top of page
hmpg.jpg
TL_blinkingsquareblock.gif
Titlej (1).jpg
NguyenThienLong_self.jpg

    THƠ VĂN

     Nguyễn Thiên Long

  Riverside, CA

_____

NgTHienLong_di giua ngan thu.jpg
NTLong_Hoanghaclau.jpg

         HOÀNG HẠC LÂU

( Thơ của Cụ PHAN THANH GIẢN - quan hàn lâm, thượng thư cơ mật viện, tổng tài soạn bộ Khâm Định Việt Sử. Năm 1834, làm sứ giả sang Trung Quốc, đã cảm tác khi viếng Lầu Hoàng Hạc nơi lừng danh văn học TQ)

LÊN LẦU HOÀNG HẠC

Cổ tích nghìn năm Hoàng Hạc bay,

Người Phương Nam viếng cảnh quan này.

Ngát hương Anh Vũ vờn xanh biếc,

Trắng Gác Tình Xuyên trùng trập mây.

Nửa Thái Dương chìm trôi suối Hán,

Nguyên dòng kim cổ lạnh lùng thay,

Triều sương khói sóng buồn vương mắt,

Man mác sầu mang một nỗi đầy !

Nguyễn Thiên Long

(Phỏng dịch "Đăng Hoàng Hạc Lâu" của Cụ Phan Thanh Giản, 1796-1867)

-------------------

登黃鶴樓 梁溪 潘清簡 (1796-1867)

昔時鶴已何年去?

千載人從南極臨。

鸚鵡洲前芳草綠,

晴川閣上白雲深。

半簾落日浮江漢,

一片寒流送古今。

滿目煙波轉惆悵,

悠悠塵夢拾秋心!

ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU

Tích thời hạc dĩ hà niên khứ ?

Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.

Anh vũ châu tiền phương thảo lục,

Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm.

Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,

Nhất phiến hàn lưu tống cổ kim .

Mãn mục yên ba chuyển trù trướng,

Du du trần mộng thập thu tâm !

Phan Thanh Giản, 1796-1867

(Hình trên mạng- Image from internet courtesy )

NgTHienLong_NKCantho.jpg
NgTHienlong_trangnghen.jpg

TRĂNG NGHẸN

Tháng Tư trăng nghẹn đành chia tay,

Thành quách chênh vênh rũ hạc gầy.

Nghẻn lối trăng về trào huyết lệ,

Hồn đau thăm thẳm đục trăng mây.

Trăng về nhắn nhủ người yêu quý,

Có kẻ lìa quê bất tái lai.

Tủi hận lòng trăng sầu ở lại,

Nghẹn ngào trăng úp mặt chân mây...!

Nguyễn Thiên Long

(Hình trên mạng - Image from internet courtesy)

NguyenThienLong_Rutinh.jpg

RU TÌNH

Hôm nào mở cửa mùa Thu,

Nắng hanh mây tụ non mù quyện nhau,

Lửa tình chớm trước duyên sau,

Chiều nào mang sáo qua cầu thang mây.

Hôm nào mở cửa Hạ say,

Sóng trùng dương dợn ngất ngây gió nồng,

Sầu ve phượng vỹ nát lòng,

Ngày nào biển gọi ru dòng tình thơ.

Hôm nào mở cửa Đông mơ,

Trăng non buốt giá soi mờ bóng xiêu,

Người đi lỗi tạ muôn chiều,

Ru tình tạ lỗi cô liêu một thời.

Hôm nào mở cửa Xuân tươi,

Ra đi là mất mộng đời xuân xanh,

Gởi người ở lại an lành!

Gởi người ở lại Mai lành nguyên hương !

Hôm nào người ghé bến thương,

Người mang cả một thiên đường đê mê,

Bên nhau rộn rã non thề,

Thời gian ngừng bặt biển thề dưới trăng !

Tình em vằng vặc trăng rằm,

Tình anh sầu rụng rơi nằm trong thơ,

Bên nhau hò hẹn tận giờ,

Tình ru thắm thiết cuối bờ yêu thương...!

NGUYỄN THIÊN LONG

TIỄN HẠ

Hạ đi cho khúc ve sầu,

Chia tay từ tạ năm sau quay về.

Biệt ly vó ngựa não nề,

Thu vàng diễm tuyệt chờ khoe muôn màu !

 

TRĂNG & EM

Trăng ghé hiên thềm dâng ý thơ,

Lung linh mộng bạc ủ sương mờ,

Tròn trăng lênh láng ấp thương nhớ,

Rót xuống hồn thơ những đợi chờ !

Em về phố ngập trăng mơ,

Cùng trăng thắm đẫm bên bờ nguyệt xa,

Chợt nghe lãnh lót giang hà,

Em, trăng cùng tấu nguyệt sa sững sờ...!

 

TÌNH GIĂNG

Rừng hoang dậy sắc giăng thu,

Mưa rơi bão tố mây mù giăng đông,

Tuyết giăng buốt giá xuân hồng,

Ve giăng nắng hạ rát lòng trò đau.

Sông xanh giăng mấy nhịp cầu,

Người em vịn nhịp qua cầu giăng mây,

Ngọc ngà măng búp giăng tay,

Bài thơ vành nón giăng đầy dáng quê.

Người đi như nước tràn đê,

Vía xiêu hồn lạc câu thề ruỗi rong,

Bốn mùa ai vẫn chờ mong,

Sóng lòng riêng cõi còn hong u tình!

NGUYỄN THIÊN LONG

___________________

BenNK_1.jpg

                   NINH-KIỀU

Về đâu lòng bỗng về đâu ?
Ninh-Kiều bến nước sông sầu em xa,
Qua sông ngoảnh lại trông phà,
Phà xa thăm thẳm anh xa ngút ngàn...
Vẳng đưa điệu lý quan san,
Chín-Rồng sông nhớ thương tràn Bình Minh.
Em về hong lại u tình,
Anh về chiu chắt cuộc tình ngày xưa ...


NGUYỄN THIÊN LONG

(kính tặng chị Ba - phu nhân gs N Đ Khai & hết bà con xứ Cần-Thơ)

NIỀM YÊU DẤU PHƯƠNG ĐÔNG

Chiều kia bàng hoàng phiêu dạt,
Xót xa lưu vong lưu đày,
Hàng cau cao vút trong đây,
Trong tim nhỏ giàn trầu xanh ngát.

Cố hương muôn trùng cách trở,
Khắc khoải ngóng mẹ già bơ vơ,
Giọng hò Cửu Long đơn thương rõ,
Ngàn dặm xa mà trĩu nhớ!

Ý Phương Đông vời vợi cao siêu,
Hồn Phương Đông tuyệt vời kỳ diệu,
Réo gọi mãi lòng người lữ khách,
Phương Đông là hoa xuân mỹ miều!

Em Cửu Long chờ rạng đông về,
Em Thăng Long chờ buổi phục hưng,
Em Ngũ Hành Sơn lung linh ngạo nghễ,
Em Hương Giang thiết tha tình huynh đệ!

Em còn u uất niềm hiu quạnh,
Tôi còn lắm nỗi long đong,
Dòng thời gian mãi miết cuốn mạnh,
Không buông cuồn cuộn sao đành......!

NGUYỄN THIÊN LONG

TÌNH GIĂNG

Rừng hoang dậy sắc giăng thu,
Mưa rơi bão tố mây mù giăng đông,
Tuyết giăng buốt giá xuân hồng,
Ve giăng nắng hạ rát lòng trò đau.
Sông xanh giăng mấy nhịp cầu,
Người em vịn nhịp qua cầu giăng mây,
Ngọc ngà măng búp giăng tay,
Bài thơ vành nón giăng đầy dáng quê.
Người đi như nước tràn đê,
Vía xiêu hồn lạc câu thề ruỗi rong,
Bốn mùa ai vẫn chờ mong,
Sóng lòng riêng cõi còn hong u tình!


NGUYỄN THIÊN LONG

                                NHỚ MẸ ĐỐT TRẦM                                                        HƯƠNG                                                                          TRONG LÒNG

                           

Khi có người bỗng dưng không tới lui,
Tôi buồn hay bởi thiếu một niềm vui,
Tĩnh hay mê giữa Đông qua Hạ tới ?
Tôi lăn lộn giữa đời hay chính tôi ?

Thấp thỏm chờ đợi mẹ đi chợ về,
Mẹ nóng lòng về trên đường làng quê,
Tôi sống xa quê nhà hay lưu vong ?
Nhớ mẹ đốt trầm hương ở trong lòng.

Trời mưa dầm ngày Thu Đông qua vội,
Hay vắng ngày dài nắng hạn lâu rồi,
Tôi tha thiết gồng gánh lấy cuộc đời ?
Hay tôi đang tha thiết với chính tôi !?


NGUYỄN THIÊN LONG
(viết khi nhớ Mẹ, và người bạn vị tu sỹ TT Thích Giác Thanh)

TL_Mecon_2.jpg
VCB_Thay co LKHĐ.jpg

 

THẦY TÔI: GS LƯU KHÔN

CHS Vương Cao Biền

(Vừa được tin thầy Lưu Khôn mất, xin đăng lại bài viết mấy năm trước về thầy như một lời tưởng niệm và tri ân một Đại Lão sư phụ của trường Phan Thanh Giản và Đại Học Văn Khoa Cần Thơ)

Năm 1960 khi tôi vào học lớp đệ thất (L. 6) trường trung học Phan Thanh Giản, thầy Lưu Khôn là giám học của trường. Rồi hai năm tiếp theo, mỗi năm ít nhất hai lần, chúng tôi đều gặp thầy khi thầy tới từng lớp phát thưởng trạng (một cách gọi giấy khen thời đó) cho các học sinh có điểm cao từng môn sau mỗi kỳ thi đệ nhất, đệ nhị lục cá nguyệt (thi học kỳ I, II bây giờ). Thầy đi rất nhanh mà nói cũng nhanh nhưng vẫn dễ nghe (có lẽ vì thầy phải đi qua tất cả các lớp), thầy thường đi giày sandals, tác phong giản dị, đúng mực. Lúc có lễ lộc lớn, học sinh toàn trường tập trung, nhất là lúc khai giảng năm học, thầy Hiệu trưởng Nguyễn văn Kính thường giới thiệu các thành viên quan trọng trong ban giám đốc (Ban Giám Hiệu) nhà trường, và khi tới thầy giám học Lưu Khôn, thầy Kính thường nhấn mạnh “GS Lưu Khôn đã đậu Cử nhân và hiện nay ông sắp xong cao học, rồi sẽ học lên tiến sĩ ”. Thời đó, thầy nào có bằng cử nhân, là được coi như “siêu trí thức”, đằng này thầy Lưu Khôn đang học trên cả cử nhân , chúng tôi ngưỡng mộ vô cùng.
 

Rồi năm 1962 tôi chuyển vể trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho học suốt bốn năm, đến năm 1966 trở lại trường Phan học Đệ Nhứt (L. 12) thì được bạn bè cho biết thầy Lưu Khôn đã từng làm Hiệu Trưởng một thời gian (thay thầy Kính về hưu). Khi cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm xảy ra vào tháng 11/1963 thành công, thì khắp nước, SVHS sau khi tham gia biểu tình chống độc tài nhà Ngô, trở thành kiêu binh, hoan hô đả đảo loạn xà bần, không suy xét đúng sai, cứ lãnh đạo dưới trào cũ là bài xích, nói xấu, đòi hạ bệ. Thầy Lưu Khôn buồn bực xin từ chức, qua dạy đại học Sài Gòn. Thầy Phạm Văn Đàm thế thầy Khôn làm Hiệu Trưởng, lúc tôi trở lại học PTG năm 1966 thì Hiệu Trưởng là Thầy Đàm, sang năm 1967 thầy Đàm đổi về SG, bàn giao nhiệm vụ HT lại choThầy Nguyễn Trung Quân. Và cơ duyên tôi được học với thầy Lưu Khôn là lúc tôi vào Đại Học Văn Khoa Cần Thơ.


Ở Trung học tôi học ban B (Toán-Lý Hóa), nhưng bản thân tôi rất thích văn chương và ham đọc sách từ nhỏ. Vào Đại Học, vì nhà nghèo, em đông, tôi không thể mơ thành Luật sư, Bác Sĩ. Thôi thì:” Dưa leo chấm với cá kèo/ Cha mẹ anh nghèo mới học normale”.(normale là nói tắt của école normale tiếng Pháp nghĩa là trường Sư Phạm). Ở ĐH Cần Thơ lúc tôi học, ĐH SP chỉ có SP hai năm, đào tạo giáo sư Trung Học đệ nhất cấp( cấp 2), nếu muốn dạy Trung Học Đệ Nhị Cấp (cấp 3), phải học thêm khoảng hai năm và lấy được bằng Cử Nhân. Tôi đang phân vân không biết vào SP ngành nào: Toán, Việt Hán, Lý Hóa… thì một anh bạn cùng lớp rủ tôi thi vào SP ngành Anh Văn, thấy AV của mình cũng không tệ, tôi đồng ý. Cái nghề English Teacher của tôi khởi đi từ đó.


Năm thứ nhất ngoài những giờ học chuyên Anh Văn, chúng tôi phải học thêm một số môn như Văn, Sử, Địa. Các giờ học nầy rất vui vì lớp hơn trăm SV gồm các ban Anh Văn, Pháp Văn, Sử Địa, Viêt Hán học chung trên Đại Giảng Đường. Người thầy tôi nhớ mãi là Thầy Lưu Khôn, GS thỉnh giảng từ ĐH Văn Khoa Sài Gòn. Thầy hay gọi SV là “các bạn”, cũng có khi gọi là “anh ,chị”, thầy luôn mang kính vì mắt yếu, khi lên giảng đường nói thao thao bất tuyệt mà không cần nhìn bài soạn, vẫn nói nhanh nhưng dễ nghe như ngày xưa. Môn học thầy dạy tôi nhớ mang máng hình như là “Đọc và phân tích tác phẩm văn học “. Thầy dạy chúng tôi phân tích từng truyện trong tác phẩm Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân (Miền Nam không cấm đọc tác phâm nầy dù lúc đó NT là một nhà văn có vai vế ở Miền Bắc). Thầy yêu cầu mỗi nhóm SV phải thuyết trình một truyện trong VBMT. Nhóm AV chúng tôi được thầy chỉ định truyện Chữ Người Tử Tù. Tôi được các bạn cùng lớp đề cử thay mặt nhóm đứng ra thuyết trình. Sau thuyết trình sẽ có phần tranh luận với toàn thể SV các ban khác. Chúng tôi lập ra một ban thuyết trình của nhóm AV gồm bốn người: Tôi-Thuyết trình viên, Chủ Tọa là anh Võ Văn Sáu , Trương Thúy Lộc (hát hay như ca sĩ) làm xướng ngôn viên đọc minh họa các đoạn văn trích dẫn, Lưu Túy Nga (chữ đẹp) trình bày các sơ đồ lên bảng . Sau phần thuyết trình và tranh luận, chúng tôi chăm chú lắng nghe nhận xét của Thầy.


Thầy khen ngợi nhóm chúng tôi, khen ngợi sự phân tích sâu sắc tình bạn của viên quan coi ngục và Huấn Cao, khen ngợi sự nhanh trí và phối hợp nhịp nhàng của các thành viên ban thuyết trình trong phần tranh luận. Giữa lúc tôi đang đắc chí bay bổng với các góp ý của Thầy, thấy mình sao quá giỏi, thì Thầy phán một câu làm tôi trở về với mặt đất: Tôi có một điều muốn nhắc nhở các anh chị, nhất là TTV, đừng suy diễn quá xa. Anh quả quyết Huấn Cao là Cao Bá Quát, điều nầy không có gì chắc chắn cả. Có thể Nguyễn Tuân lấy hứng thú từ cuộc đời của CBQ để xây dựng nên hình tượng Huấn Cao, nhưng chúng ta chỉ cảm thấy như vậy chứ không hề có một chứng cứ cụ thể nào, trong phân tích và phê bình văn học không được suy diễn quá xa như vậy. Về nhà, đọc đi đọc lại CNTT tôi thấy lời thầy thật là chí lí. Tôi nghĩ Huấn Cao là Cao Bá Quát vì tôi quá ái mộ CBQ từ hồi học trung học. Cao Chu Thần với tài văn chương tuyệt thế được xưng tụng là “Thánh Quát”, với khí phách ngang tàng trong Tài Tử Đa Cùng Phú, với bi kịch cuộc đời ông, bị tru di tam tộc đã là một kẻ sĩ thần tượng của tôi từ lâu. Một ấn tượng, một thành kiến có sẳn trong đầu dễ làm lệch hướng nhận định chúng ta trong việc phê phán người khác. Bài học từ câu nói của Thầy Lưu Khôn theo tôi mãi tới ngày nay.


Gần sáu mươi năm nay, tôi không được gặp lại thầy, chỉ biết sau 30/4/1975 thầy vẫn tiếp tục dạy ĐHVK Sài gòn một thời gian, sau đó cả gia đình sang Mỹ sinh sống. Hiện nay thầy vẫn còn khỏe mạnh dầu đã hơn 90 tuổi . Lâu lâu thấy hình thầy qua internet trong các cuộc họp mặt cựu HS và GS Phan Thanh Giản – Đoàn Thị Điểm hải ngoại, điều vui mừng là thầy vẫn viết bài đều đặn về trường cũ cho các đặc san ĐTĐ-PTG. Rất mong Thầy và các thầy cô năm xưa khỏe mạnh mãi, như đại thụ tỏa bóng mát tinh thần cho các thế hệ đàn em nương tựa và noi theo.

 

Vương Cao Biền

Cần Thơ

P/S: Ngày 22/11/2025 tôi vừa được tin nhắn của anh Trần Bang Thạch báo tin thầy Lưu Khôn vừa mất tại San Jose CA , Nov 21 2025, thọ 95 tuổi.

Hình thầy Lưu Khôn (lúc 92 tuổi), hình sau là thầy và cô lúc cô còn sinh thời. (ảnh từ trang ptgdtd usa) 

bottom of page