chỉ hoàn toàn  khi cả bốn người chúng tôi làm xong phần mình. Thật sự chúng tôi chỉ xong một phần; nhưng lo gì, chúng tôi biết vươn lên, chúng tôi thương mẹ, chúng tôi có tình thương đời đời của mẹ. Phải vậy không?

     Mà này ông ký giả, tui nói cho ông biết, thà mất lòng trước mà đặng lòng sau, tấm hình ông chụp mà thiếu nụ cười của mỗi chàng đẹp trai con nhà nghèo học giỏi chúng tôi thì không đặng đâu nhen. Hư bột hư đường hết đó. Còn bài viết mà thiếu tiếng cười của mẹ tui từ trên mây cao rớt xuống thì cũng hổng bét hết. Nói chơi cho vui vậy thôi, chớ ông muốn viết gì thì viết, chúng tôi có mất mát gì đâu. Bốn người chúng tôi vẫn là những người đang trên đường đi tới.  Người đàn bà yêu quý tuyệt vời của chúng tôi vẫn muôn đời ngự trên mấy từng mây đó. Và luôn luôn cười".

 

(Houston, mùa Vu lan và mùa tựu học 2002)

Trần Bang Thạch

 

Ngoại tôi

và dòng sông nhỏ

 

Ngày má tôi đưa hai chị em tôi về sống tại quê ngoại là làng Trường Phước thì tôi chỉ mới năm tuổi. Còn nhỏ như vậy mà không hiểu sao cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ gần hết mọi chuyện trong ngôi nhà của ông bà ngoại tôi thời đó. Tôi cũng không thể nào quên được con sông nhỏ trước nhà. Có lẽ vì mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh cái trục chánh là bà ngoại hai của tôi, người mà tôi thương nhứt trong cái đại gia đình này.

 

Bây giờ kể chuyện lại tôi gọi là bà ngoại hai cho phân biệt, chớ lúc nào tôi cũng gọi bà là ngoại; tôi không muốn gọi bà một, hay bà hai bà bốn gì ráo. Tôi càng ghét cái tiếng bà ngoại ghẻ mà nhiều người nói tới. Lúc còn nhỏ cũng vì tánh ương ngạnh này mà tôi thường xuyên bị đòn nhừ tử; đa số những trận đòn là từ bà ngoại ruột của tôi, bà không muốn người đàn bà nhỏ nhoi tội nghiệp kia đứng ngang vai vế với bà. Đánh mấy roi mây thì cứ đánh, tôi chỉ một mực là ngoại, không râu ria rể má gì hết. Mỗi lần thấy tôi bị đòn như vậy, ngoại hai tôi chỉ biết nhìn tôi rồi khóc thầm, chớ không làm được gì hết. Thời đó có lẽ tôi không thích bà ngoại ruột của tôi đâu, nhưng nay nghĩ lại tôi thương bà lắm.  Cũng như tôi thương hết những người đàn bà trong căn nhà này, từ hai bà ngoại, đến má tôi, xuống đến dì Ba và dì Út tôi, cuối cùng là chị Hai tôi. Người ta nói gia đình này âm thịnh dương suy, ngần ấy người nữ mà chỉ có ông ngoại và tôi là nam. Nhiều nữ thì có, nhưng thịnh thì chắc là không. Hai bà ngoại tôi đều là hai người đàn bà nhan sắc mà có chung một ông chồng. Hồi cuối thập niên ba mươi, trước khi lấy chồng, ngoại ruột của tôi vốn là con gái rượu của ông hương sư trong làng, đã học xong supérieure élémentaire; còn ngoại hai  một chữ nhứt cũng không biết, tội cho bà: vì con nhà nghèo lại có chút nhan sắc nên ông ngoại tôi đem về làm vợ lẽ; còn má tôi, một cựu nữ sinh của Collège de Cantho, thì vì không chịu được cái chuyện mèo mả gà đồng của ba tôi nên dẫn con về tá túc bên ngoại khi tuổi đời chưa quá hai mươi bốn; dì Ba tôi thì chồng chết khi đám cưới chưa giáp năm; dì Út lúc mười tuổi đã suýt chết chìm, tuy được cứu sống nhưng bắt đầu nghễnh ngãng như người mất trí, ban ngày thì ngủ vùi, ban đêm thì cứ đứng dưới bến sông ca hát suốt đêm; thuở đó đâu có nhiều bài ca cải cách nên đa số bài bản là do dì tự đặt nhạc và lời, nghe ngô nghê hết sức; chị Hai tôi thì bị câm từ khi mới lọt lòng mẹ, suốt ngày thơ thẩn ngoài vườn như con gà con vịt. Như vậy thì bảo rằng thịnh là thịnh cái chỗ nào! Nhưng nếu cứ nói về những người đàn bà này thì cho tới chừng nào mới hết chuyện. Một người đàn bà bình thường đã có biết bao nhiêu chuyện để nói. Ở đây có tới sáu người đàn bà với nhiều cái bất thường như vừa kể thì ít nhứt phải có hàng trăm chuyện. Cho nên chỉ xin kể chuyện bà ngoại hai của tôi mà thôi. Chuyện những người đàn bà còn lại thì xin để dịp khác.

 

Thật sự thì bà ngoại hai của tôi là người đàn bà mờ nhạt nhứt trong gia đình so với mấy người khác. Lúc mẹ con tôi về tá túc nhà ngoại thì ngoại hai đã ra riêng chừng mươi ngày trước đó. Người ta nói từ ngày về làm lẽ ở cái tuổi hai mươi lăm với ông chồng già hơn gần hai con giáp, năm sáu năm trường trong gia đình chồng, ngoại hai tôi không khác chi một kẻ ăn người ở; những người này còn lãnh lương vài đồng bạc mỗi tháng, chớ ngoại hai tôi thì chẳng những làm lụng thí công mà lại còn bị bà ngoại tôi mắng chửi cả ngày dù không một lầm lỗi. Ông ngoại tôi làm hương quản nên tối ngày lo việc làng xã, có biết chi đâu tình cảnh khốn khổ của người vợ lẽ. Có lẽ việc trở về của mẹ con tôi là cái dịp tốt nhứt cho ngoại hai có một mái nhà riêng. Tuy ở riêng nhưng công việc của người vợ hờ kiêm người quản gia kiêm người giúp việc thì đâu có gì thay đổi. Căn nhà mái lá vách ván một căn một chái của ngoại hai nằm khiêm nhường ở cuối phần đất của ngoại tôi, chỗ giáp ranh với khu vườn ông Tư Củ Hành, cách ngôi nhà lớn chừng một tiếng hú. Căn nhà nhỏ, mặt trước hướng ra con lộ đất, mặt sau giáp với mé nước của nhánh sông nhỏ, gọi là rạch Ông Thìn. Ông Thìn chính là ông Cố tôi, có lẽ là người đầu tiên đến đây lập nghiệp và mở mang vùng này. Nghe đâu ông chính là tay chưn bộ hạ của Lê Văn Khôi. Mang tiếng là vợ của một hương chức hội tề với đất vườn, đất ruộng hàng mấy ngàn mẫu, bà ngoại hai tôi chỉ sở hữu cái nền nhà rộng chừng hai chiếc đệm. Chỗ ở của những người giúp việc còn lớn hơn nhiều. Thật ra căn nhà chỉ là cái quán trọ qua đêm của ngoại hai tôi. Mỗi sáng khi gà gáy hiệp nhứt thì ngoại hai đã có mặt phía sau ngôi nhà rộng hơn cái đình làng, sắp xếp mọi chuyện cho kẻ ăn người ở; xong đâu đó là tới phần việc của bà. Tôi có cảm tưởng công việc như một dòng nước từ trên cao, cứ đổ xuống trên đôi vai của ngoại hai tôi, ngày nào cũng như ngày nấy. Không biết sức lực ẩn chứa nơi nào trong con người nhỏ bằng hột tiêu ấy. Làm lụng liên tục cho đến thật khuya mới đốt bó đuốc bằng đuôi lá dừa khô lần mò về nhà ngủ vội mấy tiếng. Phải nói đó là căn nhà của tôi thì mới đúng. Chị em tôi được sanh ra ở quê nội là đất Xẽo Môn. Cuộc hôn nhân của má tôi với ba tôi không được ông bà ngoại tôi chấp nhận, nên từ khi có chồng má tôi coi như bỏ làng mà theo chồng; chị em tôi cũng không có dịp nào về thăm quê ngoại. Lần đó là lần đầu, lúc tôi đã năm tuổi, còn chị tôi thì bảy tuổi. Về nhà cha mẹ, má tôi như cùng lúc mang gánh nặng và mang cả cái nhục nhã trở về. Cho nên ông bà ngoại tôi đâu có coi mẹ con tôi ra gì. Má tôi buồn lắm, bà chỉ biết tâm sự hay than khóc với ngoại hai tôi. Tôi cũng vậy, tôi chỉ thấy ngoại hai là người để cho tôi thương và chuyện trò. Ban ngày tôi quấn quít bên ngoại hai phía sau căn nhà lớn, hay chơi với heo gà chim chóc quanh cái lẫm lúa to như chiếc ghe chài; ban đêm tôi thường ngủ ở nhà ngoại hai. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy những cái cười hiếm hoi trên khuôn mặt thanh tú của người thiếu phụ nửa chừng xuân mà tôi gọi là ngoại ấy chỉ có với tôi; với má tôi thì bà hay khóc, hai người đàn bà trạc tuổi nhau thường kín đáo ngồi khóc bên nhau. Số phần hẩm hiu làm họ gần gũi nhau hơn. Với mọi người khác thì ngoại hai tôi có nét mặt bình thường, không vui không buồn, không hờn giận, không oán trách; một ngày người ta có thể đếm được trên mười ngón tay bà nói bao nhiêu tiếng. Nhưng với tôi thì ngoại hai hoàn toàn khác. Tôi nói với bà đủ thứ chuyện, bà vừa làm vừa nghe tôi nói, thỉnh thoảng bà hun tôi chùn chụt và cười thật vui, lúc đó tôi đã sớm nhận biết nét đẹp trên gương mặt trái xoan nhễ nhại mồ hôi của bà. Những chuyện kể của ngoại hai tôi nghe hoài không biết chán. Hình như bà có một kho tàng chuyện xưa tích cũ không bao giờ cạn. Không biết đọc mà hơn ba ngàn câu thơ Kiều bà "nói" không sai sót một câu. Bà nói tôi là niềm vui duy nhứt của bà. Nhưng có lẽ bà vui nhứt là khi giữa đêm ông ngoại tôi bất chợt ghé nhà bà. Thường thì đó là những lúc ông ngoại tôi say khướt, không còn biết trời trăng mây nước gì hết. Ngoại hai tôi lo đủ điều cho ông, nào là khăn ấm, rồi nước chanh đường, nước trà nóng...Nhiều khi phải nấu nước nóng cho ông tắm rửa. Bà tẩn mẩn làm việc như đó là dịp quí hiếm để bà được thật sự làm bổn phận người vợ chăm lo săn sóc chồng. Chiếc mùng hai nóc như lúc nào cũng mới tinh, trắng bốc, được giặt giũ sạch sẽ, xếp gọn để trong tủ kiếng thơm mùi long não, chỉ được lấy ra khi có ông ngoại tôi ghé ngủ đêm. Chiếc giường nhỏ, sợ ông ngoại tôi khó ngủ, ngoại hai tôi phải suốt đêm nằm võng, tay không ngừng đuổi muỗi bằng cái quạt mo cau, chân thì đưa võng kẻo kẹt. Ông ngoại tôi có tật hay tiểu đêm, nên mỗi khi có ông, ngoại hai tôi mới đốt lên ngọn đèn dầu mù u, vừa đủ sáng cho ông ngoại tôi dễ bề đi lại. Những lần thức giấc, từ trong cái mùng một nóc trên tấm ngựa gõ kế bên, tôi thấy ngoại hai tôi vén mùng nhẹ nhàng kéo tay chưn ông ngoại tôi cho thẳng thớm, đắp lại cái mền bông, sửa lại cái gối lấp lánh những hột cườm. Bà làm với một vẻ âu yếm mà dù còn nhỏ tôi cũng dễ dàng thấy được.

 

Đến một ngày thì mọi chuyện như xoay một góc ba trăm sáu mươi độ. Suốt đời tôi không thể nào quên cái ngày vô cùng buồn thảm ấy. Ngày ấy cũng là ngày thay đổi hẳn cuộc đời của ngoại hai tôi.

Điều tôi nhớ nhứt là tiếng khóc thảm thiết tột độ của ngoại hai, nó có cái âm thanh của cơn gió hú và có cái âm sắc của tiếng sét ngang trời. Bình thường ngoại hai tôi có bao giờ lớn tiếng với ai, lúc nào bà cũng nói năng từ tốn nhỏ nhẹ, cả với những người giúp việc và những người tá điền. Có chuyện gì quá buồn khổ, bà chỉ biết ngồi khóc thầm ở một góc nhà.Vậy mà hôm đó bà khóc như giông bão, vật vã không ai kềm chế được. Đó là một ngày trung tuần tháng giêng năm bốn sáu khi chú tá điền tên Vạn từ đầu vàm chạy không kịp thở về nhà ngoại tôi, cho cả nhà hay là đã nhận được cái xác mất đầu của ông ngoại tôi trôi tấp vào tay đáy của chú. Thời đó là thời nhiễu nhương. Pháp, rồi Nhựt, chánh phủ Nam kỳ quốc, rồi Việt Minh, Việt gian, giáo phái và đảng phái quốc gia, cộng với thù hiềm cá nhân, vv....chuyện thằng chổng trôi sông là chuyện thường ngày, như chuyện ăn cơm bữa. Nhiều khi bốn năm xác người bị xỏ xâu trôi vướng chân cầu đúc ngoài chợ Cái Răng, thằng tây đen gác cầu bắn chỉ thiên mấy phát súng vừa đuổi tà ma, vừa bắt người đi xuồng ghe dừng lại vớt xác để phơi nắng cả ngày trên cầu. Mới năm sáu tuổi mà tôi đã hiểu thế nào là "mò tôm", là "mổ bụng dồn trấu"....Tuổi thơ của tôi cũng mất đi từ đó.

 

Vật vã khóc lóc, không ăn không ngủ, chết đi sống lại suốt ba ngày trời, rồi ngoại hai tôi có một quyết định không ai ngờ: Bà tom góp hết tất cả vốn liếng mua một chiếc ghe tam bản nhỏ có mui, thu dọn nồi ơ chén dĩa, mùng mền chiếu gối bắt đầu cuộc sống trên sông nước. Người đàn bà trung niên, đầu quấn khăn tang, tóc luôn xõa dài tới gót chưn và bộ đồ tang trắng bay phất phới trên sông, đó chính là hình ảnh ngoại hai tôi trên rạch Ông Thìn. Bây giờ, hơn nửa thế kỷ sau, ngồi viết lại chuyện này, hình ảnh ấy hiển hiện trước mắt tôi như một khúc phim chậm. Ngoại hai tôi không đi đâu xa, bà chỉ thả ghe theo con nước lớn trôi vào cuối con rạch; rồi theo nước ròng thả ghe ra đầu vàm, ngày cũng như đêm. Người ta nói ngoài những lúc thả cần câu cá ban ngày hay câu tôm ban đêm để có cái ăn thì ngoại hai tôi ngồi bất động sau lái, mắt đăm đăm nhìn từng dề lục bình rau mát trôi trên sông. Ai cũng biết bà đang tìm cái đầu của chồng. Vài đứa nhỏ ác độc thỉnh thoảng thả trên sông mấy trái dừa điếc lúc trời nhá nhem tối, khiến ngoại hai tôi hớt ha hớt hải chèo ghe vớt từng trái, để rồi buồn khóc suốt đêm. Không ai có thể nghe tiếng khóc của bà, nhưng mỗi khi thấy bà ngồi sau lái, đầu gục vào hai gối, tóc phủ kín mặt mày thì người ta biết là bà đang khóc. Nghe má tôi nói ngoại hai tôi quyết lòng tìm vớt cho được cái đầu của ông ngoại tôi. Ngoại hai tôi nói bà không bao giờ an tâm mỗi khi nhớ tới người chồng đã chết thảm mà lại không trọn hình hài. Tôi thì nghe đồn là người chết mất đầu thì vĩnh viễn không được đầu thai.

 

Từ đó, như một định mạng, con rạch mang tên ông cố tôi bây giờ là thế giới riêng của cô con dâu khốn khó của người. Không hiểu từ đâu mà ngoại hai tôi cứ nghĩ là cái đầu của ông ngoại tôi không trôi đi đâu xa, mà đang lẩn quẩn đâu đótrên con rạch của ông cha mình, đâu đó dưới gốc bần hay đâu đó trong bụi lát. Thật sự thì con rạch không dài, không sâu mà cũng không rộng. Nó chỉ là một nhánh của con sông cái bắt đầu từ cửa sông Bassac, chạy ngòng ngoèo qua thành phố Cần Thơ, chạy tuốt vô Cái Răng mới chia thành hai nhánh: một vào miệt Phong Điền, Cầu Nhiếm, một vào Cái Chanh, Cái Muồng. Rạch Ông Thìn nằm khoảng giữa Cái Răng và Cái Chanh, là ranh giới của làng Trường Phước và làng Trường Thành. Khu vườn cây ăn trái của ngoại tôi có hình dáng một hình chữ nhựt nằm ngay vàm Ông Thìn, một mặt có chiều ngang độ một phần tư cây số chạy dọc theo con rạch; mặt kia độ nửa cây số nằm trên bờ sông cái. Nhà việc của làng nằm trên khu đất của ngoại tôi. Từ vàm, con rạch dài gần ba cây số, chảy quanh co giữa vườn tược và gần trăm căn nhà hai bên, đa số là nhà lá, rồi bị cái đập đất chận ngang. Phía bên kia đập là cánh đồng lúa bát ngát của ông ngoại tôi. Bề ngang con rạch chỉ vừa đủ cho hai chiếc ghe chài chở lúa hạng trung qua mặt. Vào mùa khô, lòng rạch cạn gần tới đáy, một đứa con nít mười tuổi đứng không ngập đầu; còn mùa nước nổi thì nước tràn hai bên bờ, có khi mấp mé những nền nhà thấp. Từ ngày ông ngoại tôi chết, nước khô hay nước nổi thì ngoại hai tôi vẫn một mình một bóng trên sông. Một bóng trắng trên sông. Có lẽ còn một giọt nước trên sông là bà còn hy vọng. Nhiều khi đứng trên bến trước nhà, tôi thấy ghe ngoại hai theo con nước trôi ngang nhà, bà ngồi phía sau ghe, ơ hờ bẻ lái, mắt thì cứ liên tục nhìn dáo dác hai bên, thấy tôi bà cũng không nói lời nào. Mấy tháng đầu có vài lần tôi xuống ghe ngoại hai ngủ qua đêm, nhưng về sau hình như tôi hơi sợ. Tôi thấy ngoại hai thay đổi quá nhiều. Bà không còn cười hay chuyện trò với tôi hay với bất cứ ai. Nét mặt bà lúc nào cũng trơ trơ như thoa sáp, ánh mắt thì bao giờ cũng xa xăm, coi như không có ai trước mặt. Nhiều khi tôi có cảm tưởng bà sợ cả tôi.

 

Tình trạng như vậy kéo dài được hơn một năm thì mọi người bảo là ngoại hai tôi bắt đầu điên. Dấu hiệu thấy rõ nhứt là mái tóc dài óng ả, đen mun của ngoại đã mất; chiếc khăn tang vẫn quấn quanh cái đầu trọc. Và nhiều lúc ngoại hai tôi la lên mấy tiếng vô nghĩa rồi đứng trước mũi ghe ôm đầu khóc sướt mướt như một đứa con nít. Bà ngoại tôi và má tôi cùng các dì có nhiều lần xuống ghe năn nỉ bà lên bờ để được mọi người săn sóc. Ngoại hai tôi đâu chịu, bà còn khoa tay múa chưn đuổi mọi người dang xa ra ghe của bà. Ngoại hai tôi càng điên loạn thì tôi càng sợ, không dám tới gần bà; còn mấy đứa nhỏ rắn mắc thì càng trêu chọc bà hơn. Hết thả những trái dừa điếc để ngoại hai tôi chèo ghe rượt theo đến rã tay, hụt hơi, thiếu điều muốn chết giấc, chúng dùng những thân chuối cây làm giả những hình nộm rồi đặt trong các bụi ô rô hay các bụi cây bần để ngoại hai tôi lội bùn sìn, vẹt ô rô sướt da, chảy máu, nhiều khi còn bị ong đánh mặt mũi sưng vù, bàbồng cái hình nộm rồi hát ru như  người mẹ ru con. Những buổi chiều tà khi con nước lớn, giọng ru của ngoại hai tôi trôi ngọt ngào trên một khúc sông. Có lẽ lúc ngoại hai tôi tỉnh nhứt là lúc quá nửa đêm khi bà một mình trên sông với cái cần câu tôm và ngọn đèn trứng vịt, lúc đó bà không la khóc mà chỉ nói thơ Lục Vân Tiên và nói Kiều. Tôi có cảm tưởng cả làng đều quen thuộc từ Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng đến Nguyệt Nga, Vân Tiên. Con sông nhỏ vẫn ngày ngày nước ra vô, ròng rồi lớn; còn ngoại hai tôi thì có thay đổi gì đâu, vẫn một thân một mình chèo chóng trên sông tìm hoài một cái đầu đã mất.

 

Thêm một năm, rồi một năm nữa trôi qua. Như vậy là đã trên ba năm ngoại hai tôi sống trên sông nước với con người nửa mê nửa tỉnh. Càng lớn tôi không còn sợ mà càng thương ngoại hai tôi hơn. Có lần giữa đêm tôi lén lội gần chiếc ghe của ngoại đang cắm giữa lòng sông. Tôi nghe ngoại hai tôi khóc. Qua một lỗ nhỏ ở mui ghe, tôi thấy ngoại hai tôi quì trước linh ảnh của ông ngoại tôi. Chiếc đèn hột vịt vừa đủ sáng cho tôi thấy những giọt nước mắt lóng lánh của ngoại. Sóng nước có làm cho chiếc ghe trôi nổi bập bềnh nhưng ngoại hai tôi vẫn ngồi vững vàng trên sạp. Sau đó tôi có vài lần xuống ghe chủ ý là muốn chuyện trò với ngoại hai và khuyên bà nên trở lên bờ. Ngoại hai tôi rất ít nói và vẫn tiếp tục cuộc sống trên sông nước.

 

Cuối mùa hè năm đó tôi bắt đầu vào trung học. Má tôi gởi tôi trọ học tại nhà chú Năm tôi tại chợ Rạch Giá; phần thì xa xôi, phần vì đường sá khó khăn, đôi ba tháng tôi mới về thăm nhà một lần. Lúc này thì tôi đã biết viết thơ gởi về thăm nhà, bao giờ tôi cũng có kèm thêm lá thơ gởi riêng cho ngoại hai tôi. Thơ trả lời của má tôi thì có mà của ngoại hai thì không. Trong các thư nhà gởi sang, tôi ít khi thấy má tôi hay các dì nhắc tới ngoại hai. Chỉ có một lần trong những dòng chữ ngoằn ngoèo của dì Út, tôi đọc thấy vài tin tức về ngoại hai, đặc biệt là tin gần đây lối xóm đồn rằng có đêm họ thấy chiếc xuồng của ông cai tuần Nhâm cập sát chiếc ghe của ngoại hai. Nhân đó họ sầm xì rằng ngoại hai tôi giả đò khùng điên, bày chuyện sống một mình riêng rẽ trên sông để dễ bề làm chuyện tằng tịu với tình nhân. Thuở đó tuy còn nhỏ nhưng tôi cũng biết đó là chuyện hệ trọng, chẳng những chỉ đối với phẩm giá của chính ngoại hai tôi mà còn thương tổn đến danh dự của cả họ ngoại chúng tôi. Riêng với tôi, tôi thấy mình vô cùng buồn bả, ghét thương lẫn lộn. Nhân có mấy ngày nghỉ lễ, tôi vội vã về quê tìm hiểu hư thật thế nào. Không ai muốn nói với tôi lời nào về những đồn đãi như vậy. Cả dì Út tôi cũng bảo tôi hãy quên đi những điều dì đã viết trong thơ. Ngoại hai tôi vẫn ngày đêm trên sông nước, vẫn một bóng một mình, lảm nhảm ca hát, hết đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy vân thì đến gió đưa cây cải về trời rau răm ở lại chịu đời đắng cay. Gặp bà tôi hỏi về chuyện ông cai tuần, bà không trả lời, mắt như thất thần nhìn ngó đâu đâu. Hôm sau tôi xuống ghe từ giã, bà cũng không nói một lời nhưng trong đuôi mắt bà tôi thấy như có hai ngấn lệ. Bận rộn với bài vở và  với cuộc sống thành thị tôi ít có dịp nhớ tới những nguòi thân nơi quê nhà. Lúc còn nhỏ tôi không rời ngoại hai tôi một bước, vậy mà bây giờ nhiều khi tôi cũng quên mất bà, quên cả câu chuyện đàm tiếu về bà. Đến một hôm thì tên ngoại hai tôi hiện ra ngay trước mắt tôi. Đó là một buổi trưa ngày thứ Ba, ngày tôi được xếp làm trực nhựt sinh tại văn phòng Tổng giám thị. Nhân lúc rảnh, tôi đọc lướt mấy tin tức đăng trên báo Thần Chung. Tôi thấy ngay bài báo viết về ngoại hai tôi tại phiên tòa nơi tòa án Cần Thơ; có cả tấm ảnh  chụp toàn thân của ngoại hai tôi vẫn mặc đồ tang, đang đứng trước vành móng ngựa với tư cách nguyên đơn. Dưới bài tường thuật phiên tòa là bài phỏng vấn vô cùng cặn kẽ sự việc xảy ra từ đầu. Những ai thường đọc báo thời kỳ đầu năm năm mươi chắc còn nhớ vụ án này, vụ án người điên thời đại Thị Tơ báo thù chồng, tất cả các báo đều có đăng tin, cả nam kỳ lục tỉnh xôn xao, không khác chi câu chuyện cô Quờn đốt chồng hay câu chuyện vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át-xít sau đó. Báo nói ngoại hai tôi, người đàn bà không biết đọc biết viết mà trước tòa bà là một nhân chứng sống, nhiều lúc bà tranh luận với cả luật sư của bị cáo. Trước vành móng ngựa, ngoại hai tôi ăn nói điềm đạm nhưng rất hùng hồn, giọng điệu cứng chắc, có tình có lý, mắt bà ráo hoảnh; chỉ sau khi nghe quan tòa kết tội khổ sai chung thân hương tuần Nhâm, ngoại hai tôi mới chắp tai trước ngực, mặt hướng lên trời, rồi khóc. Đọc hết bài báo tôi mới vỡ lẽ: ngoại hai tôi vì quá bất nhẫn trước cái chết thương tâm của chồng, và vì quá thương chồng mà quyết tâm tìm ra thủ phạm giết chồng mình, bất kể thiên hạ đàm tiếu về tiết hạnh của mình. Bà khai trước tòa rằng ngay khi chồng chết, bà đã hồ nghi tên cai tuần Nhâm bên làng Trường Thành, người đã theo đuổi bà từ trước khi bà về với ông ngoại tôi. Sau khi ông ngoại tôi chết, lợi dụng lúc bà nửa mê nữa tĩnh, lại sống một mình trên sông vắng, tên Nhâm tiếp tục theo đuổi bà. Tương kế tựu kế, bà lừa cho tên Nhâm vào tròng, bà vừa thủ thỉ ngọt ngào, vừa tỉ mỉ tra vấn, kiên trì hết năm này tháng nọ. Đến một hôm thì vừa say rượu, vừa say tình, tên Nhâm đã úp mở nói về chỗ hắn đã chôn chiếc đầu của ông ngoại tôi. Sáng hôm đó mấy người phú-lít ngoài quận đã vào đào xới phía dưới bồ lúa tại cái cháy bên hông nhà tên Nhâm, họ đào thấy cái khạp da bò niêm khằn kín mít, bên trong là chiếc đầu lâu và chùm tóc, còn da thịt thì đã tan thành nước. Trước phiên tòa, nơi đồn công an tỉnh, tên Nhâm đã nhận tội. Qua bài báo tôi còn biết được là ngoại hai tôi đã hàng trăm lần đưa đơn thưa, hết quận đến tỉnh; bà chỉ mong chánh quyền điều tra về cái chết của chồng. Chánh quyền làm ngơ thì chính bà phải hành động.

 

Sau hôm ở tòa về, ngoại hai tôi bỏ ghe lên bờ. Bà biến cái nhà nhỏ của mình thành cái am, người ta gọi là am bà Hai; có người gọi là am Thị Kính, có lẽ để chỉ nỗi hàm oan mà người tu nữ đã chịu. Ngoại hai tôi đi tu từ đó. Về sau hai dì của tôi, rồi chị tôi cũng cạo đầu đi tu. Cái am bây giờ quá nhỏ, bà ngoại ruột tôi và má tôi bỏ tiền nhờ người cất cái chùa lớn hơn, đặt tên là chùa Tịnh Phước. Đó là chùa sư nữ đầu tiên của quận, và có lẽ của cả tỉnh.

 

Những năm sau khi ngoại hai tôi viên tịch, người trong làng không còn nhắc tới câu chuyện báo thù chồng của ngoại hai tôi nữa, nhưng bọn trẻ thì gần như mỗi sáng đều có chuyện kể về bóng trắng trên sông, đại loại như chúng thấy bóng trắng nắm cái búi tó của một người đàn ông rồi cột tóc ông ấy lên ngọn bần, khiến lưỡi lè ra mấy thước; hay bóng trắng chèo ghe ra giữa dòng rồi ôm cái đầu lâu mà khóc, khóc như mưa. Tôi thì không bao giờ tin những câu chuyện như vậy. Tôi biết ngoại hai tôi không khi nào thù hận ai, càng không bao giờ là ma quỉ. Bà chỉ muốn tìm cho được chiếc đầu chồng để ông được đầu thai.

Trần Bang Thạch

 

Người đuổi bắt dĩ vãng

 

Lão Ngạc thấy mình gần như đứt hơi, đôi chân muốn đỗ quị, thân người thì lảo đảo như trong cơn say rượu. Mặt trời đỏ ối trước mặt càng lúc càng to nhưng khoảng cách giữa lão và ông mặt trời thì mỗi lúc một xa. Bây giờ thì mặt trời đã chạy trốn ở đâu phía sau dãy núi đằng trước. Đàn quạ đen cũng đã bỏ núi mà bay về hướng biển. Lão Ngạc biết rằng mình sẽ bị mất phương hướng kể từ đây. Chạy. Lão Ngạc vẫn cứ chạy. Lão như bị hút bởi con trốt xoáy có cái đuôi dài ngoằn xoắn trôn ốc trôi dập dềnh từ rất xa, còn cái miệng con trốt thì như một lổ trũng rộng hoang hoác đang ở phía trước mặt lão; nó hút lão Ngạc về phía trước. Lão quị xuống, nó nâng lão lên bắt lão phải chạy tiếp tục. Lão té sấp, nó lật ngữa lão dậy, đẩy lão tiến tới. Con trốt đưa đôi chân lão chạy hụt hơi lên đồi cao, kéo đôi chân lão khập khiễng nặng nề chạy xuống lũng thấp. Lão chạy trong vùng sương khói ở lưng chừng núi, lão chạy trên đá sạn gai gốc dưới chân đồi. Lão chạy từ khi mặt trời còn ở trên đỉnh đầu. Lão chạy từ khi cơn gió bắt đầu thổi mạnh từ hướng tây nam. Khắp người lão Ngạc đã ướt đỏ vì mồ hôi và máu; vậy mà lão không thấy đau đớn một chút nào. Lão Ngạc chỉ thấy một mái tóc. Phải rồi, một mái tóc lẩn lộn trong con trốt xoáy, cũng xoay tròn trong cái lòng phễu, khi ẩn khi hiện, đuôi tóc cũng trôi dập dềnh ở phía xa, oằn oại. Mái tóc như có hồn ma bóng quế, như có một hấp lực vô hình khiến lão Ngạc cứ theo sức hút của con trốt mà chạy về phía trước.Trong mùi biển mặn bốc lên từ dưới thấp và mùi khốc khô của núi đá chung quanh, lão Ngạc nghe có mùi hương cũ thoát ra từ giòng tóc xoáy. Và phải chăng từ một dỉ vãng thật xa mờ mà lão nghe từng sợi tóc thầm thì những tiếng nói thân quen. Mùi hương xưa và những dáng hình xa xăm đang có đó, tất cả như quấn cuộn theo giòng tóc đang trôi nổi giữa buổi hoàng hôn chờ giờ dãy chết. Con trốt càng xoáy nhanh thì giòng tóc càng có ma lực biến hình. Lão Ngạc đã cảm nhận được hết những điều này trên những bước chân đầu tiên trở lại vùng trú ngụ mà lão đã bỏ đi từ thật lâu. Từ thật lâu, cái thị trấn nhìn lên là núi, nhìn xuống là biển tưởng đâu đã nằm yên đâu đó trong ngăn kéo của một đời luân lạc.Đầu tiên có lẽ là mái tóc dài bay nhẹ nhàng theo từng lượn sóng ngoài khơi và theo cơn gió liu riu trên bãi cát vắng. Người nữ như một bóng ma hời trôi nhập nhòa trong màu chiều, ẩn hiện sau hàng dương liễu. Em biết cuối cùng thì cuộc tình này cũng sẽ trả em về với biển. Không còn anh ở đây thì  em chỉ biết sống với biển và im lặng cùng biển. Biển ôm ấp. Biển vỗ về. Biển vô cùng bao dung. Biển biết nghe từng lời thổn thức của em để mà chia xẻ. Phải chăng đó là những lời tiên tri mà em đã bất chợt nói với tôi trên một bãi cát vùng cửa biển năm nào, hởi em yêu dấu? Hôm đó là những ngày đầu mình mới yêu nhau, làm sao tôi quên được. Những cay đắng của cuộc tình. Làm sao tôi quên được những khổ nạn đổ ụp xuống vai em ngay sau những ngày đầu chứa chan hạnh phúc. Em nói đúng. Có lẽ chỉ có biển mới có vòng tay rộng để ôm ấp và vỗ về em, người tình muộn của tôi. Còn tôi, đến với em tôi chỉ là một cơn sóng cuồng, trong một phút chếnh choáng lạc loài, từ ngoài khơi va vào bờ cát, ham hố liếm những gót chân trần, rồi quày quả trở ra khơi nhập vào giòng sóng cũ. Rốt cuộc chỉ còn biển để nghe em thì thầm. Chỉ có biển mới đủ rộng để chứa hết những tâm sự của em, người tình chỉ biết cho đi hết cõi lòng mà không mong một mảy may bồi đắp. Chỉ có biển mới biến giòng tóc em thành mây trôi gió nổi làm tím một trời chiều. Giòng tóc đó đang trong cơn lốc bây giờ để tự hóa thân thành đôi mắt ướt. Nửa khuya hôm đó giữa lưng chừng con dốc chảy vào thị trấn, bên những toa xe đầy, em biết từ đó tôi sẽ bỏ biển, bỏ cái vách đá cheo leo bốn mùa gió hú này để trở về với đồng bằng. Em biết khi chuyến xe lăn xuống núi sẽ để rớt lại những âm thanh buồn. Chuyến xe đó, em biết, cũng sẽ không trở lại bao giờ. Đêm hôm ấy em đâu có nói một lời nào, vậy mà chừng như tôi đã nghe hết những gì em muốn nói. Trên vai tôi, đôi mắt của em đã nói biết bao điều. Tôi nghe những lời tình cuối thoát ra từ hai hồ lệ rồi lăn dài xuống đôi má đã xanh xao tự những ngày đầu hệ lụy. Tôi thấy vùng tối âm u của cuộc tình buồn trong hố mắt của em. Tôi nghe ruột em cuộn chín khúc. Tôi nghe lòng tôi đau chín chiều. Phải chi em đã khóc ngất trên vai tôi, hay em đã nói với tôi một lời. Phải chi em, như thường tình, trách người sẽ bỏ thuyền bỏ bến bỏ biển bỏ đồi. Tất cả nỗi đau em đ