top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg

             TẠP GHI

                        đoàn xuân thu

                        Cựu GS PTG

                          Melbourne, Australia

DoanXuanThu.jpg

đoàn xuân thu

Cần Thơ đi dễ, khó về.

Mời nghe Xướng Ngôn Viên Hoàng Tín đọc trên Đài phát thanh Dallas, Texas:

https://www.saigondallasradio.com/?q=content/d%E1%BB%8Dc-truy%E1%BB%87n-ng%E1%BA%AFn-c%E1%BA%A7n-th%C6%A1-06202023

Chữ rằng: “Cần Thơ đi dễ khó về! Trai đi có vợ; gái về có con!”

Đó đó! Đúng y hịt đời tui vậy đó bà con ơi! Như ai nấy nếu để ý đều biết bất cứ thị trấn, thị xã nào của Lục tỉnh Nam Kỳ, quê mình, đều kề cận một dòng sông. Vì cũng có câu rằng:

“Sông Cửu Long chín cửa hai dòng!

Người thương anh vô số, nhưng anh chỉ một lòng với em!”

Rồi thòng thêm câu hỏi nữa:

“Bên dưới có sông; bên trên có chợ.

Ta với mình chồng vợ nên chăng?”

Thì em yêu của tui, dân Cần Thơ, tóc em dài em cài hoa thiên lý, nghe anh hỏi mi mí… là em biết tỏng cái tim đen, bèn trả lời móc họng anh, như vầy: “Biết rồi mà bày đặt hỏi lôi thôi!” Có nghĩa là: “Anh có thương em thì thủng thẳng em ừ! Anh đừng thương vội mẫu từ ‘quánh’ em!” Ha ha! Mẫu từ, mẹ hiền, mà roi vọt bất tử quá vậy sao? Nhưng có nhằm nhè gì! Quánh em; chớ có dám quánh thằng rể đu đủ tương lai trời đánh nầy sao mà mình sợ chớ?! Nên tới luôn bác tài…Vì em đã chịu đèn rồi!

Chẳng qua là tới tuổi quân dịch, tui vào lính; nhưng bị bịnh mộng du! Bác sĩ quân y thuộc Hội đồng giám định y khoa khám, cho tui về hoãn dịch vì lý do sức khỏe! Vì tối nào tui cũng ngủ mớ, tuột cái rột, ra khỏi giường, đi vòng vòng doanh trại, dạo mát trăng thanh; nhưng không có ý thức gì ráo! Mật khẩu không biết, đêm cà lơ phất phơ… lính canh nó phơ ẩu là bỏ mạng sa tràng… Thôi lính chê thì mình về đi học nữa vậy!

Năm 1970, tui theo thằng bạn thân, sau Tết, mùng Bốn, đi "Cần Thơ cho biết đó biết đây, Ở nhà với Má biết ngày nào khôn?” Từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, trên Quốc lộ 4, qua Bắc, leo lên xe Lam, chạy một hơi thôi, khoảng 1300 mét, là tới Ngã ba Lộ tẻ. Rẽ trái là vào trung tâm thành phố Cần Thơ! Rẽ phải là vào liên tỉnh lộ dẫn đến Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên. Tại Ngã ba Lộ tẻ, có Bến xe mới, xe lên Sàigòn hoặc xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, chạy thẳng tắp từ đây tới tận quận Cái Răng mà không phải đi qua trung tâm thành phố. Vào trung tâm Cần Thơ phải qua cây Cầu đôi bằng sắt, kiểu Eiffel, bắc ngang qua rạch Cái Khế. Bên kia cầu là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, xưa dành cho mấy ông Tây, sau nầy là Dinh của Tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa . Đi tới là dinh Tỉnh Trưởng! Trước mặt là một bùng binh khá rộng, nơi hội tụ của nhiều con đường chạy vòng vòng để khỏi đụng nhau. Đường Phan Đình Phùng xuất phát từ đây, coi như là cái xương sống của thành phố, chạy ngang qua Ty Bưu điện, Tòa án, Tòa Thị Chính, Ty Cảnh Sát, Trường Tư thục Nam Hưng, v.v… xuống tận khu Cầu Xéo. Một đường khác cũng từ dinh Tỉnh Trưởng hướng về Cầu Tham Tướng, là Đại lộ Hòa Bình. Nhưng dân quen gọi là đường Hàng Xoài, vì dọc theo đường có trồng xoài. Đại lộ Hòa Bình, lớn nhưng ngắn ngủn, chấm dứt khi tới Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa (Nơi em yêu của tui làm đó nhe!). Đường Lý Thái Tổ, bắt đầu từ đây, chạy dài tới cầu đúc Tham Tướng. Qua cầu, là đường Mạc Tử Sanh, phía bên trái là chợ chồm hổm, chỉ nhóm vào buổi sáng, nhưng tấp nập quanh năm vào buổi chiều tối vì có xề bánh cống, quầy hủ tiếu, gánh cháo gà cho dân nhậu bình dân.

(Tham Tướng là Mạc Tử Sanh, con của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên), làm cận vệ cho chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1777, quân Tây Sơn ồ ạt tấn công xuống miệt Trấn Giang (Cần Thơ)! Mạc Tử Sanh bị vây, chết trận nơi khoảng rạch nhỏ đổ ra sông Cần Thơ! Sau nầy dân chúng đặt tên là rạch Tham Tướng!)

Rạch Tham Tướng chạy vòng vòng phía trong, cắt ngang đường Tạ Thu Thâu, chui qua cái cầu sắt nhỏ, cầu Rạch Bần, vốn là đường thoát nước mưa tự nhiên cho Cần Thơ! Sau nầy nghe nói đã bị lấp nên bây giờ mưa lớn một chút là Cần Thơ ngập thấy thảm… thương luôn?! Tội nghiệp mấy em mắc mưa, ướt luôn cái quần lãnh Mỹ A hết ráo! Cầu Tham Tướng đã biến mất, đường Mạc Tử Sanh đi về hướng Cái Răng cũng bị mất tên luôn, thành đường 30 tháng 4. Ngã ba Tham Tướng xưa có doanh trại của đại đội Quân vận 411, dưới hàng cây bã đậu. Sau nầy là quán cà phê và quán nhậu bình dân. Ôi, những ngày đói rách, lang thang sau khi mất nước, tui không biết làm gì, chỉ biết long nhong như ở không lắm vậy! Và từng đóng đô thường trực ở đó. Ngồi tréo ngoảy, trước mặt ly rượu thuốc ngâm ô môi, có màu cho dễ ực; vì màu trắng mắt mèo, e nó có nhúng một đầu tăm thuốc trừ sâu cho rượu trong veo… Thấy ớn quá hà! Xa em, người đã cả gan bán chịu cho tui ngày cũ (mà không sợ bị giựt)!

Nhưng nếu bà con mình ở tỉnh khác tới chơi; người ta khoái cái bến Ninh Kiều hơn là chợ Tham Tướng! Bến Ninh Kiều, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã đánh quân Minh xâm lược một trận tơi bời, nên nằm trên đường Lê Lợi. Thế mới biết ông cha mình đặt tên đường, tên bến nước là đầy trí tuệ, có hậu ý, chớ không phải như sau nầy muốn đổi tên đường sao cũng được, tùy bữa say nhiều hay xỉn ít đâu nha mấy cha?!

Nhạc sĩ Lam Phương, là thầy giáo, miệt Rạch Giá, gần biển, nên 75, ông chạy sớm hơn ai hết thảy. Xa quê, tuốt bên trời hải ngoại, ông vẫn còn nhớ tới bến Ninh Kiều để:

“Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về,

Thăm quê xưa với vườn cau thề,

Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô,

Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô!”

Đó là ông ước, ông mơ, ông nhớ về ngày tháng cũ:

“Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều

Sao anh không thấy về Ninh Kiều?

Dường như anh nghe đời nặng trĩu trong màu đen

Đen như manh áo buồn chưa quen!”

Rồi ông nhớ cái thuở học trò

“Ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường

Nay nghe sao khác từ tên đường

Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương

Tây Đô sẽ sống lại yêu thương!”

Cái trường ông Lam Phương đã từng theo học, bây giờ vẫn còn nhớ, là trường Phan Thanh Giản, trường công lập lớn nhất ở miền Tây, được thành lập vào đầu thế kỷ 20. Học sinh ở các tỉnh lân cận, như nhạc sĩ Lam Phương hay nhà văn Sơn Nam, miệt Rạch Giá, vẫn phải khăn gói đến trường Phan Thanh Giản để học tiếp bậc “Đút rơm trâu ăn mê” (Diplôme) tức Trung học Đệ nhất cấp! Tới năm 1964, trường Phan Thanh Giản lại được tách ra để thành lập Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm. (Em yêu của tui đã từng đi học ở đó!)

Sau 1975, Trung học Phan Thanh Giản bị thay bằng Châu Văn Liêm. Mà không phải chỉ cái trường học bị đổi tên đâu mà những con đường chu vi trường cũng chịu cùng chung số phận. Cổng trường nằm trên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tỉnh. Đường Pasteur, giữa trường Phan Thanh Giản và trường Đoàn Thị Điểm, bị đổi tên là Võ Thị Sáu. Ông Pasteur, dù là Tây nhưng có công lớn là đã chế ra thuốc chủng ngừa, cứu mạng hàng triệu người, không phân biệt màu da sắc tộc, khỏi bệnh tật. Công lớn với nhân loại khó có ai sánh bằng vậy mà cũng bị đuổi đi… để thay bằng chị Sáu… ‘mùa lê kim ma’ nở? Nhưng tui buồn nhứt có lẽ là đường Võ Tánh, dọc bên hông trường, từ đường Phan Thanh Giản tới đường Ngô Quyền đã đổi thành đường Trương Định. Không phải tui (dám) ghét bỏ ông Trương Định, một anh hùng kháng Pháp gì đâu. Mà chẳng qua con đường Võ Tánh, dẫu ngắn, có một khúc tẻo tèo teo thôi; nhưng nó lại mang quá nhiều kỷ niệm… Phía sau lưng đường Võ Tánh nầy là xóm Cả Đài (theo tên Hương cả Phạm Thành Đài), bắt đầu từ cái chợ nhỏ cũng gọi là chợ Cả Đài kéo dài dài đến chùa Cây Bàng; nơi tui từng ở trọ gần trường để tiện đường… đi gõ đầu trẻ hồi năm nẳm. Tui nhớ quán Ngọc Lan, chuyên bán cơm tháng cho quân nhân và công chức. Năm 1973, nếu mua vé cả tháng, sáng ăn đưa một vé, chiều ăn đưa một vé, bữa nào hỏng ăn, lại đi ăn cháo, gỏi đầu cá lóc (bự ế kinh), ngon hết biết, với em yêu ở đường Nguyễn Trường Tộ thì khỏi đưa vé… Ăn hết xấp vé đó mua xấp vé khác, tốn 4 ngàn đồng bạc, dằn túi; không sợ đói bất tử vì đôi khi hứng xài ẩu… (Hồi thanh niên, đứa nào hỏng vậy cà?) Từ quán cơm Ngọc Lan, có ông chủ lúc nào cũng mặc áo bỏ vô thùng bảnh tỏn, đi vài căn nữa thì tới tiệm chụp hình Phúc Vinh, nơi em yêu làm duyên, chụp tấm hình cho anh lộng bóp, để lúc nào cũng phải nhớ tới em! Và nếu vắng em, có con ‘quỷ hó’ nào dám lục bóp anh, thì nó thấy tấm hình bà La Sát nầy là nó sẽ bỏ chạy sút dép luôn! Sau 1975, người ta đói xanh râu, đói đến lòi hai cái lỗ tai; nên tiệm Phúc Vinh không còn chụp hình nghệ thuật nữa mà quay sang bán cháo, gỏi gà… để kiếm cơm! Tui đã từng theo Giáo M. dạy Việt văn, em Bác sĩ H. ở hẻm 5, đường Phan Thanh Giản tới đây nhậu. Giáo M. có người em gái trắng như bông bưởi! Tắm xong, em hay ra hàng hiên ngồi hong tóc, mà tui tình cờ trông thấy… phải há hốc cái mồm!

Thưa bà con, dù Cần Thơ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của tui nhưng là quê hương yêu dấu ngậm ngùi của em yêu. Cần Thơ là quê vợ, là người tui rất sợ; nên tui còn yêu Cần Thơ hơn cả quê tui nữa đó! Vì nơi đó có em… và còn có mấy em khác (tui thầm thương trộm nhớ) nhưng vì đã có vợ rồi nên tui đành phải giữ mối tình câm…Nên riết rồi… tui bị ‘hâm hâm!” Tui xa Cần Thơ… Đi và đi luôn mấy chục năm! Người xưa bên ấy, mới đây, gởi cho tui câu ca dao nầy, tui lén vợ, tui học thuộc lòng, kẻo quên: .

“Con chim buồn, chim bay về cội

Con cá buồn, cá lội trong sông

Em buồn em đứng em trông

Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”

Thôi xin tạ lỗi cùng em hẻm 5, đường Phan Thanh Giản! Thân anh giờ

"như chim vào lồng; như cá cắn câu!

Cá cắn câu biết đâu mà gở; chim vào lồng biết thuở nào ra!”

Thôi đành “Hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau!”

Đoàn xuân Thu

_____________________

Bùa Yêu!

                                                            đoàn xuân thu.

Thưa bà con! Ngoài tình yêu, tâm đầu ý hợp là phải nói tới tình dục.

“Gió đưa bụi chuối sau hè, giỡn chơi chút xíu ai dè có con?”

Đó là còn trẻ còn khỏe, còn sung kìa. Chớ lâu ngày chày tháng như cái máy từ từ nó cũng xìu xìu ển ển mà thôi…

Mà muốn chữa cái bệnh gần hết xí quách nầy, muốn đèn gần hết dầu mà vẫn phựt cháy phừng khi bị hút hồn bởi làn da trắng nõn, mịn màng, cơ thể tỏa hương thơm hừng hực sắc xuân thì quý ông anh mình phải chơi bùa… yêu vậy!

Chuyện rằng: Hai chị em ruột Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức, nhan sắc đổ nước nghiêng thùng, da trắng nõn, mềm mượt, tỏa ngát hương thơm nhờ xông xạ hương, uống sâm cao ly và lộc nhung.

Vừa đẹp vừa sung, cả hai làm Hán Thành Đế, Lưu Ngao (51 TCN-7 TCN) cực kỳ mê đắm, vùi đầu vào những cuộc truy hoan khiến thiếu điều hết xí quách!

Để được vui tới bến, Lưu Ngao ra chiếu chỉ kêu ngự y chế một loại xuân dược tức bùa yêu cho Hoàng đế thành mãnh long quá giang chớ không còn là thỏ đế!

Nhưng xài riết lờn thuốc, công hiệu kém dần đi, nên Lưu Ngao chỉ biết kêu ngao ngao trước giờ lâm trận!

Cho đến một đêm, Triệu Hợp Đức ép Hoàng đế uống cả 10 viên một lúc để mạnh gấp 10, không ngờ Vua uống xong thì hôn mê sâu, đi tàu suốt!

***

Đó là chuyện bên Tàu! Còn Việt Nam mình cũng hỏng có thua kém gì đâu.

Lừng danh nhứt là bùa yêu Minh Mạng thang!

Tương truyền Vua Minh Mạng nhờ bài thuốc nầy mà có cả thảy 43 người vợ và 142 người con.

Thói thường xài bùa là có ngày bùa vật chết… Nên người mới 50 tuổi là đã thăng, băng như diều đứt dây!

Vậy mà giờ mấy ông anh mình cứ đồn đại rồi xúi dại nhau tìm rượu hòa Minh Mạng thang để chứng tỏ mình là vô địch quyền vương!

Nên con buôn nhạy bén, chớp thời cơ, pha sẵn bán lẻ theo “xị” hàm rầm ngoài quán nhậu.

Thưa nếu một xị thì có thể ông uống bà khen hay. Nhưng quất hai xị vô là ông uống bà không khen gì hết ráo; vì ông nằm ngẹo cu lơ; ngáy ồ ồ như trâu rống vậy!

Thưa bà con! Tui cứ trộm nghĩ rằng mấy ông thầy thuốc Bắc nầy quảng cáo hơi quá!

Nếu có công hiệu, mấy ông Thầy nầy đã được vời vô Thường vụ Bộ Chính Trị của đảng Cộng sản bên Tàu để phục vụ các lãnh đạo quốc gia anh em!

Rồi bản thân mình sẽ được ăn sung mặc sướng chớ đâu có phải mỏi tay xắc thuốc, bào chế hầm bà lằng xắng cấu, dặn về bỏ vào siêu sắc, ba chén còn năm phân, uống vô nó đắng thấy bà tiên tổ?!

Thưa vì vậy, tui chọn thuốc Tây hơn thuốc Tàu. Trùm đế quốc Mỹ bao giờ cũng hay hơn là cái thằng Tàu Cộng!

Vì nó gọn, công hiệu tức thời, sau một tiếng là tối đa; chớ không phải chờ xa xa… như thuốc Bắc!

 

Đó là viên Viagra chữa bịnh trên bảo dưới không nghe, lần đầu tiên được tung ra thị trường năm 1998, làm quý anh chị em mình hồ hởi và phấn khởi như đêm tân hôn.

Thằng quỷ dịch, bạn ní của tui đã dụ khị tui để bán 100 đô một viên.

Tui thấy mắc không mua, vì tui hỏng có tiền… Chớ nếu có, tui cũng dám chơi liền.

Giờ thì chỉ riêng nước Mỹ đã xài hết 1.14 tỉ đô năm rồi. Con số nầy cho thấy nước Mỹ chiếm tới 50% quý anh trên thế giới có vấn đề về đời sống tình dục.

Người Ý đã mua 86 triệu viên thuốc màu xanh nho nhỏ xinh xinh nầy năm rồi. Cứ bổ đồng 12 phút, một viên thuốc được bán ra.

Quý anh mình trên 40 thì cứ hai người là có một phải cần tới bùa yêu. Và cứ 1000 quý ông anh mình thì xa cạ, xài tới 437 viên.

Vậy là từ 1998 tới nay đã có hơn 40 triệu quý anh mình trên thế giới chơi bùa yêu Viagra, tốn hết 2 tỉ đô la.

Viên thuốc màu xanh huyền diệu đã giữ cho tình ta không tan vỡ bèo mây! Hay hết biết!

***

Mới tròn 18 tuổi nên viên thuốc mầu nhiệm nầy cũng còn gây nhiều lấn cấn.

Nó chữa bệnh! Mình không bịnh thì hỏng có cần!

Đừng tò mò xài thử xem nó ra làm sao coi chừng vong mạng như Lưu Ngao thì báo?

Phải cần tới bác sĩ ra toa. Và coi chừng thuốc dỏm nhe mấy anh mình!

Hãng sản xuất Pfizer đã phải thành lập một đội điều tra của riêng mình để giúp nhân viên công lực phá vỡ những đường dây làm thuốc dỏm trên thị trường.

Thuốc dỏm có tác hại với người xử dụng; đồng thời cũng làm các công ty phân phối như Big Pharma mất đi bộn bạc.

Mà muốn tiêu diệt nạn thuốc dỏm thì xin mấy ông Pfizer giảm giá đi cho bà con nhờ. Rẻ, ít lời, là bọn đạo tặc nầy nó hỏng thèm làm nữa đâu.

***

Thưa các cụ nhà ta! Xin đừng ngại ngùng chi. Nếu có trục trặc, hãy mau mau đi gặp bác sĩ để cụ bà đừng có bức bối chửi chó mắng mèo, nghe nhức đầu lắm!

Chuyện nầy ở Mỹ là thường! Ngay cả cựu ứng cử viên của đảng Cộng Hòa Bob Doyle, ra tranh rồi thất cử, về quảng cáo cho xuân dược Viagra đó thôi. Thì việc gì mà mình ngại?

Bob Doyle, sau khi được điều trị về chứng ung thư tuyến tiền liệt, đã mặc bộ đồ vest truyền thống màu sậm, thắt cà vạt đỏ và tuyên bố: “Cũng hơi bị quê quê khi phải nói về chứng liệt dương nhưng vì sự quan trọng cực kỳ cho đời sống hôn nhân của hàng triệu quý anh, em mình và bạn tình nên tui phải nói công khai! Nó công hiệu nhe! Tin tui đi! Thưa bà con cô bác!”

Nắm nhu cầu đó, các công chức thành phố Toronto, bên Canada mua Viagra  được bảo hiểm trả tiền, tốn của chánh phủ gần 2 triệu dollars năm rồi!

Ủa bộ công chức Toronto bị liệt dương hết ráo hay sao mà xài Viagra dữ vậy chớ!

Thưa hỏng phải vậy! Mấy giả đã lạm dụng đặc quyền mua thuốc theo toa bác sĩ, không phải trả tiền, rồi sau đó đem bán ra ngoài để kiếm chút cháo bào ngư!

***

Thưa mới đầu tháng Mười Một, Úc sắp bước sang Hè mà ông Chủ bút đã nóng ran lên rồi; vì phải làm số báo Xuân!

Nên ổng kêu tui viết 5, 7 bài gì cũng đặng.

Còn dặn thêm là quý độc giả thân mến của bổn báo mình có rất nhiều cụ cao niên; nên anh chọn đề tài nào mà các cụ rất quan tâm nhứt!

Nhớ vui vui, tiếu lâm cũng được nhưng nhớ đừng có mặn quá nhe cha nội!

Tuân theo lời nhắn nhủ đó, tui xin kể cho quý anh mình vài chuyện không vui hỏng ăn tiền sau đây:

Cái chung giữa Thế giới giải trí Disney World và Viagra là: “Chờ cả tiếng đồng hồ để được vui chơi chỉ hai phút mà thôi!”

Rồi em yêu hỏi: “Anh đi đâu đó?” “À! Anh đi bác sĩ!”

“Tại sao phải đi bác sĩ? Bộ anh bịnh hả?”

“Đâu có bịnh hoạn gì! Anh tới để xin vài viên Viagra!”

“Chờ em đi với!” “Chi vậy?”

“Vì anh đi xin vài viên thuốc quái quỷ đó thì em phải chích ngừa phong đòn gánh trước cho nó an tâm!”

***

Thưa chữ có câu rằng: “Thái quá bất cập!” Nhiều quá là không có tốt đâu nhe!

Quý anh mình có nghe chuyện: “Người ta đem chôn một ông xài Viagra quá liều… mà không thể đậy được cái nắp quan tài chưa?!”

“Anh có nghe tin một người bị mất mạng vì dùng viagra quá liều không?”

“À có! Một ông chơi một lượt tới mười hai viên và con gà móng đỏ, chân dài tới nách của ổng chết!”

Tuy vậy con bồ nhí của tui lại không cần tới bùa yêu nầy đâu. Em chỉ cần yêu bằng tâm hồn thôi là đã đủ!

Nên tối hôm đó, tui ló mặt tới tìm em! “Anh tìm em vì nhớ hay là hay mới uống Viagra vậy hả? Thiệt là hỏi ngay chóc tim đen hè!”

Thưa dẫu vậy, cứ mạnh dạn mà tìm Thầy, khi mình muốn vui một đêm thôi rồi mai lên đường!

Đừng mắc cỡ mà chi cho chúng nó khi nên có chuyện vầy nè!

Một ông đi bác sĩ vặn vẹo đôi tay cuối cùng mới nói được nên lời vì ngượng quá mà: “Thưa bác sĩ tôi có hơi chút rắc rối về đời sống tình dục!”

“Ối bây giờ mấy cái rắc rồi đó không còn mang đến niềm thất vọng não nùng cho cánh mày râu chúng ta nữa vì đã có thần dược Viagra.”

“Ông chỉ cần uống một viên thôi… là cái rắc rối đó sẽ trôi vào lịch sử. Tin tôi đi! Chính tôi cũng đã thử rồi nè!”

Hai tháng sau, bác sĩ lơn tơn ra phố tình cờ chạm mặt lại người xưa!

Anh vồn vã: “Tôi thiệt là mang ơn bác sĩ nhe! Thiệt là thần dược! Không thể nào tin được!”

“Thấy chưa? Tui đã nói với ông anh mình mà! Mà nè chị nhà có cảm tưởng ra sao hả?”

“Vợ tui hả? Tui đâu có biết! Hai tháng nay tui chưa có về nhà!”

***

Thưa bà con! Vốn tự xưng (chớ hỏng có ai xưng dùm mình) thuộc giới văn nghệ nên ai viết văn, viết báo là tui chơi hết ráo. Không có phân biệt già trẻ lớn bé, gái hay trai! Xúm lại là cà phê cà pháo buổi sáng, buổi chiều là nhậu.

Hôm tuần rồi, nhân ngày sinh nhựt thần dược Viagra lên 18 tuổi, bạn bè văn nghệ tụi tui, đa phần là khách hàng của bùa yêu Viagra, có chú em năm nay vừa 5 bó, tức là còn hơi nhỏ nhỏ!

Chú em thuật chuyện thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc nầy nghe cũng hú hồn. Chớ va vào tui; chắc tui đã mạng vong… banh ta lông rồi!

Chuyện rằng: 18 năm về trước, tui 32 tuổi, mới yêu em lần đầu!

Rồi trộm nghĩ tam thập nhi lập, 30 tuổi là lập thân, lập gia đình nên tui bèn chấm dứt đời độc thân… để đi ở tù chung thân do em yêu làm cai ngục.

Chiều đó, tui đánh xe đến, tính chở em đi thử áo cưới màu hoa cà để đôi ta chung một nhà.

Nhưng nhà vắng hoe, trước sau nào thấy bóng người, hoa đào năm trước còn cười gió đông, chỉ có đứa em gái thiên kiều bá mị của em mỏng tang trong bộ đồ ngủ… Thấy là nước miếng nó nhểu lòng thòng!

Nàng bèn thỏ thẻ rằng: “Bấy nay em đã thầm yêu trộm nhớ anh, người trong mộng… Mà anh lại sắp cưới chị em rồi. Ôi! Quá trái ngang! Tình em mà duyên chị…”

“Thôi quà cưới em đi, chỉ có thân xác nóng hổi nầy đây! Mời anh xơi! Bảo đảm là rau sạch!”

Trời ơi! Tui có nghe nhầm không đây hở Trời?

Tui bèn vội vã bước trở ra xe. Ai dè một đám, gồm con vợ tương lai, ba má vợ cũng tương lai, vỗ tay hoan hô rầm trời, cười tươi như hoa nở, khen nức nở làm tui muốn tức thở: Tui là một anh rể rất đàng hoàng; không thèm bứng hoa bứng cả cụm như Lưu Bị ngày xưa; dù mỡ đã dưng trước miệng mèo!

Ôi cái gia đình bên vợ nầy độc ác, thâm hiểm quá!

Nếu mấy viên viagra tui không để quên ở ngoài xe… là tui đã trúng kế của bọn chúng rồi!

 

đoàn xuân thu.

melbourne

TL_viagra.jpg
dxt_maydanhchu.JPG

Ba Tôi! Người Đánh Máy Mướn!

                                          Đoàn Xuân Thu

Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não rồi chết. Thân phụ tôi đang làm Trưởng Ty Bưu Điện Rạch Giá buồn bã quá, xin đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Điện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Đường dắt cả gia đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau! Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Điện trên đường Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Định.

Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dể thở của các công chức bậc trung.

Nhà đông con, vật giá ngày một tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn, tiền quần áo, tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm ‘job’ nữa. Đánh máy mướn!

Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm, vừa học, thi đậu cải ngạch thành Cán Sự Bưu Điện, nên Ba đánh máy rất nhanh, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần nhìn vào bàn phím chữ. Đánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào rào đổ trên mái tôn. Mưa!

Cuối đường Phan Đình Phùng, đi về phía Chợ Lớn, rồi quẹo tay phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn chia, tứ lục, 6/4.

Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy ‘stencil’. Đó là loại giấy có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.

Khách hàng đến là các giáo sư, mướn đánh máy bài giảng ở trường đại học, bán ‘cours’ cho sinh viên. Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam… Họ mang những bản thảo viết tay, thường là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết. Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.

Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông, đi làm theo giờ hành chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng ở cuối đường Phan Đình Phùng để làm cái ‘job’ thứ hai. Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều, để quay trở về Hai Bà Trưng, Tân Định.

Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; nhưng 8 anh em tôi thì đã đi ngủ mất rồi. Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát Đại Đồng, mua vài ổ bánh mì về cho con. Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn, rồi bảo: “Ăn đi con!”. Ăn thì khoái thiệt nhưng ‘bù ngủ’ híp con mắt luôn! Em gái tôi cắn miếng bánh mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn… ngủ tiếp. Ba lại bế từng đứa, cho vào giường ngủ.

Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ sông… Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá, bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó! Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời không phải vất vả như ba!

Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác thường là bị dèm pha, xúc xiểm, ganh tị… nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất lớn và là chính của Ba luôn?

Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Đỡ cho Ba không phải lo tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám ‘cúp cua’ đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường tư lại nổi tiếng dạy hay hơn! Vì dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!

Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to. Thầy Trường, dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui cho Ba. Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá trời! Sao mà khổ dữ vậy? Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa, thì có gì là lớn đâu? Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi!

Rồi khi thi đậu Tú tài một rồi hai, Ba cũng mừng như chính Ba thi đậu vậy! Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành Luật Sư chẳng hạn… Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị áp bức, bị đối xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu. Phải biết Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?

Tôi thì thấy chồng ‘Cours’ là đã ‘ớn’. Lại phải tốn rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, con đường Duy Tân đó, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng diện, ẹo tới, ẹo lui?

Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch, con nhái mà Ba muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”. Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi cứ ‘thản nhiên’ như không? Trời ạ!

Sau nầy vào Đại học Sư phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói: “Thôi không làm luật sư; làm giáo sư cũng được!”. Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung học Đệ nhứt cấp ‘quèn’ mà thôi?!

                                                                             ***

Rồi 75 đến, nhà tôi cũng sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than? Đi tù cải tạo sáu tháng vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty.

Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách đàng hoàng, tề chỉnh. Đêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm; bị cán bộ phê bình là còn giữ tác phong ‘tiểu tư sản’?

Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để nuôi đàn con mà nhiều đứa em tôi vẫn còn thơ dại. Ba vẫn ăn mặc rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải tạo.

Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ Ba đánh đơn gởi Tổng Thống François Mitterrand để xin đi định cư. Là người học chương trình Pháp, Ba viết thơ cảm động làm sao đến nỗi ông Chánh Văn Phòng của Tổng Thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và chỉ thị cho bổn chức chuyển hồ sơ qua Bộ Ngoại Giao để làm các bước tiếp theo!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi Pháp định cư.

Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi vùng kinh tế mới, khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là ông Trưởng Ty như ngày cũ?! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại giúp ông làm đơn gởi cho bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Đơn thành công và ông được ra đi!

Trước ngày đi, bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi không biết chừng nào mới có dịp gặp lại ông Trưởng Ty” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!

Raoul Wallenberg (1912 –1947), nhà ngoại giao Thụy Điển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Điển ở hải ngoại. Ngày 17.1.1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và ông chết ngày 17.7.1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi không đập nữa!

Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, được có một cuộc đời khả dĩ tốt đẹp như xưa.

Chỉ có một trái tim nhân đạo mới dám, mới làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”

                                                                             ***

Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt lãnh Ba và các anh em qua. Rồi cả gia đình đoàn tụ!

Đêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài nầy nhân Father’s Day bên Mỹ, tôi lại nhớ đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba, gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học, đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!

Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 20 năm chẵn. Tiếng gõ trên bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi… vẫn còn vang động đâu đây! Nhớ và thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược gió.

Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục đầu xuống bàn… mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con đậu vào đệ thất.

Người ta cần tới Father’s Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của tháng sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của tháng chín ở Úc để kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân! Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống, cho đến lúc nào đó con sẽ được gặp lại Ba!

      đoàn xuân thu

      melbourne

 

Chuyện Mùa Giáng Sinh

Nghe kể là những năm 1920s, ở tiểu bang ‘Lone Star’ (Vì sao cô đơn) Texas mỗi ngày có tới 3 hoặc 4 ngân hàng bị cướp. Hiệp hội các chủ ngân hàng Texas đã treo thưởng tới 5,000 đô (một số tiền rất lớn vào thời đó) cho ai bắn què giò hay bắn ngỏm củ tỏi một tên cướp ngân hàng.

Rồi ‘radio’ đưa tin ngân hàng bị cướp tới 200 ngàn đô. Mấy tên cướp nghe tin, ngồi đếm tới đếm lui cả chục lần tới trật cái cần cổ mà chỉ có 100 ngàn đô. Chúng chửi toáng lên: “Tổ cha cái thằng Giám đốc Ngân hàng!”

Chuyện cướp ngân hàng xưa rồi. Giờ chỉ còn trong phim cao bồi miền Viễn Tây do tài tử John Wayne thủ vai sheriff mà thôi. Tại sao vậy? Vì bây giờ với kỹ thuật báo động tối tân, cướp ngân hàng thì chỉ có vô hộp hoặc ra nghĩa địa. Cướp tiệm bán rượu, bán thuốc lá dễ ăn hơn.

Bên Cali, mới đầu tháng Chạp, muốn có tiền ăn Lễ Giáng Sinh cho xôm tụ trong mùa đại dịch COVID-19, sống nay chết mai, một đám du thủ, du thực đông như quân Nguyên vác búa tài xồi đi ăn cướp.

Chuyện gì xảy ra ở Hoa Kỳ bữa trước là bữa sau nó xảy ra ở Úc hè. Vì chánh phủ Úc coi chánh phủ Mỹ là đại ca. Bọn hắc đạo giang hồ Úc cũng coi hắc đạo giang hồ Mỹ là đại ca nên luôn bắt chước làm theo.

Ngay chỗ tui ở nè, ngay sáng ngày mùng Một, tháng Chạp Tây, lúc 19:39am, 3 tên cướp, dáng Phi Châu, cầm búa xông vào một tiệm vàng của người Việt ở đường Paisley vùng Footscray, Melbourne.

Chúng mặc quần áo sẫm màu và đeo khẩu trang, đập phá tủ kiếng chưng đồ trang sức bằng vàng bên trong tiệm. Vụ cướp xảy ra chớp nhoáng chỉ trong 3 phút. Chúng hốt một mớ rồi dông trên một chiếc BMW SUV màu đen với biển số bị đánh cắp, do tên thứ tư cầm lái.

Chủ tiệm vàng 35 năm lần đầu bị cướp, chỉ biết chạy ra cửa la ‘ơi ới’ là chúng đã mất dạng ở cuối đường.

Dính vào ma tuý rồi lầm đường, những thanh niên nầy không hiểu một điều rất đơn giản là cha mẹ đã mang mình chạy khỏi một Phi Châu nghèo đói, bất công. Ðến Úc họ chỉ mong con mình có một tương lai tốt đẹp hơn. Chớ không muốn con mình thành ăn cướp.

 

Nói nào ngay đa số dân Úc đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm tiền một cách lương thiện. Giáng sinh mà không có cây Noel là không phải Giáng Sinh. Nên có trang trại cần mẫn trồng và chăm sóc 6 đến 8 ngàn cây thông suốt 3 năm trời ròng rã để bán vào dịp lễ Noel. Nó giống quê mình trồng mai, trồng đào bán Tết vậy.

Một nửa niềm vui mùa Noel của em yêu là tự tay em chọn cây thông Giáng Sinh. Giống như hồi xưa, em chọn thằng nào để lấy làm chồng vậy mà.

Một số em thích cây thông sanh sao để vậy. Càng hoang dã càng thích. Giống như hồi xưa em khoái cái thằng chọc trời khuấy nước mà em nói nó có nam tính. Chớ em đâu biết rằng tối nó phải đi trộm gà hàng xóm để có tiền dắt em đi uống cái nồi ngồi trên cái cốc.

Nhưng cũng có một số em khoái về điểm phấn tô son lại; ngạo với nhân gian một nụ cười; nên muốn cây thông Giáng Sinh phải giống hịt em mới được. Nghĩa là bẹo hình, bẹo dạng cho thiên hạ ngắm thì phải son môi còn thắm, tóc ‘demi garçon’. Cây Giáng sinh phải được cắt tỉa đàng hoàng chớ không được bù xù tổ quạ như tóc của em mới vừa thức dậy.

Tiền bán mỗi cây thông Giáng Sinh sẽ được chủ ‘farm’ trích ra 10 đô la làm từ thiện, giúp người ‘homeless’. Người Úc ngoài mấy thằng xì ke, lên cơn ghiền đi ăn cướp, cũng có người tốt đấy chớ. Bên Mỹ cũng vậy, mùa Giáng Sinh lại về cũng có những câu chuyện cảm động làm ấm lòng người trong trời Ðông buốt giá.

Chuyện rằng: một chiếc máy bay của Southwest Airlines đang từ Chicago chuẩn bị cất cánh đi Columbus. Tất cả mọi việc diễn ra rất bình thường! Hành khách lên tàu, làm thủ tục đầy đủ, tắt hết các thiết bị điện tử, thắt dây an toàn. Máy bay ra phi đạo chuẩn bị cất cánh bay lên. Nhưng đột nhiên máy bay lại lăn bánh về ga hành khách. Rồi một tiếp viên nhẹ nhàng đến mời Peggy xuống máy bay. Lúc đến quầy ‘check in’, Peggy được bảo hãy gọi ngay cho chồng mình. Lúc này, chồng Peggy nói, con trai 24 tuổi của họ ở tiểu bang Colorado, Denver bị chấn thương não, rơi vào hôn mê và đang được cấp cứu trong bệnh viện.

 

Tin sét đánh ngang tai làm Peggy không thể kìm được nước mắt. Thì ra chồng của Peggy đã gọi điện cho hãng hàng không, hy vọng họ sẽ thông báo để vợ mình có thể bay về với con càng sớm càng tốt. Hãng hàng không hay tin này đã lập tức sắp xếp một chuyến bay sớm nhất cho Peggy bay đến Denver chỉ trong vòng 2 giờ.

Khi Peggy được đưa đến khu vực hành khách chờ lên máy bay, nhân viên của hãng đã an ủi để cô bớt căng thẳng và lo lắng. Khi đến giờ, hãng hàng không yêu cầu tất cả hành khách xếp hàng chờ nhường quyền ưu tiên cho Peggy. Họ sắp xếp cho cô ngồi ngay đầu cửa cabin. Như vậy khi đến Denver cô có thể ngay lập tức xuống máy bay. Khi Peggy đến Denver cái đầu tiên nhận được không phải là hành lý mà là hộp cơm trưa của hãng hàng không Southwest Airlines. Hơn nữa hãng Southwest Airlines còn chi trả toàn bộ chi phí cho chuyến bay của Peggy.

May mắn thay, 3 tuần sau tình trạng con  của Peggy tốt dần lên và cháu đang hồi phục một cách nhanh chóng.

Hãng hàng không kinh doanh vì lợi nhuận; nhưng không phải vì tiền mà họ quên lãng tình người. Chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết cư xử như vậy đó!

 

 

o O o

Chuyện ấm lòng thứ hai trong Mùa Giáng Sinh rất lạnh bắt đầu từ Ga Tàu điện ngầm thành phố New York cách đây 21 năm.

Danny Stewart thấy một cái bọc nhỏ được quấn trong một chiếc áo len trong một sân ga vắng vẻ. Ban đầu, Danny nghĩ đó là một con búp bê, có lẽ do một đứa trẻ nào bỏ lại; cho đến khi Danny nhìn thấy một cái chân nhỏ bé ngọ nguậy. Danny nhận ra ngay đó là một đứa bé sơ sinh, dây rốn vẫn còn nguyên, chỉ mới vài giờ tuổi.

Ðược báo tin, giới chức của tiểu bang đưa cháu vào bịnh viện. Ðồng thời tìm kiếm khắp thành phố để biết cha mẹ của cháu là ai?

Vào tháng Chạp, năm 2000, cũng vào Mùa Giáng Sinh gieo lên niềm hy vọng cho toàn nhân loại, Danny Stewart ra Toà khai chứng việc đứa bé được tìm thấy như thế nào? Bà thẩm phán hỏi Danny: ‘Ông có muốn nhận con nuôi không?’ Danny trả lời là có. Ðó là một ngày định mệnh đầy xúc động để bắt đầu một câu chuyện diệu kỳ. Danny Stewart và người chồng đồng tính Pete Mercurio trở thành cha mẹ nuôi của đứa bé và đặt tên con là Kevin.

Ðối với cha mẹ ruột của Kevin, Mercurio nói rằng vợ chồng mình chỉ thấy cảm thương. Vì bỏ con là một hành động trong cơn tuyệt vọng. Và tôi có thể tưởng tượng ra nỗi thống khổ của họ đến dường nào khi phải rời bỏ một đứa con mà mình rứt ruột đẻ ra”

“Chúng tôi đã luôn nói với Kevin khi cháu còn rất nhỏ rằng: Con không phải bị ghét bỏ! Mà vì tình yêu, mẹ ruột của con đã rời đi ở ngay chỗ mà ba mẹ đã tìm thấy được con.”

Danny nói: “Vợ chồng tôi yêu đứa trẻ này hơn bất cứ thứ gì trên đời. Tôi thực sự không biết thứ tình yêu này tồn tại trên đời này cho đến khi con trai tôi đột nhiên bước vào cuộc đời của chúng tôi.”

Mercurio đã viết một cuốn sách và đọc cho Kevin nghe hàng đêm. Khi lên năm, Kevin nhận ra đó là câu chuyện về mình.

Năm ngoái, câu chuyện rất riêng tư đó đã được xuất bản với tựa đề: “Our Subway Baby” (Em bé tàu điện ngầm của chúng tôi), mà Mercurio gọi là “bức thư tình gửi cho con trai của chúng tôi.”

Hai mươi năm sau, Kevin, năm nay 21 tuổi, là sinh viên năm cuối của trường Cao đẳng Swarthmore. Kevin sẽ tốt nghiệp đại học vào mùa Xuân này”.

Thật là một câu chuyện ấm lòng trong Mùa Giáng Sinh trời rất lạnh.

DXT

Phiếm:

HẦM HÈ BIẾT TRÚT VỀ ĐÂU?

dxt_hamhe.JPG

Đại dịch COVID-19 từ Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc bên Tàu tràn lan, làm người dân toàn thế giới phải lao đao. Thành phố bị phong tỏa, người dân bị cô lập, không mần hoặc ăn (chơi) gì được hết ráo.

Không đươc phép đi làm để kiếm tiền. Cứ bị nhốt ở nhà với vợ, với con. Conthì khóc nhè. Vợ thì càm ràm, cằn nhằn. Ngày này qua ngày khác, ánh sáng không thấy le lói cuối đường hầm. Càng lúc càng tuyệt vọng, làm mình muốn nổi điên lên.

Biết đem cái ấm ức, cái bực tức này trút về đâu? Trút vô lỗ tai của con vợ, đố cha mấy thằng Úc nó dám. Chỉ còn một cách là đem cái hầm hè nầy trút vào lỗ tai các chánh trị gia. Tại mấy cha mới ra nông nổi này!

 

o O o

Theo luật lệ của chánh phủ Liên bang đặt ra là: Từ hải ngoại trở về, ai cũng phải cách ly tại khách sạn do chánh phủ chỉ định suốt 14 ngày. Công du Hoa Kỳ trở về, Thủ tướng Scott Morrison không bị buộc phải cách ly tại khách sạn mà được ở nhà với “bà xã”, em yêu. Mặc dù đang bị cách ly không được phép nhưng Thủ tướng Úc Scott Morrison đã tổ chức một cuộc họp báo tại Dinh Thủ tướng The Lodge. Người dân Úc không ai càm ràm gì ráo; vì cho rằng thôi kệ cho ổng xé rào để phục vụ cho nước, cho dân.

Tuy nhiên khi thời gian cách ly vẫn chưa hết, Morrison đã đăng một bức ảnh mình đang nướng đùi gà. Ăn nhậu với bạn bè trên trang mạng xã hội Instagram. Với lời chú thích: “Ngày 13 của tiến trình kiểm dịch gần như đã hoàn thành… Đêm tối thứ Bảy gà, cà tím, và rau”.

 

Thịt nướng và rau rác làm mồi! Bù khú hết chai này; vặn nút chai kia. Vui hết biết! Nhậu “chui” với bạn bè, lúc bị cách ly, mà còn đem khoe rùm. Ỷ làm Thủ tướng rồi coi trời bằng vung; ngồi xổm trên luật pháp?

Dư luận dân Úc phân hai. Một nịnh Scott Morrison: “Giỏi lắm! Ngon lắm! Tuyệt vời! Cứ thế nhé!”. Nhưng người khác bực bội đem Thủ tướng Scott Morrison ra làm bao cát. Bài đăng của ông ta không được người dân Úc “hồ hởi phấn khởi” đón nhận gì hết ráo! Họ quạu quọ nói rằng: “Scott Morrison làm”. Chơi như vậy kỳ lắm nhe mấy cha. Nước Úc dân chủ chớ đâu phải là nước độc tài cộng sản!

 

o O o

Hịch hạc miền Tây, tánh của dân mình, nên tui coi hành động cuối tuần tụ bè, tụ đảng ăn nhậu tưng bừng của ông Thủ tướng trong lúc bị cách ly, dẫu làm dân Úc hầm hè, nó là chuyện nhỏ như con thỏ. Nó là cơn bão trong tách trà. Vì tui đã biết cái chuyện này nó xảy ra hà rầm trước khi tui đào thoát khỏi chế độ độc tài CS. Tui thừa biết: Tiếng dân kêu khóc mà có lọt tới tai quan thì cũng như đàn khảy tai trâu. Các lãnh đạo trong chế độ độc tài CS, họ chỉ nghe cái họ muốn nghe. Biết cách lãng tai bất cứ lúc nào họ muốn.

Còn cái chuyện làm bậy, bị bắt gặp quả tang, phải đỏ mặt tía tai, tự mình ên xấu hổ là không có đâu. Vì bà con mình ai cũng biết: da mặt của họ dày cui như miếng da trâu. Nên tui nghĩ chánh trị gia xứ Úc nầy, nó cũng “sêm sêm”.

Nhưng lần này, trước cái thái độ quan liêu của quan chức cầm quyền tại tiểu bang Queensland làm tui quạu thiệt nhe! Chẳng qua chuyện vầy: Cháu Lenny, 6 tuổi, cần phải mổ não nên cha cháu là ông Fabio không còn lựa chọn nào khác là phải đưa con mình ra nước ngoài, đến Mỹ. Cho dù biết trước những khó khăn, ông có thể gặp phải khi đưa con mình từ nước Mỹ trở về nhà. Ông Fabio Silveira đã chuẩn bị và thông báo cho chánh phủ Queensland về tình hình của con mình từ nhiều tháng trước. Nhưng hành trình của hai cha con trở về nhà ở Bokarina, vùng Sunshine Coast, tiểu bang Queensland như ông tiên liệu đã không dễ dàng một chút nào! Vì chuyến bay ngày trở lại Úc ga cuối là ở Sydney, nên họ bị buộc phải cách ly trong mộtkhách sạn ở Sydney hơn một tuần. Sau ba lần nộp đơn xin đặc cách để được cách ly tại nhà, đều bị chính quyền tiểu bang Queensland từ chối.

“Tôi hiểu mức độ nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 và hậu quả của bất kỳ sự miễn trừ nào, nhưng chúng ta đang nói về một cháu bé 6 tuổi cần một chương trình trị liệu phục hồi cực kỳ chuyên sâu 20 ngày sau khi phẫu thuật”, ông Silveira nói với chương trình Today của Đài Truyền hình số 9.

Sau khi mời Lenny và ông Silveira làm khách mời trên Today, người dẫn chương trình Karl Stefanovic đã gọi cách giải quyết của chánh phủ Queensland là đáng “ghê tởm”.

Karl Stefanovic đặt câu hỏi, quốc gia kiểu nào làm như vậy với một cháu bé đang bị bịnh nặng mới mổ não từ hải ngoại trở về?

Stefanovic nói: “Hãy xem đứa trẻ bị bại não này, đang bị cách ly trong khách sạn. Thật đáng kinh tởm; nếu chúng ta không miễn trừ cho những trường hợp đặc biệt như vậy. Tôi không biết điều gì đã và đang xảy ra với đất nước này. Chánh phủ Queensland cần xem xét vấn đề này và sửa chữa nó ngay lập tức”.

Sau khi xem câu chuyện của Lenny trên chương trình Today, Bộ trưởng Y tế Liên bang Greg Hunt đã thúc giục chánh phủ Queensland cho phép Lenny được trở lại tiểu bang. Cuối cùng trước sức ép dữ dội của dư luận từ tâm, chánh phủ Queensland phải nhượng bộ bằng cách chấp thuận cho Lenny Silveira được đoàn tụ với mẹ ở nhà. Bạn không thể lau sạch nụ cười trên khuôn mặt Lenny khi cháu nhìn thấy mẹ và anh chị em của mình tại phi trường, ngày gặp lại.

o O o

Nhưng câu hỏi hiện đang được dân Úc đặt ra là: “Tại sao lại phải xuất hiện trên chương trình Today của Đài Truyền hình số 9 thì mới được những quan chức cho phép Lenny và Fabio trở lại Queensland?”, “Giám đốc Y tế của Tiểu bang Queensland đã biết từ tháng 7 thì không nên để chuyện đó được lên truyền hình rồi mới đưa ra quyết định”.

Câu trả lời có lẽ là do hành xử quan liêu, máy móc. Dửng dưng trước cái khổ đau của người khác. Sợ trách nhiệm. Sợ mất cái “job” rất thơm. Lương Giám đốc Y tế của tiểu bang Queensland tới 622,000 đô một năm, nhiều hơn cả lương Thủ hiến. Tất cả những thứ đó hình thành cái thói ích kỷ của kẻ có chức, có quyền.

Dân Úc gọi những công chức cấp cao trong guồng máy điều hành của chánh phủ Úc là những con “Mèo mập”. Chúng chỉ biết ăn no rồi ngủ. Chúng lười biếng, không muốn động móng tay, làm bất cứ chuyện gì mà không có lợi cho mình.

Tiểu bang Queensland tự hào khoe mình là “Sunshine state” (tiểu bang đầy nắng ấm). Nhưng trong trường hợp nầy, chúng ta lại gặp tình người đối xử với nhau lạnh như nước đá.

May phước là ở nước Úc, chúng ta còn giữ được quyền Tự do ngôn luận, giữ được quyền Tự do báo chí, truyền thông. Nếu không có những quyền này, chúng ta, những người dân ngu khu đen cũng phải sống thống khổ, không ai “ke” (care). Sống trong sự dửng dưng của nhà cầm quyền phi nhân, như chế độc tài CS mà chúng ta đã liều chết trốn ra đi.

ĐXT

____________________

Em dạt về đâu mấy nẻo đường?!

Chuyện rằng: “Một anh lên máy bay và ngồi xuống. Liếc nhìn lên, anh thấy một người phụ nữ cực kỳ xinh đẹp, xuất sắc trong vai tì nữ, bước lên máy bay. Em đi thẳng rồi ngồi xuống ngay bên cạnh anh. Háo hức muốn bắt chuyện để làm quen, anh buột miệng:

“Em đi vì công ăn việc làm hay đi du lịch?”

Em quay lại, nở một nụ cười như đóa hoa hàm tiếu sắp mãn khai và nói:

“Ði làm việc. Em sẽ tham dự một Hội nghị nghiên cứu đời sống tình dục của người dân Úc hàng năm ở Melbourne”.

Anh nuốt nước bọt. Ðây là người phụ nữ hấp dẫn, ‘sexy’, tuyệt đẹp mà anh chưa từng thấy! Em lại ngồi cạnh mình suốt cả chuyến bay dài và em sẽ đến một Hội nghị nghiên cứu về tình dục! Quá đã nhe!

Cố gắng đè con lợn lòng đang nổi dậy kêu ột ột đòi ăn cám của em, anh bình tĩnh hỏi:

“Vai trò của em tại hội nghị này là gì?”

“Giảng viên” “Em sử dụng kinh nghiệm cá nhân sâu rộng về giường chiếu của mình để chia sẻ cho cử tọa những sự thật rất thú vị về đời sống tình dục của người dân Úc chúng ta.”

“Thật vậy ư?” anh nuốt nước bọt. “Chẳng hạn như chuyện gì?”

“Chẳng hạn, thổ dân bản địa là những người mê đắm, cuồng loạn nhất về tình dục. Trong khi đàn ông Việt Nam: “Em ơi! Chiều nay 100%” rất có khả năng đưa người tận đỉnh Vu Sơn”.

Nói rồi, em trở nên hơi khó chịu và đỏ mặt.

“Em xin lỗi! Thực sự, em không nên đem những điều tế nhị nầy để thảo luận với anh. Thậm chí em còn chưa biết được tên anh là gì?”

“Ồ! Anh là Vietnamese, người Việt. Tên anh là ‘Nguyễn Văn Dương’. Nhưng bạn bè thường gọi anh là “Mười Dê”.

“Anh rất sẵn lòng và vui sướng được đóng góp vào kinh nghiệm tình dục của em để bài giảng được phong phú hơn. He he!”

***

Các nhà đạo đức (họng) thường cho rằng viết về tình dục là chuyện rất cấm kỵ! Thiên chức của một nhà văn, ‘văn dĩ tải đạo’ không nên đề cập tới đề tài nầy. Trừ trường hợp tác giả là cộng tác viên cho tạp chí ‘Playboy’. Vì bài viết về tình dục sẽ làm ô nhiễm môi trường sống ‘cơm nhà; quà vợ’ của quý anh mình. Nhưng theo ý tui, cho dù có đề cập tới hay lấy cái mền che kín lại thì cái vụ nầy nó vẫn nằm chình ình một đống đó thôi.

Các nước Phương Tây thì nhìn vấn đề tình dục dưới góc độ khác, thoáng hơn nước ta. Coi nó là một nhu cầu như ăn, như uống, không có không được của quý anh mình.

***

Chắc quý độc giả ‘thương mến thương’ đã từng nghe tiếng nhà thơ Tàu Bạch Cư Dị (772 – 846). Quan niệm sáng tác của ông là thơ phải gắn với cuộc đời, gắn với cái hiện thực của xã hội mình đang sống. Thơ phải diễn đạt cho được hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục, thất tình của chúng dân.

Năm Nguyên Hoà thứ 10, Bạch Cư Dị bị hạ tầng công tác, phải đày về quận Cửu Giang giữ chức Tư Mã. Mùa Thu năm sau, đêm tiễn khách ra bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe tiếng đàn thánh thót, âm vang gợi nhớ quê nhà. Bạch Cư Dị bèn:

“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu.

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa.”

(Bùi Giáng)

Người đàn bà trả lời rằng “Tiện nữ vốn là con hát, quê ở Tràng An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc úa tàn, ế khách quá nên lấy chồng làm con buôn nên thường theo thuyền đi đây, đi đó”.

Nghe vậy, tha hương tưởng chừng như ngộ cố tri, Bạch Cư Dị dọn rượu ra đãi! Xin nàng cho nghe lại bản đàn xưa. Ðàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời chìm nổi long đong của mình! Từ lúc còn xuân sắc đến khi xuống sắc, phải lưu lạc giang hồ, gạo chợ nước sông.

Nghe nàng tâm sự, Bạch Cư Dị cũng cảm thương cho số phận lưu đày của chính mình! Bèn làm một bài thơ dài gồm 616 lời, gọi là ‘Tỳ bà hành’ để tặng người em mới quen mà tưởng chừng như là tri kỷ.

 

***

Ðó là hồi xưa cái tình văn nghệ, văn gừng của một nhà thơ với một em đã từng là kỹ nữ. Còn đây là chuyện bây giờ, chuyện của một tay không văn nghệ, văn gừng gì ráo. Mà là một tay Sở Khanh rất cáo.

“Một ‘Má mì’, chủ nhà thổ, thấy một người đàn ông ăn mặc rất lịch lãm, cử chỉ rất lịch thiệp, lịch sự bước vào.

“Tôi muốn gặp Natalie!”

“Thưa ông! Natalie là em đẹp nhứt ở đây nên giá mắc lắm. Có lẽ ông nên chọn em khác giá cả phải chăng hơn!”

“Không! Phải là Natalie mới được”

Ngay sau đó, Natalie xuất hiện và cô em ra giá 1,000 đô la. Không một chút do dự, ông lịch lãm rút ra 10 tờ 100 đô la mới cứng và đưa cho Natalie! Rồi họ đi lên lầu. Sau một giờ, tàn trận, ông lảo đảo rời đi.

Tối hôm sau, ông lịch lãm lại xuất hiện xin được gặp Natalie. Mua những hai lần, nhưng không có ‘discount’ (giảm giá) gì ráo. Vẫn là 1,000 đô la. Ông rút ra 10 tờ 100 đô la mới cứng! Rồi họ đi lên lầu. Sau một giờ, tàn trận, ông lại lảo đảo rời đi.

Tối hôm sau cũng vậy! Ðêm thứ ba liên tiếp. Mây mưa rồi cũng tàn. Natalie hỏi:

“Không ai từng mua em ba đêm liên tiếp cả. Chàng từ đâu đến?”

“Brisbane, thủ phủ tiểu bang Queensland”

“Vậy sao?” Natalie nói. “Quê em cũng ở Brisbane”

“Anh biết! Cha của em đã chết và anh là luật sư của chị em. Bà ấy yêu cầu anh đưa 3,000 đô la tiền thừa kế đến tận tay em. Hy vọng có được 3,000 đô nầy em sẽ rất vui! He he!”

 

***

Câu chuyện trên cho thấy các tiểu bang miền Ðông nước Úc, kinh doanh bán thịt sống, đã được hợp pháp hóa từ lâu. Vậy là các chú Ba từ đại lục lục tục qua đây mua lại lầu xanh treo đèn đỏ để kiếm ăn. Vì kinh nghiệm cả ngàn năm bên Tàu truyền lại là: ‘Nhứt đổ hồ’ nhì chứa thổ’

(Kinh doanh bằng máy đánh bạc, bằng lầu xanh là chắc ăn ‘nhẩm xà’ mỗi ngày hè!)

Mấy anh mình ai cũng biết mại dâm là nghề lâu đời nhất thế giới, được sinh ra từ nạn buôn nô lệ. Những Mã Giám Sinh và Tú Bà xưa buôn người giờ là những doanh nhân thành đạt như Jeffrey Epstein và em Ghislaine Maxwell bên Mỹ vậy. Nhưng đau đớn thay những doanh nhân thành đạt đó sắp mạt! Vì con ‘coronavirus’ đã và đang tàn phá kinh hồn thương vụ bán thịt sống của chú Ba mình. Vì bất cứ thương vụ gì mà làm ăn ế ẩm thì công nhân chết trước; chủ cả từ từ ngã xuống chết theo sau.

Một số nàng Kiều sợ dính vào con ‘coronavirus’ là bỏ bu cả lũ nên không dám làm liều như xưa nữa. Còn em Kiều nào chịu chơi, chơi tới cùng, tới luôn bác tài, thì ráng chòi đạp lung tung để còn sống sót qua ngày vậy thôi. Xưa mỗi tuần có tới 30 khách yêu hoa; giờ còn chưa tới 3 mống. Thì làm sao mà sống?

Ðại khủng hoảng! Thiên hạ thất nghiệp hà rầm! Buôn bán ế ẩm! Ăn không có đủ cái bỏ vô mồm thì chơi nào ai dám! Xưa thì:

“Thúc sinh quen thói bốc rời.

Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.

Giờ thì ngôi hàng Lâm Tri của chàng vắng hoe như Chùa Bà Ðanh; Thúc Sinh đành xin Kiều cho giảm giá. Ðược chút nào hay chút nấy!

Kiều cũng vậy! Ế quá nên nàng cũng phải gật đầu! Chớ 5 năm, lưu lạc trên chốn giang hồ, thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, Kiều chưa hề trả tiền thuê nhà trễ bao giờ.

 

***

Lại nhớ tới nhà thơ xứ Huế, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, năm 1947, có làm hai câu thơ đối nhau chan chát là:

“Núi Ngự không cây chim đậu đất

Sông Hương vắng khách ‘đĩ’ kêu trời.”

Mấy Kiều nữ ở thủ phủ Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc Châu nầy cũng kêu trời y như thế. Lệnh cô lập do chánh phủ tiểu bang Victoria ban ra từ giữa đêm 27 tháng Năm, năm 2021, kéo dài suốt 7 ngày làm những lầu xanh xứ Úc nầy đây lại phải cửa đóng, then gài. Những ngọn đèn đỏ thân quen, mới mở cửa buôn bán ‘thịt sống’ ì xèo chưng mấy tháng nay giờ lại tắt!

Con COVID-19 măc dịch từ thủ phủ Vũ Hán tỉnh Hồ Bái bên Tàu nầy sẽ làm các Kiều nữ nhập cư sẽ về đâu đêm nay khi trời Melbourne sụp tối? Seoul, Hàn quốc hoặc Bangkok, Thailand quê nhà của mấy em thì xa xôi vời vợi quá!

Kiều ơi! Những người em phấn lạt, phai hương. Em dạt về đâu những nẻo đường?!

Ðèn đỏ đã tắt ngúm! Ðâu rồi ôi những đêm vui? Làm tui buồn quá mạng!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

______________________

Đường xưa nhà cũ

Một nhà biên khảo ở Toronto, Canada có viết một bài dài và rất công phu về quê hương của ông, tựa là: Mỹ Tho miền ký ức.

“Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, tui tâm phục, khẩu phục ông. Vì chuyện tư, chuyện riêng, người ta giấu gần chết mà ổng học gồng, dám phun tùm lum, tà la trên mạng mà hổng sợ chúng nó la?

Ngoài cái tánh cực kỳ can đảm, dám ngồi xổm trên luật bảo vệ đời tư; ổng đúng là một thổ địa của xã Điều Hòa (sau là tỉnh lỵ rồi tới thị xã trước khi chúng ta bị sập tiệm. Danh xưng đổi tùm lum cho vui. Chớ tên gì thì nó cũng dùng để chỉ một vùng đất nằm dọc theo bờ sông Mỹ Tho đó thôi.

“Chẻ tre bện sáo cho dày.

Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp em”)

o O o

Bà con Miền Tây mình, chắc ai cũng hiểu “thày lay” là xen vào việc của người khác, khôngdính dáng gì đến mình. Nhưng trường hợp nầy là khác. Bài viết của ổng códính chặt như keo super glue vào đường xưa, nhà cũ của tui! Nên tui rành sáu câu, tui mới dám “thày lay” chút chơi; để đỡ buồn như dế kêu thời ôn dịch, bị cô lập, bị giới nghiêm buộc phải ngồi chong ngóc trong nhà!

Tác giả viết về đường Gia Long, Mỹ Tho (sau 75, là đường Ba mươi tháng Tư) là: “Nếu có ai hỏi tôi con đường nào đẹp nhất Mỹ Tho, thì tôi sẽ không ngần ngại trả lời rằng đó là con đường Gia Long. Phải, chỉ mỗi việc con đường chạy dọc theo sông Tiền Giang đã nói lên được điều nầy rồi”. Ổng gọi “sông Tiền Giang”, nghe hơi ngứa hai cái lỗ tai trâu của tui; nên tui xin “thày lay” là: “Hồi những năm 60s, con sông Tiền Giang (theo ông viết) nầy tui thường nghe bà con gọi là sông Mỹ Tho. Chỉ sau 75, mới gọi là “sông Tiền Giang” (giang là sông rồi mà gọi như vậy dư một chữ sông).

Ông bà mình xưa giờ thường lấy tên đất đặt tên sông. Vi-xi thì làm ngược lại, lấy tên sông mà đặt tên đất. Há mấy cha không biết chữ “đất nước” hay sao? Đất trước rồi mới tới nước. Chớ không ai nói “nước đất” bao giờ! Cách đặt tên ngược ngạo như vậy đã là sai. Mà chọn cái tên song cũng hổng giống ai.

Vĩnh Long chỉ nằm trên bờ sông Tiền mà dám lấy tên Cửu Long (sông cái, sông mẹ của sông Tiền và sông Hậu) đặt tên ên cho mình!

Còn vùng đất mang tên tỉnh Hậu Giang (Chương Thiện ngày xưa) thì cách sông Hậu tới gần 60 cây số. Nó nằm ở bìa rừng U Minh Thượng, trên bờ Kinh Xáng Xà No. Thì phải đặt tên là tỉnh U Minh Thượng hay tỉnh Xà No mới đúng chớ!

Rồi còn có một cái tên quái đản nữa, sau 75, là: tỉnh Sông Bé. Chắc tại tên “Bé” nên nó teo, rồi biến mất tiêu luôn. Sau năm 1996, không còn ai nghe tới tên nó nữa.

Sau đó mấy chả còn đổi tên tỉnh Định Tường thành tỉnh Tiền Giang. Tui hổng hiểu tại sao những gì thuộc Chúa Nguyễn, rồi thời Gia Long những người đã đưa lưu dân vào khai phá lập nghiệp ở cái đất nầy, dù chết đã lâu mà vẫn còn bị thù dai cho đến thế! “Ê, ăn cháo đá bát, vong ơn bội nghĩa như vậy coi kỳ lắm đa!”.

Rồi tác giả viết tiếp như vầy: “Đối diện Vườn Hoa Lạc Hồng là dãy phố lầu. Cuối dãy phố lầu nầy là Ty Ngân Khố; đối diện bên kia đường Lê Lợi là Ty Bưu Điện.

Tui xin “thày lay”, thôi nói trần trắng trợn ra, là ổng nói trật lất! Tính theo số nhà từ nhỏ tới lớn, Ty Ngân Khố không phải cuối mà phải nói đầu dãy phố mới chánh xác. Đối diện bên kia đường không phải là Ty Bưu Điện mà là tư dinh của Tham Mưu Trưởng Sư đoàn 7, cấp bậc phải là Đại tá. Tui nhớ đâu khoảng năm 1968 Mậu Thân là Đại tá Tuệ. Tui thấy ổng đi đánh quần vợt sân gần nhà tui hoài. Kế tư dinh nầy mới là Ty Bưu Điện, số 33 đường Gia Long. Còn số 31 là tư thất dành cho ông Trưởng Ty. Có tới hai số nhà nhưng chỉ có một tòa nhà liền lạc mà thôi. Tui ở số 31 vì bà Trưởng Ty Bưu Điện kêu tui bằng thằng. Dám kêu tui bằng thằng vì bả dám đẻ ra tui. Tức bả là má của tui! Hi hi!)

Sau chót, khi kể về con đường Gia Long, tác giả viết tiếp là: “Nhắc tới Ty Bưu Điện là tôi nhớ ngay tới anh Phạm Phú Lộc ở cùng xóm Trịnh Hoài Đức với tôi làm Trưởng Ty Bưu Điện Mỹ Tho. Anh ở nhà vợ khu Chợ Cũ gần Bến Tắm Ngựa, thế nên mỗi ngày anh đón đò máy dưới Bình Đại lên để đi tới Vườn Hoa Lạc Hồng rồi đi bộ tới Ty Bưu Điện làm việc, cả hai lượt đi về nên bạn bè gọi anh là ông Trưởng Ty đò máy”.

Nên tui e rằng cái giai thoại ông “Trưởng Ty đò máy” nầy chắc tác giả kể nghe cho vui rồi bỏ! Chớ người trong cuộc, biết đầu đuôi gốc ngọn, nghe nó tức anh ách hè.

Tui xin “thày lay”, sửa lưng tác giả là: “Bất cứ ông nào nhậm chức Trưởng Ty Bưu Điện Mỹ Tho thì được quyền ở số 31 đường Gia Long, tư thất dành cho gia đình ông Trưởng. Sáng 8 giờ, chỉ cần mở cửa từ bên này là bước vô văn phòng liền. Cả đời, tui chưa hề thấy ai tới sở làm mà mất chưa tới 5 giây. 12 giờ mở cửa về nhà ăn cơm. 2 giờ mở cửa qua làm tiếp tới 6 giờ tan sở.

Sở dĩ tui rành 6 câu vọng cổ như vậy là vì tía tui đã từng làm Trưởng ty Bưu Điện Mỹ Tho từ năm 1966 tới năm 1970. Mà không phải riêng Ty Bưu Điện Mỹ Tho, Ty Bưu Điện Cái Bè, Ty Bưu Điện Rạch Giá, Ty Bưu Điện Ban Mê Thuột những nơi tía tui đã từng tùng sự đều y như thế cả.

Hồi còn ở Ty Bưu Điện Mỹ Tho, lâu lâu buồn buồn, hổng có việc gì làm, tui bèn kiếm chuyện chọc cho chúngchửi chơi. Tui chọc quê mấy em trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân. Đến cổng trường của em nằm trên đường Ngô Quyền, đối diện chùa Phật Ân để ngày ấy cây si anh trồng ngay lối đi hay sao? Tui đâu có khờ đến thế. Tui hằng biết câu thành ngữ: “Cọp xuống đồng bằng…”. Léo hánh tới cái “đồng bằng” có hai cái nháy nháy đó, lỡ xui gặp một em “Này này chị bảo cho mà biết,Chốn ấy hang hùm chớ mó tay” thì tui biết giấu cái mặt mẹt quê xệ của mình vô chỗ nào khi nghe em nói trúng ngay chóc cái tim đen? Chi bằng chó cậy gần nhà, dê mấy em mướn hộp thơ lưu trữ của Bưu Điện. Đầu tiên em móc xỉa tháng 5 đồng, mướn một hộp thư ở Bưu Điện Mỹ Tho. Kế đó, chọn cái tên nào nghe hoànggia, đọc lên cứ tưởng tiếng Tây như: Tôn nữ Mộng Sâu (đừng quên bỏ dấu nặng dưới chữ Mông). Sau đó viết vài hàng gởi anh trìu mến, rồi nhờ tuần san Phụ nữ Diễn đàn đăng miễn phí vào mục “Tìm bạn bốn phương”.

Chỉ một tuần sau là thư viết từ chiến trường sẽ bay về hộp thơ của em tới tấp. Em sẽ bận túi bụi để trả lời. Và thằng Tèo em cũng bận túi bụi bóc tem từ bì thơ ra để sưu tầm. Thấy em “mi nhon” chiều thứ Sáu tuần nào cũng tới; tui biết tỏng là em đang nối dòng lá thắm với  non chục ngườitình không chân dung. Tui đang ngồi tòng teng trên cây nhãn trước bực tam cấp vào Bưu Điệnnhư Tôn Ngộ Không thì thấy em yểu điệu thục nữ bước vô. “Tui méc máđó nhe! He he!”. Nghe vậy, em bĩu cái môi cong cong, “xí” một tiếng. Hơi em dài cũng cỡ kép Giang Châu, vai Trùm Sò, xuống sáu câu vọng cổ vậy.

Có bữa, tui cắc cớ núp sau dãy hộp thơ lưu trữ chờ em tới để nhát ma em. Khi em mở khoá, thò bàn tay búp măng, trắng như bông bưởi, tính lấy thơ thì đụng cái bản mặt đen sì như Bao Công của tui phía sau dãy hộp thơ lưu trữ trống hoác (để bưu tá bỏ thơ vô). Em tưởng là đụng phải con rắn nên thiếu điều em chết giấc!

 

Vâng đường xưa, nhà cũ, quê hương thương nhớ của tui là vậy đó.

Ai nói trật chìa tui hổng chịu đâu nhe!

ĐXT

_____________________

dxt_tro vê mai nha xua.JPG

Về mái nhà xưa!

 

Những kẻ tha hương cuối tuần hay tụ tập uống dăm ba ly rượu, văn nghệ cây nhà lá vườn, biết gì chơi nấy. Tiếng đàn ghi ta trầm buồn của một anh bạn văn nghệ, (mới gặp lần đầu), xưa vốn là một trưởng ca đoàn cho nhà thờ Tân Ðịnh, Sài Gòn, trải lòng với bản ‘ Về mái nhà xưa!’ (Come back to Sorento!)

Tui cũng góp buồn bằng cách diễn ngâm bài thơ ‘Chạm cửa thiên đường!’ của chính mình trên nền tiếng sáo trúc của Tô Kiều Ngân.

“Vượt trùng dương ngàn cơn bão. Em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo. Em chạm cửa thiên đường! Cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến. Chiều thu buồn, em nằm lại Kuku!

Hòm Cao uỷ phủ thân người yêu dấu. Thay vòng tay anh ấm, tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất! Mả lạn tàn phai; sương gió thời gian. Mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ!

Rượu cay đắng mang theo rửa cốt người yêu dấu. Chiếc nhẫn cưới còn đây. thương hoài tay áp út! Anh hú, anh kêu; tiếng hú chiều tuyệt vọng! Ôi! em yêu! Ôi! đất hỡi! Trời ơi! Sao đóng cửa thiên đường? Khi bàn tay em chạm tới!

Bài thơ khóc em chiều Kuku; ngàn thu vĩnh biệt. Anh mang hài cốt em theo;mình vĩnh biệt Kuku! Kuku! Chiều thu lá rụng! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?!”

Anh bạn văn nghệ mới quen nầy, mặt xương xương, vẻ khắc khổ nên trông già đi trước tuổi, sau cặp kính cận, hình như mắt anh rưng rưng đầy ngấn lệ… như cố che giấu đi một nỗi buồn sâu kín đã suốt bao năm!

“Tôi đâu ngờ bài thơ nầy tác giả lại là anh! Người anh đề cập trong bài thơ nầy, trong cái bi kịch đau lòng đó lại chính là bi kịch của một quãng đời tôi! Hơn 30 năm rồi còn gì nữa!”

***

“Tháng Sáu, năm 1982, lúc tôi chưa đầy 26 tuổi, cùng người vợ mới cưới đã liều mình xuống thuyền vượt biển. Sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương.

Kuku là tên một rẻo rừng dừa trên đảo Jemayah, thuộc quần đảo Anambas, tỉnh Riau, cách thủ đô Jakarta của Nam Dương hơn 1300km.

(Kuku có nghĩa là “Cậu”, âm theo tiếng Hoa! Vì cách đây hơn nửa thế kỷ có một người Tàu đã đến đây khai hoang để trồng dừa. Ông là một người tốt bụng, thường giúp đỡ dân nghèo nên được mọi người thương mến gọi bằng “Cậu”. Sau đó, dân địa phương ở đây đặt tên rừng dừa này là Kuku.)

Bây giờ, Kuku đang ở trước mặt! Bãi biển thênh thang ngày xưa bây giờ hẹp lại vì rừng lấn dần ra biển! Cầu tàu, rồi các dãy lều tạm cư đã biến mất vào hư vô? Chỉ còn xác mấy chiếc ghe vượt biên trơ sườn; vì cát biển theo hàng vạn đợt thủy triều, nắng gió đã chôn vùi phần đáy, nhưng thuyền vẫn còn ráng nhú mũi ghe lên nắm níu, như một bia mộ của một thời dâu bể… (Như bảo: Nhớ đừng quên!)

Cả một rẻo rừng rộng lớn, từng xôn xao bóng hàng ngàn người tỵ nạn năm nào, bây giờ chỉ là một vạt rừng dừa xanh ngăn ngắt, hoang vu! Vì khi những thuyền nhân VN cuối cùng rời Trại tỵ nạn Kuku để chuyển về Trại tỵ nạn Galang, để chờ đi định cư ở một nước thứ ba, chánh quyền địa phương thiêu rụi lều trại Kuku để phòng ngừa dịch bệnh.

Từ đấy, Kuku lại trở về hoang vắng, tiêu điều cho đến nay. Tôi không nhận ra cảnh cũ vì mọi dấu vết đã bị thời gian xóa nhòa gần hết. Ðâu rồi Văn phòng Cao ủy? Ðâu rồi Trạm xá của Trại Tỵ nạn? Ðâu rồi bãi đáp trực thăng trên đỉnh đồi nơi tôi đã từng chôn xác vợ tôi?

Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. Tôi đã chôn theo gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách khi chiếc tàu Cao ủy rời xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Và hôm nay, hăm bảy năm sau, tôi đã giữ tròn lời thề năm cũ. Ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành phải không?

***

Huyệt mộ là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi và khi chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm nilong lúc hạ huyệt cũng sâu tới chừng hai thước đất.

Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Nhờ tấm bọc bằng nhựa khá dầy và chắc chắn của Cao ủy, xác vợ tôi được nằm trọn vẹn bên trong mà không bị xiêu lạc hoặc bị rễ cây đâm xuyên dù hài cốt đã bị phân hủy gần hết.

Khi hài cốt vừa được đưa lên khỏi huyệt mộ, trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Mưa xối xả như giúp gội rửa thân thể lấm lem của những người phu mộ vất vả cả buổi sáng!

Mưa như để xóa nhòa đi những dòng lệ tiếc thương của tôi, những dòng lệ chất chứa qua bao tháng năm dài lầm lũi một thân trên bước đường tỵ nạn.

Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi tìm lại em!

Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long. Những di vật như gương lược nầy, Hiền, một em gái nhỏ mới 14 tuổi đi chung chuyến thuyền vượt biển, nhắc: “Anh cho đem theo áo quần, gương lược để chị ấy xài…” Thịt xương vợ tôi đã rã tan nhưng chiếc nhẫn cưới vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Tấm mộ bia cùng với tấm bọc của Cao ủy cho, được gửi lại xuống lòng huyệt! Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 27 năm qua.

Còn hài cốt của vợ tôi được hỏa thiêu ngay trên hai cái hố sâu đào trên cát. Ngọn lửa bùng lên và hài cốt dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi.

Những tro vụn và tàn củi còn sót lại được gom vào hai chiếc bao lớn mang theo lên ca-nô để rải xuống biển trên đường tôi về lại Letung. Ráng chiều từ từ lặn xuống cuối chân mây! Hoàng hôn bủa lưới nhanh trên biển.

Nắm tro tàn của em, tôi sẽ mang về lại quê hương Việt Nam! Tôi bỏ chiếc nhẫn cưới ngày xưa lại vào hũ tro cốt của em trước khi gởi nó vào Nhà Thờ Tân Ðịnh.

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.

Nghe hết chuyện tình buồn của anh, mắt tôi cũng rưng rưng đầy ngấn lệ! Chúng tôi cạn ly rượu đỏ như màu máu!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

_____________________

PTG_1_Bán thân màu.jpg

Đường Phan Thanh Giản!

Nhà thơ Cao Tần trong bài ‘Cảm Khái’ với những lời thơ trác tuyệt:

“Đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ.

Những tên người tên tỉnh đã xa xưa.

Những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ.

Những đường quen không trở lại bao giờ…”

Vâng một trong những con đường quen không trở lại bao giờ là đường Phan Thanh Giản! Một ở Cần Thơ và một ở Sải Gòn!

***

1. Đường Phan Thanh Giản ở Sải Gòn.

Đường Phan Thanh Giản ngày xưa bắt đầu từ Ngã Bảy chạy tới cầu Phan Thanh Giản bắt qua Rạch Thị Nghè!

Ông Phan Thanh Giản là cha, ông Phan Tôn và ông Phan Liêm là con. Nên đường Phan Thanh Giản có hai con đường nhỏ song song, qua khỏi nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi, là đường Phan Tôn, Phan Liêm.

Giờ bị thay bằng Ðiện Biên Phủ thì hai ông Phan Tôn và Phan Liêm dù chết đã lâu cũng bị cắt lìa với thân phụ của mình.

Ai cũng biết dòng họ Phan là những người yêu nước. Vì sau khi ông Phan Thanh Giản uống thuốc độc quyên sinh, hai người con của ông vẫn tiếp tục theo lãnh đạo nghĩa quân mà kháng Pháp ở Vĩnh Long. Thì làm gì có cái chuyện “Phan Lâm mại quốc; triều đình khí dân”

(Với động từ ‘mại’ là ‘bán’ và ‘khí’ là bỏ, tức: Phan (Thanh Giản), Lâm (Duy Hiệp) bán nước; triều đình bỏ dân như sử gia Trần Huy Liệu nói tầm ruồng, tầm bậy, tầm bạ)

Ông Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Hiệp bán nước? Lời kết tội rất nực cười!

Muốn bán trước hết mình phải có, phải sở hữu mới có mà bán! Đất nước lúc đó là dưới quyền cai trị của triều Nguyễn và Vua Tự Đức đã sai ông Phan Thanh Giản làm Chánh Sứ, ông Lâm Duy Hiệp làm Phó Sứ qua Pháp thương lượng để chuộc ba tỉnh Miền Đông.

Nếu cho rằng theo ông Trần Huy Liệu kết án ông Phan Thanh Giản bán nước là có đi. Bán nước, ắt ông Phan phải có rất nhiều tiền, vàng! Tại sao ông Phan không sống mà hưởng? Lại nhịn đói hơn nữa tháng, khước từ sự đối đãi ân cần, cản ngăn, van nài của giặc Pháp khuyên ông ngừng tuyệt thực; rồi cuối cùng ông dùng độc dược quyên sinh?

Tại sao hai người con Phan Tôn và Phan Liêm không lấy tiền vàng đó để vinh thân phì gia, ăn trên ngồi trốc? Mà tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân kháng Pháp trong bưng biền chi cho nó cực khổ ?

Tui e rằng Sử gia Trần Huy Liệu, nếu còn sống, và có lòng tự trọng cũng không trả lời cho thoả đáng những câu hỏi nầy cho được!)

2. Đường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ.

Đường Phan Thanh Giản (Xô Viết Nghệ Tỉnh) bắt đầu từ đường Duy Tân (Hoàng Văn Thụ) từ bờ sông Cái Khế qua đường Võ Tánh, rồi qua cổng trước Trưởng Phan Thanh Giản!

Con đường đó không có gì đặc biệt nếu so với những con đường khác ở Cần Thơ! Nhưng tui yêu con đường đó! Vì nó chiếm giữ trong lòng tui quá nhiều kỷ niệm của một thời rất trẻ!

(Đường Duy Tân cũng bị xoá tên cho dù Duy Tân là một vì vua yêu nước! Ông không màng tới ngai vàng, tới cuộc sống phú quý vinh hoa trong vòng nô lệ mà tìm đủ mọi cách để thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp! Đến nỗi bị chúng bắt lưu đày tới tận đất Châu Phi!)

***

Ðặt tên đường là việc rất lớn. Ðặt tên đường để người dân có thể tìm ra được nhà ai đó. Cùng lúc là để họ ôn lại lịch sử về danh nhân để càng hiểu, càng yêu đất nước mình nhiều hơn nữa!

Thái độ bất kính với tiền nhân nhứt là đối với những người yêu nước thương dân như: Vua Duy Tân, Đại thần Phan Thanh Giản là một tội ác không nhỏ chút nào về Văn Hoá!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

DXT_ToThuyYen.jpg

đoàn xuân thu

Đọc ‘Trường Sa Hành’

của Tô Thùy Yên

khi biển không yên!

________________

Trung Cộng từ khi chiếm được Hoa Lục năm 1949, bắt đầu giương oai diễu võ! Với đầu óc nông dân đặc sệt cả mấy ngàn năm, triều đại nào, hoàng đế Trung Hoa nào bao giờ cũng nghĩ tới giành giựt đất đai, lấn chiếm ao hồ của hàng xóm nhỏ hơn, yếu hơn mình. Cứ chờ thời cơ rồi ngày gặm thêm một chút.

Như Việt Nam từ thời lập quốc tới giờ núi liền núi, sông liền sông với “Chú Ba” xấu bụng này chẳng lúc nào được yên. Trên bộ thì Ải Nam Quan rồi thác Bản Giốc; dưới biển thì Hoàng Sa rồi Trường Sa…!

Tình hình Biển Đông luôn nổi sóng về cái vụ giàn khoan Trung Cộng lù lù xuất hiện ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, làm người viết lại nhớ tới bài Trường Sa Hành của nhà thơ Tô Thùy Yên viết cách đây đã hơn bốn mươi lăm năm trời ròng rã.

***

Trước bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yến, cũng có những nhà thơ khác làm thơ có tựa là “Hành” như: bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, năm 1940…

Nhưng “Hành” trong thơ nghĩa là gì? Có người cho đó là một thể thơ cổ. Song người viết lại nghiêng về một cách cắt nghĩa đơn giản hơn: Hành là đi, là đến trong từ hành trình, du hành, vi hành, bộ hành hay hành khách… Nhà văn đi và viết thì gọi là ký. Nhà thơ đi và làm thơ thì gọi là Hành. Đi Trường Sa làm thơ thì đặt tên bài thơ là Trường Sa Hành! Chắc vậy?!

Trường Sa Hành coi như một nhựt ký viết dưới dạng thơ khi Tô Thùy Yên đến Trường Sa năm 1974 vào Tháng Ba khi gió mùa Đông Bắc thổi. Chuyến đi này được thực hiện hai tháng sau khi Trung Cộng xua tàu hải chiến rồi chiếm Hoàng Sa ngày 19, tháng Giêng, năm 1974, khiến 75 người lính anh hùng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong lúc bảo vệ biển đảo quê mình.

Trường Sa cách đất liền hơn 400 hải lý, nhà thơ đến bằng tàu Hải Quân và vẫn còn say sóng cũng y như những người lính thú trấn thủ trên đảo (không phải tất cả là ngư dân) trước khi đến Trường Sa có thể chưa biết biển bao giờ?!

Tô Thùy Yên, dân Gò Vấp, dân Sài Gòn, nên đêm đầu ra Trường Sa say sóng, cứ bồng bềnh, cứ tưởng đảo là con tàu vẫn tiếp tục trôi đi. Tả thực và xuất sắc!

Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng!

Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.

Lính thú mươi người lạ sóng nước,

Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.

Đảo san hô Trường Sa lớn, đứng thứ tư về diện tích (0.15 km2) trong quần đảo Trường Sa tên tiếng Anh là ‘Spratly Islands’, lúc nhà thơ đến, không có dân; chỉ có lính…

Mãi khi Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới đưa lính thuộc Tiểu Đoàn 371 Địa Phương Quân (ĐPQ), thuộc Tiểu Khu Phước Tuy, ra trấn thủ trên các đảo: Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn và đảo Trường Sa lớn.

Nhà thơ đến chào, hỏi han (lính) đảo Hiu Quạnh lớn (có thể là đảo Trường Sa lớn mà nhà thơ tự mình đặt tên! Tôi đoán vậy vì nó viết Hoa?!)

Và có thể vì nhà thơ chỉ là khách, lại là quan “văn nghệ,” đến chơi vài bữa rồi đi; trong khi những người lính gian khổ ở lại; nên bước đầu gặp nhau không vồn vã lắm.

Những người lính đó làm “ngơ” cũng phải thôi! Tới đây là cực, là vất vả hết mức rồi thì việc gì phải sợ “quan” nữa chớ?!

Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi

Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.

Ta hỏi han hề, Hiu Quạnh lớn!

Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.

Người sống trên đảo năm ấy là lính Địa Phương Quân, mỗi đảo chỉ khoảng 20 người, từ đất liền ra đảo chẳng bao lâu, nên chưa có ai chết thì hồn ma quỷ làm sao mà có?! Thiệt là hiu quạnh! Thảo mộc cây cối thì hồi nhỏ tới giờ mới thấy; nên hỏng biết tên gì?

Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,

Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên

Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh

Lên xác thân người mãi đứng yên.

Cách bờ xa quá, nơi những người lính thân cô, thế cô, tuân lịnh trên, xa nhà, xa cửa, xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ, anh em đến đây để giữ đảo quê mình.

Xưa ai làm công chức hay quân nhân mà bị đổi đi đảo như Côn Sơn ngay cả Phú Quốc đều mang mặc cảm tự ti là mình bị đi đày, bị bỏ quên giữa trùng trùng sóng vỗ. (Dù sau ba tháng, sẽ có đại đội từ trong đất liền ra thay thế!)

Bốn trăm hải lý nhớ không tới

Ta khóc cười như tự bạo hành

Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,

Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.

Vậy mà những người lính tưởng chừng như bị bạc đãi, bị lạc loài, bị bỏ quên, không ai nhớ đó lại can đảm đánh nhau với Tàu Cộng trang bị hùng hậu hơn nhiều để bảo vệ biển đảo quê mình rồi ngã xuống… nên:

Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.

Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?

Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ

Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.

Dù gì đi chăng nữa, đã sanh ra làm dân Việt nếu phải chết vì đất nước thì chết. Lớp này rồi lớp khác!

 

Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,

Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.

Đám cây bật gốc chờ tan xác

Có hối ra đời chẳng chọn nơi?

Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng

Những cụm rong óng ả bập bềnh

Như những tầng buồn lay động mãi

Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển

Vầng khói chim đen thảng thốt quần,

Kinh động đất trời như cháy đảo…

Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.

Để đêm về sống như người nguyên thủy bên đống lửa, chờ mồi… rồi nhậu!

Ta ngồi bên đống lửa man rợ,

Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,

Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp

Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.

Rồi văn nghệ, ca hát, không có “quan” và “lính” chỉ có “qua” và “chú em.” Rặt ròng Nam Bộ!

 

Chú em hãy hát, hát thật lớn

Những điệu vui, bất kể điệu nào

Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ

Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.

Rượu lâng lâng sầu viễn xứ rồi nhớ tới những người đã được gởi ra đây lúc trước, chiến đấu rồi chết một cách quạnh hiu mà quân tiếp viện đâu… chờ hoài chẳng thấy… như đã từng xảy ra ở Hoàng Sa chỉ mới hai tháng trước.

Ai hét trong lòng ta mỗi lúc

Như người bị bức tử canh khuya

Xé toang từng mảng đời tê điếng

Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.

Ta nói với từng tinh tú một

Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng

Bãi lân tinh thức, âm u sáng

Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.

Đất liền, ta gọi, nghe ta không?

Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.

Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.

Con chim động giấc gào cô đơn.

Người lính đảo, hầu hết là trẻ, là hoa niên, đến đây vì đất liền, chạm địch, đối mặt với quân thù thì xin đừng bỏ chúng tôi lại chiến đấu một mình trên “Hiu Quạnh lớn” đồng bào ơi!

Ngày trắng chói chang như giũa.

Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.

Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ

Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.

Tuổi hoa niên trong binh lửa là vậy đó. Hy sinh phận mình cho đất nước tồn sinh.

Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,

Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,

Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã

Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.

San hô mọc tủa thêm cành nhánh

Những nỗi niềm kia cũng mãn khai

Thời gian kết đá mốc u tịch

Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

Nhà thơ đem “nỗi niềm” kia hỏi Trời và hiểu ra rồi! Hiểu một điều là đất này, biển này, đảo này do những người lính rất bình thường, (không phải là quan quyền chi hết)… gian khổ giữ lấy! Và nhà thơ cúi đầu khâm phục sự gian khổ hy sinh kính cẩn gọi những người lính vô danh đó trong bài thơ của mình bằng chữ “Người,” trang trọng viết hoa.

Sau 1975, các nhà văn nghệ, văn gừng Miền Bắc vào Nam lại tự cao, tự đại… (dù trong thâm tâm cũng phải cúi đầu khâm phục bài thơ này do một nhà thơ tài hoa Nam Bộ duy nhứt trong nhóm Sáng Tạo (chủ lực còn có nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền…) vẫn cón rán “khoèo” một cái là bài thơ Trường Sa Hành của nhà thơ miền Nam Tô Thùy Yên hay; nhưng thiếu tính chiến đấu.

Người viết không phải là nhà phê bình văn học, mạo muội viết ra những điều mình “cảm” về bài Trường Sa Hành của một tác giả nổi tiếng như nhà thơ Tô Thùy Yên là một việc làm mạo hiểm vì dễ bị chê là dốt chẳng hiểu gì thơ.

Tuy vậy, ai chê thì chê; mình hiểu tới đâu hay đó, viết ra chia sẻ cùng bạn đọc thân mến vì trộm nghe có người phê rằng bài thơ hay nhưng không có sức chiến đấu làm mình “tức,” mình “quạu” lên, “quạt” cho nó một trận cho đã tức!

Dà thưa! Tính chiến đấu trong bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên là gian khổ của người lính trong trùng trùng gió mùa khắc nghiệt. Là nắng cháy đến phỏng da vào mùa khô! Còn mùa mưa bão, những cơn bão nhiệt đới đi qua mạnh đến mức dường như thổi bay luôn cả đảo! Thiên nhiên là vậy, khắc nghiệt như vậy nhưng người lính vẫn chịu đựng để giữ biển đảo quê mình.

Rồi quân thù đến, đánh tới cùng, dù biết rằng chấp nhận ra đây là nếu đụng trận là chỉ có chết chứ còn biết rút đi đâu, còn ai tiếp viện? Đảo mà! Xa đất liền quá! Hổng lẽ giơ tay, buông súng mà đầu hàng Tàu Cộng?!

Hai tháng trước khi nhà thơ đến, hải chiến đã xảy ra rồi đó ở Hoàng Sa. Đã có hy sinh! Biết vậy nhưng không có sợ! Dà! Tính chiến đấu ở đây đó thưa “chư vị” thi sĩ miền Bắc!

***

Mỗi người đọc thơ đều có thể hiểu cách khác nhau! Càng nhiều cách hiểu càng tốt! Vì một bài thơ hay như một cái kính vạn hoa, mỗi lần đọc lại bài thơ thì tìm ra cái mới, cái hay, cái lạ là lần đọc trước mình chưa tìm thấy, chưa hiểu hết. Như cái kính vạn hoa, mỗi bức hình tuyệt tác chỉ là những hạt thủy tinh được sắp xếp, như những con chữ được sắp xếp trong thơ, lắc lên lại hiện ra hình ảnh khác, rực rỡ muôn màu!

Bài thơ này viết cách đây đã hơn 46 năm vẫn còn đứng vững và chắc rằng sẽ còn đứng rất lâu vì một lẽ đơn giản là nó hay.

Biển Đông không yên và chắc mãi mãi không yên! Mỗi lần biển không yên, tôi lại đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên để yêu nước mình thêm. Tôi xin cảm ơn ông!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

____________________________

Anh Ba cà khịa

                  Phiếm . đoàn xuân thu 

Năm 2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama, 6 tháng trước khi mãn nhiệm, đã bay Air Force One từ Washington D.C đến Hà Nội cho cá ăn, rồi bay vô Sài Gòn chơi.

Anh Ba cà khịa tuần rồi ngồi nhậu với tui, buồn tình cười khè khè, nhắc chuyện năm xửa, năm xưa, cà khịa rằng: ông Obama không biết cái khỉ mốc gì hết về chùa chiền. Tới Sài Gòn, vô chùa xá Phật mà mười ngón tay của ổng cứ bè, te he ra; chớ không khép khít lại như chúng ta làm. Tui cãi lại: “Lỗi nầy không phải hoàn toàn của ông Barack Obama đâu! Hổng ai chỉ ổng xá. Hồi nhỏ tới giờ chưa làm thì làm sao ổng biết? Lỗi nầy là của bà Elizabeth Phu, cố vấn về an ninh Đông Nam Á, Châu Đại Dương và Đông Á của Tòa Bạch Ốc”. Bà Elizabeth Phu là ai vậy cà? Cái họ của bả theo tiếng Mỹ đã rớt mất cái dấu huyền. Chớ đúng ra là Phù (người Việt gốc Hoa Hải Nam).

Bà Elizabeth Phù sinh ra ở Việt Nam. Tháng Tư năm 75, Sài Gòn thất thủ, gia đình bà vượt biên lần đầu bị CS bắt nhốt hết 7 tháng. Chạy tiền được công an thả ra, rồi họ lại đi nữa. Bị cướp biển hai lần tưởng chết; nhưng cuối cùng họ cũng đến được Pulau Bidong, Malaysia. Một tháng trước ngày sinh nhật lần thứ tư, Elizabeth Phu cùng gia đình, chỉ có 20 đô la trong túi, đến Mỹ vào ngày mùng 3, tháng 12, năm 1979. Sau bao năm từng lê gót nơi quê người, cuối cùng Elizabeth Phu tốt nghiệp đại học và làm cố vấn cho Tổng thống Obama tại Tòa Bạch Ốc.

o O o

Chùa Tàu mà bà Elizabeth Phu xúi Tổng thống Barack Obama đi thăm là Phước Hải Tự, số 73 đường Mai Thị Lựu; trước 75, là đường Phạm Đăng Hưng, ở Đa Kao, Sài Gòn. Phước Hải Tự còn gọi là chùa Ngọc Hoàng, vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do ông Lưu Minh (người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20, dĩ nhiên là theo kiểu kiến trúc Trung Hoa. Chùa còn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Tổ (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề mộc), 13 bà mẹ v.v. Chùa còn thờ cả Thành Hoàng bổn cảnh. Thờ nhiều thần mới thu hút được nhiều loại thiện nam, tín nữ.

Lúc ấy, hòa thượng gốc chú Ba rủng rỉnh có đồng vô, đồng ra, mới sống được phải không nè? Chùa của chú Ba giống như một tiệm tạp hóa, khách đến mua gì cũng có. (Cái loại buôn thần, bán thánh nầy trong nước giờ nghe nói nó có hà rầm, không gọi là chùa nữa mà gọi là trung tâm văn hóa tâm linh đó). Thiện nam chỉ cần thành tâm thắp hương, khấn tên mình, sau đó đến tên “người trong mộng” và sờ vào tượng ông Tơ, bà Nguyệt để hai trẻ được se duyên tơ tóc đến răng long đầu bạc phếu. (Anh Ba cà khịa có làm rồi, đến chùa cầu tình duyên. Kết quả người trong mộng của ảnh lấy thằng bạn thiết của tui. He he!).

Chùa Ngọc Hoàng còn là một ngôi chùa cầu con nổi tiếng ở Việt Nam. Có vợ lâu rồi mà không tọt ra được một thằng cu nào hết. Sợ tuyệt tự, hổng ai nối dõi tong đường, cúng kiến giỗ chạp ông bà gì hết ráo, chú Ba bèn đến để cầu con (trai). (Anh Ba cà khịa cũng làm rồi. Hậu quả, má bầy trẻ sanh đôi đẻ cho ảnh một trai và một gái mới là quái quái! Sợ quá xá, nên chỉ dám cầu một lần thôi. Kẻo em yêu ngon trớn, tới luôn bác tài, sanh đôi lần nữa thì đời của anh Ba cà khịa: bà nội cũng đội chuối khô).

o O o

Nói nào ngay, vốn là dân miền Tây rặt ri, tui chỉ biết ăn phở Bắc (di cư); chớ còn bún chả thiệt chưa nếm thử lần nào. Nghe tui than mủi long quá thể nên Footscray vừa mới mở một tiệm bún chả thì anh Ba cà khịa dắt tui đến để thử coi bún chả nó ra làm sao mà Tổng thống Obama phải cất công bay hang chục tiếng đồng hồ đến Hà Nội chỉ để ăn. Té ra nó chỉ là thịt heo, nướng trên lửa than, ăn với bún và hầm bà lằng các loại rau sống, trong một cái tô, rồi chan ngập nước mắm chua ngọt vậy thôi. So với phở danh trấn giang hồ bấy lâu, bún chả nó thua xa. Thằng Mỹ cũng biết vậy nên viết là: “Bun cha is not a national dish” (bún chả không phải là món ăn quốc hồn, quốc túy của người Việt). Nhưng nó nổi lên vì được Tổng thống Mỹ Barack Obama ghé quán Hương Liên, trong khu phố cổ Hà Nội, leo lên lầu hai, cầm đũa đàng hoàng, ngồi trên ghế nhựa, xơi bún chả và uống beer. Ngày hôm sau, nhà hàng bèn đem hai cái tô, hai chai bia đã cạn nhốt vào trong tủ kính, trưng bày, quảng cáo để mà câu khách.

Anthony Bourdain (1956-2018) chủ xị một cái show truyền hình ẩm thực nổi tiếng cho tập đoàn truyền thong CNN, quay hình một show về ẩm thực, ăn nhậu với trùm đế quốc Mỹ, Tổng thống Obama, người quyền lực nhứt thế giới, nên đâu phải là điều đơn giản như... đang giỡn.

Phải chọn nước nào? Giựt gân là chọn một nước từng thề mẻ rang là đánh cho Mỹ cút; cho dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, để ngày hôm nay: “Xin kính cẩn mời Ngài Tổng thống Mỹ đến quê tớ ăn bún chả ạ!”. (Dà bây giờ, mấy bác cần đô Mỹ nên hạ mình xưng tớ; chớ hết dám xưng chúng ông như thời đánh cho Mỹ cút đâu nha). Rồi Anthony Bourdain nói thêm: “Tôi cũng biết Obama thời niên thiếu đã từng sống ở Indonesia (Nam Dương) chắc thích ăn một tô mì thịt heo cay nồng rồi uống một chai beer lạnh”. Tui e rằng, Anthony Bourdain đoán sai bét nhè, bói trật lất, trật chìa, trật chừng vài cây số. Obama thời niên thiếu có ở Indonesia thiệt. Nhưng Indonesia là một nước có nhiều người theo Hồi giáo nhứt trên thế giới thì làm gì có mì nấu với thịt heo để mà xơi chớ. (Người Hồi giáo không bao giờ ăn thịt heo đâu cha nội!). Mặt khác, ăn cao lương mỹ vị, quốc yến hoài cũng chán, nên trùm đế quốc Mỹ Barack Obama đồng ý nghe lời xúi bậy của Anthony Bourdain xơi bún chả thịt heo nướng vỉ than cho có vẻ bình dân.

Chắc Obama, Tổng thống da màu đầu tiên của Mỹ, nhân tiện xác định khéo: Tui không phải là người Hồi giáo như nhiều người từng chụp mũ tui đâu nhe!

Khu phố cổ Hà Nội, ngồi trên lầu hai của một cái nhà hàng nho nhỏ, trên con đường không có gì to to, trên một cái ghế thấp bằng nhựa, Tổng thống Obama có vẻ thoải mái, lọng cọng (vì chưa quen) cầm đũa gắp miếng chả, hỏi: “Ăn làm sao đây?”.

“Thì đút vô miệng nhai ngồm ngoàm rồi nuốt. Xong chiêu thêm một ngụm beer lạnh”.

o O o

Kết luận: Làm trùm đế quốc Mỹ, ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ, ắt là phải giỏi rồi. Nhưng giỏi không có nghĩa là cái gì tao cũng biết hết ráo. Bởi, chữ có câu rằng: “Những gì mình biết chỉ là một hạt cát. Những gì mình không biết là cả một đống cát”. Không biết là phải nghe theo lời của cố vấn, chuyên gia như Elizabeth Phu và Anthony Bourdain, họ chỉ chọt cái gì thì mình làm cái nấy. Tiếc thay hai chuyên gia nầy chỉ trật lất hè. Làm những người biết chút đỉnh về chùa chiền và về ẩm thực của nước ta như anh Ba cà khịa trông thấy mà đau đớn lòng.

Thấy hai cái vụ cố vấn tầm ruồng nầy làm anh Ba cà khịa mắc cười tới té ghế! Hậu quả là bụng đau, đau lòng hết sức!

DXT

______________________________________________

TL_happymothersday.jpg

Ngày Từ mẫu!

Định cư ở nước Mỹ, nước Úc, nước Canada, bà con ‘Mít’ của mình đều có cái sướng là ăn cái gì cũng gấp hai lần. Tết cũng hai; Tết Tây rồi Tết ta. Ngày Từ mẫu cũng hai. Mother’s Day của Tây rồi Vu Lan của ta.

Ăn hoài hè; hèn chi mấy chị em mình phục phịch, ục ịch như cái hột mít. Còn phe ta cứ vác cái thùng nước lèo è ạch, lịch bịch như con vịt (bầu) đi xuống đi lên quán nhậu. 

(Nhớ coi chừng mỡ máu! Già rồi mình hay sợ mỡ máu cao làm nghẹt tim, xí lắc léo bất tử! Nhưng bác sĩ sẽ vui hơn vì có thêm nhiều bệnh nhân đến khám. Nhiều bệnh nhân là ông, bà bác sĩ kéo ‘Medicare’, tính tiền bảo hiểm mệt nghỉ. 

***

Mà bà con có để ý rằng ngày kỷ niệm hàng năm cho bất cứ ai là người đó sống một cuộc đời đầu tắt mặt tối, cực chết Mẹ. 

Chẳng hạn kỷ niệm 30 tháng Tư, CS chiếm Sài Gòn bà còn mình ai cũng khóc. Rồi Anzac Day của Úc, 25 tháng Tư, tưởng nhớ những người đã ngã xuống hy sinh cho dân Úc nầy được sống tự do mà ăn với nhậu.

Tiểu bang Victoria nơi tui bèo giạt hoa trôi tới hàng năm có tới 13 ngày lể chánh thức hàng năm, do Quốc hội tiểu bang ấn định. Nếu nó rớt vào Thứ Bảy hoặc Chủ Nhựt thì công nhân được nghỉ bù thêm ngày thứ Hai, gọi là ‘long weekend’. Mấy anh mình được tháo ách, nghỉ cày tới 3 ngày liên tiếp, nhậu đã điếu luôn. 

Ai buộc phải đi làm thì chủ cả phải trả gấp hai lần rưởi ngày thường. Vậy cũng công bằng vì thiên hạ đi chơi mà mình lại phải đi cày, phải bù thêm cho tui một mớ chớ!

Ngoài ra Úc còn có những ngày lễ không chánh thức do đại ca Mỹ phát kiến rồi tiểu đệ Úc bắt chước theo đuôi. Dẫu có người càm ràm là: Valentine’ Day, Mother’s Day, Father’s Day… đã bị thương mại hóa, làm mất ý nghĩa sâu xa của nó hết trơn, hết trọi hè! 

Ối nền kinh tế tư bản phải dựa vào sự tiêu thụ mà. Tự do bán và dụ khị mua. Mình hổng mua thì thôi; đâu ai ép uổng thì càm ràm cái giống gì hè?

Té ra thằng cha càm ràm đó là một chàng áo vũ cơ hàn, móc bọc, mậu lúi. Thằng chả túi hổng có một xu nên cà nanh với thiên hạ đó thôi.

***

Mother’s Day của Mỹ, của Úc theo thông lệ hằng năm vào ngày Chủ Nhựt thứ hai của tháng Năm. Năm nay nó rơi vào mùng 9, tháng 5, năm 2021.

Ngày Chủ Nhựt lúc sở sùng, trường học đều đóng cửa. Bà con mình rất hưỡn nên nhà hàng, quán cà phê, siêu thị tưng bừng mở cửa phục vụ tận tình một năm một ngày tạ ơn Từ Mẫu!

Tiệm bán hoa cũng làm ăn khấm khá; khách hàng vô ra nườm nượp để mua hoa cẩm chướng (carnation) để dâng tặng Mẹ mình. Cái truyền thống tặng hoa cẩm chướng nầy là do Anna Jarvis khởi xướng vào ngày 10, tháng Năm, năm 1908, tại West Virginia Hoa Kỳ; vì hồi sanh tiền Mẹ mình cô rất yêu loài hoa ấy.

(Nhưng hổng biết bà con Mít mình có để ý là có lúc Tây nó chọn hoa màu đỏ; có lúc nó chọn hoa màu trắng?

Theo thiển ý của tui là: Màu đỏ của hoa hồng là màu máu của con tim, tim còn máu. là còn đập, là mình còn sống. Còn sống tất còn yêu! Nhỏ thì yêu Ba, yêu Má; lớn lên thì yêu em.

Còn màu trắng là màu của nước mắt, khóc than cái gì mình dấu yêu đã mất. Như mất Mẹ mùa Vu Lan, tức Từ Mẫu của Mít mình, thì những đứa mồ côi cài bông hồng trắng.

Phải hiểu ý nghĩa của màu hoa như thế để giúp mình đi ‘dê’ con gái Úc bằng cử chỉ. Bởi vì dung lời nói có khi mình bị ‘ọt rơ’.

Hồi mới qua Úc, tui khoái khoái một em Hồng Mao (lông màu hồng), Úc gốc Anh, hàng xóm sát bên nhà. Tỏ tình, tui mua tặng em một bông hồng đỏ thắm để em hửi. Một hộp ‘chocolate’ em ăn cho ngọt để em đừng sợ dính với tui thì đời em sẽ nhiều cay đắng.

Hôm sau, tui thấy trong thùng rác nhà em cái bông hồng đỏ thắm tình tui nằm chình ình trong đó. Riêng ‘chocolate’ thì chỉ còn cái vỏ. Té ra em muốn gởi cho tui cái thông điệp là hổng cần tình anh Mít; đời em cũng đã ngọt lắm rồi nhờ hộp ‘chocolate’ của anh.

Hôm sau tui lại tặng cho em một cái bông màu trắng, màu nước mắt. Ý tui muốn nhắn với em rằng: “Em hổng chịu yêu tui là đời tui toàn nước mắt!”

Thấy tui cứ tấn công ráo riết, tỏ tình một cách văn nghệ, văn gừng cảm động dễ sợ đến thế, sợ cầm lòng không được nữa; em bèn dọn nhà đi chỗ khác!)

***

Tình mẫu tử Tây và ta có nhiều điều rất khác. Văn hóa phong tục tập quán vân vân và vân vân…Tuy nhiên tình mẫu tử không có phân biệt chủng tộc màu da gì hết ráo, đứa nào như đứa nấy; ai cũng như nhau. Da trắng, đen, vàng, đỏ thì Mẹ cũng thương con như biển Hồ lai láng, con thương Mẹ tính tháng tính ngày đó thôi.

Giống nhau cách suy nghĩ; nhưng cách biểu hiện giữa Tây và ta nó có khác. Dưới mắt những người con Việt, Mẹ mình là một người phụ nữ yêu chồng, thương con, nên dầm mưa dãi nắng sớm hôm tần tảo: 

“Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt nước buổi đò đông” 

(Thơ Tú Xương).

(Nên nhớ bà Tú Xương buôn bán cực khổ nuôi năm đứa con trước đã. Xong mới tính tới ông chồng Tú Xương; vì ổng tối ngày chỉ nhậu cho đã rồi làm thơ không hè!)

Chính vì sự hi sinh vô bờ bến của người Mẹ nên chúng ta mới có ngày Từ mẫu. Vì Mẹ mang nặng đẻ đau, 3 năm bú mớm. Con lớn xầm xầm cái đầu mà tối ngày Mẹ cứ theo hỏi: “Tèo con có đói bụng không để Mẹ đi nấu cơm?”

Rồi lớn lên, thằng Tèo cưới vợ. Vợ đẻ con, một bầy đông như quân Nguyên. Mỗi lần cái đám lốc cốc tử nầy thăm, bếp nhà Mẹ nghi ngút khói. Làm lối xóm cứ tưởng Mẹ mới mở nhà hàng!

Còn con Tây nhìn Mẹ mình hơi khác. Thấy tài năng của Mẹ không thua gì Bố; có khi còn giỏi hơn nữa kìa. Nhưng cái nhận xét về tài năng của con Tây đối người Mẹ biến thiên hoài, lên bổng xuống trầm theo đời người năm tháng.

1. Lên 8 tuổi. Mẹ cái gì cũng làm được. Mẹ biết đủ thứ, biết thiệt nhiều. Biết ngay cả cái mật khẩu ‘facebook’ của Bố. Biết ngay chóc ngày Bố lãnh lương, được bao nhiêu tiền?

2. Lên 12 tuổi. Té ra có vài điều Mẹ không có biết. Chẳng hạn như Bố hay ngóng qua hàng rào, nhìn cô hàng xóm đang tô hô nằm tắm nắng. Thiên hạ ai cũng biết mà Mẹ lại là người không biết?

3. Lên 16 tuổi. Mẹ mình xưa quá! Mặc thời trang, quần ‘jeans’ xé rách vài miếng vậy mà Mẹ chê xấu hoắc, Mẹ lạc hậu mất rồi! Cứ bắt con ăn mặc y theo ý Mẹ mới được hè.

“Kìa nhìn đứa kia tóc ngắn, quần ‘jeans’ rách hai miếng ở đầu gối, vậy mà cũng gọi là thời trang! Chẳng cách chi phân biệt được là trai hay gái!?” 

“Nó là con gái cưng của tui đó!”

“Xin lỗi ông! Tui không biết ông chính là cha của cô bé ấy!” 

“Không phải cha đâu. Tui là Mẹ của nó!”

4. Lên 25 tuổi. Con gái Tây hổng biết thằng bạn trai mình có phải dòng dõi Bùi Kiệm làm biếng học, thi rớt hoài. Hay là chàng Sở Khanh, chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao? Trước khi quyết định trao thân ngà ngọc về cho nó vọc… là phải hỏi ý Mẹ mình mới được. Cái nầy chắc Mẹ em cũng biết!

5. Lên 45 tuổi. Muốn đập bể cây đàn, dứt gánh sang ngang vì thằng chồng tối ngày chỉ lo ăn nhậu. Sao cứ mãi ngần ngừ? Thôi nó rồi, biết có còn kiếm được ai khác hay không? Ruột rối như tơ vò! Phải hỏi ý Mẹ mình mới được.

6. Lên 65 tuổi. Không còn Mẹ nữa. Tài sản quý nhứt cuộc đời đã lẳng lặng ra đi. Kể từ đây, vui chẳng dám cười mà buồn chẳng dám than! Đâu có ai, kể cả con vợ của mình, nó chịu nghe đâu!

Kết luận: Mất Mẹ rồi ở tuổi nào đi chăng nữa mình vẫn là một đứa bé mồ côi. Hu hu!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

_________________________

Phải chi còn Má!

Bà ‘chằn’ của người viết hồi xửa, hồi xưa là con gái Cần Thơ. Con gái Cần Thơ thì không cắc cớ, nhưng em là trường hợp ‘ngoại lệ’! Yêu là phải lựa ‘thằng’ thông minh, học giỏi, con nhà giàu rồi mới chịu ‘ưng’ cho nó ‘phẻ’! Làm như là Hoa Hậu Venezuela không bằng?

Mà muốn biết thông minh hay không thì ‘em’ thường ra câu đố cho ‘chàng’ giải đáp; để coi cái IQ (xin đọc theo kiểu Việt Nam mình) của ‘chàng’ ra sao? Giống như bây giờ mấy thằng Úc, trước khi mướn người làm, thường ‘interview’. Không qua được ‘interview’ là mình tiêu. Vậy thôi!

“Tiếng anh ăn học làu thông! Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường?” Câu trả lời dễ ợt: “Em về đếm sạch cỏ vườn! Ra đây anh nói: mấy đường khăn lông!” Hỏi vậy mà cũng bày đặt hỏi!

Nhưng có lần em chơi khó, hỏi: “Anh là dân Mỹ Tho. Anh nói: Má anh có quầy bán cơm tấm để nuôi anh ăn học trên đường Huyện Toại. Mà anh có biết Huyện Toại là ông nào vậy hông?”

Mình bí! Nhém chút nữa là em cho mình rớt rồi! Nhưng có lẽ nhờ ‘đẹp trai’ và nói hơi ‘dai’ nên em cho đậu vớt.

Dù em cho đậu vớt nhưng không trả lời được cho em: “Huyện Toại là ông nào?” Người viết rất tức tối! Rất: ‘Hận đời đen bạc! Hận kẻ bạc tình! Hận cả gia đình! Hận luôn hàng xóm!’ Nghĩa là hận hết ráo! Và trong trường hợp nầy người viết còn hận luôn mấy ông soạn sách giáo khoa nữa đó!

Như quý độc giả thân mến từng biết: Trước 1975, thời trung học, từ lớp đệ thất tới lớp đệ nhứt, năm nào cũng có môn Sử Địa, 2 giờ một tuần. Một giờ Sử, một giờ Địa. Giờ học đã ít, mà chương trình học thì ‘thiên la địa võng’. Học Sử Việt từ thuở ‘Được Voi đòi Hai Bà Trưng’ cho tới thời ‘Bảo Đại’! Học từ ‘Tây mũi lõ’ cho tới ‘Tàu khựa, Tàu phù’. Học thiệt nhiều nhưng biết chẳng bao nhiêu vì ‘lớt lớt bên ngoài như xài thuốc đỏ’. Nhưng có cái ngộ, kỳ kỳ là địa phương mình, nơi mình ăn dầm nằm dề thì bù trất? Học trò hổng biết xa hơn cái lỗ mũi. Sử anh hùng dân tộc ngay chính quê hương bản thổ của mình thì mấy ổng không cho vô chương trình. Không học! Sao biết? Nên thấy tên ông Huyện Toại mình cứ tưởng người dưng?

Phàm muốn dạy dân yêu nước phải bắt nguồn từ gia đình. Gia đình là rường cột quốc gia mà! Phải thương yêu cha mẹ, anh em trước. Lớn lên một chút thì bà con cô bác… rồi láng giềng thôn ấp. Lúc ‘dậy thì’, râu măng ‘tí chút’, bể tiếng khàn khàn như con vịt đực… mới ngó qua cô em láng giềng, người em cách giậu mồng tơi xanh rờn chớ! Thương như vậy mới tuần tự nhi tiến và hợp lẽ giềng mối với Đất và Trời!

Vì là phe ta, nên người viết mới bỏ công ‘buồn’ mấy ông soạn chương trình giáo khoa Sử Địa hồi trước 75 lắm nha! ‘Mấy thầy soạn chung chung, ta bà thế giới quá! Còn học trò như ‘em’ lại không biết ất giáp gì về địa phương, về cuống rún chưa lìa, về quê hương bản thổ hết trơn hết trọi á!’

Gần 40 năm sau, xa quê, xa cái xã Điều Hòa, cái Thị Xã Mỹ Tho, quê người, Melbourne, đêm nay viết bài nầy thì con đường Huyện Toại mới trở lại mà hành hạ đứa học trò từ lúc tóc còn xanh mơn mởn ngày xưa cho đến đầu chớm bạc bây giờ!

Ổng là ai? Ông là ai? Là ai? Là ai? Bèn làm cái nghiên cứu, lục lọi thì thấy rằng: Ông Huyện Toại thực ra là Huyện Thoại. Tây, nó viết bỏ chữ h nên thành Toại. Tên họ ổng là: Đỗ Trình Thoại, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (thời VC thì thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).

Năm Quý Mão (1843), đậu Cử nhân tại Trường Hương Gia Định, được bổ làm Tri huyện Tân Hòa (bao gồm khu vực Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay) nên được mọi người quen gọi là Huyện Thoại.

Tây đánh Lục Tỉnh Nam Kỳ, ông chống lại. Vào tờ mờ sáng ngày 22 tháng 6 năm 1861 (Tân Dậu), ông cùng 600 nghĩa quân đánh đồn Gò Công do một sĩ quan hải quân Pháp là Paulin Vial và 27 quân sĩ trú đóng.

Huyện Toại dùng gươm giết được một tên lính Hải Quân Bodiez và đâm trọng thương trung úy Paulin Vial, Trưởng đồn kiêm Giám đốc bản xứ sự vụ Gò Công. Nhưng sau đó, bị trúng đạn, ông hy sinh tại trận tiền cùng với 14 chiến sĩ khác.

Để trả lời một câu hỏi về chính quê nhà mình… mà cần tới 40 năm mới làm được! Thiệt nghĩ mắc cỡ quá! Nhưng trễ còn hơn không!

Sau khi dựng em yêu đang ‘ngáy như sấm’ dậy, để nghe ‘trả lời một câu hỏi’ 40 năm về trước. Người viết còn nhắc cho ‘em yêu’ về quan niệm hồi xưa đi chọn vợ của mình như thế này: chỉ cần có hai điều kiện thôi. Một chánh, một phụ. Chánh là phải đẹp! He he! (con vợ nghe, nó khoái quá trời?) Phụ là phải biết nấu cơm tấm để về nhà tiếp Má mình đi bán… để nuôi mình!

Nhớ ngày xưa em nói em yêu có anh thôi! Không ai ngoài anh nữa? Và em là con gái Cần Thơ chỉ biết làm bánh cống. Còn cơm tấm, chịu thua! Thua thì bỏ. Em nghe hăm; sợ không được làm ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’, nên năn nỉ ỉ ôi: “Anh dạy em đi!”

Người viết từng chạy bàn cho quầy cơm tấm của Má mòn gần chục đôi dép nên rành sáu câu vọng cổ, bèn soạn cái ‘giáo án’ nầy để ‘Dạy con dạy thuở còn thơ. Dạy vợ dạy thuở bơ vơ mới về!’ Trước hết là bày cách cho em lấy lòng Má của mình; sau là cho em biết thế nào là lễ độ! Chớ hổng phải bất cứ cái gì cũng ong óng lên: “Tui biết hết” đâu nha!

Người viết dạy em rằng: Dĩa cơm bì sườn ngon phải nhiều màu sắc đẹp mắt như tranh Picasso. Trắng của cơm, vàng ươm của sườn nướng, đỏ của cà rốt, xanh của dưa leo. Sườn nướng phải mềm, thơm. Bì thịt, thính và bông da ăn phải ngứa răng. Đồ chua phải giòn, nhai rau ráu. Nếu muốn, chơi thêm một trứng gà ốp la nữa cho nó bổ… ‘thận’?

Sườn nướng phải là thịt ‘cốt lết’ ngon, tẩm mật ong, muối, nước mắm, dầu hào, dầu mè, tỏi, hành khô, hạt tiêu cho ngấm rồi đem nướng vỉ than. Chu choa, mỡ cháy xèo xèo, khói thơm bay xa… ba cây số!

Còn bì thịt là thịt nạc mông hoặc thịt nạc vai, ướp muối, hạt tiêu, tỏi, đường, nước mắm. Xong đem ram cho vàng rồi xắt sợi.

Phần nước mắm: nước mắm ngon Phú Quốc, hiệu ba con cá cơm, đựng trong tỉn. Nấu sôi, vớt bọt, nêm đường, giấm, tỏi với ớt bằm pha thêm vài trái dừa xiêm.

Còn đồ chua là cà rốt, đường, giấm, muối, có thể thêm củ cải trắng với dưa leo và cà chua ăn kèm cho đỡ ngán.

Còn phi mỡ hành: hành lá rửa sạch, thái nhỏ, trộn vào tô hành một ít dầu ăn, phi trên bếp khoảng 30 giây để hành vừa chín tới.

Nấu cơm tấm, sau khi đã nhặt hết mấy hạt sạn nho nhỏ còn lẫn trong tấm. Làm ẩu tả, còn sót sạn, cắn nghe cái ‘bốp’ là gãy răng. Không nấu kiểu thường, trừ trường hợp muốn ăn cơm cháy với tép mỡ rắc đường, mà phải đổ tấm, sau khi vo sạch, vào từng vỉ nhỏ, xăm xắp nước, bỏ vào nồi lớn, hấp. Thêm vài cái lá dứa cho thơm ‘râu’!

Sau khi hướng dẫn em yêu thật tỉ mỉ phần lý thuyết, tính dắt ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’ về thưa với Má là: con đi học ở Cần Thơ kiếm được một đứa về đỡ tay đỡ chân cho Má nè! Nhưng chưa lần nào em được ‘hân hạnh’(?) làm dâu thì Má bị tai biến mạch máu não và ra đi khi tuổi mới 40. Má ơi!

Tháng Sáu, Melbourne, trời cuối thu, sắp sang đông. Gió nhiều, mưa cũng lắm. Tới ngày giỗ má rồi. Năm nay như mọi năm, vợ con sẽ làm cơm tấm sườn bì cúng má. Chính tay con sẽ làm nước mắm với ‘bí quyết gia truyền’ nầy cho hai thằng con, hai đứa con dâu và 4 đứa cháu nội ăn, để tụi nó ngả nón cúi đầu mà khâm phục Tía nó cũng biết làm… chớ không phải chỉ chuyên ‘dóc tổ’!

Con đường Huyện Toại, quầy cơm tấm của má ngày xưa đi suốt theo con cả thời niên thiếu cho mãi đến bây giờ!

Thu Melbourne, lá vàng đã đầy trên lối! Dĩa cơm tấm ngày xưa, con đường Huyện Toại và bài hồi ức nầy làm con nhớ Má biết bao nhiêu!

Vợ con, ‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’, nói rằng: nó cám ơn Má nhiều biết bao nhiêu vì Má đã đẻ ra con và cho nó một người chồng rất dễ thương… và dễ dạy!

‘Con Gấu Mẹ Vĩ Đại’ nói một câu rất ăn tiền là: “Phải chi Má còn sống! Giờ dẫu Má có già, có quên trước quên sau hoặc tánh tình khó khăn gì đi chăng nữa, em nhứt định làm bổn phận dâu con… mà dâu ‘ngọt’ chớ hổng có chua; hết lòng phụng dưỡng Má của anh như Má của em! Nhứt định không bao giờ ‘xúi bẩy’ anh đưa Má vô Nhà Dưỡng Lão (Nursing Home) đâu nha?!”

 

đoàn xuân thu.

melbourne

____________________________________

DXT_SonNam_May3.jpg

Nợ áo cơm! 

    

Hồi năm nẩm, trò Phạm Minh Tày của Collège de Can Tho, được Thanh Tịnh (hàng năm cứ vào độ cuối thu…) khuyến khích, đã xâm mình, lớn lối rằng:

“Lớn lên tao viết văn”.

Thằng bạn đồng song với trò Tày: “Viết văn nghèo lắm!”

Ông già phải đem cầm bộ lư và chân đèn trên bàn thờ ông bà cho “trò” đi học, vì không muốn “trò” phải sống với cây tràm, cây trâm bầu, lặn hụp bắt cá lóc! Ba “trò” hổng muốn “trò” nghèo như ổng, sao trò không: “thông ngôn, ký lục, bạc chục không xài” để “sáng rượu sâm banh, tối sữa bò..?!”

Trò Phạm Minh Tày nói là làm. Cái này gan! Bây giờ nhiều thầy chú trong nước cũng như ngoài nước nói mà có làm cái khỉ mốc gì đâu?! Cái lưỡi dài hơn cái tay mà!

Mà không phải bạn đồng song mới lo đâu, mẫu thân cũng lo sốt vó, lặn lội từ U Minh lên Sài Gòn coi thằng Tám chết sống ra sao?

"Mầy lên đây làm gì để sống?”

“Viết văn!”

Bà già hỏi lại: “Viết văn là làm gì? Viết văn có sống được không?”

“Viết một giờ bằng người ta đạp xích lô cả ngày!”

Hởi ôi? Đạp xích lô ngày nào người ta cũng đạp. Còn viết văn đâu phải là bửa củi. (câu này hỏng phải của tui mà là của Tản Đà). Một tuần được một bài thì tiền nhuân bút kiếm được còn thua đạp xích lô xa! “Viết văn là đói nhăn răng! Dù nó có vần ăn nhưng lúc nào còn làm nghề nầy là còn đói dài dài.”

Bụng đói thì đầu gối phải bò. Nhà văn viết lia chia.

“Trước 1975, tôi đồng thời viết cho bảy tờ báo. Sau năm 1975, tôi tiếp tục cộng tác với nhiều tờ báo. Thật ra, tôi mê viết văn hơn viết báo và với tôi, viết văn bao giờ cũng là trọng tâm. Tôi viết báo để kiếm sống và để giải trí…”

Viết lia chia không phải là viết ẩu à nha!

“Tôi tập trung tất cả sức lực và thời gian cho công việc mình theo đuổi, đến mức không làm tròn trách nhiệm của một người cha đối với con cái”

Đối với con cái thì vậy còn đối với phụ thân?

Hãy nghe: “Từ cầu kênh Thứ Sáu vào đến Ấp Giữa, đò máy chạy khoảng một tiếng đồng hồ. Ở phía cầu, gần lộ, còn thấy nhà gạch, vô sâu thấy nhiều nhà lá, hoặc chắp vá nửa lá nửa tôn, hay vài thứ vật liệu tạm bợ gì đó. Không chỉ kiểu nhà cửa sơ sài, mà toàn khung cảnh nửa hoang vu chung quanh đồng toát lên một không khí xa vắng ơ hờ, gợi cho những người thuộc thế hệ tôi cảm giác đi qua ‘vùng kinh tế mới’ ba mươi năm trước. Ngóc nhìn lên hai bờ kênh, nhiều đoạn chỉ thấy lau sậy xanh rì, bông trắng phất phơ. Thỉnh thoảng trước một ngôi nhà xộc xệch có mảnh vườn rau nhỏ, dây lang dây bí bò lan man. Hiếm có cây ăn trái. Những thứ cây mọc lơ thơ quanh nhà hay dọc bờ kênh, tôi không biết tên, ít gặp ở miền Đông. Đất trũng, nhiễm phèn nặng, chỉ mọc các cây mắm, giá, không có giá trị kinh tế, xứ này ngày xưa còn nhờ cá và rừng, khai thác cạn kiệt, lần hồi tàn mạt.

Sơn Nam chỉ vào ngọn rạch mịt mùng nói:

“Quê nội trong đó”.

“Có muốn ghé qua nhà không?”

“Không có tiền về làm gì?”.

Thiệt là đứt ruột!

Còn mẫu thân thì sao? Hãy nghe:

“Khi mẹ qua đời, Sơn Nam hay tin, về đến Rạch Giá, ngồi tàu đò về quê chịu tang. Tàu chạy chừng mười mấy cây số, một người ngủ nãy giờ ở đằng sau tàu chợt thức dậy nhìn thấy ông, bèn chen chân qua đám đông hành khách, tới đứng trước mặt ông. Ông thấy quen quen, hỏi: “Ai vậy?”

Người đó không xưng tên, mà đưa tay vạch túi áo trái của ông ra, nhìn vào không thấy tiền bạc, vạch tiếp túi áo phải, cũng không có tiền.

Sơn Nam hỏi lại: “Ai vậy?”

Người đó vẫn không nói, lục tiếp hai túi dưới của cái áo ký giả Sơn Nam đang mặc, mò luôn hai túi quần tây, rồi nói:

“Người ở Sài Gòn gì mà mặc đồ sáu bảy túi, hổng có đồng xu nào”.

Sơn Nam ngồi trân người hỏi lại nữa:“Ai vậy?”

Người đó mới nói: “Tôi là người vừa chôn Má anh. Bà mất cách đây một tuần ở tại nhà tôi”.

Người này em cô cậu của Sơn Nam, thứ tư.

***

Cách đây không lâu, Đào Thúy Hàng, con gái lớn của nhà văn Sơn Nam đã nói với tui: “Ba tui khuyên tui đừng theo nghề viết văn! Nghèo lắm!”

Ông Sơn Nam, hình như cả đời, chỉ làm có một việc là: “Nói trúng không hè!”

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

___________________________________

DXT_CaiRangbalang.JPG

                                      Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No!

Mỗi người Việt Nam mình là một nhà thơ! Nhưng không phải chỉ mấy anh mới biết làm thơ thôi đâu nhe. Mấy em cũng biết làm thơ và làm thơ rất tới!

“Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No. Anh có thương em thì mua một chiếc đò. Ðể em đi lại mua cò gởi thơ” là của mấy em đó thôi!

Ðêm cuối năm sầu lưu lạc! Nhớ quê nhà quá đỗi, tui bèn tẩn mẩn đem câu hát ru nầy ra chẻ nhỏ gặm chơi. Tui săm soi từng chữ coi có bớt được chút nào nỗi buồn xa xứ hay không?

Trường Ðại học Văn Khoa, môn ‘Ca dao Giảng luận’ Thầy tui, ngày cũ, cho rằng: Thơ truyền khẩu của ông bà mình là Ca dao, (từ Hán Việt). Ca có chương khúc, có vần, có điệu để hát và tấu (đàn hòa theo). Dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.

Nhưng tui hổng có chịu cách cắt nghĩa tréo ngoe như vậy! Vì tui cho đây là lời hát ru của ông bà mình vốn làm ruộng mà đâu có học chữ Hán, chữ Tàu; nên không cần viết theo thể phú, thể tỉ, thể hứng gì ráo của mấy ông Tàu.

Lời hát ru đa phần là buồn quá mạng, tất phải có vần có điệu cho nó mùi, cho nó dễ nhớ, dễ thuộc. Câu lúc dài, lúc ngắn. Gieo vần có lúc ở giữa (yêu vận) có lúc ở cuối câu (cước vận); rồi vần với chữ tiếp theo sau là liên vận lên trầm, xuống bổng.

Nhưng tui hổng dám cãi; vì sợ thầy ‘quạu’ đeo cho bài thi của tui hai cái hột vịt!

***

1. Cái Răng

"Chợ Cái Răng xứ hào hoa.

Phố lầu hai dãy xinh đà quá xinh.

Có trường hát cất rộng thinh.

Ðể khi hứng cảnh thích tình xướng ca!”

Cái Răng là cái Cà ràng. Người Thổ (Khmer) ở miệt Xà Tón (Tri Tôn, Châu Ðốc) nơi có đất sét tốt, làm cà ràng, nồi, ơ, trách, chất đầy một ghe, chở xuống vùng đất nầy bỏ sỉ cho vựa nó bán. Năm dài chày tháng, cái vùng đất chuyên bán mấy cái ‘cà ràng’ nầy được gọi là Chợ Cái Răng.

Cà ràng hình số 8. Một đầu vách lú lên cao, chắn gió, để lửa không tạt ra ngoài để cơm mau chín, canh mau sôi. Tới cái eo thắt lại đủ chỗ đút vô vài ba cây củi. Xong lại phình ra chang bang, đối xứng với cái đầu trên. Trước khi lấy lá dừa khô nhúm lửa, mình cào tro còn sót lại ở trên đầu cà ràng xuống; không cho tro rớt ra ngoài.

Nhớ hồi Má tui đi coi vợ cho tui, vô nhà người ta mà Má cứ xăm xăm xuống bếp làm như ở nhà mình vậy. Tui hỏi: “Chi vậy Má?” “Thì tao coi cái bếp có sạch hông mới cưới nó cho mầy. Chớ cái bếp mà bung thùa cắt cái, mầy cưới về thì con vợ mầy chỉ biết nấu nước sôi”.

Má tui thiệt là bà già Trầu mà. Nếu em yêu hổng biết nấu cơm canh gì ráo thì tui đi ăn tiệm còn ngon hơn nữa, có sao đâu nè?

2. Ba Láng

Láng là vùng đất thấp. Mùa khô láng đầy bùn nhão nhẹt khó đi. Mùa nước nổi, láng nước tràn linh láng; xuồng ghe phải vẹt bèo mà đi. Dân cư thưa thớt; chỉ muỗi, đỉa, vắt thì nhiều. Một Láng đã khổ như vậy thì Ba Láng ắt phải khổ gấp ba.

 

3. Vàm Xáng

Còn cái Vàm Xáng là ngã ba sông, nơi thằng Tây nó đem xáng vào để đào kinh: Một là dẫn nước ngọt từ sông Hậu vô để rửa phèn cho dân làm ruộng, lập vườn. Hai là đem phù sa sông Hậu bồi đắp cho những vùng đất trũng. Ba là tiện bề đi lại bằng đường thủy. Bốn là chợ búa sẽ mọc lên, buôn bán ì xèo, kinh tế phát triển.

 

"Kinh Xáng mới đào, Tàu Tây mới chạy.

Thương thì thương đại, Bớ điệu chung tình!

Con nhạn bay cao khó bắn, Con cá lội dưới ao quỳnh khó câu!"

Xáng chạy bằng hơi nước thoát ra từ nồi ‘súp de’, chụm bằng củi tràm, củi đước sắp sẵn dọc trên bờ nơi xáng đào sắp tới.

Xáng là con quái vật khổng lồ, máy nổ ầm ầm vang xa năm ba cây số. Xáng mạnh tới 350 mã lực với gàu bằng sắt, múc sâu tới 9 thước, được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét.

Mấy thằng Tây làm cai, đứng cao trên xáng, hò hét chỉ huy đám ‘cu li’ người Việt. Trong số ‘cu li’ đó cũng có nhà thơ đã đặt ra câu hát ru truyền khẩu buồn nẫu ruột gan là:

“Ðèn treo dưới Xáng tỏ rạng bờ kinh. Em có thương anh thì nói cho thiệt tình. Ðừng để anh lên xuống một mình bơ vơ”

4. Xà No

Vùng đất tên Xà No (Srok Snor) vì có nhiều cây điên điển. Ðất rộng người thưa, hoang vu chưa có chủ, nên hai thằng Tây Duval và Guéry xin chánh quyền thực dân Pháp cho đào con kinh Xà No. Toàn quyền Lanessan (1891 ­ 1894) cho đấu thầu ở Paris năm 1893.

Năm 1901 bắt đầu đào kinh Xà No tới tháng 7, năm 1903 là xong. Quân nhạc từ Sài Gòn xuống thổi kèn đồng tò le, tí le. Cả bọn gồm Toàn quyền Paul Beau (1902 ­ 1918), đám quan chức địa phương, thân hào nhân sĩ có máu mặt xúm nhau ăn nhậu, khui sâm banh lốp bốp; lại có cả nhảy đầm.

***

 

Con kinh mới cắm “bông tiêu”, xáng chưa nổ máy… chưa đào mà Toàn quyền Paul Doumer (1897 ­ 1902) đã ký nghị định số 338 ngày 14, tháng Hai, năm 1901 cho không hai thằng Tây Duval và Guéry 2,500 mẫu đất tốt hạng nhất (tọa lạc tại làng Nhơn Nghĩa, tổng Ðịnh Bảo, tỉnh Cần Thơ)

Ðiền Tây mướn bọn cựu lính Pháp có súng ống hẳn hòi làm cai điền. Tá điền nào bê trễ việc đong lúa ruộng, hoặc lén lút bắt trộm cá, tôm; ít thì bị bạt tai, đá đít. Nhiều thì giải lên Nhà việc đóng trăn rồi ra hầu Tòa.

Những người nông dân đó đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mà vẫn bị mạt hạng cùng đinh có câu hát ru buồn rười rượi:

“Phải chi tôi ở nhà gạch nhà lầu,

Mỗi năm xâu thuế hai đầu cũng cam!

Phải chi tôi làm chú lái, ông bang;

Mỗi đêm ra dỏ canh làng cũng ưng!

Tôi nghèo cháy nóp chai lưng…

Úy trời đất ơi! Sao không để tôi đi làm thuê làm mướn? Ðặng sống cầm chừng với vợ con!”

Rồi những người Việt theo bợ đít Tây như Tổng đốc Phương được 2,223 mẫu, thuộc các làng Hỏa Lựu, Hòa Hưng, Vĩnh Hòa Hưng.

Còn bọn hương chức hội tề chạy chọt, đút lót cho Tây thì giành đất mặt tiền, “đất mứt”, (sát bờ kinh) lấn bà con dân ngu khu đen vào tuốt bưng biền.

***

 

Xưa giờ nơi nào có hơi tiền là có Chú Ba tới hè. Nhiều nhà máy xay lúa, chành lúa mọc lên. Ghe chài từ Chợ Lớn kéo xuống ăn lúa, đậu đầy nghẹt cả một khúc sông. Chợ được chánh quyền sở tại cất lên để thâu huê chi, buôn bán ì xèo.

Lỡ một cục đất chọi chim cũng không có… thì đành:

“Ngồi trên mui ghe chài lớn.

Cầm lái về kinh xáng Thới Lai.

Nhìn thấy khói đốt đồng mù mịt lên khơi.

Bây giờ anh mới biết chán đời đi ghe”.

Mà sao ông anh chán đời đi ghe đến vậy? Chẳng qua là trên ghe rày đây mai đó. Nếu có vợ rồi cũng đâu được đem theo, trừ con vợ của thằng Chủ ghe chài cho theo để nấu ăn cho cả bọn.

Nếu còn cu ki, chưa có em nào, là thôi rồi Lượm ơi! Ðành: “U Minh, Rạch Giá thị (thiệt) quá sơn trường! Gió rung bông sậy dạ buồn nhớ em”. Hu hu!

Làm ruộng thì không có đất. Ði ghe thì buồn thiệt! Nhưng thôi đừng có dại dột mà nghe lời soạn giả Ðiêu Huyền xúi bậy đi theo VC như nhân vật Thừa trong tuồng ‘Tiếng Hò Sông Hậu’ nhe mấy cha!

 

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Tranh Bảo Huân.

_____________________________________

dxt_reagan.JPG

NHỚ MÃI NỤ CƯỜI DUYÊN

 

Ronald Wilson Reagan chào đời tại thành phố Tampico, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ vào ngày mùng 6, tháng Hai, năm 1911.


Ông tốt nghiệp Cử nhân về Kinh tế và Xã hội học tại Ðại học Eureka.
Năm 1937, ông đến thành phố Los Angeles, khởi nghiệp bằng tường thuật lại những trận banh bầu dục do các điện tín từ khắp nơi trên nước Mỹ gởi về đài phát thanh. Nhờ có giọng nói khúc chiết, rành mạch và truyền cảm, rất thu hút thính giả nên được trả công 10 đô la cho một trận.

Chỉ là những bản tin ngắn mà ông vẽ ra trong đầu cả một trận đấu hấp dẫn, nên sau nầy cũng dựa vào một câu nói của người khác, qua đầu óc hài hước thiên phú, một cách đầy nghệ thuật, ông nâng câu nói đó lên một tầm cao mới.
Chẳng hạn khi một viên đạn do một kẻ tâm thần bắn ra va vào thành xe limousine đổi hướng ghim vào phổi của ông, khi được đưa vào bệnh viện để trấn an Nancy, vợ mình, ông nói: “Em yêu! Hồi nãy, anh quên thụp xuống né!”
Lần mò qua lãnh vực phim ảnh, Reagan dự kỳ tuyển tài tử và được công ty điện ảnh Warner Brothers ký hợp đồng 7 năm.
Tuy nhiên những phim có ông tham gia, ngân sách làm phim rất ít.
Sau nầy, ông nói đùa là: “Ðạo diễn không cần làm phim hay mà chỉ muốn quay sao cho kịp vào ngày Thứ Năm mà thôi!” (Ðể kịp chiếu vào tối Thứ Sáu, cuối tuần).
Tuy nhiên, sự nghiệp diễn xuất cũng đành phải bỏ ngang vì Thế chiến Thứ hai sắp bùng nổ, Reagan gia nhập Không lực của Lục quân Hoa Kỳ với cấp bậc binh nhì. Vì bị cận thị, nên ông chỉ phục vụ trong nước.
Ðến tháng Chạp năm 1945, chấm dứt Ðệ nhị Thế chiến, ông được giải ngũ với cấp bậc Ðại úy.
Tham vọng làm chánh trị đã khiến cuộc sống hôn nhân đầu tiên của ông bị trắc trở. Sau nhiều lần tranh cãi, vợ ông đâm đơn ra tòa đòi ly dị. Bị vợ bỏ, tưởng rằng xui, nhưng ông lại may mắn tìm được tình yêu thứ hai đích thực với Nancy cũng là một tài tử điện ảnh theo ông đến cuối đời.
Có lẽ cũng vì vậy sau nầy làm Tổng thống, ông đã ký một dự luật cho phép ly dị mà không cần chứng minh là phải một bên có lỗi.
Ðây là một sắc luật rất tiến bộ. Còn yêu còn ở. Hết yêu hết ở. Quyền tự do của cá nhân!

Năm 1967, Ronald Reagan được dân chúng tiểu bang California Hoa Kỳ bầu làm Thống đốc thứ 33. Say men chiến thắng, năm 1968, ông bèn ra tranh chức ứng cử viên Tổng thống Mỹ, đại diện đảng Cộng Hòa, nhưng thất bại.
Mãi tới năm 1980, Ronald Reagan, đã 69 tuổi, mới được đảng Cộng Hòa chọn ra tranh cử Tổng thống Mỹ.
Trong chiến dịch tranh cử, óc hài hước thiên phú đã được Ronald Reagan sử dụng như là một tuyệt chiêu vô đối để lên gối, chọc quê đối thủ chánh trị của mình.
Chẳng hạn như ông nói: “Suy trầm kinh tế là khi người láng giềng của bạn bị mất việc; khủng hoảng kinh tế khi chính bạn bị mất việc. Và hồi phục kinh tế chỉ bắt đầu khi Jimmy Carter bị mất việc!”
Quả nhiên Jimmy Carter bị mất việc, Tổng thống Mỹ chỉ một nhiệm kỳ, để Ronald Reagan lập kỷ lục là Tổng thống tân cử già nhứt lịch sử Mỹ. (Kỷ lục Tổng thống già đã bị Donald Trump, 70 tuổi, vượt qua năm rồi)
Khi bị giới truyền thông dè bỉu là già quá thì ông viện dẫn lời của vị Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ rằng: “Thomas Jefferson có lần đã nói với tôi là “Chúng ta không nên phán đoán Tổng thống căn cứ vào tuổi tác; chỉ nên căn cứ  vào việc ông ấy làm mà thôi.” Từ khi nghe ông nói như vậy tôi không thèm lo lắng nữa!”.
Rồi trong cuộc tranh luận với Walter Mondale, đảng Dân Chủ, sanh năm 1928, trẻ hơn ông tới 17 tuổi, vào năm 1984, Ronald Reagan cũng đùa là: “Tôi muốn ông biết một điều rằng: Tôi sẽ không đem vấn đề tuổi tác ra để tìm lợi thế trong chiến dịch tranh cử. Tôi sẽ loại trừ cái ích lợi về chánh trị khi coi tuổi trẻ của đối thủ tôi là thiếu kinh nghiệm!”
Cử tọa cười hí hí vỗ tay! Ngạc nhiên thay, Walter Mondale cười he he và cũng vỗ tay.
Vì câu nói châm biếm nầy hay quá xá! Biến cái điểm yếu về tuổi tác già nua của mình bằng cách nhấn mạnh vào kinh nghiệm, khi so với cái trẻ trung, một ưu điểm rõ ràng của đối thủ chánh trị!
Dù nói đùa, nhưng không rẻ tiền như diễn xuất giả gái, ngạo người tàn tật hay người đồng tính, hoặc nhăn mày, nhíu mặt, cà lăm, làm mắt lé để thọc léc thiên hạ.
So với những ‘comedians’ nổi tiếng khác, phải công nhận Ronald Reagan võ công thâm hậu, bậc thượng thừa.
Reagan từng nói: “Tôi giành được biệt danh nhà truyền đạt vĩ đại. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nghĩ rằng kiểu cách của tôi đã tạo nên sự khác biệt mà chính là phần nội dung; tôi đã truyền đạt những điều vĩ đại.”
Tuổi tác và giọng nói nhẹ nhàng, nụ cười mỉm của Ronald Reagan đã tạo được một hình ảnh nồng ấm, giống như một vị cha già đối với người dân Mỹ.
Khi bàn về cái nghề chánh trị mà mình đang đeo đuổi mê say để đến nỗi bị vợ tẩy chay, vợ bỏ, ông cho rằng:
“Làm chánh trị không phải là một nghề lúc nào cũng tệ hại hết đâu! Nếu thành công sẽ có nhiều phần thưởng; còn nếu thất bại, bị công chúng ruồng bỏ thì mình cũng còn có thể viết sách được mà!”
Rồi khi nghe tin Clint Eastwood, một tài tử cũng tham gia vào chánh trường bằng cách ra tranh cử chức thị trưởng, giống như con đường mình đã đi qua, Reagan tự hỏi:
“Cái gì đã xui khiến ông ấy, một tài tử đóng phim ở tuổi trung niên, người từng có kinh nghiệm chơi đùa với những ‘con khỉ dã nhân’, lại nghĩ mình có kinh nghiệm để thành công trong nghề làm chánh trị?!”
Con khỉ dã nhân ở đây Ronald Reagan ám chỉ những đối thủ chánh trị của ông. Lỡ họ có nghe, tức ói máu nhưng chỉ biết cười hè hè chớ chẳng làm được gì nhau!
Rồi ông chọc quê các chánh trị gia là: “Tôi vừa mới học được một điều luật quan trọng nhứt trong nghề làm chánh trị là phải có tư thế đĩnh đạc, đàng hoàng; nghĩa là hãy làm mình trông giống như một con cú mèo (nghĩa là rất khôn ngoan) sau khi đã hành xử như một con lừa (nghĩa là ngu hết biết).”
Ðối với Mỹ, con lừa (donkey) thường coi là ngu. Nhưng con lừa cũng tượng trưng cho đảng Dân Chủ Mỹ, đối thủ đảng Cộng Hòa.
Khi bị thiên hạ chơi xỏ đem con lừa đến tặng, Ronald Reagan đã nhã nhặn:“Tôi từ chối nhận vì không thể sử dụng được con lừa theo ý của mình. Vì tôi đã có hàng trăm con lừa trên Capitol Hill.” (Capitol Hill, Quốc Hội Hoa Kỳ)
Cái hay, cái duyên ngầm của Ronald Reagan là qua những lời châm biếm đối thủ thâm trầm nhưng không làm họ bẽ mặt.
Ronald Reagan tự trào, đem mình ra làm trò cười, nhưng người nghe biết ông cười thiên hạ. Chẳng hạn để phê phán mấy đứa học hành chẳng ra làm sao, dở ẹc, thì ông nói rằng:
“Rất có lợi khi được dân bầu làm Tổng thống Mỹ. Một ngày sau khi tôi được dân bầu thì học bạ thời trung học của tôi được xếp vào tài liệu tối mật.”
“Làm việc một cách siêng năng cần mẫn không giết chết một ai. Nhưng tui cũng phát hiện ra rằng: Tại sao mình lại liều lĩnh thử coi có phải đúng vậy hay không!”
Hay: “Trưa tôi không bao giờ uống cà phê; vì nó sẽ làm tôi mất ngủ suốt cả buổi chiều. Tôi đã ra lịnh cho cố vấn đừng đánh thức tôi dậy, ngay cả lúc đang họp nội các; chỉ trừ trường hợp đất nước chúng ta đang lâm vào tình trạng khẩn cấp mà thôi!”
Ronald Reagan biết người dân Mỹ yêu mình. Khi bịnh lú lẫn, tế bào não bị hủy hoại, ông không còn nhớ một ai, trừ Nancy, người vợ yêu dấu của ông.
Ông tránh xuất hiện trước công chúng, để người dân Mỹ vẫn còn giữ hình ảnh đẹp về ông.
Ông từ giã quốc dân bằng những lời lẽ cảm động: “Tôi đang đi vào hoàng hôn của cuộc đời. Nhưng nước Mỹ đang đi về phía bình minh.”

Ronald Reagan qua đời ngày mùng 5, tháng Sáu năm 2004, vì bị sưng phổi, thọ 93 tuổi. Nhưng Ronald Reagan vẫn còn sống mãi trong lòng dân Mỹ với những nụ cười ‘duyên’.

đoàn xuân thu

Melbourne

dxt_thitkhoduagia.jpg

                                   Hồn cố thổ!

Tết nào cũng vậy, tệ nạn cờ bạc nó rộ lên như nấm mối gặp mưa. Sòng bầu cua, sòng tài xỉu ngoài xóm. Đang ăn, nhà cái chưa kịp chung tiền, ai đó hô ‘lính tới’ cả bọn chạy thục mạng. Sau mới biết tụi nó chơi đểu, ăn vùa thua giựt. Thiệt là tức trào máu họng.

Còn bài xấu, cái đầu sù sụ con mắt trỏm lơ, mình đi phất phơ như con chó đói. Do đó lỡ binh xập xám, ba phé ba nơi hoài, đầu hôm xao xác bạc tốt như tiên, đến khuya không tiền bạc như chim cú.

Theo tui thì Tết đừng đánh bài là hay hơn hết. Lỡ mình ăn mình vui; thì người thua cũng bà con lối xóm không hè, họ buồn… Mà Tết nhứt mà làm thiên hạ buồn thì lương tâm mình cũng kẹt… ‘phé’.

Cờ bạc là chuyện không nên chơi; thôi mình nói đến chuyện ăn Tết cho nó no, nó vui hơn.

Tết là mứt bí, mứt dừa, mứt me, mứt mãng cầu, mứt gừng, kẹo chuối, chuối khô, …để quý bà uống trà rồi đàm đạo trong những ngày xuân.

Quý anh sui thì đem cái nhạo rượu nếp rót vô ly hột mít, sùi bọt tăm, thơm lừng mùi nếp; gắp miếng củ kiệu tôm khô, đưa vô mồm nhai ngồm ngoàm, xong khà một tiếng.

Đó là sui gia đến nhà nhau chúc tết, nhâu chơi chút đỉnh để giao tình thương mến thương…Sương sương rồi dông qua chúc Tết bà con lối xóm, đủ mặt văn võ bá quan không sót đứa nào, kẻo nó vạc miểng chén, miểng sành, rủa sả: “Giàu hổng bao nhiêu mà làm bày đặt làm phách!”

Cái vụ đi xông đất nầy tui hổng ham rồi vì rất ngại chủ nhà tin dị đoan, kiêng cử cái nầy cái nọ. Anh Phát, Chú Tài mới đặng. Chớ anh Tài đang ngồi với lai rai với chủ mà ỷ mình tên “Quan’ (chớ không phải lính) lọ mọ bước vào thì bà chủ nhà sẽ lấy cái chỗi chà để mà rượt ‘Quan Tài’ đầu năm chạy xịt khói.

Tên Quan cứ ở nhà làm ‘quan’, nhậu với em yêu là ‘phẻ’ nhứt hạng. Ôi thôi lủ khủ, hầm bà lằng, bao nhiêu món ngon ngày Tết sợ ăn tới ra Giêng còn chưa hết.

Món ăn ngày Tết của bà con mình ba miền Bắc, Trung, Nam coi vậy cũng khá khác nhau. Tết thay vì ăn cơm thì người Bắc ăn xôi gấc có màu đỏ cho nó hên. (Rồi có câu ‘đen bạc đỏ tình’. Quánh bài thua là dê được gái. Cái nầy coi bộ khó tin nhe. Thua sạch bóc, không còn một xu dính túi, áo vũ cơ hàn, lại thả dê ra, tui e rằng em nào cũng bĩu môi chê hết ráo.)

Nói chuyện phong tục ngày Tết mấy nhà văn, biên khảo quê mình ‘phét’ nghe rất ‘bốc’. Chẳng hạn như trên bàn thờ, cúng trái cây phải có trái dừa, trái đu đủ, trái mảng cầu và trái xoài thì quý thức giả nầy phán rằng: “Sỡ dĩ có 4 loại trái nầy là vì bà con miệt Lục tỉnh quê mình tin dị đoan chưng trái cây cúng ông bà tiên tổ với lời ước nguyện là năm mới ‘cầu vừa đủ xài’. (Phải vậy hông?)

Chớ theo ngu ý của tui, Tết tới, mùa trái cây đang chín rộ, thơm ngon thì mình cúng ông bà trước để nhớ ơn người xưa đi mở đất, xong người nay rinh xuống ăn, đâu còn y nguyên đấy chớ ông bà vốn thảo ăn chỉ hưởng cái hương hoa thôi.

Rồi các bực thứ giả nầy tán hưu tán vượn, nói bà con mình tin dị đoan vì chịu ảnh hưởng của mấy chú Ba trong quận Năm, Chợ Lớn.

Tết, chú Ba người Quảng Đông, ăn tôm vì tôm là ‘há’, đồng âm với “hí há tài xiu”, là cười to ha hả trong nhà suốt tháng quanh năm.

Rồi ăn thịt heo, tức là ‘trư’, đồng âm với ‘châu’, ý là “châu long nhập thủy’, châu báu tràn vào nhà như nước. Rồi ăn cải xà lách là ‘phát soi’, đồng âm với ‘phát tài’.

Còn chú Ba, người Triều Châu, ăn bánh tổ là ‘niên cao’, mang ý nghĩa là ước mong cho năm mới, gia chủ được may mắn, phát tài, năm mới sẽ tốt hơn năm cũ.

Rồi chè ‘ỉ’ là viên nếp nhỏ, tròn, không nhưn, được nấu chung với nước đường và gừng, khi ăn rắc thêm muối mè. “Ỉ” nghĩa là “viên”, “tròn”. Ăn chè ‘ỉ’ với mong muốn gia đình sẽ luôn được đoàn viên. (Phải vậy hông?)

***

Cứ mỗi độ xuân về, miền Bắc hoa đào nở rộ, miền Nam mai vàng đua sắc thắm nên có bực thức giả phán như thánh rằng: “Chưng mai vàng vào dịp Tết vì sẽ đem đến may mắn”. (Phải vậy hông?)

Có ông còn đi xa hơn (tui e rằng ổng đi lạc) cắt nghĩa trong mâm cơm ngày Tết của dân Lục tỉnh Nam kỳ bao giờ cũng có canh khổ qua dồn thịt, vì ăn khổ qua là mong muốn cái khổ sẽ qua đi.

Dân vưỡn, miệt vườn như tui, gọi khổ qua là ‘hủ qua’, không có sướng khổ gì ở đây hết ráo, (người Bắc gọi là mướp đắng cũng nó đó). Hổng lẽ ăn mướp đắng dồn thịt heo bằm nhuyễn với bún tàu, nấm mèo thì mong đời mình sẽ đắng nghét như trái mướp đắng hay sao?

Ca dao cũng có câu: “Đói lòng ăn trái khổ qua. Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.”

Khổ qua, ăn sống, nó đắng nghét như thuốc Tetracycline; nhưng dưới tài nghệ ‘cook, cook’ của em yêu, trái khổ qua bào mỏng, bóp muối cho bớt đắng, làm gỏi thịt bò cho chàng ăn và uống với beer. Quá đã!

Phần đói ăn rau đau uống thuốc nên mấy ông thầy thuốc Nam có cắt nghĩa vầy thuyết phục được tui nè: Trái khổ qua ăn mát, giải nhiệt trong cái nóng ẩm ngày tết miền Nam, loại cholesterol (mỡ xấu trong máu), ăn với thịt kho hột vịt không bao giờ ngán ngược.

Tui cho rằng bà con mình ăn Tết món gì là theo kinh nghiệm mấy ngàn năm ăn uống của ông bà mình truyền lại. Nên nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cái định đề về nghệ thuật ăn là mùa nào thức nấy, trong bài Cảnh Nhàn “…Thu ăn măng trúc, đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…”

Em yêu đã chỉ dạy tui một cách có lý rằng: ăn Tết không dị đoan gì hết ráo. Đừng nghe những nhà văn, nhà báo tán láo. Một mâm cơm ngày Tết ngon là phải có cay, chua, ngọt, bùi, đắng mới làm đã cái lưỡi của mình.

Nhà nào Tết cũng có nồi thịt kho hột vịt sắc cầm hòa hiệp với tô canh khổ qua hầm. Món mặn và món canh nầy nầy nó hợp rơ hết biết, như tình anh với em, chớ không phải ăn khổ qua để cầu mong cái khổ nó qua đâu (?!)

Nhắc tới món thịt kho, không cần tới Tết mới ăn mà giỗ chạp hay ngay cả ngày thường cũng có. Em nào trước khi về nâng khăn ‘móc túi’ anh yêu cũng được má dạy cho cách kho thịt nên rành sáu câu vọng cổ.

Thịt heo tươi, mua về rửa sạch bằng nước muối, cắt miếng vừa ăn có đầy đủ da, thịt và một lớp mở mỏng ở giữa. Ướp với nước mắm nhỉ, đường, bột ngọt, tỏi băm…Thêm một ít ớt sừng trâu chín đỏ. Hột vịt to đùng, lòng đỏ mới nhiều, luộc xong, lột vỏ. Nồi thịt màu cánh kiến, ớt đỏ sừng trâu, chén cơm trắng, dĩa cũ kiệu hay cãi làm dưa. Bảo đảm ăn hết nồi thịt kho, cây kim trên cái cân sẽ vụt cái rét, gãy làm hai vì cái thân bồ tượng của mình sau ba bữa Tết, nếu mình không ăn canh khổ qua để nó làm tan bớt mỡ.

***

Lại nhớ khoảng năm 65, 66 gì đó, thế kỷ trước, hồi tui nhỏ chút éc hè, Má tui kho nồi thịt không phải với hột vịt mà là trứng cút để giúp đồng bào mình qua cơn hoạn nạn.

Chẳng qua dân nghèo thành thị Sài Gòn bị lọt vào bẩy của mấy tay trùm tài phiệt Chợ Lớn cấu kết cùng bè đảng tuốt bên Hương Cảng để xí gạt dân mình. Đó là phong trào nuôi chim cút.

Cái mồi câu bằng cách mướn báo chí rầm rộ đăng tin trứng cút lên giá hàng ngày còn mắc hơn trứng gà, trứng vịt. Có bao nhiêu ‘bao tiêu’ hết bấy nhiêu nên đừng có lo nhe. Cứ mua cút giống về nuôi đi. Cút giống chừng hai tháng là bắt đầu đẻ ngày một trứng, kéo dài đến 9 tháng.

Sau hết đẻ trứng, cút đem ra bán thịt. Rồi lại mua cút giống về gầy đàn mới.

Trứng cút đem bán cho ông chủ tiệm chạp phô người Tàu, cười hè hè nói trứng cút bán chạy lắm, có bao nhiêu nị mang đến đây ngộ bao hết cho.

Trứng cút ăn với muối tiêu như trứng hột vịt lộn đều bổ, cường dương (chắc như viên màu xanh huyền diệu ‘Viagra’ bây giờ vậy). Thịt cút rô ti, chiên bơ lót dưới dĩa là cà tô mát đỏ xắt lát với cải xà lách, cút chấm muối tiêu nhậu với beer 33 là một trăm em ơi chiều nay một trăm phần trăm.

Cái thủ đoạn tinh vi, thâm độc nầy bơm giá chim cút giống phình từng ngày một. Cút giống từ 5,000 đồng một cặp cút giống bằng gần 20 đô la bấy giờ, tăng lên gấp đôi 10 ngàn, rồi tăng lên gấp 15 ngàn đồng một cặp.

Người dân Sài Gòn thuở ấy, cũng có mấy chú Ba nghèo nhưng lương thiện nhắm mắt, nhắm mũi có bao nhiêu tiền để dành, cũng xuất ra mua cút giống về nuôi.

Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân nghèo, bọn đầu cơ Chợ Lớn cùng đám đại xì thẩu Hong Kong dông mất. Trứng cút, thịt cút ê hề, ế nhệ rớt giá từng ngày nhưng vẫn ít người mua vì dội chợ.

Bà con mình ngơ ngác hổng biết đứa nào cầm đầu mà chơi quá ác, không để đức gì lại cho con cháu hết trơn?

Thôi thì bị xí gạt, bà con mình xúm lại giúp đỡ nhau qua cơn hoạn nạn. Trứng cút được làm nhân bánh bao, thay trứng vịt như bánh bao bà Cả Cần chẳng hạn.

Còn đứa nào làm ác, gạt tiền mồ hôi nước mắt của dân nghèo thì để bà bắt nó.

***

Mấy chú Ba Chợ Lớn, dân buôn bán, thường dán câu đối liễn giấy đỏ chữ vàng như: ‘Tân xuân đại cát. Nhất bổn vạn lợi’. Một đồng vốn bỏ ra mà kiếm được tới 10 ngàn đồng lời thì nằm mơ cũng không có. Nếu có, chỉ bằng cách đầu cơ như phong trào nuôi chim cút. Nhưng làm ăn như vậy thất đức lắm nhe.

Cuối năm, quê người, em yêu cũng nấu canh khổ qua rồi kho một nồi thịt bự ế kinh, nhưng tui thấy vẫn còn thiêu thiếu. Ước chi có được một nồi thịt kho hột vịt do Má tui nấu như ngày xưa cũ mang cái hồn cổ thổ cho tui lúc sống xa quê.

Đoàn Xuân Thu

Melbourne.

____________________________

Tiếng đờn cò cho người tình phụ!

 

Từ lúc em xa anh, đâm thương tiếng đờn cò,
những giai điệu khóc than đời mất mát;
những giai điệu khiến lòng em tan tác,
khi nhớ về một thuở lỡ yêu anh!

 

Khi Má đau rồi mất, anh đang học SàiGòn,
em chạy ra Bưu Điện “Anh về gấp chịu tang!”.

Về Mỹ Tho, theo anh là một người congái,
sánh vai trước linh sàng, quỳ chịu lễ phát tang.

 

Anh đã phụ em rồi, người con gái Mỹ Tho,
hiền như bông Sen trắng, không sắc sảo, nồng nàn,
như Hồng, Cúc của anh.

Em chỉ biết yêu anh, dịu dàng chăm sóc Má,


dẫu áo cưới chưa lần em được mặc;
chưa lần nào được Má gọi là dâu!

 

Nhưng thề hẹn, anh yêu, sao không nhớ?
Để bây giờ lẳng lặng phụ tình em?

 

Hàng nến đỏ rưng rưng màu mắt đỏ,
tiếng đàn cò làm tan tác lòng nhau !
tiếng đàn cò bi thảm, kinh kệ khóc chia xa,
anh gục đầu… khóc Má; em cúi mặt… tình ta !

 

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Mùa Giáng Sinh vui!

Hồi xưa, quê mình tựu trường vào tháng Chín, học riết tới tháng Sáu mới bãi trường, nghỉ ‘hè’ (tức ra hè mà nghỉ). Còn Úc tựu trường vào cuối tháng Giêng; bãi trường vào cuối tháng Chạp, cũng là nghỉ ‘hè’, ra biển chọc cá mập cho nó ‘phập’.

Niên học chia ra làm 4 học kỳ; cứ học 9, 10 hoặc 11 tuần là nghỉ xả hơi hai tuần, ở nhà ‘quậy’. Cuối học kỳ 4, nghỉ lâu nhứt tới 5 tuần cả thảy, để học trò ăn lễ Giáng Sinh, Merry Chrisstmas và mừng Năm mới, Happy New Year!

Mùa lễ hội của Mỹ bắt đầu từ lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) tới giao thừa Tây. Còn ở Úc là từ Melbourne Cup (Đua ngựa), thứ Ba đầu tiên, tháng Mười Một tới giao thừa Tây.

***

So lại, Úc ăn rồi chơi nhiều hơn Mỹ. Hổng có gì lạ đâu, thưa bà con, vì Úc nổi tiếng làm biếng nhứt thế giới mà.

Riêng người Việt tỵ nạn mình ở Úc, hổng cần đợi tới cuối năm mới nhậu, cứ cuối tuần là có ‘độ’, tuần nào y như tuần nấy.

Mùa lễ hội, Mít mình thì khoái ăn thịt gà ta; còn Úc khoái ăn thịt gà tây. Nên đám gà ta cà nanh với đám gà tây “Tụi bây chỉ bị ‘xử đẹp’ vào ngày lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh thôi hả? Thiệt là may mắn! Bọn tớ, Chúa nhựt nào cũng đi chầu ông bà ông vải hết trơn hè!”

(Có anh mình hơi bị tự ti mặc cảm nên cảm thán rằng Tây bao giờ cũng hơn Ta. Ngay gà ta cũng thua gà tây nữa!

Nghĩ vậy không hoàn toàn đúng! Đâu phải ta lúc nào cũng thua. Tùy lúc chớ! Như tui nè hồi mới chân ướt chân ráo, bị Úc nó chơi gác, ăn hiếp dài dài từ trong sở ra tới ngoài đời. Nhưng ở đây lâu, mình mọc nanh, đâu có ngán đứa nào. Biết điều, nhậu nhẹt bù khú với nhau; cầm bằng ra vẻ ta đây là ‘Úc rặt’, ngon hơn; thì xin lỗi… nhà ai nấy ở, rượu ai nấy uống; vợ ai nấy ‘cự’ vậy thôi. Làm gì nhau hè?)

***

Nhớ mùa Giáng Sinh năm ngoái, dắt em yêu đi mua sắm ở ‘High Point Shopping Centre’ trong tiếng nhạc rộn ràng Jingle Bells của mùa Giáng Sinh.

Trong siêu thị, có Santa Claus ngồi để bà con mình chụp hình kỷ niệm (có trả tiền, dĩ nhiên). Santa Claus gọi tui bằng ‘bro’ tức ‘brother’ (anh); trong lúc gọi em yêu của tui bằng ‘cháu’. Em yêu khoái qua trời vì nghĩ mình vẫn còn thuở thanh xuân; chẳng qua em mới vừa nhuộm tóc.

Còn tui, giận xanh râu luôn! “Ê! Santa kỳ thị tuổi tác phải không? ‘Boss’ của chú mầy là ai, kêu nó ra đây để tao chính thức ‘còm len’ (than phiền) một chút coi!”

Santa nghe tui hăm như vậy, mặt xanh chành như đít nhái, vì sợ mất ‘job’ nên giả lả là: “Take it easy mate!” (Thôi! Bỏ qua đi Tám!)

***

Tối về, khi em yêu của tui đã ngáy ‘ò ó o’, tui vẫn còn ấm ức, tức, nên sau vài ly rượu đỏ; lên Facebook, tui gọi cho thằng bạn học cũ bên Little Saigon để trút bầu tâm sự. Ai dè nó cũng va vào hoàn cảnh đau đớn hịt như tui.

“Để ăn mừng lễ Giáng Sinh, kiểu Mỹ, bắt chước thần tượng Sở Khanh, mày râu nhẵn nhụi; áo quần bảnh bao, tao bèn đi hớt tóc đầu đinh, xong còn nhuộm đen kịt, không quên xức nước hoa ‘Xà neo’ ba số 5.

Mặc cái quần jean mới nè, có xé te tua ở đầu gối, hết 150 đô, cái áo chim cò mới có chữ ‘Free hugs’ (ôm miễn phí) nè hết 100 đô; đôi giày thể thao Adidas gần 200 đô. Xong dung dăng dung dẻ, dắt trẻ đi chơi, đưa em xuống phố trưa nay đang còn nhức mỏi hai vai.

Sở dĩ đóng bộ đàng hoàng như vậy vì tao muốn ‘xứng’ với em yêu, mái tóc người vợ trẻ, từ Hốc Bà Tó Việt Nam tao khều ra, rồi lãnh qua đây.

Hai đứa ‘tính tình tang’ lang thang vô siêu thị. Em đòi chụp hình Giáng Sinh ở Mỹ để gởi về Tía Má em bên ấy an tâm là em đang sống trong một cuộc đời nhung lụa ở cái xứ tư bản giãy chết nầy.

Ôi muốn là chiều! Dù chụp chỉ mấy tấm hình mà bay hết một ông ‘Benjamin Franklin’. Trong lúc móc chi tới 100 đô, đau quá; thì em yêu lại khoái quá chừng vì được Santa gọi là cháu; còn hỏi em có muốn ngồi lên đùi nó để chụp hình kỷ niệm hay không?

Tao trừng mắt nhìn, em cụp xuống, hổng dám ho he gì ráo; xong tao chuyển đôi mắt hình viên đạn qua Santa thì bất ngờ thay, ‘giả’ phân bua bằng tiếng Việt: “Con giỡn chút chơi mà ghen tuông gì ông Ngoại?”

Tao ngạc nhiên đến ‘đứng hình’ luôn. Người Việt mình ốm yếu nhỏ con, thì làm sao kiếm được cái ‘job’ mập, làm Santa Claus, cho được chớ?

Santa Claus dê xồm nầy sợ tao ghen, nóng mặt lên là nó mũi ăn trầu cái đầu xỉa thuốc; bèn tìm cách làm tao bớt giận bằng câu chuyện làm quà là:

“Từ hôm Lễ Tạ Ơn là con Mỹ đen, vợ cháu đã tẩm bổ bằng gà lôi đút lò rồi. Ngày nào cũng gà lôi và gà lôi, bụng lồi lên nhưng trái khinh khí cầu. Mà nó cứ dụ: “Honey! Honey! Rán ăn đi, cho mập cho có da, có thịt hai đứa mình giống hịt…mới được! Chớ đứng gần nhau cứ số 1 và số 0 hoài, kỳ quá. Hai nhờ cái thể hình ‘ú nu’ như vậy mới kiếm được ‘job’ mập, làm Santa Claus, thêm chút đỉnh tiền để bánh mì bơ cho bầy con lủ khủ, ăn như xáng xúc! Vợ chồng dẫu cày sâu cuôc bẩm suốt năm chỉ đủ cái bỏ vào mồm. Phép thường niên 4 tuần, năm, honey cứ tụ bè tụ đảng ăn nhậu hoài thì trước sau gì nhà nầy cũng thành ‘homeless’!”

Nhưng công bằng mà nói: tay Santa Claus gốc Mít nầy nhận xét cũng hổng có trật! Hai đứa mình giờ cũng già rồi. (Giống như cây thông Giáng Sinh, chủ yếu để trưng bày, trang trí coi chơi; chớ đâu còn làm ăn gì được nữa?)

***

Mít dê Mít là chuyện thường tình! Úc cũng hay dê sảng con gái Việt Nam mình lắm. Vì mấy em, mình hạc xương mai, dáng đi uyển chuyển như ‘Thanh Tuyền’ và giọng nói ngọt ngào như ‘Đan Nguyên’ vậy. Còn con vợ Úc của nó, chụp hình Giáng Sinh hồi năm ngoái về nhà in ra để lộng kiếng (liệng cống) mà giờ vẫn chưa xong.

Mới đây nè bên Mỹ, có một em nặng tới 300 pounds vô ý đè chết ông chồng đó. Tay bạn nhậu người Úc nghe tui kể chuyện khó tin nhưng có thiệt nầy xanh mặt mày hết ráo, run run hỏi: “Hổng biết chừng nào sẽ tới phiên tui?”

Thằng bạn Úc nầy nó tên là ‘Ó zì’ (Ozzie), tui chọc quê gọi nó là “Ó đâm’ (‘đâm’ phiên âm chữ ‘dumb’ nghĩa là ngu).

Qua nước người ta, nhiều phong tục tập quán sở tại, không biết hỏi ai; chi bằng mình hỏi dân thổ địa. Dẫu vậy có nhiều câu tui hỏi nó cũng bí lù hè. (Thiệt là ngu thấy ớn).

“Xứ tao chuông nhà thờ luôn óng ả; còn xứ nầy sao ít nghe tiếng chuông ngân?”

Thì ‘Ó zì’ cắt nghĩa: “Ít thiệt! Nhưng lai rai cũng có! Úc, đất nước tự do, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa tôn giáo: Anh giáo, Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, Tin lành rồi đạo Phật, đạo Hindu, đạo Hồi… và còn nhiều đạo khác

Chuông nhà thờ, giáo đường, đền chùa cũng có luật có lệ. Nước Úc tự do không phải muốn làm gì là làm. Điều căn bản nhứt của quyền tự do là trước hết phải tôn trọng quyền tự do của người khác.

Như Anh giáo tấu nhạc thánh ca trong giáo đường; Phật giáo tụng kinh trong chùa; Hồi giáo trong ‘mosque; chớ không có bắt ‘ô bẹt lưa’ vọng ra ngoài đường như mấy cái xứ Trung Đông.”

Biết vậy, nhưng mỗi mùa Giáng Sinh, tui lại nhớ hoài, nhớ tha thiết tiếng chuông nhà thờ Tân Định, Sài Gòn, tui cùng em yêu (40 năm tình cũ) tay trong tay tan lễ nửa đêm ngày ấy.

***

Thằng bạn Úc ‘Ó zì’ của tui cũng tin vào Thượng Đế nhưng không ngoan đạo lắm; ít khi đi nhà thờ trừ những ngày lễ lớn.

Năm rồi, Thánh lễ nửa đêm vừa xong, linh mục chánh xứ làm chủ lễ đứng trước cửa, bắt tay giáo dân chúc: “Merry Christmas!” Một mùa Giáng sinh vui!

‘Ó zì’ bước tới; vị linh mục bắt tay nó, rồi kéo sang một bên nói:

“Con phải gia nhập Đạo quân Chúa Cứu Thế nhe!”

“Thưa Cha! Con đã gia nhập rồi đó ạ!”

“Ủa! Sao cha ít gặp con quá! Năm chỉ hai lần, một vào lễ Giáng Sinh; hai là vào lễ Phục Sinh?”

“Thưa Cha chẳng qua trong Đạo quân Chúa Cứu Thế con làm việc cho Sở Mật vụ!”

***

‘Ó zì’ có một đứa con trai tên là “Oi’ năm nay lên 8 tuổi. Sở dĩ đặt tên con là ‘Oi’ vì năm nào tranh giải quần vợt quốc tế mở rộng, vào đầu tháng Hai tại Melbourne nè, Úc thắng được chỉ một cú đánh là cố động viên một đứa xướng lên “Ozzie! Ozzie! Ozzie” Cả khán đài phụ họa hò reo ‘Oi! Oi! Oi” Vui hết biết! (Nếu dịch ra tiếng Việt mình là “Úc! Úc! Úc! Ơi! Ơi! Ơi!” vậy mà).

Một vài ngày trước Lễ Giáng Sinh, vợ vẫn còn đi làm nên ‘Ó zì’ phải lui cui dưới bếp. Thằng ‘Oi’ đang chơi xe lửa chạy bằng pin, (quà Giáng Sinh) trong phòng khách.

Chiếc xe lửa ngừng lại và giọng của ‘Oi’ vang lên:

“Tất cả những thằng ‘quỷ hó’ và những đứa con gái ‘cà chớn lửa’ xuống xe ngay. Đây là trạm cuối cùng.

Hành khách nào còn lại thì dán chặt cái ‘mông’ vào ghế ngồi; vì chiếc xe lửa sẽ xuống dốc để quay đầu trở lại. Nghe rõ không mấy con bò tót ?!”

‘Ó zì’ nghe vậy, giận quá: “Nè không được dùng cái ngôn ngữ đường phố, đá cá lăn dưa chợ Victoria trong nhà nầy. Chú mầy là con nhà gia giáo! Giờ đứng vô góc phòng, hai tiếng đồng hồ để ăn năn tội lỗi của mình. Hết giờ phạt, chú mầy sẽ được tiếp tục chạy xe lửa; nhưng hãy nhớ dùng ngôn ngữ thiệt lịch sư nghe không?”

Hai tiếng sau, hết giờ phạt, ‘Oi’ lại chơi với chiếc xe lửa. Lần nầy thì:

“Hành khách lưu ý! Lưu ý! Quý vị nào xuống xe lửa xin vui lòng nhớ mang theo tất cả các hành lý của mình. Xin cám ơn quý vị đã đáp chuyến xe nầy, Hy vọng đây là một hành trình thú vị. Mong quý khách sẽ tiếp tục đi xe lửa nầy lần tới. Xin đa tạ!

Còn quý vị nào còn ngồi trên xe, xin cảm phiền để hành lý dưới chỗ ngồi của mình và xin nhớ không được hút thuốc trong xe. Mong quý vị đã có một chuyến đi thoải mái và vui vẻ với chúng tôi hôm nay. Xin cám ơn.”

Khi nghe con mình nói vậy, ‘Ó zì’ rất lấy làm hài lòng, bỗng nghe nó nói tiếp: “Còn quý khách nào đã bị trễ hai tiếng đồng hồ; nếu bực bội thì xin than phiền với ‘ông già cà chớn’ đang nấu cơm trong bếp!”

Merry Christmas!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

_________________

Bài thuộc lòng năm cũ!

Tiếng em đọc bài thuộc lòng yêu dấu;

của em, của ta, của thời thơ ấu,

của hạ tàn, bông phượng nở về đâu

mà buổi dạy đầu tiên ta vẫn nhớ!

Bài thuộc lòng em đọc, giọng thiết tha,

qua bao cánh đồng đang thì con gái,

quanh quẩn mãi, vườn dừa xanh trái,

chảy xuôi về trăm nhánh sông xa!

Bài thuộc lòng là tiếng chị ru,

tiếng bìm bịp kêu nước lớn, ròng,

là tiếng thơ ta chiều lá rụng,

em đọc bài trong khói mù u.

Bài thuộc lòng là lời nhắn nhũ:

thương Má em, suốt đời lam lũ,

thương Ba em, dãi nắng dầm sương,

yêu nhà em, vườn sau, sân trước,

yêu con đò, bến nước, quê hương,

Em vào đời, chan chứa yêu thương!

***

Thơ giặc tháp tùng tăng, pháo giặc

chiếm trường ta, đốt sách của ta

tiếng em đọc rơi vào tĩnh lặng

trường em, ta đằng đẵng xót xa.

Bài thuộc lòng theo ta vượt biển,

từ trường xưa, biền biệt tha hương.

Quê người, chiều xám đông ủ rũ

dịu dàng nghe, thương tiếng em thương,

dạy con: bài thuộc lòng năm cũ,

vầng vặc buồn thương, khóc quê hương!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

 

_________________

PTGSchool_old.JPG

Chuyện 1 ngôi trường bị mất tên                                          

Tổ cha nó! Ăn không chừa một thứ gì!

Mấy năm đầu ra hải ngoại bà con mình mạnh ai nấy cày; cày tối tăm mặt mũi để lạc nghiệp, an cư. An cư rồi thì nhớ nhau sao không tìm nhau? Vậy là hội đoàn lập ra như nấm gặp mưa vậy. Trường nào cũng có hội ái hữu hết để bạn bè cùng trường gặp lại, ôn lại thời đi học, cái thời ai cũng cho là đẹp nhứt đời người.

“Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ. Nhiều nét đổi thay tường mái rêu mờ” “…Thầy đó trường đây bạn hữu đâu rồi? Bao nhiêu kỷ niệm hoa bướm ngày thơ/ Vang trong nỗi niềm nhung nhớ. Có ai đi thương về trường xưa?”

Giờ thì mình không về trường xưa được thì mình gặp lại bạn xưa cho đỡ ghiền vậy mà.

Hằng năm, trường nào cũng có tổ chức luân phiên Đại hội toàn thế giới mà học sinh cũ về đôi khi phải bay cả hàng chục ngàn cây số, đi Mỹ, đi Úc, đi Canada gặp nhau dù chỉ vài bữa cuối tuần cho thỏa cái lòng mong nhớ. Đó là cái truyền thống hay đấy chớ nên khi có trường nào mời dự đại hội là tui, dù không phải là học trò trường đó cũng chịu khó đi cho nó vui.

Người ta nói trẻ sống cho tương lai; già sống về quá khứ! Tui già rồi chỉ còn cái thời quá khứ là vui thì tại sao không?

Kỳ gặp mặt bạn bè đồng môn, đồng song năm cũ, người viết vui mừng vui quá vui khi được thằng bạn học cũ cách đây 53 năm, từ Wellington, Tân Tây Lan bay qua thăm. Nó đi du học theo chương trình học bổng Colombo năm 1970. Học xong, tính về, nhưng năm 75, miền Nam mình ‘sập tiệm’ nên nó dông luôn tới tận bây giờ.

Bạn đồng song nhắc tới một Giáo sư Sử Địa, (nghe nói giờ bên Mỹ), khá nghiêm khắc! Sử Địa tuần có hai giờ thôi mà đám học trò tụi tui lúc đó coi nó dài như hai thế kỷ vì cô thường coi đứa nào mặt mày lấm lét, xanh chành như trái chanh… để kêu lên trả bài rồi cho nó hai cái trứng vịt!

Có lần cô kêu một đứa lên trả bài. Thằng nhỏ khớp quá nên cà lăm, ngọng luôn hè: “Lý Thường Kiệt đánh Tống” mà nó dám đọc là: “Lý Thường Kiệt đánh trống”. Làm cả lớp ôm bụng cười: Ha ha! Hi hi! và He he!

*

Nhưng lần nầy, tui đi dự đại hội trường xưa của hội Cựu Học sinh Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi nghe chuyện nầy tui cũng buồn biết bao trong tấc dạ!

“Thời Pháp thuộc, Nam Kỳ quê mình là thuộc địa của Tây; trong khi Trung Kỳ và Bắc Kỳ là xứ bảo hộ suốt 61 năm, từ năm 1884 mãi tới năm 1945 mình mới giành được độc lập đó anh!

“Đau đớn thay phận An Nam. Để cho Đại Pháp nó làm thịt dân! Tây thì có thương tưởng gì dân mình! Chỉ muốn bóc lột tài nguyên của xứ mình chở về xứ nó. Sau khi bình định được đất Nam Kỳ để củng cố guồng máy cai trị, Tây cần người bản xứ đi học chút đỉnh để làm việc cho nó. Chớ Tây với chánh sách chia để trị, chánh sách ngu dân nên tới năm 1945 dân Việt mình tới 95% phần trăm là mù chữ đó anh!”

Cả cái Nam Kỳ mênh mông, cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi nầy chỉ có được 3 cái trường Trung học. Hai cái chỉ dạy tới “Đút rơm trâu ăn mê” tức là Diplôme, tức cái bằng Thành Chung là Collège Le Myre de Vilers và Collège de Cantho. Điền chủ giàu muốn con mình học lên nữa tới Baccalauréat Local (Tú tài Bản xứ) là phải lên thi vào Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký ở tận Sài Gòn.

Dẫu trường do Tây cất để phục vụ yêu cầu của thực dân nhưng (dù chúng không muốn) những ngôi trường nầy đã sản sinh ra biết bao nhân tài yêu nước.

Trường College de Cần Thơ sau được đổi tên là Phan Thanh Giản ( vị Tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, một nhà yêu nước xuất chúng) do Tây cất năm 1917! Tới 2017 là đúng một trăm năm! Một thế kỷ! Hiếm và quý!

Vậy mà mấy tay có chức và có quyền ở Cần Thơ (hỏng biết có đứa nào là học trò cũ hay không lại nỡ đang tâm ra lịnh kéo sập xuống, cất lại mới toanh! Chỉ còn giữ cái mặt tiền để làm kiểng.

Nghe thiệt là buồn nhe! Vì những công trình kiến trúc còn xưa hơn trường Phan Thanh Giản như: Nhà Thờ Đức Bà, Bưu Điện Sài Gòn vẫn còn giữ lại được! Ngay cả tuốt ngoài Bắc, trường Ngô Quyền mà tiền thân là trường Bonnal đã 96 tuổi, cất năm 1920, tức ‘ít già’ hơn trường Phan Thanh Giản có 3 tuổi thôi… Xưa học trò 45 đứa hiện giờ tới hơn 1600 đứa vẫn đi học đều đều phẻ re ngày hai buổi đó thôi.

Thì trường Phan Thanh Giản tại sao không?

Trường đâu chỉ là cái vật chất thôi đâu mà còn là cái hồn, cái tinh thần, là tình cảm, là kỷ niệm êm đềm của biết bao lứa học trò năm cũ, thời đi học của Ba tui, Má tui, con cháu tui cũng sẽ tiêu vong.

Cái trường Phan Thanh Giản của tụi tui 100 tuổi; bị ‘hô biến’ thành một tuổi!

Giờ tụi mình chỉ còn biết:“Minh tinh chín chữ lòng son tạc. Trời đất từ rày mặc gió thu!”

***

Bài nầy tui viết từ mấy năm trước lận. Tại sao và tại sao?

Giờ câu trả lời là vầy nè:

Cần Thơ: Gỗ xấu hơn 10 tỷ đồng ở ngôi trường vừa xây lại

Ngày 9/10, Kiểm toán Nhà nước khu vực 5 cho biết Trường THPT Châu Văn Liêm ở Cần Thơ vừa xây lại, sử dụng gỗ xấu có tổng trị giá hơn 10 tỷ đồng.

Cụ thể, gỗ sử dụng ở Trường THPT Châu Văn Liêm có giá trị 10.382.012.387 đồng. Gồm phần dùng trong xây lắp là các cấu kiện như cửa, vì kèo, xà, li-to (rui, mè), tay vịn cầu thang trị giá 8.311.268.387 đồng. Và 2.285 chiếc bàn ghế học sinh, giáo viên, bàn vi tính trị giá 2.070.744.000 đồng.

Thực trạng gỗ xấu lộ ra từ một khung cửa bị mối đục nát, rơi xuống. Kiểm tra, phát hiện cửa gỗ bị mối ăn hơn 80%, thiết kế gỗ căm xe (nhóm II) nhưng kiểm định khung bao cửa là gỗ thao lao (nhóm III), khung bảo vệ méo mó. Các lá sách cửa bị nứt, vỡ, không bào và số lá sách ít hơn thiết kế nên thưa.

Cánh cửa không tạo rãnh âm dương mà lắp thêm thanh nẹp che giữa hai cánh, các thanh này không chắc, bị bong nhiều nên cửa xộc xệch. Tại khu hiệu bộ nhà trường, ngoài cửa bị mối ăn nát bị rơi xuống, kiểm tra phát hiện thêm 2 cửa khác cũng bị mối ăn.

Kiểm tra và giám định phát hiện gỗ xấu hơn ở phòng học thuộc khối A của trường. Ở đây, phần gỗ li-tô (rui và mè) để lợp ngói, thiết kế gỗ nhóm II nhưng nhà thầu sử dụng gỗ nhóm V. Các thanh gỗ bị nứt, yếu khiến mái ngói võng xuống, lượn sóng có nguy cơ gây dột.

Đặc biệt xấu là gỗ làm bàn ghế học sinh, giáo viên. Thiết kế là gỗ nhóm III nhưng thực tế sử dụng gỗ nhóm VII và VIII. Đây là những loại gỗ có tên Bạch Dương và Gáo Trắng, những loại gỗ mềm nhanh hư hỏng, dễ gây nguy hiểm cho học sinh và giáo viên.

Ở phần xây lắp, kiểm tra chọn mẫu tại công trình, thuê đơn vị tư vấn giám định 8 mẫu gỗ, có 7/8 mẫu không đạt theo thiết kế được duyệt và hợp đồng đã ký. Phần bàn ghế kiểm tra chọn 4 mẫu để giám định, đều không đạt thiết kế được duyệt và hợp đồng đã ký. Kiểm toán tính toán lại mức độ an toàn của công trình để có biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp, đảm bảo an toàn trong quá trình sử dụng và kết luận, không công nhận giá trị gỗ đã thi công, yêu cầu nhà thầu phải làm lại

Trường THPT Châu Văn Liêm trước đây mang tên Collège de Can Tho rồi Trung học Phan Thanh Giản được xây dựng năm 1917, có giá trị văn hóa đặc sắc ở Cần Thơ. Khuôn viên rộng 1,7 ha, có 43 lớp học, đạt chuẩn quốc gia bậc THPT đầu tiên của Cần Thơ và được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

Tuy nhiên, do xuống cấp nên Cần Thơ quyết định giữ lại một dãy nhà ngang và ngôi nhà hai tầng làm văn phòng Ban giám hiệu để trùng tu, còn lại đập bỏ xây mới. Quyết định phê duyệt quy mô đầu tư của UBND thành phố Cần Thơ ngày 30/11/2017, giá trị dự toán xây dựng công trình gần 97 tỷ đồng. Trong đó, chi phí xây dựng hơn 75 tỷ đồng, chi phí thiết bị gần 5,9 tỷ đồng, còn lại chi phí khác.

Chủ đầu tư là Ban Quản lý Dự án Đầu tư xây dựng 2 của Cần Thơ. Thầu xây lắp phần gỗ là Cty Cổ phần Xây dựng Trần Gia; thầu cung cấp bàn ghế là Cty TNHH sản xuất TMDV DAIZH. Công trình được nghiệm thu đưa vào sử dụng ngày 26/12/2019, hiện đang thời gian bảo hành.

Tổ cha nó! Ăn không chừa một thứ gì!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

______________________

DXT_aotran.JPG

Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận!

Trong chiến sử của loài người xưa giờ, dù là chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược hay cuộc nội chiến giữa những thế lực phong kiến để thâu tóm thiên hạ về một mối thì chịu biết bao đau thương thống khổ là toàn dân tộc, đa số là người dân thường không một tấc sắt trong tay.

Dĩ nhiên người lính là người phải hi sinh nhiều nhứt! Hi sinh cả cuộc đời đang tuổi xuân phơi phới với biết bao nhiêu là ước vọng chưa thành bỗng chợt vỡ tan!

Tàn chiến trận, có thể là:

"Anh về hòm gỗ cài hoa..

Hay anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân!"

Kế phải kể đến sự hi sinh của vợ con, cha mẹ, anh em hay người yêu của lính!

Hồi thời Trung học, chắc anh chị em mình đều có học những đoạn thơ não lòng trong Chinh Phụ Ngâm (Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741.

"Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi.

Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề!".

Trước đó khoảng ngàn năm, Trương Tịch (768-830) bên Tàu, cũng khóc thương cho người chinh phụ có chồng bỏ thây nơi chiến trận!

"Tháng chín Hung Nô giết biên tướng.

Quân Hán tiêu tan dưới Liêu Hà

Xương phơi muôn dặm không người nhặt.

Trăm họ đầu thành cất đám ma

Thân gái xưa nay nhớ chồng con.

Nghèo hèn có nhau, hả dạ hơn

Chồng chết chiến trường, con trong bụng.

Như ngọn nến ngày thiếp mỏi mòn!"

Trương Tịch cũng có một người anh ra trận, rồi thất tung, mất tích, không thấy trở về; không biết sống chết ra sao bằng những vần thơ đẫm đầy nước mất mà cả ngàn năm sau, mình đọc lại vẫn còn thấy bùi ngùi thương cảm!

"Đánh Nhục Chi theo quân năm trước.

Toàn đạo binh bị diệt trên thành

Hán, Phiên vắng bặt tin anh.

Cho dù sống chết cũng đành xa nhau

Màn trướng nát không ai thu lượm.

Ngựa trở về cờ phướn rách tan

Cúng anh, nghi vẫn sống còn.

Chân trời xa tắp, khóc trông quê nhà..."

***

Từ năm 1960, khi Mặt trận dân tộc giải phóng, tức VC được thành lập!

Cứ 4 năm một lần (trong kế hoạch ngũ niên), CS Bắc Việt và VC tay sai ở miền Nam lại bắt đầu những trận đánh lớn.

Năm 1964, trận Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả, những quận lỵ heo hút của miền Nam.

Năm 1968, 44 tỉnh thành trên toàn cõi VNCH bị CS, không từ một thủ đoạn đê hèn nào, bất ngờ tấn công; dù đã cam kết hưu chiến!

Gần trăm ngàn người bị giết! Máu chảy thành sông; thây phơi đầy nội xảy ra đúng 50 năm trước, tức đã nửa thế kỷ, một khoảng thời gian quá dài trong đời người mà cứ tưởng như nó mới vừa mới hôm qua vì tánh cách khốc liệt của nó.

Rồi cũng 4 năm sau, năm 1972, còn gọi là mùa hè đỏ lửa, Cộng quân dốc toàn lực tấn công vào Quảng Trị ở Quân khu Một, Kon Tum ở Quân khu Hai và Bình Long ở Quân khu Ba.

Người ta sanh ra không ai muốn mình cầm súng cả; mà chỉ muốn đất thanh bình ba trăm năm cũ. Nhưng không làm lính, không nẻo binh lửa cũng không được!

Từng lớp lớp thanh niên nối tiếp nhau lên đường ra mặt trận theo lịnh Tổng động viên của Bộ Quốc Phòng. Đang trên giảng đường đại học, năm thứ nhứt, năm thứ hai, chúng tôi xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của non sông.

"Quang Trung vào ai nỡ gọt đầu tôi?" Tóc cắt ngắn ba phân. Quân trang, quân dụng, hai chiếc thẻ bài, khắc họ tên, số quân và loại máu, đeo tòn teng trên cổ.

Rồi Chứng chỉ tại ngũ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bộ Quốc Phòng. Số... Họ và Tên. Cấp bậc. Số quân. Đơn vị. KBC (Khu Bưu Chính của đơn vị)

Thẻ căn cước quân nhân, cũng y như vậy, nhưng có hình chụp chân dung, được bọc nhựa.

Nhà thơ Cao Tần di tản qua Hoa Kỳ năm 1975, vẫn còn cảm khái bằng những lời thơ trác tuyệt:

"Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ.

Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu?

Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ.

Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?"

"Trong ví ta này một thẻ căn cước.

Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần!

...Tên chụp hình làm ta xấu như ma.

Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết?

Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!

Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu.

Tên chụp hình như một lão tiên tri

Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác.

Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly

...Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ.

Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang!"

Nhà thơ Cao Tần may mắn vượt thoát trong những ngày VNCH hấp hối; còn những người, đồng đội, đồng ngũ bạn lính của ông, còn kẹt lại phải đi tù CS.

"Có thằng bạn nào tàn đời học tập.

Cõng gông xiềng lê lết một thân đau!

Còn kiên cường sống sót ra tù CS rồi tìm đường vượt biển! Đau đớn thay lại bỏ mình trong cơn sóng dữ!

"Này biển chiều sóng xô ào lớp lớp.

Những tiếng đời tan nát khóc thương nhau..."

***

Bọn chúng tôi là lớp 'Mùa hè đỏ lửa'! Gần 800 đứa từ giảng đường đại học vào Tiểu đoàn 2 của Trường Bộ Binh Thủ Đức, tháng Tám, năm 1972, khóa 4/72/SQTB TĐ.

Ngày 27, tháng Giêng, năm 1973, các SVSQ tiểu đoàn 2 đi chiến dịch Hiệp định Paris. Mỗi đợt 2 tháng, sau 4 tháng, trở về trường Bộ Binh, ra Vũ đình trường làm lễ mãn khóa! “Quỳ xuống các Sinh viên Sĩ quan! Xin thề! Đứng dậy các tân Sĩ quan!”

"Ân tình theo gót chân, bọn đi xa đánh trận, gặp gỡ trong cơn lốc!

Xưng tao gọi mày thương quá gần. Bốn vùng mang lưu luyến bước bâng khuâng của vạn người thân!"

Thế hệ thanh niên miền Nam Việt Nam mình, trong đó có chúng tôi, sanh từ 1945 đến 1955, thời điểm ác liệt nhứt của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Cuộc chiến tranh đã tàn gần 45 năm qua! Thân phận là lính; chúng ta không ai đem thành bại để luận anh hùng!

***

Ra Footscray, Melbourne, Victoria, Úc Châu thảng hoặc gặp bất cứ ông nào đầu bạc, muối nhiều hơn tiêu, những nếp nhăn hằn trên trán, đôi mắt màu khói như còn vương lửa của chiến trường thì chắc chắn rằng họ đã có một thời giầy sô, áo trận đó thôi!

Chiều cuối năm, rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận. Nhưng Tiểu đoàn 2 năm xưa đó, nằm gần Khu Gia Binh Thiết Giáp, tuyến B, gồm 4 đại đội gom lại chỉ còn được có 5 thằng lưu lạc tới tận phương trời nầy!

Nguyễn Văn Rạng (222), Dù; Nguyễn Văn Luyến (231), Thiết Giáp;

Phùng Ngọc Thái (224), Thiết Giáp; Trương Ngọc Đông (242), ông Địa, Mộc Hóa, Kiến Tường và Đoàn Xuân Thu (242).

(Sydney cũng được vài ba đứa: Đặng Hữu Hiếu (242), Nguyên (223), Địa phương quân ; Thanh (224); Há (223), Không quân; Lại văn Bính, Thủy Quân Lục Chiến và Nguyễn Bằng Dương, Sư đoàn 23!)

 

 

                                         

 

 

                                          Đoàn Xuân Thu

Chúng tôi như những mũi tên đã bật ra khỏi cánh cung, bay khắp bốn phương trời.

Những địa danh trường cũ tưởng chừng như đã mù khơi trong tiềm thức bỗng chợt về lay động cánh rừng xưa. Nào đồi Tăng Nhơn Phú, Vũ Đình trường, Trung Nghĩa đài, Cổng số 9, sân bắn Long Thạnh Mỹ, cầu Bến Nọc. Nào bãi Nhà sập, đồi 31, (đêm ngóng về Sài Gòn quầng sáng phía xa xa), đồi Bác sỹ Tín (ngang nghĩa trang Quân đội Biên Hòa).

Rồi đêm hành quân dã trại, (để từ Tân Khóa sinh để sáng hôm sau thành Sinh viên sĩ quan) trời đổ trận mưa to, trùm poncho kín mít nhưng giày sô sũng nước. Về tới doanh trại, cởi giày, cởi vớ ra, thay quần áo lính ngồi hút thuốc với bạn bè... Ôi nó đã biết làm sao đâu?!

Giờ đây, trên bàn rượu chỉ vỏn vẹn năm thằng nhưng có tới 6 cái ly. Ly thứ sáu dành cho những thằng bạn lính đã không về được nữa vì đã ngã xuống chiến trường năm ấy!

Rót đầy ly rượu, chuyền tay nhau, người một hớp để uống cùng những oan hồn tử sĩ còn tức tưởi đâu đây. Nầy Khôn ngã xuống ở Cái Côn, quận Phong Thuận. Nầy Tuấn chuyển qua Cảnh sát, mang ngay lon Thiếu úy, làm trưởng cuộc, ngã xuống ở quận Thuận Nhơn, tỉnh Phong Dinh... Rồi Lưu, rồi Mẫn (242) ... và nhiều nhiều nữa!

Tôi nhớ Nguyễn Quang Mẫn, cùng trung đội 242, gốc cố đô Huế, 18 tuổi, vừa đậu Tú tài Một là tình nguyện vào Thủ Đức. Ngày mãn khóa Thủ Đức, Mẫn tình nguyện về Biệt Cách 81 Dù. Chỉ đi lính trong vòng chưa tới 3 năm mà Nguyễn Quang Mẫn từ chuẩn úy sữa đã lên tới đại úy được đơn vị đưa về lại trường Bộ Binh để học khóa Tham mưu Trung cấp.

"Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm.

Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn

Bạn anh đó đang say ngủ yên.

Xin cám ơn, xin cám ơn người nằm xuống!"

***

Lũ chúng tôi, người lính thuở ấy, đã từng mơ ước:

"Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn...

Xin trả lại đây, bỏ lại đây thép gai giăng với lũy hào sâu.

Lỗ châu mai với những địa lôi.

Đã bao phen máu anh tuôn..."

Trả súng đạn này khi sạch nợ sông núi rồi?

Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao!

Thiên đường này mơ ước bao lâu?"

Nhưng mộng đẹp đã tan tành theo vận nước.

"Mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ.

Mình lên đường ngơ ngẩn, lang thang!"

Chỉ mong là:

“Hãy đem hết những đổi đời tan tác.

Gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”.

Chiều cuối năm quê người. Đứa nào cũng tha hương vì mất nước đều tự hỏi:

"Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm.

Mày lang thang đất lạ đến bao giờ?"

***

Sân trước cửa nhà tôi, em yêu có trồng một cây bông giấy. Mùa hè hoa nở đỏ cả một góc sân vườn, gợi tình quê tha thiết!

"Này cây bông giấy bên rào năm xưa...

Chẳng qua trời đổ cơn mưa.

Thì thương cành mọn đong đưa một mình!"

Đời chúng tôi, những người lính của mùa hè đỏ lửa năm đó, chìm trong màu lửa, màu máu như màu bông giấy quê nhà trong tiềm thức còn vương vấn đến màu bông giấy của quê người!

Quê người chiều cuối năm! Những người lính thất trận, mất nước, rồi mất cả quê hương buồn lắm phải không?

Năm thằng mặc đồ dân sự, ngồi uống rượu quê người nhưng trong tâm cảm đứa nào cũng còn là lính.

Chỉ mong ước là: "Ôi! Xóm xưa ơi, khi nào đổi kiếp?

Ta về thành chim hót trước hiên nhà!"

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

DXT_linhtran.jpg

Loạt bài viết về Nhà Văn SƠN NAM

Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của Ông

                                                                . đoàn xuân thu

dxt_sonnam_4.jpg
dxt_sonnam_3.jpg
DXT_Sonnam_2.jpg

BÀI 1: 

NHỚ SƠN NAM!

Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài, sinh ngày 11, tháng Chạp, năm 1926 tại ấp Giữa, xã Đông Thái, quận An Biên, tỉnh Kiên Giang. Đó là tên chánh thức trong sổ bộ. Nhưng bà con mình gọi đây là vùng Miệt Thứ, kinh thứ 6, do xáng của Tây đào từ năm nẩm để xả phèn từ rừng U Minh ra biển Rạch Giá.

Sơn Nam, trong hồi ký, kể rằng: “Thuở sơ sinh, ông được bà Cà Xúc một người phụ nữ Khmer cho bú thép, là một người Mẹ thứ hai vì tới lúc học lớp 5 (Tức lớp Một bây giờ), qua cầu khỉ cũng được bồng qua.

Rồi năm đó, ở chùa Khmer, xứ Sóc Xoài, bày ra lễ ‘Chôl Chnăm Thmây’, mừng năm mới (thường vào khoảng trung tuần tháng 4 dương lịch) trong 3 ngày.

Trước bệ Phật, tại chánh điện, người ta đào một lỗ khá to, nói là trẻ con muốn điều gì thì cha mẹ nên bỏ xuống lỗ những món có ý nghĩa, như cây kim, sợi chỉ để con gái may vá giỏi, khi lớn lên.

Người giàu sang thì bỏ xuống đó vài lượng vàng, vài chiếc cà rá, kiếp sau sẽ giàu hơn kiếp nầy.

(Chính vì vậy nhà của người Khmer có thể nhỏ và nghèo; nhưng chùa Khmer rất lớn).

Hôm ấy, thân mẫu của Sơn Nam nhờ nhũ mẫu Cà Xúc, mua cây viết, bình đựng mực, cái tập giấy để cho con tới đó bỏ xuống, trước bàn Phật, lấy phước trong cõi đời nầy. “Người ta đi chùa, đông lắm, ai tin trời Phật thì má cũng tin”.

(Mẫu thân của Sơn Nam chắc chỉ mong con mình có chút chữ nghĩa để độ nhựt sau nầy).

Nhà nghèo, nhờ học giỏi nên được học bổng, ông qua Cần Thơ, học trường Trung học Phan Thanh Giản.

Chín năm kháng chiến chống Pháp chấm dứt ông về thành rồi lên Sài Gòn theo nghiệp viết văn, cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống…

Sơn Nam mỗi tuần một truyện ngắn trên Nhân Loại như: Hương rừng Cà Mau, Tình nghĩa giáo khoa thư, Hát bội giữa rừng, Mùa “len” trâu. Những truyện ngắn nầy được nhà văn Ngọc Linh, chủ trương nhà xuất bản Phù Sa gom lại, in thành tuyển tập Hương Rừng Cà Mau.

Tuyển tập nầy đã đưa Sơn Nam trở thành một nhà văn tiêu biểu cho miền U Minh, sông nước quê mình, với cái kiến thức đồ sộ và thâm sâu nơi vùng rừng ngập mặn chỗ ông sanh ra và bỏ ra đi khi mới vừa mười mấy tuổi.

Đám văn nghệ sĩ lớp trẻ sau 75 gọi Sơn Nam nhiều cái biệt danh như “Ông già đi bộ’, “ông già Nam Bộ”, “Pho từ điển sống về Nam Bộ” mặc nhiên kính phục những công trình biên khảo của Sơn Nam về một cõi U Minh.

Dẫu vậy, Sơn Nam vẫn không được mời tham gia ban Biên soạn bộ “Từ điển bách khoa Việt Nam” vốn có rất nhiều phần nói đến các địa danh Nam Bộ (?!). Chẳng qua những tay bồi bút CS có chút đỉnh chức quyền ganh tị đấy thôi.

Nhân đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có đám tai to mặt lớn, ăn ké chút danh, hiện diện, Sơn Nam được hội Nhà văn cho đại diện để đọc điếu văn. Cơ hội bằng vàng để: ‘Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của Thành ủy-Ủy ban, có Hội Nhà văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”

Còn ai chỉ trích cái chánh sách hộ khẩu ‘ác ôn’ nầy thâm sâu hơn nữa chớ? Chánh sách hộ khẩu để theo dõi, kiểm soát, kềm khẹp người dân lương thiện là một chánh sách ba trợn, khùng khùng, điên điên của những kẻ bị hoang tưởng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù!

Nhà văn chỉ có ngòi bút, ngoài ra không có quyền lực nào đủ để bảo vệ bản thân mình. Khi gặp rắc rối bực bội thì lâu lâu ‘sùy’ ra một chút cho đỡ cơn tức giận thế thôi.

Nhà văn Sơn Nam vốn hiếu hòa, chín bỏ làm mười “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”

Chắc có lẽ vì thuở xưa, rời nhà đi học xa, mẫu thân ông có dặn rằng: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”

***

Sau 75, thời cuộc đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời’ từ nghèo sang mạt! Trong bài “Cầu xin hai chữ bình an” ông kể lại những ngày đầu khi Sài Gòn thất thủ!

“… Hai ngày qua, nhiều sự việc xảy ra. Ở phường vài cậu đến, kẻ ăn nói cộc lốc, kẻ rất nhã nhặn. Nhưng nói chung, ai cũng bảo tôi nên ‘kiếm cơ sở’ xác nhận…. Quả thật, tôi không phải là đảng viên cộng sản, là người có dính líu với cơ sở nào cả. Họa chăng tôi là người trong ban chấp hành của Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra thì ‘quốc tế’ nhưng chắc là không được ưa thích.

Vài người bạn hiền lành thủ thỉ với tôi chuyện ‘vượt biên’ nhưng tôi chẳng cần nghe. Tôi chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng hồi xưa biết chút ít chữ Pháp là đủ rồi. Chẳng có bà con, anh em nào ở nước ngoài cả, dòng họ bà con xa gần của tôi, tất cả đều còn ở U Minh… Quan điểm của tôi là cứ quê hương ‘là đủ rồi’.”

***

Nhà văn Sơn Nam mất vào ngày 13, tháng Tám, năm 2008, (nhằm thứ Tư, ngày 13, tháng Bảy, năm Mậu Tý) thọ 82 tuổi tại Sài Gòn nơi ông sống và viết từ năm 1955 đến cuối đời. Và được an táng tại Hoa Viên nghĩa trang Bình Dương.

Nhân ngày giỗ giáp năm của Sơn Nam, bạn văn nghệ cùng thời và là người cùng quê Miệt Thứ, làng Đông Thái, U Minh Thượng, nhà thơ Kiên Giang có viết: “Sống thì xuôi ngược bôn ba. Chết nằm đất ‘nghĩa’, vẫn là cố hương. Đây Bến Cát: Đất Bình Dương. Sơn Nam vào giấc miên trường ngàn Thu”.

Thằng Tây nó ác lắm. Nó bắt nhà văn nổi tiếng của nước Pháp phải nằm đất ‘nghĩa’. Như Victor Hugo, thế kỷ thứ 19, tác giả “Les Miserables” (Những người khốn khổ) mất năm 1885, tại Paris, thọ 83 tuổi. Hơn 2 triệu người đổ về thủ đô để dự đám tang của nhà văn.

Victor Hugo được an táng tại Đền Pantheon ở Paris. Rồi thành phố, thị xã trên toàn nước Pháp đều có tên đường ‘Victor Hugo’.

Còn những nhà văn Việt Nam thì mạnh ai nấy lo! Vì chánh quyền CS Việt Nam không có quởn!. Thắm thoát đã 12 năm, một khoảng thời gian khá dài trong đời người ngắn ngủi, bụi thời gian đã phủ mờ năm tháng; tuy nhiên vẫn có nhiều người vẫn còn tưởng nhớ tới Sơn Nam; vì ông vẫn còn là một ngọn lửa âm ỉ cháy trong đám than bùn vùng U Minh, ở phương Nam.

Thêm hàng chục thập niên nữa, nghĩa là chừng một thế kỷ, chưa chắc quê mình tìm được một người yêu đất, yêu quê, yêu người và am hiểu tường tận về miền đồng bằng sông Cửu Long như thế!

Âu cũng là niềm an ủi cho một người cầm bút, đã sống thủy chung suốt đời cùng văn chương, biên khảo về vùng đất mến yêu Nam Kỳ Lục tỉnh.

Rồi sau nầy, chắc chắn gia tài đồ sộ của nhà văn Sơn Nam là những tác phẩm (đã loại bỏ những cái đoạn bị bọn bồi bút, văn nô của CS bắt buộc thêm vô nó mới đăng) những hạt ngọc đó, sẽ được lớp hậu sanh chùi sạch những vết nhơ bên ngoài để sáng rỡ lên cho mà coi. Tin tui đi!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của nhà văn Sơn Nam.

 

BÀI 2:

MẦN VĂN!

Trần Bang Thạch, bạn văn, Houston Texas, cách tôi một biễn Thái Bình viết: “Cứ tà tà mần văn như vậy!”

Mèn ơi ! đọc thơ bạn hiền gặp lại chữ “ mần” khoái tỉ tê… như quê người, tình cờ gặp lại em xưa mà con vợ mình không hay, không biết…

Tôi xa chữ “mần” đã khá lâu, dễ chừng năm chục năm rồi có lẽ. Hồi tôi còn nhỏ, bạn văn của Ba, như bác Sơn Nam đến nhà tìm: “Ba có nhà không cháu?“. "Thưa bác Sơn Nam, Ba con đi mần việc.” Tôi vòng tay lại.

Ba tôi, mần việc là mần việc; mần văn là mần văn. Nhưng với Sơn Nam mần việc là mần văn. Mần văn là mần việc!

Hồi tắm sông còn ở truồng, tôi đã kính trọng mấy bác nhà văn, bạn của Ba, vì nghĩ làm sao mà có thể viết được những truyện ngắn làm người ta rớt nước mắt như vậy chớ?

Trong trí óc non nớt đó, nhà văn không phải là người thường mà là người thượng… tức thuộc cõi trên!

***

Sau nầy lớn lên đi học, thầy cho dăm ba chữ dằn bụng, đọc Sơn Nam tôi càng “ê càng” ổng hơn! Có lẽ trong làng văn chương Việt Nam, Sơn Nam là người duy nhất sống trọn một cuộc đời bằng chữ nghĩa và sống vì chữ nghĩa. Ông sống để viết và viết để nuôi cuộc sống.

Ngay những năm đầu tiên đặt chân lên đất Sài Gòn, manh áo, chén cơm của ông đã bắt đầu từ trang viết.

“Trước 1975, tôi đồng thời viết cho bảy tờ báo. Sau năm 1975, tôi tiếp tục công tác với nhiều tờ báo. Thật ra, tôi mê viết văn hơn viết báo và với tôi, viết văn bao giờ cũng là trọng tâm. Tôi viết báo để kiếm sống và để giải trí. Tôi quan niệm: Viết văn để viết văn, để yêu nước chứ không nhằm một mục đích nào khác.”

***

Sơn Nam viết văn là vậy còn cái tánh ổng là sao cà? Hãy lục tìm vài chỗ: Có nhà báo nói là thích Sơn Nam ở chỗ ông thân tình, dễ gần, không lên mặt kênh kiệu với bất kỳ ai. Ông xuề xòa, vui tính, dường như tôi chưa hề thấy ông giận ai bao giờ!”

Cái này không đúng lắm đâu. Sơn Nam có giận chớ… mà giận dữ với “Tây” mới oai chớ!

“Hiền hòa, nhỏ nhoi vậy, nhưng ông đã nổi giận thì thật ghê gớm. Cũng phim ‘Người Tình’, trong cảnh đám cưới ở chợ Sa Đéc, có mấy chục cụ ông, cụ bà mặc khăn đóng, áo dài đóng vai nhà trai, nhà gái. Giờ nghỉ trưa, thấy mấy cụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi đoàn phim vào nhà hàng ăn đàng hoàng, ông đã nổi giận thực sự. Mặt bừng bừng sát khí, ông đứng giữa nhà lồng chợ ra lệnh gọi đạo diễn ra cho ông nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội hét lính dọn bàn ghế mời các cụ ngồi ăn.”

Giận “Tây” đã là ngon mà ổng còn đổ cộc luôn với ‘ta’ nữa, như trong truyện “Âm dương cách trở”. Ông già hớt tóc vỉa hè bị tên công an khu vực xét hộ khẩu.

Ông nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ quốc Việt Nam thôi”. Tên công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ quốc?”. Ông già nói: “Với tôi, Tổ quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn”.

Hồi cha sanh mẹ đẻ tới bây giờ thú thiệt là: tôi chưa hề may mắn được bực thức giả nào đó định nghĩa ‘tổ quốc’ thâm trầm hơn nữa!

***

Dù ước có vài ba người bạn chơi được, không ba trợn…Nhưng Sơn Nam xui quá… lại gặp hai người: một ở Bắc Ninh: một ở… Hãy nghe:

Khi chụp ảnh chân dung nhà văn Sơn Nam, các nhiếp ảnh gia rất chú trọng tới “chi tiết đặc tả” là đôi tai ngoại cỡ của ông.

Có độc giả ở Bắc Ninh tên là Nguyễn Đình Tự đã đặt câu hỏi với ông:

“Nhà văn Sơn Nam có lỗ tai đạt kích cỡ khoảng 7 cm x 20 cm. Có lẽ vì vậy mà ông… nghe được lắm chuyện xưa tích cũ hay ho về vùng đất Nam bộ để viết lại thành nhiều tác phẩm giá trị về đất nước, con người Đồng bằng sông Cửu Long… Có đúng vậy không nhà văn?”

Sơn Nam đã trả lời rất một cõi U Minh rằng: “Tai tôi quả là cũng có to hơn người bình thường một chút, nhưng không phải vì do nghe nhiều mà tai to đâu. Thiếu gì người “tai to mặt lớn” mà chẳng bao giờ biết lắng nghe gì cả”.

Một câu hỏi ‘ba trợn’ và một câu trả lời có thể ở tù.

Nhưng chưa hết, Sơn Nam còn gặp một ông ba trợn nữa. Ông ‘ba trợn’ nầy viết rằng: “Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông.”

Hội cao niên nghe được …tôi e nó sẽ lôi ông ra ba tòa quan lớn.. vì tội “age discrimination”.

Sau đó… còn thêm: “Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng Tám năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó".

Cái này thì ông đúng chỉ 50 %…Vì Sơn Nam chết mà không mất vì ổng còn để lại “Hương Rừng Cà Mau”. Riêng tôi với ông, dù cũng mần văn, theo chữ Trần Bang Thạch, nếu chết là mất vì mình không để lại cái gì hết …ngoài một nhúm tro.

Có đọc được, đừng giận nhe bạn, bớt giận mà nghe Sơn Nam nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình… (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!)”.

Tôi cũng ao ước giống hệt Sơn Nam là : “Có người tới thăm nói dóc chơi”. Nói dóc… vui hơn ‘mần văn’… anh Trần Bang Thạch ơi!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của nhà văn Sơn Nam.

BÀI 3:

 

HÁT BỘI GIỮA RỪNG!

Khi nhận được một câu hỏi của một ông bạn đọc hơi cà khịa là: Hầu hết sự nghiệp của nhà văn là viết về đề tài Nam bộ, được (hay bị) gọi là “Ông già Nam bộ”, “Nhà văn Nam bộ”… ông có cảm thấy mình “cục bộ” hay không?

Sơn Nam đã trả lời rằng: “Hà…hà..nếu “cục bộ” thì “cục” này hơi bị lớn đó nghen! Vấn đề của Newton đâu phải chỉ là một trái táo. Sholokhov đâu chỉ là nhà văn của Sông Đông êm đềm, Gamzatov không phải chỉ của Dagestan.”

(Chết mầy chưa đừng giỡn mặt với mấy ông nhà văn vì mấy ổng thâm lắm. Câu trả lời của mấy ổng đôi khi chú mầy đọc đến sói đầu tóc rụng hết không còn một sợi cũng còn chưa hiểu đặng)

“Tôi không chỉ được “cho” là nhà văn mà còn được “cho” là nhà văn hóa; nhà văn thì bay bằng đủ kiểu, nhưng nhà văn hóa phải đi bằng đôi chân. Sức tôi có hạn, đi hết vùng đất Nam bộ – đi cho kỹ, cho căn cơ được phần nào – đã là giỏi lắm. Vùng đất Nam bộ và những vấn đề của vùng đất này, dẫu mòn chân một đời, tôi vẫn cảm thấy mình chưa đi hết, chưa nhìn thấy hết, chưa hiểu hết và chưa nói lên được hết…”

***

Viết về vùng đất nơi chôn nhau cắt rún của mình, hơn sáu mươi năm cầm viết, Sơn Nam cũng thú nhận nhiệm vụ bất khả thi (Mission Impossible) là: chưa đi hết, chưa đọc hết, chưa hiểu hết về đất và người Nam Bộ!

Nhưng viết chưa đủ và chỉ về một địa phương U Minh, Cà Mau mà thôi không có nghĩa là cục bộ. Cũng như ‘Newton’ nhìn trái táo rơi ngoài vườn và thuyết “Vạn vật hấp dẫn” ra đời.

Solokhov viết về Sông Đông không chỉ là mối tình bi kịch giữa ‘Grigory’ và ‘Aksinya’ bên dòng ‘Sông Đông êm đềm’ mà còn đi xa hơn về thân phận của tình yêu, của đời người thì tác phẩm sẽ thọ rất lâu so với tuổi thực của nhà văn.

Gamzatov là một nhà thơ nổi tiếng nhất trong dòng văn học tiếng ‘Avar’, với Dagestan, một nước nhỏ, dân số chừng hơn nửa triệu, mà bài viết của ông, trên khắp thế giới, khi đọc lên, ai cũng thấy mình yêu quê hương của riêng mình dào dạt.

Sơn Nam qua đời để lại cho thế giới, không chỉ của riêng cho Việt Nam, một gia tài đồ sộ sau hơn sáu mươi năm cầm viết. Một năm trước khi mất, ông nói với bạn văn: “Tôi còn cái này hay lắm …”

Nhưng không kịp nữa rồi. Cái dở dang làm ta tiếc, làm ta bùi ngùi trước sự mất mát lớn lao, mà tôi e phải rất lâu, lâu lắm, chúng ta mới có môt nhà văn, chỉ học hết lớp đệ tứ niên trường Collège de CanTho mà suốt cả đời tự học và viết; vậy mà tác phẩm của ông đã vượt ra xa, rất xa, khỏi U Minh, Cà Mau, Nam Bộ, Việt Nam… để đến với người đọc trên thế giới.

Chắc bạn đọc cho rằng tôi hơi nói quá ? Để biện minh, xin hãy cùng tôi đọc lại vài đoạn trong“Hát Bội giữa rừng” của tuyển tập truyện ngắn “Hương Rừng Cà Mau” mà Sơn Nam viết hơn năm mươi năm về trước.

“Đêm hát ra mắt, vui quá đỗi là vui! Đào kép thì áo mão xanh đỏ, đầu giắt lông trĩ, ngặt hai bàn chân thiếu hia, thiếu hài. Trống đánh thùng thùng. Kèn thổi tò ti te. Hai bên rạp chong bốn ngọn đuốc sáng rực.

Họ hát tuồng Phong Thần, lớp lập Bá Lạc Đài. Tuồng này nghĩ thiệt lạ, thiệt hay. Nhiều người ba bốn chục tuổi mới được xem hát bội lần này là lần thứ nhứt. Họ thức sáng đêm ngồi dưới xuồng, khi mệt mỏi thì nằm xuống. Rồi lại ngồi dậy…”

Tình nghĩa giữa gánh hát và khán giả bước đầu bao giờ cũng nồng thắm… Nhưng sau đó thì: “….Mấy đứa con nít xem một chập, ngồi ngủ gục. Chừng trống đánh giựt mình, tụi nó dụi mắt, cằn nhằn : “cái gì mà tốc bôn trì, tốc bôn trì hoài ! Cả tháng rồi không có gì mới. Cứ con yêu Tỳ Bà tinh chưn cẳng có ghẻ ngứa…”

Tụi nó xúm nhau bơi xuồng về. Hỡi ôi ! Hai ba ông cọp chạy dài theo bờ rạch ! Thôi thì đành trở vô vòng hàng rào nọ mà chờ đợi tới sáng.”

Mưa sa, gánh Bầu Tèo rã vì: “Việc gì cũng vậy, riết rồi sanh chán. Xưa kia, ông Từ Thức cưới vợ tiên ở Bồng Lai mà còn đòi trở về dương thế, hà huống chi xem đoàn hát Bầu Tèo này biểu diễn.”

***

Từ cái chuyện hát bội giữa rừng của Sơn Nam tui cũng học được cái điều nầy cũng thấy hay hay: gánh Bầu Tèo cứ hát hoài một tuồng bà con mình sanh chán nên chèo ghe về hết ráo. Đó là quyền tự do của bà con mình thuở khẩn hoang của miền Lục Tỉnh Nam Kỳ. Ông bà mình xưa thiệt là văn minh hết sức!

***

Giờ nhìn ra thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc thấy có quá nhiều gánh hát, có quá nhiều chánh trị gia cứ đòi làm kép chánh, cứ nhẩy lên sân khấu múa may quay cuồng, hát hoài một tuồng. Người dân chán hơn cơm nếp nát nhưng cứ bị nắm đầu bắt phải xem. Làm dân mà đứa nào cứng đầu, nhứt định không chịu ngồi xem rồi vỗ tay, thì tụi nó kêu ‘lính’ quánh chết cha tụi làm dân hết ráo!

Dân ngu khu đen sợ bị đánh, bị đá quá đành mắt mở thao láo nhìn lên sân khấu nhưng trong bụng đã ngủ tự lâu rồi!

Thât vậy “Hát bội giữa rừng” như cái kiếng vạn hoa, mỗi lần nhìn lại ta thấy một hình ảnh mới cũng rực rỡ không kém, nhưng khác hình ảnh cũ, lại thấy cái mới thì làm sao ai lại dám chê những tác phẩm của nhà văn Sơn Nam là cục bộ cho được chớ?!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Nhân Ngày Giỗ lần thứ 11 của nhà văn Sơn Nam.

_________________

Bến sông – Thu

Thơ bất chợt như cơn mưa mùa hạ

gợi ta về vùng quê, Thu đã xa!

Em sương khói… vườn dừa mơn xanh lá;

tóc mai dài Em bay mãi trong ta.

Sông nước Hàm Long, chiếc xuồng ba lá

Anh xuôi dòng Tiên Thủy, bến sông xa.

Hôn từ biệt Em đỏ bừng đôi má

Em Bến Tre, bông bưởi trắng sau nhà…

***

Thôi vĩnh biệt! Em lấy chồng! Thu nhá!

nụ hôn xưa theo gió đã bay rồi

Anh phiêu bạt cuối trời, đời luân lạc

hạnh phúc tìm, đâu có? có thinh không!

Giặc còn đó làm sao anh về nữa?

Em chờ chi? lần lữa, lỡ xuân hồng

Tình năm cũ bẽ bàng theo vận nước;

Anh van Em! Đừng đợi nữa Thu ơi!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Vì sao biển mặn?

Nơi giáp nước, cuối dòng sông, chạm biển!

Biển đã mang Anh đi!

Em vẫn đợi người về!

***

Mang mang câu hỏi vì sao biển mặn?

Anh không biết!

Chỉ có mình Em biết!

“Vì nhớ thương Anh: biển mặn nhiều hơn!”

Biển mặn nhiều hơn vì muôn nghìn giọt lệ!

Em khóc cho quê mình và Em khóc tình ta!

Đoàn Xuân Thu

Melbourne.

_____________________

TL_hoaphuongdo_tim.jpg

                       Từ Phượng tím tới Phượng hồng!

Nhà văn, nhà thơ là những người làm văn nghệ, là những người chữ nghĩa cùng mình...từ đầu tới chưn, nên rất đáng kính...nể?! Vì thế cho nên người viết, chữ nghĩa đựng chưa đầy cái lá mít... không bao giờ dám nghĩ tới, chớ nói chi là dám viết để chọc quê mấy ổng ...cho nó lành! Nơm nớp lo sợ là chọc quê, khèo, móc chút đỉnh cho vui mà mấy ổng không vui, lại giận, nổi xung thiên lên vì mình dám vuốt râu hùm... vác chữ ra chọi mình ...lỗ đầu thì khốn!

Đời muốn an toàn trên xa lộ là cứ hợp âm, mình đờn, áo thụng vái nhau cho nó ‘phẻ’. Chớ nhà thơ, nhà nhạc đang hòa âm mà mình 'khơ huyền khờ' chơi vô cái nhịp chỏi... là trước sau gì cũng lòi bản họng!

Phần cày như trâu vì chén cơm manh áo cho em yêu và sắp nhỏ ở xứ lạ quê người nầy, bận rộn quá, hỏng có thời giờ nhậu...Rảnh chút đỉnh viết cái gì đó mua vui cho mình khỏi bị 'trầm cảm' vậy thôi rồi gởi báo đăng, kiếm chút tiền còm nhuận bút, hú nhau ra quán nhậu mà bù khú. (Nhậu ở nhà hoài; con vợ nó cho ăn chổi chà! Chạy không có kịp!)

***

Anh bạn thơ của người viết, từ Brisbane, thủ phủ 'the Sunshine State', tiểu bang Queensland tràn nắng ấm của Úc mới vừa gởi cho người viết hai câu thơ tình hay hết biết! "Em là cơn mưa bất ngờ cho vùng đất khô hạn trong tim anh!" "Em là ánh nắng của đời anh! Không có em trời đầy mây xám!" "Anh ơi! Thơ tình của anh hay là bản dự báo thời tiết vậy cha nội?!" Hổng nghe ảnh trả lời trả vốn gì ráo! Giỡn chơi một chút ai dè giận sao?

Brisbane đầy nắng ấm; (Vái trời cho nắng ấm lên...anh ra bãi biển lềng khênh em truồng...coi mà nhễu nước miếng ròng ròng?) Nhưng tui lại khoái gọi Brisbane là thành phố Hoa Phượng tím cho nó thơ!

Tía (người Việt mình) xưa giờ có con gái đều thích đặt tên cho cô công chúa nhà ta, mới chào đời khóc ‘oa oa’ bằng tên của một loài hoa. Vì mấy Tía con nít nầy đều rất tài hoa, đào hoa và yêu hoa. Nên đặt tên con là Lan, Huệ, Trang, Mai, Lài...Và cái tên được cực kỳ ái mộ tiếp theo sau là Phượng, hoa học trò, (Để nhớ tình nhỏ vắt trên vai... hồi Tía còn đi học, mà người đó hỏng phải là Má của con!)

Từ Phượng, mình có Phượng hồng, Phượng yêu, rồi sau nầy trôi giạt qua Úc Châu, mình có thêm Phượng tím...

***

Phượng tím, Jacaranda, cao từ tới 15 m, tán lá tỏa rộng tới 10 m, cành thưa. Mủa hoa tới 6 tháng trổ từng chùm màu tím, hình chuông, cánh hoa mềm, dễ bị dập.

Thân phận em Phượng tím cũng giống như thân phận mình! Đến Úc ‘tạm dung’ rồi ‘tạm dùng’ luôn. Mình từ Việt Nam còn em từ Nam Mỹ xa xôi.

Brisbane, mùa Xuân, tháng Mười, tháng Mười Một, tháng Chạp ... Phượng tím nở đầy thành phố, đẹp một cách nức nở, đầy ma lực! Lần về phương Nam, Sydney và Melbourne lạnh hơn, hoa nở muộn hơn và không nhiều bằng Brisbane. Sân vườn nhà người viết không có Phượng tím, (vì người viết đã có ‘Phượng yêu’ trong nhà rồi); nhưng thằng Úc hàng xóm thì có. Gió! Phượng tím rơi đầy khung cửa nhà tui đó!

Phượng tím được trồng làm cây cảnh ven đường và trong các công viên. Hoa rụng, trên mặt đất là một thảm hoa màu tím ngắt. Sau mùa đông lạnh, chớm hoa tím lấp ló trên cành là Xuân sắp về. Cả một góc trời chìm vào sắc tím, ngào ngạt hoa Jacaranda. Anh đưa em yêu ra ngồi trên màu hoa tím, mĩm miệng cười duyên, rồi chụp hình... Kẻo em lại càm ràm: Tình ta về già sao khô như ngói?!

Brisbane có nhiều Phượng tím hơn thành phố khác là vì những năm 30 và 40 thế kỹ trước khi mấy bà Mẹ trẻ bế em bé về nhà thì cô Mụ gởi theo bé một cành non Phượng tím, Jacaranda, để Tía nó trồng đê cho cuộc đời của em sau nầy sẽ đầy nhạc và thơ?!

Phượng tím là hoa học trò như Phượng hồng; vì Phượng tím nở ngay chóc mùa thi của mấy em trường Đại học Queensland. Và con gái Úc là Chúa dị đoan. Mấy em tin rằng: Đi dưới hàng Phượng tím mùa thi, lỡ hoa nào rơi trên tóc là em khóc, là thi môn nào cũng rớt hết trơn! Hu hu!

Mùa Hè đi qua... còn tui đứng lại. Đứng lại làm gì? Dà chờ! Chờ lấy lại cái tên trường Áo Tím nhen! Tui sẽ trồng toàn Phượng tím trong sân trường cho nó thơ và mộng hỉ? Còn giữa sân mình trồng một dãy hoa Trạng Nguyên màu đỏ thắm! Để em nào học giỏi, đậu Tú Tài hai, mấy em đứng sắp hàng giữa sân trường, mặc đồng phục áo dài màu Phượng tím. Thay vì tóc dài em cài hoa thiên lý, mấy em cài hoa Trạng Nguyên cho nó 'oách!'

***

Xa quê đã lâu vậy mà viết bài nào cũng nhớ tới quê nhà mới chết! Viết về Phượng tím thì lại nhớ bài 'Phượng hồng' Vũ Hoàng phổ thơ bài ‘Chút tình đầu’ của Đỗ Trung Quân! "…Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi 18, Thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu…Mối tình đầu của tôi….Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu. Nên có một gã khờ ngọng nghịu đứng làm thơ…"

Bài thơ "Chút tình đầu" của ông Đỗ Trung Quân làm tui nhớ thời tui đi học lớp Năm! Dà hồi xưa lớp Năm, chớ hỏng chờ tới 18 tuổi như ông, là tui đã biết yêu rồi! Hỏng biết tại ăn trúng cái gì mà tui 'dậy thì' sớm vậy rứa?!

Nhân tiện tui xin théc méc: có một thằng Tây nó 'chỉa' câu thơ nầy của ông ; mà không xin phép hay trả bản quyền gì ráo trọi. (?!) "When a girl is in love, nobody knows it except the girl! When a boy is in love...everybody knows except the girl" Thiệt là trật bàn đạp hết trơn hết trọi hè!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

____________________________

DXT_StatueOf Liberty.jpg

Sanh ngày 4 tháng Bảy!

Hoa Kỳ và Úc vốn là đất của thổ dân da đỏ và thổ dân Úc trước khi người Châu Âu, đa số từ Anh, đến giành, nói đất nước nầy là của tụi tao. Nhưng chuyện nước Mỹ, nước Úc đa phần là da trắng, râu rậm, đầu sói sọi chính giữa, mắt xanh, mũi lõ, coi bộ lạc hậu rồi nhe! Thời hiện đại tức hại điện nầy, Hoa Kỳ có tới một phần sáu dân số trong 330 triệu người; Úc, còn hơn nữa, tới một phần ba dân số trong 25 triệu sanh đẻ ở nước ngoài. Chính vì thế nên nhiều vùng ở miền Nam Hoa Kỳ, như tiểu bang Florida, dân nói tiếng Tây Ban Nha nhiều hơn nói tiếng Anh. Văn hóa mang nhiều nét Tây Ban Nha hơn nhiều so với những gì người ta coi là ‘Người Mỹ”. Úc cũng vậy, thị trấn Footscray, miền Tây thủ phủ Melbourne, tiểu bang Victoria, nơi tui bèo giạt hoa trôi tấp lại nơi đây, dân nói tiếng Việt nhiều hơn tiếng Anh. Mùi thịt heo át hẳn mùi thịt bò; mùi nước mắm át hẳn mùi bơ sữa.

***

Vốn là dân lưu lạc đến vùng đất mới, người Việt mình mang theo những cái rất đẹp về tình nghĩa vợ chồng, tình phụ tử, tình mẫu tử của ông bà mình đã dạy. (Dĩ nhiên cũng có ‘cha’ bỏ con vợ già về Việt Nam rước một em vợ trẻ, chân dài tới nách qua để làm ‘bà nội’ mình; nhưng đó là số rất ít không thể nào đại diện cho tất cả các bậc đàn ông Mít của chúng ta!)

Còn cái văn hóa dở ẹc như: khoái nói dóc, dám làm mà không dám chịu, chúng ta đã bỏ lại cho CS trong nước nó xài rồi.

Giờ thảng hoặc có nói dóc, chối bai bải hổng phải tại tui chỉ để đối phó với em yêu tức con vợ nhà. Còn cái vụ nổ, ít xít ra nhiều, một tấc tới trời, mầy có biết tao là ai không; chỉ thỉnh thoảng xảy ra trên bàn nhậu mà thôi.

Vì đối với lũ trẻ sanh đẻ bên nầy, là cha, ông, mình trót lỡ dạy tụi nó là dám làm thì dám chịu. Dám làm mà không dám chịu là người yếu đuối và hèn nhát! Con nít thì có bao giờ nó chịu yếu hèn đâu nè! Nên trong tánh cách Mỹ, làm sai thì nhận sai để tiến bộ vì sẽ không còn phạm phải lỗi lầm xưa cũ, nên tánh trung thực được xếp hàng đầu.

Vì thế nên có cái chuyện vui như vầy: “Một thằng Mỹ bị vợ bỏ, sầu đời, dắt đứa con trai 15 tuổi, sanh đúng ngày 4 tháng Bảy, về miền đồng không mông quạnh, xa chốn thị thành xa hoa phù phiếm đua đòi về quê cắm câu, bắt con nhái bầu để quên phứt cho rồi một con người đen bạc.

Hai cha con sống trong một căn lều tranh vách đất bên bờ rạch. Mùa Hè nóng ơi là nóng và mùa Ðông lạnh ơi là lạnh. Thủy triều lên, nước lé đé tới nền nhà. Cu cậu căm ghét căn nhà đó lắm! Lòng hẹn lòng, ngày nào đó nó sẽ xô căn lều đó xuống con rạch, để không còn chỗ đụt nắng che mưa nữa, cha cậu sẽ dắt cậu trở lại chốn vui, chốn phồn hoa đô hội!

Cuối mùa Ðông, thượng nguồn tuyết tan, con rạch nước tràn mênh mông bờ bến, cu cậu quyết định ra tay. Cuối cùng, căn nhà rớt cái tùm xuống rạch và trôi đi mất tiêu!

“Hôm nay có người đẩy nhà của chúng ta đổ nhào xuống rạch. Ðó là con, phải không ?”

Cu cậu lúng túng, suy nghĩ một lát rồi thú nhận: “Dạ! Con!”. “Nhưng Bố ơi, hôm nay con đọc và biết rằng George Washington chặt cây anh đào và không bị Bố mình ‘đét đít’ vì ông đã thẳng thắn nói ra sự thật.”

Người cha trả lời: “Chà! George Washington không gặp rắc rối vì Bố của George Washington lúc đó không ngồi trên cây anh đào. Còn tao…”

***

Ngoài cái tánh trung thực của người Mỹ ra, tui còn thích cái tính hài hước của một người nữa dù ổng đã chết mất đất tự lâu rồi. Ðó là Tổng thống thứ 40 của đất nước Hoa Kỳ: Ronald Reagan.

Vốn là một minh tinh màn bạc hạng B, chuyên đóng vai cao bồi, chuyên quay ổ đạn súng sáu rèn rẹt, lên cò, rượt mấy tay thổ dân da đỏ chạy chí chết vào trong núi. Làm hoài chỉ có bấy nhiêu! Cứ ỷ súng mà rượt mấy đứa chỉ quen xài cung nỏ; nên tài tử Ronald Reagan chán, bèn bỏ nghề diễn viên để theo đuổi nghề chánh trị. Vì ông cho rằng: “Chánh trị không phải là một nghề xấu. Nếu thành công, bạn có rất nhiều, còn nếu bị thất sủng, bạn luôn có thể viết ít nhứt một cuốn sách”

(Nghĩa là lọt sàng xuống nia! Từ ăn nhiều tới ăn ít chớ hổng có cái vụ phá huề, thì ngu sao mà không làm chánh trị chớ?)

Ronald Reagan ra tranh cử Tổng thống Mỹ khi tuổi đã gần bảy mươi, thiên hạ chê già quá còn ham công danh cái gì hè? Thì Ronald Reagan cười he he, trả lời rằng: “Thomas Jefferson đã nói: Chúng ta đừng bao giờ đánh giá một vị Tổng thống bằng tuổi tác, mà bằng những thành quả của ông ấy. Và kể từ khi biết được chính Thomas Jefferson nói điều đó, tôi đã ngừng lo lắng!”

Rồi ông thêm rằng: “Tôi muốn quý bạn biết rằng tôi sẽ không làm cho tuổi tác trở thành một đề tài của chiến dịch tranh cử này. Tôi sẽ không khai thác, vì mục đích chánh trị, để nhắm vào đối thủ của tôi vốn trẻ tuổi hơn và thiếu kinh nghiệm hơn tôi.”

***

Cái tui thích ở Ronald Reagan nữa là ông căm ghét chế độ CS. Vì ngay cả người Nga cũng giống như ông, cũng căm ghét một chế độ CS độc tài toàn trị, chuyên áp bức dân lành.

Nên có chuyện rằng: “Hai đảng viên đảng CS Liên Xô đang đi trên đường. Tên nầy hỏi tên kia: ‘Chúng ta đã thực sự đạt được chủ nghĩa cộng sản hay chưa?

‘Ồ! Chưa đâu, chỉ tới chủ nghĩa xã hội thôi. Khi tới chủ nghĩa Cộng sản thì mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ hơn rất nhiều!’

Hai tay đảng viên Cộng Sản nầy thành thật với nhau nhưng trước toàn thế giới, bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền CS bao giờ cũng ra rả là: Chế độ CS là ưu việt, là đẹp nhất của nhân loại. Cái cột đèn bên Mỹ nếu nó biết đi, nó cũng ‘bò’ về Việt Nam ta! Ha ha!

Dĩ nhiên thế kỷ 21 rồi, đâu còn ai còn khờ khạo để tin cái bốc phét, bông phèn nầy, nên họ đặt ra cái chuyện xỏ xiên CS như vầy nè: “Một người Mỹ đến Moscow, thủ đô nước Nga, mướn một căn nhà. Sau một tuần, ông không tìm được nơi nào để đổ rác cả. Vì vậy, một hôm, chú Sam nầy đi vào một con hẻm vắng với bọc rác trên tay. Nhưng chú Sam bị một em hàng xóm, đẹp như danh thủ quần vợt Mỹ gốc Nga, em Maria Sharapova, chặn lại: “Này, anh đang làm gì vậy?” ‘Tôi phải vứt những thứ rác rưởi này đi” “Anh không thể vứt ở đây. Hãy đi theo em!”

Người em sầu mộng nầy dẫn chú Sam đến một khu vườn cực kỳ xinh đẹp có nhiều cỏ lạ, hoa thơm và hàng rào được cắt tỉa rất cẩn thận. “Ðây!” Em nói: “Vứt bao nhiêu rác cũng được”

Chú Sam nhún vai như Mỹ, mở túi ra và đổ rác ngay lên những bông hoa. “Cảm ơn em đã chỉ cho tôi một nơi chứa những thứ rác rưởi này. Người Nga thật là lịch sự phải không em?” “Hổng dám lịch sự đâu! Ðây là Ðiện ‘Kremlin’.”

***

Hằng năm tới ngày 4 tháng Bảy, ngày Lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ, (năm nay nhằm ngày thứ Bảy, weekend, nhậu đã nha), tui mừng vì một Thế giới Tự do đã được sinh ra. Từ Nam Bán Cầu xa xôi, từ một đất nước Úc rộng bao la, mà con ‘kangaroo’ (đại thử) nhiều hơn dân, tui cứ ngóng về Bắc Bán Cầu, để chia vui cùng nước Mỹ. Hổng dám bợ ‘đít’ Mỹ đâu!

Tui vui vì thấy rằng: “Qua biết bao phong ba bão táp, cây Ðuốc trên tay Tượng Nữ thần Tự do ở hải cảng New York chưa bao giờ lụi tắt. Cây Ðuốc tự do nầy vẫn là ánh sáng dẫn đường, là niềm tin của nhân dân trên địa cầu trong cơn tăm tối hướng về Thế giới Tự do. Niềm tin đó không ai lay chuyển được. Cuối cùng, Thế giới Tự do sẽ chiến thắng tất cả các chế độ toàn trị độc ác còn sót lại trên thế giới. Tự do sẽ đưa nhân loại trở về với ‘nhân chi sơ tính bổn thiện’. Sống trên thuận theo trời; dưới hòa theo đất.

Ngày 4 tháng Bảy năm nay, bà con có tụm năm tụ bảy ngoài vườn sau, ăn ‘barbeque’, (thịt nướng), ‘hot dog’ và ‘hamburger’ rồi uống beer Budweiser thì nhớ phần dư còn lại hãy cất vào trong tủ lạnh. Năm tới, khi đã tan mùa dịch Cúm Tàu Covid-19, tui sẽ bay qua. Xin nhớ nhé! Ðừng quên nhe!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne

 

Về mái nhà xưa!

dxt_vemainhaxua.jpg

Những kẻ tha hương cuối tuần hay tụ tập uống dăm ba ly rượu, văn nghệ cây nhà lá vườn, biết gì chơi nấy. Tiếng đàn ghi ta trầm buồn của một anh bạn văn nghệ, (mới gặp lần đầu), xưa vốn là một trưởng ca đoàn cho nhà thờ Tân Ðịnh, Sài Gòn, trải lòng với bản ‘Về mái nhà xưa!’ (Come back to Sorento!)

Tui cũng góp buồn bằng cách diễn ngâm bài thơ ‘Chạm cửa thiên đường!’ của chính mình trên nền tiếng sáo trúc của Tô Kiều Ngân.

“Vượt trùng dương ngàn cơn bão. Em đã đến Nam Dương, đất nước ngàn, vạn đảo. Em chạm cửa thiên đường! Cửa chưa mở; cơn sốt rừng ập đến. Chiều thu buồn, em nằm lại Kuku!

Hòm Cao uỷ phủ thân người yêu dấu. Thay vòng tay anh ấm, tấm nilong! Mộ chí đề tên, ngày em mất! Mả lạn tàn phai; sương gió thời gian. Mộ chí khắc bằng dao để lòng đau, anh nhớ!

Rượu cay đắng mang theo rửa cốt người yêu dấu. Chiếc nhẫn cưới còn đây. thương hoài tay áp út! Anh hú, anh kêu; tiếng hú chiều tuyệt vọng! Ôi! em yêu!Ôi! đất hỡi! Trời ơi! Sao đóng cửa thiên đường? Khi bàn tay em chạm tới!

Bài thơ khóc em chiều Kuku; ngàn thu vĩnh biệt. Anh mang hài cốt em theo;mình vĩnh biệt Kuku! Kuku! Chiều thu lá rụng! Rụng lá vàng, sao nỡ rụng lá xanh?!”

Anh bạn văn nghệ mới quen nầy, mặt xương xương, vẻ khắc khổ nên trông già đi trước tuổi, sau cặp kính cận, hình như mắt anh rưng rưng đầy ngấn lệ… như cố che giấu đi một nỗi buồn sâu kín đã suốt bao năm!

“Tôi đâu ngờ bài thơ nầy tác giả lại là anh! Người anh đề cập trong bài thơ nầy, trong cái bi kịch đau lòng đó lại chính là bi kịch của một quãng đời tôi! Hơn 30 năm rồi còn gì nữa!”

***

“Tháng Sáu, năm 1982, lúc tôi chưa đầy 26 tuổi, cùng người vợ mới cưới đã liều mình xuống thuyền vượt biển. Sau một chuyến hải hành gian nan đã đến được Kuku, Nam Dương.

Kuku là tên một rẻo rừng dừa trên đảo Jemayah, thuộc quần đảo Anambas, tỉnh Riau, cách thủ đô Jakarta của Nam Dương hơn 1300km.

(Kuku có nghĩa là “Cậu”, âm theo tiếng Hoa! Vì cách đây hơn nửa thế kỷ có một người Tàu đã đến đây khai hoang để trồng dừa. Ông là một người tốt bụng, thường giúp đỡ dân nghèo nên được mọi người thương mến gọi bằng “Cậu”. Sau đó, dân địa phương ở đây đặt tên rừng dừa này là Kuku.)

Bây giờ, Kuku đang ở trước mặt! Bãi biển thênh thang ngày xưa bây giờ hẹp lại vì rừng lấn dần ra biển! Cầu tàu, rồi các dãy lều tạm cư đã biến mất vào hư vô? Chỉ còn xác mấy chiếc ghe vượt biên trơ sườn; vì cát biển theo hàng vạn đợt thủy triều, nắng gió đã chôn vùi phần đáy, nhưng thuyền vẫn còn ráng nhú mũi ghe lên nắm níu, như một bia mộ của một thời dâu bể… (Như bảo: Nhớ đừng quên!)

Cả một rẻo rừng rộng lớn, từng xôn xao bóng hàng ngàn người tỵ nạn năm nào, bây giờ chỉ là một vạt rừng dừa xanh ngăn ngắt, hoang vu! Vì khi những thuyền nhân VN cuối cùng rời Trại tỵ nạn Kuku để chuyển về Trại tỵ nạn Galang, để chờ đi định cư ở một nước thứ ba, chánh quyền địa phương thiêu rụi lều trại Kuku để phòng ngừa dịch bệnh.

Từ đấy, Kuku lại trở về hoang vắng, tiêu điều cho đến nay. Tôi không nhận ra cảnh cũ vì mọi dấu vết đã bị thời gian xóa nhòa gần hết. Ðâu rồi Văn phòng Cao ủy? Ðâu rồi Trạm xá của Trại Tỵ nạn? Ðâu rồi bãi đáp trực thăng trên đỉnh đồi nơi tôi đã từng chôn xác vợ tôi?

Một chiếc thánh giá bằng gỗ đơn sơ, tên em và ngày mất được khắc lên trên đó. Tôi đã chôn theo gương, lược, áo quần! Chiếc nhẫn cưới em vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Nhìn lên đỉnh đồi phủ mờ mây trắng như một dải khăn tang nghìn trùng xa cách khi chiếc tàu Cao ủy rời xa dần Kuku, tôi đã thầm nói lời từ biệt với em và hẹn ngày trở lại. Và hôm nay, hăm bảy năm sau, tôi đã giữ tròn lời thề năm cũ. Ai nỡ bỏ em mồ hoang cỏ lạnh cho đành phải không?

***

Huyệt mộ là một vùng đất sét pha cát, khá xốp, chứ không phải đá núi và khi chiếc quan tài của Cao ủy trong đó xác bọc bằng một tấm nilong lúc hạ huyệt cũng sâu tới chừng hai thước đất.

Giờ khai quật, cẩn trọng đào xuống gần hai tiếng đồng hồ, chiếc áo quan hiện ra, nắp ván thiên đã mục rã thành cát bụi sau thời gian dài đăng đẳng. Nhờ tấm bọc bằng nhựa khá dầy và chắc chắn của Cao ủy, xác vợ tôi được nằm trọn vẹn bên trong mà không bị xiêu lạc hoặc bị rễ cây đâm xuyên dù hài cốt đã bị phân hủy gần hết.

Khi hài cốt vừa được đưa lên khỏi huyệt mộ, trời Kuku bỗng đổ một cơn mưa rừng nhiệt đới! Mưa xối xả như giúp gội rửa thân thể lấm lem của những người phu mộ vất vả cả buổi sáng!

Mưa như để xóa nhòa đi những dòng lệ tiếc thương của tôi, những dòng lệ chất chứa qua bao tháng năm dài lầm lũi một thân trên bước đường tỵ nạn.

Cơn mưa rừng nhiệt đới ngày xưa phân ly, tôi đi, em ở! Và cơn mưa rừng nhiệt đới chiều nay tôi tìm lại em!

Trên nền xi-măng của bãi trực thăng dưới cơn mưa nặng hạt, tôi thu nhặt toàn bộ mẩu xương cốt, những di vật tôi đã từng chôn theo em, được bỏ trong chiếc bọc ni long. Những di vật như gương lược nầy, Hiền, một em gái nhỏ mới 14 tuổi đi chung chuyến thuyền vượt biển, nhắc: “Anh cho đem theo áo quần, gương lược để chị ấy xài…” Thịt xương vợ tôi đã rã tan nhưng chiếc nhẫn cưới vẫn còn đeo trên ngón tay áp út.

Tấm mộ bia cùng với tấm bọc của Cao ủy cho, được gửi lại xuống lòng huyệt! Xin tạ ơn đất trời Kuku, dẫu quê người, vẫn rộng lượng cho xác thân em tạm nương náu suốt 27 năm qua.

Còn hài cốt của vợ tôi được hỏa thiêu ngay trên hai cái hố sâu đào trên cát. Ngọn lửa bùng lên và hài cốt dần dần biến thành tro trắng! Cát bụi đã trở về cát bụi.

Những tro vụn và tàn củi còn sót lại được gom vào hai chiếc bao lớn mang theo lên ca-nô để rải xuống biển trên đường tôi về lại Letung. Ráng chiều từ từ lặn xuống cuối chân mây! Hoàng hôn bủa lưới nhanh trên biển.

Nắm tro tàn của em, tôi sẽ mang về lại quê hương Việt Nam! Tôi bỏ chiếc nhẫn cưới ngày xưa lại vào hũ tro cốt của em trước khi gởi nó vào Nhà Thờ Tân Ðịnh.

“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.

Nghe hết chuyện tình buồn của anh, mắt tôi cũng rưng rưng đầy ngấn lệ! Chúng tôi cạn ly rượu đỏ như màu máu!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Nhận của con nếu có chỉ là thơ!

Lẽ công bằng có cho và có nhận,
Má chỉ cho chưa có nhận bao giờ:
Má cho con cả một đời lận đận;
nhận của con nếu có chỉ là thơ.

Ngàn pho kinh sách con đã đọc,
hữu hạn vô cùng chữ nghĩa ơi;
cho vô hạn một đời lao nhọc,
những lầm than, Má đã cưu mang!

Câu nhạc Y Vân thường hay bảo:
“Mẹ thương con như biển Thái bình”
Thái Bình! Con vượt trong giông bão,
còn Má thương con chỉ dịu êm!
***
Chiếc đòn vai thả sợi dây dài,
đưa cỗ quan tài từ từ xuống huyệt;
kèn đưa đám trổi giọng buồn thê thiết,
tiếng đàn cò đẫm lệ rủ khăn sô.
gậy tang chống, sao nâng đời con được?
bờ huyệt sâu, ba tấc đất. Má đâu?

Chiếc đòn vai thả sợi dây dài,
đưa cỗ quan tài từ từ xuống huyệt.
cỗ quan tài mang hình hài
Má của con yêu dấu.
họ chôn Má rồi,
họ đã chôn cả thời thơ ấu của con!

Ôi! Má của con, Má của con!
từ nay thôi chắc chẳng còn ai,
thương con như thế nữa?
bếp lửa chiều hôm chợt tắt rồi,
mờ bóng Má chập chờn trên vách lá,
Má về đâu? sinh, tử: cõi vô thường.

Ôi! Má của con, Má của con!
từ nay thôi chắc chẳng còn ai,
thương con như thế nữa?
xiêu lạc tha hương, phiêu bạt sầu,
côi cút bay giữa đời giông bão,
ước vọng tương phùng là ảo vọng


Má thương ơi!!!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

Chữ của quê tui !

Hồi học trung học Petrus Ký đệ nhứt cấp, đệ thất tới đệ tứ, môn Quốc Văn mỗi tuần được sáu giờ, sáu giờ chứ không phải sáu tiết, chia làm hai phần: Cổ Văn và Kim Văn.
Kim Văn là văn học hiện đại nhưng học trò mười mấy tuổi như tui tìm đỏ con mắt mà không có một tác giả miền Nam nào hết: Hồ Biểu Chánh không, Phi Vân không, Bình Nguyên Lộc không, Sơn Nam cũng không luôn! Chỉ toàn là Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo trong Tự Lực Văn Đoàn.
Tui đọc Đoạn Tuyệt với Dũng và Loan; Tiêu Sơn Tráng Sĩ với Phạm Thái và Quỳnh Như; còn những nhà văn Nam Kỳ không có một bóng… chớ nói chi tới hình?!
***
Nhớ cô dạy môn Quốc Văn lớp Đệ Lục, chọn bài ‘Hoa Súng’ của ông Đinh Gia Trinh, đăng trên báo Thanh Nghị số 74!
Nhưng trước khi tả Hoa Súng, ông tả Hoa sen. (Hoa Súng, Hoa Sen ngoài Bắc; còn quê mình, trong nầy gọi là Bông Súng, Bông Sen).
“Dọc đườmg đất quanh co, hai bên đầm rộng, ngòi dài. Cuối Thu, sen đã tàn còn để rớt lại trên mặt nước những lá nhăn nheo như buồn một nỗi buồn ly biệt…
…Trên suốt một dải đầm sen, chỉ có lá cây súng tròn như một cái bánh đa, nổi trên mặt nước, duyên keo kết với nước, phô cả bộ mặt với trời xanh như tận hưởng tình của đất trời. Có những chiếc lá hơi tím vàng, có chiếc còn xanh mơn mởn. Nước phô bày một màu áo, như xô đẩ lên trên mặt một linh hồn. Giữa đám lá tẻ ngắt, bỗng ở phía bên kia hồ xa cách đường cái không bao nhiêu, lộ một bông hoa súng màu thanh thiên…
…Rồi cách đây một năm, cuối mùa thu vào chơi làng Triều Khúc ở Hà Đông, …, tôi mới lại được trông thấy một bông hoa súng đúng lúc vừa vặn nở ở một cái ao nhỏ gần một cái quán đầu làng. Vẫn hoa cô lập ngoi lên mặt nước độ hai gang tay, cánh bao dưới màu phớt nâu, cánh hoa thon thon, màu thiên thanh man mác, làm rạng cả mặt hồ.”
***
Quê nhà! Tui không biết đầm rộng, ngòi dài. Không biết thì làm sao mà thấy mà ‘cảm’ cho được. Nên cái hay này chỉ lớt lớt bên ngoài như xức thuốc đỏ, vậy thôi! Đọc thì kêu ‘rốp rẻn’! Rằng hay thì thiệt là hay nhưng đọc để ‘cảm’ thì không có gì; vì cái lối viết vòng vo Tam quốc, chạy vòng vòng như đèn cù (đèn kéo quân) nầy.
Cô dạy môn Quốc văn của tui bảo đó là lối nhập đề lung khởi. Còn các nhà văn miền Nam lại khoái cái lối nhập đề trực khởi hơn; nghĩa là vô đề một cái rẹt hè.
Nhập đề cái rẹt, không làm mất thời giờ vàng bạc của độc giả, hổng phải là dỡ ẹc đâu nhe. Bằng chứng là câu ca dao miền Tây Lục tỉnh quê mình:
“Đôi mình mới gặp hôm nay.
Cho hun một cái, em hai đừng phiền!
Thì em cười chúm chiếm mà rằng:
“Có hun thì hun cho liền!
Đừng làm thổ lộ, láng giềng cười em”
Sao mà tôi thương chữ ‘hun’ này biết bao nhiêu mà kể?! Vì hun là ‘giựt giựt’ đôi môi rồi lan ra cả toàn thân, là khoái lắm hè!
***
Sau nầy hơi trộng trộng, biết ‘ve’ gái, tui áp dụng cái nhập đề trực khởi nầy chớ không bắt chước con gà trống chạy vòng vòng con gà mái, xòe dãy lông háo hức ra như Lữ Bố hí Điêu Thuyền. Vì làm như thế rất mất công, bởi tui vốn là thằng làm biếng!
Cái lối vô cái rẹt nầy đối với mấy em miền Nam mình, kết quả ăn hay thua như đánh bài ba lá, cứ giở ra là mình biết liền hè. Thua thì mình đi ‘ve’ em khác!
Đời ngắn lắm, đâu có quởn mà ‘ngày ấy cây si anh trồng ngay lối đi’ mà chi; cho chúng nó khi: mặt mày sáng láng mà ngu như con gà ‘rù’!
Nhưng mấy anh mình nhớ, đừng chơi chiêu trực khởi với mấy em gốc Bắc 54; vì chưa giở bài ra mình đã biết thua là cái chắc.
Để thử nghiệm, coi nghĩ vậy có trúng hay không, nên một hôm, tan học, tui ngóng cổ chờ một em Bắc Kỳ chín nút từ trường Nữ Trung Học Đoàn Thị Điểm, yểu điệu thục nữ ló ra; để tỏ chút lòng yêu!
Thì em bỉu môi:
“Giời ạ! Ve gái là phải từ từ vòng ngoài rồi mới vào tới vòng trong! Mới sơ bộ mà tính chiếm lũy đoạt thành như ăn cướp đánh vậy anh Hai?”
Phán xong kết quả em cười he he; còn tui về nhà khóc hu hu như ông Tú Xương mới vừa thi rớt Cữ nhân lần thứ 7.
***
Đó là bàn về kỹ thuật nhập đề! Mà trước khi nhập đề thì mình phải có cái đề tài, tìm nó ở đâu? Các nhà văn quê mình chỉ ra rằng:
“Kiếm thẳng từ cuộc đời; (đi và viết); chớ đừng ăn không ngồi rồi, bắn thuốc lào ro ro mà ‘tưởng tượng’ để vẽ ra ‘con voi’.
Đọc Sơn Nam, môt nhà văn tiêu biểu cho cái trường phái: “Đời đẻ ra Văn”; tôi tìm ra được một giai thoại rất thú vị.
Nguyễn Quang Sáng kể rằng: “Khi ông chưa viết văn, thì Sơn Nam đã là nhà văn nổi tiếng. Quê ông Sáng có nhiều câu chuyện rất ly kỳ, ông muốn kể cho Sơn Nam nghe để viết.
Nhưng Sơn Nam lắc đầu từ chối:
“Vùng đó tao không biết. Tao thấy rặng cây từ xa thôi. Mày cũng có chữ nghĩa, viết đi!”.
Theo quan niệm sáng tác của Sơn Nam: Chưa có vốn sống, chưa hiểu biết, chưa trải nghiệm thì không nên viết ẩu! Chuyện gì biết thì viết; không biết thì tra cứu; thì đi hỏi bà con mình chớ không viết ẩu rồi viết trật lất.
***
Đó là cách tìm đề tài; còn cách dùng chữ của những nhà văn quê mình thì sao hè?
Xin quý độc giả thân mến của tui đọc lại một đoạn trong “Đò Dọc” của Bình Nguyên Lộc, mà thầy Võ văn Dung dạy thêm ngoài chương trình chính thức cho người viết vào năm 1963, lớp đệ thất 5, trường Petrus Ký:
“Độ rày cậu làm gì, cậu hai? Hoa lại hỏi.
“Cũng hổng cần làm gì. À, tôi có tự túc một bầy gà Huê Kỳ, coi bộ tương lai “quá khứ” ?
“Tự túc là gì cậu? Hương hỏi thật tình”
“Tự túc là nuôi, chớ là gì!”
“Vậy hà, còn tương lai “quá khứ”?” “Tương lai là tương lai, còn quá khứ là “quá sá”. Tiếng mới mà. Tôi nghe họ nói hay quá, nên tôi bắt chước dùng theo. Đời bây giờ họ bày ra nhiều tiếng mới hay lắm. Thí dụ phạm tội, họ nói “phạm vi”. Thù vặt họ nói “cá nhân”, nghe hay “quá khứ”.
Hoa và Quá núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt.
Cô Quá, mặt mày còn đỏ rần, bước ra khỏi chỗ núp nói:
“Hôm nay cậu mặt đồ xanh, trông đẹp trai “quá khứ” nhưng cậu lại “phạm vi” về đôi dép. Dép phải quay màu đỏ mới ăn với màu xanh nầy. Tôi tính thiệt nói ngay, cậu đừng có “cá nhân” tôi nghen!”
“Tôi người quân tử mà, ai lại “cá nhân” cô”.
Công tử Quờn chẳng qua là khoái chữ, nhứt là từ Hán Việt cho nó sang chảnh, nên xài loạn lên, trạng từ chỉ thời gian quá khứ’ thành trạng từ chỉ mức độ, là ‘quá xá. Danh từ thành động từ! “Cá nhân’ công tử Quờn xài, theo tui : “Xin đừng ghét bỏ, đừng thù vặt thì nói đại cho rồi, cho nó rõ nghĩa phải không nè?!
***
Rồi sau 75, có nhiều công tử Quờn, từ đồng bưng về thành, dùng chữ cũng làm mình hết hồn, mất vía lắm đó!
Năm nẫm, người viết kiếm đường vượt biên, về quê vợ ở Cà Mau, phường Tám, nhậu với mấy thầy chú để tìm mua bãi, nghe một thầy chú kể rằng:
“Thằng Chiến Thắng, tên của thầy chú, nhậu cho đã, nực… còn xuống kinh Rạch Rập lội rồi chết chìm. Thiệt là lãng mạn!”
Nghe cán bộ nói vậy, tui ‘ngẩn tò te’ (?!) Té ra cán bộ muốn nói thằng Chiến Thắng chết ‘lãng xẹt’.
Cán bộ làm tôi nhớ ‘Đò Dọc’ quá chừng chừng !
Đọc Đò Dọc, nghe công tử Quờn, rồi nghe cán bộ Cà Mau ‘phán’, tôi đâm ra ‘ón’ từ Hán Việt. Chữ nào bình dị, dân dã mà thâm trầm, sâu sắc là tui lượm về bỏ vô bài văn của mình chớ không ‘a dua’, chạy theo cái trường phái màu mè, khoe mẻ; viết vòng vòng rồi hổng biết đường ra. Viết không cần ai hiểu mà chỉ để khoe thôi!
Vậy là tui đi tìm ông Hồ Biểu Chánh, ông Vương Hồng Sển, ông Bình Nguyên Lộc, ông Sơn Nam để học cách dùng chữ của mấy bậc ‘tiền bối’ nầy coi chữ mấy ổng dùng có ‘rối’ như tiếng Việt bây giờ hay không?
Thì tìm được một giai thoại khá thú vị khi nghe nhà văn Sơn Nam dạy đời một người bạn vong niên rằng:
“Có gặp thằng Tín, nói tôi nhắn với nó chuyển sang viết văn xuôi đi, thời buổi này mà làm thơ là húp nước mắm!”
***
Chữ ‘húp nước mắm’ của nhà văn Sơn Nam là ‘chữ của quê tui’. Chữ của quê hương, giờ cách xa hàng ngàn hải lý, làm tui nhớ quê nhà tha thiết lắm …Má ơi!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

Tôi đi để lại trường xưa!

“Ôi! Trường ta tang thương!
Theo vận nước nhiễu nhương!
Bạn bè năm cũ giờ đâu cả?
Ðã giạt về đâu mấy nẻo đường?”

***


Mới đây ông Chủ bút kêu réo um sùm:
“Anh Thu ơi! Có bạn học của anh kiếm kìa!”
“Ðứa nào vậy cà?”
Thì ra Bùi Quang Long, đã đi Mỹ du học từ năm 1970, lúc mới vừa đậu Tú tài hai, tìm lại tui, là thằng bạn đồng song của nó.
Ðã 55 năm! Thiệt là chớp mắt! Thiệt là bóng câu qua cửa sổ! Vậy mà bạn học cũ vẫn còn tìm! Thiệt là bùi ngùi cảm động à nhe!
***


Ôi nhớ xưa! Muốn vào học trường Petrus Ký là đám học trò phải qua một kỳ thi tuyển cũng lắm gian nan! Năm, sáu ngàn sĩ tử, chưa tới 500 đứa còn sống sót.
Bài thi gồm 3 môn: Toán quan trọng nhất, hệ số 3, Văn hệ số 2 và Câu hỏi Thường thức hệ số 1.
Bài tủ về môn Toán thường là động tử. Nghĩa là xe chạy. Xe chạy phải hai chiếc, chạy cùng chiều, hoặc chạy ngược chiều. Cho vận tốc mỗi xe rồi tính thời điểm gặp nhau, tính quãng đường hai xe chạy được… đại khái là thế. Cùng chiều, rượt đuổi nhau thì đường dài chia hiệu số hai vận tốc. Còn chạy ngược chiều thì lấy đường dài chia cho tổng số hai vận tốc là ra thời gian hè!
Ðứa nào thông minh giỏi toán, làm trúng hết hai bài, là phẻ re như con bò kéo xe, chỉ có việc ngồi rung đùi, đậu chắc trăm phần trăm. Còn nếu trúng chỉ một bài, còn bài thứ hai trúng lớt lớt như phớt thuốc đỏ thì phải nhờ bài Luận văn hoặc Câu hỏi Thường thức kéo lên cho khỏi xệ.
Bài Luận văn thì khó dàng trời mây đi. Mới 11, 12 tuổi đầu mà quý Thầy ra đề thi kêu tụi em bình luận lời của Ngô Tổng thống là mấy em chết cửa tứ (?!)
***
Năm 63 đó, thằng đậu hạng bét là được 45 điểm cho ba môn. Ðứa đậu hạng nhứt, tức Thủ khoa, được tới 81 điểm, gần gấp đôi thằng đậu hạng bét.
Tên nó là Âu Dương Khoát, (không có bà con dây mơ rể má gì với Tây Độc Âu Dương Phong trong truyện chưởng của Kim Dung hết ráo) sau được xếp vào chung lớp Ðệ thất 5, niên khóa 1963 với tui đó nha!
***


Nhớ ngày đi dò kết quả, tui và thằng anh chen vào cái bảng điểm, che bằng mắt cáo, đề phòng đứa nào rớt, quạu, xé, là hết coi luôn! Bên trong mắt cáo dán chừng 10 tờ giấy đánh máy danh sách thí sinh trúng tuyển, gồm số ký danh, họ tên, ngày tháng năm sanh, điểm, và thứ hạng của thí sinh.
Biết thân mình học dở ẹc nên tui cắm đầu dò từ dưới dò lên! Chớ đời em nào dám mơ mộng gì đâu?! Dò lần lần lên hoài mà hổng thấy tên mình. Chắc tui trợt vỏ chuối rồi quá?
Ai dè thằng anh tui la lên:
“Tên mầy nè, 56 điểm, đậu hạng 176! Má mình mừng lắm đó! Mầy mà rớt, Má hổng có tiền cho mầy đi học trường tư đâu!”
Bữa đó, Tía tui dắt hai anh em tui vinh quy bái tổ ở cái xe bán bò vò viên trước rạp hát Ðại Ðồng! Tía móc túi cho năm chục đồng để ‘tân khoa’ ngồi xơi ‘đại yến’!
Mỗi đứa một chén bò vò viên, mỗi chén 5 đồng. Số tiền còn lại, hai anh em dung dăng, dung dẻ, dắt nhau ngược đường Cao Thắng, lên gần tới đường Trần Quý Cáp, rạp Việt Long, để coi phim ‘Ò e Ro Be đánh đu, Tazan nhảy dù, Zoro bắn súng’
***


Gần tới ngày tựu trường còn được Má dắt ra ông thợ may trong xóm chợ Hai Mươi, góc ngã tư đường Phan Thanh Giản và Cao Thắng, may cho hai cái áo sơ mi tay ngắn và hai cái quần ka ki xanh, và mua cho một đôi dép da của hãng Bata. (Ba Ta chớ hổng phải Ba Tây) (Vì trường Petrus Ký không cho học trò mang dép Nhựt lẹp xẹp, coi nó hổng có oai!). Ðóng bộ vô trông rất oách! Vậy là giã từ cái quần xà lỏn, có mang theo ‘hai quả lắc đồng hồ’ bé tí teo, đi học trường Tiểu học Bàn Cờ trong Cư xá Ðô Thành rồi đó nhe. Vô Đệ Thất, là hết bị Má tui cầm chỗi lông gà kêu cúi xuống vì tội để em té u đầu nữa rồi. Tui chuẩn bị làm người lớn!
Và 9, 10 năm sau đó, từ khi tui thôi học, từ khi tui khoác áo trây-di (treillis), lạc về vùng quê Hốc Bà Tó, rồi thiên duyên tiền định gặp em yêu, tức má đám con tui bây giờ, tui từng ‘nổ’ tơi bời với em là:
“Ðừng thấy anh dở mà rầu!
Ðã từng đi học trường (đứng) đầu Miền Nam đó nhe!”
Làm con vợ tui nó há hốc mồm kinh ngạc: vì lẽ tại sao anh yêu trông lù khù mà lại hổng có ngu… như em hằng tưởng?!
***


Rồi mấy hôm nay, mấy đứa cùng lớp năm xưa, kêu gào bay về họp mặt lớp cũ trường xưa bên Mỹ (chớ hổng phải Mỹ Tho!). Có đứa đề nghị ‘sảng’ là bay về họp mặt ngay tại trường xưa ở đường Cộng Hòa đối diện thành Ô Ma mới được.
Thì đứa khác hổng chịu nói:
“Khi nào cái trường mình lấy lại tên P. Trương Vĩnh Ký thì tao về. Bằng không? ‘Nô quê!’ (No way!)!”
Ngô Văn Trí, Liên toán trưởng ngày xưa, chắc khoái chơi và sưu tầm đồ cổ, gởi cho toàn thể đám học trò danh sách lớp Tứ 5, niên khóa1966, bị gián cắn rìa giấy lổm nhổm hết trơn, cộng với hơi ẩm trong không khí làm chữ bằng viết Bic, bút nguyên tử, cũng tèm lem tuốt luốt, nhưng may mắn thay, đeo kiếng lão vô, vẫn còn đọc được!
Mai mốt mình lấy lại được tên cái trường xưa, tui sẽ đem cái danh sách nầy lộng kiếng (chớ không phải liệng cống), chưng trong phòng Truyền thống của Trường P. Trương Vĩnh Ký để nhát mấy đứa con nít học sau mình chừng một thế kỷ chơi!
***


Bồi hồi đọc cái danh sách mà đầu têu là tên Liên toán trưởng Ngô Văn Trí nầy, thì ký ức như một cuồn phim cũ, tưởng đã mờ phai theo năm tháng, lại hiện về khiến tui cũng rưng rưng nước mắt.
Nhớ thầy Chung Hữu Thế, dạy Anh văn, lớp Ðệ thất 5, định cư ở Canada, vừa quá vãng! Nhớ Thầy rầy (sau khi mấy ‘thằng’ Mỹ, bên USAID, đến dự giờ dạy Anh Văn của Thầy ra về rồi):
“Cái thằng Thu nầy có chữ ‘young’ mà đọc năm lần bảy lượt cũng không xong!”
Em xin cám ơn Thầy đã tế nhị, không nỡ làm quê mặt em với khách đến viếng lớp mình!
***


Tui nhớ trò Châu Minh Nhạn đã bỏ mình trong cuộc chiến khi tuổi mới thanh xuân trong đợt tổng động viên mùa hè đỏ lửa năm 72.
Châu Minh Nhạn là người lạc quan, yêu đời, thường ca, nhạc chế, bài “Where do I begin do” của Andy Williams hát trong phim Love Story do Erich Segal viết kịch bản.
“Where do I begin. To tell the story of how great a love can be”
“Bởi bà già rắc rối, cuộc tình rối rắm, ôi biết nói gì, thì đành nói dối”.
***


Ôi những người bạn học của một thời niên thiếu, đẹp như hoa mộng đó và sau một cuộc biển dâu nầy mà giờ đứa nào may mắn còn sống sót thì cũng đều già cả hết rồi.
Thế nên dẫu chân Trời góc biển nào đó thì tụi tui cũng phải ráng lò dò hay lò cò bay về mà tề tựu một lần sau chót chớ! Tui sẽ mang theo một chai rượu “ông già chống gậy”
(Vì tui cũng đã quá già rồi dù gậy chưa có chống!).
Trước là tế tửu quý Thầy Cô ngày cũ, đã quá vãng, sau để rót xuống cho bạn hiền Châu Minh Nhạn, người đã ngã xuống khi tuổi đời vừa mới chớm đôi mươi.
“Cụng với tao một ly đi mậy!”
***


Ôi Trường xưa! Cho tui xin chịu lỗi nhe! Tui nỡ bỏ ra đi cũng vì phần số thế thôi!
Dẫu vậy, trong trái tim nầy, ở phần sâu thẳm nhất, vẫn còn những hình ảnh cũ của trường xưa, của bạn bè năm cũ, từ giờ tới chết, cũng không thể nào quên!

Đoàn Xuân Thu
Melbourne.

Xã hội Văn Minh!

Nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, soạn giả tuồng cải lương, nói chung, là những người làm văn nghệ, sáng tác ra một tác phẩm nào; bao giờ cũng chuyển tải theo một tư tưởng nhân bản về cuộc đời, về cách con người đối xử nhân hậu với nhau!
Nhớ những năm đầu thập niên 60, soạn giả Viễn Châu có sáng tác một bài ca vọng cổ “Người đánh đàn trên sông Mỹ Thuận” do danh ca Thanh Nhàn thâu dĩa nhựa, làm cho tác giả lẫn nghệ sĩ trình bày nổi danh khắp cả miền Nam.
Soạn giả Viễn Châu, tức nghệ sĩ đàn tranh Bảy Bá, quê xã Đôn Châu, quận Trà Cú, tỉnh Vĩnh Bình lên Sài Gòn lập nghiệp.
Những lần về lại, thăm quê là ông phải qua Bắc Mỹ Thuận, nối những bờ vui, Mỹ Tho và Vĩnh Long qua con sông Tiền. Nhà soạn giả tài danh nầy chú ý đến một người nghệ sĩ mù, chơi lục huyền cầm trên bến Bắc. Lần sau quay qua chốn cũ, người xưa đà mất dạng… Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Viễn Châu lồng vào thân phận của người nghệ sĩ mù đó một số phận đắng cay, một mối tình tan vỡ: Khi anh ra thân tàn phế thì em (thiệt là tệ!) phụ rẫy người xưa đi lấy chồng giàu (?). Chu cha! Xưa giờ cũng vậy!
Anh chỉ còn là một người nghệ sĩ mù lòa trên bến Bắc, đánh đàn trên sông Mỹ Thuận, sống nhờ lữ khách từ tâm qua đường cho chút tiền độ nhựt. Cám ơn!
“Trong một buổi chiều lặng gió/ áo não tiếng tơ đồng như oán, như than…
“Nhạn ơi! Anh ra thân tàn phế; em thì về làm vợ người sang. Đời em sống với bạc vàng. Còn anh làm kẻ đánh đàn ăn xin. Em đi biệt dạng biệt hình. Hết ân, hết ái, hết tình, hết duyên….
Anh ôm đàn dạo lên lần cuối, bản nhạc lòng dang dở năm xưa …
Đó rồi anh mím chặt đôi môi đập vào cội cây cho đến nát tan chiếc đàn sương gió. Rồi nhảy xuống dòng sông giá lạnh, đang mênh mang gợn sóng ba đào.”
Kết cuộc buồn như một câu vọng cổ, chàng nhạc sĩ mù lòa nầy tự trầm.
Cách giải quyết như vậy là bi thảm quá! Nó bỏ mình đi lấy chồng giàu thì mình kiếm con khác. Nếu kiếm không được vì thân phận mù lòa thì ở vậy… có chết thằng Tây nào đâu?!
Thân thể mình là của cha mẹ sanh ra; cuộc đời mình là ân sủng của Trời đất thì ngu sao mà chết?!
(Bên Úc nầy, người chơi nhạc kiếm tiền độ nhựt trên đường phố, được ‘cáo sồ’ khuyến khích; được xã hội tôn trọng, coi như là một ‘busker’ (nghệ sĩ đường phố) thực sự. Chớ không có gọi họ, một cách khi dể, là ăn xin, ăn mày đâu nha!)
***
Rồi năm 1965, sân khấu cải lương Sài Gòn có trình diễn vở tuồng ‘Tiếng hạc trong trăng’ của đôi soạn giả Yên Ba và Loan Thảo.
Đây là vở tuồng kiếm hiệp kỳ tình của xứ Phù Tang. Dĩ nhiên của Nhựt Bổn nên đào kép đều mặc đồ Nhựt Bổn hết ráo… cho nó lạ con mắt!
Nữ nghệ sĩ, sắc nước hương trời, Thanh Nga, trong vai cô gái mù Xuyên Lan, mặc áo kimono, mang guốc mộc, có che một cái dù tre, vẻ hình hoa anh đào, dùng cán dù xoay xoay để múa.
Nam nghệ sĩ Thành Được, xuất sắc trong vai Thy Đằng, tướng cướp một tay, múa gươm xoèn xoẹt, như ‘hiệp sĩ mù nghe gió kiếm vậy!’
Yên Ba và Loan Thảo là hai soạn giả đi theo bước đường của đàn anh mình là Hà Triều Hoa Phượng. Vở tuồng ‘Khi hoa anh đào nở’ ăn khách quá xá quà xa làm nên tên tuổi kép Thành Được trong vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn trên sân khấu đoàn Thúy Nga năm 1959. Cái gì ăn khách là mình làm nữa hè!
Với vai diễn xuất sắc nầy, Thành Được đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm của ông nhà báo kiêm chủ báo Trần Tấn Quốc và tuồng ‘Tiếng hạc trong trăng’ cũng được trao giải tuồng xuất sắc nhất năm 1966.
***
Cốt truyện vở tuồng ‘Tiếng hạc trong trăng’ mà tui nhớ lỏm bỏm như vầy:
Bình Thiếu Quân (nghệ sĩ Việt Hùng) vâng lệnh phụ thân là Thần y Đông Trạch (nghệ sĩ Tám Vân) dẫn em gái mù Xuyên Lan (nghệ sĩ Thanh Nga) đi tìm Lý Bình Thanh (nghệ sĩ Hoàng Giang) và phu nhân (nghệ sĩ Kim Giác) để đưa thơ.
(Ngoài đời, Hoàng Giang và Kim Giác góp gạo thổi chung… tức hai vợ chồng)
Dọc đường, họ gặp tên cướp khét tiếng Thy Đằng (nghệ sĩ Thành Được), may nhờ có tráng sĩ Tô Điền (nghệ sĩ Nam Hùng) ra tay giải cứu.
Tướng cướp Thy Đằng tìm đến Lý gia trang để gặp Lý phu nhân, nhắc lại chuyện ngày xưa bà đã thuê hắn giết chồng. Nhưng điều tướng cướp Thy Đằng muốn nhất là gặp lại vợ con đã thất lạc sau cuộc hỗn chiến ngày xưa.
Lý phu nhân cho biết con hắn đã được bà gửi cho Thần y Đông Trạch nuôi dưỡng vì đứa bé ấy bị mù.
Khi biết con gái mình chính là Xuyên Lan, Thy Đằng tự nguyện hiến đôi mắt của mình cho con. Ngày mở băng mắt, Xuyên Lan đau khổ khi biết ân nhân của mình lại là tên cướp khét tiếng mà không hề biết đó chính là cha ruột của mình.
Đoạn cuối, khi Xuyên Lan được Thần y Đông Trạch nhắc lại sơ yếu lý lịch của mình, họ tên và con của ai! Xuyên Lan biết được sự thật cha ruột là tướng cướp Thy Đằng đã cho con đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời, nhìn rõ đục trong, và sẽ vầy duyên cá nước cùng tráng sĩ Tô Điền. Sướng nhe!
Nam nghệ sĩ Thành Được xuất thần qua câu hát: “Cháu tôi đứa nào cũng dễ dạy, tụi nó có hai ông ngoại, chúng nói ông ngoại nầy móc mắt ông ngoại kia cho má tôi thấy đường”
Hát xong, Thy Đằng vĩnh biệt con gái yêu Xuyên Lan của mình, lần mò đi vào cánh gà mà trời tuyết đang rơi lã chã! Hình ảnh Thy Đằng rọi trên nền phông sân khấu như một kẻ cô đơn, như ‘Tiếng hạc trong trăng!’
***
“Ò e Ro be đánh đu! Tazdan nhảy dù! Zoro bắn súng! Chết cha con ma nào đây làm tui hết hồn thằn lằn cụt đuôi!”
Bà con đi coi cải lương tới đoạn vãn nầy khóc quá xá! Cô Sáu, dì Bảy, em Hai, em Ba, coi xong tuồng rồi cứ tấm tức và ấm ức hoài!
Tại sao Thy Đằng đã nhường đôi mắt của mình cho con gái yêu là Xuyên Lan rồi; còn đi bụi đời chi nữa để phải lấy cây kiếm quờ quạng lần mò dò đường. Mù lòa mà đi đâu cho khổ thân như vậy hổng biết nữa?!
Tui ‘bí’! Biết trả lời sao? Tại hai ông soạn giả nầy muốn vậy mà.
Khi sáng tác, soạn giả là ông Trời. Muốn cho Thanh Nga mù là phải chịu mù. Cho Thành Được bị chém rụng hết một tay thì tướng cướp Thy Đằng phải cụt một cánh tay!
Rồi năm chục năm sau, tức là nửa thế kỷ, nước chảy qua cầu, đêm nay, viết bài nầy, tui lại tự hỏi tui:
“Cha cái vụ hiến con mắt nầy, nền y học hiện đại giờ chưa thể làm được mà soạn giả nói được là phải được… He he!”
Nhưng cái quan trọng nhứt, cái ý chánh của vở tuồng đã nêu cao được cái phụ tử tình thâm và một cái nhìn rất nhân bản về người khuyết tật, mù lòa.
***
Viễn Châu với ‘Người đánh đàn trên sông Mỹ Thuận’; Yên Ba và Loan Thảo với ‘Tiếng hạc trong trăng’ dạy cho người viết là tui một cái nhìn đúng đắn, để biết cách đối xử với những người không được may mắn như chúng ta.
Còn ai đó cho rằng:
“Người khuyết tật phải gánh chịu số kiếp khuyết tật như vậy vì họ phải trả giá cho việc làm xấu xa ở kiếp trước(?!)”
Nói như vậy là nói bậy!
***
Tui nghe nói xã hội trong nước bây giờ, cũng còn có vài người ‘vô cảm’ lắm! Lành lặn với nhau mà hở một cái là xách dao ra… lụi! Lành lặn còn chơi nhau tới cạn tàu ráo máng như vậy… thì lòng nhân đâu mà đối xử đàng hoàng tử tế với những kẻ không may, những người khuyết tật mà theo thống kê cả nước sau cuộc chiến tranh tàn khốc lên tới 5, 7 triệu người!
Đứa nào làm cho miền Nam văn minh của chúng ta ngày xưa giờ băng hoại đến nỗi nầy?!
Văn minh không phải chỉ là đi mượn nợ nước ngoài để xây thật nhiều cao ốc cho giống hịt Singapore hay lên truyền hình dạy con nít cách nhồi chất nổ C4 vô cái bánh chưng mà giết ‘giặc’ Mỹ đâu nha mấy cha nội!
Muốn biết một xã hội văn minh hay không chỉ cần nhìn vào cách họ đối xử với người khuyết tật.
Đối xử với nhau cho ra cái giống người mới là Xã hội văn minh đó chớ!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

DXT_corona.jpg

                                                                                                 Tranh Bảo Huân

 

 

Ôn hoàng dịch lệ!

Nhắc tới Vũ Hán tỉnh Hồ Bắc thì bà con mình lại nhớ tới bài thơ ‘Hoàng Hạc Lâu’ của Thôi Hiệu, đời nhà Ðường:


“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”


Từ bài thơ Ðường Luật thất ngôn bát cú, nhà thơ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu của chúng ta dịch qua thể thơ lục bát với bản dịch tuyệt vời với 2 câu kết là:


“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”


Ðời nhà Ðường, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Ðỗ Phủ… cũng đã dừng gót giang hồ tại Hoàng Hạc Lâu, nhậu cho đã rồi làm thơ.


Lý Bạch về Hoàng Hạc Lâu; nhưng thấy đã có bài thơ Thôi Hiệu treo ở đấy.


“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc.
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”
(Trước mắt có cảnh mà đành chịu!
Vì thơ Thôi Hiệu viết trên đầu).


(Thằng cha Thôi Hiệu nầy viết hay quá! Làm mình cụt hứng. He he!)


Hoàng Hạc Lâu tan nát vì do mấy Chú Ba thời phong kiến đánh nhau cho đã; rồi đốt nhà, nên Hoàng Hạc Lâu cháy tới 12 lần.


Thời CS, Hoàng Hạc Lâu bây giờ cao hơn 50 mét, có năm tầng lầu Trên tầng cao nhất người ta có thể ngắm cảnh trời sông bao la bát ngát, của hai sông Trường Giang và Hán Thủy.


***


Mấy cái chuyện nầy đều liên quan tới cái tỉnh Hồ Bắc, nơi có thủ phủ Vũ Hán, tâm điểm của dịch bệnh “coronavirus’ đang phát tán ra khắp Năm Châu!


Vụ dịch Coronavirus tới giờ nầy đã giết chết ít nhất tới nay là 1.383 người và lây nhiễm hơn 64.000 người (đa số ở Trung Quốc), cái đáng sợ là nó sẽ tiếp tục lan rộng ra ngoài Trung Quốc. Tại Phillipines, tại Nhựt Bản mỗi nước cũng đã có một người chết rồi!


Bị con ‘Coronavirus’ gí tới đường cùn(g), bè lũ ăn hại ở Trung Nam Hải hết dám xưng hùng xưng bá như bữa duyệt binh vào ngày Mùng 1, tháng Mười, năm 2019, (chỉ cách nay có 4 tháng thôi) tại Quảng trường Thiên An Môn để Tập Cận Bình đánh trống thổi kèn ăn mừng 70 năm CS chiếm được chánh quyền, đè đầu cỡi cổ dân Tàu và hăm he mẻ răng các nước khác là:


“Khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng!”
(Nghe quen quen à nha!)


Pháo bông bắn đầy trời thủ đô Bắc Kinh và nở ra những cái hình (hình kèm theo) giống hịt như hình con ‘Coronavirus’ mới vậy!


Và cái con ‘coronavirus’ đang rượt chánh quyền Trung Cộng chạy có cờ, chạy vô chạy tuốt ra ngoài tới nước Nga của Vladimir Putin và ngay cả chủ nghĩa tư bản đang giãy đành đạch để chết là bọn Liên Âu để xin ông đi qua bà đi lại giúp đỡ ‘ngộ’ giùm một cái. Nguy cấp quá xá rồi!


***
Vào lúc 6 giờ chiều, ngày thứ Ba, 28 tháng Giêng, năm 2020, chiếc máy bay phản lực Boeing 747, cất cánh từ sân bay Barajas ở thủ đô Madrid, Spain quá cảnh 20 tiếng đồng hồ tại Hà Nội rồi cất cánh bay lên, tới Vũ Hán, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc để làm thuyền cứu sinh, rước công dân của Liên Âu ra khỏi vùng đất chết.


Khi vòng quanh bầu trời Vũ Hán, dưới cánh bay của họ là một sa mạc, một thành phố ma, tiêu điều trong hoang vắng như một chiến trường vừa bị trải qua một trận ném bom B52. Ðường phố vắng hẳn tiếng xe; sân bay hoàn toàn trống vắng.


Phi hành đoàn đeo khẩu trang, mang găng tay, ở nguyên trên máy bay và 72 hành khách lên máy bay rồi họ cất cánh bay lên.


“Ðối với người vượt thoát khỏi tâm điểm của dịch bệnh Corona Wuhan, mừng rỡ giống như họ đang được về nhà và bỏ lại tất cả phía sau”.


Hệ thống y tế của Trung Quốc đã ‘sụm bà chè’; vì giường dành cho bệnh nhân và vật tư y tế cần thiết đã hết. Trong khu cách ly của Bệnh viện số 3, Thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc, giường số 15 trên lầu 2, bệnh nhân Bá Mạn Nhi, 24 tuổi, gởi lên mạng xã hội Weibo của Trung Quốc lời trăng trối, nghe rất đau lòng.


“Tôi không nghĩ rằng tôi có thể vượt qua đêm nay, và đến giờ tôi cuối cùng cũng có thể nhận ra cái chết là gì. Không ai tin cả. Không ai tin rằng tôi đang trên bờ vực của cái chết.

Bệnh viện chỉ phát hai viên ‘Oseltamivir’, cơm một ngày hai bữa, ngoài ra không còn gì khác vì bệnh viện chỉ có một phương án đó mà thôi.”


Ngày 30, tháng Giêng, năm 2020, y tá đến đo thân nhiệt. Bá Mạn Nhi yếu quá, không thể phản ứng gì, y tá phải kéo chăn ra và không ngừng vỗ vào Bá Mạn Nhi, khi thấy cô không có động tĩnh gì như vậy. Chỉ sau khi Bá Mạn Nhi cố gắng phát ra một giọng nói yếu ớt, y tá mới biết là cô còn sống.


“Tôi nằm trên giường, không thể gượng dậy. Tôi biết hôm nay tôi sẽ phải chết, hô hấp suy kiệt, cũng không được truyền dinh dưỡng nữa. Tôi đã chủ động đi cách ly. Tôi không ngờ rằng mình sẽ phải vào địa ngục trần gian!


Tôi đang bị cách ly trong bệnh viện, tất cả những gì tôi nói đều là sự thật. Tuyên truyền trên báo chí của nhà nước toàn bộ đều là láo khoét, bịa đặt.


Những bệnh nhân đang nằm chờ chết tại đây giống như tôi không hề ít, chúng tôi tin vào chính phủ, vậy mà hiện tại nhận được kết cục như thế này đây!”


***
Vậy mà cũng theo mửng cũ, cái tật không bỏ hè, Tể tướng Lý Khắc Cường vẫn còn lên gân, nổ ‘lép bép’ là:


“Chính phủ Trung Quốc luôn đặt sự an toàn và sức khỏe của người dân lên hàng đầu và đang nỗ lực để ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh một cách minh bạch và có trật tự. Công việc hiện tại là kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh và điều trị cho bệnh nhân, cũng như bảo đảm trật tự cuộc sống bình thường của người dân Trung Quốc và người nước ngoài tại Trung Quốc!”


Trong khi đó thì hình ảnh một ông cụ mang khẩu trang nằm chết cô độc trên lề đường của thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc tràn ngập trên Truyền thông Phương Tây làm ai nấy cũng đều thương cảm!


Rồi bà con ở các nước khác cũng đang lo sốt vó vì sợ bị lây lan! Nước Úc tới giờ phút nầy đã có tới 15 ca bị thử nghiệm dương tính rồi đó.


***
Té ra Lý Thừa tướng hô khẩu hiệu trước bàn dân thiên hạ cho đỡ quê thôi; chớ trong hậu trường, Lý tuân lịnh Hoàng đế Tập, nên đã gởi tên du thuyết ‘Vương Nghị’ đi Nga xin ‘hợp tác’.
(Nói ‘hợp tác’ cho đỡ quê vậy mà! Mà nè trước khi vô Moscow, Vương Nghị có được kiểm dịch hông? Nếu có, thì lúc nói chuyện với thằng Nga, hai cha nhớ mang khẩu trang cho đúng cách, kẻo khi bốc phét, văng nước miếng tùm lum rồi ‘hợp tác’ tặng cho Tổng thống Nga Vladimir Putin (cựu trùm mật vụ KGB) vài con ‘coronavirus’ cho biết với người ta thì bỏ cha cả lũ.)


Rồi đích thân Lý Thừa tướng nói chuyện qua điện thoại với Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen hứa trao đổi thêm thông tin (đừng có đưa ‘tin vịt’ nữa được hông nè?) với hy vọng sẽ mua được các dụng cụ y tế cần thiết từ các nước thành viên của Liên Âu.


Liên Âu cho biết sẽ cố gắng hết sức và phối hợp tất cả các phương tiện cần thiết để hỗ trợ cho Trung Quốc.


***


Thôi vì tình nhân loại, người Tàu đang ngụp lặn trong cơn hoạn nạn về dịch bệnh ‘Coronavirus’ thì cộng đồng các nước khác trên thế giới, vì lương tâm, vì tình đồng loại và cũng vì sức khỏe của chính dân mình, nên chung tay góp sức vào việc phòng chống dịch bệnh để cứu dân Tàu trước; sau là để tránh lây lan tới cả dân mình.
Khi cơn dịch bịnh ‘Coronavirus nầy hy vọng sẽ được dập tắt, thì bà con tin tui đi, Trung Cộng sẽ lại đánh trống thổi kèn, vỗ ngực xưng tên nhờ sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của đảng ta cho mà coi!


Còn cầm bằng thất bại, dân Tàu chắc chắn sẽ tính sổ tới nơi tới chốn với cái đảng CS ‘ôn hoàng dịch lệ’ nầy!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

Tranh Bảo Huân.

dxt_ct.jpg

                  Cần Thơ đi dễ khó về!

Chữ rằng: “Cần Thơ đi dễ khó về! Trai đi có vợ; gái về có con!”

Đó đó! Đúng y hịt đời tui vậy đó bà con ơi!

Như ai nấy nếu để ý đều biết bất cứ thị trấn, thị xã nào của Lục tỉnh Nam Kỳ, quê mình, đều kề cận một dòng sông.

Vì cũng có câu rằng: “Sông Cửu Long chín cửa hai dòng! Người thương anh vô số, nhưng anh chỉ một lòng với em!”

Rồi thòng thêm câu hỏi nữa: “Bên dưới có sông; bên trên có chợ. Ta với mình chồng vợ nên chăng?”

Thì em yêu, dân Cần Thơ, tóc em dài em cài hoa thiên lý, nghe anh hỏi mi mí… là em biết tỏng cái tim đen, bèn trả lời móc họng anh, như vầy: “Biết rồi mà bày đặt hỏi lôi thôi!”

Có nghĩa là: “Anh có thương em thì thủng thẳng em ừ! Anh đừng thương vội mẫu từ ‘quánh’ em!”

Ha ha! Mẫu từ, mẹ hiền, mà roi vọt bất tử quá vậy ta? Nhưng có nhằm nhè gì! Quánh em; chớ có dám quánh thằng ‘rể đu đủ’ tương lai trời đánh nầy sao mà mình sợ chớ?! Nên tới luôn bác tài…Vì em đã chịu đèn rồi!

***

Chẳng qua là tới tuổi quân dịch, tui vào lính; nhưng bị bịnh mộng du! Bác sĩ quân y thuộc Hội đồng giám định y khoa khám, cho tui về hoãn dịch vì lý do sức khỏe!

Vì tối nào tui cũng ngủ mớ, tuột cái rột, ra khỏi giường, đi vòng vòng doanh trại, dạo mát trăng thanh; nhưng không có ý thức gì ráo!

Mật khẩu không biết, đêm cà lơ phất phơ… lính canh nó phơ ẩu là bỏ mạng sa tràng…

Thôi lính chê thì mình về đi học nữa vậy!

***

Năm 1970, tui theo thằng bạn thân, sau Tết, mùng Bốn, đi Cần Thơ cho biết đó biết đây; ở nhà với Má biết ngày nào khôn?

Từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, trên Quốc lộ 4, qua Bắc, leo lên xe Lam, chạy một hơi thôi, khoảng 1300 mét, là tới Ngã ba Lộ tẻ.

Rẽ trái vào trung tâm thành phố Cần Thơ! Rẽ phải vào liên tỉnh lộ dẫn đến Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên.

Tại Ngã ba Lộ tẻ, có Bến xe mới xe lên Sàigòn; hoặc xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, chạy thẳng tắp từ đây tới tận quận Cái Răng; mà không phải đi qua trung tâm thành phố.
Vào trung tâm Cần Thơ phải qua cây Cầu đôi bằng sắt, kiểu Eiffel, bắc ngang qua rạch Cái Khế.

Bên kia cầu là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, xưa dành cho mấy ông Tây; sau nầy là Dinh của Tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa .

Đi tới là dinh Tỉnh Trưởng! Trước mặt là một bùng binh khá rộng, nơi hội tụ của nhiều con đường chạy vòng vòng để khỏi đụng nhau.

Đường Phan Đình Phùng xuất phát từ đây, coi như là cái xương sống của thành phố, chạy ngang qua Ty Bưu điện, Tòa án, Tòa Thị Chánh, Ty Cảnh Sát, Trường Tư thục Nam Hưng, v.v… xuống tận khu Cầu Xéo.

Một đường khác cũng từ dinh Tỉnh Trưởng hướng về Cầu Tham Tướng, là Đại lộ Hòa Bình. Nhưng dân quen gọi là đường Hàng Xoài, vì dọc theo đường có trồng xoài.

Đại lộ Hòa Bình, lớn nhưng ngắn ngủn, chấm dứt khi tới Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa (Nơi em yêu của tui làm đó nhe!). Đường Lý Thái Tổ, bắt đầu từ đây, chạy dài tới cầu đúc Tham Tướng.

Qua cầu, là đường Mạc Tử Sanh, phía bên trái là chợ chồm hổm, chỉ nhóm vào buổi sáng, nhưng tấp nập quanh năm vào buổi chiều tối vì có xề bánh cống, quầy hủ tiếu, gánh cháo gà cho dân nhậu bình dân.

***

(Tham Tướng là Mạc Tử Sanh, con của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên), làm cận vệ cho chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần.

Năm 1777, quân Tây Sơn ồ ạt tấn công xuống miệt Trấn Giang (Cần Thơ)! Mạc Tử Sanh bị vây, chết trận nơi khoảng rạch nhỏ đổ ra sông Cần Thơ! Sau nầy dân chúng đặt tên là rạch Tham Tướng!)

***

Rạch Tham Tướng chạy vòng vòng phía trong, cắt ngang đường Tạ Thu Thâu, chui qua cái cầu sắt nhỏ, cầu Rạch Bần, vốn là đường thoát nước mưa tự nhiên cho Cần Thơ! Sau nầy nghe nói đã bị lấp! Nên bây giờ mưa lớn một chút là Cần Thơ ngập thấy thảm… thương luôn?! Tội nghiệp mấy em mắc mưa, ướt luôn cái quần lãnh Mỹ A hết ráo!

Cầu Tham Tướng đã biến mất, đường Mạc Tử Sanh đi về hướng Cái Răng cũng bị mất tên luôn, thành đường 30 tháng 4.

Ngã ba Tham Tướng xưa có doanh trại của đại đội Quân vận 411, dưới hàng cây bã đậu. Sau nầy là quán cà phê và quán nhậu bình dân.

Ôi những ngày đói rách, lang thang sau khi mất nước, tui không biết làm gì; chỉ biết long nhong như ở không lắm vậy! Và từng đóng đô thường trực ở đó.

Ngồi tréo ngoảy, trước mặt ly rượu thuốc ngâm ô môi, có màu cho dễ ực; vì màu trắng mắt mèo, e nó có nhúng một đầu tăm thuốc trừ sâu cho rượu trong veo… Thấy ớn quá hà!

Xa em, người đã cả gan bán chịu cho tui ngày cũ (mà không sợ bị giựt)! Biết giờ em giờ phiêu bạt tận phương nào, để tui gởi về em một, hai trăm đô Úc, bồi đáp cái ‘bát cơm phiếu mẫu’ ngày xưa?!

Phần để cho em có tiền mua trầu nhai bỏm bẻm, chống tay lên cằm mà nghĩ tui vẫn còn thương tưởng tới em?!

***

Nhưng nếu bà con mình ở tỉnh khác tới chơi; người ta khoái cái bến Ninh Kiều hơn là chợ Tham Tướng!

Bến Ninh Kiều, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã đánh quân Minh xâm lược một trận tơi bời; nên nằm trên đường Lê Lợi.

Thế mới biết ông cha mình đặt tên đường, tên bến nước là đầy trí tuệ, có hậu ý; chớ không phải như sau nầy muốn đổi tên đường sao cũng được; tùy bữa say nhiều hay xỉn ít đâu nha mấy cha?!

***

Nhạc sĩ Lam Phương, năm 75, theo tàu Trường Xuân, ông chạy sớm hơn ai hết thảy. Xa quê, tuốt bên trời hải ngoại, ông vẫn còn nhớ tới bến Ninh Kiều để: “Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về. Thăm quê xưa với vườn cau thề .Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô. Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô!”

Đó là ông ước, ông mơ, ông nhớ về ngày tháng cũ: “Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều. Sao anh không thấy về Ninh Kiều? Dường như anh nghe đời nặng trĩu trong màu đen. Đen như manh áo buồn chưa quen!”

Rồi ông nhớ cái thuở học trò! “Ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường. Nay nghe sao khác từ tên đường/ Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương. Tây Đô sẽ sống lại yêu thương!”

Cái trường, ông Lam Phương, (xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường), là trường Phan Thanh Giản, trường công lập lớn nhất miền Tây, được thành lập vào đầu thế kỷ 20.

Học sinh ở các tỉnh lân cận, như nhà văn Sơn Nam, miệt Rạch Giá, vẫn phải khăn gói đến trường Phan Thanh Giản để học tiếp bậc “Đút rơm trâu ăn mê” (Diplôme) tức Trung học Đệ nhất cấp!

***

Tới năm 1964, trường Phan Thanh Giản lại được tách ra để thành lập Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm. (Em yêu của tui đã từng đi học ở đó!)

Sau 75, Trung học Phan Thanh Giản bị thay bằng Châu Văn Liêm.

Mà không phải chỉ cái trường học bị đổi tên đâu mà những con đường chu vi trường cũng chịu cùng chung số phận.

Cổng trường nằm trên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tỉnh. Đường Pasteur, giữa trường Phan Thanh Giản và trường Đoàn Thị Điểm, bị đổi tên là Võ Thị Sáu.

Ông Pasteur, dù là Tây; nhưng có công lớn là đã chế ra thuốc chủng ngừa, cứu mạng hàng triệu người, không phân biệt màu da sắc tộc, khỏi bệnh tật!

Công lớn với nhân loại khó có ai sánh bằng vậy mà cũng bị đuổi đi… để thay bằng chị Sáu… ‘mùa lê kim ma’ nở?

Nhưng tui buồn nhứt có lẽ là đường Võ Tánh, dọc bên hông trường, từ đường Phan Thanh Giản tới đường Ngô Quyền; đã đổi thành đường Trương Định.

Không phải tui (dám) ghét bỏ ông Trương Định, một anh hùng kháng Pháp, gì đâu. Mà chẳng qua con đường Võ Tánh, dẫu ngắn, có một khúc tẻo tèo teo thôi; nhưng nó lại mang quá nhiều kỷ niệm…

***

Phía sau lưng đường Võ Tánh nầy là xóm Cả Đài (theo tên Hương cả Phạm Thành Đài), bắt đầu từ cái chợ nhỏ cũng gọi là chợ Cả Đài kéo dài dài đến chùa Cây Bàng; nơi tui từng ở trọ gần trường để tiện đường… đi gõ đầu trẻ hồi năm nẳm.

Tui nhớ quán Ngọc Lan, chuyên bán cơm tháng cho quân nhân và công chức. Năm 1973, nếu mua vé cả tháng, sáng ăn đưa một vé, chiều ăn đưa một vé!

Bữa nào hỏng ăn, lại đi ăn cháo, gỏi đầu cá lóc (bự ế kinh), ngon hết biết, với em yêu ở đường Nguyễn Trường Tộ thì khỏi đưa vé…

Ăn hết xấp vé đó mua xấp vé khác, tốn 4 ngàn đồng bạc, dằn túi; không sợ đói bất tử vì đôi khi hứng xài ẩu… (Hồi thanh niên, đứa nào hỏng vậy cà?)

Từ quán cơm Ngọc Lan, có ông chủ lúc nào cũng mang mặc áo bỏ vô thùng bảnh tỏn, đi vài căn nữa thì tới tiệm chụp hình Phúc Vinh, nơi em yêu làm duyên, chụp tấm hình cho anh lộng bóp; để lúc nào cũng phải nhớ tới em!

Và nếu vắng em, có con ‘quỷ hó’ nào dám lục bóp anh, thì nó thấy tấm hình bà La Sát nầy là nó sẽ bỏ chạy sút dép luôn!

Sau 75, người ta đói xanh râu, đói đến lòi hai cái lỗ tai; nên tiệm Phúc Vinh không còn chụp hình nghệ thuật nữa mà quay sang bán cháo, gỏi gà… để kiếm cơm!

Tui đã từng theo Giáo M. nhà ở hẻm 5, đường Phan Thanh Giản tới đây nhậu.

(Giáo M. có người em gái trắng như bông bưởi! Tắm xong, em hay ra hàng hiên ngồi hong tóc; mà tui tình cờ trông thấy… phải há hốc cái mồm!)

***

Thưa bà con! Dù Cần Thơ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của tui nhưng là quê hương yêu dấu ngậm ngùi của em yêu.

Cần Thơ là quê vợ, là người tui rất sợ; nên tui còn yêu Cần Thơ hơn cả quê tui nữa đó!

Vì nơi đó có em… và còn có mấy em khác (tui thầm thương trộm nhớ) nhưng vì đã có vợ rồi nên tui đành phải giữ mối tình câm…Nên riết rồi… tui bị ‘hâm hâm!”

Tui xa Cần Thơ… Đi và đi luôn tới mấy chục năm!

Người xưa bên ấy, mới đây, gởi cho tui câu ca dao nầy, tui lén vợ, tui học thuộc lòng, kẻo quên:

“Con chim buồn, chim bay về cội. Con cá buồn, cá lội trong sông. Em buồn em đứng em trông. Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”

Thôi xin tạ lỗi cùng em hẻm 5, đường Phan Thanh Giản!

Thân anh giờ như:“Chim vào lồng; như cá cắn câu! Cá cắn câu biết đâu mà gở; chim vào lồng biết thuở nào ra!”

Thôi đành: “Hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau!”

Đoàn Xuân Thu

Melbourne.

dxt_coronavirus.jpg

                                  Canh bạc của Tập Cận Bình!

Vũ Hán là thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc với 11 triệu dân nằm ở ngã ba sông Dương Tử và sông Hán.


Xưa giờ bà con mình, đôi khi chỉ biết địa danh Vũ Hán qua bài thơ thất ngôn bát cú ‘Hoàng Hạc Lâu’ của Thôi Hiệu (704–754) thời nhà Đường.


Nếu là dân lưu lạc tha hương như chúng ta, ai cũng biết hai câu kết là:


“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!’


Nhà thơ Tản Đà đã dịch lại, một cách trác tuyệt, bằng hai câu lục bát là:


“Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”


***
Tuy nhiên từ cuối tháng Chạp, năm 2019 tới nay, Vũ Hán, (tiếng Anh là Wuhan) được dân toàn thế giới biết đến không phải do bài ‘Hoàng Hạc Lâu’ của nhà thơ Thôi Hiệu, mà do con ‘2019 novel coronavirus’ (2019-nCoV), thường gọi là ‘Coronavirus Wuhan’; mà Hoàng đế Tàu muôn đời Tập Cận Bình gọi nó là con ác quỷ.


Vài loại vius được đặt tên theo chỗ hay nơi đầu tiên phát hiện ra nó.


Như MERS, viết tắt của Middle East Respiratory Syndrome (Hội chứng bệnh hô hấp Trung Đông hay). Hoặc ‘Virus Ebola’, tên một con sông ở nước Cộng hòa Dân chủ Congo bên Phi Châu.


Còn “Coronavirus Wuhan”, hình dạng giống như vương miện (corona), vẫn chưa được chánh thức có tên.


***
Con ‘Coronavirus Wuhan’ nầy cho tới nay đã làm hơn 14.300 người mắc bệnh và 305 người đã chết.


Người dân Trung Quốc đang hoảng loạn; vì một người nhiễm bệnh có thể lây cho tới 2.6 người khác; số ca nhiễm bệnh mỗi ngày tăng lên tới 30%.


Cơn dịch bệnh nầy bùng phát từ nước Tàu rồi lan ra tới nhiều nước trên thế giới là vì vị trí địa lý của ổ dịch Vũ Hán.


Vũ Hán là đầu mối giao thông về đường sắt cao tốc Bắc Kinh-Quảng Châu (Bắc xuống Nam) và Thượng Hải-Thành Đô (từ Đông sang Tây).


Rồi phi trường quốc tế Vũ Hán có tới 29 triệu lượt hành khách bay đi khắp tới 109 điểm thuộc 20 nước khắp năm châu như London, Moscow, Paris, Rome, New York, San Francisco, Bangkok, Tokyo and Seoul.


Thời điểm xảy ra cơn đại dịch nầy lại trúng vào ngày Tết Âm lịch. Cả trăm triệu người dân Tàu về quê ăn Tết hay ra nước ngoài du lịch mang theo ‘Coronavirus’ nầy đi gieo rắc khắp nơi.


***
Để đối phó lại dịch bệnh đang bùng phát, Tòa Lãnh sự Mỹ ở thành phố Vũ Hán đã đóng cửa. Bộ Ngoại giao Mỹ đã cảnh báo cấp 4 với công dân của nước mình là: “Đừng đi tới tỉnh Hồ Bắc!”


Còn vì công ăn chuyện làm nhưng không cấp thiết thì khoan đi đến nước Trung Hoa. Có ai lỡ tới rồi Vũ Hán rồi thì Mỹ cho máy bay Boeing 767 với 240 chỗ qua chở dân mình về California, USA.


Đàn anh Mỹ làm vậy; đàn em Úc bắt chước làm theo chuẩn bị cho máy bay qua rước công dân Úc về trong đó có ít nhứt khoảng 100 trẻ em.


***
Hiện tại không có loại thuốc nào hiệu nghiệm để tiêu diệt được loại virus này. Còn thuốc chủng ngừa, theo các chuyên gia về Y tế của trường Đại học Queensland Úc Châu, phải mất ít nhứt 4 tháng nữa mới có.


Trong khi đó các chuyên gia Y tế của nước Mỹ tiên liệu cần phải tới một năm.
Việc phòng chống dịch bệnh, ngăn ngưà việc lây nhiễm phải là sự cộng tác của những chuyên gia về Y tế và người dân.


Thế nên trẻ con, người già, những người bị bạo bệnh trong quá trình hồi phục, có hệ miễn dịch yếu phải tự bảo vệ mình bằng cách tránh tiếp xúc gần gũi với người bị nhiễm bệnh; tránh đến những chỗ đông người.


Rồi vệ sinh thường thức như: rửa tay, che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi, và khử trùng các bề mặt khi bạn chạm vào. Nếu cần thiết thì phải đeo khẩu trang.
(Chính vì vậy mà các nhà thuốc Tây ở Footscray nầy đây khẩu trang đã bán sạch bách rồi; phải đặt hàng tới tuần sau mới có).


Bộ Y tế Úc muốn người dân tỉnh táo nhận thức được vấn đề, nhưng họ cũng muốn ngăn chặn sự hoảng loạn không cần thiết.


Tuy vậy có một số trường tư ở Sydney và Melbourne buộc học sinh đứa nào mới về Trung Quốc ăn Tết trở qua, trước khi nhập học vào đầu niên khóa thì đừng đến trường trong 14 ngày; rồi phải có giấy chứng nhận của bác sĩ mới được vào lớp học.


Hành động nầy bị cách chuyên gia về Y tế Úc cho rằng làm hơi quá!


Nhưng trường tư thường dành cho con em nhà giàu nên thủ cẳng và thủ kỷ như vậy cho chắc ăn!


***
Trong khi đó thì Tàu Cộng cố che giấu dịch viêm phổi Vũ Hán. Người dân Tàu không biết loại Virus này gây bịnh bình thường hay nặng đến mức phải đi nằm nhà thương. Tình hình nghiêm trọng đến mức nào? Nhân Dân nhựt báo cố tình đăng ‘video’ bệnh nhân khỏi bệnh vui mừng ra dấu hiệu chiến thắng giữa 4 nhân viên y tế mặc đồ bảo hộ.
Chuyện trớ trêu là Vương Nghiễm Phát, người đứng đầu nhóm các nhà nghiên cứu được Bắc Kinh cử đi điều tra tình hình, ngày 11, tháng Giêng, năm 2020 nói rằng:
“Dịch bệnh đã được kiểm soát!”


Nhưng chính ông ta sau đó bị chẩn đoán là đã nhiễm virus.


Rồi ngay giữa khủng hoảng, một cuộc họp đảng lớn của tỉnh Hồ Bắc vẫn được tổ chức ở Vũ Hán và hơn 40.000 gia đình được mời tham dự một bữa tiệc trong nỗ lực lập kỷ lục thế giới.


Thiệt là quái đản!


***
Năm 2002, dịch bệnh SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome) lây lan khắp tỉnh Quảng Đông làm 8.000 người mắc bệnh và 774 người thiệt mạng.


Bộ trưởng Y tế cùng Bí thư Thành ủy Bắc Kinh bị cách chức. Cứ tưởng Trung Cộng học được kinh nghiệm để sửa sai. Ai dè sửa sai rồi sai lại sửa.


Các quan chức luôn nói dóc, che dấu nhằm hạ thấp mức nghiêm trọng của vấn đề vì không muốn gây tổn hại đến kinh tế và ổn định xã hội để họ được thăng quan tiến chức. Để khi nghe về nó, và khi vấn đề đã đến chính quyền trung ương, thì nó đã là một vấn đề lớn rồi”.


Chủ tịch thành phố Vũ Hán, Chu Tiên Vượng, lên Truyền hình mếu máo, biện minh là:
“Luật pháp Trung Quốc về các bệnh truyền nhiễm, trước tiên chính quyền địa phương cần báo cáo ổ dịch cho Bộ Y tế , sau đó được sự chấp thuận của Trung Ương trước khi có thể đưa ra thông báo.


Tên tuổi của chúng tôi sẽ bị gắn liền với vết nhơ, nhưng miễn là việc kiểm soát dịch và đảm bảo an toàn cho người dân có hiệu quả hơn, tôi và đồng chí Mã Quốc Cường (Bí thư Thành ủy Vũ Hán) sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm”.


Nghĩa là hai tên đầu têu ở Vũ Hán nầy xin nằm cúi xuống cho Tập Cận Bình đét đít, rồi đuổi về chăn gà cho vợ.


Điều tức cười là hai đứa ra lịnh cho dân khi ra chỗ công cộng là phải mang khẩu trang; nhưng tay Bí thư cứ để mặt trần, trụi lủi; còn tay Chủ tịch mang khẩu trang ngược.
Chú, Thiếm Ba chửi um sùm. Ngu dốt như vậy mà Đảng lãnh đạo cái giống gì hè?

***
Trường hợp đầu tiên mắc bệnh viêm phổi Vũ Hán được báo cáo vào ngày mùng 8, tháng Chạp, năm 2019; và các quan chức chính quyền báo cáo láo rằng nó đã được kiểm soát và có thể điều trị.


Dân không tin quan nói; khi thấy trên các trang mạng xã hội người bệnh tay gắn ống truyền dịch, ngồi cạnh những bình oxy gần ba thi thể phủ vải trắng. Các bệnh nhân đeo khẩu trang gục ngã ngoài đường.


Nên hàng trăm người dân rồng rắn chen chúc trong các hành lang bệnh viện để chờ tới lượt điều trị làm nguy cơ lây nhiễm lẫn nhau lại cao hơn. Chính vì vậy mà một chục nhân viên y tế bị nhiễm virus, một bác sĩ đã thiệt mạng.


Nghiêm trọng tới chừng đó, quan chức CS mới quắn ‘đít’ lên, cấm tất cả các chuyến bay và xe lửa ra khỏi thành phố Vũ Hán.


Tất cả 70.000 rạp chiếu phim cùng nhiều khu vui chơi trong dịp Tết bị đóng cửa; chỉ có cây xăng, nhà thuốc và siêu thị mới được phép mở.


Trung Quốc đã đặt gần 60 triệu người, nhiều hơn cả dân số Hàn quốc vào tình trang cách ly một phần hay toàn phần. Công nhân về quê ăn Tết bị cấm trở lại thành phố làm việc.


Các thành phố trực thuộc tỉnh Hồ Bắc, và hơn 15 thành phố lớn thuộc tỉnh khác đã trở thành thàng phố ma. Đường phố vắng tanh, thưa thớt bóng người qua lại.


***
Thị trường chứng khoán Mỹ, Âu Châu, Tokyo Hong Kong giảm mạnh gần 2%, mức lao dốc tồi tệ nhất trong năm.


Chưa có bằng chứng nào cho thấy con virus nầy truyền qua hàng Trung quốc xuất khẩu; nhưng nền kinh tế nước Tàu đã bị thiệt hại rất nặng nề!


Nguy cấp quá nên Chủ tịch Tập Cận Bình bèn sai Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đến Vũ Hán hô khẩu hiệu:


“Cuộc sống của người dân là vô cùng quan trọng. Khi một dịch bệnh bùng phát, trách nhiệm của chúng ta là ngăn chặn và kiểm soát nó”.


Bằng cách xuất ra 8.7 tỉ đô la, điều thêm 1600 nhân viên Y tế kể cả bác sĩ quân y cùng 1000 người khác sẵn sàng tới Vũ Hán; cho xây thêm một bệnh viện 1.000 giường trong vòng 10 ngày để cố an dân.


***
Mùa Cúm bên Trung Quốc năm nay tệ hại rất nhiều vì con Coronavirus Wuhan lây lan với tốc độ chóng mặt, gây ra rất nhiều hậu quả xấu về văn hóa, kinh tế, chính trị cho Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo rất lôm côm và lu bu của đảng CS.


Một chuyên gia Y tế của Tàu đã than thở rằng: “Đợt bùng phát dịch này chắc chắn sẽ lớn hơn; có thể lên đến đỉnh điểm từ giữa tháng Tư đến giữa tháng Năm tại các thành phố lớn”


“Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để phòng ngừa và kiểm soát được dịch bệnh!”


***


Phải thân chinh nắm quyền chi huy các hoạt động chống dịch bệnh là Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình đang đánh một canh bạc rất lớn, ít may nhiều rủi cho sanh mạng chánh trị của mình. Được ăn cả ngả về không!


Nếu thắng, dập tắt được dịch bệnh ‘Coronavirus Wuhan’, thì ghế Chủ tịch của Tập vững như bàn thạch… cho tới cơn dịch tới.


Bằng thua, thì Tập Cận Bình ắt phải về đuổi gà cho vợ thế thôi!


Đuổi gà chớ không phải chăn heo. Vì heo Trung Quốc năm nay đã bị Dịch tả Lợn Châu Phi làm chết hết ráo rồi thì còn đâu nữa mà chăn?

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

MÙA HẠ CHÁY!

dxt_fire.jpg

Bếp lửa chiều đầm ấm bên nhau!
Nhà đổ sụp còn trơ ống khói
Xe đi giữa lửa rừng cây bối rối
Xác ai đây trong mùa Hạ tro tàn?

Mùa Hạ đôi mình dưới lá khô
Chiều nay lá tan thành tro bụi;
Thị trấn khỏi bản đồ
Chỉ tình ta ở lại!

Mùa Hạ cháy rồi cũng sẽ tàn;
Rừng xưa dẫu còn nghi ngút khói
Anh vẫn nhớ lời em yêu từng nói:
Trong điêu tàn, mình gầy lại mầm xanh!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

dxt_demthanhvocung.jpg

Đêm Thánh vô cùng!

Mùa đông Bethlehem, chiều bủa lối, tối dâng lên, trời lạnh cắt da, Joseph đưa Mary vào thuê phòng trọ nhưng các chủ nhà trọ đều từ chối.


Cuối cùng, Joseph đưa Mary nghỉ qua đêm trong một cái hang đá giữa cánh đồng cùng với mục đồng, bò, lừa, chiên, dê. Và đêm đó, Chúa Cứu Thế, đã Giáng sinh, nằm trong hang đá nơi máng lừa.


Từ cảm hứng đó, linh mục Joseph Mohr, ở một thị trấn nhỏ Oberndorf bei Salzburg, nước Áo, năm 1816, làm bài thơ bằng tiếng Đức “Stille Nacht”
(Silent Night).


Rồi đêm trước Giáng sinh, Mohr đã mang những lời thơ nầy nhờ nhạc sĩ Franz Xaver Gruber sáng tác một giai điệu đàn ‘guitar’; vì cây Phong cầm (Harmonium) duy nhất của nhà thờ đã bị hư.


Bài thánh ca ‘Stille Nacht’ lời bằng tiếng Đức, được trình diễn lần đầu tiên trong Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh, vào khuya 24, rạng sáng ngày 25, tháng Chạp, năm 1818 tại nhà thờ Thánh Nicola-Kirche vùng Obendorf của nước Áo.


***
Huyền diệu thay, bài thánh ca ‘Stille Nacht’ đã góp phần tạo ra một cuộc hưu chiến huyền thoại, dù ngắn ngủi, giữa những người lính Mỹ và lính Đức vào đêm Giáng sinh 24, tháng Chạp, năm 1944.


Mùa Giáng sinh năm ấy trời thật lạnh, tuyết phủ rơi quá gối, phủ ngập các lối mòn trong cánh rừng thông. Hai người lính Mỹ dìu một đồng đội, chân bị thương, máu hòng từng giọt nhỏ trên nền tuyết trắng! Họ lầm lũi đi trong rừng để lẩn tránh quân thù đã 3 ngày đêm; vì lạc lối về đơn vị.


Ðêm Giáng Sinh xa nhà, ở một nơi xa lạ, đầy ắp nỗi lo âu và sợ hãi. Rồi trong màn đêm, họ chợt thấy một ánh lửa nhỏ nhoi cuối bìa rừng. Khói nhè nhẹ từ bếp lò, tỏa lên trên mái nhà.


Trong ‘cabin’ bằng gỗ đó, có 2 mẹ con, đứa bé trai mới lên 12 tuổi, tên là Fritz và người mẹ tên là Elisabeth Vincken.


Gia đình họ ở thành phố Aschen, phía Tây nước Ðức sát biên giới Bỉ và Hòa Lan. Khi phi cơ Ðồng Minh thả bom dữ dội, họ phải về trú tạm trong cái ‘cabin’ dành cho săn bắn vào mùa Đông ở bìa rừng Hurtgen, gần biên giới nước Bỉ.


Có tiếng gõ cửa, cậu bé Fritz vui mừng vì nghĩ rằng cha mình về kịp lễ Giáng Sinh. Bà Elisabeth cẩn thận thổi tắt ngọn nến và mở cửa. Trong ánh sáng mờ mờ, bật lên giữa thảm tuyết trắng là 2 người lính Mỹ quân phục nhàu nát, phủ đầy khói thuốc súng, ướt đẫm trong tuyết và phía sau lưng họ là một người thứ ba nằm trên mặt tuyết.


Và bà cất giọng bằng tiếng Ðức, họ lúng túng trả lời bằng tiếng Anh! Sau đó qua là tiếng Pháp vụng về chắp nối; bà cho 3 người lính Mỹ vào nhà, khi nhìn thấy tình trạng của người lính bị thương.


Trà nóng được mang ra, bà mẹ sai cậu bé lấy 6 củ khoai tây và con gà đã được nướng xong để đãi ba người khách không mời mà tới.


Bất ngờ có tiếng gõ cửa. Thoáng nghe tiếng Ðức, bà mẹ lo sợ, khuôn mặt tái đi, vì sẽ bị tử hình nếu che giấu và giúp đỡ kẻ thù.


Những người lính Đức nầy cũng run rẩy vì đói lạnh, chúc mừng Giáng Sinh và xin Bà cho vào nhà để trốn rét.


Bà mẹ bảo rằng họ có thể vào và ăn lễ Giáng Sinh với bà, nhưng trong nhà hiện có vài người được xem là thù địch. Các người lính Ðức thay đổi thái độ ngay, tay đặt lên cò súng.


Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt viên Thượng sĩ Ðức và nói: “Es ist Heiligabend und hier wird nicht geschossen.” (Ðêm nay là Đêm Thánh, sẽ không có nổ súng tại nơi nầy!) Nếu muốn được vào nhà, các ông phải bỏ súng ở ngoài!


Khi vào được bên trong, những người lính Đức đứng trân trân nhìn bà mẹ Đức buộc 2 người lính Mỹ buông súng xuống và cất tất cả súng phải xếp vào một góc phòng.


Căng thẳng vì nghi kỵ nhau phút đầu; nhưng rồi ánh lửa ấm áp từ lò bếp, từ ngọn nến, từ thức ăn mừng Giáng Sinh được dọn ra, làm nỗi căm thù của hai bên đối địch lắng xuống và họ ngồi đối diện nhau quanh một chiếc bàn gỗ.


Một trong 4 người lính Ðức, là sinh viên trường Y trước khi nhập ngũ, xem xét vết thương cho người lính Mỹ. Vết thương không nhiễm trùng nhờ Trời giá lạnh nhưng mất máu nhiều nên người lính nầy cần phải ăn và cần phải nghỉ ngơi.


Bữa tiệc Giáng sinh bắt đầu khi người lính Đức khui chai rượu mạnh của mình.


Một người lính Mỹ bóc gói thuốc Lucky Strike ra, chia đều cho mỗi người một điếu.
Khi bà mẹ cúi đầu cầu nguyện, cám ơn Thượng Đế, trước khi vào tiệc Giáng Sinh thì tất cả các người lính của hai phe đều nước mắt lưng tròng.


Đúng nửa đêm, họ cùng bước ra ngoài ‘cabin’ nhìn lên bầu trời. Các vì sao lấp lánh trên đầu bìa rừng; như ‘ngôi sao Bethlehem’ đã dẫn đường cho Ba Vua tới hang đá nơi Chúa Giáng Sinh! Trong lòng họ tràn ngập một “Ðêm Thánh vô cùng”.


Sáng ngày mai, người lính Ðức đã cho những người lính Mỹ một địa bàn, chỉ vào điểm đứng trên bản đồ để hướng dẩn những người lính Mỹ biết lối mà tìm về đơn vị. Những người lính thuộc hai phe thù địch đã bắt tay nhau và chia làm 2 hướng. Từ xa xa, âm vọng ì ầm của đạn pháo lại dội về.


Sống sót sau cuộc chiến, cậu bé Fritz ngày ấy, gần 58 năm sau đêm Giáng Sinh ngày đó, đã kể lại câu chuyện mà ít ai tin! Như phép lạ của mùa Giáng Sinh năm 1944.


***
Tiếc thay trong cuộc chiến Việt Nam, khi CS quân Bắc Việt xua quân xâm chiếm Miền Nam, theo nhà văn John Steinbeck (l902-l968), giải Nobel văn chương năm 1962, về phía CS Bắc Việt, chỉ có căm thù; chớ không hề có có được một câu chuyện nào đầy ắp tình người như người Mẹ Đức, lính Đức đối xử với người lính Mỹ sa cơ, là kẻ thù của mình như thế!


John Steinbeck rời Hoa Kỳ đi Việt Nam suốt 3 tháng trước lễ Giáng Sinh năm 1967 qua khỏi Tết Dương lịch, để chứng kiến tận mắt cuộc chiến đang Việt Nam đang hồi ác liệt.
Là phóng viên chiến trường, John Steinbeck đã viết hàng chục lá thư, ghi lại những cảm nhận của ông về cuộc chiến, gởi về cho tạp chí ‘Newsday’ do bà Alicia Patterson, vợ của một người bạn thân quá cố, đang làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.


John Steinbeck đã từng nói cuộc chiến tranh Việt Nam khác hẳn với tất cả cuộc chiến tranh quy ước khác. Nó không có mặt trận, không có hậu phương, không có phía trước và cũng không có phía sau.


Có hứa hẹn hưu chiến lễ Giáng Sinh, nhưng không có ngừng bắn! Hàng trăm vụ vi phạm hưu chiến đều do CS Bắc Việt và VC ở Miền Nam gây ra!


***
Trong bức thơ từ Cần Thơ, vào ngày 21, tháng Giêng, năm 1967, tức ngày 11 tháng Chạp, năm Bính Ngọ, còn 19 ngày nữa mới Đinh Mùi của người Việt chúng ta, John Steinbeck đã viết cho Alicia là: “Sau cuộc tuần tra bình an vô sự trên một dòng sông giữa đôi bờ tĩnh lặng và những vì sao nhấp nháy bởi bầu trời đẫm những hơi sương. Chúng tôi về bến chưa tới 9 giờ đêm. Một phần trong chiến dịch tên Game Warden đặt căn cứ tại Cần Thơ, thành phố lớn nhất vùng châu thổ.

Ở Cần Thơ, có vài nhà hàng nhỏ, nơi người Việt dẫn con cái đi ăn, chuyện trò với nhau bằng tiếng Việt, âm vang như đang hát. Nơi đó đèn không đủ sáng. Vì thiếu điện, phải cần thêm những ánh đèn dầu chập chờn, leo lét.


Khoảng 10 giờ tối, hai thanh niên đang lảng vảng, chợt dừng lại trước cửa nhà hàng đang đông thực khách, bất ngờ ném hai trái lựu đạn xuyên qua khung cửa mở.


Một trái lép. Trái còn lại nổ tung và miểng xé nát thân thể người lớn lẫn trẻ con. Không có bất cứ người lính nào lúc đó trong nhà hàng kể cả Mỹ hay Việt.


Một viên đại úy Mỹ chạy vào và bế ra một em gái nhỏ khoảng chừng 7 tuổi. Khi đưa tới bịnh viện, anh ấy khóc nức nở vì em đã chết rồi!”


Có ai tin rằng VC, những kẻ đã nỡ nhẫn tâm làm như thế với chính đồng bào mình lại có thể vì dân, vì nước khi chúng chiếm được chính quyền. Tôi không tin!”


John Steinbeck là một nhà tiên tri của thời đại! Thảm sát Tết Mậu Thân sau đó chỉ một năm và những biến cố xảy ra sau năm 1975, khi CS chiếm được chánh quyền đã chứng tỏ John Steinbeck biết trước và biết chính xác đến dường nào!


***
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đêm nay, quê người viễn xứ, mùa Giáng sinh lại tới. Ngồi bên ly rượu đỏ, trầm ngâm nhớ về nhà thờ Tân Định đêm Giáng Sinh thuở mới biết yêu, tôi nghe Tà Áo Đêm Noel của nhạc sĩ Tuấn Lê (1952- 1988) mà bùi ngùi biết bao trong tấc dạ!
“Tiền đồn biên giới heo hút trong màn tối. Vài đốm hỏa châu lẻ loi soi cuối trời. Chầm chậm chuông ngân đây nghe buồn tênh! Ánh sao hiền lấp lánh báo tin lành Chúa sinh!
Kỷ niệm năm ấy trong phút giây chợt đến. Tà áo màu xanh tha thướt đi lễ đầu; nàng quỳ bên nhau đôi mắt nhung huyền xin chắp tay nguyện Kinh Thánh thầm mơ tôi se mộng lành.
Tôi đã được yêu, e mình còn xa cách lối! Đạo đời ngăn đôi lứa đôi nơi nhưng mà tôi tin có Chúa trời.
Tôi đi, đi vì chiến cuộc quê hương; áo học sinh nhuốm bụi đường, nhớ hoài người tôi đã thương.
Từ miền khu chiến trông ánh sao mà nhớ! Tà áo màu xanh năm ấy, em vẫn chờ! Một mùa Noel hai đứa nghe niềm vui! Hát chung một ca khúc đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời!”
***
Cũng như nhà thơ Kiên Giang, tôi xin: “Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo! Nhưng tin có Chúa ngự trên cao!”


Gần 45 năm, ngày mất miền Nam, phải làm thân viễn xứ, tôi xin bắt chước nhà thơ Cao Tần ở Hoa Kỳ mà tin rằng: “Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa. Ông anh hùng ông cứu được quê hương. Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo. Lùa cả nước vào học tập yêu thương!”
‘Silent Night!’ Đêm tỉnh lặng, đêm bình yên, đêm không căm thù, không tiếng súng. Đêm Thánh vô cùng! Đêm rao giảng yêu thương trước sau gì đi nữa ắt sẽ thành hiện thực trên đất quê mình!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne_______________________
 

dxt_hoangOanh.jpg

Kangaroo y bong như Úc!

Nước Úc trừ những thành phố lớn, dân cư đông đúc, nằm dọc theo triền bờ biển Thái Bình Dương như thủ phủ Brisbane, Sydney, Melbourne hoặc Ấn Đô Dương như Perth hay Nam Băng Dương như Adelaide, ngoài ra toàn là vùng hoang dã.
Mùa mưa, nước lũ, cá sấu bơi cả vào nhà và mùa hè nắng cháy thì ruồi bay tá lả. Nói chuyện là phải lấy tay quơ qua, quơ lại, quơ lia lịa mà vẫn còn có con ruồi ‘bờ lông rông’ vô mỏm của mình.
Thế nên có đến Úc du lịch vào mùa Hè xin bà con phương xa đừng có cho là người Úc vô phép, không thân thiện, không hiếu khách vì ít nói quá hè. Ít nói là vì nó sợ ruồi đó bà con ơi!
Thực ra nước Úc không 'ke' cũng chẳng hững hờ hoặc hiếu khách như dân miền Tây quê mình đâu nhe. Người Úc cư xử giống hịt như là con Kangaroo, lè phè nằm trên quốc huy của nước Úc vậy!
***
Lè phè thiệt nhưng đụng chuyện bực mình, nó cũng nổi nóng sảng lắm!
Chuyện rằng: Wodonga thành lập năm 1852, cách Melbounre khoảng 307, 4 cây số, là một thị trấn miền quê, chỉ có 35.100 dân, thuộc vùng Đông Bắc, tiểu bang Victoria, Úc Châu.
Wodonga nằm bên cầu biên giới bắc qua sông Murray, phía bên kia là thị trấn Albury thuộc tiểu bang New South Wales.
Bà con mình chắc chưa biết cái thị trấn buồn thiu nầy nó nằm ở đâu cho tới khi tên Wodonga xuất hiện chình ình trên đài CNN, ở tận Huê Kỳ!
Em Dina dắt chó dạo chơi trên một con đường dành cho người đi bộ trong thị trấn.
(Ở Úc, nuôi chó mà không chịu dắt nó đi dạo mỗi ngày là bị ‘cáo sồ’ (council) Hội đồng xã nó phạt. Rồi dắt chó đi là phải có dây cột cổ chó. Bằng không cũng bị phạt!) Tùm lum phạt! Tổ cha mấy thằng Hội đồng xã nầy, chắc nó mạt lắm hay sao mà tối ngày cứ rình rình mình mà phạt hè?)
Chính vì vậy em yêu của tui rất ghét nuôi chó. Lôi thôi phiền phức quá!
Tui hoàn toàn tán thành ý kiến của em và không quên phụ đề Việt ngữ: “Em nuôi anh cũng đã hết ngày giờ rồi thì ‘quởn’ đâu mà nuôi chó chớ?”
***
Lúc em Úc nầy đang dung dăng dung dẻ dắt trẻ (chó) đi chơi thì đột nhiên con chó giựt dây sút khỏi tay em để đuổi theo một con Kangaroo khá là bự bự.
Vậy là em Dina vội vã rượt theo, tính bắt con chó cưng của mình lại; vì mầy chơi dại chọc con Kangaroo nầy nó sẽ đá mầy thấy Tía!
Con Kangaroo thấy em lo cho con chó, kẻ thù của nó, dám cà khịa với ‘đại ca’ nên từ phía sau nó dùng hai cái chân, rất khỏe đầy cơ bắp, đá em một pháp nghe cái bịch. Em té úp mặt xuống đất mà nó vẫn chưa hả giận; bèn nhảy lên đạp lia lịa vào người em túi bụi từ đầu tới chân.
May mà em Dina kịp úp mặt xuống đất; bằng không là đã lòi con mắt biếc rồi hè.
Em nằm im giả chết cho đến lúc nó bỏ đi. Còn con chó cưng của em thấy hổng êm đã tam thập lục kế dĩ đào vi thượng, cong đuôi dông thẳng!
***
Hậu quả là: em Dina bị lỗ đầu chảy máu, tay chưn bị trầy xướt tùm lum. Bà con thấy vậy, bèn kêu xe cứu thương chở em vào bịnh viện. Bác sĩ phải khâu tới 25 mũi và băng bó những vết trên da trầy xướt.
Đau thấy bà tiên tổ nhưng em Dina, cũng như những người con gái Úc rất dễ yêu khác, là em không trách gì con Kangaroo cả vì hai lẽ:
Một là: Vùng đất nầy vốn thuộc động vật hoang dã như con Kangaroo! Lỗi là do mình, do con người, xâm lăng chiếm đất đai của nó làm thuộc địa nên nó bực bội là phải phải.
Hai là Trời làm hạn hán, cỏ cây không mọc nổi nên Kangaroo thiếu thức ăn; rồi Trời lại không mưa nên nó thiếu nước uống. Chính vì vậy con Kangaroo mới theo em xuống phố trưa nay coi có cái gì lót cái dạ dày lép xẹp của mình hay không? Đói khát như vậy mà còn bị con chó của em rượt theo sủa um hè! Không bực mình sao cho được chớ?
So với tui thì em Dina nầy có tấm lòng ‘đại bác’ hơn nhiều! Lỡ mà tui va vô trường hợp bị Kangaroo đá, đạp, đau quá xá như em là tui sẽ ra nhà hàng Úc mà kêu món ‘steak’ làm bằng thịt Kangaroo.
Tui sẽ ăn thịt đồng loại của nó, uống với beer Úc để trả thù mới được! Vì trái đất nầy con người là Chúa tể mà sao chú mầy lại dám ‘đá đít’ tao? He he!
***
Úc chọn quốc huy là con Kangaroo và con Emu thì Mỹ chọn con chim Ưng, tui còn nghe nói là lúc Lenin từ Phần Lan về xúi giục dân ngu khu đen người Nga cướp được chánh quyền tư bản còn non trẻ của bọn Bạch vệ. Lenin khoái quá bèn triệu Stalin vào điện Cẫm Linh để chánh thức hóa cho đảng CS cai trị nước Nga CS đầu tiên trên thế giới.
Thành lập đảng có đảng ca là bài Quốc tế ca rồi. Nhưng bài Quốc tế ca nầy là của thằng Tây. Đảng kỳ thì Búa với Liềm thấy ghê quá; tới Quốc huy mình phải kiếm con gì riêng của nước Nga mới đặng. Con đó phải thông minh, phải dẻo dai về thể chất để bọn CS chúng ta để nở mày nở mặt và dắt năm châu lên thế giới đại đồng.
Stalin về trằn trọc canh thâu, hôm sau vào chầu: “Đồng chí Lenin kính mến! Úc thành lập nước trước ta không bao lâu đã chọn con Kangaroo và con Emu, Huê Kỳ chọn con Chim Ưng làm quốc huy; thì đảng ta nên ‘cọp dê’ mấy thằng Úc chọn con vật gì thông minh hơn con của chúng mới được. tôi đề nghị đồng chí Lenin kình mến nên chọn con Khỉ!
Nghe vậy! Lenin tức quá lên cơn nhồi máu cơ tim, băng hà lúc mới vừa 54 tuổi và ngồi trên ngai Hoàng đế đỏ chưa tới được 7 năm.
Bà con thấy chưa? Chuyện chọn quốc huy nó quan trọng biết dường nào, ảnh hưởng đến sức khỏe của lãnh tụ và tương lai đen tối của quốc gia nữa đó!
***
Theo ý tui, Stalin suy nghĩ như vậy là thiển cận; vì tưởng rằng con Khỉ của Nga thông minh hơn con Kangaroo của Úc hay sao? Stalin đã lầm to!
Vì Sở Thú của Úc có xảy chuyện nầy: Một con Kangaroo ban đêm cứ thoát khỏi chuồng của nó hoài hè. Viên quản lý vườn thú quyết định xây bức tường cao thêm một mét. Nhưng hổng ăn thua! Con Kangaroo lại trốn thoát đi chơi đêm.
Xây bức tường cao hơn 3 mét cho ta. Lại cũng hổng ăn thua. Con Kangaroo lại trốn thoát đi chơi đêm, hẹn hò với những con Kangaroo cái.
Kangaroo trốn thoát hết lần này đến lần khác. Khi con Kangaroo vừa được đưa trở lại, con Khỉ của Lenin ở chuồng kế bên chỏ mỏ qua hỏi: "Khi nào chú mầy sẽ ngừng trốn khỏi chuồng để đi chơi đêm với gái hả?"
Con Kangaroo trả lời "Chừng nào Trời sập tối, tụi nó nhớ đóng cửa chuồng là tao sẽ hết đi!”
***
Qua câu chuyện trên, bà con mình thấy con Kangaroo giống người Úc ở chỗ rất thông minh về trí tuệ. Còn về thể chất thì sao?
Hình ảnh trong phim hoạt hình cho thấy con Kangaroo với cặp găng tay đấm bốc. Hình ảnh dễ thương đó làm các em bé nảy sinh trong cái đầu ngây thơ của mình rằng con Kangaroo là võ sĩ cực kỳ dễ thương; chớ không đáng ghét như võ sĩ quyền anh hạng nặng Mike Tyson của Mỹ; quánh không lại là cắn đứt lỗ tai của Evander Holyfield đem về cho bà xã của y làm dưa lỗ tai ngâm dấm nhậu chơi!
Mấy nhóc tì suy nghĩ như vậy cũng đúng một phần; nhưng thực sự là những chiến binh Kangaroo nầy không hề quan tâm tới "công lý" hay "dễ thương" gì cả.
Ở mấy nơi cắm trại qua đêm trong rừng, chàng dắt nàng lần theo lối mòn bao giờ cũng thấy mấy con Kangaroo lẻo đẻo nhẩy theo sau để xin ‘chip’ tức khoai Tây chiên. Thiệt là dễ thương!
Nhưng nếu bận hun hít chút chít lung tung không thèm để ý tới chúng gì hết ráo coi chừng mấy con Kangaroo nầy cho hai đứa bậy về nhà húp cháo.
Kinh nghiệm bản thân của tui cho thấy: Bầy Kangaroo lảng vảng trong Khu du lịch đã quen với cách hành xử hơi quái lạ của con người rồi. Ở nhà chăn ấm nệm êm không muốn. Mà chỉ muốn dắt nhau vô rừng hè? Hay là thằng chả trốn bà chằn ở nhà, dắt bồ nhí vào thâm sơn cùng cốc để du dương đây? Rồi sợ mình phá đám nên thủ sẳn chừng chục bịch ‘chip’ hối lộ cho đám Kangaroo mình để yên hầu hai đứa mần ăn đây mà!
Thôi thông cảm cho hai đứa nó! Vì loài Kangaroo của chúng ta vào mùa động dục cũng đánh nhau chết bỏ để giành gái đấy thôi!
***
Cái đám Kangaroo nầy ỷ mình được lên quốc huy của nước Úc nên không ‘ke’ ai hết. Kangaroo đực thì vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu. Hổng thích ai là đấm, là đá. Kangaroo cái thì chỉ ‘sex, sex và sex’, không kế hoạch hóa gia đình gì ráo trọi, sanh đẻ cực kỳ vô tổ chức làm số Kangaroo đã lên gấp đôi dân số Úc, vốn tròm trèm chỉ có 24 triệu mống hè.
Tiếc rằng Nội các Kangaroo không bổ nhiệm được một ông Phó Thủ tướng nào phụ trách sanh đẻ có kế hoạch; nên nạn ‘Kangaroo mãn’ là chuyện có thiệt chớ hổng phải chuyện chơi!

 

 

 

 

 

 

 

 


Chính vì vậy, tối qua tui nằm mơ thấy một bầy Kangaroo từ hoang mạc Úc tràn vào Tòa nhà Quốc hội Liên bang ở thủ đô Canberra, rượt dân biểu, nghị sĩ chạy có cờ để chiếm chánh quyền.
Con mập, bự, rộng họng thì leo lên làm Thủ tướng. Con ít mập hơn một chút thì làm Thủ lảnh đối lập! Hai con Kangaroo đầu lĩnh nầy căng cơ bắp ra, chí chóe hù dọa lẫn nhau.
May là chỉ hù chớ chưa có quánh nhau. Bằng lỡ tụi nó giành ăn, giành gái, quánh nhau tơi bời hoa lá thì tui không biết sẽ phải vượt biên lần nữa đi đâu bây giờ để được yên thân?
Để kết bài nầy, bà con hải ngoại thương ca muốn tìm hiểu về dân tộc tính của người Úc thì chỉ cần biết về đặc tính của hai con Kangaroo nầy là xong, là y bong như Úc!


Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.


Minh họa Họa sĩ Chuông.

DXT_kanguru.jpg

                                                                         

                                                               Phiếm

                                   MI ĐÃ LÀM GÌ?

                                  _____________

 

Bãi đậu xe khu công nghiệp Waterglade ở Grays phía Đông thủ đô London nước Anh, lúc 1giờ 40 phút sáng, ngày 23, tháng Mười, năm 2019, các nhân viên cấp cứu đã tìm thấy thi thể của 31 người đàn ông và 8 phụ nữ trong một ‘container’ dùng để chở hàng đông lạnh.

Khi mở cửa ‘container’, nhiệt độ xuống đến trừ 25 độ C, nhân viên cấp cứu thấy ‘hàng chục xác người nằm chồng chất lên nhau’. Những người bị nhốt trong container, có thể đã đập tay dữ dội vào cánh cửa muốn được thoát ra đã để lại những dấu tay đẫm máu.

Thi thể 39 người xấu số nầy được chuyển tới Broomfield Hospital ở Chelmsford để khám nghiệm hậu tử, xác định nhân thân và tìm ra nguyên nhân chết trong cái thảm kịch đã làm cả thế giới rúng động suốt cả tuần nay. Cảnh sát Anh cho biết tiến trình này phải mất khá nhiều thời gian nhưng rất quan trọng, nhằm bảo vệ danh dự của các nạn nhân và tôn trọng nỗi buồn đau của thân nhân những người đã khuất.

o O o

Câu hỏi đặt ra là: “Tại sao nước Anh lại là miền đất hứa của những mảnh đời phiêu bạt?” Dân Anh (cũng như dân Úc) không có căn cước, chỉ cần có bằng lái xe xài trong nước; ra nước ngoài mới cần đến sổ thông hành! Và luật pháp nước Anh không buộc người dân phải mang bất kỳ giấy tờ tùy thân nào khi ra đường; nên sống bất hợp pháp cũng không phập phồng lo lắng như những nước khác thuộc khối Liên Âu.

Thường thường thì người tị nạn, người nhập cư, từ khắp nơi trên thế giới bằng nhiều cách khác nhau, đến những bãi xe hàng ở thành phố cảng Calais, nước Pháp, đầu bên này của đường hầm xuyên qua eo biển Manche, nối liền Anh với đại lục Châu Âu. Nơi đó, họ sống lay lắt, tạm bợ trong những lều lán trong rừng để chờ cơ hội vượt biên vào Anh.

Đêm xuống, từng tốp người lẻn vào, tìm các chuyến xe công (container) sẽ sang Anh, rạch bạt chui vào nằm im lẫn giữa hàng hoá; hoặc cắt kẹp chì chui vào những thùng công bằng sắt. Nếu có tiền trả cho tài xế và may mắn vượt qua trạm kiểm soát biên giới, sang đến đất Anh, tài xế sẽ dừng ở một cây xăng hay một trạm nghỉ chân nào đó cho hành khách xuống.

Mỗi ngày có hàng trăm ngàn ‘container’ như vậy. Nước Anh không thể đủ nguồn lực để kiểm tra tất cả, cho dù có dùng công nghệ tiên tiến để phát hiện khí CO2 do con người thở ra, hay dùng cảnh khuyển để đánh hơi người v.v.

o O o

Khi mở chiếc quan tài di động kia ra, Cảnh sát và giới truyền thông Anh quốc căn cứ vào tóc đen da vàng mà tạm thời nhận định các nạn nhân (không có một mẫu giấy tùy thân) là người Trung Quốc! Bởi vì hình ảnh kinh hoàng đó gợi người ta nhớ tới thảm kịch tương tự đã xảy ra vào ngày 18, tháng Sáu, năm 2000 tại hải cảng Dover với 54 người đàn ông và 4 phụ nữ Tàu bị chết ngạt.

Việc xác định nhân thân của 39 người xấu số lần này vẫn phải chờ Cảnh sát nước Anh chánh thức công bố. Tuy nhiên một số làng quê ở Nghệ An và Hà Tĩnh đang chìm trong tang tóc! Những bàn thờ vọng; những chân dung của người trẻ tuổi có đính ngang một dải băng tang; những buổi cầu nguyện trong giáo đường vì có nghi vấn rằng trong số 39 người đã chết đó có rất nhiều người Việt Nam.

Nỗi đau thương ngập tràn; nước mắt ràn rụa trên những khuôn mặt héo khô trong phập phồng lo lắng đợi hung tin. Vậy mà nỡ lòng nào, trên những tờ báo quốc doanh trong nước lại đăng những lời phê phán rất tàn nhẫn như: “Ở Việt Nam thiếu gì cơ hội học tập và làm việc để kiếm sống thì việc gì phải khổ cực và chui lủi vậy?” Nào là: “Cơm áo gạo tiền mà phải đánh đổi cả mạng sống như vậy có đáng không?” Rồi có người nói: “Đau xót quá! Mong có sự nhầm lẫn nào, hy vọng không phải người Việt?” (Người nước nào cũng là con người, cũng là nạn nhân; mà đã là nạn nhân thì không có lỗi, ai cũng đáng thương xót như nhau cả mà thôi!)

Có người còn nhẫn tâm hơn, phê phán rằng: “Đi bất hợp pháp, trả giá bằng tính mạng, rồi làm ảnh hưởng tới uy tín của người Việt.” (Trời ạ! Uy tín của người Việt nào ở đây?)

 

o O o

Theo ông Gareth Ward, Đại sứ Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, cho biết người Việt là nạn nhân của tội ác mua bán người (human trafficking) và nô lệ hiện đại (modern slavery) cao nhất tại Anh, chỉ xếp sau Albania: “Những người nước khác do bị dụ dỗ, chèn ép, áp bức để tới nước Anh làm nô lệ thì người Việt Nam lại tự nguyện ra đi bất hợp pháp; giao phó số phận của mình vào tay bọn tội phạm quốc tế với giấc mơ về một miền đất hứa, kỳ vọng về cơ hội đổi đời về kinh tế cho bản thân và gia đình mình!”

Đã làm tới chức Đại sứ một nước lớn, dĩ nhiên ông biết nhiều hơn thiên hạ. Lý giải của ông cũng đúng chớ hổng phải sai, nhưng chỉ đúng có phân nửa. Tuy nhiên nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, chứ phân nửa sự thực còn hơn là dóc tổ vì định hướng sai công luận.

Hành trình ác mộng từ Việt Nam qua Trung Quốc, rồi cả hằng tháng trời lang thang trong cái lạnh giá ở Nga, Ba Lan, Đức, Pháp và cuối cùng là trốn trong thùng xe tải vượt biên giới từ Pháp sang Anh để rồi chết vì quá lạnh, vì thiếu không khí trong thùng xe - những người bỏ nước ra đi này có biết không?

Dĩ nhiên là biết, và biết rõ hơn các chánh trị gia phương Tây nhiều, vì họ là người trong cuộc. Nhưng tại sao họ lại chọn cách ra đi? Trong chín tầng địa ngục, nếu ông Đại sứ đang ở tầng cuối, có cơ hội đi đến một tầng địa ngục khác đỡ khổ hơn thì ông Đại sứ có đi không?

Họ ra đi vì không còn mảy may sót lại chút lòng tin nào về chế độ đang cầm quyền. Họ ra đi vì tuyệt vọng ở tương lai! Xin đừng lập lờ đánh lận con đen giữa chế độ và đất nước. Cứ ra rả là: “Đừng hỏi đất nước đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho đất nước?” Câu hỏi nầy nên dành cho giới cầm quyền đang cai trị dân ta mới phải.

 

o O o

Khuya đêm thứ Ba, ngày 23, tháng Mười, năm 2019 định mệnh đó, có một người còn rất trẻ, mới 26 tuổi, tên Phạm Thị Trà My ở thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, gởi những lời trăng trối bi thương trong giờ phút cuối cùng là: “Con xin lỗi Bố Mẹ nhiều Mẹ ơi. Con đường đi nước ngoài đã không thành. Con thương Bố Mẹ nhiều. Con chết vì không thở được!”

Lời trăng trối bi thương của một người con gái Việt Nam, một trong những mảnh đời phiêu bạt, làm rúng động thế giới, mà có người cứ hỏi những cái chết tức tưởi nầy là do lỗi tại ai? Tại nhà cầm quyền CS chớ còn tại ai vô đây nữa?

DXT

Melbourne

dxt_container.jpg

“Bốc phét!”

 

Thằng bạn thời Trung học của tui mới vừa đậu xong cái Tú Tài 2 là Bố nó tìm cách cho nó đi Mỹ du học! Trước là vì tương lai của dòng tộc gia đình; sau là để ‘né’, trốn lính một cách hợp pháp; vì cuộc chiến tranh lúc đó đang hồi ác liệt.

Sau 5 năm lang thang trong trường Đại học Mỹ, cuối cùng nó cũng lấy được cái bằng Kỷ sư Điện. Mà thằng nầy ngộ, ở Mỹ hơn nửa thế kỷ mà làm kỷ sư nữa mà sao không nghe nó nổ ‘bùm bùm’ gì ráo? Lạ quá! Làm trong bụng tui nghĩ đi lâu quá nên nó bị mất gốc ‘Mít’, ít xít ra nhiều rồi hè!

Ai dè nó nói: “Sao không? Tao đã từng nổ giống như dân đẻ ở Trảng Bom đó chớ! Nhưng có cái chuyện nầy xảy ra hồi tao mới ra trường nên từ đấy trong tao bừng nắng hạ, hổng dám nổ sảng nữa đấy thôi. Chẳng qua tao hồi mới tốt nghiệp, được NASA, một đế chế về không gian Hoa Kỳ nhận vào thực tập. Ngày đầu tiên tại Sở, mới đặt đít ngồi xuống ghế, là tao vẻ ta đây, bốc điện thoại lên gọi ngay cho ‘căng-tin’ (canteen) của Trung tâm Không gian!

“Ê! Đứa nào mang cho tao một tách cappuccino, (cà phê kiểu Ý) coi! Nhớ rắc nhiều ‘chocolate’ nhe! Lẹ lẹ lên!”

Giọng nói từ đầu dây, phía bên kia: “Bấm lộn số rồi! Chú mầy có biết đang nói chuyện với ai không hả thằng ngu!?”

“Không!”

“Tao là Chief Engineer (Kỷ sư trưởng) của Lyndon B. Johnson Space Center (JSC) ở Houston, Texas nè!”

Tao đổ mồ hôi hột, ngừng một lát, suy nghĩ tìm cách thoát ra khỏi hoàn cảnh ‘oái ăm’ nầy.

“Ê! Chief Engineer. Chú mầy có biết đang nói chuyện với ai không hả thằng ngốc?”

“Không,” Viên Kỷ sư trưởng phẫn nộ trả lời.

“Vậy là tốt!” Tao bèn đặt điện thoại xuống. Hú hồn nhe!”

***

Rồi sau nầy, ăn ‘Hot dog’ của Mỹ cũng khá là lâu, tao nghe nhà văn nổi tiếng toàn nước Mỹ lan ra tới toàn cầu là Mark Twain có nói:“It’s better to keep your mouth shut and appear stupid than open it and remove all doubt!”

(Tốt hơn là câm miệng lại và ra vẻ mình ngu còn hơn là mở mồm ra để thiên hạ không còn hồ nghi nữa!)

Rồi Mark Twain cũng dạy tao là: “Never argue with stupid people, they will drag you down to their level and then beat you with experience.”

(Đừng tranh cãi với mấy thằng ngu vì chúng sẽ lôi mình xuống ngang tầm với nó; rồi sau đó sẽ hạ đo ván mình vì nó có nhiều kinh nghiệm hơn?)

Chính vì vậy nên tao đành phải khiêm tốn đó; chớ đâu có mất gốc gì đâu hè? Phần tao trộm nghĩ nổi tiếng cỡ nhà văn Mark Twain còn khiêm tốn; lèng èn cỡ kỷ sư quèn như tao nổ sảng mà lỡ gặp con cháu ổng là bà Nội cũng đội chuối khô, xấu hổ lắm tụi mầy ạ!

Kỵ nhứt là nổ trước mặt một nhà văn. Mấy thằng chả chuyên về chữ nghĩa; lỡ dại chọc quê nó, một nó đớp lại một phát đau gấp mười lần mình chơi nó; thì dù mình vắt hết cái óc thông mình ra màhổng biết phải trả lời sao cho đừng mất mặt bầu cua mới chết.

Vì có chuyện một thằng nhóc hổn hào, dám vuốt râu cọp bằng cách xỏ xiên Mark Twain là: “Tui nghe nói: ăn cá sẽ thông minh, sẽ đầy trí tuệ để sáng tác ra những tác phẩm xuất sắc. Có phải vậy hay không và phải ăn bao nhiêu con cá mới đủ?”

Thì nhà văn Mark Twain trả lời:

“Chắc chú em nói đúng. Tui cũng thích ăn cá lắm nhưng không nhớ đã ăn hết bao nhiêu con. Nhưng dựa câu hỏi của chú em, tui cho rằng: Chú em chỉ cần ăn cỡ hai con cá Voi chắc sẽ đủ mà!”

Đối với mấy thằng ‘Cu’ cà chớn là vậy; đối với mấy em, nhà văn cũng ‘bụp’ luôn không tiếc ngọc thương hương gìráo mới báo.

Vì có chuyện là: Một hôm Mark Twain đi thăm Sở thú. Tới đảo khỉ, một em đứng cạnh ông, ỏng ẹo hỏi trống

không, chẳng thèm bận tâm thưa gởi cha căng chú kiết nào; nên có vẻ xấc xược là: “Hôm nay lũ khỉ đi đâu hết rồi nhỉ?”

“Chúng vào hang hết rồi, bởi bây giờ đang là mùa... giao phối mà!”

“Thế tôi ném vào vài quả chuối, có ra không?”

“Thế nếu hoàn cảnh của bà y như thế bà có ra không?”

Sau rốt, thằng bạn Kỷ sư điện của tui cạch mặt không những các nhà văn mà toàn thể thiên hạ: “Thôi ngừng nổ đi! Khiêm tốn cho nó lành!”

***

Tuy nhiên, không phải Chú Sam nào cũng học được bài học cay đắng như thằng bạn tui đâu để thủ cẳng, để dè chừng; mà vẫn ‘phom phom’ trên con đường Trảng Bom; nhỏ lớn giờ vẫn thế!

Đó là: Donald Trump đương kim Tổng thống Huê Kỳ. Năm 2016, Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ; nhân dân toàn thế giới kinh ngạc. Nhưng người ngạc nhiên gấp bội thiên hạ lại chính là Donald Trump đấy ạ!

Chính vì trong cơn say quyền lực nên Tổng thống Mỹ, Donald Trump, nghĩ mình là con ông Trời, muốn làm gì là làm hè. Cận thần đứa nào bất đồng ý kiến với Thiên tử là: “You’re fired” (Chú mấy bị đuổi) về nhà đuổi gà cho vợ!

Mới đây nè, Donald Trump gợi ý cho mấy lãnh tụ khối G7 năm tới đến họp thì chánh phủ Mỹ nên mướn cái trung tâm nghỉ dưởng, đẹp hết biết vì cái ‘view’ của nó nhìn ra biển Bắc Đại Tây Dương, ở Nam Florida của đương kim Tổng thống Huê Kỳ.

Tụi đài NBC chơi xỏ, hỏi khó ngài Tổng thống: “Bộ làm vậy để vớt vác chút nào hay chút đó hay chăng?”

Donald Trump tỉnh bơ mà rằng: “Làm Tổng thống tốn tiền tui hết từ 3 tỉ đến 5 tỉ đô đó chớ! Nhưng tiền bạc tui chẳng quan tâm lắm đâu; nếu quan tâm tui đâu ra tranh cử Tổng thống làm gì hè? Tui thương dân Mỹ số một; tiền bạc là số hai nhe!”

***

Ngoài ra, còn cái vụ Thủ tướng Úc, Scott Morrison, (lãnh đạo có 24 triệu dân, nước Úc diện tích gần bằng nước Mỹ mà dân số chỉ gấp 3 lần thành phố New York!) qua chơi được trải thảm đỏ, kèn ‘tè le tí le’ và 19 phát đại bác đón tiếp cực kỳ nồng nhiệt, đãi luôn quốc yến. Mặc áo đuôi tôm, có thắt nơ cùng họp báo, Trump tán dương Morrison là: ‘a Man of titanium’ tại Phòng Bầu dục của Tòa Bạch ốc.

Sợ đám phóng viên trong ngoài nước, hồi nhỏ đi học vô giờ môn Hóa ngủ gục hết ráo nên không biết ‘titanium’ là cái giống gì nên Tổng thống Mỹ cắt nghĩa thêm là: ‘Titanium cứng hơn thép nhiều nhe!’

(Sỡ dĩ Trump phụ đề Mỹ ngữ, là vì muốn chơi trèo cựu Tổng thống George W. Bush đã từng áo thụng vái nhau, tán dương Thủ tướng Úc thuở đó là: John Howard là: ‘a Man of steel’ (Người Thép).

***

Nói nào ngay, hổng ai đánh tui cũng khai là trên Facebook, tui có lập cái ‘Group conversations’ để vài thằng bạn đồng song năm cũ bữa nào bị vợ chữi, lên mà tán dóc cho đỡ cái buồn rầu.

Thì thằng bạn vốn là thương binh trước 75, nên không được đi Mỹ theo diện HO, đành kẹt lại quê nhà cười khà khà’ phán rằng: “Tổng thống Mỹ Donald Trump và Thủ tướng Úc của tui bây nổ bùm bùm như vậy cũng tạm được vì mấy giả có quyền lực, thiệt tột đỉnh nhân gian, làm Trùm Đế quốc Mỹ, Trùm thực dân Úc thì đâu còn ai ngon hơn”

Bên xứ mình nè! Hổng có quyền lực gì ráo, hoặc mặt trời bé con, cỡ Chủ tịch Xã là nổ gấp bội rồi hè.

Ê đừng nghe Lý Toét, Xã Xệ mà chê nhe! Đứa nào cũng có bằng Tiến sĩ hết ráo đó. Hai thằng bây có bay về Việt Nam thăm tao, nếu lỡ có gặp ai lần đầu thì cứ: “Xin chào Tiến sĩ!” là trúng hết 90% rồi. Đừng có lỡ dại chào ‘Phó Tiến sĩ’ nhe vì quan chức nhà nước chúng nó ngày nay không thằng nào muốn làm Phó hết! Chào xong mà cán bộ có đưa cho một tờ giấy dài ngoằng; đừng tưởng đó là cái thực đơn của nhà hàng mà thực sự nó là cái danh thiếp, cái ‘cạc vi-zít’ (carte de visite), nói kiểu hồi xưa; còn nói kiểu bây giờ, theo tiếng Mỹ, là cái ‘business card’. Trên đó chừng chục cái bằng cấp (chớ không phải bằng cắp) và hàng chục chức vụ khác nhau từ thấp tới cao. Thấp là chăn trâu ba đời; còn cao nhứt là Bí thơ Tỉnh ủy.

Và khi hai đứa bây được mấy quan chức hỏi biết ‘Bác Hồ’ không? Thì đừng có ngây thơ mà móc ‘Iphone’ ra, tìm trên Wikipedia chỉ mất công. Ngay cả người hỏi cũng không biết ‘Bác’ là ai và cũng không cần biết.

Cái mấy chả cần là mấy tờ giấy có in hình Bác là đã đủ. Nghe vậy, tui bây chỉ cần móc xỉa; khỏi cần nói lôi thôi chi cho nó phiền phức nhé.

Chính vì vậy mà đi qua một dinh thự tầm tầm cỡ tư thất của Bill Gates, chủ Microsoft, thì đừng nhầm với dinh cơ của Hắc Công tử (Bạc Liêu) hay Bạch Công tử (Mỹ Tho). Đó là điền trang của Bí thư Huyện ủy huyện nhà do con vợ bé đứng tên đó thôi.

Lỡ có ngồi chung bàn nhậu với mấy quan, nhớ im như thóc, đừng có rượu vô lời ra, hứng sảng lên đố vui để học: “Gandhi hoặc Mandela là ai?” Thì mấy ‘giả’ tưởng na ná như đồng hồ ‘Longines, Rolex’ rồi hỏi chừng nào nhập qua Việt Nam để mấy chả sắp hàng mua về vài cái thì khốn!

Điều cần ghi tâm khắc cốt cho người đi xa mới về như tụi bây là: “Đừng bao giờ tranh luận với quan chức trong nước. Vì trong tự điển của cả đời làm quan chúng nó. vần kh(ờ) không có chữ ‘khiêm tốn’. Mà chỉ có chữ quỳ gối, khom lưng, ninh bợ, đút lót; và bốc phét mà thôi!”

Đi nhậu với quan chức nhớ mang tiền theo; vì quan chức ít khi xài tiền mặt chỉ xài ‘phong bì’ không hè. Phong bì để phòng nhậu say, ủi hay cán vài cái xe gắn máy thì đưa cho cảnh sát giao thong nó thu xếp êm đẹp dùm anh của mầy!

***

Ờ! Tốt nhứt là nên dấu biệt cái mác ‘Việt kiều’ đi nhe hai thằng bây! Giấu bằng cách mua quần áo ‘Sida’ bán ngoài Chợ Dân sinh mà mặc. Mang dép đi lẹp xẹp là được rồi. Đừng hở cái là ‘cám ơn, cám ơn’. Chữ ‘cám ơn’ chỉ dành cho những người yếu đuối, thế cô phải cầu cạnh mà thôi. Thấy đứa nào nhỏ yếu như em bé đánh giày, hoặc bán vé số thì phải xưng là ‘Chúng ông’ từ Trung ương vào mới ‘hách xì xằng’. Còn xui mà gặp thằng đầu gấu Hải Phòng; nhớ đừng xưng chúng ông với nó là không còn cái rang mà ăn cháo.

Bao lời tâm huyết tao tuôn ra hết ráo. Không nhớ để làm theo thì tao nghĩ tốt hơn hai thằng bây đừng về kẻo mà mang họa đó!

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne

Nhưng Anh đã không làm!

dxt_memorial.png

Người lính tạm biệt vợ ra mặt trận khi đứa con gái mới vừa lên 4 tuổi.

Người lính ấy đã không trở về.

Người vợ quê nhà ở vậy nuôi con!

Đến năm 80 tuổi thì mất, đứa con gái tìm được bài thơ của Mẹ mình bỏ lại!

***

"But you didn't!"

 

Remember the day I borrowed your brand new car and dented it?

I thought you'd kill me, but you didn't.

And remember the time I dragged you to the beach,

and you said it would rain, and it did?

I thought you'd say, "I told you so" But you didn't.

Do you remember the time I flirted with all

the guys to make you jealous, and you were?

I thought you'd leave, but you didn't.

Do you remember the time I spilled strawberry pie

all over your car rug?

I thought you'd hit me, but you didn't.

And remember the time I forgot to tell you the dance

was formal and you showed up in jeans?

I thought you'd drop me, but you didn't.

Yes, there were lots of things you didn't do....

But you put up with me, and loved me, and protected me

There were lots of things I wanted to make up to you

when you returned from Vietnam.....

I was waiting for you to come home. But you didn't!

 

(Unknown Poet)

***

Nhưng Anh đã không làm!

 

Nhớ có lần Em mượn chiếc xe cáu cạnh của Anh!

Rồi làm móp méo!

Em nghĩ rằng: “Anh sẽ giết em!”

Nhưng Anh đã không làm.

 

Nhớ có lần Em lôi Anh ra biển!

Và Anh nói: “Trời sẽ mưa và mưa thật!”

Em nghĩ rằng Anh sẽ cằn nhằn, đã nói mà hổng chịu nghe!

Nhưng Anh đã không làm!

 

Nhớ có lần Em õng ẹo với bọn con trai để làm Anh ghen tức!

Và anh đã!

Em nghĩ rằng Anh sẽ bỏ em đi.

Nhưng Anh đã không làm!

 

Nhớ có lần Em làm đổ kem dâu!

làm bẩn hết thảm xe Anh.

Em nghĩ rằng Anh sẽ đánh em.

Nhưng Anh đã không làm.

 

Nhớ có lần Em quên nói buổi khiêu vũ cực kỳ trang trọng.

Anh đến với chiếc quần jeans.

Em nghĩ Anh sẽ bỏ về!

Nhưng Anh đã không làm!

 

Vâng! Có biết bao nhiêu điều Anh đã không làm.

Trừ chuyện chịu đựng Em, yêu Em và bảo vệ tình Em!

 

Có những điều Em muốn đền đáp lại.

Khi từ Việt Nam, Anh trở về!

 

Em mòn mỏi đợi!

Nhưng Anh đã không làm!

 

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

(phỏng dịch).

___________________________

 

 Gói Khoai Chiên từ Vạn Sồi và Dân Chủ ở Hong Kong!

Nam Kinh là “Kinh đô phía Nam”, thủ phủ tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.

Nam Kinh, hạ lưu sông Dương Tử, là thành phố lớn trong lịch sử và văn hóa Trung Hoa. Nam Kinh từng là kinh đô của 6 triều đại phong kiến Trung Hoa và là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc thời Tưởng Giới Thạch.

Đây còn là trung tâm thương mại, giao thông vận tải, du lịch, giáo dục và nghiên cứu trong suốt lịch sử Trung Hoa thời cận đại, sau Thượng Hải.

Thời Tam Quốc, Khổng Minh Gia Cát Lượng viết về Nam Kinh như sau:

“Chung Sơn long bàn, thạch đầu hổ cứ, chân nại đế vương chi trạch dã” nghĩa là: “Núi Chung thế rồng cuộn, đá hình hổ phục, thật là chốn đế vương vậy!”.

Ngày nay thì đế vương đã về Bắc Kinh. Nam Kinh chỉ còn sót lại một bà lão ăn mày, cô độc, đóivà khát trên đường phố đông người mà chẳng thấy ai lo?!

***

Còn Thousand Oaks (Vạn Sồi), thường được gọi là “T.O.”, là một thành phố thuộc tiểu bang California, Vùng Đại Los Angeles, vì nó có nhiều Sồi.

Một chàng thanh niên Mỹ lớn lên từ thành phố Vạn Sồi (Thousand Oaks) vừa tốt nghiệp trường Đại học Arizona đến Nam Kinh, thủ phủ tỉnh Giang Tô, Trung Quốc làm việc.

Trên góc phố Nam Kinh, chàng thanh niên Mỹ Quốc chia sẻ cùng một bà cụ ăn xin Trung Quốc vài miếng khoai chiên, và chút nước suối giữa mùa hè nóng bức. Ai đó, người dân Trung Quốc, chụp lại hình ảnh này, đưa lên mạng xã hội Sina Weibo. Và nó đã tạo nên cơn bão trong xã hội Trung Quốc thời CS!

Trả lời phỏng vấn tờ Thời Báo Los Angeles, Jason Loose nhớ lại: “Tôi thấy một bà cụ, vẻ buồn bã và cô độc đang xin ăn trên phố đông người. Lúc đó trong cái lon xin tiền của bà, chẳng có một xu. Tôi chợt nghĩ chắc bà ấy đang đói và khát. Mà cần hơn đói và khát là cần một ai đó để cảm thông.

Tôi hỏi mình có thể giúp gì được cho bà cụ đáng thương này hay chăng? Tôi mua một gói khoai chiên, chai nước suối từ McDonald’s và chia sẻ với bà ấy.

Bà ấy, từ một vùng quê tỉnh An Huy, phiêu bạt đến đây. Già và yếu! Làm gì bây giờ? Không ai lo! Chỉ nước ăn xin?!

Trời nóng, khát quá. Tôi rót nước từ chai nước suối cho bà, hỏi han về sức khỏe. Bà nói: “Già yếu rồi. Cám ơn tôi, dù bà không thích khoai tây chiên lắm!”

Jason Loose theo học trường Ðại Học Nam Kinh đã được 9 tháng, không ngờ mình lại trở nên một người nổi tiếng.

“Tôi chỉ tình cờ tặng bà ấy vài miếng khoai chiên mà theo tôi, chúng cũngkhông tốt cho sức khỏe lắm, đồng thời ngồi nói chuyện với bà trong vài phút.

Theo tôi, hành động như thế, chẳng có gì đáng để trở thành một mẫu tin.”

***

Một hành động có thể rất bình thường của chàng sinh viên Mỹ, đến từ thành phố Vạn Sồi, nhưng trở thành phi thường trong mắt một người Trung Quốc, chụpđược bức hình nầy, rồi ‘post’ lên trangmạng xã hội Sina Weibo Trung Quốc.

Một người Trung Quốc cho rằng: “Chinese people, let’s all learn from this!” “Nhân dân Trung Quốc hãy học lấy điều này!”

Nhiều người dân ở Hoa Lục nghĩ rằng: đất nước họ đang nhắm mắt chạy theo đồng tiền mà đánh mất hết đạo lý, khiến ai cũng trở nên dửng dưng trước nỗi thống khổ của những người không quen biết!

***

Người viết cho rằng: Người phải học bài học về tình người này nhất: phải là Bạc Qua Qua? Bạc Qua Qua là ai? Tại sao phải học?

Bạc Qua Qua, sinh năm 1987, cháu nội Bạc Nhất Ba, nguyên Phó Thủ Tướng Trung Quốc, là con Bí Thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai đã bị các đồng chí “thân yêu” bợp tai, đá đít văng ra khỏi Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc và lột luôn lon Bí Thư Thành Ủy Trùng Khánh.

Bạc Qua Qua là một trong những cái tên hàng đầu trong tầng lớp ‘5 C’ (Con Cháu Các Cụ Cả). Thiếu gia nhà họ Bạc lớn lên trong khu biệt thự dành cho cán bộ cao cấp, có lính gác, có tài xế riêng.

“Tôi biết nhiều người thuộc tầng lớp quý tộc thích sống kín đáo, nhưng như thế thì tẻ nhạt quá” Bạc Qua Qua nói. Bạc thiếu gia nổi tiếng với những chiếc xe cỡ Ferrari và xài tiền như nước nhưng “không mặn mà với sách vở”.

Theo bè bạn, thiếu gia họ Bạc từng mời một đoàn võ sư từ chùa Thiếu Lâm sang biểu diễn tại Oxford, nơi thiếu gia đang học. Thiếu gia cũng “nổ” với bạn cùng trường qua việc mời siêu sao phim hành động Thành Long qua chơi, thậm chí còn nhảy lên sân khấu hát chung với Thành Long.

Bạc Qua Qua nổi tiếng với các màn tiệc tùng. Ngay trong những tuần đầu mới nhập học, anh ta đã mua rượu sâm banh (champagne) cho tất cả mọi người và mở một bữa tiệc “kinh hoàng” ngay tại nơi thiếu gia nầy đang ở.

 

Những tấm hình Bạc Qua Qua quần áo xộc xệch, nhậu nhẹt, nhảy nhót với các thiếu nữ xuất hiện đầy trên trang mạng làm người dân Trung Quốc bình thường chua xót phận mình?!

***

Người viết xin có bốn câu thơ gởi Bạc Qua Qua, chơi bạt mạng, sẽ làm đất nước Trung Hoa tàn mạt như vầy: “Có chàng tên Bạc Qua Qua. Bí thư Trùng Khánh là cha của chàng. Mỹ du ăn học

làng nhàng Nhậu nhẹt, gái gú thì chàng là cha”.

Bạc Qua Qua và hàng ngàn thiếu gia nữa “Con Cháu Các Cụ Cả”, sẽ cai quản đất nước Trung Quốc trong một tương lai không xa. Mà bây giờ đã ăn chơitàn mạt như vầy thì chắc chẳng bao lâu Nhân Dân Trung Quốc sẽ đi ăn mày ráo trọi!

Những hành động, lời nói, cách sống của hai thanh niên, đồng trang lứa, thuở đôi mươi: Bạc Qua Qua và Jason Loose cho chúng ta biết trước hai nước: Trung Quốc và Mỹ Quốc sẽ đi về đâu!!!?

Thế nên chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy CS Trung Quốc ngang ngược chiếm cứ Tây Tạng và Tân Cương, đàn áp khốc liệt các sắc dân địa phương mà người Tàu đại lục cứ êm ru

bà rù, thản nhiên coi hành động đi ăn cướp đó là chuyện đương nhiên, mạnh được yếu thua trong một thế giới rừng rú nầy! Việt Nam hãy cảnh báo!

***

Trong giờ phút tưởng chừng như tuyệt vọng đó, bổng bùng lên tia lửa tự do của hàng triệu người dân Hong Kong. Suốt cả ba tháng trời ròng rã, cuối tuần nào họ cũng cùng nhau xuống ngập đường, biểu tình hợp pháp đòi tự do dân chủ.

Dù bị Cảnh sát đàn áp, dùng dùi cui đánh sặc máu mũi, chảy máu mồm họ vẫn tiếp tục đi.

Nhưng buồn thay cả tỉ người dân Trung quốc còn lại trên đại lục vẫn dửng dưng, điềm nhiên tọa thị, câm nín; coi như đó không phải là chuyện của mình.

Nếu Bắc Kinh, Thượng Hải và các thành phố lớn khác trong đại lục đồng loạt đứng lên thì chế độ độc tài của Đảng CS Trung Quốc chỉ có một con đườngduy nhứt là đi vô sọt rác củalịch sử mà thôi!

Tính đến nay, Phong trào biểu tình phản đối Luật dẫn độ của Hong Kong đã kéo 3 tháng. Đa phần các nghệ sĩ Trung Quốc có ảnh hưởng với quần chúng, chỉ ngậm miệng vì sợ mất tiền. Giơ tay đầu hang đồng nhân dân tệ vô điều kiện.

Có đứa còn không biết xấu hổ, mở miệng ra ủng hộ Cảnh sát HongKong đàn áp người biểu tình nữa để lấy điểm, lập công với đảng CS Trung Quốc như Thành Long chẳng hạn. Các nghệ sĩ thực sự công khai ủng hộ người biểu tình Hồng Kông chằng có bao nhiêu. Chỉ có Hà Vận Thi, Huỳnh Diệu Minh, Châu Nhuận Phát...Hà Vận Thi nói việc bị Trung Quốc đưa vào danh sách đen đã khiến thu nhập của cô giảm hàng trăm nghìn đô la Mỹ mỗi năm. Huỳnh Diệu Minh cũng cho hay, chỉ vì ông ủng hộ phong trào biểu tình của người Hồng Kông, thu nhập hang năm từ thị trường Trung Quốc và hợp tác với các thương hiệu quốc tế đã giảm hơn một nửa. Ông nói: “Tôi đã hát hơn 30 năm, cái giá này tôi vẫn chịu được.”

Riêng tài tử Châu Nhuận Phát chỉ nói: “Vậy là kiếm tiền ít đi một chút thôi!” (Thà là bị mất tiền chớ nín khe đâu có được nè!)

***

Xưa giờ cũng vậy tương lai của thế giới nầy nằm trong bàn tay của những người tuổi trẻ.

Một thanh niên Mỹ trắng mũi lõ, mặt tàn nhang từ một vùng đất xa xôi vẫnkhông quên mang theo một trái tim, một tấm lòng nhân hậu đến một đất nước xa lạ gặp một con người xa lạ, khác màu da chủng tộc cần được giúp đỡ, là chàng thanh niên nầy chìa tay ra ngay mà không hề định kiến.

Rồi Hoàng Chí Phong, hay Joshua Wong, mới 22 tuổi, là nhà hoạt động sinh viên, đứng đầu cuộc biểu tình tại Hồng Kông 2014, còn được gọi là “Cách mạng dù”.

Trong buổi tuyên bố bãi khóa tháng Chín năm 2014, Hoàng Chi Phong bịt mắt bằng khăn đỏ, tượng trưng cho chế độ đỏ của Trung Quốc làm mù mắt sinh viên. “Chúng tôi không để bị nhồi sọ.”

Và 120,000 người Hong Kong đã hưởng ứng, xuống đường biểu tình.

Hoàng Chí Phong, dân Hong Kong, từ nhỏ lớn lên đã hưởng ít nhiều quyền tự do dân chủ của đế quốc Anh còn để lại, dám can đảm đứng lên đòi dân chủ; dù bài học Thiên An Môn năm 1989, máu của sinh viên đổ xuống trên quảng trường vẫn còn tươi rói, làm người Tàu vẫn còn nuôi hy vọng.

Còn nhân cách sống trác táng, xa hoa bằng tiền ăn cắp của dân, kiểu con ông cháu cha thời CS như Bạc Qua Qua, thì thiên hạ đâu có ai cần tới nó!

đoàn xuân thu

Melbourne

Trắng hết cả màu bông!

 

Đêm cuối cùng cầm tay má. “Con đi!”

Má muốn buông; rồi bám tay bịn rịn;

đêm cuối cùng, thêm lần đau cắt rún

mà lần này con xa mãi Má ơi!

***

Khi con đói, con nhớ về tới Má;

lúc con no, con có nhớ bao giờ?!

Khi con lạnh, con nhớ về tới Má;

lúc ấm êm, con có nhớ bao giờ?!

Khi con bịnh con nhớ về tới Má;

khỏe như trâu; con có nhớ bao giờ?!

Khi thất bại, con nhớ về tới Má;

lúc thành công, con có nhớ bao giờ?!

***

 

Ấm lạnh quê người, đói no con chịu,

buồn thở than, con biết tỏ cùng ai?

giọt nước mắt, con nhớ về tới Má,

Má mất rồi! con khóc với ai đây?!

***

Tình mẫu tử vô ngần mà con không trân quý;

khi mất đi, lòng tự trách: đồ ngu!

con chạy đuổi những phù hoa ảo ảnh,

Má một mình thui thủi bóng hoàng hôn!

***

Ngày Từ Mẫu em cài bông hồng đỏ

thì em ơi! Em may mắn vô cùng;

tôi mất Nước, giờ mất luôn cả Má,

lã chã lệ đời, trắng hết cả màu bông?!

 

Đoàn Xuân Thu

Melbourne

.

Thơ gởi con nhân mùa lễ Vu Lan

Melbourne, ngày...tháng...năm.

 

Con của Ba!

Tối nay Ba đi làm về đã mười hai giờ rưỡi đêm. Ba mỏi, mệt vì phải làm việc suốt tám tiếng đồng hồ, cộng thêm bốn tiếng nữa để đáp xe lửa, leo xe tram, ngồi xe bus mới về được tới nhà. Nhà mình dẫu mướn nhưng luôn luôn là nơi Ba muốn về nhất để gặp Má con, anh Tí và con. Đó là nơi Ba thấy đáng yêu nhất.

Gia đình chính là nguyên nhân của tất cả mọi nguyên nhân mà Ba, Má con phải làm việc vất vả. Tất cả chỉ vì con.

Vậy mà khi về tới nơi, dẫu khuya, đèn vẫn còn chong, hắt ra khung cửa kiếng là một bóng cô đơn. Má con lặng lẽ ngồi, cặm cụi may từng chiếc áo một, kiếm từng mươi xu lẻ để sống sót nơi đất lạ quê người. Ba hỏi con đâu? Má con buồn bã trả lời: Thằng Tèo vẫn chưa về.

Con đã đi chơi suốt từ chiều thứ sáu cho đến nay là tối thứ hai rồi. Hơn ba ngày đêm con không có mặt ở nhà. Vắng ngắt nhà. Mênh mông nhà. Không tiếng chân bước vào ra. Ngoài cửa, gió mùa đông Melbourne rét căm căm.

Bao nhiêu buồn Ba nhất là Má con đang chịu, con có biết không? Ba nghĩ là con biết. Nhưng Ba không hiểu tại sao con lại nỡ dửng dưng trước nỗi đau khổ của Ba và Má. Ba tin rằng trong long con, con vẫn còn thương Ba Má lắm phải không?

Có lần đi chơi khuya về, tình cờ con gặp ba trên chiếc xe tram đầy mỏi mệt.

Rồi cha con mình may mắn chung một đoạn đường về. Ba nói may mắn vì hiếm hoi lắm cha con mình mới có dịp đi bộ cùng nhau. Đột nhiên mình bắt gặp một cánh chim cô đơn, đậu trên nhánh bạch đàn, đong đưa theo mưa gió. Có phải là chim Việt nhớ cành Nam? Nhà mình đâu? Quê mình đâu? Sao biết được ngày bay về tổ cũ!

 

Ba còn nhớ mùa nước lụt năm 1978, ba năm sau ngày miền Nam sụp đổ. Nước tràn mênh mông vườn của Ngoại. Rắn bò cả vào nhà. Gạo không có mà ăn, phải độn khoai lang, khoai mì. Nước cơm pha chút đường dành cho con thay sữa. Ba phải đi hái lá tàu bay, đem luộc làm canh. Nước pha muối để thay nước mắm. Có con gà nuôi dành giỗ nội thì hàng xóm bắt trộm, ăn mất rồi.

Ba buồn nhưng không giận. Vì không phải riêng nhà mình chịu đói. Cả dân tộc lầm than! Mình có nước mà mình không biết giữ để đến nông nỗi này!

Cuối cùng bị dồn đến chân tường, không lẽ ở lại chịu chết, Má con đành phải bán tư trang ngày cưới để có tiền, làm lộ phí cho Ba bế con đi. Nhà mình xẻ hai. Xẻ đàn tan nghé. Ba với con ra đi; Má và anh Tí ở lại để lỡ có bị bắt còn có kẻ thăm nuôi. Vã lại mình cũng không có đủ tiền, vàng chung cho bốn chỗ.

Ngày cha con mình đi, Cần Thơ chìm trong tối. Lúc bế con xuống ghe nhỏ chờ ra tàu lớn, con khóc. Ai bị buộc rời xa quê cha đất tổ, chỗ chôn nhau cắt rún trong một hoàn cảnh bi thương như thế, làm sao mà không khóc? Ba phải cho con uống ‘sirop Phenergan’ để con ngủ.

Rồi lênh đênh trên biển, trong mịt mùng dông bão, đói, khát, cướp biển Thái Lan. Cuối cùng tàu cũng đến được Pulau Bidong. Con lả người trên tay Ba. Ba bế con, bước đi xiêu vẹo vì vẫn còn say sóng. “Xin hãy cứu con tôi!” Đó là lần đầu tiên trong đời Ba đã phải van xin.

 

***

Vậy mà mấy năm sau khi Má và anh Tí con được lãnh qua, ngày gặp lại Má con ở

phi trường Melbourne, con chỉ nói được ‘Hi! Mum’ rồi thôi. Má con nói với Ba rằng mới xa thằng Tèo có mấy năm mà nó đổi thay nhiều quá. Vỏ nó vàng nhưng ruột đã trắng rồi. Hồi ở bên nhà, sợ con mình lớn lên, họ bắt đi nghĩa vụ, chết ở bên Miên. Còn qua bên này, xa hoa, phù phiếm đã bắt mất nó rồi. Ở đâu mình cũng không giữ được con mình. Hồi nhỏ cho nó một cục kẹo, nó cũng mừng; bây giờ mình cho nó cả cuộc đời nó cũng không nhận.

Mười năm, hai chục năm nữa khi Ba Má đã già, cát bụi sẽ trở về cát bụi. Cha còn gót đỏ như son. Đến khi Cha mất gót con lấm bùn.

Ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Mười hai tiếng làm việc và di chuyển. Tám tiếng ngủ để hồi sức lao động. Chỉ còn bốn tiếng vào, ra để gặp mặt hai con. Ba đã bán năm phần sáu đời mình cho vòng đời tư bản khốc liệt cạnh tranh để đổi lại vỏn vẹn một phần sáu vô cùng cho cõi thương yêu. Vậy mà cũng không được!

Ba cũng có má giống hệt như con có. Đó là bà Nội của con. Chẳng may Má của Ba mất sớm, rất sớm. Vì sức tàn lực kiệt, đèn khô dầu lụi bấc, qua những ngày, tháng, năm mưa dầm nắng dãi, sớm tần hôm tảo nuôi đàn con nheo nhóc ăn học.

“Mẹ già như chuối chín cây. Gió đưamẹ rụng con rày mồ côi.” Câu hát ru đó đã theo Ba suốt thời quần xanh áo trắng, qua dấu lửa binh, xuống tàu vượt Thái Bình Dương; rồi đất lạ quê người. Ba chắc rằng câu hát ru đó sẽ còn theo Ba mãi, cho đến khi Ba về với Nội. Bây giờ nghĩ lại ngày ba còn thơ dại như con, đôi khi dửng dưng, vô tình làm Má buồn, Ba khổ giống như những gì con đã và đang làm đối với Ba Má bây giờ. Ba đã hối hận biết bao khi Má mình không còn nữa. Có nụ cười nào rạng rỡ hơn khi Má mình thấy mình lẫm đẫm tập đi, bập bẹ tập nói. Có tiếng khóc nào chua xót hơn, đèn đêm đối bóng khi Má mình biết mình trốn học, rong chơi. Làm được gì bây giờ nữa hở con? Có chăng chỉ là một đóa hoa màu trăng trắng, cài lên ngực áo, trong mùa lễ Vu Lan, như thầm nói với đời rằng: mất Má rồi đời chỉ là một dải khăn tang.

***

Ai cũng thích đi chơi hết. Đi chơi vui lắm. Người ta thường bảo sân nhà hang xóm cỏ chắc xanh hơn. Nhưng Tèo con ơi! luống hoa hồng vườn Botany sao đẹp bằng luống rau Má con trồng bên hè nhà mình ở. Con Bulldog nhà hàng xóm sao bằng con Mực nhà ta. Mc Donald’s sao ngon bằng dĩa cơm tấm tình quê. Lẩu nhà hàng Tàu sao ngon bằng nồi canh chua Má nấu. Con trách sao con tên Tèo. Cái tên gợi nhớ quê nghèo đã xa. Cái tên Tony sao bằng cái tên Tèo yêu dấu của đồng chua nước mặn; của những dải bần xanh.

Có thể con cho Ba là lạc hậu, là bảo thủ, là xưa rồi. Nhưng Ba tin rằng có những điều chưa sáng tỏ bây giờ sẽ hoàn toàn đúng trong mươi năm nữa khi con ngồi nghĩ lại.

Ngày mình đi Cần Thơ chìm trong tối. Ngày con về chốn cũ chắc bình minh. Má là quê hương. Quê hương là Má. Quê hương con còn có thể tìm lại được; chớ mất Ba, mất Má rồi thì thôi đã hết trông mong.“Má ơi chim vịt chết chìm. Thò tay vớt nó con cá lìm kìm cắn tay.”

Mười năm, hai mươi năm nữa biết con còn có Má để mà kêu mà réo nữa hay không?

Thư bất tận ngôn.

Ba của con.

Đoàn Xuân Thu

BÚP BÊ

 

Từ mặt trận anh về, anh ghé qua thành phố,

anh mua con búp bê, biết cười và biết khóc.

Con búp bê cùng em

hai đứa chơi nhà chòi.

em cho búp bê ăn;

em dỗ búp bê ngủ;

em chọc búp bê cười;

hai đứa em cùng vui!

Anh trở về binh lửa; búp bê nó nhớ anh

nó không cười, cười nữa; nó khóc, em dỗ dành.

 

Tàn trận đánh, anh về trong hòm gỗ sơn xanh.

Tiễn anh, búp bê khóc, dàn lính bắt súng, chào

tiếng kèn buồn, vĩnh biệt nước mắt đẫm má em

mộ phần ai ném đất vùi sâu anh của em!

Búp bê đòi theo anh bên kia khoảng trời xanh

không còn bom đạn nổ;

không còn người giết người

búp bê làm anh vui; em chắc anh sẽ cười.

Ngủ ngon nhá anh Hai!

Đoàn Xuân Thu.

Phượng tím! Phượng hồng!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trái đất của chúng ta tròn quay, đầu hơi dẹp, chia làm hai, bằng đường xích đạo (tưởng tượng). Phía trên, Bắc bán cầu, phía dưới Nam bán cầu. Thời tiết đối nghịch nhau! Tháng Sáu, Bảy và Tám ở Bắc bán cầu đang vào mùa

Hè rực nắng! Tháng Mười Hai, Một và Hai ở Nam bán cầu, Miệt Dưới (Down Under) là nước Úc, Trời đã sang Đông, lạnh quéo râu hè! Ôi nhớ xưa quê mình chỉ hai mùa mưa nắng. Hết nắng rồi mưa; hết mưa rồi nắng. Đôi khi chỉ trong một ngày lại nắng sớm mưa chiều. Còn bữa nào, mưa trong bình minh đó là những ngày bão rớt. Nơi mình sanh ra, rồi lớn lên, ở riết quen không còn để ý nữa. Chỉ đến khi xa rồi, mất rồi mới tha thiết nhớ làm sao? Xin đừng cắm đầu, nhắm mắt, nhắm mũi theo Thanh Tịnh “Hàng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bang bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường...” chỉ có trong văn thơ của miền Bắc. Dẫu vậy, bất cứ đứa học trò trai hoặc gái của quêmình, của tui một thời thơ dại, ai ai cũng thuộc lòng bài nầy hết ráo!

***

Quê mình khác, quê người khác. Khác từ chuyện ăn đến chuyện học. Ở Úc, niên học bắt đầu từ tháng Giêng và chấm dứt vào cuối tháng Chạp. Học như điên, học suốt 12 tháng hay sao? Đâu có! Học trò Úc cũng có nghỉ, nhưng không nghỉ Hè một lèo, suốt 3 tháng, từ thángSáu cho tới tháng Chín như ở quê mìnhđâu. Một niên học của học trò Úc có 4 học kỳ; có bốn lần nghỉ, mỗi lần hai tuần cho nó phẻ!

So với kỳ nghỉ mùa Xuân, mùa Thu, mùa Đông, nghỉ Hè, cuối niên học, từ 19 tháng Chạp tới 26 tháng Giêng là dài nhứt, là ‘đã’ nhứt vì em yêu lu bu bận giữ cháu Nội, hổng còn thời giờ để mắt canh chừng tui có quậy ‘sảng’ hay không. Lợi dụng thời cơ, một năm xổng chuồng một lần tui bèn dông ra biển. Dông ra biển hổng phải để tắm đâu nhe vì tui sợ cá Mập lắm. Dông ra biển để ‘địa’ mấy em Úc mơn mởn đào tơ, mặc bikini như hổng có mặc gì! Nó đã làm sao đâu!

Mùa hè năm ngoái nè, lúc lơn tơn ra biển, tui thấy một em hình như trái bưởi Biên Hòa của em đang đòng đưa trước gió. Tui bèn nhắc nhỏ: “Em gì gì đó ơi! Hình như nó ló ra ngoài kìa!” Em nhìn xuống ngực rồi thảng thốt kêu lên: “Giời ơi Giời! em đã bỏ quên con em ở trên xe ‘bus’ rồi!”

***

Khi vô quốc tịch, trong buổi lễ của Cáo sồ (Council), Hội đồng thành phốthường cho mỗi tân công dân Úc một cây bạch đàn hoặc một cây Phượng tím còn nhỏ, mình đem về nhà trồng, làm kỷ niệm và tạo thêm môi trường xanh bóng cây nơi mình đang sanh sống!

Loài hoa Phượng tím nầy là do người Việt ly hương chúng ta đặt tên; vì nó nở rộ vào cuối năm học như Phượng hồng của quê mình. Cho dù Phượng tím nở vào mùa Xuân; còn Phượng hồng nở vào mùa Hạ!

Phượng tím, Phượng hồng hình dáng rất khác nhau, màu sắc cũng khác nhau nhưng có cái chung là nở đúng mùa thi nên gọi là hoa học trò đấy thôi. (Ôi tàn mùa thi, em đi lấy chồng; còn tui đi lính. Rồi tàn mùa thi năm sau, người nữ học sanh năm đó vô bảo sanh viện Từ Dũ; còn tui ra biển, dông luôn cho tới tận bây giờ)

Quê người không còn thấy Phượng hồng (vùng nhiệt đới) mà chỉ thấy Phượng tím (vùng ôn đới) không hè. Loài hoa học trò nầy, Úc gọi là Jacaranda, từ các nước Nam Mỹ đến định cư trong các công viên thành phố. Footscray, từ đường Moore, lái xe chở em yêu đi chợ về tới ngã ba, gặp đường Ballarat, trước khi quẹo phải để về nhà, theo thói quen vào tháng Mười, Mười Một và tháng Chạp, tui thường nhìn thẳng vào rìa công viên Footscray, là thấy ngay cành Phượng tím của mùa Xuân xa xứ quê người! (Thành phố Maribyrnong, nơi tui lưu lạc rồi tấp đại vào đây, có hơn 100 công viên cho tình nhân đến để hun nhau,vườn cảnh cho ông già bà lão đến ngồi, càm ràm lẫn nhau một lát rồi nghỉ mệt để ngắm hoa Phượng tím! Đôi ta hai đứa hai đầu băng đá, nhớ lại cái thuở học trò êm đềm, lúc chưa biết yêu nhau, thiệt là đẹp biết bao. Còn hơn bây giờ, tối ngày chỉ lo cãi lộn!)

***

Khi chưa trổ hoa, Phượng tím, Jacaranda, lá xanh khá giống cây Phượng hồng, nhưng đến khi hoa nở thì hoa không giống loài hoa Phượng hồng mà ta đã hằng quen.

Hoa Phượng tím, Jacaranda, như những chiếc chuông nhỏ màu tím, dài chừng 4-5 cm rung rinh trong nắng. Sydney và Melbourne trời ấm muộn hơn hơn nên hoa nở muộn hơn, tím cả một khung Trời tím khi mình ngước mắt nhìn lên. Tím một thảm hoa, đầy trên mặt đất, khi mình nhìn xuống.

Mùa thi đang đến! Những em sinh viên trường Đại học Queensland cũng tin dị đoan thấu Trời đi. Các em nghĩ rằng khi cùng anh, đôi ta chậm bước trên đường đầy hoa Phượng tím mà gió làm rơi một cánh hoa trên mớ tóc mây, em gục vào vai anh khóc nức nở vì tin rằng mình sẽ thi rớt. (Ối đâu cần cánh hoa Phượng tím rơi rơi làm em thi môn nào rớt môn đó. Học không lo, chỉ lo ‘y cà lết’ (yêu) em rớt là cái chắc!)

***

Mùa Hè ngày xưa cũ, trốn cái nóng kinh hoàng không gì bằng thơ thẩn trốn vào công viên Tao Đàn để ngắm Phượng hồng và nghe tiếng kêu râm ram, rền rĩ một khúc tình ca, của những chú ve cô đơn đang gọi bạn tình! Thời thơ dại, chưa biết yêu là phẻ nhứt hè. Lớn lên một chút thì đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Làm một con tính trừ, thì lỗ quá xá là lỗ nên tui chọn mùa Hè khoan yêu, dứt áo xa em để về quê cắm câu, bắt con nhái bầu nhấp nhấp mấy con cá lóc tham ăn phóng tới, táp nghe cái ‘phập’!

Phải công nhận tuổi học trò đúng là thời hoa mộng, là ăn chưa no, lo chưa tới, đi học chỉ mong đến lúc bãi trường để dông về quê mò cua đồng về rang muối hoặc bắt ốc bưu luộc chấm nước mắm gừng! Bữa khác thì xách cái rổ, lội ra đồng năng, lác quê mình mà xây cù. Nghĩa là cắm cái rổ xuống chỗ nước còn đọng vũng, kêu mấy đứa lội vòng vòng cho cá trắng, cá đen nhỏ bằng mút đũa sợ, nó chạy vô cái rổ của mình. Được kha khá, cá đầy vài ba chén ăn cơm thì đem về rửa sơ sơ với nước muối; xong bắt chảo, chờ mỡ nóng lên, chiên xù. Thịt cá nó bong, nó xù ra, xúc, cuốn với bánh tráng, rau sống: dấp cá, đọt xoài, rau răm, chấm nước mắm me.

Mùa hè dạy tui nhiều điều hay lắm. Thà là mang tiếng ngu như bò, thẩn thơ đồng chiều gốc rạ, không làm gì hết ráo; đôi khi sướng hơn đi học nhiều! Khoái bãi trường là vì vậy! Hi hi!

***

Có người nói yêu thì lỗ mà không yêu thì khổ! Chính vì sợ lỗ và sợ khổ, sợ bị trầm cảm; nên tui trầm đò, khoan yêu em được ngày nào hay nào đó cho nó ‘phẻ phắn’ cái tâm hồn. Tuy nhiên, trước rạo rực của tuổi dậy thì không phải ai cũng biết ‘né’ được như tui đâu! Bằng cớ là nhà thơ Đỗ Trung Quân thở than: “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng. Em chở mùa Hè của tôi đi đâu? Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười sáu, Thuở chẳng ai hay thầm lặng mối tình đầu...”

Bài nầy do Duy Quang, bạch diện thơ sinh, mày râu nhẳn nhụi, áo (trắng) quần (xanh) bảnh bao hát là hết ý! Vũ Khanh hát cũng rất hay; chỉ có cái là đóng vai học trò nhưng râu ria hơi ‘bị’ nhiều nhe. He he!

Về ca từ, tui cũng xin có một ý kiến nhỏ như con thỏ là: “Chùm Phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười sáu”; xin đừng sửa lại tuổi tôi mười tám mà chi (đừng sợ bị chúng chửi là con nít quỷ). Ông bà mình từng phán: “Nữ thập tam; nam thập lục” nên tuổi tôi mười sáu thầm lặng mối tình đầu là quá phải rồi.

Mười tám tuổi mới biết yêu lần đầu? Tui e chú em nầy chắc do thiếu ‘hóc môn nam’ nên dậy thì muộn hay chăng? Thế đấy, văn thơ không nên thò tay mặt đặt tay trái vô sửa tùm lum tà la nha. Cứ hốp tốp, không cặn kẻ nghĩ suy, sửa chỉ có một con số mà thôi, lại làm bài hát mất biết bao nhiêu là ý nghĩa!

Đoàn Xuân Thu

Melbourne, Australia

TL_phuongtimphuonghong.jpg

Rót xuống chiều nhạt nắng!

 

 

 

 

 

 

 

Mail bạn gởi, gởi hình đang nhậu:

Hennessy vàng ánh, lưng lưng;

xịn XO, tưởng chừng như quá đã,

vui quá mà, sao mắt lệ rưng rưng?

Bởi rượu rót xuống chiều nhạt nắng,

râu tóc buồn, râu tóc bạc phơ;

vầng trán nhăn xẻ dốc đời đi xuống,

nhưng gặp nhau, còn uống, đã là mừng!

 

 

 

 

 

Mai mốt đây, ông già chống gậy*,

sóng sánh ly, rượu cứ đổ hoài,

gặp bạn cũ, thấy ông hình quen quá!

chắc tụi mình có gặp ở đâu đây?!

Say ngà ngà, nhớ toàn chuyện nhỏ,

đời lưu vong sót lại bạn già,

cũng một câu, hỏi hoài... cứ hỏi:

đã uống rồi hay chưa uống đây ta?

Say hết biết, nhớ hoài chuyện lớn,

đời lưu vong sót lại bạn già,

cũng một câu, hỏi hoài...cứ hỏi:

tại sao mình lại lạc lối đến đây?

Tưởng hỏi khó... trả lời dễ ợt,

tại mình thua... chạy tuốt ra đây,

thân mất nước, bạn sầu nên bạc tóc?

ta cũng sầu đứt ruột, xỉn... rồi say!

*Johnnie Walker

Đoàn Xuân Thu

dxt_hennessyXO.jpg
dxt_jonnieWalker.jpg

Công tử Quờn!

 

Cách đây hơn nửa thế kỷ, tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn, tui học lớp Đệ Thất, rồi cứ đếm ngược theo ‘số thứ tự’ lên là Lục, Ngũ, Tứ, Tam, Nhị, Nhứt!
Mãi tới năm 1969, Bộ Giáo Dục mới đổi tên lớp lại theo ‘số đếm’. Đệ Thất là lớp 6, leo dần 7, 8, 9, 10, 11, 12. Sau đó bỏ kỳ thi Tú tài Một, cuối năm lớp 11 chỉ còn thi Tú tài Hai cuối cấp mà thôi. Sở dĩ cắt nghĩa vòng vo tam quốc dài dòng như vậy sợ em cháu mình sau nầy nó không biết.
Mặc dầu lớp Đệ Thất nhỏ nhứt nhưng quý thầy cô lại già nhứt, có kinh nghiệm giảng dạy nhứt mới được phân dạy cấp lớp nầy đó nhe! Nhứt là trong cái trường trung học nổi tiếng nhứt của miền Nam là trường Petrus Ký. (Thiệt là quá nhiều cái nhứt!)

 

 

 

 

 

 

 

 

                                      Trường Petrus Ký​
Ba năm đầu, môn Quốc văn, tuần học tới 6 giờ, vì là môn quan trọng nhứt! Và có một chuyện ngẫu nhiên lý thú là: quý giáo sư dạy tui môn Quốc Văn đều tên Dung. Dung là tên phái nữ; nhưng thầy dạy Đệ Thất của tui cũng tên Dung; thầy Võ văn Dung.
Nghe tui kể vanh vách như vậy, mấy thằng bạn học cùng lớp năm xưa ngày cũ nó ngán tui quá xá! “Ê già háp mà thằng ‘Tèo’, đã từng một thuở ‘lù coi’ nầy, nó chưa có lẫn!”
***
Thầy tui hồi xưa rất yêu nghề. Vì nghề giáo hồi đó sống khỏe chớ đâu như bây giờ làm giáo chức là dứt cháo, sống bù lăn bù lóc… một đời móc bọc!
Yêu nghề nên tận tâm với nghề; thầy soạn bài kỹ lắm. Nhưng khổ nỗi là thầy chọn những đề tài mà thầy thích rồi dạy, hỏng cần biết sắp nhỏ có đủ khôn để hiểu hay không?
(Mãi tới hơn 50 chục năm, tui mới ‘ngộ’ là nó hay quá xá là hay… Hơn nửa thế kỷ bớt ngu còn đỡ hơn là mình ngu tới chết!)
Thầy tui rất lấy làm ái mộ nhà văn Bình Nguyên Lộc, tác giả quyển tiểu thuyết ‘Đò Dọc’, đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1960, nên chọn một đoạn trích giảng vầy nè: “Quờn là một công tử nhà quê, hạng người mẫu. Vì ở gần thành phố quá, mặc dầu thành phố ấy chỉ là một quận lỵ, công tử Quờn lại mang thêm một cố tật dĩ nhiên là muốn thành người thành thị.
Thành không được, Quờn lai căn một cách dị hợm với những bộ bi-da-ma màu hường, màu xanh lá cây mà cậu mặc mãi từ sáng đến tối, từ trong buồng ra đến quận lỵ. (…)
Từ ngày xóm tiếp nhận nữ khách mới thì cậu xức nước hoa chế tạo ở Chợ Lớn và nhét mù xoa nhỏ có thêu chéo xanh xanh đỏ đỏ trên miệng túi bi-da-ma.
Cậu diện thêm một cây đàn băng cầm, cứ chiều chiều xách nó ra đường, không khảy vì chưa biết chơi, nhưng cắt nghĩa lu bù về nhạc cụ ấy, với đám trẻ con bu quanh cậu. (…)
Trong cái lần đầu ấy, thấy Quờn liếc lén mấy chị em, Hoa tấn công ngay: “Chào cậu hai. Đi dạo mát với chị em tôi chơi, cậu!” (…)
Quờn đứng chết sững và ngậm câm, còn hai cô Hoa và Quá thì rũ ra cười; cô Quá cười no rồi nói: “Hay là cậu mặc áo hường rồi chê áo đen của chị em tôi mà không muốn đi chăng?” (..).
Một bữa khác, được nói chuyện với mấy chị em Hoa, Quờn sẽ để lộ cái “dốt”
Quờn mặc bi-da-ma bằng vải ú màu xanh lá cây, đầu chải brillantine Chợ Lớn sực nức mùi chanh, cổ đeo giây chuyền vàng khè, tay nặng trịu nào lắc vàng, cà rá vàng và đồng hồ cũng bằng vàng. (…)
“Độ rày cậu làm gì, cậu hai?” Hoa lại hỏi. “Cũng hổng cần làm gì, à tôi có tự túc một bầy gà Huê-kỳ, coi bộ tương lai quá khứ?”
Cả bốn chị em đều ngạc nhiên, không hiểu cậu ta nói cái gì mà lại tự túc và có tương lai quá khứ? “Tự túc là gì cậu?’” Hương hỏi thật tình. “Tự túc là nuôi, chớ là gì.” “Vậy hà, còn tương lai quá khứ?” “Tương lai là tương lai, còn quá khứ là quá sá. Tiếng mới mà. Tôi nghe họ nói hay quá, nên tôi bắt chước dùng theo. Đời bây giờ họ bày ra nhiều tiếng mới hay lắm. Thí dụ phạm tội, họ nói phạm vi. Thù vặt họ nói cá nhân, nghe hay quá khứ.
Hoa và Quả núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt. (…) .
***
Chuyện đã lâu, công tử Quờn ngày xưa chắc đã xuống âm phủ mà đờn… Dè đâu bây giờ không phải là một công tử Quờn mà hàng trăm công tử Quờn đội mồ sống dậy!
Một quan chuyên đi thu thuế chỉ dạy đàn em là: “Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá vội để vịt nó kêu toáng lên”. 
(Thằng cha nội nầy hỗn… dám so sánh dân với ‘vịt’ chớ!)
***
Rồi một quan chuyên quảng cáo du lịch đánh phèng la, la rằng: “Nước Việt Nam ta là cô gái đẹp, tất cả cơ thể này chỗ nào cũng đẹp. Chúng ta phải lựa chọn những bàn tay tinh túy nhất, chứ không phải là ai cũng cho vào. Cho nên lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phải có tầm vóc. Nhà đầu tư khi bước vào thì phải đem đến điều gì đó đặc biệt, tạo động lực mạnh mẽ cho đặc khu phát triển.”
(“Ê! Sao mà giống như thuyết minh phim ‘sex’ vậy cha nội?”)
***
Té ra mấy ‘quan anh’ bây giờ, mặt vênh vênh, váo váo, bố lếu bố láo, chém gió, đăng đàn toàn là những chuyện tào lao bắc đế, cũng khoái ví von, khoái chơi chữ lắm, nói tiếng Việt mà hổng biết mình đang nói cái giống gì làm tui lại nhớ tới chuyện hồi xưa giữa bốn chị em của Hoa đối với công tử Quờn ngày xưa đó mà thôi!

Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.

dxt_truongPKy.jpg

Bài thơ viết 20 năm ngày Ba bỏ tụi con, đi!

 

Nhà thương thí miền Tây

con đâu ngờ lần cuối

ráng chiều cháy chân mây

ngày cuối cùng hấp hối

“quê nhà! trái tim Ba!”

Ba nhìn con trăng trối…

***

Vàng thu chiếc lá đời bay

trước sau rồi cũng một ngày phải xa

***

Dẫu biết là tro than

vẫn đau lời vĩnh biệt

công hầu đều khánh kiệt

chỉ còn lại cố hương!

Mộ Má nhìn ra lộ Đông Dương

như trông như ngóng người thương trở về

người thương nay đã trở về

dẫu tro than vẫn câu thề ngày xanh:

“chừng nào xe lửa Mỹ bung vành;

tàu Tây kia liệt máy anh mới đành xa em”*

*Ca dao

 

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

bottom of page