top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
NguyenNgocTuyet_self.jpg

THƠ VĂN

Vương Phong Lan/

Nguyễn Ngọc Tuyết

Cần Thơ 

CHS-GS Phan Thanh Giản

______________________

TL_yellowrose.jpg

BÔNG HỒNG NGÀY SINH NHẬT

(Sinh nhật ngồi một mình, nhớ lại một bài thơ cũ)

Buổi sáng ngày sinh nhật

Mua một bông hồng vàng

Rồi tạt vào quán cà phê quen

Ngồi nhớ…

Từng khuôn mặt thân yêu

Từng buổi sáng, buổi chiều đầy ắp tiếng cười

Và ngọt ngào từng đêm xanh quyến rủ

Vòng tay ôm tròn trặn nồng nàn

Ly rượu vang trên bàn đỏ thẳm

Thắp lửa hồng trên môi ai

Quấn quýt sợi tơ mềm cột chặt…

Buổi sáng ngày sinh nhật

Cầm bông hồng vàng trên tay

Mới hay tay mình trống rỗng!

Tình yêu lọt qua kẻ tay,

Tiếng cười giòn lọt qua kẻ tay

Ngậm ngùi- thương nhớ

Một đời khôn nguôi..khôn nguôi…

Tiếng gọi từ dĩ vãng

Trở về tìm chút hơi ấm ngày xưa

Khát khao một lời chào bè bạn

Khát khao cái vuốt ve nhẹ nhàng trên mặt

Như hơi thở thật êm, thật êm

Nụ hôn mềm rung rung cánh bướm

Là là đáp xuống môi ai

Ươm giấc ngủ đầy mộng mị

Hương nồng thâu đêm!

Ngày sinh nhật mừng ta thêm một tuổi

Thêm một chút già nua héo hắt

Thêm một bông hồng cắm vào bình hoa nhỏ trên bàn

Rực vàng nỗi nhớ

Thêm một ly rượu vang uống một mình nhạt thếch

Chút sóng sánh thắm nồng đã lặn vào trong mắt

Cho ta ngậm ngùi gọi mãi : Thuở xưa ơi !

NGUYỄN NGỌC TUYẾT

___________________

NHỮNG BÔNG HOA NGÀY 8/3

Tinh mơ em đi cùng một rừng hoa,

Rực rỡ sắc cầu vồng trên tay như niềm vui buổi sáng

Hoa bán cho người mà sao em phơi phới

Hoa nở 8 tháng 3, e ấp tuổi xuân thì

Hoa ửng hồng một thời thiếu nữ

Hoa dịu dàng thủ thỉ những lời yêu

Hoa sưởi ấm tấm lòng người vợ

Hoa sóng sánh mắt tình nhân ngày lễ…

Trong tay em hoa cười vui hớn hở

Cả con đường thơm ngát hương hoa,

Thơm trong em cả một thời gian khó,

Những bông hoa thành tập sách học hành,

Chia sẻ nỗi gánh gồng người mẹ già còm cõi

Bao năm rồi mẹ chẳng có một cành hoa,

Chẳng hề biết có Ngày Phụ Nữ!

Tinh mơ em đi cùng một rừng hoa,

Những cánh hoa cứ vơi dần, vơi dần trong giỏ

Chập choạng hoàng hôn vài cành hoa héo

Em trở về căn nhà trọ liêu xiêu

Cắm vào bình mấy cành hoa sót lại,

Tự chúc mừng mình, chúc mừng mẹ chốn quê xa

Hoa đỏ thắm sáng bừng căn phòng nhỏ,

Nghe trong đêm niềm vui đến, âm thầm…

NGUYỄN NGỌC TUYẾT

_______________________________

NguyenNgocTuyet_Charlie.jpg
NguyenNgocTuyet_CharlieAndSelf.jpg

GỞI LÒNG TÔI ĐẾN CHARLIE

Tôi đứng bên kia đường

Nhìn lên đỉnh Charlie mây mù che phủ

Cái đỉnh núi chưa bao giờ tôi đến được

Nhưng nghe ray rứt mãi trong lòng.

Charlie! Charlie! Mùa hè đỏ lửa

Một trăm ngày xương thịt chất chồng

Muốn quên hết một thời chiến tranh khốc liệt

Phải đâu là chuyện dễ!

Tiếng bom nổ rền vang,

Từng vòng xích sắt nghiến rào rào trên đất

Vẫn là ta máu đỏ da vàng

Cuộn mình trong một trò chơi máu

Cho Charlie nghiêng mình quặn thắt,

Mây vương màu lụa trắng trên cao

Cho những dải khăn tang trên đầu cô nhi, quả phụ

Mãi khóc điệu tình buồn!

Charlie! Charlie! Ai người ở lại

Nghe gió núi mây ngàn hát khúc bi ca

Bao thân xác đã hóa thành bụi đất

Còn phân chia chiến tuyến, bạn thù ?

Đã qua, đã qua một mùa hè máu

Sao đọng trong tôi bao nỗi ngậm ngùi.

Đã biết núi cao mùa mưa không lên được

Vẫn muốn thắp một nén hương lòng

Ngóng về đỉnh Charlie cả hai đầu trận địa

Cúi đầu vọng bái..

Charlie ! Charlie ! mây mù bao phủ

Đứng bên đường sao mắt cứ rưng rưng…

5-8-2020

NGUYỄN NGỌC TUYẾT

VuongPhongLan_VDSB.jpg

KHÓC BẠN
(Nhớ VÕ HỢI, bạn tôi)

Sáng nay nghe tin bạn mất
Dù cuộc ra đi này được báo trước từ lâu
Vẫn thấy lòng ngậm ngùi hụt hẫng…
Nhắm mắt lại một trời dĩ vãng
Bạn xưa ơi!

Bốn mươi tên đi vào
Ra trường hai mươi ba đứa
Sự vụ lệnh trong tay đi về mọi nẻo
Trong tim vẫn hình bóng mái trường xưa
Vẫn cây còng già trong sân đong đưa những quả chuông hồng
Tỏa mát một thời tuổi trẻ,
Và những bài thơ Tống, thơ Đường mang theo trong cặp sách
Thỉnh thoảng lấy ra lòe bọn học trò.
“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi…”
Vẫn nhớ mãi cái thời lãng mạn
Những sáng linh lan, những đêm nguyệt cầm, bên đồi sim ấy
Chàng thanh niên hát rền vang bên cửa lớp
Giọng hát không hay nhưng bài ca thật tuyệt
Bạn bè cười khen : hay quá Hợi ơi!

Rồi bạn đi…con đường xa ngái
Bao dâu bể cuộc đời, những bài ca dài mãi
Cái nghệ danh “cải lương” kia lại nổi tiếng ngất trời
Lại cười vui những lần họp mặt
Lớp mình cũng nhiều người giỏi quá ta!
Cuộc họp lớp mỗi ngày mỗi vắng
Bạn ta đi tứ tán mãi nơi nào
Vẫn thương nhớ ép vào kí ức
Một thời tươi đẹp mấy ai quên!

Sáng nay viết mấy dòng thơ khóc bạn
Sao nhớ những ngày tập tễnh làm thơ
Về nơi ấy bạn cứ cười thoải mái
Gặp lại thầy mình chắc sẽ vui thôi!
Hoàng hạc đã bay, bay mãi bỏ trời mơ..
Bạn ra đi những bài ca ở lại
Mỗi mùa thu lại “Thu hát cho người”!


VƯƠNG PHONG LAN

      CAU TRẦU GÓC CHỢ

 


 

 

 

 

 

 

 

 

Mỗi sáng tôi đều ra ngồi quán cà phê trước khu chợ gần nhà. Quán bình dân, cà phê không ngon nhưng ngồi riết rồi quen, không đi lại thấy nhớ. Nhớ cái không khí bát nháo, tiếng nói chuyện ồn ào của những người buôn gánh bán bưng, mấy anh công chức, mấy cụ già sáng sáng tấp vào đây. Tiện thể mình cũng đi bộ một vòng tập thể dục luôn vậy mà. Quán cà phê ở gần con đường nhỏ dẫn vào chợ. Ngay góc chợ đó hôm nào một chị tuổi trung niên, mặt mày hiền lành cũng bày ngay dưới đất một mẹt cau, một ốp trầu, hũ vôi bên cạnh mấy sề chuối, cóc và mấy thứ linh tinh khác. Trầu xanh chỉ một ốp đặt trên mâm, buồng cau kế bên cũng ít trái thôi chứ chẳng phải đầy đặn gì. Cái chỗ ngồi và mấy món hàng nhỏ nhoi dường như lọt thỏm trong khu chợ đông đúc và mấy hàng trái cây bề thế bên trên khiến tôi không để ý mỗi lần vào chợ. Hôm rồi có chị bán vé số ngồi uống cà phê bàn bên chợt bị chú ong vò vẻ bay lạc đến chích cho một phát, đau đến nhảy dựng. Ai đó liền kêu chị chạy lại góc chợ xin một ít vôi bôi vào sẽ hết nhức ngay tức thì. Đúng là vôi ăn trầu hay thiệt! Chị bán vé số chạy về miệng cười tí toét. Vậy nên tôi mới biết tới cái góc nhỏ bán trầu cau kia.

 

Mon men lại hỏi chuyện lúc chị bán hàng đang ngồi không mới biết nhà chị ở ngay thành phố, mấy món hàng kia đều có mối đem lại. Thường ngày trầu cau bán được rất ít. Giờ đâu ai ăn trầu nữa cô, họa chăng còn mấy bà lão, mấy người khách lại mua chỉ để cúng thôi. Lâu lâu mấy nhà có đám cưới chạy lại đây đặt buống cau, ốp trầu thì tui đặt lại dùm. Chị bán trầu cau nói vậy. Nghe mà chạnh nhớ đến hàng cau tầm vung trước cửa nhà ở quê chồng. Ngày trước cả xóm còn rất nhiều người ăn trầu nên má chồng tôi trồng thêm mấy nọc trầu vàng trong vườn. Mấy dây trầu quấn quanh, uốn lượn trên mấy cây dừa thẳng tắp, chỉ để biếu cho mấy bà bạn chứ không bao giờ bán. Thỉnh thoảng có người đến xin mấy dây lương (dây mọc dưới đất) để làm thuốc chửa bệnh đau cột sống hay thấp khớp gì đó. Những lúc có đám giỗ, đám cưới trong quê, nhìn mấy cụ già vừa nói chuyện vừa thong thả ngồi ngoáy trầu trên bộ ngựa gõ rồi nhai bỏm bẻm mà cảm thấy ấm áp làm sao! Tưởng như thời gian như đi chậm lại, hồn xưa phách cũ của làng quê, bến nước, sân đình vẫn còn đây và nét đẹp truyền thống của một nền "Văn hóa làng" vẫn còn hiện diện đâu đó. Giờ thì hàng cau trước nhà tôi đã bị đốn hết để mở rộng hương lộ, mấy dây trầu vàng bóng mượt từ ngày má chồng tôi mất cũng đã rụi tàn. Vả lại trong làng trong xóm nào còn ai ăn trầu nữa đâu. Thế hệ của những ông già bà cả cỡ má chồng tôi đã lần lượt khuất bóng hết rồi. Mấy đứa nhỏ lớp con cháu sau này có khi còn chưa thấy dây trầu, buồng cau nữa là.. Và vẻ đẹp rực rỡ một thời, nổi tiếng một thời của những miệt như "Mưới tám thôn vườn trầu", của những cô gái vườn trầu xưa chắc cũng trở thành huyền thoại mất thôi!

Đứng nói chuyện một lúc lại có một cô còn khá trẻ đến nhờ chị têm sẵn chục miếng trầu cau đem về. Cũng chẳng phải têm trầu cánh phượng hay làm khéo gì, chị bán trầu chỉ cuộnmiếng trầu xanh thành hình phễu rồi bổ trái cau làm tư nhét vào mỗi cái một miếng là xong. Không biết người mua đem về cúng kiếng hay đặt lên mâm thay thế cho cả buồng cau, ốp trầu trong đám cưới. Mọi thứ giờ tinh giản lắm rồi, đâu phải như ngày xưa nhà trai phải lựa buồng cau cho tròn, trái cau phải chẵn, phải đẹp, ốp trầu đặt trên mâm cũng phải là trầu vàng, lá nào lá nấy phải đều nhau..Chưa hết, khi mâm trầu cau đưa lên bàn thờ, cô dâu chú rễ còn chui vào trong màn tranh nhau hái cau, lấy trầu với ý nghĩ ai hái được trước sẽ cầm chịch trong gia đình. Đúng là vui hết biết luôn!

Chị bán hàng còn cho biết, có ngày chị chỉ bán được chục trái cau, vài lá trầu, chẳng nhiều nhặn gì, toàn khách quen thôi. Nghe mà nuối tiếc những ngày huy hoàng của trầu cau thuở nào. Lại nghĩ, giờ đã bước vào mùa xuân, mùa cưới xin rộn rả, không biết rồi có mấy người đến góc chợ này đặt những ốp trầu, buồng cau để trang trọng đặt lên mâm lễ cho cô dâu chú rễ chui vào màn tranh nhau hái cau, lấy trầu như ngày xưa? Dĩ nhiên, đời sống công nghiệp mà, "Đất lề, quê thói" đã ngày càng phai nhạt rồi! Và, những câu thơ như thế này có phải rồi sẽ bị lãng quên:

 

Nhà em có một giàn trầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

(Tương tư- Xuân Diệu)

 

Nguyễn Ngọc Tuyết

______________________________________________________

TL_Traucau_2.jpg
TL_traucau.jpg
VCB_Thay co LKHĐ.jpg

 

THẦY TÔI: GS LƯU KHÔN

CHS Vương Cao Biền

(Vừa được tin thầy Lưu Khôn mất, xin đăng lại bài viết mấy năm trước về thầy như một lời tưởng niệm và tri ân một Đại Lão sư phụ của trường Phan Thanh Giản và Đại Học Văn Khoa Cần Thơ)

Năm 1960 khi tôi vào học lớp đệ thất (L. 6) trường trung học Phan Thanh Giản, thầy Lưu Khôn là giám học của trường. Rồi hai năm tiếp theo, mỗi năm ít nhất hai lần, chúng tôi đều gặp thầy khi thầy tới từng lớp phát thưởng trạng (một cách gọi giấy khen thời đó) cho các học sinh có điểm cao từng môn sau mỗi kỳ thi đệ nhất, đệ nhị lục cá nguyệt (thi học kỳ I, II bây giờ). Thầy đi rất nhanh mà nói cũng nhanh nhưng vẫn dễ nghe (có lẽ vì thầy phải đi qua tất cả các lớp), thầy thường đi giày sandals, tác phong giản dị, đúng mực. Lúc có lễ lộc lớn, học sinh toàn trường tập trung, nhất là lúc khai giảng năm học, thầy Hiệu trưởng Nguyễn văn Kính thường giới thiệu các thành viên quan trọng trong ban giám đốc (Ban Giám Hiệu) nhà trường, và khi tới thầy giám học Lưu Khôn, thầy Kính thường nhấn mạnh “GS Lưu Khôn đã đậu Cử nhân và hiện nay ông sắp xong cao học, rồi sẽ học lên tiến sĩ ”. Thời đó, thầy nào có bằng cử nhân, là được coi như “siêu trí thức”, đằng này thầy Lưu Khôn đang học trên cả cử nhân , chúng tôi ngưỡng mộ vô cùng.
 

Rồi năm 1962 tôi chuyển vể trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho học suốt bốn năm, đến năm 1966 trở lại trường Phan học Đệ Nhứt (L. 12) thì được bạn bè cho biết thầy Lưu Khôn đã từng làm Hiệu Trưởng một thời gian (thay thầy Kính về hưu). Khi cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm xảy ra vào tháng 11/1963 thành công, thì khắp nước, SVHS sau khi tham gia biểu tình chống độc tài nhà Ngô, trở thành kiêu binh, hoan hô đả đảo loạn xà bần, không suy xét đúng sai, cứ lãnh đạo dưới trào cũ là bài xích, nói xấu, đòi hạ bệ. Thầy Lưu Khôn buồn bực xin từ chức, qua dạy đại học Sài Gòn. Thầy Phạm Văn Đàm thế thầy Khôn làm Hiệu Trưởng, lúc tôi trở lại học PTG năm 1966 thì Hiệu Trưởng là Thầy Đàm, sang năm 1967 thầy Đàm đổi về SG, bàn giao nhiệm vụ HT lại choThầy Nguyễn Trung Quân. Và cơ duyên tôi được học với thầy Lưu Khôn là lúc tôi vào Đại Học Văn Khoa Cần Thơ.


Ở Trung học tôi học ban B (Toán-Lý Hóa), nhưng bản thân tôi rất thích văn chương và ham đọc sách từ nhỏ. Vào Đại Học, vì nhà nghèo, em đông, tôi không thể mơ thành Luật sư, Bác Sĩ. Thôi thì:” Dưa leo chấm với cá kèo/ Cha mẹ anh nghèo mới học normale”.(normale là nói tắt của école normale tiếng Pháp nghĩa là trường Sư Phạm). Ở ĐH Cần Thơ lúc tôi học, ĐH SP chỉ có SP hai năm, đào tạo giáo sư Trung Học đệ nhất cấp( cấp 2), nếu muốn dạy Trung Học Đệ Nhị Cấp (cấp 3), phải học thêm khoảng hai năm và lấy được bằng Cử Nhân. Tôi đang phân vân không biết vào SP ngành nào: Toán, Việt Hán, Lý Hóa… thì một anh bạn cùng lớp rủ tôi thi vào SP ngành Anh Văn, thấy AV của mình cũng không tệ, tôi đồng ý. Cái nghề English Teacher của tôi khởi đi từ đó.


Năm thứ nhất ngoài những giờ học chuyên Anh Văn, chúng tôi phải học thêm một số môn như Văn, Sử, Địa. Các giờ học nầy rất vui vì lớp hơn trăm SV gồm các ban Anh Văn, Pháp Văn, Sử Địa, Viêt Hán học chung trên Đại Giảng Đường. Người thầy tôi nhớ mãi là Thầy Lưu Khôn, GS thỉnh giảng từ ĐH Văn Khoa Sài Gòn. Thầy hay gọi SV là “các bạn”, cũng có khi gọi là “anh ,chị”, thầy luôn mang kính vì mắt yếu, khi lên giảng đường nói thao thao bất tuyệt mà không cần nhìn bài soạn, vẫn nói nhanh nhưng dễ nghe như ngày xưa. Môn học thầy dạy tôi nhớ mang máng hình như là “Đọc và phân tích tác phẩm văn học “. Thầy dạy chúng tôi phân tích từng truyện trong tác phẩm Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân (Miền Nam không cấm đọc tác phâm nầy dù lúc đó NT là một nhà văn có vai vế ở Miền Bắc). Thầy yêu cầu mỗi nhóm SV phải thuyết trình một truyện trong VBMT. Nhóm AV chúng tôi được thầy chỉ định truyện Chữ Người Tử Tù. Tôi được các bạn cùng lớp đề cử thay mặt nhóm đứng ra thuyết trình. Sau thuyết trình sẽ có phần tranh luận với toàn thể SV các ban khác. Chúng tôi lập ra một ban thuyết trình của nhóm AV gồm bốn người: Tôi-Thuyết trình viên, Chủ Tọa là anh Võ Văn Sáu , Trương Thúy Lộc (hát hay như ca sĩ) làm xướng ngôn viên đọc minh họa các đoạn văn trích dẫn, Lưu Túy Nga (chữ đẹp) trình bày các sơ đồ lên bảng . Sau phần thuyết trình và tranh luận, chúng tôi chăm chú lắng nghe nhận xét của Thầy.


Thầy khen ngợi nhóm chúng tôi, khen ngợi sự phân tích sâu sắc tình bạn của viên quan coi ngục và Huấn Cao, khen ngợi sự nhanh trí và phối hợp nhịp nhàng của các thành viên ban thuyết trình trong phần tranh luận. Giữa lúc tôi đang đắc chí bay bổng với các góp ý của Thầy, thấy mình sao quá giỏi, thì Thầy phán một câu làm tôi trở về với mặt đất: Tôi có một điều muốn nhắc nhở các anh chị, nhất là TTV, đừng suy diễn quá xa. Anh quả quyết Huấn Cao là Cao Bá Quát, điều nầy không có gì chắc chắn cả. Có thể Nguyễn Tuân lấy hứng thú từ cuộc đời của CBQ để xây dựng nên hình tượng Huấn Cao, nhưng chúng ta chỉ cảm thấy như vậy chứ không hề có một chứng cứ cụ thể nào, trong phân tích và phê bình văn học không được suy diễn quá xa như vậy. Về nhà, đọc đi đọc lại CNTT tôi thấy lời thầy thật là chí lí. Tôi nghĩ Huấn Cao là Cao Bá Quát vì tôi quá ái mộ CBQ từ hồi học trung học. Cao Chu Thần với tài văn chương tuyệt thế được xưng tụng là “Thánh Quát”, với khí phách ngang tàng trong Tài Tử Đa Cùng Phú, với bi kịch cuộc đời ông, bị tru di tam tộc đã là một kẻ sĩ thần tượng của tôi từ lâu. Một ấn tượng, một thành kiến có sẳn trong đầu dễ làm lệch hướng nhận định chúng ta trong việc phê phán người khác. Bài học từ câu nói của Thầy Lưu Khôn theo tôi mãi tới ngày nay.


Gần sáu mươi năm nay, tôi không được gặp lại thầy, chỉ biết sau 30/4/1975 thầy vẫn tiếp tục dạy ĐHVK Sài gòn một thời gian, sau đó cả gia đình sang Mỹ sinh sống. Hiện nay thầy vẫn còn khỏe mạnh dầu đã hơn 90 tuổi . Lâu lâu thấy hình thầy qua internet trong các cuộc họp mặt cựu HS và GS Phan Thanh Giản – Đoàn Thị Điểm hải ngoại, điều vui mừng là thầy vẫn viết bài đều đặn về trường cũ cho các đặc san ĐTĐ-PTG. Rất mong Thầy và các thầy cô năm xưa khỏe mạnh mãi, như đại thụ tỏa bóng mát tinh thần cho các thế hệ đàn em nương tựa và noi theo.

 

Vương Cao Biền

Cần Thơ

P/S: Ngày 22/11/2025 tôi vừa được tin nhắn của anh Trần Bang Thạch báo tin thầy Lưu Khôn vừa mất tại San Jose CA , Nov 21 2025, thọ 95 tuổi.

Hình thầy Lưu Khôn (lúc 92 tuổi), hình sau là thầy và cô lúc cô còn sinh thời. (ảnh từ trang ptgdtd usa) 

bottom of page