
Cần xem tiết mục nào xin click vào Trang bài / webpage trong MENU dưới đây:
TRANG CHÍNH / HOME . BÀI MỚI ĐĂNG . SINH HOẠT HOUSTON, TX . ĐH XXIII-MARYLAND 2019 . ĐH XXII-SAN JOSE 2018 . ĐH XXI-HOUSTON 2017 . SINH HOẠT CANADA . SINH HOẠT ÚC CHÂU . CÁC ĐẶC SAN ĐH . SINH HOẠT BẮC - NAM CALI - SINH HOẠT VÙNG NEW ENGLAND - SINH HOẠT VIỆT NAM - TIN SINH HOẠT CÁC NƠI . GÓC SÂN TRƯỜNG NHÀ . VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT . VÒNG TAY NGHĨA TÌNH . CHIA BUỒN - CHUNG VUI . TÌM NGƯỜI - NHẮN TIN
.jpg)
TẠP GHI
đoàn xuân thu
Cựu GS PTG
Melbourne, Australia


đoàn xuân thu
Cần Thơ đi dễ, khó về.
Mời nghe Xướng Ngôn Viên Hoàng Tín đọc trên Đài phát thanh Dallas, Texas:
Chữ rằng: “Cần Thơ đi dễ khó về! Trai đi có vợ; gái về có con!”
Đó đó! Đúng y hịt đời tui vậy đó bà con ơi! Như ai nấy nếu để ý đều biết bất cứ thị trấn, thị xã nào của Lục tỉnh Nam Kỳ, quê mình, đều kề cận một dòng sông. Vì cũng có câu rằng:
“Sông Cửu Long chín cửa hai dòng!
Người thương anh vô số, nhưng anh chỉ một lòng với em!”
Rồi thòng thêm câu hỏi nữa:
“Bên dưới có sông; bên trên có chợ.
Ta với mình chồng vợ nên chăng?”
Thì em yêu của tui, dân Cần Thơ, tóc em dài em cài hoa thiên lý, nghe anh hỏi mi mí… là em biết tỏng cái tim đen, bèn trả lời móc họng anh, như vầy: “Biết rồi mà bày đặt hỏi lôi thôi!” Có nghĩa là: “Anh có thương em thì thủng thẳng em ừ! Anh đừng thương vội mẫu từ ‘quánh’ em!” Ha ha! Mẫu từ, mẹ hiền, mà roi vọt bất tử quá vậy sao? Nhưng có nhằm nhè gì! Quánh em; chớ có dám quánh thằng rể đu đủ tương lai trời đánh nầy sao mà mình sợ chớ?! Nên tới luôn bác tài…Vì em đã chịu đèn rồi!
Chẳng qua là tới tuổi quân dịch, tui vào lính; nhưng bị bịnh mộng du! Bác sĩ quân y thuộc Hội đồng giám định y khoa khám, cho tui về hoãn dịch vì lý do sức khỏe! Vì tối nào tui cũng ngủ mớ, tuột cái rột, ra khỏi giường, đi vòng vòng doanh trại, dạo mát trăng thanh; nhưng không có ý thức gì ráo! Mật khẩu không biết, đêm cà lơ phất phơ… lính canh nó phơ ẩu là bỏ mạng sa tràng… Thôi lính chê thì mình về đi học nữa vậy!
Năm 1970, tui theo thằng bạn thân, sau Tết, mùng Bốn, đi "Cần Thơ cho biết đó biết đây, Ở nhà với Má biết ngày nào khôn?” Từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, trên Quốc lộ 4, qua Bắc, leo lên xe Lam, chạy một hơi thôi, khoảng 1300 mét, là tới Ngã ba Lộ tẻ. Rẽ trái là vào trung tâm thành phố Cần Thơ! Rẽ phải là vào liên tỉnh lộ dẫn đến Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên. Tại Ngã ba Lộ tẻ, có Bến xe mới, xe lên Sàigòn hoặc xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, chạy thẳng tắp từ đây tới tận quận Cái Răng mà không phải đi qua trung tâm thành phố. Vào trung tâm Cần Thơ phải qua cây Cầu đôi bằng sắt, kiểu Eiffel, bắc ngang qua rạch Cái Khế. Bên kia cầu là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, xưa dành cho mấy ông Tây, sau nầy là Dinh của Tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa . Đi tới là dinh Tỉnh Trưởng! Trước mặt là một bùng binh khá rộng, nơi hội tụ của nhiều con đường chạy vòng vòng để khỏi đụng nhau. Đường Phan Đình Phùng xuất phát từ đây, coi như là cái xương sống của thành phố, chạy ngang qua Ty Bưu điện, Tòa án, Tòa Thị Chính, Ty Cảnh Sát, Trường Tư thục Nam Hưng, v.v… xuống tận khu Cầu Xéo. Một đường khác cũng từ dinh Tỉnh Trưởng hướng về Cầu Tham Tướng, là Đại lộ Hòa Bình. Nhưng dân quen gọi là đường Hàng Xoài, vì dọc theo đường có trồng xoài. Đại lộ Hòa Bình, lớn nhưng ngắn ngủn, chấm dứt khi tới Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa (Nơi em yêu của tui làm đó nhe!). Đường Lý Thái Tổ, bắt đầu từ đây, chạy dài tới cầu đúc Tham Tướng. Qua cầu, là đường Mạc Tử Sanh, phía bên trái là chợ chồm hổm, chỉ nhóm vào buổi sáng, nhưng tấp nập quanh năm vào buổi chiều tối vì có xề bánh cống, quầy hủ tiếu, gánh cháo gà cho dân nhậu bình dân.
(Tham Tướng là Mạc Tử Sanh, con của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên), làm cận vệ cho chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1777, quân Tây Sơn ồ ạt tấn công xuống miệt Trấn Giang (Cần Thơ)! Mạc Tử Sanh bị vây, chết trận nơi khoảng rạch nhỏ đổ ra sông Cần Thơ! Sau nầy dân chúng đặt tên là rạch Tham Tướng!)
Rạch Tham Tướng chạy vòng vòng phía trong, cắt ngang đường Tạ Thu Thâu, chui qua cái cầu sắt nhỏ, cầu Rạch Bần, vốn là đường thoát nước mưa tự nhiên cho Cần Thơ! Sau nầy nghe nói đã bị lấp nên bây giờ mưa lớn một chút là Cần Thơ ngập thấy thảm… thương luôn?! Tội nghiệp mấy em mắc mưa, ướt luôn cái quần lãnh Mỹ A hết ráo! Cầu Tham Tướng đã biến mất, đường Mạc Tử Sanh đi về hướng Cái Răng cũng bị mất tên luôn, thành đường 30 tháng 4. Ngã ba Tham Tướng xưa có doanh trại của đại đội Quân vận 411, dưới hàng cây bã đậu. Sau nầy là quán cà phê và quán nhậu bình dân. Ôi, những ngày đói rách, lang thang sau khi mất nước, tui không biết làm gì, chỉ biết long nhong như ở không lắm vậy! Và từng đóng đô thường trực ở đó. Ngồi tréo ngoảy, trước mặt ly rượu thuốc ngâm ô môi, có màu cho dễ ực; vì màu trắng mắt mèo, e nó có nhúng một đầu tăm thuốc trừ sâu cho rượu trong veo… Thấy ớn quá hà! Xa em, người đã cả gan bán chịu cho tui ngày cũ (mà không sợ bị giựt)!
Nhưng nếu bà con mình ở tỉnh khác tới chơi; người ta khoái cái bến Ninh Kiều hơn là chợ Tham Tướng! Bến Ninh Kiều, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã đánh quân Minh xâm lược một trận tơi bời, nên nằm trên đường Lê Lợi. Thế mới biết ông cha mình đặt tên đường, tên bến nước là đầy trí tuệ, có hậu ý, chớ không phải như sau nầy muốn đổi tên đường sao cũng được, tùy bữa say nhiều hay xỉn ít đâu nha mấy cha?!
Nhạc sĩ Lam Phương, là thầy giáo, miệt Rạch Giá, gần biển, nên 75, ông chạy sớm hơn ai hết thảy. Xa quê, tuốt bên trời hải ngoại, ông vẫn còn nhớ tới bến Ninh Kiều để:
“Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về,
Thăm quê xưa với vườn cau thề,
Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô,
Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô!”
Đó là ông ước, ông mơ, ông nhớ về ngày tháng cũ:
“Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều
Sao anh không thấy về Ninh Kiều?
Dường như anh nghe đời nặng trĩu trong màu đen
Đen như manh áo buồn chưa quen!”
Rồi ông nhớ cái thuở học trò
“Ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường
Nay nghe sao khác từ tên đường
Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương
Tây Đô sẽ sống lại yêu thương!”
Cái trường ông Lam Phương đã từng theo học, bây giờ vẫn còn nhớ, là trường Phan Thanh Giản, trường công lập lớn nhất ở miền Tây, được thành lập vào đầu thế kỷ 20. Học sinh ở các tỉnh lân cận, như nhạc sĩ Lam Phương hay nhà văn Sơn Nam, miệt Rạch Giá, vẫn phải khăn gói đến trường Phan Thanh Giản để học tiếp bậc “Đút rơm trâu ăn mê” (Diplôme) tức Trung học Đệ nhất cấp! Tới năm 1964, trường Phan Thanh Giản lại được tách ra để thành lập Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm. (Em yêu của tui đã từng đi học ở đó!)
Sau 1975, Trung học Phan Thanh Giản bị thay bằng Châu Văn Liêm. Mà không phải chỉ cái trường học bị đổi tên đâu mà những con đường chu vi trường cũng chịu cùng chung số phận. Cổng trường nằm trên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tỉnh. Đường Pasteur, giữa trường Phan Thanh Giản và trường Đoàn Thị Điểm, bị đổi tên là Võ Thị Sáu. Ông Pasteur, dù là Tây nhưng có công lớn là đã chế ra thuốc chủng ngừa, cứu mạng hàng triệu người, không phân biệt màu da sắc tộc, khỏi bệnh tật. Công lớn với nhân loại khó có ai sánh bằng vậy mà cũng bị đuổi đi… để thay bằng chị Sáu… ‘mùa lê kim ma’ nở? Nhưng tui buồn nhứt có lẽ là đường Võ Tánh, dọc bên hông trường, từ đường Phan Thanh Giản tới đường Ngô Quyền đã đổi thành đường Trương Định. Không phải tui (dám) ghét bỏ ông Trương Định, một anh hùng kháng Pháp gì đâu. Mà chẳng qua con đường Võ Tánh, dẫu ngắn, có một khúc tẻo tèo teo thôi; nhưng nó lại mang quá nhiều kỷ niệm… Phía sau lưng đường Võ Tánh nầy là xóm Cả Đài (theo tên Hương cả Phạm Thành Đài), bắt đầu từ cái chợ nhỏ cũng gọi là chợ Cả Đài kéo dài dài đến chùa Cây Bàng; nơi tui từng ở trọ gần trường để tiện đường… đi gõ đầu trẻ hồi năm nẳm. Tui nhớ quán Ngọc Lan, chuyên bán cơm tháng cho quân nhân và công chức. Năm 1973, nếu mua vé cả tháng, sáng ăn đưa một vé, chiều ăn đưa một vé, bữa nào hỏng ăn, lại đi ăn cháo, gỏi đầu cá lóc (bự ế kinh), ngon hết biết, với em yêu ở đường Nguyễn Trường Tộ thì khỏi đưa vé… Ăn hết xấp vé đó mua xấp vé khác, tốn 4 ngàn đồng bạc, dằn túi; không sợ đói bất tử vì đôi khi hứng xài ẩu… (Hồi thanh niên, đứa nào hỏng vậy cà?) Từ quán cơm Ngọc Lan, có ông chủ lúc nào cũng mặc áo bỏ vô thùng bảnh tỏn, đi vài căn nữa thì tới tiệm chụp hình Phúc Vinh, nơi em yêu làm duyên, chụp tấm hình cho anh lộng bóp, để lúc nào cũng phải nhớ tới em! Và nếu vắng em, có con ‘quỷ hó’ nào dám lục bóp anh, thì nó thấy tấm hình bà La Sát nầy là nó sẽ bỏ chạy sút dép luôn! Sau 1975, người ta đói xanh râu, đói đến lòi hai cái lỗ tai; nên tiệm Phúc Vinh không còn chụp hình nghệ thuật nữa mà quay sang bán cháo, gỏi gà… để kiếm cơm! Tui đã từng theo Giáo M. dạy Việt văn, em Bác sĩ H. ở hẻm 5, đường Phan Thanh Giản tới đây nhậu. Giáo M. có người em gái trắng như bông bưởi! Tắm xong, em hay ra hàng hiên ngồi hong tóc, mà tui tình cờ trông thấy… phải há hốc cái mồm!
Thưa bà con, dù Cần Thơ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của tui nhưng là quê hương yêu dấu ngậm ngùi của em yêu. Cần Thơ là quê vợ, là người tui rất sợ; nên tui còn yêu Cần Thơ hơn cả quê tui nữa đó! Vì nơi đó có em… và còn có mấy em khác (tui thầm thương trộm nhớ) nhưng vì đã có vợ rồi nên tui đành phải giữ mối tình câm…Nên riết rồi… tui bị ‘hâm hâm!” Tui xa Cần Thơ… Đi và đi luôn mấy chục năm! Người xưa bên ấy, mới đây, gởi cho tui câu ca dao nầy, tui lén vợ, tui học thuộc lòng, kẻo quên: .
“Con chim buồn, chim bay về cội
Con cá buồn, cá lội trong sông
Em buồn em đứng em trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”
Thôi xin tạ lỗi cùng em hẻm 5, đường Phan Thanh Giản! Thân anh giờ
"như chim vào lồng; như cá cắn câu!
Cá cắn câu biết đâu mà gở; chim vào lồng biết thuở nào ra!”
Thôi đành “Hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau!”
Đoàn xuân Thu
_____________________
Bùa Yêu!
đoàn xuân thu.
Thưa bà con! Ngoài tình yêu, tâm đầu ý hợp là phải nói tới tình dục.
“Gió đưa bụi chuối sau hè, giỡn chơi chút xíu ai dè có con?”
Đó là còn trẻ còn khỏe, còn sung kìa. Chớ lâu ngày chày tháng như cái máy từ từ nó cũng xìu xìu ển ển mà thôi…
Mà muốn chữa cái bệnh gần hết xí quách nầy, muốn đèn gần hết dầu mà vẫn phựt cháy phừng khi bị hút hồn bởi làn da trắng nõn, mịn màng, cơ thể tỏa hương thơm hừng hực sắc xuân thì quý ông anh mình phải chơi bùa… yêu vậy!
Chuyện rằng: Hai chị em ruột Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức, nhan sắc đổ nước nghiêng thùng, da trắng nõn, mềm mượt, tỏa ngát hương thơm nhờ xông xạ hương, uống sâm cao ly và lộc nhung.
Vừa đẹp vừa sung, cả hai làm Hán Thành Đế, Lưu Ngao (51 TCN-7 TCN) cực kỳ mê đắm, vùi đầu vào những cuộc truy hoan khiến thiếu điều hết xí quách!
Để được vui tới bến, Lưu Ngao ra chiếu chỉ kêu ngự y chế một loại xuân dược tức bùa yêu cho Hoàng đế thành mãnh long quá giang chớ không còn là thỏ đế!
Nhưng xài riết lờn thuốc, công hiệu kém dần đi, nên Lưu Ngao chỉ biết kêu ngao ngao trước giờ lâm trận!
Cho đến một đêm, Triệu Hợp Đức ép Hoàng đế uống cả 10 viên một lúc để mạnh gấp 10, không ngờ Vua uống xong thì hôn mê sâu, đi tàu suốt!
***
Đó là chuyện bên Tàu! Còn Việt Nam mình cũng hỏng có thua kém gì đâu.
Lừng danh nhứt là bùa yêu Minh Mạng thang!
Tương truyền Vua Minh Mạng nhờ bài thuốc nầy mà có cả thảy 43 người vợ và 142 người con.
Thói thường xài bùa là có ngày bùa vật chết… Nên người mới 50 tuổi là đã thăng, băng như diều đứt dây!
Vậy mà giờ mấy ông anh mình cứ đồn đại rồi xúi dại nhau tìm rượu hòa Minh Mạng thang để chứng tỏ mình là vô địch quyền vương!
Nên con buôn nhạy bén, chớp thời cơ, pha sẵn bán lẻ theo “xị” hàm rầm ngoài quán nhậu.
Thưa nếu một xị thì có thể ông uống bà khen hay. Nhưng quất hai xị vô là ông uống bà không khen gì hết ráo; vì ông nằm ngẹo cu lơ; ngáy ồ ồ như trâu rống vậy!
Thưa bà con! Tui cứ trộm nghĩ rằng mấy ông thầy thuốc Bắc nầy quảng cáo hơi quá!
Nếu có công hiệu, mấy ông Thầy nầy đã được vời vô Thường vụ Bộ Chính Trị của đảng Cộng sản bên Tàu để phục vụ các lãnh đạo quốc gia anh em!
Rồi bản thân mình sẽ được ăn sung mặc sướng chớ đâu có phải mỏi tay xắc thuốc, bào chế hầm bà lằng xắng cấu, dặn về bỏ vào siêu sắc, ba chén còn năm phân, uống vô nó đắng thấy bà tiên tổ?!
Thưa vì vậy, tui chọn thuốc Tây hơn thuốc Tàu. Trùm đế quốc Mỹ bao giờ cũng hay hơn là cái thằng Tàu Cộng!
Vì nó gọn, công hiệu tức thời, sau một tiếng là tối đa; chớ không phải chờ xa xa… như thuốc Bắc!
Đó là viên Viagra chữa bịnh trên bảo dưới không nghe, lần đầu tiên được tung ra thị trường năm 1998, làm quý anh chị em mình hồ hởi và phấn khởi như đêm tân hôn.
Thằng quỷ dịch, bạn ní của tui đã dụ khị tui để bán 100 đô một viên.
Tui thấy mắc không mua, vì tui hỏng có tiền… Chớ nếu có, tui cũng dám chơi liền.
Giờ thì chỉ riêng nước Mỹ đã xài hết 1.14 tỉ đô năm rồi. Con số nầy cho thấy nước Mỹ chiếm tới 50% quý anh trên thế giới có vấn đề về đời sống tình dục.
Người Ý đã mua 86 triệu viên thuốc màu xanh nho nhỏ xinh xinh nầy năm rồi. Cứ bổ đồng 12 phút, một viên thuốc được bán ra.
Quý anh mình trên 40 thì cứ hai người là có một phải cần tới bùa yêu. Và cứ 1000 quý ông anh mình thì xa cạ, xài tới 437 viên.
Vậy là từ 1998 tới nay đã có hơn 40 triệu quý anh mình trên thế giới chơi bùa yêu Viagra, tốn hết 2 tỉ đô la.
Viên thuốc màu xanh huyền diệu đã giữ cho tình ta không tan vỡ bèo mây! Hay hết biết!
***
Mới tròn 18 tuổi nên viên thuốc mầu nhiệm nầy cũng còn gây nhiều lấn cấn.
Nó chữa bệnh! Mình không bịnh thì hỏng có cần!
Đừng tò mò xài thử xem nó ra làm sao coi chừng vong mạng như Lưu Ngao thì báo?
Phải cần tới bác sĩ ra toa. Và coi chừng thuốc dỏm nhe mấy anh mình!
Hãng sản xuất Pfizer đã phải thành lập một đội điều tra của riêng mình để giúp nhân viên công lực phá vỡ những đường dây làm thuốc dỏm trên thị trường.
Thuốc dỏm có tác hại với người xử dụng; đồng thời cũng làm các công ty phân phối như Big Pharma mất đi bộn bạc.
Mà muốn tiêu diệt nạn thuốc dỏm thì xin mấy ông Pfizer giảm giá đi cho bà con nhờ. Rẻ, ít lời, là bọn đạo tặc nầy nó hỏng thèm làm nữa đâu.
***
Thưa các cụ nhà ta! Xin đừng ngại ngùng chi. Nếu có trục trặc, hãy mau mau đi gặp bác sĩ để cụ bà đừng có bức bối chửi chó mắng mèo, nghe nhức đầu lắm!
Chuyện nầy ở Mỹ là thường! Ngay cả cựu ứng cử viên của đảng Cộng Hòa Bob Doyle, ra tranh rồi thất cử, về quảng cáo cho xuân dược Viagra đó thôi. Thì việc gì mà mình ngại?
Bob Doyle, sau khi được điều trị về chứng ung thư tuyến tiền liệt, đã mặc bộ đồ vest truyền thống màu sậm, thắt cà vạt đỏ và tuyên bố: “Cũng hơi bị quê quê khi phải nói về chứng liệt dương nhưng vì sự quan trọng cực kỳ cho đời sống hôn nhân của hàng triệu quý anh, em mình và bạn tình nên tui phải nói công khai! Nó công hiệu nhe! Tin tui đi! Thưa bà con cô bác!”
Nắm nhu cầu đó, các công chức thành phố Toronto, bên Canada mua Viagra được bảo hiểm trả tiền, tốn của chánh phủ gần 2 triệu dollars năm rồi!
Ủa bộ công chức Toronto bị liệt dương hết ráo hay sao mà xài Viagra dữ vậy chớ!
Thưa hỏng phải vậy! Mấy giả đã lạm dụng đặc quyền mua thuốc theo toa bác sĩ, không phải trả tiền, rồi sau đó đem bán ra ngoài để kiếm chút cháo bào ngư!
***
Thưa mới đầu tháng Mười Một, Úc sắp bước sang Hè mà ông Chủ bút đã nóng ran lên rồi; vì phải làm số báo Xuân!
Nên ổng kêu tui viết 5, 7 bài gì cũng đặng.
Còn dặn thêm là quý độc giả thân mến của bổn báo mình có rất nhiều cụ cao niên; nên anh chọn đề tài nào mà các cụ rất quan tâm nhứt!
Nhớ vui vui, tiếu lâm cũng được nhưng nhớ đừng có mặn quá nhe cha nội!
Tuân theo lời nhắn nhủ đó, tui xin kể cho quý anh mình vài chuyện không vui hỏng ăn tiền sau đây:
Cái chung giữa Thế giới giải trí Disney World và Viagra là: “Chờ cả tiếng đồng hồ để được vui chơi chỉ hai phút mà thôi!”
Rồi em yêu hỏi: “Anh đi đâu đó?” “À! Anh đi bác sĩ!”
“Tại sao phải đi bác sĩ? Bộ anh bịnh hả?”
“Đâu có bịnh hoạn gì! Anh tới để xin vài viên Viagra!”
“Chờ em đi với!” “Chi vậy?”
“Vì anh đi xin vài viên thuốc quái quỷ đó thì em phải chích ngừa phong đòn gánh trước cho nó an tâm!”
***
Thưa chữ có câu rằng: “Thái quá bất cập!” Nhiều quá là không có tốt đâu nhe!
Quý anh mình có nghe chuyện: “Người ta đem chôn một ông xài Viagra quá liều… mà không thể đậy được cái nắp quan tài chưa?!”
“Anh có nghe tin một người bị mất mạng vì dùng viagra quá liều không?”
“À có! Một ông chơi một lượt tới mười hai viên và con gà móng đỏ, chân dài tới nách của ổng chết!”
Tuy vậy con bồ nhí của tui lại không cần tới bùa yêu nầy đâu. Em chỉ cần yêu bằng tâm hồn thôi là đã đủ!
Nên tối hôm đó, tui ló mặt tới tìm em! “Anh tìm em vì nhớ hay là hay mới uống Viagra vậy hả? Thiệt là hỏi ngay chóc tim đen hè!”
Thưa dẫu vậy, cứ mạnh dạn mà tìm Thầy, khi mình muốn vui một đêm thôi rồi mai lên đường!
Đừng mắc cỡ mà chi cho chúng nó khi nên có chuyện vầy nè!
Một ông đi bác sĩ vặn vẹo đôi tay cuối cùng mới nói được nên lời vì ngượng quá mà: “Thưa bác sĩ tôi có hơi chút rắc rối về đời sống tình dục!”
“Ối bây giờ mấy cái rắc rồi đó không còn mang đến niềm thất vọng não nùng cho cánh mày râu chúng ta nữa vì đã có thần dược Viagra.”
“Ông chỉ cần uống một viên thôi… là cái rắc rối đó sẽ trôi vào lịch sử. Tin tôi đi! Chính tôi cũng đã thử rồi nè!”
Hai tháng sau, bác sĩ lơn tơn ra phố tình cờ chạm mặt lại người xưa!
Anh vồn vã: “Tôi thiệt là mang ơn bác sĩ nhe! Thiệt là thần dược! Không thể nào tin được!”
“Thấy chưa? Tui đã nói với ông anh mình mà! Mà nè chị nhà có cảm tưởng ra sao hả?”
“Vợ tui hả? Tui đâu có biết! Hai tháng nay tui chưa có về nhà!”
***
Thưa bà con! Vốn tự xưng (chớ hỏng có ai xưng dùm mình) thuộc giới văn nghệ nên ai viết văn, viết báo là tui chơi hết ráo. Không có phân biệt già trẻ lớn bé, gái hay trai! Xúm lại là cà phê cà pháo buổi sáng, buổi chiều là nhậu.
Hôm tuần rồi, nhân ngày sinh nhựt thần dược Viagra lên 18 tuổi, bạn bè văn nghệ tụi tui, đa phần là khách hàng của bùa yêu Viagra, có chú em năm nay vừa 5 bó, tức là còn hơi nhỏ nhỏ!
Chú em thuật chuyện thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc nầy nghe cũng hú hồn. Chớ va vào tui; chắc tui đã mạng vong… banh ta lông rồi!
Chuyện rằng: 18 năm về trước, tui 32 tuổi, mới yêu em lần đầu!
Rồi trộm nghĩ tam thập nhi lập, 30 tuổi là lập thân, lập gia đình nên tui bèn chấm dứt đời độc thân… để đi ở tù chung thân do em yêu làm cai ngục.
Chiều đó, tui đánh xe đến, tính chở em đi thử áo cưới màu hoa cà để đôi ta chung một nhà.
Nhưng nhà vắng hoe, trước sau nào thấy bóng người, hoa đào năm trước còn cười gió đông, chỉ có đứa em gái thiên kiều bá mị của em mỏng tang trong bộ đồ ngủ… Thấy là nước miếng nó nhểu lòng thòng!
Nàng bèn thỏ thẻ rằng: “Bấy nay em đã thầm yêu trộm nhớ anh, người trong mộng… Mà anh lại sắp cưới chị em rồi. Ôi! Quá trái ngang! Tình em mà duyên chị…”
“Thôi quà cưới em đi, chỉ có thân xác nóng hổi nầy đây! Mời anh xơi! Bảo đảm là rau sạch!”
Trời ơi! Tui có nghe nhầm không đây hở Trời?
Tui bèn vội vã bước trở ra xe. Ai dè một đám, gồm con vợ tương lai, ba má vợ cũng tương lai, vỗ tay hoan hô rầm trời, cười tươi như hoa nở, khen nức nở làm tui muốn tức thở: Tui là một anh rể rất đàng hoàng; không thèm bứng hoa bứng cả cụm như Lưu Bị ngày xưa; dù mỡ đã dưng trước miệng mèo!
Ôi cái gia đình bên vợ nầy độc ác, thâm hiểm quá!
Nếu mấy viên viagra tui không để quên ở ngoài xe… là tui đã trúng kế của bọn chúng rồi!
đoàn xuân thu.
melbourne


Ba Tôi! Người Đánh Máy Mướn!
Đoàn Xuân Thu
Sinh Hoạt Nam, Bắc Cali
Sinh Hoạt New England
Góc sân Trường Nhà - Sinh hoạt
TÁC GIẢ:
Hồ Trung Thành
Lê Trúc Khanh
Nguyễn Trung Nam
Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não rồi chết. Thân phụ tôi đang làm Trưởng Ty Bưu Điện Rạch Giá buồn bã quá, xin đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Điện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Đường dắt cả gia đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau! Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Điện trên đường Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Định.
Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dể thở của các công chức bậc trung.
Nhà đông con, vật giá ngày một tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn, tiền quần áo, tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm ‘job’ nữa. Đánh máy mướn!
Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm, vừa học, thi đậu cải ngạch thành Cán Sự Bưu Điện, nên Ba đánh máy rất nhanh, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần nhìn vào bàn phím chữ. Đánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào rào đổ trên mái tôn. Mưa!
Cuối đường Phan Đình Phùng, đi về phía Chợ Lớn, rồi quẹo tay phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn chia, tứ lục, 6/4.
Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy ‘stencil’. Đó là loại giấy có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.
Khách hàng đến là các giáo sư, mướn đánh máy bài giảng ở trường đại học, bán ‘cours’ cho sinh viên. Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam… Họ mang những bản thảo viết tay, thường là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết. Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.
Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông, đi làm theo giờ hành chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng ở cuối đường Phan Đình Phùng để làm cái ‘job’ thứ hai. Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều, để quay trở về Hai Bà Trưng, Tân Định.
Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; nhưng 8 anh em tôi thì đã đi ngủ mất rồi. Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát Đại Đồng, mua vài ổ bánh mì về cho con. Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn, rồi bảo: “Ăn đi con!”. Ăn thì khoái thiệt nhưng ‘bù ngủ’ híp con mắt luôn! Em gái tôi cắn miếng bánh mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn… ngủ tiếp. Ba lại bế từng đứa, cho vào giường ngủ.
Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ sông… Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá, bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó! Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời không phải vất vả như ba!
Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác thường là bị dèm pha, xúc xiểm, ganh tị… nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất lớn và là chính của Ba luôn?
Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Đỡ cho Ba không phải lo tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám ‘cúp cua’ đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường tư lại nổi tiếng dạy hay hơn! Vì dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!
Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to. Thầy Trường, dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui cho Ba. Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá trời! Sao mà khổ dữ vậy? Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa, thì có gì là lớn đâu? Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi!
Rồi khi thi đậu Tú tài một rồi hai, Ba cũng mừng như chính Ba thi đậu vậy! Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành Luật Sư chẳng hạn… Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị áp bức, bị đối xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu. Phải biết Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?
Tôi thì thấy chồng ‘Cours’ là đã ‘ớn’. Lại phải tốn rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, con đường Duy Tân đó, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng diện, ẹo tới, ẹo lui?
Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch, con nhái mà Ba muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”. Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi cứ ‘thản nhiên’ như không? Trời ạ!
Sau nầy vào Đại học Sư phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói: “Thôi không làm luật sư; làm giáo sư cũng được!”. Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung học Đệ nhứt cấp ‘quèn’ mà thôi?!
***
Rồi 75 đến, nhà tôi cũng sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than? Đi tù cải tạo sáu tháng vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty.
Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách đàng hoàng, tề chỉnh. Đêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm; bị cán bộ phê bình là còn giữ tác phong ‘tiểu tư sản’?
Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để nuôi đàn con mà nhiều đứa em tôi vẫn còn thơ dại. Ba vẫn ăn mặc rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải tạo.
Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ Ba đánh đơn gởi Tổng Thống François Mitterrand để xin đi định cư. Là người học chương trình Pháp, Ba viết thơ cảm động làm sao đến nỗi ông Chánh Văn Phòng của Tổng Thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và chỉ thị cho bổn chức chuyển hồ sơ qua Bộ Ngoại Giao để làm các bước tiếp theo!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi Pháp định cư.
Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi vùng kinh tế mới, khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là ông Trưởng Ty như ngày cũ?! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại giúp ông làm đơn gởi cho bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Đơn thành công và ông được ra đi!
Trước ngày đi, bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi không biết chừng nào mới có dịp gặp lại ông Trưởng Ty” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!
Raoul Wallenberg (1912 –1947), nhà ngoại giao Thụy Điển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Điển ở hải ngoại. Ngày 17.1.1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và ông chết ngày 17.7.1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi không đập nữa!
Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, được có một cuộc đời khả dĩ tốt đẹp như xưa.
Chỉ có một trái tim nhân đạo mới dám, mới làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”
***
Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt lãnh Ba và các anh em qua. Rồi cả gia đình đoàn tụ!
Đêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài nầy nhân Father’s Day bên Mỹ, tôi lại nhớ đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba, gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học, đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!
Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 20 năm chẵn. Tiếng gõ trên bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi… vẫn còn vang động đâu đây! Nhớ và thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược gió.
Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục đầu xuống bàn… mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con đậu vào đệ thất.
Người ta cần tới Father’s Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của tháng sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của tháng chín ở Úc để kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân! Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống, cho đến lúc nào đó con sẽ được gặp lại Ba!
đoàn xuân thu
melbourne
Chuyện Mùa Giáng Sinh
Nghe kể là những năm 1920s, ở tiểu bang ‘Lone Star’ (Vì sao cô đơn) Texas mỗi ngày có tới 3 hoặc 4 ngân hàng bị cướp. Hiệp hội các chủ ngân hàng Texas đã treo thưởng tới 5,000 đô (một số tiền rất lớn vào thời đó) cho ai bắn què giò hay bắn ngỏm củ tỏi một tên cướp ngân hàng.
Rồi ‘radio’ đưa tin ngân hàng bị cướp tới 200 ngàn đô. Mấy tên cướp nghe tin, ngồi đếm tới đếm lui cả chục lần tới trật cái cần cổ mà chỉ có 100 ngàn đô. Chúng chửi toáng lên: “Tổ cha cái thằng Giám đốc Ngân hàng!”
Chuyện cướp ngân hàng xưa rồi. Giờ chỉ còn trong phim cao bồi miền Viễn Tây do tài tử John Wayne thủ vai sheriff mà thôi. Tại sao vậy? Vì bây giờ với kỹ thuật báo động tối tân, cướp ngân hàng thì chỉ có vô hộp hoặc ra nghĩa địa. Cướp tiệm bán rượu, bán thuốc lá dễ ăn hơn.
Bên Cali, mới đầu tháng Chạp, muốn có tiền ăn Lễ Giáng Sinh cho xôm tụ trong mùa đại dịch COVID-19, sống nay chết mai, một đám du thủ, du thực đông như quân Nguyên vác búa tài xồi đi ăn cướp.
Chuyện gì xảy ra ở Hoa Kỳ bữa trước là bữa sau nó xảy ra ở Úc hè. Vì chánh phủ Úc coi chánh phủ Mỹ là đại ca. Bọn hắc đạo giang hồ Úc cũng coi hắc đạo giang hồ Mỹ là đại ca nên luôn bắt chước làm theo.
Ngay chỗ tui ở nè, ngay sáng ngày mùng Một, tháng Chạp Tây, lúc 19:39am, 3 tên cướp, dáng Phi Châu, cầm búa xông vào một tiệm vàng của người Việt ở đường Paisley vùng Footscray, Melbourne.
Chúng mặc quần áo sẫm màu và đeo khẩu trang, đập phá tủ kiếng chưng đồ trang sức bằng vàng bên trong tiệm. Vụ cướp xảy ra chớp nhoáng chỉ trong 3 phút. Chúng hốt một mớ rồi dông trên một chiếc BMW SUV màu đen với biển số bị đánh cắp, do tên thứ tư cầm lái.
Chủ tiệm vàng 35 năm lần đầu bị cướp, chỉ biết chạy ra cửa la ‘ơi ới’ là chúng đã mất dạng ở cuối đường.
Dính vào ma tuý rồi lầm đường, những thanh niên nầy không hiểu một điều rất đơn giản là cha mẹ đã mang mình chạy khỏi một Phi Châu nghèo đói, bất công. Ðến Úc họ chỉ mong con mình có một tương lai tốt đẹp hơn. Chớ không muốn con mình thành ăn cướp.
Nói nào ngay đa số dân Úc đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm tiền một cách lương thiện. Giáng sinh mà không có cây Noel là không phải Giáng Sinh. Nên có trang trại cần mẫn trồng và chăm sóc 6 đến 8 ngàn cây thông suốt 3 năm trời ròng rã để bán vào dịp lễ Noel. Nó giống quê mình trồng mai, trồng đào bán Tết vậy.
Một nửa niềm vui mùa Noel của em yêu là tự tay em chọn cây thông Giáng Sinh. Giống như hồi xưa, em chọn thằng nào để lấy làm chồng vậy mà.
Một số em thích cây thông sanh sao để vậy. Càng hoang dã càng thích. Giống như hồi xưa em khoái cái thằng chọc trời khuấy nước mà em nói nó có nam tính. Chớ em đâu biết rằng tối nó phải đi trộm gà hàng xóm để có tiền dắt em đi uống cái nồi ngồi trên cái cốc.
Nhưng cũng có một số em khoái về điểm phấn tô son lại; ngạo với nhân gian một nụ cười; nên muốn cây thông Giáng Sinh phải giống hịt em mới được. Nghĩa là bẹo hình, bẹo dạng cho thiên hạ ngắm thì phải son môi còn thắm, tóc ‘demi garçon’. Cây Giáng sinh phải được cắt tỉa đàng hoàng chớ không được bù xù tổ quạ như tóc của em mới vừa thức dậy.
Tiền bán mỗi cây thông Giáng Sinh sẽ được chủ ‘farm’ trích ra 10 đô la làm từ thiện, giúp người ‘homeless’. Người Úc ngoài mấy thằng xì ke, lên cơn ghiền đi ăn cướp, cũng có người tốt đấy chớ. Bên Mỹ cũng vậy, mùa Giáng Sinh lại về cũng có những câu chuyện cảm động làm ấm lòng người trong trời Ðông buốt giá.
Chuyện rằng: một chiếc máy bay của Southwest Airlines đang từ Chicago chuẩn bị cất cánh đi Columbus. Tất cả mọi việc diễn ra rất bình thường! Hành khách lên tàu, làm thủ tục đầy đủ, tắt hết các thiết bị điện tử, thắt dây an toàn. Máy bay ra phi đạo chuẩn bị cất cánh bay lên. Nhưng đột nhiên máy bay lại lăn bánh về ga hành khách. Rồi một tiếp viên nhẹ nhàng đến mời Peggy xuống máy bay. Lúc đến quầy ‘check in’, Peggy được bảo hãy gọi ngay cho chồng mình. Lúc này, chồng Peggy nói, con trai 24 tuổi của họ ở tiểu bang Colorado, Denver bị chấn thương não, rơi vào hôn mê và đang được cấp cứu trong bệnh viện.
Tin sét đánh ngang tai làm Peggy không thể kìm được nước mắt. Thì ra chồng của Peggy đã gọi điện cho hãng hàng không, hy vọng họ sẽ thông báo để vợ mình có thể bay về với con càng sớm càng tốt. Hãng hàng không hay tin này đã lập tức sắp xếp một chuyến bay sớm nhất cho Peggy bay đến Denver chỉ trong vòng 2 giờ.
Khi Peggy được đưa đến khu vực hành khách chờ lên máy bay, nhân viên của hãng đã an ủi để cô bớt căng thẳng và lo lắng. Khi đến giờ, hãng hàng không yêu cầu tất cả hành khách xếp hàng chờ nhường quyền ưu tiên cho Peggy. Họ sắp xếp cho cô ngồi ngay đầu cửa cabin. Như vậy khi đến Denver cô có thể ngay lập tức xuống máy bay. Khi Peggy đến Denver cái đầu tiên nhận được không phải là hành lý mà là hộp cơm trưa của hãng hàng không Southwest Airlines. Hơn nữa hãng Southwest Airlines còn chi trả toàn bộ chi phí cho chuyến bay của Peggy.
May mắn thay, 3 tuần sau tình trạng con của Peggy tốt dần lên và cháu đang hồi phục một cách nhanh chóng.
Hãng hàng không kinh doanh vì lợi nhuận; nhưng không phải vì tiền mà họ quên lãng tình người. Chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết cư xử như vậy đó!
o O o
Chuyện ấm lòng thứ hai trong Mùa Giáng Sinh rất lạnh bắt đầu từ Ga Tàu điện ngầm thành phố New York cách đây 21 năm.
Danny Stewart thấy một cái bọc nhỏ được quấn trong một chiếc áo len trong một sân ga vắng vẻ. Ban đầu, Danny nghĩ đó là một con búp bê, có lẽ do một đứa trẻ nào bỏ lại; cho đến khi Danny nhìn thấy một cái chân nhỏ bé ngọ nguậy. Danny nhận ra ngay đó là một đứa bé sơ sinh, dây rốn vẫn còn nguyên, chỉ mới vài giờ tuổi.
Ðược báo tin, giới chức của tiểu bang đưa cháu vào bịnh viện. Ðồng thời tìm kiếm khắp thành phố để biết cha mẹ của cháu là ai?
Vào tháng Chạp, năm 2000, cũng vào Mùa Giáng Sinh gieo lên niềm hy vọng cho toàn nhân loại, Danny Stewart ra Toà khai chứng việc đứa bé được tìm thấy như thế nào? Bà thẩm phán hỏi Danny: ‘Ông có muốn nhận con nuôi không?’ Danny trả lời là có. Ðó là một ngày định mệnh đầy xúc động để bắt đầu một câu chuyện diệu kỳ. Danny Stewart và người chồng đồng tính Pete Mercurio trở thành cha mẹ nuôi của đứa bé và đặt tên con là Kevin.
Ðối với cha mẹ ruột của Kevin, Mercurio nói rằng vợ chồng mình chỉ thấy cảm thương. Vì bỏ con là một hành động trong cơn tuyệt vọng. Và tôi có thể tưởng tượng ra nỗi thống khổ của họ đến dường nào khi phải rời bỏ một đứa con mà mình rứt ruột đẻ ra”
“Chúng tôi đã luôn nói với Kevin khi cháu còn rất nhỏ rằng: Con không phải bị ghét bỏ! Mà vì tình yêu, mẹ ruột của con đã rời đi ở ngay chỗ mà ba mẹ đã tìm thấy được con.”
Danny nói: “Vợ chồng tôi yêu đứa trẻ này hơn bất cứ thứ gì trên đời. Tôi thực sự không biết thứ tình yêu này tồn tại trên đời này cho đến khi con trai tôi đột nhiên bước vào cuộc đời của chúng tôi.”
Mercurio đã viết một cuốn sách và đọc cho Kevin nghe hàng đêm. Khi lên năm, Kevin nhận ra đó là câu chuyện về mình.
Năm ngoái, câu chuyện rất riêng tư đó đã được xuất bản với tựa đề: “Our Subway Baby” (Em bé tàu điện ngầm của chúng tôi), mà Mercurio gọi là “bức thư tình gửi cho con trai của chúng tôi.”
Hai mươi năm sau, Kevin, năm nay 21 tuổi, là sinh viên năm cuối của trường Cao đẳng Swarthmore. Kevin sẽ tốt nghiệp đại học vào mùa Xuân này”.
Thật là một câu chuyện ấm lòng trong Mùa Giáng Sinh trời rất lạnh.
DXT
Phiếm:
HẦM HÈ BIẾT TRÚT VỀ ĐÂU?

Đại dịch COVID-19 từ Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc bên Tàu tràn lan, làm người dân toàn thế giới phải lao đao. Thành phố bị phong tỏa, người dân bị cô lập, không mần hoặc ăn (chơi) gì được hết ráo.
Không đươc phép đi làm để kiếm tiền. Cứ bị nhốt ở nhà với vợ, với con. Conthì khóc nhè. Vợ thì càm ràm, cằn nhằn. Ngày này qua ngày khác, ánh sáng không thấy le lói cuối đường hầm. Càng lúc càng tuyệt vọng, làm mình muốn nổi điên lên.
Biết đem cái ấm ức, cái bực tức này trút về đâu? Trút vô lỗ tai của con vợ, đố cha mấy thằng Úc nó dám. Chỉ còn một cách là đem cái hầm hè nầy trút vào lỗ tai các chánh trị gia. Tại mấy cha mới ra nông nổi này!
o O o
Theo luật lệ của chánh phủ Liên bang đặt ra là: Từ hải ngoại trở về, ai cũng phải cách ly tại khách sạn do chánh phủ chỉ định suốt 14 ngày. Công du Hoa Kỳ trở về, Thủ tướng Scott Morrison không bị buộc phải cách ly tại khách sạn mà được ở nhà với “bà xã”, em yêu. Mặc dù đang bị cách ly không được phép nhưng Thủ tướng Úc Scott Morrison đã tổ chức một cuộc họp báo tại Dinh Thủ tướng The Lodge. Người dân Úc không ai càm ràm gì ráo; vì cho rằng thôi kệ cho ổng xé rào để phục vụ cho nước, cho dân.
Tuy nhiên khi thời gian cách ly vẫn chưa hết, Morrison đã đăng một bức ảnh mình đang nướng đùi gà. Ăn nhậu với bạn bè trên trang mạng xã hội Instagram. Với lời chú thích: “Ngày 13 của tiến trình kiểm dịch gần như đã hoàn thành… Đêm tối thứ Bảy gà, cà tím, và rau”.
Thịt nướng và rau rác làm mồi! Bù khú hết chai này; vặn nút chai kia. Vui hết biết! Nhậu “chui” với bạn bè, lúc bị cách ly, mà còn đem khoe rùm. Ỷ làm Thủ tướng rồi coi trời bằng vung; ngồi xổm trên luật pháp?
Dư luận dân Úc phân hai. Một nịnh Scott Morrison: “Giỏi lắm! Ngon lắm! Tuyệt vời! Cứ thế nhé!”. Nhưng người khác bực bội đem Thủ tướng Scott Morrison ra làm bao cát. Bài đăng của ông ta không được người dân Úc “hồ hởi phấn khởi” đón nhận gì hết ráo! Họ quạu quọ nói rằng: “Scott Morrison làm”. Chơi như vậy kỳ lắm nhe mấy cha. Nước Úc dân chủ chớ đâu phải là nước độc tài cộng sản!
o O o
Hịch hạc miền Tây, tánh của dân mình, nên tui coi hành động cuối tuần tụ bè, tụ đảng ăn nhậu tưng bừng của ông Thủ tướng trong lúc bị cách ly, dẫu làm dân Úc hầm hè, nó là chuyện nhỏ như con thỏ. Nó là cơn bão trong tách trà. Vì tui đã biết cái chuyện này nó xảy ra hà rầm trước khi tui đào thoát khỏi chế độ độc tài CS. Tui thừa biết: Tiếng dân kêu khóc mà có lọt tới tai quan thì cũng như đàn khảy tai trâu. Các lãnh đạo trong chế độ độc tài CS, họ chỉ nghe cái họ muốn nghe. Biết cách lãng tai bất cứ lúc nào họ muốn.
Còn cái chuyện làm bậy, bị bắt gặp quả tang, phải đỏ mặt tía tai, tự mình ên xấu hổ là không có đâu. Vì bà con mình ai cũng biết: da mặt của họ dày cui như miếng da trâu. Nên tui nghĩ chánh trị gia xứ Úc nầy, nó cũng “sêm sêm”.
Nhưng lần này, trước cái thái độ quan liêu của quan chức cầm quyền tại tiểu bang Queensland làm tui quạu thiệt nhe! Chẳng qua chuyện vầy: Cháu Lenny, 6 tuổi, cần phải mổ não nên cha cháu là ông Fabio không còn lựa chọn nào khác là phải đưa con mình ra nước ngoài, đến Mỹ. Cho dù biết trước những khó khăn, ông có thể gặp phải khi đưa con mình từ nước Mỹ trở về nhà. Ông Fabio Silveira đã chuẩn bị và thông báo cho chánh phủ Queensland về tình hình của con mình từ nhiều tháng trước. Nhưng hành trình của hai cha con trở về nhà ở Bokarina, vùng Sunshine Coast, tiểu bang Queensland như ông tiên liệu đã không dễ dàng một chút nào! Vì chuyến bay ngày trở lại Úc ga cuối là ở Sydney, nên họ bị buộc phải cách ly trong mộtkhách sạn ở Sydney hơn một tuần. Sau ba lần nộp đơn xin đặc cách để được cách ly tại nhà, đều bị chính quyền tiểu bang Queensland từ chối.
“Tôi hiểu mức độ nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 và hậu quả của bất kỳ sự miễn trừ nào, nhưng chúng ta đang nói về một cháu bé 6 tuổi cần một chương trình trị liệu phục hồi cực kỳ chuyên sâu 20 ngày sau khi phẫu thuật”, ông Silveira nói với chương trình Today của Đài Truyền hình số 9.
Sau khi mời Lenny và ông Silveira làm khách mời trên Today, người dẫn chương trình Karl Stefanovic đã gọi cách giải quyết của chánh phủ Queensland là đáng “ghê tởm”.
Karl Stefanovic đặt câu hỏi, quốc gia kiểu nào làm như vậy với một cháu bé đang bị bịnh nặng mới mổ não từ hải ngoại trở về?
Stefanovic nói: “Hãy xem đứa trẻ bị bại não này, đang bị cách ly trong khách sạn. Thật đáng kinh tởm; nếu chúng ta không miễn trừ cho những trường hợp đặc biệt như vậy. Tôi không biết điều gì đã và đang xảy ra với đất nước này. Chánh phủ Queensland cần xem xét vấn đề này và sửa chữa nó ngay lập tức”.
Sau khi xem câu chuyện của Lenny trên chương trình Today, Bộ trưởng Y tế Liên bang Greg Hunt đã thúc giục chánh phủ Queensland cho phép Lenny được trở lại tiểu bang. Cuối cùng trước sức ép dữ dội của dư luận từ tâm, chánh phủ Queensland phải nhượng bộ bằng cách chấp thuận cho Lenny Silveira được đoàn tụ với mẹ ở nhà. Bạn không thể lau sạch nụ cười trên khuôn mặt Lenny khi cháu nhìn thấy mẹ và anh chị em của mình tại phi trường, ngày gặp lại.
o O o
Nhưng câu hỏi hiện đang được dân Úc đặt ra là: “Tại sao lại phải xuất hiện trên chương trình Today của Đài Truyền hình số 9 thì mới được những quan chức cho phép Lenny và Fabio trở lại Queensland?”, “Giám đốc Y tế của Tiểu bang Queensland đã biết từ tháng 7 thì không nên để chuyện đó được lên truyền hình rồi mới đưa ra quyết định”.
Câu trả lời có lẽ là do hành xử quan liêu, máy móc. Dửng dưng trước cái khổ đau của người khác. Sợ trách nhiệm. Sợ mất cái “job” rất thơm. Lương Giám đốc Y tế của tiểu bang Queensland tới 622,000 đô một năm, nhiều hơn cả lương Thủ hiến. Tất cả những thứ đó hình thành cái thói ích kỷ của kẻ có chức, có quyền.
Dân Úc gọi những công chức cấp cao trong guồng máy điều hành của chánh phủ Úc là những con “Mèo mập”. Chúng chỉ biết ăn no rồi ngủ. Chúng lười biếng, không muốn động móng tay, làm bất cứ chuyện gì mà không có lợi cho mình.
Tiểu bang Queensland tự hào khoe mình là “Sunshine state” (tiểu bang đầy nắng ấm). Nhưng trong trường hợp nầy, chúng ta lại gặp tình người đối xử với nhau lạnh như nước đá.
May phước là ở nước Úc, chúng ta còn giữ được quyền Tự do ngôn luận, giữ được quyền Tự do báo chí, truyền thông. Nếu không có những quyền này, chúng ta, những người dân ngu khu đen cũng phải sống thống khổ, không ai “ke” (care). Sống trong sự dửng dưng của nhà cầm quyền phi nhân, như chế độc tài CS mà chúng ta đã liều chết trốn ra đi.
ĐXT
____________________
Em dạt về đâu mấy nẻo đường?!
Chuyện rằng: “Một anh lên máy bay và ngồi xuống. Liếc nhìn lên, anh thấy một người phụ nữ cực kỳ xinh đẹp, xuất sắc trong vai tì nữ, bước lên máy bay. Em đi thẳng rồi ngồi xuống ngay bên cạnh anh. Háo hức muốn bắt chuyện để làm quen, anh buột miệng:
“Em đi vì công ăn việc làm hay đi du lịch?”
Em quay lại, nở một nụ cười như đóa hoa hàm tiếu sắp mãn khai và nói:
“Ði làm việc. Em sẽ tham dự một Hội nghị nghiên cứu đời sống tình dục của người dân Úc hàng năm ở Melbourne”.
Anh nuốt nước bọt. Ðây là người phụ nữ hấp dẫn, ‘sexy’, tuyệt đẹp mà anh chưa từng thấy! Em lại ngồi cạnh mình suốt cả chuyến bay dài và em sẽ đến một Hội nghị nghiên cứu về tình dục! Quá đã nhe!
Cố gắng đè con lợn lòng đang nổi dậy kêu ột ột đòi ăn cám của em, anh bình tĩnh hỏi:
“Vai trò của em tại hội nghị này là gì?”
“Giảng viên” “Em sử dụng kinh nghiệm cá nhân sâu rộng về giường chiếu của mình để chia sẻ cho cử tọa những sự thật rất thú vị về đời sống tình dục của người dân Úc chúng ta.”
“Thật vậy ư?” anh nuốt nước bọt. “Chẳng hạn như chuyện gì?”
“Chẳng hạn, thổ dân bản địa là những người mê đắm, cuồng loạn nhất về tình dục. Trong khi đàn ông Việt Nam: “Em ơi! Chiều nay 100%” rất có khả năng đưa người tận đỉnh Vu Sơn”.
Nói rồi, em trở nên hơi khó chịu và đỏ mặt.
“Em xin lỗi! Thực sự, em không nên đem những điều tế nhị nầy để thảo luận với anh. Thậm chí em còn chưa biết được tên anh là gì?”
“Ồ! Anh là Vietnamese, người Việt. Tên anh là ‘Nguyễn Văn Dương’. Nhưng bạn bè thường gọi anh là “Mười Dê”.
“Anh rất sẵn lòng và vui sướng được đóng góp vào kinh nghiệm tình dục của em để bài giảng được phong phú hơn. He he!”
***
Các nhà đạo đức (họng) thường cho rằng viết về tình dục là chuyện rất cấm kỵ! Thiên chức của một nhà văn, ‘văn dĩ tải đạo’ không nên đề cập tới đề tài nầy. Trừ trường hợp tác giả là cộng tác viên cho tạp chí ‘Playboy’. Vì bài viết về tình dục sẽ làm ô nhiễm môi trường sống ‘cơm nhà; quà vợ’ của quý anh mình. Nhưng theo ý tui, cho dù có đề cập tới hay lấy cái mền che kín lại thì cái vụ nầy nó vẫn nằm chình ình một đống đó thôi.
Các nước Phương Tây thì nhìn vấn đề tình dục dưới góc độ khác, thoáng hơn nước ta. Coi nó là một nhu cầu như ăn, như uống, không có không được của quý anh mình.
***
Chắc quý độc giả ‘thương mến thương’ đã từng nghe tiếng nhà thơ Tàu Bạch Cư Dị (772 – 846). Quan niệm sáng tác của ông là thơ phải gắn với cuộc đời, gắn với cái hiện thực của xã hội mình đang sống. Thơ phải diễn đạt cho được hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục, thất tình của chúng dân.
Năm Nguyên Hoà thứ 10, Bạch Cư Dị bị hạ tầng công tác, phải đày về quận Cửu Giang giữ chức Tư Mã. Mùa Thu năm sau, đêm tiễn khách ra bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe tiếng đàn thánh thót, âm vang gợi nhớ quê nhà. Bạch Cư Dị bèn:
“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu.
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa.”
(Bùi Giáng)
Người đàn bà trả lời rằng “Tiện nữ vốn là con hát, quê ở Tràng An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc úa tàn, ế khách quá nên lấy chồng làm con buôn nên thường theo thuyền đi đây, đi đó”.
Nghe vậy, tha hương tưởng chừng như ngộ cố tri, Bạch Cư Dị dọn rượu ra đãi! Xin nàng cho nghe lại bản đàn xưa. Ðàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời chìm nổi long đong của mình! Từ lúc còn xuân sắc đến khi xuống sắc, phải lưu lạc giang hồ, gạo chợ nước sông.
Nghe nàng tâm sự, Bạch Cư Dị cũng cảm thương cho số phận lưu đày của chính mình! Bèn làm một bài thơ dài gồm 616 lời, gọi là ‘Tỳ bà hành’ để tặng người em mới quen mà tưởng chừng như là tri kỷ.
***
Ðó là hồi xưa cái tình văn nghệ, văn gừng của một nhà thơ với một em đã từng là kỹ nữ. Còn đây là chuyện bây giờ, chuyện của một tay không văn nghệ, văn gừng gì ráo. Mà là một tay Sở Khanh rất cáo.
“Một ‘Má mì’, chủ nhà thổ, thấy một người đàn ông ăn mặc rất lịch lãm, cử chỉ rất lịch thiệp, lịch sự bước vào.
“Tôi muốn gặp Natalie!”
“Thưa ông! Natalie là em đẹp nhứt ở đây nên giá mắc lắm. Có lẽ ông nên chọn em khác giá cả phải chăng hơn!”
“Không! Phải là Natalie mới được”
Ngay sau đó, Natalie xuất hiện và cô em ra giá 1,000 đô la. Không một chút do dự, ông lịch lãm rút ra 10 tờ 100 đô la mới cứng và đưa cho Natalie! Rồi họ đi lên lầu. Sau một giờ, tàn trận, ông lảo đảo rời đi.
Tối hôm sau, ông lịch lãm lại xuất hiện xin được gặp Natalie. Mua những hai lần, nhưng không có ‘discount’ (giảm giá) gì ráo. Vẫn là 1,000 đô la. Ông rút ra 10 tờ 100 đô la mới cứng! Rồi họ đi lên lầu. Sau một giờ, tàn trận, ông lại lảo đảo rời đi.
Tối hôm sau cũng vậy! Ðêm thứ ba liên tiếp. Mây mưa rồi cũng tàn. Natalie hỏi:
“Không ai từng mua em ba đêm liên tiếp cả. Chàng từ đâu đến?”
“Brisbane, thủ phủ tiểu bang Queensland”
“Vậy sao?” Natalie nói. “Quê em cũng ở Brisbane”
“Anh biết! Cha của em đã chết và anh là luật sư của chị em. Bà ấy yêu cầu anh đưa 3,000 đô la tiền thừa kế đến tận tay em. Hy vọng có được 3,000 đô nầy em sẽ rất vui! He he!”
***
Câu chuyện trên cho thấy các tiểu bang miền Ðông nước Úc, kinh doanh bán thịt sống, đã được hợp pháp hóa từ lâu. Vậy là các chú Ba từ đại lục lục tục qua đây mua lại lầu xanh treo đèn đỏ để kiếm ăn. Vì kinh nghiệm cả ngàn năm bên Tàu truyền lại là: ‘Nhứt đổ hồ’ nhì chứa thổ’
(Kinh doanh bằng máy đánh bạc, bằng lầu xanh là chắc ăn ‘nhẩm xà’ mỗi ngày hè!)
Mấy anh mình ai cũng biết mại dâm là nghề lâu đời nhất thế giới, được sinh ra từ nạn buôn nô lệ. Những Mã Giám Sinh và Tú Bà xưa buôn người giờ là những doanh nhân thành đạt như Jeffrey Epstein và em Ghislaine Maxwell bên Mỹ vậy. Nhưng đau đớn thay những doanh nhân thành đạt đó sắp mạt! Vì con ‘coronavirus’ đã và đang tàn phá kinh hồn thương vụ bán thịt sống của chú Ba mình. Vì bất cứ thương vụ gì mà làm ăn ế ẩm thì công nhân chết trước; chủ cả từ từ ngã xuống chết theo sau.
Một số nàng Kiều sợ dính vào con ‘coronavirus’ là bỏ bu cả lũ nên không dám làm liều như xưa nữa. Còn em Kiều nào chịu chơi, chơi tới cùng, tới luôn bác tài, thì ráng chòi đạp lung tung để còn sống sót qua ngày vậy thôi. Xưa mỗi tuần có tới 30 khách yêu hoa; giờ còn chưa tới 3 mống. Thì làm sao mà sống?
Ðại khủng hoảng! Thiên hạ thất nghiệp hà rầm! Buôn bán ế ẩm! Ăn không có đủ cái bỏ vô mồm thì chơi nào ai dám! Xưa thì:
“Thúc sinh quen thói bốc rời.
Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.
Giờ thì ngôi hàng Lâm Tri của chàng vắng hoe như Chùa Bà Ðanh; Thúc Sinh đành xin Kiều cho giảm giá. Ðược chút nào hay chút nấy!
Kiều cũng vậy! Ế quá nên nàng cũng phải gật đầu! Chớ 5 năm, lưu lạc trên chốn giang hồ, thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, Kiều chưa hề trả tiền thuê nhà trễ bao giờ.
***
Lại nhớ tới nhà thơ xứ Huế, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, năm 1947, có làm hai câu thơ đối nhau chan chát là:
“Núi Ngự không cây chim đậu đất
Sông Hương vắng khách ‘đĩ’ kêu trời.”
Mấy Kiều nữ ở thủ phủ Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc Châu nầy cũng kêu trời y như thế. Lệnh cô lập do chánh phủ tiểu bang Victoria ban ra từ giữa đêm 27 tháng Năm, năm 2021, kéo dài suốt 7 ngày làm những lầu xanh xứ Úc nầy đây lại phải cửa đóng, then gài. Những ngọn đèn đỏ thân quen, mới mở cửa buôn bán ‘thịt sống’ ì xèo chưng mấy tháng nay giờ lại tắt!
Con COVID-19 măc dịch từ thủ phủ Vũ Hán tỉnh Hồ Bái bên Tàu nầy sẽ làm các Kiều nữ nhập cư sẽ về đâu đêm nay khi trời Melbourne sụp tối? Seoul, Hàn quốc hoặc Bangkok, Thailand quê nhà của mấy em thì xa xôi vời vợi quá!
Kiều ơi! Những người em phấn lạt, phai hương. Em dạt về đâu những nẻo đường?!
Ðèn đỏ đã tắt ngúm! Ðâu rồi ôi những đêm vui? Làm tui buồn quá mạng!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
______________________
Đường xưa nhà cũ
Một nhà biên khảo ở Toronto, Canada có viết một bài dài và rất công phu về quê hương của ông, tựa là: Mỹ Tho miền ký ức.
“Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, tui tâm phục, khẩu phục ông. Vì chuyện tư, chuyện riêng, người ta giấu gần chết mà ổng học gồng, dám phun tùm lum, tà la trên mạng mà hổng sợ chúng nó la?
Ngoài cái tánh cực kỳ can đảm, dám ngồi xổm trên luật bảo vệ đời tư; ổng đúng là một thổ địa của xã Điều Hòa (sau là tỉnh lỵ rồi tới thị xã trước khi chúng ta bị sập tiệm. Danh xưng đổi tùm lum cho vui. Chớ tên gì thì nó cũng dùng để chỉ một vùng đất nằm dọc theo bờ sông Mỹ Tho đó thôi.
“Chẻ tre bện sáo cho dày.
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp em”)
o O o
Bà con Miền Tây mình, chắc ai cũng hiểu “thày lay” là xen vào việc của người khác, khôngdính dáng gì đến mình. Nhưng trường hợp nầy là khác. Bài viết của ổng códính chặt như keo super glue vào đường xưa, nhà cũ của tui! Nên tui rành sáu câu, tui mới dám “thày lay” chút chơi; để đỡ buồn như dế kêu thời ôn dịch, bị cô lập, bị giới nghiêm buộc phải ngồi chong ngóc trong nhà!
Tác giả viết về đường Gia Long, Mỹ Tho (sau 75, là đường Ba mươi tháng Tư) là: “Nếu có ai hỏi tôi con đường nào đẹp nhất Mỹ Tho, thì tôi sẽ không ngần ngại trả lời rằng đó là con đường Gia Long. Phải, chỉ mỗi việc con đường chạy dọc theo sông Tiền Giang đã nói lên được điều nầy rồi”. Ổng gọi “sông Tiền Giang”, nghe hơi ngứa hai cái lỗ tai trâu của tui; nên tui xin “thày lay” là: “Hồi những năm 60s, con sông Tiền Giang (theo ông viết) nầy tui thường nghe bà con gọi là sông Mỹ Tho. Chỉ sau 75, mới gọi là “sông Tiền Giang” (giang là sông rồi mà gọi như vậy dư một chữ sông).
Ông bà mình xưa giờ thường lấy tên đất đặt tên sông. Vi-xi thì làm ngược lại, lấy tên sông mà đặt tên đất. Há mấy cha không biết chữ “đất nước” hay sao? Đất trước rồi mới tới nước. Chớ không ai nói “nước đất” bao giờ! Cách đặt tên ngược ngạo như vậy đã là sai. Mà chọn cái tên song cũng hổng giống ai.
Vĩnh Long chỉ nằm trên bờ sông Tiền mà dám lấy tên Cửu Long (sông cái, sông mẹ của sông Tiền và sông Hậu) đặt tên ên cho mình!
Còn vùng đất mang tên tỉnh Hậu Giang (Chương Thiện ngày xưa) thì cách sông Hậu tới gần 60 cây số. Nó nằm ở bìa rừng U Minh Thượng, trên bờ Kinh Xáng Xà No. Thì phải đặt tên là tỉnh U Minh Thượng hay tỉnh Xà No mới đúng chớ!
Rồi còn có một cái tên quái đản nữa, sau 75, là: tỉnh Sông Bé. Chắc tại tên “Bé” nên nó teo, rồi biến mất tiêu luôn. Sau năm 1996, không còn ai nghe tới tên nó nữa.
Sau đó mấy chả còn đổi tên tỉnh Định Tường thành tỉnh Tiền Giang. Tui hổng hiểu tại sao những gì thuộc Chúa Nguyễn, rồi thời Gia Long những người đã đưa lưu dân vào khai phá lập nghiệp ở cái đất nầy, dù chết đã lâu mà vẫn còn bị thù dai cho đến thế! “Ê, ăn cháo đá bát, vong ơn bội nghĩa như vậy coi kỳ lắm đa!”.
Rồi tác giả viết tiếp như vầy: “Đối diện Vườn Hoa Lạc Hồng là dãy phố lầu. Cuối dãy phố lầu nầy là Ty Ngân Khố; đối diện bên kia đường Lê Lợi là Ty Bưu Điện.
Tui xin “thày lay”, thôi nói trần trắng trợn ra, là ổng nói trật lất! Tính theo số nhà từ nhỏ tới lớn, Ty Ngân Khố không phải cuối mà phải nói đầu dãy phố mới chánh xác. Đối diện bên kia đường không phải là Ty Bưu Điện mà là tư dinh của Tham Mưu Trưởng Sư đoàn 7, cấp bậc phải là Đại tá. Tui nhớ đâu khoảng năm 1968 Mậu Thân là Đại tá Tuệ. Tui thấy ổng đi đánh quần vợt sân gần nhà tui hoài. Kế tư dinh nầy mới là Ty Bưu Điện, số 33 đường Gia Long. Còn số 31 là tư thất dành cho ông Trưởng Ty. Có tới hai số nhà nhưng chỉ có một tòa nhà liền lạc mà thôi. Tui ở số 31 vì bà Trưởng Ty Bưu Điện kêu tui bằng thằng. Dám kêu tui bằng thằng vì bả dám đẻ ra tui. Tức bả là má của tui! Hi hi!)
Sau chót, khi kể về con đường Gia Long, tác giả viết tiếp là: “Nhắc tới Ty Bưu Điện là tôi nhớ ngay tới anh Phạm Phú Lộc ở cùng xóm Trịnh Hoài Đức với tôi làm Trưởng Ty Bưu Điện Mỹ Tho. Anh ở nhà vợ khu Chợ Cũ gần Bến Tắm Ngựa, thế nên mỗi ngày anh đón đò máy dưới Bình Đại lên để đi tới Vườn Hoa Lạc Hồng rồi đi bộ tới Ty Bưu Điện làm việc, cả hai lượt đi về nên bạn bè gọi anh là ông Trưởng Ty đò máy”.
Nên tui e rằng cái giai thoại ông “Trưởng Ty đò máy” nầy chắc tác giả kể nghe cho vui rồi bỏ! Chớ người trong cuộc, biết đầu đuôi gốc ngọn, nghe nó tức anh ách hè.
Tui xin “thày lay”, sửa lưng tác giả là: “Bất cứ ông nào nhậm chức Trưởng Ty Bưu Điện Mỹ Tho thì được quyền ở số 31 đường Gia Long, tư thất dành cho gia đình ông Trưởng. Sáng 8 giờ, chỉ cần mở cửa từ bên này là bước vô văn phòng liền. Cả đời, tui chưa hề thấy ai tới sở làm mà mất chưa tới 5 giây. 12 giờ mở cửa về nhà ăn cơm. 2 giờ mở cửa qua làm tiếp tới 6 giờ tan sở.
Sở dĩ tui rành 6 câu vọng cổ như vậy là vì tía tui đã từng làm Trưởng ty Bưu Điện Mỹ Tho từ năm 1966 tới năm 1970. Mà không phải riêng Ty Bưu Điện Mỹ Tho, Ty Bưu Điện Cái Bè, Ty Bưu Điện Rạch Giá, Ty Bưu Điện Ban Mê Thuột những nơi tía tui đã từng tùng sự đều y như thế cả.
Hồi còn ở Ty Bưu Điện Mỹ Tho, lâu lâu buồn buồn, hổng có việc gì làm, tui bèn kiếm chuyện chọc cho chúngchửi chơi. Tui chọc quê mấy em trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân. Đến cổng trường của em nằm trên đường Ngô Quyền, đối diện chùa Phật Ân để ngày ấy cây si anh trồng ngay lối đi hay sao? Tui đâu có khờ đến thế. Tui hằng biết câu thành ngữ: “Cọp xuống đồng bằng…”. Léo hánh tới cái “đồng bằng” có hai cái nháy nháy đó, lỡ xui gặp một em “Này này chị bảo cho mà biết,Chốn ấy hang hùm chớ mó tay” thì tui biết giấu cái mặt mẹt quê xệ của mình vô chỗ nào khi nghe em nói trúng ngay chóc cái tim đen? Chi bằng chó cậy gần nhà, dê mấy em mướn hộp thơ lưu trữ của Bưu Điện. Đầu tiên em móc xỉa tháng 5 đồng, mướn một hộp thư ở Bưu Điện Mỹ Tho. Kế đó, chọn cái tên nào nghe hoànggia, đọc lên cứ tưởng tiếng Tây như: Tôn nữ Mộng Sâu (đừng quên bỏ dấu nặng dưới chữ Mông). Sau đó viết vài hàng gởi anh trìu mến, rồi nhờ tuần san Phụ nữ Diễn đàn đăng miễn phí vào mục “Tìm bạn bốn phương”.
Chỉ một tuần sau là thư viết từ chiến trường sẽ bay về hộp thơ của em tới tấp. Em sẽ bận túi bụi để trả lời. Và thằng Tèo em cũng bận túi bụi bóc tem từ bì thơ ra để sưu tầm. Thấy em “mi nhon” chiều thứ Sáu tuần nào cũng tới; tui biết tỏng là em đang nối dòng lá thắm với non chục ngườitình không chân dung. Tui đang ngồi tòng teng trên cây nhãn trước bực tam cấp vào Bưu Điệnnhư Tôn Ngộ Không thì thấy em yểu điệu thục nữ bước vô. “Tui méc máđó nhe! He he!”. Nghe vậy, em bĩu cái môi cong cong, “xí” một tiếng. Hơi em dài cũng cỡ kép Giang Châu, vai Trùm Sò, xuống sáu câu vọng cổ vậy.
Có bữa, tui cắc cớ núp sau dãy hộp thơ lưu trữ chờ em tới để nhát ma em. Khi em mở khoá, thò bàn tay búp măng, trắng như bông bưởi, tính lấy thơ thì đụng cái bản mặt đen sì như Bao Công của tui phía sau dãy hộp thơ lưu trữ trống hoác (để bưu tá bỏ thơ vô). Em tưởng là đụng phải con rắn nên thiếu điều em chết giấc!
Vâng đường xưa, nhà cũ, quê hương thương nhớ của tui là vậy đó.
Ai nói trật chìa tui hổng chịu đâu nhe!
ĐXT
_____________________

Về mái nhà xưa!
Những kẻ tha hương cuối tuần hay tụ tập uống dăm ba ly rượu, văn nghệ cây nhà lá vườn, biết gì chơi nấy. Tiếng đàn ghi ta trầm buồn của một anh bạn văn nghệ, (mới gặp lần đầu), xưa vốn là một trưởng ca đoàn cho nhà thờ Tân Ðịnh, Sài Gòn, trải lòng với bản ‘ Về mái nhà xưa!’ (Come back to Sorento!)
Tui cũng góp buồn bằng cách diễn ngâm bài thơ ‘Chạm cửa thiên đường!’ của chính mình trên nền tiếng sáo trúc của Tô Kiều Ngân.
“Vượt trùng dương ngàn cơn bão. Em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo. Em chạm cửa thiên đường! Cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến. Chiều thu buồn, em nằm lại Kuku!
Hòm Cao uỷ phủ thân người yêu dấu. Thay vòng tay anh ấm, tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất! Mả lạn tàn phai; sương gió thời gian. Mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ!
Rượu cay đắng mang theo rửa cốt người yêu dấu. Chiếc nhẫn cưới còn đây. thương hoài tay áp út! Anh hú, anh kêu; tiếng hú chiều tuyệt vọng! Ôi! em yêu! Ôi! đất hỡi! Trời ơi! Sao đóng cửa thiên đường? Khi bàn tay em chạm tới!
Bài thơ khóc em chiều Kuku; ngàn thu vĩnh biệt. Anh mang hài cốt em theo;mình vĩnh biệt Kuku! Kuku! Chiều thu lá rụng! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?!”
Anh bạn văn nghệ mới quen nầy, mặt xương xương, vẻ khắc khổ nên trông già đi trước tuổi, sau cặp kính cận, hình như mắt anh rưng rưng đầy ngấn lệ… như cố che giấu đi một nỗi buồn sâu kín đã suốt bao năm!
“Tôi đâu ngờ bài thơ nầy tác giả lại là anh! Người anh đề cập trong bài thơ nầy, trong cái bi kịch đau lòng đó lại chính là bi kịch của một quãng đời tôi! Hơn 30 năm rồi còn gì nữa!”
***
“Tháng Sáu, năm 1982, lúc tôi chưa đầy 26 tuổi, cùng người vợ mới cưới đã liều mình xuống thuyền vượt biển. Sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương.
Kuku là tên một rẻo rừng dừa trên đảo Jemayah, thuộc quần đảo Anambas, tỉnh Riau, cách thủ đô Jakarta của Nam Dương hơn 1300km.
(Kuku có nghĩa là “Cậu”, âm theo tiếng Hoa! Vì cách đây hơn nửa thế kỷ có một người Tàu đã đến đây khai hoang để trồng dừa. Ông là một người tốt bụng, thường giúp đỡ dân nghèo nên được mọi người thương mến gọi bằng “Cậu”. Sau đó, dân địa phương ở đây đặt tên rừng dừa này là Kuku.)
Bây giờ, Kuku đang ở trước mặt! Bãi biển thênh thang ngày xưa bây giờ hẹp lại vì rừng lấn dần ra biển! Cầu tàu, rồi các dãy lều tạm cư đã biến mất vào hư vô? Chỉ còn xác mấy chiếc ghe vượt biên trơ sườn; vì cát biển theo hàng vạn đợt thủy triều, nắng gió đã chôn vùi phần đáy, nhưng thuyền vẫn còn ráng nhú mũi ghe lên nắm níu, như một bia mộ của một thời dâu bể… (Như bảo: Nhớ đừng quên!)
Cả một rẻo rừng rộng lớn, từng xôn xao bóng hàng ngàn người tỵ nạn năm nào, bây giờ chỉ là một vạt rừng dừa xanh ngăn ngắt, hoang vu! Vì khi những thuyền nhân VN cuối cùng rời Trại tỵ nạn Kuku để chuyển về Trại tỵ nạn Galang, để chờ đi định cư ở một nước thứ ba, chánh quyền địa phương thiêu rụi lều trại Kuku để phòng ngừa dịch bệnh.
Từ đấy, Kuku lại trở về hoang vắng, tiêu điều cho đến nay. Tôi không nhận ra cảnh cũ vì mọi dấu vết đã bị thời gian xóa nhòa gần hết. Ðâu rồi Văn phòng Cao ủy? Ðâu rồi Trạm xá của Trại Tỵ nạn? Ðâu rồi bãi đáp trực thăng trên đỉnh đồi nơi tôi đã từng chôn xác vợ tôi?
Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. Tôi đã chôn theo gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.
Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách khi chiếc tàu Cao ủy rời xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Và hôm nay, hăm bảy năm sau, tôi đã giữ tròn lời thề năm cũ. Ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành phải không?
***
Huyệt mộ là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi và khi chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm nilong lúc hạ huyệt cũng sâu tới chừng hai thước đất.
Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Nhờ tấm bọc bằng nhựa khá dầy và chắc chắn của Cao ủy, xác vợ tôi được nằm trọn vẹn bên trong mà không bị xiêu lạc hoặc bị rễ cây đâm xuyên dù hài cốt đã bị phân hủy gần hết.
Khi hài cốt vừa được đưa lên khỏi huyệt mộ, trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Mưa xối xả như giúp gội rửa thân thể lấm lem của những người phu mộ vất vả cả buổi sáng!
Mưa như để xóa nhòa đi những dòng lệ tiếc thương của tôi, những dòng lệ chất chứa qua bao tháng năm dài lầm lũi một thân trên bước đường tỵ nạn.
Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi tìm lại em!
Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long. Những di vật như gương lược nầy, Hiền, một em gái nhỏ mới 14 tuổi đi chung chuyến thuyền vượt biển, nhắc: “Anh cho đem theo áo quần, gương lược để chị ấy xài…” Thịt xương vợ tôi đã rã tan nhưng chiếc nhẫn cưới vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.
Tấm mộ bia cùng với tấm bọc của Cao ủy cho, được gửi lại xuống lòng huyệt! Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 27 năm qua.
Còn hài cốt của vợ tôi được hỏa thiêu ngay trên hai cái hố sâu đào trên cát. Ngọn lửa bùng lên và hài cốt dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi.
Những tro vụn và tàn củi còn sót lại được gom vào hai chiếc bao lớn mang theo lên ca-nô để rải xuống biển trên đường tôi về lại Letung. Ráng chiều từ từ lặn xuống cuối chân mây! Hoàng hôn bủa lưới nhanh trên biển.
Nắm tro tàn của em, tôi sẽ mang về lại quê hương Việt Nam! Tôi bỏ chiếc nhẫn cưới ngày xưa lại vào hũ tro cốt của em trước khi gởi nó vào Nhà Thờ Tân Ðịnh.
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.
Nghe hết chuyện tình buồn của anh, mắt tôi cũng rưng rưng đầy ngấn lệ! Chúng tôi cạn ly rượu đỏ như màu máu!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
_____________________

Đường Phan Thanh Giản!
Nhà thơ Cao Tần trong bài ‘Cảm Khái’ với những lời thơ trác tuyệt:
“Đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ.
Những tên người tên tỉnh đã xa xưa.
Những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ.
Những đường quen không trở lại bao giờ…”
Vâng một trong những con đường quen không trở lại bao giờ là đường Phan Thanh Giản! Một ở Cần Thơ và một ở Sải Gòn!
***
1. Đường Phan Thanh Giản ở Sải Gòn.
Đường Phan Thanh Giản ngày xưa bắt đầu từ Ngã Bảy chạy tới cầu Phan Thanh Giản bắt qua Rạch Thị Nghè!
Ông Phan Thanh Giản là cha, ông Phan Tôn và ông Phan Liêm là con. Nên đường Phan Thanh Giản có hai con đường nhỏ song song, qua khỏi nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi, là đường Phan Tôn, Phan Liêm.
Giờ bị thay bằng Ðiện Biên Phủ thì hai ông Phan Tôn và Phan Liêm dù chết đã lâu cũng bị cắt lìa với thân phụ của mình.
Ai cũng biết dòng họ Phan là những người yêu nước. Vì sau khi ông Phan Thanh Giản uống thuốc độc quyên sinh, hai người con của ông vẫn tiếp tục theo lãnh đạo nghĩa quân mà kháng Pháp ở Vĩnh Long. Thì làm gì có cái chuyện “Phan Lâm mại quốc; triều đình khí dân”
(Với động từ ‘mại’ là ‘bán’ và ‘khí’ là bỏ, tức: Phan (Thanh Giản), Lâm (Duy Hiệp) bán nước; triều đình bỏ dân như sử gia Trần Huy Liệu nói tầm ruồng, tầm bậy, tầm bạ)
Ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Hiệp bán nước? Lời kết tội rất nực cười!
Muốn bán trước hết mình phải có, phải sở hữu mới có mà bán! Đất nước lúc đó là dưới quyền cai trị của triều Nguyễn và Vua Tự Đức đã sai ông Phan Thanh Giản làm Chánh Sứ, ông Lâm Duy Hiệp làm Phó Sứ qua Pháp thương lượng để chuộc ba tỉnh Miền Đông.
Nếu cho rằng theo ông Trần Huy Liệu kết án ông Phan Thanh Giản bán nước là có đi. Bán nước, ắt ông Phan phải có rất nhiều tiền, vàng! Tại sao ông Phan không sống mà hưởng? Lại nhịn đói hơn nữa tháng, khước từ sự đối đãi ân cần, cản ngăn, van nài của giặc Pháp khuyên ông ngừng tuyệt thực; rồi cuối cùng ông dùng độc dược quyên sinh?
Tại sao hai người con Phan Tôn và Phan Liêm không lấy tiền vàng đó để vinh thân phì gia, ăn trên ngồi trốc? Mà tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân kháng Pháp trong bưng biền chi cho nó cực khổ ?
Tui e rằng Sử gia Trần Huy Liệu, nếu còn sống, và có lòng tự trọng cũng không trả lời cho thoả đáng những câu hỏi nầy cho được!)
2. Đường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ.
Đường Phan Thanh Giản (Xô Viết Nghệ Tỉnh) bắt đầu từ đường Duy Tân (Hoàng Văn Thụ) từ bờ sông Cái Khế qua đường Võ Tánh, rồi qua cổng trước Trưởng Phan Thanh Giản!
Con đường đó không có gì đặc biệt nếu so với những con đường khác ở Cần Thơ! Nhưng tui yêu con đường đó! Vì nó chiếm giữ trong lòng tui quá nhiều kỷ niệm của một thời rất trẻ!
(Đường Duy Tân cũng bị xoá tên cho dù Duy Tân là một vì vua yêu nước! Ông không màng tới ngai vàng, tới cuộc sống phú quý vinh hoa trong vòng nô lệ mà tìm đủ mọi cách để thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp! Đến nỗi bị chúng bắt lưu đày tới tận đất Châu Phi!)
***
Ðặt tên đường là việc rất lớn. Ðặt tên đường để người dân có thể tìm ra được nhà ai đó. Cùng lúc là để họ ôn lại lịch sử về danh nhân để càng hiểu, càng yêu đất nước mình nhiều hơn nữa!
Thái độ bất kính với tiền nhân nhứt là đối với những người yêu nước thương dân như: Vua Duy Tân, Đại thần Phan Thanh Giản là một tội ác không nhỏ chút nào về Văn Hoá!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

đoàn xuân thu
Đọc ‘Trường Sa Hành’
của Tô Thùy Yên
khi biển không yên!
________________
Trung Cộng từ khi chiếm được Hoa Lục năm 1949, bắt đầu giương oai diễu võ! Với đầu óc nông dân đặc sệt cả mấy ngàn năm, triều đại nào, hoàng đế Trung Hoa nào bao giờ cũng nghĩ tới giành giựt đất đai, lấn chiếm ao hồ của hàng xóm nhỏ hơn, yếu hơn mình. Cứ chờ thời cơ rồi ngày gặm thêm một chút.
Như Việt Nam từ thời lập quốc tới giờ núi liền núi, sông liền sông với “Chú Ba” xấu bụng này chẳng lúc nào được yên. Trên bộ thì Ải Nam Quan rồi thác Bản Giốc; dưới biển thì Hoàng Sa rồi Trường Sa…!
Tình hình Biển Đông luôn nổi sóng về cái vụ giàn khoan Trung Cộng lù lù xuất hiện ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, làm người viết lại nhớ tới bài Trường Sa Hành của nhà thơ Tô Thùy Yên viết cách đây đã hơn bốn mươi lăm năm trời ròng rã.
***
Trước bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yến, cũng có những nhà thơ khác làm thơ có tựa là “Hành” như: bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, năm 1940…
Nhưng “Hành” trong thơ nghĩa là gì? Có người cho đó là một thể thơ cổ. Song người viết lại nghiêng về một cách cắt nghĩa đơn giản hơn: Hành là đi, là đến trong từ hành trình, du hành, vi hành, bộ hành hay hành khách… Nhà văn đi và viết thì gọi là ký. Nhà thơ đi và làm thơ thì gọi là Hành. Đi Trường Sa làm thơ thì đặt tên bài thơ là Trường Sa Hành! Chắc vậy?!
Trường Sa Hành coi như một nhựt ký viết dưới dạng thơ khi Tô Thùy Yên đến Trường Sa năm 1974 vào Tháng Ba khi gió mùa Đông Bắc thổi. Chuyến đi này được thực hiện hai tháng sau khi Trung Cộng xua tàu hải chiến rồi chiếm Hoàng Sa ngày 19, tháng Giêng, năm 1974, khiến 75 người lính anh hùng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong lúc bảo vệ biển đảo quê mình.
Trường Sa cách đất liền hơn 400 hải lý, nhà thơ đến bằng tàu Hải Quân và vẫn còn say sóng cũng y như những người lính thú trấn thủ trên đảo (không phải tất cả là ngư dân) trước khi đến Trường Sa có thể chưa biết biển bao giờ?!
Tô Thùy Yên, dân Gò Vấp, dân Sài Gòn, nên đêm đầu ra Trường Sa say sóng, cứ bồng bềnh, cứ tưởng đảo là con tàu vẫn tiếp tục trôi đi. Tả thực và xuất sắc!
Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Đảo san hô Trường Sa lớn, đứng thứ tư về diện tích (0.15 km2) trong quần đảo Trường Sa tên tiếng Anh là ‘Spratly Islands’, lúc nhà thơ đến, không có dân; chỉ có lính…
Mãi khi Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới đưa lính thuộc Tiểu Đoàn 371 Địa Phương Quân (ĐPQ), thuộc Tiểu Khu Phước Tuy, ra trấn thủ trên các đảo: Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn và đảo Trường Sa lớn.
Nhà thơ đến chào, hỏi han (lính) đảo Hiu Quạnh lớn (có thể là đảo Trường Sa lớn mà nhà thơ tự mình đặt tên! Tôi đoán vậy vì nó viết Hoa?!)
Và có thể vì nhà thơ chỉ là khách, lại là quan “văn nghệ,” đến chơi vài bữa rồi đi; trong khi những người lính gian khổ ở lại; nên bước đầu gặp nhau không vồn vã lắm.
Những người lính đó làm “ngơ” cũng phải thôi! Tới đây là cực, là vất vả hết mức rồi thì việc gì phải sợ “quan” nữa chớ?!
Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han hề, Hiu Quạnh lớn!
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
Người sống trên đảo năm ấy là lính Địa Phương Quân, mỗi đảo chỉ khoảng 20 người, từ đất liền ra đảo chẳng bao lâu, nên chưa có ai chết thì hồn ma quỷ làm sao mà có?! Thiệt là hiu quạnh! Thảo mộc cây cối thì hồi nhỏ tới giờ mới thấy; nên hỏng biết tên gì?
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Cách bờ xa quá, nơi những người lính thân cô, thế cô, tuân lịnh trên, xa nhà, xa cửa, xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ, anh em đến đây để giữ đảo quê mình.
Xưa ai làm công chức hay quân nhân mà bị đổi đi đảo như Côn Sơn ngay cả Phú Quốc đều mang mặc cảm tự ti là mình bị đi đày, bị bỏ quên giữa trùng trùng sóng vỗ. (Dù sau ba tháng, sẽ có đại đội từ trong đất liền ra thay thế!)
Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Vậy mà những người lính tưởng chừng như bị bạc đãi, bị lạc loài, bị bỏ quên, không ai nhớ đó lại can đảm đánh nhau với Tàu Cộng trang bị hùng hậu hơn nhiều để bảo vệ biển đảo quê mình rồi ngã xuống… nên:
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Dù gì đi chăng nữa, đã sanh ra làm dân Việt nếu phải chết vì đất nước thì chết. Lớp này rồi lớp khác!
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
Kinh động đất trời như cháy đảo…
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Để đêm về sống như người nguyên thủy bên đống lửa, chờ mồi… rồi nhậu!
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Rồi văn nghệ, ca hát, không có “quan” và “lính” chỉ có “qua” và “chú em.” Rặt ròng Nam Bộ!
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Rượu lâng lâng sầu viễn xứ rồi nhớ tới những người đã được gởi ra đây lúc trước, chiến đấu rồi chết một cách quạnh hiu mà quân tiếp viện đâu… chờ hoài chẳng thấy… như đã từng xảy ra ở Hoàng Sa chỉ mới hai tháng trước.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Người lính đảo, hầu hết là trẻ, là hoa niên, đến đây vì đất liền, chạm địch, đối mặt với quân thù thì xin đừng bỏ chúng tôi lại chiến đấu một mình trên “Hiu Quạnh lớn” đồng bào ơi!
Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
Tuổi hoa niên trong binh lửa là vậy đó. Hy sinh phận mình cho đất nước tồn sinh.
Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
Nhà thơ đem “nỗi niềm” kia hỏi Trời và hiểu ra rồi! Hiểu một điều là đất này, biển này, đảo này do những người lính rất bình thường, (không phải là quan quyền chi hết)… gian khổ giữ lấy! Và nhà thơ cúi đầu khâm phục sự gian khổ hy sinh kính cẩn gọi những người lính vô danh đó trong bài thơ của mình bằng chữ “Người,” trang trọng viết hoa.
Sau 1975, các nhà văn nghệ, văn gừng Miền Bắc vào Nam lại tự cao, tự đại… (dù trong thâm tâm cũng phải cúi đầu khâm phục bài thơ này do một nhà thơ tài hoa Nam Bộ duy nhứt trong nhóm Sáng Tạo (chủ lực còn có nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền…) vẫn cón rán “khoèo” một cái là bài thơ Trường Sa Hành của nhà thơ miền Nam Tô Thùy Yên hay; nhưng thiếu tính chiến đấu.
Người viết không phải là nhà phê bình văn học, mạo muội viết ra những điều mình “cảm” về bài Trường Sa Hành của một tác giả nổi tiếng như nhà thơ Tô Thùy Yên là một việc làm mạo hiểm vì dễ bị chê là dốt chẳng hiểu gì thơ.
Tuy vậy, ai chê thì chê; mình hiểu tới đâu hay đó, viết ra chia sẻ cùng bạn đọc thân mến vì trộm nghe có người phê rằng bài thơ hay nhưng không có sức chiến đấu làm mình “tức,” mình “quạu” lên, “quạt” cho nó một trận cho đã tức!
Dà thưa! Tính chiến đấu trong bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên là gian khổ của người lính trong trùng trùng gió mùa khắc nghiệt. Là nắng cháy đến phỏng da vào mùa khô! Còn mùa mưa bão, những cơn bão nhiệt đới đi qua mạnh đến mức dường như thổi bay luôn cả đảo! Thiên nhiên là vậy, khắc nghiệt như vậy nhưng người lính vẫn chịu đựng để giữ biển đảo quê mình.
Rồi quân thù đến, đánh tới cùng, dù biết rằng chấp nhận ra đây là nếu đụng trận là chỉ có chết chứ còn biết rút đi đâu, còn ai tiếp viện? Đảo mà! Xa đất liền quá! Hổng lẽ giơ tay, buông súng mà đầu hàng Tàu Cộng?!
Hai tháng trước khi nhà thơ đến, hải chiến đã xảy ra rồi đó ở Hoàng Sa. Đã có hy sinh! Biết vậy nhưng không có sợ! Dà! Tính chiến đấu ở đây đó thưa “chư vị” thi sĩ miền Bắc!
***
Mỗi người đọc thơ đều có thể hiểu cách khác nhau! Càng nhiều cách hiểu càng tốt! Vì một bài thơ hay như một cái kính vạn hoa, mỗi lần đọc lại bài thơ thì tìm ra cái mới, cái hay, cái lạ là lần đọc trước mình chưa tìm thấy, chưa hiểu hết. Như cái kính vạn hoa, mỗi bức hình tuyệt tác chỉ là những hạt thủy tinh được sắp xếp, như những con chữ được sắp xếp trong thơ, lắc lên lại hiện ra hình ảnh khác, rực rỡ muôn màu!
Bài thơ này viết cách đây đã hơn 46 năm vẫn còn đứng vững và chắc rằng sẽ còn đứng rất lâu vì một lẽ đơn giản là nó hay.
Biển Đông không yên và chắc mãi mãi không yên! Mỗi lần biển không yên, tôi lại đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên để yêu nước mình thêm. Tôi xin cảm ơn ông!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
____________________________
Anh Ba cà khịa
Phiếm . đoàn xuân thu
Năm 2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama, 6 tháng trước khi mãn nhiệm, đã bay Air Force One từ Washington D.C đến Hà Nội cho cá ăn, rồi bay vô Sài Gòn chơi.
Anh Ba cà khịa tuần rồi ngồi nhậu với tui, buồn tình cười khè khè, nhắc chuyện năm xửa, năm xưa, cà khịa rằng: ông Obama không biết cái khỉ mốc gì hết về chùa chiền. Tới Sài Gòn, vô chùa xá Phật mà mười ngón tay của ổng cứ bè, te he ra; chớ không khép khít lại như chúng ta làm. Tui cãi lại: “Lỗi nầy không phải hoàn toàn của ông Barack Obama đâu! Hổng ai chỉ ổng xá. Hồi nhỏ tới giờ chưa làm thì làm sao ổng biết? Lỗi nầy là của bà Elizabeth Phu, cố vấn về an ninh Đông Nam Á, Châu Đại Dương và Đông Á của Tòa Bạch Ốc”. Bà Elizabeth Phu là ai vậy cà? Cái họ của bả theo tiếng Mỹ đã rớt mất cái dấu huyền. Chớ đúng ra là Phù (người Việt gốc Hoa Hải Nam).
Bà Elizabeth Phù sinh ra ở Việt Nam. Tháng Tư năm 75, Sài Gòn thất thủ, gia đình bà vượt biên lần đầu bị CS bắt nhốt hết 7 tháng. Chạy tiền được công an thả ra, rồi họ lại đi nữa. Bị cướp biển hai lần tưởng chết; nhưng cuối cùng họ cũng đến được Pulau Bidong, Malaysia. Một tháng trước ngày sinh nhật lần thứ tư, Elizabeth Phu cùng gia đình, chỉ có 20 đô la trong túi, đến Mỹ vào ngày mùng 3, tháng 12, năm 1979. Sau bao năm từng lê gót nơi quê người, cuối cùng Elizabeth Phu tốt nghiệp đại học và làm cố vấn cho Tổng thống Obama tại Tòa Bạch Ốc.
o O o
Chùa Tàu mà bà Elizabeth Phu xúi Tổng thống Barack Obama đi thăm là Phước Hải Tự, số 73 đường Mai Thị Lựu; trước 75, là đường Phạm Đăng Hưng, ở Đa Kao, Sài Gòn. Phước Hải Tự còn gọi là chùa Ngọc Hoàng, vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do ông Lưu Minh (người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20, dĩ nhiên là theo kiểu kiến trúc Trung Hoa. Chùa còn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Tổ (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề mộc), 13 bà mẹ v.v. Chùa còn thờ cả Thành Hoàng bổn cảnh. Thờ nhiều thần mới thu hút được nhiều loại thiện nam, tín nữ.
Lúc ấy, hòa thượng gốc chú Ba rủng rỉnh có đồng vô, đồng ra, mới sống được phải không nè? Chùa của chú Ba giống như một tiệm tạp hóa, khách đến mua gì cũng có. (Cái loại buôn thần, bán thánh nầy trong nước giờ nghe nói nó có hà rầm, không gọi là chùa nữa mà gọi là trung tâm văn hóa tâm linh đó). Thiện nam chỉ cần thành tâm thắp hương, khấn tên mình, sau đó đến tên “người trong mộng” và sờ vào tượng ông Tơ, bà Nguyệt để hai trẻ được se duyên tơ tóc đến răng long đầu bạc phếu. (Anh Ba cà khịa có làm rồi, đến chùa cầu tình duyên. Kết quả người trong mộng của ảnh lấy thằng bạn thiết của tui. He he!).
Chùa Ngọc Hoàng còn là một ngôi chùa cầu con nổi tiếng ở Việt Nam. Có vợ lâu rồi mà không tọt ra được một thằng cu nào hết. Sợ tuyệt tự, hổng ai nối dõi tong đường, cúng kiến giỗ chạp ông bà gì hết ráo, chú Ba bèn đến để cầu con (trai). (Anh Ba cà khịa cũng làm rồi. Hậu quả, má bầy trẻ sanh đôi đẻ cho ảnh một trai và một gái mới là quái quái! Sợ quá xá, nên chỉ dám cầu một lần thôi. Kẻo em yêu ngon trớn, tới luôn bác tài, sanh đôi lần nữa thì đời của anh Ba cà khịa: bà nội cũng đội chuối khô).
o O o
Nói nào ngay, vốn là dân miền Tây rặt ri, tui chỉ biết ăn phở Bắc (di cư); chớ còn bún chả thiệt chưa nếm thử lần nào. Nghe tui than mủi long quá thể nên Footscray vừa mới mở một tiệm bún chả thì anh Ba cà khịa dắt tui đến để thử coi bún chả nó ra làm sao mà Tổng thống Obama phải cất công bay hang chục tiếng đồng hồ đến Hà Nội chỉ để ăn. Té ra nó chỉ là thịt heo, nướng trên lửa than, ăn với bún và hầm bà lằng các loại rau sống, trong một cái tô, rồi chan ngập nước mắm chua ngọt vậy thôi. So với phở danh trấn giang hồ bấy lâu, bún chả nó thua xa. Thằng Mỹ cũng biết vậy nên viết là: “Bun cha is not a national dish” (bún chả không phải là món ăn quốc hồn, quốc túy của người Việt). Nhưng nó nổi lên vì được Tổng thống Mỹ Barack Obama ghé quán Hương Liên, trong khu phố cổ Hà Nội, leo lên lầu hai, cầm đũa đàng hoàng, ngồi trên ghế nhựa, xơi bún chả và uống beer. Ngày hôm sau, nhà hàng bèn đem hai cái tô, hai chai bia đã cạn nhốt vào trong tủ kính, trưng bày, quảng cáo để mà câu khách.
Anthony Bourdain (1956-2018) chủ xị một cái show truyền hình ẩm thực nổi tiếng cho tập đoàn truyền thong CNN, quay hình một show về ẩm thực, ăn nhậu với trùm đế quốc Mỹ, Tổng thống Obama, người quyền lực nhứt thế giới, nên đâu phải là điều đơn giản như... đang giỡn.
Phải chọn nước nào? Giựt gân là chọn một nước từng thề mẻ rang là đánh cho Mỹ cút; cho dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, để ngày hôm nay: “Xin kính cẩn mời Ngài Tổng thống Mỹ đến quê tớ ăn bún chả ạ!”. (Dà bây giờ, mấy bác cần đô Mỹ nên hạ mình xưng tớ; chớ hết dám xưng chúng ông như thời đánh cho Mỹ cút đâu nha). Rồi Anthony Bourdain nói thêm: “Tôi cũng biết Obama thời niên thiếu đã từng sống ở Indonesia (Nam Dương) chắc thích ăn một tô mì thịt heo cay nồng rồi uống một chai beer lạnh”. Tui e rằng, Anthony Bourdain đoán sai bét nhè, bói trật lất, trật chìa, trật chừng vài cây số. Obama thời niên thiếu có ở Indonesia thiệt. Nhưng Indonesia là một nước có nhiều người theo Hồi giáo nhứt trên thế giới thì làm gì có mì nấu với thịt heo để mà xơi chớ. (Người Hồi giáo không bao giờ ăn thịt heo đâu cha nội!). Mặt khác, ăn cao lương mỹ vị, quốc yến hoài cũng chán, nên trùm đế quốc Mỹ Barack Obama đồng ý nghe lời xúi bậy của Anthony Bourdain xơi bún chả thịt heo nướng vỉ than cho có vẻ bình dân.
Chắc Obama, Tổng thống da màu đầu tiên của Mỹ, nhân tiện xác định khéo: Tui không phải là người Hồi giáo như nhiều người từng chụp mũ tui đâu nhe!
Khu phố cổ Hà Nội, ngồi trên lầu hai của một cái nhà hàng nho nhỏ, trên con đường không có gì to to, trên một cái ghế thấp bằng nhựa, Tổng thống Obama có vẻ thoải mái, lọng cọng (vì chưa quen) cầm đũa gắp miếng chả, hỏi: “Ăn làm sao đây?”.
“Thì đút vô miệng nhai ngồm ngoàm rồi nuốt. Xong chiêu thêm một ngụm beer lạnh”.
o O o
Kết luận: Làm trùm đế quốc Mỹ, ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ, ắt là phải giỏi rồi. Nhưng giỏi không có nghĩa là cái gì tao cũng biết hết ráo. Bởi, chữ có câu rằng: “Những gì mình biết chỉ là một hạt cát. Những gì mình không biết là cả một đống cát”. Không biết là phải nghe theo lời của cố vấn, chuyên gia như Elizabeth Phu và Anthony Bourdain, họ chỉ chọt cái gì thì mình làm cái nấy. Tiếc thay hai chuyên gia nầy chỉ trật lất hè. Làm những người biết chút đỉnh về chùa chiền và về ẩm thực của nước ta như anh Ba cà khịa trông thấy mà đau đớn lòng.
Thấy hai cái vụ cố vấn tầm ruồng nầy làm anh Ba cà khịa mắc cười tới té ghế! Hậu quả là bụng đau, đau lòng hết sức!
DXT
______________________________________________

Ngày Từ mẫu!
Định cư ở nước Mỹ, nước Úc, nước Canada, bà con ‘Mít’ của mình đều có cái sướng là ăn cái gì cũng gấp hai lần. Tết cũng hai; Tết Tây rồi Tết ta. Ngày Từ mẫu cũng hai. Mother’s Day của Tây rồi Vu Lan của ta.
Ăn hoài hè; hèn chi mấy chị em mình phục phịch, ục ịch như cái hột mít. Còn phe ta cứ vác cái thùng nước lèo è ạch, lịch bịch như con vịt (bầu) đi xuống đi lên quán nhậu.
(Nhớ coi chừng mỡ máu! Già rồi mình hay sợ mỡ máu cao làm nghẹt tim, xí lắc léo bất tử! Nhưng bác sĩ sẽ vui hơn vì có thêm nhiều bệnh nhân đến khám. Nhiều bệnh nhân là ông, bà bác sĩ kéo ‘Medicare’, tính tiền bảo hiểm mệt nghỉ.
***
Mà bà con có để ý rằng ngày kỷ niệm hàng năm cho bất cứ ai là người đó sống một cuộc đời đầu tắt mặt tối, cực chết Mẹ.
Chẳng hạn kỷ niệm 30 tháng Tư, CS chiếm Sài Gòn bà còn mình ai cũng khóc. Rồi Anzac Day của Úc, 25 tháng Tư, tưởng nhớ những người đã ngã xuống hy sinh cho dân Úc nầy được sống tự do mà ăn với nhậu.
Tiểu bang Victoria nơi tui bèo giạt hoa trôi tới hàng năm có tới 13 ngày lể chánh thức hàng năm, do Quốc hội tiểu bang ấn định. Nếu nó rớt vào Thứ Bảy hoặc Chủ Nhựt thì công nhân được nghỉ bù thêm ngày thứ Hai, gọi là ‘long weekend’. Mấy anh mình được tháo ách, nghỉ cày tới 3 ngày liên tiếp, nhậu đã điếu luôn.
Ai buộc phải đi làm thì chủ cả phải trả gấp hai lần rưởi ngày thường. Vậy cũng công bằng vì thiên hạ đi chơi mà mình lại phải đi cày, phải bù thêm cho tui một mớ chớ!
Ngoài ra Úc còn có những ngày lễ không chánh thức do đại ca Mỹ phát kiến rồi tiểu đệ Úc bắt chước theo đuôi. Dẫu có người càm ràm là: Valentine’ Day, Mother’s Day, Father’s Day… đã bị thương mại hóa, làm mất ý nghĩa sâu xa của nó hết trơn, hết trọi hè!
Ối nền kinh tế tư bản phải dựa vào sự tiêu thụ mà. Tự do bán và dụ khị mua. Mình hổng mua thì thôi; đâu ai ép uổng thì càm ràm cái giống gì hè?
Té ra thằng cha càm ràm đó là một chàng áo vũ cơ hàn, móc bọc, mậu lúi. Thằng chả túi hổng có một xu nên cà nanh với thiên hạ đó thôi.
***
Mother’s Day của Mỹ, của Úc theo thông lệ hằng năm vào ngày Chủ Nhựt thứ hai của tháng Năm. Năm nay nó rơi vào mùng 9, tháng 5, năm 2021.
Ngày Chủ Nhựt lúc sở sùng, trường học đều đóng cửa. Bà con mình rất hưỡn nên nhà hàng, quán cà phê, siêu thị tưng bừng mở cửa phục vụ tận tình một năm một ngày tạ ơn Từ Mẫu!
Tiệm bán hoa cũng làm ăn khấm khá; khách hàng vô ra nườm nượp để mua hoa cẩm chướng (carnation) để dâng tặng Mẹ mình. Cái truyền thống tặng hoa cẩm chướng nầy là do Anna Jarvis khởi xướng vào ngày 10, tháng Năm, năm 1908, tại West Virginia Hoa Kỳ; vì hồi sanh tiền Mẹ mình cô rất yêu loài hoa ấy.
(Nhưng hổng biết bà con Mít mình có để ý là có lúc Tây nó chọn hoa màu đỏ; có lúc nó chọn hoa màu trắng?
Theo thiển ý của tui là: Màu đỏ của hoa hồng là màu máu của con tim, tim còn máu. là còn đập, là mình còn sống. Còn sống tất còn yêu! Nhỏ thì yêu Ba, yêu Má; lớn lên thì yêu em.
Còn màu trắng là màu của nước mắt, khóc than cái gì mình dấu yêu đã mất. Như mất Mẹ mùa Vu Lan, tức Từ Mẫu của Mít mình, thì những đứa mồ côi cài bông hồng trắng.
Phải hiểu ý nghĩa của màu hoa như thế để giúp mình đi ‘dê’ con gái Úc bằng cử chỉ. Bởi vì dung lời nói có khi mình bị ‘ọt rơ’.
Hồi mới qua Úc, tui khoái khoái một em Hồng Mao (lông màu hồng), Úc gốc Anh, hàng xóm sát bên nhà. Tỏ tình, tui mua tặng em một bông hồng đỏ thắm để em hửi. Một hộp ‘chocolate’ em ăn cho ngọt để em đừng sợ dính với tui thì đời em sẽ nhiều cay đắng.
Hôm sau, tui thấy trong thùng rác nhà em cái bông hồng đỏ thắm tình tui nằm chình ình trong đó. Riêng ‘chocolate’ thì chỉ còn cái vỏ. Té ra em muốn gởi cho tui cái thông điệp là hổng cần tình anh Mít; đời em cũng đã ngọt lắm rồi nhờ hộp ‘chocolate’ của anh.
Hôm sau tui lại tặng cho em một cái bông màu trắng, màu nước mắt. Ý tui muốn nhắn với em rằng: “Em hổng chịu yêu tui là đời tui toàn nước mắt!”
Thấy tui cứ tấn công ráo riết, tỏ tình một cách văn nghệ, văn gừng cảm động dễ sợ đến thế, sợ cầm lòng không được nữa; em bèn dọn nhà đi chỗ khác!)
***
Tình mẫu tử Tây và ta có nhiều điều rất khác. Văn hóa phong tục tập quán vân vân và vân vân…Tuy nhiên tình mẫu tử không có phân biệt chủng tộc màu da gì hết ráo, đứa nào như đứa nấy; ai cũng như nhau. Da trắng, đen, vàng, đỏ thì Mẹ cũng thương con như biển Hồ lai láng, con thương Mẹ tính tháng tính ngày đó thôi.
Giống nhau cách suy nghĩ; nhưng cách biểu hiện giữa Tây và ta nó có khác. Dưới mắt những người con Việt, Mẹ mình là một người phụ nữ yêu chồng, thương con, nên dầm mưa dãi nắng sớm hôm tần tảo:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
(Thơ Tú Xương).
(Nên nhớ bà Tú Xương buôn bán cực khổ nuôi năm đứa con trước đã. Xong mới tính tới ông chồng Tú Xương; vì ổng tối ngày chỉ nhậu cho đã rồi làm thơ không hè!)
Chính vì sự hi sinh vô bờ bến của người Mẹ nên chúng ta mới có ngày Từ mẫu. Vì Mẹ mang nặng đẻ đau, 3 năm bú mớm. Con lớn xầm xầm cái đầu mà tối ngày Mẹ cứ theo hỏi: “Tèo con có đói bụng không để Mẹ đi nấu cơm?”
Rồi lớn lên, thằng Tèo cưới vợ. Vợ đẻ con, một bầy đông như quân Nguyên. Mỗi lần cái đám lốc cốc tử nầy thăm, bếp nhà Mẹ nghi ngút khói. Làm lối xóm cứ tưởng Mẹ mới mở nhà hàng!
Còn con Tây nhìn Mẹ mình hơi khác. Thấy tài năng của Mẹ không thua gì Bố; có khi còn giỏi hơn nữa kìa. Nhưng cái nhận xét về tài năng của con Tây đối người Mẹ biến thiên hoài, lên bổng xuống trầm theo đời người năm tháng.
1. Lên 8 tuổi. Mẹ cái gì cũng làm được. Mẹ biết đủ thứ, biết thiệt nhiều. Biết ngay cả cái mật khẩu ‘facebook’ của Bố. Biết ngay chóc ngày Bố lãnh lương, được bao nhiêu tiền?
2. Lên 12 tuổi. Té ra có vài điều Mẹ không có biết. Chẳng hạn như Bố hay ngóng qua hàng rào, nhìn cô hàng xóm đang tô hô nằm tắm nắng. Thiên hạ ai cũng biết mà Mẹ lại là người không biết?
3. Lên 16 tuổi. Mẹ mình xưa quá! Mặc thời trang, quần ‘jeans’ xé rách vài miếng vậy mà Mẹ chê xấu hoắc, Mẹ lạc hậu mất rồi! Cứ bắt con ăn mặc y theo ý Mẹ mới được hè.
“Kìa nhìn đứa kia tóc ngắn, quần ‘jeans’ rách hai miếng ở đầu gối, vậy mà cũng gọi là thời trang! Chẳng cách chi phân biệt được là trai hay gái!?”
“Nó là con gái cưng của tui đó!”
“Xin lỗi ông! Tui không biết ông chính là cha của cô bé ấy!”
“Không phải cha đâu. Tui là Mẹ của nó!”
4. Lên 25 tuổi. Con gái Tây hổng biết thằng bạn trai mình có phải dòng dõi Bùi Kiệm làm biếng học, thi rớt hoài. Hay là chàng Sở Khanh, chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao? Trước khi quyết định trao thân ngà ngọc về cho nó vọc… là phải hỏi ý Mẹ mình mới được. Cái nầy chắc Mẹ em cũng biết!
5. Lên 45 tuổi. Muốn đập bể cây đàn, dứt gánh sang ngang vì thằng chồng tối ngày chỉ lo ăn nhậu. Sao cứ mãi ngần ngừ? Thôi nó rồi, biết có còn kiếm được ai khác hay không? Ruột rối như tơ vò! Phải hỏi ý Mẹ mình mới được.
6. Lên 65 tuổi. Không còn Mẹ nữa. Tài sản quý nhứt cuộc đời đã lẳng lặng ra đi. Kể từ đây, vui chẳng dám cười mà buồn chẳng dám than! Đâu có ai, kể cả con vợ của mình, nó chịu nghe đâu!
Kết luận: Mất Mẹ rồi ở tuổi nào đi chăng nữa mình vẫn là một đứa bé mồ côi. Hu hu!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
_________________________
Phải chi còn Má!
Bà ‘chằn’ của người viết hồi xửa, hồi xưa là con gái Cần Thơ. Con gái Cần Thơ thì không cắc cớ, nhưng em là trường hợp ‘ngoại lệ’! Yêu là phải lựa ‘thằng’ thông minh, học giỏi, con nhà giàu rồi mới chịu ‘ưng’ cho nó ‘phẻ’! Làm như là Hoa Hậu Venezuela không bằng?
Mà muốn biết thông minh hay không thì ‘em’ thường ra câu đố cho ‘chàng’ giải đáp; để coi cái IQ (xin đọc theo kiểu Việt Nam mình) của ‘chàng’ ra sao? Giống như bây giờ mấy thằng Úc, trước khi mướn người làm, thường ‘interview’. Không qua được ‘interview’ là mình tiêu. Vậy thôi!
“Tiếng anh ăn học làu thông! Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường?” Câu trả lời dễ ợt: “Em về đếm sạch cỏ vườn! Ra đây anh nói: mấy đường khăn lông!” Hỏi vậy mà cũng bày đặt hỏi!
Nhưng có lần em chơi khó, hỏi: “Anh là dân Mỹ Tho. Anh nói: Má anh có quầy bán cơm tấm để nuôi anh ăn học trên đường Huyện Toại. Mà anh có biết Huyện Toại là ông nào vậy hông?”
Mình bí! Nhém chút nữa là em cho mình rớt rồi! Nhưng có lẽ nhờ ‘đẹp trai’ và nói hơi ‘dai’ nên em cho đậu vớt.
Dù em cho đậu vớt nhưng không trả lời được cho em: “Huyện Toại là ông nào?” Người viết rất tức tối! Rất: ‘Hận đời đen bạc! Hận kẻ bạc tình! Hận cả gia đình! Hận luôn hàng xóm!’ Nghĩa là hận hết ráo! Và trong trường hợp nầy người viết còn hận luôn mấy ông soạn sách giáo khoa nữa đó!
Như quý độc giả thân mến từng biết: Trước 1975, thời trung học, từ lớp đệ thất tới lớp đệ nhứt, năm nào cũng có môn Sử Địa, 2 giờ một tuần. Một giờ Sử, một giờ Địa. Giờ học đã ít, mà chương trình học thì ‘thiên la địa võng’. Học Sử Việt từ thuở ‘Được Voi đòi Hai Bà Trưng’ cho tới thời ‘Bảo Đại’! Học từ ‘Tây mũi lõ’ cho tới ‘Tàu khựa, Tàu phù’. Học thiệt nhiều nhưng biết chẳng bao nhiêu vì ‘lớt lớt bên ngoài như xài thuốc đỏ’. Nhưng có cái ngộ, kỳ kỳ là địa phương mình, nơi mình ăn dầm nằm dề thì bù trất? Học trò hổng biết xa hơn cái lỗ mũi. Sử anh hùng dân tộc ngay chính quê hương bản thổ của mình thì mấy ổng không cho vô chương trình. Không học! Sao biết? Nên thấy tên ông Huyện Toại mình cứ tưởng người dưng?
Phàm muốn dạy dân yêu nước phải bắt nguồn từ gia đình. Gia đình là rường cột quốc gia mà! Phải thương yêu cha mẹ, anh em trước. Lớn lên một chút thì bà con cô bác… rồi láng giềng thôn ấp. Lúc ‘dậy thì’, râu măng ‘tí chút’, bể tiếng khàn khàn như con vịt đực… mới ngó qua cô em láng giềng, người em cách giậu mồng tơi xanh rờn chớ! Thương như vậy mới tuần tự nhi tiến và hợp lẽ giềng mối với Đất và Trời!
Vì là phe ta, nên người viết mới bỏ công ‘buồn’ mấy ông soạn chương trình giáo khoa Sử Địa hồi trước 75 lắm nha! ‘Mấy thầy soạn chung chung, ta bà thế giới quá! Còn học trò như ‘em’ lại không biết ất giáp gì về địa phương, về cuống rún chưa lìa, về quê hương bản thổ hết trơn hết trọi á!’
Gần 40 năm sau, xa quê, xa cái xã Điều Hòa, cái Thị Xã Mỹ Tho, quê người, Melbourne, đêm nay viết bài nầy thì con đường Huyện Toại mới trở lại mà hành hạ đứa học trò từ lúc tóc còn xanh mơn mởn ngày xưa cho đến đầu chớm bạc bây giờ!
Ổng là ai? Ông là ai? Là ai? Là ai? Bèn làm cái nghiên cứu, lục lọi thì thấy rằng: Ông Huyện Toại thực ra là Huyện Thoại. Tây, nó viết bỏ chữ h nên thành Toại. Tên họ ổng là: Đỗ Trình Thoại, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (thời VC thì thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm Quý Mão (1843), đậu Cử nhân tại Trường Hương Gia Định, được bổ làm Tri huyện Tân Hòa (bao gồm khu vực Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay) nên được mọi người quen gọi là Huyện Thoại.
Tây đánh Lục Tỉnh Nam Kỳ, ông chống lại. Vào tờ mờ sáng ngày 22 tháng 6 năm 1861 (Tân Dậu), ông cùng 600 nghĩa quân đánh đồn Gò Công do một sĩ quan hải quân Pháp là Paulin Vial và 27 quân sĩ trú đóng.
Huyện Toại dùng gươm giết được một tên lính Hải Quân Bodiez và đâm trọng thương trung úy Paulin Vial, Trưởng đồn kiêm Giám đốc bản xứ sự vụ Gò Công. Nhưng sau đó, bị trúng đạn, ông hy sinh tại trận tiền cùng với 14 chiến sĩ khác.
Để trả lời một câu hỏi về chính quê nhà mình… mà cần tới 40 năm mới làm được! Thiệt nghĩ mắc cỡ quá! Nhưng trễ còn hơn không!
Sau khi dựng em yêu đang ‘ngáy như sấm’ dậy, để nghe ‘trả lời một câu hỏi’ 40 năm về trước. Người viết còn nhắc cho ‘em yêu’ về quan niệm hồi xưa đi chọn vợ của mình như thế này: chỉ cần có hai điều kiện thôi. Một chánh, một phụ. Chánh là phải đẹp! He he! (con vợ nghe, nó khoái quá trời?) Phụ là phải biết nấu cơm tấm để về nhà tiếp Má mình đi bán… để nuôi mình!
Nhớ ngày xưa em nói em yêu có anh thôi! Không ai ngoài anh nữa? Và em là con gái Cần Thơ chỉ biết làm bánh cống. Còn cơm tấm, chịu thua! Thua thì bỏ. Em nghe hăm; sợ không được làm ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’, nên năn nỉ ỉ ôi: “Anh dạy em đi!”
Người viết từng chạy bàn cho quầy cơm tấm của Má mòn gần chục đôi dép nên rành sáu câu vọng cổ, bèn soạn cái ‘giáo án’ nầy để ‘Dạy con dạy thuở còn thơ. Dạy vợ dạy thuở bơ vơ mới về!’ Trước hết là bày cách cho em lấy lòng Má của mình; sau là cho em biết thế nào là lễ độ! Chớ hổng phải bất cứ cái gì cũng ong óng lên: “Tui biết hết” đâu nha!
Người viết dạy em rằng: Dĩa cơm bì sườn ngon phải nhiều màu sắc đẹp mắt như tranh Picasso. Trắng của cơm, vàng ươm của sườn nướng, đỏ của cà rốt, xanh của dưa leo. Sườn nướng phải mềm, thơm. Bì thịt, thính và bông da ăn phải ngứa răng. Đồ chua phải giòn, nhai rau ráu. Nếu muốn, chơi thêm một trứng gà ốp la nữa cho nó bổ… ‘thận’?
Sườn nướng phải là thịt ‘cốt lết’ ngon, tẩm mật ong, muối, nước mắm, dầu hào, dầu mè, tỏi, hành khô, hạt tiêu cho ngấm rồi đem nướng vỉ than. Chu choa, mỡ cháy xèo xèo, khói thơm bay xa… ba cây số!
Còn bì thịt là thịt nạc mông hoặc thịt nạc vai, ướp muối, hạt tiêu, tỏi, đường, nước mắm. Xong đem ram cho vàng rồi xắt sợi.
Phần nước mắm: nước mắm ngon Phú Quốc, hiệu ba con cá cơm, đựng trong tỉn. Nấu sôi, vớt bọt, nêm đường, giấm, tỏi với ớt bằm pha thêm vài trái dừa xiêm.
Còn đồ chua là cà rốt, đường, giấm, muối, có thể thêm củ cải trắng với dưa leo và cà chua ăn kèm cho đỡ ngán.
Còn phi mỡ hành: hành lá rửa sạch, thái nhỏ, trộn vào tô hành một ít dầu ăn, phi trên bếp khoảng 30 giây để hành vừa chín tới.
Nấu cơm tấm, sau khi đã nhặt hết mấy hạt sạn nho nhỏ còn lẫn trong tấm. Làm ẩu tả, còn sót sạn, cắn nghe cái ‘bốp’ là gãy răng. Không nấu kiểu thường, trừ trường hợp muốn ăn cơm cháy với tép mỡ rắc đường, mà phải đổ tấm, sau khi vo sạch, vào từng vỉ nhỏ, xăm xắp nước, bỏ vào nồi lớn, hấp. Thêm vài cái lá dứa cho thơm ‘râu’!
Sau khi hướng dẫn em yêu thật tỉ mỉ phần lý thuyết, tính dắt ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’ về thưa với Má là: con đi học ở Cần Thơ kiếm được một đứa về đỡ tay đỡ chân cho Má nè! Nhưng chưa lần nào em được ‘hân hạnh’(?) làm dâu thì Má bị tai biến mạch máu não và ra đi khi tuổi mới 40. Má ơi!
Tháng Sáu, Melbourne, trời cuối thu, sắp sang đông. Gió nhiều, mưa cũng lắm. Tới ngày giỗ má rồi. Năm nay như mọi năm, vợ con sẽ làm cơm tấm sườn bì cúng má. Chính tay con sẽ làm nước mắm với ‘bí quyết gia truyền’ nầy cho hai thằng con, hai đứa con dâu và 4 đứa cháu nội ăn, để tụi nó ngả nón cúi đầu mà khâm phục Tía nó cũng biết làm… chớ không phải chỉ chuyên ‘dóc tổ’!
Con đường Huyện Toại, quầy cơm tấm của má ngày xưa đi suốt theo con cả thời niên thiếu cho mãi đến bây giờ!
Thu Melbourne, lá vàng đã đầy trên lối! Dĩa cơm tấm ngày xưa, con đường Huyện Toại và bài hồi ức nầy làm con nhớ Má biết bao nhiêu!
Vợ con, ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’, nói rằng: nó cám ơn Má nhiều biết bao nhiêu vì Má đã đẻ ra con và cho nó một người chồng rất dễ thương… và dễ dạy!
‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’ nói một câu rất ăn tiền là: “Phải chi Má còn sống! Giờ dẫu Má có già, có quên trước quên sau hoặc tánh tình khó khăn gì đi chăng nữa, em nhứt định làm bổn phận dâu con… mà dâu ‘ngọt’ chớ hổng có chua; hết lòng phụng dưỡng Má của anh như Má của em! Nhứt định không bao giờ ‘xúi bẩy’ anh đưa Má vô Nhà Dưỡng Lão (Nursing Home) đâu nha?!”
đoàn xuân thu.
melbourne
____________________________________

Nợ áo cơm!
Hồi năm nẩm, trò Phạm Minh Tày của Collège de Can Tho, được Thanh Tịnh (hàng năm cứ vào độ cuối thu…) khuyến khích, đã xâm mình, lớn lối rằng:
“Lớn lên tao viết văn”.
Thằng bạn đồng song với trò Tày: “Viết văn nghèo lắm!”
Ông già phải đem cầm bộ lư và chân đèn trên bàn thờ ông bà cho “trò” đi học, vì không muốn “trò” phải sống với cây tràm, cây trâm bầu, lặn hụp bắt cá lóc! Ba “trò” hổng muốn “trò” nghèo như ổng, sao trò không: “thông ngôn, ký lục, bạc chục không xài” để “sáng rượu sâm banh, tối sữa bò..?!”
Trò Phạm Minh Tày nói là làm. Cái này gan! Bây giờ nhiều thầy chú trong nước cũng như ngoài nước nói mà có làm cái khỉ mốc gì đâu?! Cái lưỡi dài hơn cái tay mà!
Mà không phải bạn đồng song mới lo đâu, mẫu thân cũng lo sốt vó, lặn lội từ U Minh lên Sài Gòn coi thằng Tám chết sống ra sao?
"Mầy lên đây làm gì để sống?”
“Viết văn!”
Bà già hỏi lại: “Viết văn là làm gì? Viết văn có sống được không?”
“Viết một giờ bằng người ta đạp xích lô cả ngày!”
Hởi ôi? Đạp xích lô ngày nào người ta cũng đạp. Còn viết văn đâu phải là bửa củi. (câu này hỏng phải của tui mà là của Tản Đà). Một tuần được một bài thì tiền nhuân bút kiếm được còn thua đạp xích lô xa! “Viết văn là đói nhăn răng! Dù nó có vần ăn nhưng lúc nào còn làm nghề nầy là còn đói dài dài.”
Bụng đói thì đầu gối phải bò. Nhà văn viết lia chia.
“Trước 1975, tôi đồng thời viết cho bảy tờ báo. Sau năm 1975, tôi tiếp tục cộng tác với nhiều tờ báo. Thật ra, tôi mê viết văn hơn viết báo và với tôi, viết văn bao giờ cũng là trọng tâm. Tôi viết báo để kiếm sống và để giải trí…”
Viết lia chia không phải là viết ẩu à nha!
“Tôi tập trung tất cả sức lực và thời gian cho công việc mình theo đuổi, đến mức không làm tròn trách nhiệm của một người cha đối với con cái”
Đối với con cái thì vậy còn đối với phụ thân?
Hãy nghe: “Từ cầu kênh Thứ Sáu vào đến Ấp Giữa, đò máy chạy khoảng một tiếng đồng hồ. Ở phía cầu, gần lộ, còn thấy nhà gạch, vô sâu thấy nhiều nhà lá, hoặc chắp vá nửa lá nửa tôn, hay vài thứ vật liệu tạm bợ gì đó. Không chỉ kiểu nhà cửa sơ sài, mà toàn khung cảnh nửa hoang vu chung quanh đồng toát lên một không khí xa vắng ơ hờ, gợi cho những người thuộc thế hệ tôi cảm giác đi qua ‘vùng kinh tế mới’ ba mươi năm trước. Ngóc nhìn lên hai bờ kênh, nhiều đoạn chỉ thấy lau sậy xanh rì, bông trắng phất phơ. Thỉnh thoảng trước một ngôi nhà xộc xệch có mảnh vườn rau nhỏ, dây lang dây bí bò lan man. Hiếm có cây ăn trái. Những thứ cây mọc lơ thơ quanh nhà hay dọc bờ kênh, tôi không biết tên, ít gặp ở miền Đông. Đất trũng, nhiễm phèn nặng, chỉ mọc các cây mắm, giá, không có giá trị kinh tế, xứ này ngày xưa còn nhờ cá và rừng, khai thác cạn kiệt, lần hồi tàn mạt.
Sơn Nam chỉ vào ngọn rạch mịt mùng nói:
“Quê nội trong đó”.
“Có muốn ghé qua nhà không?”
“Không có tiền về làm gì?”.
Thiệt là đứt ruột!
Còn mẫu thân thì sao? Hãy nghe:
“Khi mẹ qua đời, Sơn Nam hay tin, về đến Rạch Giá, ngồi tàu đò về quê chịu tang. Tàu chạy chừng mười mấy cây số, một người ngủ nãy giờ ở đằng sau tàu chợt thức dậy nhìn thấy ông, bèn chen chân qua đám đông hành khách, tới đứng trước mặt ông. Ông thấy quen quen, hỏi: “Ai vậy?”
Người đó không xưng tên, mà đưa tay vạch túi áo trái của ông ra, nhìn vào không thấy tiền bạc, vạch tiếp túi áo phải, cũng không có tiền.
Sơn Nam hỏi lại: “Ai vậy?”
Người đó vẫn không nói, lục tiếp hai túi dưới của cái áo ký giả Sơn Nam đang mặc, mò luôn hai túi quần tây, rồi nói:
“Người ở Sài Gòn gì mà mặc đồ sáu bảy túi, hổng có đồng xu nào”.
Sơn Nam ngồi trân người hỏi lại nữa:“Ai vậy?”
Người đó mới nói: “Tôi là người vừa chôn Má anh. Bà mất cách đây một tuần ở tại nhà tôi”.
Người này em cô cậu của Sơn Nam, thứ tư.
***
Cách đây không lâu, Đào Thúy Hàng, con gái lớn của nhà văn Sơn Nam đã nói với tui: “Ba tui khuyên tui đừng theo nghề viết văn! Nghèo lắm!”
Ông Sơn Nam, hình như cả đời, chỉ làm có một việc là: “Nói trúng không hè!”
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
___________________________________

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No!
Mỗi người Việt Nam mình là một nhà thơ! Nhưng không phải chỉ mấy anh mới biết làm thơ thôi đâu nhe. Mấy em cũng biết làm thơ và làm thơ rất tới!
“Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No. Anh có thương em thì mua một chiếc đò. Ðể em đi lại mua cò gởi thơ” là của mấy em đó thôi!
Ðêm cuối năm sầu lưu lạc! Nhớ quê nhà quá đỗi, tui bèn tẩn mẩn đem câu hát ru nầy ra chẻ nhỏ gặm chơi. Tui săm soi từng chữ coi có bớt được chút nào nỗi buồn xa xứ hay không?
Trường Ðại học Văn Khoa, môn ‘Ca dao Giảng luận’ Thầy tui, ngày cũ, cho rằng: Thơ truyền khẩu của ông bà mình là Ca dao, (từ Hán Việt). Ca có chương khúc, có vần, có điệu để hát và tấu (đàn hòa theo). Dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.
Nhưng tui hổng có chịu cách cắt nghĩa tréo ngoe như vậy! Vì tui cho đây là lời hát ru của ông bà mình vốn làm ruộng mà đâu có học chữ Hán, chữ Tàu; nên không cần viết theo thể phú, thể tỉ, thể hứng gì ráo của mấy ông Tàu.
Lời hát ru đa phần là buồn quá mạng, tất phải có vần có điệu cho nó mùi, cho nó dễ nhớ, dễ thuộc. Câu lúc dài, lúc ngắn. Gieo vần có lúc ở giữa (yêu vận) có lúc ở cuối câu (cước vận); rồi vần với chữ tiếp theo sau là liên vận lên trầm, xuống bổng.
Nhưng tui hổng dám cãi; vì sợ thầy ‘quạu’ đeo cho bài thi của tui hai cái hột vịt!
***
1. Cái Răng
"Chợ Cái Răng xứ hào hoa.
Phố lầu hai dãy xinh đà quá xinh.
Có trường hát cất rộng thinh.
Ðể khi hứng cảnh thích tình xướng ca!”
Cái Răng là cái Cà ràng. Người Thổ (Khmer) ở miệt Xà Tón (Tri Tôn, Châu Ðốc) nơi có đất sét tốt, làm cà ràng, nồi, ơ, trách, chất đầy một ghe, chở xuống vùng đất nầy bỏ sỉ cho vựa nó bán. Năm dài chày tháng, cái vùng đất chuyên bán mấy cái ‘cà ràng’ nầy được gọi là Chợ Cái Răng.
Cà ràng hình số 8. Một đầu vách lú lên cao, chắn gió, để lửa không tạt ra ngoài để cơm mau chín, canh mau sôi. Tới cái eo thắt lại đủ chỗ đút vô vài ba cây củi. Xong lại phình ra chang bang, đối xứng với cái đầu trên. Trước khi lấy lá dừa khô nhúm lửa, mình cào tro còn sót lại ở trên đầu cà ràng xuống; không cho tro rớt ra ngoài.
Nhớ hồi Má tui đi coi vợ cho tui, vô nhà người ta mà Má cứ xăm xăm xuống bếp làm như ở nhà mình vậy. Tui hỏi: “Chi vậy Má?” “Thì tao coi cái bếp có sạch hông mới cưới nó cho mầy. Chớ cái bếp mà bung thùa cắt cái, mầy cưới về thì con vợ mầy chỉ biết nấu nước sôi”.
Má tui thiệt là bà già Trầu mà. Nếu em yêu hổng biết nấu cơm canh gì ráo thì tui đi ăn tiệm còn ngon hơn nữa, có sao đâu nè?
2. Ba Láng
Láng là vùng đất thấp. Mùa khô láng đầy bùn nhão nhẹt khó đi. Mùa nước nổi, láng nước tràn linh láng; xuồng ghe phải vẹt bèo mà đi. Dân cư thưa thớt; chỉ muỗi, đỉa, vắt thì nhiều. Một Láng đã khổ như vậy thì Ba Láng ắt phải khổ gấp ba.
3. Vàm Xáng
Còn cái Vàm Xáng là ngã ba sông, nơi thằng Tây nó đem xáng vào để đào kinh: Một là dẫn nước ngọt từ sông Hậu vô để rửa phèn cho dân làm ruộng, lập vườn. Hai là đem phù sa sông Hậu bồi đắp cho những vùng đất trũng. Ba là tiện bề đi lại bằng đường thủy. Bốn là chợ búa sẽ mọc lên, buôn bán ì xèo, kinh tế phát triển.
"Kinh Xáng mới đào, Tàu Tây mới chạy.
Thương thì thương đại, Bớ điệu chung tình!
Con nhạn bay cao khó bắn, Con cá lội dưới ao quỳnh khó câu!"
Xáng chạy bằng hơi nước thoát ra từ nồi ‘súp de’, chụm bằng củi tràm, củi đước sắp sẵn dọc trên bờ nơi xáng đào sắp tới.
Xáng là con quái vật khổng lồ, máy nổ ầm ầm vang xa năm ba cây số. Xáng mạnh tới 350 mã lực với gàu bằng sắt, múc sâu tới 9 thước, được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét.
Mấy thằng Tây làm cai, đứng cao trên xáng, hò hét chỉ huy đám ‘cu li’ người Việt. Trong số ‘cu li’ đó cũng có nhà thơ đã đặt ra câu hát ru truyền khẩu buồn nẫu ruột gan là:
“Ðèn treo dưới Xáng tỏ rạng bờ kinh. Em có thương anh thì nói cho thiệt tình. Ðừng để anh lên xuống một mình bơ vơ”
4. Xà No
Vùng đất tên Xà No (Srok Snor) vì có nhiều cây điên điển. Ðất rộng người thưa, hoang vu chưa có chủ, nên hai thằng Tây Duval và Guéry xin chánh quyền thực dân Pháp cho đào con kinh Xà No. Toàn quyền Lanessan (1891 1894) cho đấu thầu ở Paris năm 1893.
Năm 1901 bắt đầu đào kinh Xà No tới tháng 7, năm 1903 là xong. Quân nhạc từ Sài Gòn xuống thổi kèn đồng tò le, tí le. Cả bọn gồm Toàn quyền Paul Beau (1902 1918), đám quan chức địa phương, thân hào nhân sĩ có máu mặt xúm nhau ăn nhậu, khui sâm banh lốp bốp; lại có cả nhảy đầm.
***
Con kinh mới cắm “bông tiêu”, xáng chưa nổ máy… chưa đào mà Toàn quyền Paul Doumer (1897 1902) đã ký nghị định số 338 ngày 14, tháng Hai, năm 1901 cho không hai thằng Tây Duval và Guéry 2,500 mẫu đất tốt hạng nhất (tọa lạc tại làng Nhơn Nghĩa, tổng Ðịnh Bảo, tỉnh Cần Thơ)
Ðiền Tây mướn bọn cựu lính Pháp có súng ống hẳn hòi làm cai điền. Tá điền nào bê trễ việc đong lúa ruộng, hoặc lén lút bắt trộm cá, tôm; ít thì bị bạt tai, đá đít. Nhiều thì giải lên Nhà việc đóng trăn rồi ra hầu Tòa.
Những người nông dân đó đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mà vẫn bị mạt hạng cùng đinh có câu hát ru buồn rười rượi:
“Phải chi tôi ở nhà gạch nhà lầu,
Mỗi năm xâu thuế hai đầu cũng cam!
Phải chi tôi làm chú lái, ông bang;
Mỗi đêm ra dỏ canh làng cũng ưng!
Tôi nghèo cháy nóp chai lưng…
Úy trời đất ơi! Sao không để tôi đi làm thuê làm mướn? Ðặng sống cầm chừng với vợ con!”
Rồi những người Việt theo bợ đít Tây như Tổng đốc Phương được 2,223 mẫu, thuộc các làng Hỏa Lựu, Hòa Hưng, Vĩnh Hòa Hưng.
Còn bọn hương chức hội tề chạy chọt, đút lót cho Tây thì giành đất mặt tiền, “đất mứt”, (sát bờ kinh) lấn bà con dân ngu khu đen vào tuốt bưng biền.
***
Xưa giờ nơi nào có hơi tiền là có Chú Ba tới hè. Nhiều nhà máy xay lúa, chành lúa mọc lên. Ghe chài từ Chợ Lớn kéo xuống ăn lúa, đậu đầy nghẹt cả một khúc sông. Chợ được chánh quyền sở tại cất lên để thâu huê chi, buôn bán ì xèo.
Lỡ một cục đất chọi chim cũng không có… thì đành:
“Ngồi trên mui ghe chài lớn.
Cầm lái về kinh xáng Thới Lai.
Nhìn thấy khói đốt đồng mù mịt lên khơi.
Bây giờ anh mới biết chán đời đi ghe”.
Mà sao ông anh chán đời đi ghe đến vậy? Chẳng qua là trên ghe rày đây mai đó. Nếu có vợ rồi cũng đâu được đem theo, trừ con vợ của thằng Chủ ghe chài cho theo để nấu ăn cho cả bọn.
Nếu còn cu ki, chưa có em nào, là thôi rồi Lượm ơi! Ðành: “U Minh, Rạch Giá thị (thiệt) quá sơn trường! Gió rung bông sậy dạ buồn nhớ em”. Hu hu!
Làm ruộng thì không có đất. Ði ghe thì buồn thiệt! Nhưng thôi đừng có dại dột mà nghe lời soạn giả Ðiêu Huyền xúi bậy đi theo VC như nhân vật Thừa trong tuồng ‘Tiếng Hò Sông Hậu’ nhe mấy cha!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Tranh Bảo Huân.
_____________________________________

NHỚ MÃI NỤ CƯỜI DUYÊN
Ronald Wilson Reagan chào đời tại thành phố Tampico, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ vào ngày mùng 6, tháng Hai, năm 1911.
Ông tốt nghiệp Cử nhân về Kinh tế và Xã hội học tại Ðại học Eureka.
Năm 1937, ông đến thành phố Los Angeles, khởi nghiệp bằng tường thuật lại những trận banh bầu dục do các điện tín từ khắp nơi trên nước Mỹ gởi về đài phát thanh. Nhờ có giọng nói khúc chiết, rành mạch và truyền cảm, rất thu hút thính giả nên được trả công 10 đô la cho một trận.
Chỉ là những bản tin ngắn mà ông vẽ ra trong đầu cả một trận đấu hấp dẫn, nên sau nầy cũng dựa vào một câu nói của người khác, qua đầu óc hài hước thiên phú, một cách đầy nghệ thuật, ông nâng câu nói đó lên một tầm cao mới.
Chẳng hạn khi một viên đạn do một kẻ tâm thần bắn ra va vào thành xe limousine đổi hướng ghim vào phổi của ông, khi được đưa vào bệnh viện để trấn an Nancy, vợ mình, ông nói: “Em yêu! Hồi nãy, anh quên thụp xuống né!”
Lần mò qua lãnh vực phim ảnh, Reagan dự kỳ tuyển tài tử và được công ty điện ảnh Warner Brothers ký hợp đồng 7 năm.
Tuy nhiên những phim có ông tham gia, ngân sách làm phim rất ít.
Sau nầy, ông nói đùa là: “Ðạo diễn không cần làm phim hay mà chỉ muốn quay sao cho kịp vào ngày Thứ Năm mà thôi!” (Ðể kịp chiếu vào tối Thứ Sáu, cuối tuần).
Tuy nhiên, sự nghiệp diễn xuất cũng đành phải bỏ ngang vì Thế chiến Thứ hai sắp bùng nổ, Reagan gia nhập Không lực của Lục quân Hoa Kỳ với cấp bậc binh nhì. Vì bị cận thị, nên ông chỉ phục vụ trong nước.
Ðến tháng Chạp năm 1945, chấm dứt Ðệ nhị Thế chiến, ông được giải ngũ với cấp bậc Ðại úy.
Tham vọng làm chánh trị đã khiến cuộc sống hôn nhân đầu tiên của ông bị trắc trở. Sau nhiều lần tranh cãi, vợ ông đâm đơn ra tòa đòi ly dị. Bị vợ bỏ, tưởng rằng xui, nhưng ông lại may mắn tìm được tình yêu thứ hai đích thực với Nancy cũng là một tài tử điện ảnh theo ông đến cuối đời.
Có lẽ cũng vì vậy sau nầy làm Tổng thống, ông đã ký một dự luật cho phép ly dị mà không cần chứng minh là phải một bên có lỗi.
Ðây là một sắc luật rất tiến bộ. Còn yêu còn ở. Hết yêu hết ở. Quyền tự do của cá nhân!
Năm 1967, Ronald Reagan được dân chúng tiểu bang California Hoa Kỳ bầu làm Thống đốc thứ 33. Say men chiến thắng, năm 1968, ông bèn ra tranh chức ứng cử viên Tổng thống Mỹ, đại diện đảng Cộng Hòa, nhưng thất bại.
Mãi tới năm 1980, Ronald Reagan, đã 69 tuổi, mới được đảng Cộng Hòa chọn ra tranh cử Tổng thống Mỹ.
Trong chiến dịch tranh cử, óc hài hước thiên phú đã được Ronald Reagan sử dụng như là một tuyệt chiêu vô đối để lên gối, chọc quê đối thủ chánh trị của mình.
Chẳng hạn như ông nói: “Suy trầm kinh tế là khi người láng giềng của bạn bị mất việc; khủng hoảng kinh tế khi chính bạn bị mất việc. Và hồi phục kinh tế chỉ bắt đầu khi Jimmy Carter bị mất việc!”
Quả nhiên Jimmy Carter bị mất việc, Tổng thống Mỹ chỉ một nhiệm kỳ, để Ronald Reagan lập kỷ lục là Tổng thống tân cử già nhứt lịch sử Mỹ. (Kỷ lục Tổng thống già đã bị Donald Trump, 70 tuổi, vượt qua năm rồi)
Khi bị giới truyền thông dè bỉu là già quá thì ông viện dẫn lời của vị Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ rằng: “Thomas Jefferson có lần đã nói với tôi là “Chúng ta không nên phán đoán Tổng thống căn cứ vào tuổi tác; chỉ nên căn cứ vào việc ông ấy làm mà thôi.” Từ khi nghe ông nói như vậy tôi không thèm lo lắng nữa!”.
Rồi trong cuộc tranh luận với Walter Mondale, đảng Dân Chủ, sanh năm 1928, trẻ hơn ông tới 17 tuổi, vào năm 1984, Ronald Reagan cũng đùa là: “Tôi muốn ông biết một điều rằng: Tôi sẽ không đem vấn đề tuổi tác ra để tìm lợi thế trong chiến dịch tranh cử. Tôi sẽ loại trừ cái ích lợi về chánh trị khi coi tuổi trẻ của đối thủ tôi là thiếu kinh nghiệm!”
Cử tọa cười hí hí vỗ tay! Ngạc nhiên thay, Walter Mondale cười he he và cũng vỗ tay.
Vì câu nói châm biếm nầy hay quá xá! Biến cái điểm yếu về tuổi tác già nua của mình bằng cách nhấn mạnh vào kinh nghiệm, khi so với cái trẻ trung, một ưu điểm rõ ràng của đối thủ chánh trị!
Dù nói đùa, nhưng không rẻ tiền như diễn xuất giả gái, ngạo người tàn tật hay người đồng tính, hoặc nhăn mày, nhíu mặt, cà lăm, làm mắt lé để thọc léc thiên hạ.
So với những ‘comedians’ nổi tiếng khác, phải công nhận Ronald Reagan võ công thâm hậu, bậc thượng thừa.
Reagan từng nói: “Tôi giành được biệt danh nhà truyền đạt vĩ đại. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghĩ rằng kiểu cách của tôi đã tạo nên sự khác biệt mà chính là phần nội dung; tôi đã truyền đạt những điều vĩ đại.”
Tuổi tác và giọng nói nhẹ nhàng, nụ cười mỉm của Ronald Reagan đã tạo được một hình ảnh nồng ấm, giống như một vị cha già đối với người dân Mỹ.
Khi bàn về cái nghề chánh trị mà mình đang đeo đuổi mê say để đến nỗi bị vợ tẩy chay, vợ bỏ, ông cho rằng:
“Làm chánh trị không phải là một nghề lúc nào cũng tệ hại hết đâu! Nếu thành công sẽ có nhiều phần thưởng; còn nếu thất bại, bị công chúng ruồng bỏ thì mình cũng còn có thể viết sách được mà!”
Rồi khi nghe tin Clint Eastwood, một tài tử cũng tham gia vào chánh trường bằng cách ra tranh cử chức thị trưởng, giống như con đường mình đã đi qua, Reagan tự hỏi:
“Cái gì đã xui khiến ông ấy, một tài tử đóng phim ở tuổi trung niên, người từng có kinh nghiệm chơi đùa với những ‘con khỉ dã nhân’, lại nghĩ mình có kinh nghiệm để thành công trong nghề làm chánh trị?!”
Con khỉ dã nhân ở đây Ronald Reagan ám chỉ những đối thủ chánh trị của ông. Lỡ họ có nghe, tức ói máu nhưng chỉ biết cười hè hè chớ chẳng làm được gì nhau!
Rồi ông chọc quê các chánh trị gia là: “Tôi vừa mới học được một điều luật quan trọng nhứt trong nghề làm chánh trị là phải có tư thế đĩnh đạc, đàng hoàng; nghĩa là hãy làm mình trông giống như một con cú mèo (nghĩa là rất khôn ngoan) sau khi đã hành xử như một con lừa (nghĩa là ngu hết biết).”
Ðối với Mỹ, con lừa (donkey) thường coi là ngu. Nhưng con lừa cũng tượng trưng cho đảng Dân Chủ Mỹ, đối thủ đảng Cộng Hòa.
Khi bị thiên hạ chơi xỏ đem con lừa đến tặng, Ronald Reagan đã nhã nhặn:“Tôi từ chối nhận vì không thể sử dụng được con lừa theo ý của mình. Vì tôi đã có hàng trăm con lừa trên Capitol Hill.” (Capitol Hill, Quốc Hội Hoa Kỳ)
Cái hay, cái duyên ngầm của Ronald Reagan là qua những lời châm biếm đối thủ thâm trầm nhưng không làm họ bẽ mặt.
Ronald Reagan tự trào, đem mình ra làm trò cười, nhưng người nghe biết ông cười thiên hạ. Chẳng hạn để phê phán mấy đứa học hành chẳng ra làm sao, dở ẹc, thì ông nói rằng:
“Rất có lợi khi được dân bầu làm Tổng thống Mỹ. Một ngày sau khi tôi được dân bầu thì học bạ thời trung học của tôi được xếp vào tài liệu tối mật.”
“Làm việc một cách siêng năng cần mẫn không giết chết một ai. Nhưng tui cũng phát hiện ra rằng: Tại sao mình lại liều lĩnh thử coi có phải đúng vậy hay không!”
Hay: “Trưa tôi không bao giờ uống cà phê; vì nó sẽ làm tôi mất ngủ suốt cả buổi chiều. Tôi đã ra lịnh cho cố vấn đừng đánh thức tôi dậy, ngay cả lúc đang họp nội các; chỉ trừ trường hợp đất nước chúng ta đang lâm vào tình trạng khẩn cấp mà thôi!”
Ronald Reagan biết người dân Mỹ yêu mình. Khi bịnh lú lẫn, tế bào não bị hủy hoại, ông không còn nhớ một ai, trừ Nancy, người vợ yêu dấu của ông.
Ông tránh xuất hiện trước công chúng, để người dân Mỹ vẫn còn giữ hình ảnh đẹp về ông.
Ông từ giã quốc dân bằng những lời lẽ cảm động: “Tôi đang đi vào hoàng hôn của cuộc đời. Nhưng nước Mỹ đang đi về phía bình minh.”
Ronald Reagan qua đời ngày mùng 5, tháng Sáu năm 2004, vì bị sưng phổi, thọ 93 tuổi. Nhưng Ronald Reagan vẫn còn sống mãi trong lòng dân Mỹ với những nụ cười ‘duyên’.
đoàn xuân thu
Melbourne

Hồn cố thổ!
Tết nào cũng vậy, tệ nạn cờ bạc nó rộ lên như nấm mối gặp mưa. Sòng bầu cua, sòng tài xỉu ngoài xóm. Đang ăn, nhà cái chưa kịp chung tiền, ai đó hô ‘lính tới’ cả bọn chạy thục mạng. Sau mới biết tụi nó chơi đểu, ăn vùa thua giựt. Thiệt là tức trào máu họng.
Còn bài xấu, cái đầu sù sụ con mắt trỏm lơ, mình đi phất phơ như con chó đói. Do đó lỡ binh xập xám, ba phé ba nơi hoài, đầu hôm xao xác bạc tốt như tiên, đến khuya không tiền bạc như chim cú.
Theo tui thì Tết đừng đánh bài là hay hơn hết. Lỡ mình ăn mình vui; thì người thua cũng bà con lối xóm không hè, họ buồn… Mà Tết nhứt mà làm thiên hạ buồn thì lương tâm mình cũng kẹt… ‘phé’.
Cờ bạc là chuyện không nên chơi; thôi mình nói đến chuyện ăn Tết cho nó no, nó vui hơn.
Tết là mứt bí, mứt dừa, mứt me, mứt mãng cầu, mứt gừng, kẹo chuối, chuối khô, …để quý bà uống trà rồi đàm đạo trong những ngày xuân.
Quý anh sui thì đem cái nhạo rượu nếp rót vô ly hột mít, sùi bọt tăm, thơm lừng mùi nếp; gắp miếng củ kiệu tôm khô, đưa vô mồm nhai ngồm ngoàm, xong khà một tiếng.
Đó là sui gia đến nhà nhau chúc tết, nhâu chơi chút đỉnh để giao tình thương mến thương…Sương sương rồi dông qua chúc Tết bà con lối xóm, đủ mặt văn võ bá quan không sót đứa nào, kẻo nó vạc miểng chén, miểng sành, rủa sả: “Giàu hổng bao nhiêu mà làm bày đặt làm phách!”
Cái vụ đi xông đất nầy tui hổng ham rồi vì rất ngại chủ nhà tin dị đoan, kiêng cử cái nầy cái nọ. Anh Phát, Chú Tài mới đặng. Chớ anh Tài đang ngồi với lai rai với chủ mà ỷ mình tên “Quan’ (chớ không phải lính) lọ mọ bước vào thì bà chủ nhà sẽ lấy cái chỗi chà để mà rượt ‘Quan Tài’ đầu năm chạy xịt khói.
Tên Quan cứ ở nhà làm ‘quan’, nhậu với em yêu là ‘phẻ’ nhứt hạng. Ôi thôi lủ khủ, hầm bà lằng, bao nhiêu món ngon ngày Tết sợ ăn tới ra Giêng còn chưa hết.
Món ăn ngày Tết của bà con mình ba miền Bắc, Trung, Nam coi vậy cũng khá khác nhau. Tết thay vì ăn cơm thì người Bắc ăn xôi gấc có màu đỏ cho nó hên. (Rồi có câu ‘đen bạc đỏ tình’. Quánh bài thua là dê được gái. Cái nầy coi bộ khó tin nhe. Thua sạch bóc, không còn một xu dính túi, áo vũ cơ hàn, lại thả dê ra, tui e rằng em nào cũng bĩu môi chê hết ráo.)
Nói chuyện phong tục ngày Tết mấy nhà văn, biên khảo quê mình ‘phét’ nghe rất ‘bốc’. Chẳng hạn như trên bàn thờ, cúng trái cây phải có trái dừa, trái đu đủ, trái mảng cầu và trái xoài thì quý thức giả nầy phán rằng: “Sỡ dĩ có 4 loại trái nầy là vì bà con miệt Lục tỉnh quê mình tin dị đoan chưng trái cây cúng ông bà tiên tổ với lời ước nguyện là năm mới ‘cầu vừa đủ xài’. (Phải vậy hông?)
Chớ theo ngu ý của tui, Tết tới, mùa trái cây đang chín rộ, thơm ngon thì mình cúng ông bà trước để nhớ ơn người xưa đi mở đất, xong người nay rinh xuống ăn, đâu còn y nguyên đấy chớ ông bà vốn thảo ăn chỉ hưởng cái hương hoa thôi.
Rồi các bực thứ giả nầy tán hưu tán vượn, nói bà con mình tin dị đoan vì chịu ảnh hưởng của mấy chú Ba trong quận Năm, Chợ Lớn.
Tết, chú Ba người Quảng Đông, ăn tôm vì tôm là ‘há’, đồng âm với “hí há tài xiu”, là cười to ha hả trong nhà suốt tháng quanh năm.
Rồi ăn thịt heo, tức là ‘trư’, đồng âm với ‘châu’, ý là “châu long nhập thủy’, châu báu tràn vào nhà như nước. Rồi ăn cải xà lách là ‘phát soi’, đồng âm với ‘phát tài’.
Còn chú Ba, người Triều Châu, ăn bánh tổ là ‘niên cao’, mang ý nghĩa là ước mong cho năm mới, gia chủ được may mắn, phát tài, năm mới sẽ tốt hơn năm cũ.
Rồi chè ‘ỉ’ là viên nếp nhỏ, tròn, không nhưn, được nấu chung với nước đường và gừng, khi ăn rắc thêm muối mè. “Ỉ” nghĩa là “viên”, “tròn”. Ăn chè ‘ỉ’ với mong muốn gia đình sẽ luôn được đoàn viên. (Phải vậy hông?)
***
Cứ mỗi độ xuân về, miền Bắc hoa đào nở rộ, miền Nam mai vàng đua sắc thắm nên có bực thức giả phán như thánh rằng: “Chưng mai vàng vào dịp Tết vì sẽ đem đến may mắn”. (Phải vậy hông?)
Có ông còn đi xa hơn (tui e rằng ổng đi lạc) cắt nghĩa trong mâm cơm ngày Tết của dân Lục tỉnh Nam kỳ bao giờ cũng có canh khổ qua dồn thịt, vì ăn khổ qua là mong muốn cái khổ sẽ qua đi.
Dân vưỡn, miệt vườn như tui, gọi khổ qua là ‘hủ qua’, không có sướng khổ gì ở đây hết ráo, (người Bắc gọi là mướp đắng cũng nó đó). Hổng lẽ ăn mướp đắng dồn thịt heo bằm nhuyễn với bún tàu, nấm mèo thì mong đời mình sẽ đắng nghét như trái mướp đắng hay sao?
Ca dao cũng có câu: “Đói lòng ăn trái khổ qua. Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.”
Khổ qua, ăn sống, nó đắng nghét như thuốc Tetracycline; nhưng dưới tài nghệ ‘cook, cook’ của em yêu, trái khổ qua bào mỏng, bóp muối cho bớt đắng, làm gỏi thịt bò cho chàng ăn và uống với beer. Quá đã!
Phần đói ăn rau đau uống thuốc nên mấy ông thầy thuốc Nam có cắt nghĩa vầy thuyết phục được tui nè: Trái khổ qua ăn mát, giải nhiệt trong cái nóng ẩm ngày tết miền Nam, loại cholesterol (mỡ xấu trong máu), ăn với thịt kho hột vịt không bao giờ ngán ngược.
Tui cho rằng bà con mình ăn Tết món gì là theo kinh nghiệm mấy ngàn năm ăn uống của ông bà mình truyền lại. Nên nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cái định đề về nghệ thuật ăn là mùa nào thức nấy, trong bài Cảnh Nhàn “…Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…”
Em yêu đã chỉ dạy tui một cách có lý rằng: ăn Tết không dị đoan gì hết ráo. Đừng nghe những nhà văn, nhà báo tán láo. Một mâm cơm ngày Tết ngon là phải có cay, chua, ngọt, bùi, đắng mới làm đã cái lưỡi của mình.
Nhà nào Tết cũng có nồi thịt kho hột vịt sắc cầm hòa hiệp với tô canh khổ qua hầm. Món mặn và món canh nầy nầy nó hợp rơ hết biết, như tình anh với em, chớ không phải ăn khổ qua để cầu mong cái khổ nó qua đâu (?!)
Nhắc tới món thịt kho, không cần tới Tết mới ăn mà giỗ chạp hay ngay cả ngày thường cũng có. Em nào trước khi về nâng khăn ‘móc túi’ anh yêu cũng được má dạy cho cách kho thịt nên rành sáu câu vọng cổ.
Thịt heo tươi, mua về rửa sạch bằng nước muối, cắt miếng vừa ăn có đầy đủ da, thịt và một lớp mở mỏng ở giữa. Ướp với nước mắm nhỉ, đường, bột ngọt, tỏi băm…Thêm một ít ớt sừng trâu chín đỏ. Hột vịt to đùng, lòng đỏ mới nhiều, luộc xong, lột vỏ. Nồi thịt màu cánh kiến, ớt đỏ sừng trâu, chén cơm trắng, dĩa cũ kiệu hay cãi làm dưa. Bảo đảm ăn hết nồi thịt kho, cây kim trên cái cân sẽ vụt cái rét, gãy làm hai vì cái thân bồ tượng của mình sau ba bữa Tết, nếu mình không ăn canh khổ qua để nó làm tan bớt mỡ.
***
Lại nhớ khoảng năm 65, 66 gì đó, thế kỷ trước, hồi tui nhỏ chút éc hè, Má tui kho nồi thịt không phải với hột vịt mà là trứng cút để giúp đồng bào mình qua cơn hoạn nạn.
Chẳng qua dân nghèo thành thị Sài Gòn bị lọt vào bẩy của mấy tay trùm tài phiệt Chợ Lớn cấu kết cùng bè đảng tuốt bên Hương Cảng để xí gạt dân mình. Đó là phong trào nuôi chim cút.
Cái mồi câu bằng cách mướn báo chí rầm rộ đăng tin trứng cút lên giá hàng ngày còn mắc hơn trứng gà, trứng vịt. Có bao nhiêu ‘bao tiêu’ hết bấy nhiêu nên đừng có lo nhe. Cứ mua cút giống về nuôi đi. Cút giống chừng hai tháng là bắt đầu đẻ ngày một trứng, kéo dài đến 9 tháng.
Sau hết đẻ trứng, cút đem ra bán thịt. Rồi lại mua cút giống về gầy đàn mới.
Trứng cút đem bán cho ông chủ tiệm chạp phô người Tàu, cười hè hè nói trứng cút bán chạy lắm, có bao nhiêu nị mang đến đây ngộ bao hết cho.
Trứng cút ăn với muối tiêu như trứng hột vịt lộn đều bổ, cường dương (chắc như viên màu xanh huyền diệu ‘Viagra’ bây giờ vậy). Thịt cút rô ti, chiên bơ lót dưới dĩa là cà tô mát đỏ xắt lát với cải xà lách, cút chấm muối tiêu nhậu với beer 33 là một trăm em ơi chiều nay một trăm phần trăm.
Cái thủ đoạn tinh vi, thâm độc nầy bơm giá chim cút giống phình từng ngày một. Cút giống từ 5,000 đồng một cặp cút giống bằng gần 20 đô la bấy giờ, tăng lên gấp đôi 10 ngàn, rồi tăng lên gấp 15 ngàn đồng một cặp.
Người dân Sài Gòn thuở ấy, cũng có mấy chú Ba nghèo nhưng lương thiện nhắm mắt, nhắm mũi có bao nhiêu tiền để dành, cũng xuất ra mua cút giống về nuôi.
Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân nghèo, bọn đầu cơ Chợ Lớn cùng đám đại xì thẩu Hong Kong dông mất. Trứng cút, thịt cút ê hề, ế nhệ rớt giá từng ngày nhưng vẫn ít người mua vì dội chợ.
Bà con mình ngơ ngác hổng biết đứa nào cầm đầu mà chơi quá ác, không để đức gì lại cho con cháu hết trơn?
Thôi thì bị xí gạt, bà con mình xúm lại giúp đỡ nhau qua cơn hoạn nạn. Trứng cút được làm nhân bánh bao, thay trứng vịt như bánh bao bà Cả Cần chẳng hạn.
Còn đứa nào làm ác, gạt tiền mồ hôi nước mắt của dân nghèo thì để bà bắt nó.
***
Mấy chú Ba Chợ Lớn, dân buôn bán, thường dán câu đối liễn giấy đỏ chữ vàng như: ‘Tân xuân đại cát. Nhất bổn vạn lợi’. Một đồng vốn bỏ ra mà kiếm được tới 10 ngàn đồng lời thì nằm mơ cũng không có. Nếu có, chỉ bằng cách đầu cơ như phong trào nuôi chim cút. Nhưng làm ăn như vậy thất đức lắm nhe.
Cuối năm, quê người, em yêu cũng nấu canh khổ qua rồi kho một nồi thịt bự ế kinh, nhưng tui thấy vẫn còn thiêu thiếu. Ước chi có được một nồi thịt kho hột vịt do Má tui nấu như ngày xưa cũ mang cái hồn cổ thổ cho tui lúc sống xa quê.
Đoàn Xuân Thu
Melbourne.
____________________________
Tiếng đờn cò cho người tình phụ!
Từ lúc em xa anh, đâm thương tiếng đờn cò,
những giai điệu khóc than đời mất mát;
những giai điệu khiến lòng em tan tác,
khi nhớ về một thuở lỡ yêu anh!
Khi Má đau rồi mất, anh đang học SàiGòn,
em chạy ra Bưu Điện “Anh về gấp chịu tang!”.
Về Mỹ Tho, theo anh là một người congái,
sánh vai trước linh sàng, quỳ chịu lễ phát tang.
Anh đã phụ em rồi, người con gái Mỹ Tho,
hiền như bông Sen trắng, không sắc sảo, nồng nàn,
như Hồng, Cúc của anh.
Em chỉ biết yêu anh, dịu dàng chăm sóc Má,
dẫu áo cưới chưa lần em được mặc;
chưa lần nào được Má gọi là dâu!
Nhưng thề hẹn, anh yêu, sao không nhớ?
Để bây giờ lẳng lặng phụ tình em?
Hàng nến đỏ rưng rưng màu mắt đỏ,
tiếng đàn cò làm tan tác lòng nhau !
tiếng đàn cò bi thảm, kinh kệ khóc chia xa,
anh gục đầu… khóc Má; em cúi mặt… tình ta !
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Mùa Giáng Sinh vui!
Hồi xưa, quê mình tựu trường vào tháng Chín, học riết tới tháng Sáu mới bãi trường, nghỉ ‘hè’ (tức ra hè mà nghỉ). Còn Úc tựu trường vào cuối tháng Giêng; bãi trường vào cuối tháng Chạp, cũng là nghỉ ‘hè’, ra biển chọc cá mập cho nó ‘phập’.
Niên học chia ra làm 4 học kỳ; cứ học 9, 10 hoặc 11 tuần là nghỉ xả hơi hai tuần, ở nhà ‘quậy’. Cuối học kỳ 4, nghỉ lâu nhứt tới 5 tuần cả thảy, để học trò ăn lễ Giáng Sinh, Merry Chrisstmas và mừng Năm mới, Happy New Year!
Mùa lễ hội của Mỹ bắt đầu từ lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) tới giao thừa Tây. Còn ở Úc là từ Melbourne Cup (Đua ngựa), thứ Ba đầu tiên, tháng Mười Một tới giao thừa Tây.
***
So lại, Úc ăn rồi chơi nhiều hơn Mỹ. Hổng có gì lạ đâu, thưa bà con, vì Úc nổi tiếng làm biếng nhứt thế giới mà.
Riêng người Việt tỵ nạn mình ở Úc, hổng cần đợi tới cuối năm mới nhậu, cứ cuối tuần là có ‘độ’, tuần nào y như tuần nấy.
Mùa lễ hội, Mít mình thì khoái ăn thịt gà ta; còn Úc khoái ăn thịt gà tây. Nên đám gà ta cà nanh với đám gà tây “Tụi bây chỉ bị ‘xử đẹp’ vào ngày lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh thôi hả? Thiệt là may mắn! Bọn tớ, Chúa nhựt nào cũng đi chầu ông bà ông vải hết trơn hè!”
(Có anh mình hơi bị tự ti mặc cảm nên cảm thán rằng Tây bao giờ cũng hơn Ta. Ngay gà ta cũng thua gà tây nữa!
Nghĩ vậy không hoàn toàn đúng! Đâu phải ta lúc nào cũng thua. Tùy lúc chớ! Như tui nè hồi mới chân ướt chân ráo, bị Úc nó chơi gác, ăn hiếp dài dài từ trong sở ra tới ngoài đời. Nhưng ở đây lâu, mình mọc nanh, đâu có ngán đứa nào. Biết điều, nhậu nhẹt bù khú với nhau; cầm bằng ra vẻ ta đây là ‘Úc rặt’, ngon hơn; thì xin lỗi… nhà ai nấy ở, rượu ai nấy uống; vợ ai nấy ‘cự’ vậy thôi. Làm gì nhau hè?)
***
Nhớ mùa Giáng Sinh năm ngoái, dắt em yêu đi mua sắm ở ‘High Point Shopping Centre’ trong tiếng nhạc rộn ràng Jingle Bells của mùa Giáng Sinh.
Trong siêu thị, có Santa Claus ngồi để bà con mình chụp hình kỷ niệm (có trả tiền, dĩ nhiên). Santa Claus gọi tui bằng ‘bro’ tức ‘brother’ (anh); trong lúc gọi em yêu của tui bằng ‘cháu’. Em yêu khoái qua trời vì nghĩ mình vẫn còn thuở thanh xuân; chẳng qua em mới vừa nhuộm tóc.
Còn tui, giận xanh râu luôn! “Ê! Santa kỳ thị tuổi tác phải không? ‘Boss’ của chú mầy là ai, kêu nó ra đây để tao chính thức ‘còm len’ (than phiền) một chút coi!”
Santa nghe tui hăm như vậy, mặt xanh chành như đít nhái, vì sợ mất ‘job’ nên giả lả là: “Take it easy mate!” (Thôi! Bỏ qua đi Tám!)
***
Tối về, khi em yêu của tui đã ngáy ‘ò ó o’, tui vẫn còn ấm ức, tức, nên sau vài ly rượu đỏ; lên Facebook, tui gọi cho thằng bạn học cũ bên Little Saigon để trút bầu tâm sự. Ai dè nó cũng va vào hoàn cảnh đau đớn hịt như tui.
“Để ăn mừng lễ Giáng Sinh, kiểu Mỹ, bắt chước thần tượng Sở Khanh, mày râu nhẵn nhụi; áo quần bảnh bao, tao bèn đi hớt tóc đầu đinh, xong còn nhuộm đen kịt, không quên xức nước hoa ‘Xà neo’ ba số 5.
Mặc cái quần jean mới nè, có xé te tua ở đầu gối, hết 150 đô, cái áo chim cò mới có chữ ‘Free hugs’ (ôm miễn phí) nè hết 100 đô; đôi giày thể thao Adidas gần 200 đô. Xong dung dăng dung dẻ, dắt trẻ đi chơi, đưa em xuống phố trưa nay đang còn nhức mỏi hai vai.
Sở dĩ đóng bộ đàng hoàng như vậy vì tao muốn ‘xứng’ với em yêu, mái tóc người vợ trẻ, từ Hốc Bà Tó Việt Nam tao khều ra, rồi lãnh qua đây.
Hai đứa ‘tính tình tang’ lang thang vô siêu thị. Em đòi chụp hình Giáng Sinh ở Mỹ để gởi về Tía Má em bên ấy an tâm là em đang sống trong một cuộc đời nhung lụa ở cái xứ tư bản giãy chết nầy.
Ôi muốn là chiều! Dù chụp chỉ mấy tấm hình mà bay hết một ông ‘Benjamin Franklin’. Trong lúc móc chi tới 100 đô, đau quá; thì em yêu lại khoái quá chừng vì được Santa gọi là cháu; còn hỏi em có muốn ngồi lên đùi nó để chụp hình kỷ niệm hay không?
Tao trừng mắt nhìn, em cụp xuống, hổng dám ho he gì ráo; xong tao chuyển đôi mắt hình viên đạn qua Santa thì bất ngờ thay, ‘giả’ phân bua bằng tiếng Việt: “Con giỡn chút chơi mà ghen tuông gì ông Ngoại?”
Tao ngạc nhiên đến ‘đứng hình’ luôn. Người Việt mình ốm yếu nhỏ con, thì làm sao kiếm được cái ‘job’ mập, làm Santa Claus, cho được chớ?
Santa Claus dê xồm nầy sợ tao ghen, nóng mặt lên là nó mũi ăn trầu cái đầu xỉa thuốc; bèn tìm cách làm tao bớt giận bằng câu chuyện làm quà là:
“Từ hôm Lễ Tạ Ơn là con Mỹ đen, vợ cháu đã tẩm bổ bằng gà lôi đút lò rồi. Ngày nào cũng gà lôi và gà lôi, bụng lồi lên nhưng trái khinh khí cầu. Mà nó cứ dụ: “Honey! Honey! Rán ăn đi, cho mập cho có da, có thịt hai đứa mình giống hịt…mới được! Chớ đứng gần nhau cứ số 1 và số 0 hoài, kỳ quá. Hai nhờ cái thể hình ‘ú nu’ như vậy mới kiếm được ‘job’ mập, làm Santa Claus, thêm chút đỉnh tiền để bánh mì bơ cho bầy con lủ khủ, ăn như xáng xúc! Vợ chồng dẫu cày sâu cuôc bẩm suốt năm chỉ đủ cái bỏ vào mồm. Phép thường niên 4 tuần, năm, honey cứ tụ bè tụ đảng ăn nhậu hoài thì trước sau gì nhà nầy cũng thành ‘homeless’!”
Nhưng công bằng mà nói: tay Santa Claus gốc Mít nầy nhận xét cũng hổng có trật! Hai đứa mình giờ cũng già rồi. (Giống như cây thông Giáng Sinh, chủ yếu để trưng bày, trang trí coi chơi; chớ đâu còn làm ăn gì được nữa?)
***
Mít dê Mít là chuyện thường tình! Úc cũng hay dê sảng con gái Việt Nam mình lắm. Vì mấy em, mình hạc xương mai, dáng đi uyển chuyển như ‘Thanh Tuyền’ và giọng nói ngọt ngào như ‘Đan Nguyên’ vậy. Còn con vợ Úc của nó, chụp hình Giáng Sinh hồi năm ngoái về nhà in ra để lộng kiếng (liệng cống) mà giờ vẫn chưa xong.
Mới đây nè bên Mỹ, có một em nặng tới 300 pounds vô ý đè chết ông chồng đó. Tay bạn nhậu người Úc nghe tui kể chuyện khó tin nhưng có thiệt nầy xanh mặt mày hết ráo, run run hỏi: “Hổng biết chừng nào sẽ tới phiên tui?”
Thằng bạn Úc nầy nó tên là ‘Ó zì’ (Ozzie), tui chọc quê gọi nó là “Ó đâm’ (‘đâm’ phiên âm chữ ‘dumb’ nghĩa là ngu).
Qua nước người ta, nhiều phong tục tập quán sở tại, không biết hỏi ai; chi bằng mình hỏi dân thổ địa. Dẫu vậy có nhiều câu tui hỏi nó cũng bí lù hè. (Thiệt là ngu thấy ớn).
“Xứ tao chuông nhà thờ luôn óng ả; còn xứ nầy sao ít nghe tiếng chuông ngân?”
Thì ‘Ó zì’ cắt nghĩa: “Ít thiệt! Nhưng lai rai cũng có! Úc, đất nước tự do, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo: Anh giáo, Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, Tin lành rồi đạo Phật, đạo Hindu, đạo Hồi… và còn nhiều đạo khác
Chuông nhà thờ, giáo đường, đền chùa cũng có luật có lệ. Nước Úc tự do không phải muốn làm gì là làm. Điều căn bản nhứt của quyền tự do là trước hết phải tôn trọng quyền tự do của người khác.
Như Anh giáo tấu nhạc thánh ca trong giáo đường; Phật giáo tụng kinh trong chùa; Hồi giáo trong ‘mosque; chớ không có bắt ‘ô bẹt lưa’ vọng ra ngoài đường như mấy cái xứ Trung Đông.”
Biết vậy, nhưng mỗi mùa Giáng Sinh, tui lại nhớ hoài, nhớ tha thiết tiếng chuông nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, tui cùng em yêu (40 năm tình cũ) tay trong tay tan lễ nửa đêm ngày ấy.
***
Thằng bạn Úc ‘Ó zì’ của tui cũng tin vào Thượng Đế nhưng không ngoan đạo lắm; ít khi đi nhà thờ trừ những ngày lễ lớn.
Năm rồi, Thánh lễ nửa đêm vừa xong, linh mục chánh xứ làm chủ lễ đứng trước cửa, bắt tay giáo dân chúc: “Merry Christmas!” Một mùa Giáng sinh vui!
‘Ó zì’ bước tới; vị linh mục bắt tay nó, rồi kéo sang một bên nói:
“Con phải gia nhập Đạo quân Chúa Cứu Thế nhe!”
“Thưa Cha! Con đã gia nhập rồi đó ạ!”
“Ủa! Sao cha ít gặp con quá! Năm chỉ hai lần, một vào lễ Giáng Sinh; hai là vào lễ Phục Sinh?”
“Thưa Cha chẳng qua trong Đạo quân Chúa Cứu Thế con làm việc cho Sở Mật vụ!”
***
‘Ó zì’ có một đứa con trai tên là “Oi’ năm nay lên 8 tuổi. Sở dĩ đặt tên con là ‘Oi’ vì năm nào tranh giải quần vợt quốc tế mở rộng, vào đầu tháng Hai tại Melbourne nè, Úc thắng được chỉ một cú đánh là cố động viên một đứa xướng lên “Ozzie! Ozzie! Ozzie” Cả khán đài phụ họa hò reo ‘Oi! Oi! Oi” Vui hết biết! (Nếu dịch ra tiếng Việt mình là “Úc! Úc! Úc! Ơi! Ơi! Ơi!” vậy mà).
Một vài ngày trước Lễ Giáng Sinh, vợ vẫn còn đi làm nên ‘Ó zì’ phải lui cui dưới bếp. Thằng ‘Oi’ đang chơi xe lửa chạy bằng pin, (quà Giáng Sinh) trong phòng khách.
Chiếc xe lửa ngừng lại và giọng của ‘Oi’ vang lên:
“Tất cả những thằng ‘quỷ hó’ và những đứa con gái ‘cà chớn lửa’ xuống xe ngay. Đây là trạm cuối cùng.
Hành khách nào còn lại thì dán chặt cái ‘mông’ vào ghế ngồi; vì chiếc xe lửa sẽ xuống dốc để quay đầu trở lại. Nghe rõ không mấy con bò tót ?!”
‘Ó zì’ nghe vậy, giận quá: “Nè không được dùng cái ngôn ngữ đường phố, đá cá lăn dưa chợ Victoria trong nhà nầy. Chú mầy là con nhà gia giáo! Giờ đứng vô góc phòng, hai tiếng đồng hồ để ăn năn tội lỗi của mình. Hết giờ phạt, chú mầy sẽ được tiếp tục chạy xe lửa; nhưng hãy nhớ dùng ngôn ngữ thiệt lịch sư nghe không?”
Hai tiếng sau, hết giờ phạt, ‘Oi’ lại chơi với chiếc xe lửa. Lần nầy thì:
“Hành khách lưu ý! Lưu ý! Quý vị nào xuống xe lửa xin vui lòng nhớ mang theo tất cả các hành lý của mình. Xin cám ơn quý vị đã đáp chuyến xe nầy, Hy vọng đây là một hành trình thú vị. Mong quý khách sẽ tiếp tục đi xe lửa nầy lần tới. Xin đa tạ!
Còn quý vị nào còn ngồi trên xe, xin cảm phiền để hành lý dưới chỗ ngồi của mình và xin nhớ không được hút thuốc trong xe. Mong quý vị đã có một chuyến đi thoải mái và vui vẻ với chúng tôi hôm nay. Xin cám ơn.”
Khi nghe con mình nói vậy, ‘Ó zì’ rất lấy làm hài lòng, bỗng nghe nó nói tiếp: “Còn quý khách nào đã bị trễ hai tiếng đồng hồ; nếu bực bội thì xin than phiền với ‘ông già cà chớn’ đang nấu cơm trong bếp!”
Merry Christmas!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
_________________
Bài thuộc lòng năm cũ!
Tiếng em đọc bài thuộc lòng yêu dấu;
của em, của ta, của thời thơ ấu,
của hạ tàn, bông phượng nở về đâu
mà buổi dạy đầu tiên ta vẫn nhớ!
Bài thuộc lòng em đọc, giọng thiết tha,
qua bao cánh đồng đang thì con gái,
quanh quẩn mãi, vườn dừa xanh trái,
chảy xuôi về trăm nhánh sông xa!
Bài thuộc lòng là tiếng chị ru,
tiếng bìm bịp kêu nước lớn, ròng,
là tiếng thơ ta chiều lá rụng,
em đọc bài trong khói mù u.
Bài thuộc lòng là lời nhắn nhũ:
thương Má em, suốt đời lam lũ,
thương Ba em, dãi nắng dầm sương,
yêu nhà em, vườn sau, sân trước,
yêu con đò, bến nước, quê hương,
Em vào đời, chan chứa yêu thương!
***
Thơ giặc tháp tùng tăng, pháo giặc
chiếm trường ta, đốt sách của ta
tiếng em đọc rơi vào tĩnh lặng
trường em, ta đằng đẵng xót xa.
Bài thuộc lòng theo ta vượt biển,
từ trường xưa, biền biệt tha hương.
Quê người, chiều xám đông ủ rũ
dịu dàng nghe, thương tiếng em thương,
dạy con: bài thuộc lòng năm cũ,
vầng vặc buồn thương, khóc quê hương!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
_________________

Chuyện 1 ngôi trường bị mất tên
Tổ cha nó! Ăn không chừa một thứ gì!
Mấy năm đầu ra hải ngoại bà con mình mạnh ai nấy cày; cày tối tăm mặt mũi để lạc nghiệp, an cư. An cư rồi thì nhớ nhau sao không tìm nhau? Vậy là hội đoàn lập ra như nấm gặp mưa vậy. Trường nào cũng có hội ái hữu hết để bạn bè cùng trường gặp lại, ôn lại thời đi học, cái thời ai cũng cho là đẹp nhứt đời người.
“Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ. Nhiều nét đổi thay tường mái rêu mờ” “…Thầy đó trường đây bạn hữu đâu rồi? Bao nhiêu kỷ niệm hoa bướm ngày thơ/ Vang trong nỗi niềm nhung nhớ. Có ai đi thương về trường xưa?”
Giờ thì mình không về trường xưa được thì mình gặp lại bạn xưa cho đỡ ghiền vậy mà.
Hằng năm, trường nào cũng có tổ chức luân phiên Đại hội toàn thế giới mà học sinh cũ về đôi khi phải bay cả hàng chục ngàn cây số, đi Mỹ, đi Úc, đi Canada gặp nhau dù chỉ vài bữa cuối tuần cho thỏa cái lòng mong nhớ. Đó là cái truyền thống hay đấy chớ nên khi có trường nào mời dự đại hội là tui, dù không phải là học trò trường đó cũng chịu khó đi cho nó vui.
Người ta nói trẻ sống cho tương lai; già sống về quá khứ! Tui già rồi chỉ còn cái thời quá khứ là vui thì tại sao không?
Kỳ gặp mặt bạn bè đồng môn, đồng song năm cũ, người viết vui mừng vui quá vui khi được thằng bạn học cũ cách đây 53 năm, từ Wellington, Tân Tây Lan bay qua thăm. Nó đi du học theo chương trình học bổng Colombo năm 1970. Học xong, tính về, nhưng năm 75, miền Nam mình ‘sập tiệm’ nên nó dông luôn tới tận bây giờ.
Bạn đồng song nhắc tới một Giáo sư Sử Địa, (nghe nói giờ bên Mỹ), khá nghiêm khắc! Sử Địa tuần có hai giờ thôi mà đám học trò tụi tui lúc đó coi nó dài như hai thế kỷ vì cô thường coi đứa nào mặt mày lấm lét, xanh chành như trái chanh… để kêu lên trả bài rồi cho nó hai cái trứng vịt!
Có lần cô kêu một đứa lên trả bài. Thằng nhỏ khớp quá nên cà lăm, ngọng luôn hè: “Lý Thường Kiệt đánh Tống” mà nó dám đọc là: “Lý Thường Kiệt đánh trống”. Làm cả lớp ôm bụng cười: Ha ha! Hi hi! và He he!
*
Nhưng lần nầy, tui đi dự đại hội trường xưa của hội Cựu Học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi nghe chuyện nầy tui cũng buồn biết bao trong tấc dạ!
“Thời Pháp thuộc, Nam Kỳ quê mình là thuộc địa của Tây; trong khi Trung Kỳ và Bắc Kỳ là xứ bảo hộ suốt 61 năm, từ năm 1884 mãi tới năm 1945 mình mới giành được độc lập đó anh!
“Đau đớn thay phận An Nam. Để cho Đại Pháp nó làm thịt dân! Tây thì có thương tưởng gì dân mình! Chỉ muốn bóc lột tài nguyên của xứ mình chở về xứ nó. Sau khi bình định được đất Nam Kỳ để củng cố guồng máy cai trị, Tây cần người bản xứ đi học chút đỉnh để làm việc cho nó. Chớ Tây với chánh sách chia để trị, chánh sách ngu dân nên tới năm 1945 dân Việt mình tới 95% phần trăm là mù chữ đó anh!”
Cả cái Nam Kỳ mênh mông, cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi nầy chỉ có được 3 cái trường Trung học. Hai cái chỉ dạy tới “Đút rơm trâu ăn mê” tức là Diplôme, tức cái bằng Thành Chung là Collège Le Myre de Vilers và Collège de Cantho. Điền chủ giàu muốn con mình học lên nữa tới Baccalauréat Local (Tú tài Bản xứ) là phải lên thi vào Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký ở tận Sài Gòn.
Dẫu trường do Tây cất để phục vụ yêu cầu của thực dân nhưng (dù chúng không muốn) những ngôi trường nầy đã sản sinh ra biết bao nhân tài yêu nước.
Trường College de Cần Thơ sau được đổi tên là Phan Thanh Giản ( vị Tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, một nhà yêu nước xuất chúng) do Tây cất năm 1917! Tới 2017 là đúng một trăm năm! Một thế kỷ! Hiếm và quý!
Vậy mà mấy tay có chức và có quyền ở Cần Thơ (hỏng biết có đứa nào là học trò cũ hay không lại nỡ đang tâm ra lịnh kéo sập xuống, cất lại mới toanh! Chỉ còn giữ cái mặt tiền để làm kiểng.
Nghe thiệt là buồn nhe! Vì những công trình kiến trúc còn xưa hơn trường Phan Thanh Giản như: Nhà Thờ Đức Bà, Bưu Điện Sài Gòn vẫn còn giữ lại được! Ngay cả tuốt ngoài Bắc, trường Ngô Quyền mà tiền thân là trường Bonnal đã 96 tuổi, cất năm 1920, tức ‘ít già’ hơn trường Phan Thanh Giản có 3 tuổi thôi… Xưa học trò 45 đứa hiện giờ tới hơn 1600 đứa vẫn đi học đều đều phẻ re ngày hai buổi đó thôi.
Thì trường Phan Thanh Giản tại sao không?
Trường đâu chỉ là cái vật chất thôi đâu mà còn là cái hồn, cái tinh thần, là tình cảm, là kỷ niệm êm đềm của biết bao lứa học trò năm cũ, thời đi học của Ba tui, Má tui, con cháu tui cũng sẽ tiêu vong.
Cái trường Phan Thanh Giản của tụi tui 100 tuổi; bị ‘hô biến’ thành một tuổi!
Giờ tụi mình chỉ còn biết:“Minh tinh chín chữ lòng son tạc. Trời đất từ rày mặc gió thu!”
***
Mời xem thêm: bài báo online Nông Nghiệp VN 19/10/2020: "Gỗ xấu hơn 10 tỷ đồng ở ngôi trường vừa xây lại".
https://nongnghiep.vn/can-tho-go-xau-hon-10-ty-dong-o-ngoi-truong-vua-xay-lai-d275482.html
Bài nầy tui viết từ mấy năm trước lận. Tại sao và tại sao?
Giờ câu trả lời là vầy nè:
Cần Thơ: Gỗ xấu hơn 10 tỷ đồng ở ngôi trường vừa xây lại
Ngày 9/10, Kiểm toán Nhà nước khu vực 5 cho biết Trường THPT Châu Văn Liêm ở Cần Thơ vừa xây lại, sử dụng gỗ xấu có tổng trị giá hơn 10 tỷ đồng.
Cụ thể, gỗ sử dụng ở Trường THPT Châu Văn Liêm có giá trị 10.382.012.387 đồng. Gồm phần dùng trong xây lắp là các cấu kiện như cửa, vì kèo, xà, li-to (rui, mè), tay vịn cầu thang trị giá 8.311.268.387 đồng. Và 2.285 chiếc bàn ghế học sinh, giáo viên, bàn vi tính trị giá 2.070.744.000 đồng.
Thực trạng gỗ xấu lộ ra từ một khung cửa bị mối đục nát, rơi xuống. Kiểm tra, phát hiện cửa gỗ bị mối ăn hơn 80%, thiết kế gỗ căm xe (nhóm II) nhưng kiểm định khung bao cửa là gỗ thao lao (nhóm III), khung bảo vệ méo mó. Các lá sách cửa bị nứt, vỡ, không bào và số lá sách ít hơn thiết kế nên thưa.
Cánh cửa không tạo rãnh âm dương mà lắp thêm thanh nẹp che giữa hai cánh, các thanh này không chắc, bị bong nhiều nên cửa xộc xệch. Tại khu hiệu bộ nhà trường, ngoài cửa bị mối ăn nát bị rơi xuống, kiểm tra phát hiện thêm 2 cửa khác cũng bị mối ăn.
Kiểm tra và giám định phát hiện gỗ xấu hơn ở phòng học thuộc khối A của trường. Ở đây, phần gỗ li-tô (rui và mè) để lợp ngói, thiết kế gỗ nhóm II nhưng nhà thầu sử dụng gỗ nhóm V. Các thanh gỗ bị nứt, yếu khiến mái ngói võng xuống, lượn sóng có nguy cơ gây dột.
Đặc biệt xấu là gỗ làm bàn ghế học sinh, giáo viên. Thiết kế là gỗ nhóm III nhưng thực tế sử dụng gỗ nhóm VII và VIII. Đây là những loại gỗ có tên Bạch Dương và Gáo Trắng, những loại gỗ mềm nhanh hư hỏng, dễ gây nguy hiểm cho học sinh và giáo viên.
Ở phần xây lắp, kiểm tra chọn mẫu tại công trình, thuê đơn vị tư vấn giám định 8 mẫu gỗ, có 7/8 mẫu không đạt theo thiết kế được duyệt và hợp đồng đã ký. Phần bàn ghế kiểm tra chọn 4 mẫu để giám định, đều không đạt thiết kế được duyệt và hợp đồng đã ký. Kiểm toán tính toán lại mức độ an toàn của công trình để có biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp, đảm bảo an toàn trong quá trình sử dụng và kết luận, không công nhận giá trị gỗ đã thi công, yêu cầu nhà thầu phải làm lại
Trường THPT Châu Văn Liêm trước đây mang tên Collège de Can Tho rồi Trung học Phan Thanh Giản được xây dựng năm 1917, có giá trị văn hóa đặc sắc ở Cần Thơ. Khuôn viên rộng 1,7 ha, có 43 lớp học, đạt chuẩn quốc gia bậc THPT đầu tiên của Cần Thơ và được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, do xuống cấp nên Cần Thơ quyết định giữ lại một dãy nhà ngang và ngôi nhà hai tầng làm văn phòng Ban giám hiệu để trùng tu, còn lại đập bỏ xây mới. Quyết định phê duyệt quy mô đầu tư của UBND thành phố Cần Thơ ngày 30/11/2017, giá trị dự toán xây dựng công trình gần 97 tỷ đồng. Trong đó, chi phí xây dựng hơn 75 tỷ đồng, chi phí thiết bị gần 5,9 tỷ đồng, còn lại chi phí khác.
Chủ đầu tư là Ban Quản lý Dự án Đầu tư xây dựng 2 của Cần Thơ. Thầu xây lắp phần gỗ là Cty Cổ phần Xây dựng Trần Gia; thầu cung cấp bàn ghế là Cty TNHH sản xuất TMDV DAIZH. Công trình được nghiệm thu đưa vào sử dụng ngày 26/12/2019, hiện đang thời gian bảo hành.
Tổ cha nó! Ăn không chừa một thứ gì!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
______________________

Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận!
Trong chiến sử của loài người xưa giờ, dù là chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược hay cuộc nội chiến giữa những thế lực phong kiến để thâu tóm thiên hạ về một mối thì chịu biết bao đau thương thống khổ là toàn dân tộc, đa số là người dân thường không một tấc sắt trong tay.
Dĩ nhiên người lính là người phải hi sinh nhiều nhứt! Hi sinh cả cuộc đời đang tuổi xuân phơi phới với biết bao nhiêu là ước vọng chưa thành bỗng chợt vỡ tan!
Tàn chiến trận, có thể là:
"Anh về hòm gỗ cài hoa..
Hay anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân!"
Kế phải kể đến sự hi sinh của vợ con, cha mẹ, anh em hay người yêu của lính!
Hồi thời Trung học, chắc anh chị em mình đều có học những đoạn thơ não lòng trong Chinh Phụ Ngâm (Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741.
"Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi.
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề!".
Trước đó khoảng ngàn năm, Trương Tịch (768-830) bên Tàu, cũng khóc thương cho người chinh phụ có chồng bỏ thây nơi chiến trận!
"Tháng chín Hung Nô giết biên tướng.
Quân Hán tiêu tan dưới Liêu Hà
Xương phơi muôn dặm không người nhặt.
Trăm họ đầu thành cất đám ma
Thân gái xưa nay nhớ chồng con.
Nghèo hèn có nhau, hả dạ hơn
Chồng chết chiến trường, con trong bụng.
Như ngọn nến ngày thiếp mỏi mòn!"
Trương Tịch cũng có một người anh ra trận, rồi thất tung, mất tích, không thấy trở về; không biết sống chết ra sao bằng những vần thơ đẫm đầy nước mất mà cả ngàn năm sau, mình đọc lại vẫn còn thấy bùi ngùi thương cảm!
"Đánh Nhục Chi theo quân năm trước.
Toàn đạo binh bị diệt trên thành
Hán, Phiên vắng bặt tin anh.
Cho dù sống chết cũng đành xa nhau
Màn trướng nát không ai thu lượm.
Ngựa trở về cờ phướn rách tan
Cúng anh, nghi vẫn sống còn.
Chân trời xa tắp, khóc trông quê nhà..."
***
Từ năm 1960, khi Mặt trận dân tộc giải phóng, tức VC được thành lập!
Cứ 4 năm một lần (trong kế hoạch ngũ niên), CS Bắc Việt và VC tay sai ở miền Nam lại bắt đầu những trận đánh lớn.
Năm 1964, trận Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả, những quận lỵ heo hút của miền Nam.
Năm 1968, 44 tỉnh thành trên toàn cõi VNCH bị CS, không từ một thủ đoạn đê hèn nào, bất ngờ tấn công; dù đã cam kết hưu chiến!
Gần trăm ngàn người bị giết! Máu chảy thành sông; thây phơi đầy nội xảy ra đúng 50 năm trước, tức đã nửa thế kỷ, một khoảng thời gian quá dài trong đời người mà cứ tưởng như nó mới vừa mới hôm qua vì tánh cách khốc liệt của nó.
Rồi cũng 4 năm sau, năm 1972, còn gọi là mùa hè đỏ lửa, Cộng quân dốc toàn lực tấn công vào Quảng Trị ở Quân khu Một, Kon Tum ở Quân khu Hai và Bình Long ở Quân khu Ba.
Người ta sanh ra không ai muốn mình cầm súng cả; mà chỉ muốn đất thanh bình ba trăm năm cũ. Nhưng không làm lính, không nẻo binh lửa cũng không được!
Từng lớp lớp thanh niên nối tiếp nhau lên đường ra mặt trận theo lịnh Tổng động viên của Bộ Quốc Phòng. Đang trên giảng đường đại học, năm thứ nhứt, năm thứ hai, chúng tôi xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của non sông.
"Quang Trung vào ai nỡ gọt đầu tôi?" Tóc cắt ngắn ba phân. Quân trang, quân dụng, hai chiếc thẻ bài, khắc họ tên, số quân và loại máu, đeo tòn teng trên cổ.
Rồi Chứng chỉ tại ngũ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bộ Quốc Phòng. Số... Họ và Tên. Cấp bậc. Số quân. Đơn vị. KBC (Khu Bưu Chính của đơn vị)
Thẻ căn cước quân nhân, cũng y như vậy, nhưng có hình chụp chân dung, được bọc nhựa.
Nhà thơ Cao Tần di tản qua Hoa Kỳ năm 1975, vẫn còn cảm khái bằng những lời thơ trác tuyệt:
"Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ.
Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu?
Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ.
Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?"
"Trong ví ta này một thẻ căn cước.
Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần!
...Tên chụp hình làm ta xấu như ma.
Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết?
Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!
Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu.
Tên chụp hình như một lão tiên tri
Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác.
Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly
...Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ.
Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang!"
Nhà thơ Cao Tần may mắn vượt thoát trong những ngày VNCH hấp hối; còn những người, đồng đội, đồng ngũ bạn lính của ông, còn kẹt lại phải đi tù CS.
"Có thằng bạn nào tàn đời học tập.
Cõng gông xiềng lê lết một thân đau!
Còn kiên cường sống sót ra tù CS rồi tìm đường vượt biển! Đau đớn thay lại bỏ mình trong cơn sóng dữ!
"Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp.
Những tiếng đời tan nát khóc thương nhau..."
***
Bọn chúng tôi là lớp 'Mùa hè đỏ lửa'! Gần 800 đứa từ giảng đường đại học vào Tiểu đoàn 2 của Trường Bộ Binh Thủ Đức, tháng Tám, năm 1972, khóa 4/72/SQTB TĐ.
Ngày 27, tháng Giêng, năm 1973, các SVSQ tiểu đoàn 2 đi chiến dịch Hiệp định Paris. Mỗi đợt 2 tháng, sau 4 tháng, trở về trường Bộ Binh, ra Vũ đình trường làm lễ mãn khóa! “Quỳ xuống các Sinh viên Sĩ quan! Xin thề! Đứng dậy các tân Sĩ quan!”
"Ân tình theo gót chân, bọn đi xa đánh trận, gặp gỡ trong cơn lốc!
Xưng tao gọi mày thương quá gần. Bốn vùng mang lưu luyến bước bâng khuâng của vạn người thân!"
Thế hệ thanh niên miền Nam Việt Nam mình, trong đó có chúng tôi, sanh từ 1945 đến 1955, thời điểm ác liệt nhứt của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Cuộc chiến tranh đã tàn gần 45 năm qua! Thân phận là lính; chúng ta không ai đem thành bại để luận anh hùng!
***
Ra Footscray, Melbourne, Victoria, Úc Châu thảng hoặc gặp bất cứ ông nào đầu bạc, muối nhiều hơn tiêu, những nếp nhăn hằn trên trán, đôi mắt màu khói như còn vương lửa của chiến trường thì chắc chắn rằng họ đã có một thời giầy sô, áo trận đó thôi!
Chiều cuối năm, rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận. Nhưng Tiểu đoàn 2 năm xưa đó, nằm gần Khu Gia Binh Thiết Giáp, tuyến B, gồm 4 đại đội gom lại chỉ còn được có 5 thằng lưu lạc tới tận phương trời nầy!
Nguyễn Văn Rạng (222), Dù; Nguyễn Văn Luyến (231), Thiết Giáp;
Phùng Ngọc Thái (224), Thiết Giáp; Trương Ngọc Đông (242), ông Địa, Mộc Hóa, Kiến Tường và Đoàn Xuân Thu (242).
(Sydney cũng được vài ba đứa: Đặng Hữu Hiếu (242), Nguyên (223), Địa phương quân ; Thanh (224); Há (223), Không quân; Lại văn Bính, Thủy Quân Lục Chiến và Nguyễn Bằng Dương, Sư đoàn 23!)
Đoàn Xuân Thu
Chúng tôi như những mũi tên đã bật ra khỏi cánh cung, bay khắp bốn phương trời.
Những địa danh trường cũ tưởng chừng như đã mù khơi trong tiềm thức bỗng chợt về lay động cánh rừng xưa. Nào đồi Tăng Nhơn Phú, Vũ Đình trường, Trung Nghĩa đài, Cổng số 9, sân bắn Long Thạnh Mỹ, cầu Bến Nọc. Nào bãi Nhà sập, đồi 31, (đêm ngóng về Sài Gòn quầng sáng phía xa xa), đồi Bác sỹ Tín (ngang nghĩa trang Quân đội Biên Hòa).
Rồi đêm hành quân dã trại, (để từ Tân Khóa sinh để sáng hôm sau thành Sinh viên sĩ quan) trời đổ trận mưa to, trùm poncho kín mít nhưng giày sô sũng nước. Về tới doanh trại, cởi giày, cởi vớ ra, thay quần áo lính ngồi hút thuốc với bạn bè... Ôi nó đã biết làm sao đâu?!
Giờ đây, trên bàn rượu chỉ vỏn vẹn năm thằng nhưng có tới 6 cái ly. Ly thứ sáu dành cho những thằng bạn lính đã không về được nữa vì đã ngã xuống chiến trường năm ấy!
Rót đầy ly rượu, chuyền tay nhau, người một hớp để uống cùng những oan hồn tử sĩ còn tức tưởi đâu đây. Nầy Khôn ngã xuống ở Cái Côn, quận Phong Thuận. Nầy Tuấn chuyển qua Cảnh sát, mang ngay lon Thiếu úy, làm trưởng cuộc, ngã xuống ở quận Thuận Nhơn, tỉnh Phong Dinh... Rồi Lưu, rồi Mẫn (242) ... và nhiều nhiều nữa!
Tôi nhớ Nguyễn Quang Mẫn, cùng trung đội 242, gốc cố đô Huế, 18 tuổi, vừa đậu Tú tài Một là tình nguyện vào Thủ Đức. Ngày mãn khóa Thủ Đức, Mẫn tình nguyện về Biệt Cách 81 Dù. Chỉ đi lính trong vòng chưa tới 3 năm mà Nguyễn Quang Mẫn từ chuẩn úy sữa đã lên tới đại úy được đơn vị đưa về lại trường Bộ Binh để học khóa Tham mưu Trung cấp.
"Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm.
Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên.
Xin cám ơn, xin cám ơn người nằm xuống!"
***
Lũ chúng tôi, người lính thuở ấy, đã từng mơ ước:
"Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn...
Xin trả lại đây, bỏ lại đây thép gai giăng với lũy hào sâu.
Lỗ châu mai với những địa lôi.
Đã bao phen máu anh tuôn..."
Trả súng đạn này khi sạch nợ sông núi rồi?
Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao!
Thiên đường này mơ ước bao lâu?"
Nhưng mộng đẹp đã tan tành theo vận nước.
"Mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ.
Mình lên đường ngơ ngẩn, lang thang!"
Chỉ mong là:
“Hãy đem hết những đổi đời tan tác.
Gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”.
Chiều cuối năm quê người. Đứa nào cũng tha hương vì mất nước đều tự hỏi:
"Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm.
Mày lang thang đất lạ đến bao giờ?"
***
Sân trước cửa nhà tôi, em yêu có trồng một cây bông giấy. Mùa hè hoa nở đỏ cả một góc sân vườn, gợi tình quê tha thiết!
"Này cây bông giấy bên rào năm xưa...
Chẳng qua trời đổ cơn mưa.
Thì thương cành mọn đong đưa một mình!"
Đời chúng tôi, những người lính của mùa hè đỏ lửa năm đó, chìm trong màu lửa, màu máu như màu bông giấy quê nhà trong tiềm thức còn vương vấn đến màu bông giấy của quê người!
Quê người chiều cuối năm! Những người lính thất trận, mất nước, rồi mất cả quê hương buồn lắm phải không?
Năm thằng mặc đồ dân sự, ngồi uống rượu quê người nhưng trong tâm cảm đứa nào cũng còn là lính.
Chỉ mong ước là: "Ôi! Xóm xưa ơi, khi nào đổi kiếp?
Ta về thành chim hót trước hiên nhà!"
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

Loạt bài viết về Nhà Văn SƠN NAM
Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của Ông
. đoàn xuân thu



BÀI 1:
NHỚ SƠN NAM!
Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11, tháng Chạp, năm 1926 tại ấp Giữa, xã Đông Thái, quận An Biên, tỉnh Kiên Giang. Đó là tên chánh thức trong sổ bộ. Nhưng bà con mình gọi đây là vùng Miệt Thứ, kinh thứ 6, do xáng của Tây đào từ năm nẩm để xả phèn từ rừng U Minh ra biển Rạch Giá.
Sơn Nam, trong hồi ký, kể rằng: “Thuở sơ sinh, ông được bà Cà Xúc một người phụ nữ Khmer cho bú thép, là một người Mẹ thứ hai vì tới lúc học lớp 5 (Tức lớp Một bây giờ), qua cầu khỉ cũng được bồng qua.
Rồi năm đó, ở chùa Khmer, xứ Sóc Xoài, bày ra lễ ‘Chôl Chnăm Thmây’, mừng năm mới (thường vào khoảng trung tuần tháng 4 dương lịch) trong 3 ngày.
Trước bệ Phật, tại chánh điện, người ta đào một lỗ khá to, nói là trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ nên bỏ xuống lỗ những món có ý nghĩa, như cây kim, sợi chỉ để con gái may vá giỏi, khi lớn lên.
Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài lượng vàng, vài chiếc cà rá, kiếp sau sẽ giàu hơn kiếp nầy.
(Chính vì vậy nhà của người Khmer có thể nhỏ và nghèo; nhưng chùa Khmer rất lớn).
Hôm ấy, thân mẫu của Sơn Nam nhờ nhũ mẫu Cà Xúc, mua cây viết, bình đựng mực, cái tập giấy để cho con tới đó bỏ xuống, trước bàn Phật, lấy phước trong cõi đời nầy. “Người ta đi chùa, đông lắm, ai tin trời Phật thì má cũng tin”.
(Mẫu thân của Sơn Nam chắc chỉ mong con mình có chút chữ nghĩa để độ nhựt sau nầy).
Nhà nghèo, nhờ học giỏi nên được học bổng, ông qua Cần Thơ, học trường Trung học Phan Thanh Giản.
Chín năm kháng chiến chống Pháp chấm dứt ông về thành rồi lên Sài Gòn theo nghiệp viết văn, cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…
Sơn Nam mỗi tuần một truyện ngắn trên Nhân Loại như: Hương rừng Cà Mau, Tình nghĩa giáo khoa thư, Hát bội giữa rừng, Mùa “len” trâu. Những truyện ngắn nầy được nhà văn Ngọc Linh, chủ trương nhà xuất bản Phù Sa gom lại, in thành tuyển tập Hương Rừng Cà Mau.
Tuyển tập nầy đã đưa Sơn Nam trở thành một nhà văn tiêu biểu cho miền U Minh, sông nước quê mình, với cái kiến thức đồ sộ và thâm sâu nơi vùng rừng ngập mặn chỗ ông sanh ra và bỏ ra đi khi mới vừa mười mấy tuổi.
Đám văn nghệ sĩ lớp trẻ sau 75 gọi Sơn Nam nhiều cái biệt danh như “Ông già đi bộ’, “ông già Nam Bộ”, “Pho từ điển sống về Nam Bộ” mặc nhiên kính phục những công trình biên khảo của Sơn Nam về một cõi U Minh.
Dẫu vậy, Sơn Nam vẫn không được mời tham gia ban Biên soạn bộ “Từ điển bách khoa Việt Nam” vốn có rất nhiều phần nói đến các địa danh Nam Bộ (?!). Chẳng qua những tay bồi bút CS có chút đỉnh chức quyền ganh tị đấy thôi.
Nhân đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có đám tai to mặt lớn, ăn ké chút danh, hiện diện, Sơn Nam được hội Nhà văn cho đại diện để đọc điếu văn. Cơ hội bằng vàng để: ‘Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy-Ủy ban, có Hội Nhà văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”
Còn ai chỉ trích cái chánh sách hộ khẩu ‘ác ôn’ nầy thâm sâu hơn nữa chớ? Chánh sách hộ khẩu để theo dõi, kiểm soát, kềm khẹp người dân lương thiện là một chánh sách ba trợn, khùng khùng, điên điên của những kẻ bị hoang tưởng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù!
Nhà văn chỉ có ngòi bút, ngoài ra không có quyền lực nào đủ để bảo vệ bản thân mình. Khi gặp rắc rối bực bội thì lâu lâu ‘sùy’ ra một chút cho đỡ cơn tức giận thế thôi.
Nhà văn Sơn Nam vốn hiếu hòa, chín bỏ làm mười “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”
Chắc có lẽ vì thuở xưa, rời nhà đi học xa, mẫu thân ông có dặn rằng: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”
***
Sau 75, thời cuộc đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời’ từ nghèo sang mạt! Trong bài “Cầu xin hai chữ bình an” ông kể lại những ngày đầu khi Sài Gòn thất thủ!
“… Hai ngày qua, nhiều sự việc xảy ra. Ở phường vài cậu đến, kẻ ăn nói cộc lốc, kẻ rất nhã nhặn. Nhưng nói chung, ai cũng bảo tôi nên ‘kiếm cơ sở’ xác nhận…. Quả thật, tôi không phải là đảng viên cộng sản, là người có dính líu với cơ sở nào cả. Họa chăng tôi là người trong ban chấp hành của Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra thì ‘quốc tế’ nhưng chắc là không được ưa thích.
Vài người bạn hiền lành thủ thỉ với tôi chuyện ‘vượt biên’ nhưng tôi chẳng cần nghe. Tôi chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng hồi xưa biết chút ít chữ Pháp là đủ rồi. Chẳng có bà con, anh em nào ở nước ngoài cả, dòng họ bà con xa gần của tôi, tất cả đều còn ở U Minh… Quan điểm của tôi là cứ quê hương ‘là đủ rồi’.”
***
Nhà văn Sơn Nam mất vào ngày 13, tháng Tám, năm 2008, (nhằm thứ Tư, ngày 13, tháng Bảy, năm Mậu Tý) thọ 82 tuổi tại Sài Gòn nơi ông sống và viết từ năm 1955 đến cuối đời. Và được an táng tại Hoa Viên nghĩa trang Bình Dương.
Nhân ngày giỗ giáp năm của Sơn Nam, bạn văn nghệ cùng thời và là người cùng quê Miệt Thứ, làng Đông Thái, U Minh Thượng, nhà thơ Kiên Giang có viết: “Sống thì xuôi ngược bôn ba. Chết nằm đất ‘nghĩa’, vẫn là cố hương. Đây Bến Cát: Đất Bình Dương. Sơn Nam vào giấc miên trường ngàn Thu”.
Thằng Tây nó ác lắm. Nó bắt nhà văn nổi tiếng của nước Pháp phải nằm đất ‘nghĩa’. Như Victor Hugo, thế kỷ thứ 19, tác giả “Les Miserables” (Những người khốn khổ) mất năm 1885, tại Paris, thọ 83 tuổi. Hơn 2 triệu người đổ về thủ đô để dự đám tang của nhà văn.
Victor Hugo được an táng tại Đền Pantheon ở Paris. Rồi thành phố, thị xã trên toàn nước Pháp đều có tên đường ‘Victor Hugo’.
Còn những nhà văn Việt Nam thì mạnh ai nấy lo! Vì chánh quyền CS Việt Nam không có quởn!. Thắm thoát đã 12 năm, một khoảng thời gian khá dài trong đời người ngắn ngủi, bụi thời gian đã phủ mờ năm tháng; tuy nhiên vẫn có nhiều người vẫn còn tưởng nhớ tới Sơn Nam; vì ông vẫn còn là một ngọn lửa âm ỉ cháy trong đám than bùn vùng U Minh, ở phương Nam.
Thêm hàng chục thập niên nữa, nghĩa là chừng một thế kỷ, chưa chắc quê mình tìm được một người yêu đất, yêu quê, yêu người và am hiểu tường tận về miền đồng bằng sông Cửu Long như thế!
Âu cũng là niềm an ủi cho một người cầm bút, đã sống thủy chung suốt đời cùng văn chương, biên khảo về vùng đất mến yêu Nam Kỳ Lục tỉnh.
Rồi sau nầy, chắc chắn gia tài đồ sộ của nhà văn Sơn Nam là những tác phẩm (đã loại bỏ những cái đoạn bị bọn bồi bút, văn nô của CS bắt buộc thêm vô nó mới đăng) những hạt ngọc đó, sẽ được lớp hậu sanh chùi sạch những vết nhơ bên ngoài để sáng rỡ lên cho mà coi. Tin tui đi!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của nhà văn Sơn Nam.
BÀI 2:
MẦN VĂN!
Trần Bang Thạch, bạn văn, Houston Texas, cách tôi một biễn Thái Bình viết: “Cứ tà tà mần văn như vậy!”
Mèn ơi ! đọc thơ bạn hiền gặp lại chữ “ mần” khoái tỉ tê… như quê người, tình cờ gặp lại em xưa mà con vợ mình không hay, không biết…
Tôi xa chữ “mần” đã khá lâu, dễ chừng năm chục năm rồi có lẽ. Hồi tôi còn nhỏ, bạn văn của Ba, như bác Sơn Nam đến nhà tìm: “Ba có nhà không cháu?“. "Thưa bác Sơn Nam, Ba con đi mần việc.” Tôi vòng tay lại.
Ba tôi, mần việc là mần việc; mần văn là mần văn. Nhưng với Sơn Nam mần việc là mần văn. Mần văn là mần việc!
Hồi tắm sông còn ở truồng, tôi đã kính trọng mấy bác nhà văn, bạn của Ba, vì nghĩ làm sao mà có thể viết được những truyện ngắn làm người ta rớt nước mắt như vậy chớ?
Trong trí óc non nớt đó, nhà văn không phải là người thường mà là người thượng… tức thuộc cõi trên!
***
Sau nầy lớn lên đi học, thầy cho dăm ba chữ dằn bụng, đọc Sơn Nam tôi càng “ê càng” ổng hơn! Có lẽ trong làng văn chương Việt Nam, Sơn Nam là người duy nhất sống trọn một cuộc đời bằng chữ nghĩa và sống vì chữ nghĩa. Ông sống để viết và viết để nuôi cuộc sống.
Ngay những năm đầu tiên đặt chân lên đất Sài Gòn, manh áo, chén cơm của ông đã bắt đầu từ trang viết.
“Trước 1975, tôi đồng thời viết cho bảy tờ báo. Sau năm 1975, tôi tiếp tục công tác với nhiều tờ báo. Thật ra, tôi mê viết văn hơn viết báo và với tôi, viết văn bao giờ cũng là trọng tâm. Tôi viết báo để kiếm sống và để giải trí. Tôi quan niệm: Viết văn để viết văn, để yêu nước chứ không nhằm một mục đích nào khác.”
***
Sơn Nam viết văn là vậy còn cái tánh ổng là sao cà? Hãy lục tìm vài chỗ: Có nhà báo nói là thích Sơn Nam ở chỗ ông thân tình, dễ gần, không lên mặt kênh kiệu với bất kỳ ai. Ông xuề xòa, vui tính, dường như tôi chưa hề thấy ông giận ai bao giờ!”
Cái này không đúng lắm đâu. Sơn Nam có giận chớ… mà giận dữ với “Tây” mới oai chớ!
“Hiền hòa, nhỏ nhoi vậy, nhưng ông đã nổi giận thì thật ghê gớm. Cũng phim ‘Người Tình’, trong cảnh đám cưới ở chợ Sa Đéc, có mấy chục cụ ông, cụ bà mặc khăn đóng, áo dài đóng vai nhà trai, nhà gái. Giờ nghỉ trưa, thấy mấy cụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi đoàn phim vào nhà hàng ăn đàng hoàng, ông đã nổi giận thực sự. Mặt bừng bừng sát khí, ông đứng giữa nhà lồng chợ ra lệnh gọi đạo diễn ra cho ông nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội hét lính dọn bàn ghế mời các cụ ngồi ăn.”
Giận “Tây” đã là ngon mà ổng còn đổ cộc luôn với ‘ta’ nữa, như trong truyện “Âm dương cách trở”. Ông già hớt tóc vỉa hè bị tên công an khu vực xét hộ khẩu.
Ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Tên công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”.
Hồi cha sanh mẹ đẻ tới bây giờ thú thiệt là: tôi chưa hề may mắn được bực thức giả nào đó định nghĩa ‘tổ quốc’ thâm trầm hơn nữa!
***
Dù ước có vài ba người bạn chơi được, không ba trợn…Nhưng Sơn Nam xui quá… lại gặp hai người: một ở Bắc Ninh: một ở… Hãy nghe:
Khi chụp ảnh chân dung nhà văn Sơn Nam, các nhiếp ảnh gia rất chú trọng tới “chi tiết đặc tả” là đôi tai ngoại cỡ của ông.
Có độc giả ở Bắc Ninh tên là Nguyễn Đình Tự đã đặt câu hỏi với ông:
“Nhà văn Sơn Nam có lỗ tai đạt kích cỡ khoảng 7 cm x 20 cm. Có lẽ vì vậy mà ông… nghe được lắm chuyện xưa tích cũ hay ho về vùng đất Nam bộ để viết lại thành nhiều tác phẩm giá trị về đất nước, con người Đồng bằng sông Cửu Long… Có đúng vậy không nhà văn?”
Sơn Nam đã trả lời rất một cõi U Minh rằng: “Tai tôi quả là cũng có to hơn người bình thường một chút, nhưng không phải vì do nghe nhiều mà tai to đâu. Thiếu gì người “tai to mặt lớn” mà chẳng bao giờ biết lắng nghe gì cả”.
Một câu hỏi ‘ba trợn’ và một câu trả lời có thể ở tù.
Nhưng chưa hết, Sơn Nam còn gặp một ông ba trợn nữa. Ông ‘ba trợn’ nầy viết rằng: “Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông.”
Hội cao niên nghe được …tôi e nó sẽ lôi ông ra ba tòa quan lớn.. vì tội “age discrimination”.
Sau đó… còn thêm: “Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng Tám năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó".
Cái này thì ông đúng chỉ 50 %…Vì Sơn Nam chết mà không mất vì ổng còn để lại “Hương Rừng Cà Mau”. Riêng tôi với ông, dù cũng mần văn, theo chữ Trần Bang Thạch, nếu chết là mất vì mình không để lại cái gì hết …ngoài một nhúm tro.
Có đọc được, đừng giận nhe bạn, bớt giận mà nghe Sơn Nam nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình… (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!)”.
Tôi cũng ao ước giống hệt Sơn Nam là : “Có người tới thăm nói dóc chơi”. Nói dóc… vui hơn ‘mần văn’… anh Trần Bang Thạch ơi!
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của nhà văn Sơn Nam.
BÀI 3:
HÁT BỘI GIỮA RỪNG!
Khi nhận được một câu hỏi của một ông bạn đọc hơi cà khịa là: Hầu hết sự nghiệp của nhà văn là viết về đề tài Nam bộ, được (hay bị) gọi là “Ông già Nam bộ”, “Nhà văn Nam bộ”… ông có cảm thấy mình “cục bộ” hay không?
Sơn Nam đã trả lời rằng: “Hà…hà..nếu “cục bộ” thì “cục” này hơi bị lớn đó nghen! Vấn đề của Newton đâu phải chỉ là một trái táo. Sholokhov đâu chỉ là nhà văn của Sông Đông êm đềm, Gamzatov không phải chỉ của Dagestan.”
(Chết mầy chưa đừng giỡn mặt với mấy ông nhà văn vì mấy ổng thâm lắm. Câu trả lời của mấy ổng đôi khi chú mầy đọc đến sói đầu tóc rụng hết không còn một sợi cũng còn chưa hiểu đặng)
“Tôi không chỉ được “cho” là nhà văn mà còn được “cho” là nhà văn hóa; nhà văn thì bay bằng đủ kiểu, nhưng nhà văn hóa phải đi bằng đôi chân. Sức tôi có hạn, đi hết vùng đất Nam bộ – đi cho kỹ, cho căn cơ được phần nào – đã là giỏi lắm. Vùng đất Nam bộ và những vấn đề của vùng đất này, dẫu mòn chân một đời, tôi vẫn cảm thấy mình chưa đi hết, chưa nhìn thấy hết, chưa hiểu hết và chưa nói lên được hết…”
***
Viết về vùng đất nơi chôn nhau cắt rún của mình, hơn sáu mươi năm cầm viết, Sơn Nam cũng thú nhận nhiệm vụ bất khả thi (Mission Impossible) là: chưa đi hết, chưa đọc hết, chưa hiểu hết về đất và người Nam Bộ!
Nhưng viết chưa đủ và chỉ về một địa phương U Minh, Cà Mau mà thôi không có nghĩa là cục bộ. Cũng như ‘Newton’ nhìn trái táo rơi ngoài vườn và thuyết “Vạn vật hấp dẫn” ra đời.
Solokhov viết về Sông Đông không chỉ là mối tình bi kịch giữa ‘Grigory’ và ‘Aksinya’ bên dòng ‘Sông Đông êm đềm’ mà còn đi xa hơn về thân phận của tình yêu, của đời người thì tác phẩm sẽ thọ rất lâu so với tuổi thực của nhà văn.
Gamzatov là một nhà thơ nổi tiếng nhất trong dòng văn học tiếng ‘Avar’, với Dagestan, một nước nhỏ, dân số chừng hơn nửa triệu, mà bài viết của ông, trên khắp thế giới, khi đọc lên, ai cũng thấy mình yêu quê hương của riêng mình dào dạt.
Sơn Nam qua đời để lại cho thế giới, không chỉ của riêng cho Việt Nam, một gia tài đồ sộ sau hơn sáu mươi năm cầm viết. Một năm trước khi mất, ông nói với bạn văn: “Tôi còn cái này hay lắm …”
Nhưng không kịp nữa rồi. Cái dở dang làm ta tiếc, làm ta bùi ngùi trước sự mất mát lớn lao, mà tôi e phải rất lâu, lâu lắm, chúng ta mới có môt nhà văn, chỉ học hết lớp đệ tứ niên trường Collège de CanTho mà suốt cả đời tự học và viết; vậy mà tác phẩm của ông đã vượt ra xa, rất xa, khỏi U Minh, Cà Mau, Nam Bộ, Việt Nam… để đến với người đọc trên thế giới.
Chắc bạn đọc cho rằng tôi hơi nói quá ? Để biện minh, xin hãy cùng tôi đọc lại vài đoạn trong“Hát Bội giữa rừng” của tuyển tập truyện ngắn “Hương Rừng Cà Mau” mà Sơn Nam viết hơn năm mươi năm về trước.
“Đêm hát ra mắt, vui quá đỗi là vui! Đào kép thì áo mão xanh đỏ, đầu giắt lông trĩ, ngặt hai bàn chân thiếu hia, thiếu hài. Trống đánh thùng thùng. Kèn thổi tò ti te. Hai bên rạp chong bốn ngọn đuốc sáng rực.
Họ hát tuồng Phong Thần, lớp lập Bá Lạc Đài. Tuồng này nghĩ thiệt lạ, thiệt hay. Nhiều người ba bốn chục tuổi mới được xem hát bội lần này là lần thứ nhứt. Họ thức sáng đêm ngồi dưới xuồng, khi mệt mỏi thì nằm xuống. Rồi lại ngồi dậy…”
Tình nghĩa giữa gánh hát và khán giả bước đầu bao giờ cũng nồng thắm… Nhưng sau đó thì: “….Mấy đứa con nít xem một chập, ngồi ngủ gục. Chừng trống đánh giựt mình, tụi nó dụi mắt, cằn nhằn : “cái gì mà tốc bôn trì, tốc bôn trì hoài ! Cả tháng rồi không có gì mới. Cứ con yêu Tỳ Bà tinh chưn cẳng có ghẻ ngứa…”
Tụi nó xúm nhau bơi xuồng về. Hỡi ôi ! Hai ba ông cọp chạy dài theo bờ rạch ! Thôi thì đành trở vô vòng hàng rào nọ mà chờ đợi tới sáng.”
Mưa sa, gánh Bầu Tèo rã vì: “Việc gì cũng vậy, riết rồi sanh chán. Xưa kia, ông Từ Thức cưới vợ tiên ở Bồng Lai mà còn đòi trở về dương thế, hà huống chi xem đoàn hát Bầu Tèo này biểu diễn.”