top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg

Thơ         

Trương Nhị Kiều

Người Kéo Màn

Nguyễn Đấu Lộc 

 

Toronto,Canada_____________________________

Nỗi buồn cuối năm

Ta ở bên này vui đón Xuân,
dù không pháo đỏ cũng men nồng,
bạn bè dăm đứa say chè chén,
chếnh choáng hơi men khóc Núi Sông!

Nhưng làn hơi rượu thoảng bay mau,
để lại trong tim một nỗi sầu,
cơm, áo, nhà, xe chừ lận đận,
non sông hề, biết để vào đâu?


Bao năm ta sống đời lưu lạc,
chưa làm được gì cho Núi Sông,
có chăng dăm bảy lời vô bổ,
mà tưởng công dầy như Thái-Sơn.


Những lúc cuồng ngông ta tuốt kiếm,
ra chiêu hóc hiểm phạc anh em,
giặc thù đứng ngắm: cười khanh khách,
bè bạn phẩm bình: chê nhỏ nhen.

Môt đêm chìm hẳn vào suy tưởng
tìm được chính mình sau chiếc gương
mỗi năm Tết đến, buồn thêm tuổi
chưa làm được gì cho quê hương!!!

Buồn!

 

NGUYỄN ĐẤU LỘC
 

đầu năm xông đất

 

trước cuối năm gởi thiệp xuân cho bạn

viết mấy dòng thăm, chúc được an khang

hạnh phúc yên vui, tài lộc đầy tràn

sáng mùng một bạn hồi âm, chán nản.

 

"cảm ơn anh bao nhiêu năm ròng rả,

tết đến xuân về chúc bạn gần xa.

tài lộc đầy sân, hạnh phúc chật nhà

mở cửa sớm rước Xuân vào,

say chếnh choáng!

nhưng bạn ơi,

những thứ đó bây giờ là của đảng

chứ dân mình cùng khổ đã nhiều năm !

có bao giờ họ thấy đươc mùa Xuân

suốt tháng quanh năm, sống đời cơ cực

thật xa xỉ khi nói đến từ hạnh phúc

sống từng ngày trong lừa lọc, mưu toan

khắp quê nhà đâu cũng thấy dân oan!

tham nhũng tràn lan, nợ công chồng chất

đời sống dân nghèo khốn cùng chật vật

biết bao giờ được vui Tết đón Xuân !

 

tết năm sau, nếu bạn còn nhớ chúc mừng

xin bạn chúc cho tôi còn lý trí

sống xứng đáng, không thờ ơ vị kỷ

biết đau lòng theo vận nước nỗi trôi

sống làm sao cho xứng đáng một con người

không vô cảm nhìn nỗi đau đồng loại

không yếu đuối, không nhác hèn sợ hãi

sống ngẩng cao đầu, cho con cháu có mùa Xuân".

 

nguyễn đấu lộc

Toronto Canada 

 

 

Mùa Thu Không Mơ

Trương Nhị Kiều

 

Khác với mọi năm, mùa Thu năm nay nơi tôi ở bon chen đến sớm. Mới đầu tuần lề thứ ba của  tháng 9, trong lúc cây cỏ còn xanh tưổi tận hưởng thời tiết nắng ấm của những ngày cuối Hè, khí hậu thay đổi đột ngột, trời nhiều mây, gió nhẹ và thỉnh thoảng buổi chiều có mưa lắc rắc, nhiệt độ giảm xuống vào ban đêm. Dự báo thời tiết cho biết mùa Thu năm nay về sớm hơn thường lệ hai tuần. Một vài loại cây sau nhà, trước ngỏ lá bắt đầu kém xanh chuyển sang màu vàng trước khi lìa cành. Tạo một cảm giác buồn man mác. Tôi chợt nhớ lại bài thơ Gió Thu của thi sĩ Tản Đà:

 

"Trận gió thu phong rụng lá vàng Lá rơi hàng xóm, lá bay sang. Vàng bay mấy lá năm già nửa Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng! Trân gió thu phong rụng lá hồng. Lá bay tường Bắc gió sang Đông. Hồng bay mấy lá thu hồ hết. Hờ hửng kìa ai vẫn đứng trông!"

 

 

Ông cụ đã về hưu, bác An, ở nhà bên cạnh có thú vui mùa Hè thích đi câu cá ở các vùng có sông hồ nước sạch rất xa thành phố. Ông cụ có tay sát cá, mỗi lần đi câu đều được rất mhiểu loại cá ngon, đem về phân chia cho gia đình mấy bạn thân quen để dành nhậu lai rai suốt mùa Đông.

Ông nghe radio báo tin mùa thu đến sớm làm ông không vui. Ông cụ tặc lưởi phàn nàn.

 

 - Lại mùa thu nửa "cướp chính quyền!"

 

Nghe ông cụ lầu bầu, tôi rất ngạc nhiên nhìn ông trân trối. Một năm có bốn mùa Xuân, Hạ,Thu, Đông đã có từ thời khai liên lập địa, trở thành những biểu tượng mang tính ước lệ, "rất trung hoa", trong văn chương của nhiều văn nhân thi sĩ từ trước đến giờ. Tứ Thời Thi"Xuân du phương thảo địa. Hạ thưởng lục hà trì. Thu ẩm hoàng hoa tửu. Đông ngâm bạch tuyết thi."

từ ngày xa xưa đó có lẽ ông cụ quên mất rồi nên nét măt lộ vẽ không vui.

 

Cho đến bây giờ, khuông sáo cũ vẫn còn trói buộc nhiều người chưa thoát được. Có người ngồi trầm ngâm bên bàn viết với tách trà hay đang gật gù nhấm nháp một ly rượu hoặc cốc cà phê, đã lấy được cảm hứng "nhả ngọc phun châu", không cần phải ‘tức cảnh sinh tình" vẫn có thể cho ra nhiều "tuyệt tác" văn chương phẩm bình bất hủ.

Nhớ ngày đầu tiên khi vào lớp đệ Thất ở trường Phan Thanh Giản,cô giáo sư Việt văn cho chép một bài giảng văn xuôi Tôi Đi Học của nhà văn Thanh Tịnh và bảo về nhà học thuộc lòng. Giờ giảng văn tuần sau, cô kêu trả bài nhiều bạn không thuộc lòng nổi bài bài văn xuôi khá dài, bị cô giáo ghi vào sổ điểm hai số dê-rô mà chúng tôi thường "chọc quê"nhau.

 

 - Cô cho trò ăn hai trứng vịt lộn

 

Mùa Thu trong văn chương thật thơ mộng,trử tình rất đẹp nhưng cũng rất buồn man mát cảnh chia ly." Ngô đồng nhất diệp lạc. Thiên hạ cộng tri thu".Tôi lớn lên theo thời gian bỏ xa dần tính hồn nhiên của con nít để bước qua ngưỡng cửa tuổi biết buồn. Hè về nghe tiếng ve sầu, thương hoa phượng đỏ, viết lưu bút chia sẻ vẩn vơ với bạn bè, đầy lưu luyến trong dịp bãi trường..

Rồi mùa Thu, tựu trường tung tăng vào lớp, nhìn quanh tìm kiếm bạn cũ, lòng cảm thấy buồn khi phát hiện sự thiếu vắng vài ba khuông mặt thân quen. Những bạn đã không trở lại lớp trong năn học mới. Không còn dịp gặp nhau để lưu luyến, nói lời chia tay...

Tôi giật mình trở về thực tại khi nghe tiếng cốc cà phê đặt nhẹ xuống bàn và lời phê phán của cụ An.:

" Các anh cũng như con tôi, được sống ở Miền Nam quá nhiều ưu đải và bây giờ sống ở sứ tự bản "giẫy chết" này đã không thấy được những nỗi khốn cùng của người dân miền Bắc chúng tôi. Ngót ba phần tư thế kỷ trôi qua trong khổ đau cũng bởi cái mùa Thu chết tiệt này anh a. Mơ ước của người dân chúng tôi chỉ muốn có được một cuộc sống an lành, bình dị nhưng không được, nên đã hai lần phải bỏ xứ ra đi.".

 

Như chưa ngăn được dòng cảm xúc trào dâng ông kể tiếp nhiều mẩu chuyện về Mùa Thu Không Mơ- "Mùa Thu Cách Mạng" vẫn luôn luôn ám ảnh cuộc đời ông bắt đầu từ ngày niên thiếu đến bây giờ. Ông cụ An người láng giềng của tôi quê Hà Tỉnh ba đời gia đình ông bám biển, quen làm ngư phủ để sinh nhai. Năm 1946, ở tuổi thanh thiếu niên ông và nhiều bạn trẻ đi "theo cách mạng", được đoàn ngủ hóa trong các đội thanh niên cứu quốc, một số xung phong gia nhập bộ đội "cụ Hồ". Nhắp thêm một ngụm cà phê cụ An thở dài.

 

- "Ở tuổi 30, tam thập nhi lập, tôi đã biết suy nghĩ cái đúng cái sai. Tôi hiện đã quá tuổi"bất hoặc" từ lâu nên không còn mơ hồ, ảo tưởng nửa. Tôi không cảm thấy hảnh diện tí nào khi nhắc đến một khoảng đời của mình bị người ta lợi dụng."

                                                                                                                                      

Sau hiêp định Geneve năn 1954, ông An và nhiều người trong thôn biết mình đã bị lừa nên quyết định rời Hà Tỉnh di cư vào Nam. Gia đình ông định cư tại Quảng Tri và vẫn tiếp tục theo nghề bám biển mưu sinh. Năm 1982 trong một lần ra khơi, cụ An quyết định bỏ nghề đánh cá để chuẩn bị cho cả gia đình đi vượt biển tìm tự do. Nghe cụ An kể "chuyện đời mình" tôi mới hiểu vì sao cụ không thể yêu mùa thu, bởi vì cụ và hàng triệu triêu người Việt Nam đã khốn khổ triền miên bởi Mùa Thu Không Mơ, một mùa thu "chết tiệt" này.

 

(2/9/2018)

VCB_Thay co LKHĐ.jpg

 

THẦY TÔI: GS LƯU KHÔN

CHS Vương Cao Biền

(Vừa được tin thầy Lưu Khôn mất, xin đăng lại bài viết mấy năm trước về thầy như một lời tưởng niệm và tri ân một Đại Lão sư phụ của trường Phan Thanh Giản và Đại Học Văn Khoa Cần Thơ)

Năm 1960 khi tôi vào học lớp đệ thất (L. 6) trường trung học Phan Thanh Giản, thầy Lưu Khôn là giám học của trường. Rồi hai năm tiếp theo, mỗi năm ít nhất hai lần, chúng tôi đều gặp thầy khi thầy tới từng lớp phát thưởng trạng (một cách gọi giấy khen thời đó) cho các học sinh có điểm cao từng môn sau mỗi kỳ thi đệ nhất, đệ nhị lục cá nguyệt (thi học kỳ I, II bây giờ). Thầy đi rất nhanh mà nói cũng nhanh nhưng vẫn dễ nghe (có lẽ vì thầy phải đi qua tất cả các lớp), thầy thường đi giày sandals, tác phong giản dị, đúng mực. Lúc có lễ lộc lớn, học sinh toàn trường tập trung, nhất là lúc khai giảng năm học, thầy Hiệu trưởng Nguyễn văn Kính thường giới thiệu các thành viên quan trọng trong ban giám đốc (Ban Giám Hiệu) nhà trường, và khi tới thầy giám học Lưu Khôn, thầy Kính thường nhấn mạnh “GS Lưu Khôn đã đậu Cử nhân và hiện nay ông sắp xong cao học, rồi sẽ học lên tiến sĩ ”. Thời đó, thầy nào có bằng cử nhân, là được coi như “siêu trí thức”, đằng này thầy Lưu Khôn đang học trên cả cử nhân , chúng tôi ngưỡng mộ vô cùng.
 

Rồi năm 1962 tôi chuyển vể trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho học suốt bốn năm, đến năm 1966 trở lại trường Phan học Đệ Nhứt (L. 12) thì được bạn bè cho biết thầy Lưu Khôn đã từng làm Hiệu Trưởng một thời gian (thay thầy Kính về hưu). Khi cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm xảy ra vào tháng 11/1963 thành công, thì khắp nước, SVHS sau khi tham gia biểu tình chống độc tài nhà Ngô, trở thành kiêu binh, hoan hô đả đảo loạn xà bần, không suy xét đúng sai, cứ lãnh đạo dưới trào cũ là bài xích, nói xấu, đòi hạ bệ. Thầy Lưu Khôn buồn bực xin từ chức, qua dạy đại học Sài Gòn. Thầy Phạm Văn Đàm thế thầy Khôn làm Hiệu Trưởng, lúc tôi trở lại học PTG năm 1966 thì Hiệu Trưởng là Thầy Đàm, sang năm 1967 thầy Đàm đổi về SG, bàn giao nhiệm vụ HT lại choThầy Nguyễn Trung Quân. Và cơ duyên tôi được học với thầy Lưu Khôn là lúc tôi vào Đại Học Văn Khoa Cần Thơ.


Ở Trung học tôi học ban B (Toán-Lý Hóa), nhưng bản thân tôi rất thích văn chương và ham đọc sách từ nhỏ. Vào Đại Học, vì nhà nghèo, em đông, tôi không thể mơ thành Luật sư, Bác Sĩ. Thôi thì:” Dưa leo chấm với cá kèo/ Cha mẹ anh nghèo mới học normale”.(normale là nói tắt của école normale tiếng Pháp nghĩa là trường Sư Phạm). Ở ĐH Cần Thơ lúc tôi học, ĐH SP chỉ có SP hai năm, đào tạo giáo sư Trung Học đệ nhất cấp( cấp 2), nếu muốn dạy Trung Học Đệ Nhị Cấp (cấp 3), phải học thêm khoảng hai năm và lấy được bằng Cử Nhân. Tôi đang phân vân không biết vào SP ngành nào: Toán, Việt Hán, Lý Hóa… thì một anh bạn cùng lớp rủ tôi thi vào SP ngành Anh Văn, thấy AV của mình cũng không tệ, tôi đồng ý. Cái nghề English Teacher của tôi khởi đi từ đó.


Năm thứ nhất ngoài những giờ học chuyên Anh Văn, chúng tôi phải học thêm một số môn như Văn, Sử, Địa. Các giờ học nầy rất vui vì lớp hơn trăm SV gồm các ban Anh Văn, Pháp Văn, Sử Địa, Viêt Hán học chung trên Đại Giảng Đường. Người thầy tôi nhớ mãi là Thầy Lưu Khôn, GS thỉnh giảng từ ĐH Văn Khoa Sài Gòn. Thầy hay gọi SV là “các bạn”, cũng có khi gọi là “anh ,chị”, thầy luôn mang kính vì mắt yếu, khi lên giảng đường nói thao thao bất tuyệt mà không cần nhìn bài soạn, vẫn nói nhanh nhưng dễ nghe như ngày xưa. Môn học thầy dạy tôi nhớ mang máng hình như là “Đọc và phân tích tác phẩm văn học “. Thầy dạy chúng tôi phân tích từng truyện trong tác phẩm Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân (Miền Nam không cấm đọc tác phâm nầy dù lúc đó NT là một nhà văn có vai vế ở Miền Bắc). Thầy yêu cầu mỗi nhóm SV phải thuyết trình một truyện trong VBMT. Nhóm AV chúng tôi được thầy chỉ định truyện Chữ Người Tử Tù. Tôi được các bạn cùng lớp đề cử thay mặt nhóm đứng ra thuyết trình. Sau thuyết trình sẽ có phần tranh luận với toàn thể SV các ban khác. Chúng tôi lập ra một ban thuyết trình của nhóm AV gồm bốn người: Tôi-Thuyết trình viên, Chủ Tọa là anh Võ Văn Sáu , Trương Thúy Lộc (hát hay như ca sĩ) làm xướng ngôn viên đọc minh họa các đoạn văn trích dẫn, Lưu Túy Nga (chữ đẹp) trình bày các sơ đồ lên bảng . Sau phần thuyết trình và tranh luận, chúng tôi chăm chú lắng nghe nhận xét của Thầy.


Thầy khen ngợi nhóm chúng tôi, khen ngợi sự phân tích sâu sắc tình bạn của viên quan coi ngục và Huấn Cao, khen ngợi sự nhanh trí và phối hợp nhịp nhàng của các thành viên ban thuyết trình trong phần tranh luận. Giữa lúc tôi đang đắc chí bay bổng với các góp ý của Thầy, thấy mình sao quá giỏi, thì Thầy phán một câu làm tôi trở về với mặt đất: Tôi có một điều muốn nhắc nhở các anh chị, nhất là TTV, đừng suy diễn quá xa. Anh quả quyết Huấn Cao là Cao Bá Quát, điều nầy không có gì chắc chắn cả. Có thể Nguyễn Tuân lấy hứng thú từ cuộc đời của CBQ để xây dựng nên hình tượng Huấn Cao, nhưng chúng ta chỉ cảm thấy như vậy chứ không hề có một chứng cứ cụ thể nào, trong phân tích và phê bình văn học không được suy diễn quá xa như vậy. Về nhà, đọc đi đọc lại CNTT tôi thấy lời thầy thật là chí lí. Tôi nghĩ Huấn Cao là Cao Bá Quát vì tôi quá ái mộ CBQ từ hồi học trung học. Cao Chu Thần với tài văn chương tuyệt thế được xưng tụng là “Thánh Quát”, với khí phách ngang tàng trong Tài Tử Đa Cùng Phú, với bi kịch cuộc đời ông, bị tru di tam tộc đã là một kẻ sĩ thần tượng của tôi từ lâu. Một ấn tượng, một thành kiến có sẳn trong đầu dễ làm lệch hướng nhận định chúng ta trong việc phê phán người khác. Bài học từ câu nói của Thầy Lưu Khôn theo tôi mãi tới ngày nay.


Gần sáu mươi năm nay, tôi không được gặp lại thầy, chỉ biết sau 30/4/1975 thầy vẫn tiếp tục dạy ĐHVK Sài gòn một thời gian, sau đó cả gia đình sang Mỹ sinh sống. Hiện nay thầy vẫn còn khỏe mạnh dầu đã hơn 90 tuổi . Lâu lâu thấy hình thầy qua internet trong các cuộc họp mặt cựu HS và GS Phan Thanh Giản – Đoàn Thị Điểm hải ngoại, điều vui mừng là thầy vẫn viết bài đều đặn về trường cũ cho các đặc san ĐTĐ-PTG. Rất mong Thầy và các thầy cô năm xưa khỏe mạnh mãi, như đại thụ tỏa bóng mát tinh thần cho các thế hệ đàn em nương tựa và noi theo.

 

Vương Cao Biền

Cần Thơ

P/S: Ngày 22/11/2025 tôi vừa được tin nhắn của anh Trần Bang Thạch báo tin thầy Lưu Khôn vừa mất tại San Jose CA , Nov 21 2025, thọ 95 tuổi.

Hình thầy Lưu Khôn (lúc 92 tuổi), hình sau là thầy và cô lúc cô còn sinh thời. (ảnh từ trang ptgdtd usa) 

bottom of page