TRANG CHÍNH / HOME . BÀI MỚI ĐĂNG . SINH HOẠT HOUSTON, TX . ĐH XXIII-MARYLAND 2019 . ĐH XXII-SAN JOSE 2018 . ĐH XXI-HOUSTON 2017 . SINH HOẠT CANADA . SINH HOẠT ÚC CHÂU . CÁC ĐẶC SAN ĐH . SINH HOẠT BẮC - NAM CALI - SINH HOẠT VÙNG NEW ENGLAND - SINH HOẠT VIỆT NAM - TIN SINH HOẠT CÁC NƠI . GÓC SÂN TRƯỜNG NHÀ . VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT . VÒNG TAY NGHĨA TÌNH . CHIA BUỒN - CHUNG VUI . TÌM NGƯỜI - NHẮN TIN
GÓC
VIỆT CỔ THI
________________
ĐỖ CHIÊU ĐỨC
1. Bài thơ NGUYÊN NHẬT :
Lê Cảnh Tuân 黎景詢 (?-1416?) tên chữ là Tử Mưu, hiệu là Tỉnh Trai, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nguyên trước ở làng Lão Lạt phủ Thanh Hoá). Không rõ ông sinh năm nào. Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh vào năm Canh thìn (1400), dưới triều Hồ. Ông là danh sĩ dưới triều Hồ. Hiện chỉ còn lưu lại 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Dưới đây là bài Ngũ Ngôn tuyệt cú của ông làm khi Tết đến mà không dám về quê.
元日 Nguyên Nhật
旅館客仍在, Lữ quán khách nhưng tại,
去年春復來。 Khứ niên xuân phục lai.
歸期何日是? Quy kỳ hà nhật thị ?
老盡故園梅。 Lão tận cố viên mai!
黎景詢 Lê Cảnh Tuân
* Chú thích:
- Nguyên Nhật 元日 : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày Đầu Của Một Năm, như chữ Nguyên Đán Là TẾT NGUYÊN ĐÁN của ta đó.
- Nhưng 仍 : là Vẫn, Vẫn Cứ...
- Phục 復 : là Lại, là Trở lại.
- Quy Kỳ 歸期 : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
- Lão Tận 老盡 : là Già đến tận cùng, là Già khú, già chát, già khằng!
* Nghĩa Bài Thơ:
NGÀY ĐẦU NĂM
Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi!
Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến Tết về. Câu "去年春復來 Khứ niên xuân phục lai" Mùa xuân năm trước lại trở về đây, cho ta thấy ít nhất Lê Cảnh Tuân cũng đã hai năm không được về quê ăn Tết rồi. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành ở quê nhà chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm!
4. Diễn Nôm:
NGUYÊN NHẬT
Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !
Lục bát:
Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
2. Bài thơ SƠ XUÂN :
Nguyễn Tử Thành 阮子成 hiệu là Tùng Hiên, đời Trần. Quê quán, năm sinh, năm mất cùng sự nghiệp của ông đều chưa rõ, chỉ còn 11 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục 全越詩錄.Dưới đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông.
初春 SƠ XUÂN
臘梅開盡雪飄零, Lạp mai khai tận, tuyết phiêu linh,
老大情懷節物驚。 Lão đại tình hoài tiết vật kinh.
傍水人家楊柳嫩, Bàng thủy nhân gia dương liễu nộn,
寒天客院半陰晴。 Hàn thiên khách viện bán âm tình .
遊蜂摘蜜穿花去, Du phong trích mật xuyên hoa khứ,
野蝶偷香帶粉經。 Dã diệp thâu hương đới phấn kinh.
檢點名園供勝賞, Kiểm điểm danh viên cung thắng thưởng,
春花一樣百般生。 Xuân hoa nhất dạng bách ban sinh.
阮子成 Nguyễn Tử Thành
* Chú thích :
- SƠ XUÂN 初春 : Buổi ban sơ của mùa xuân; là ĐẦU XUÂN.
- Lạp Mai 臘梅 : LẠP là Tháng Chạp; Nên LẠP MAI là Loại mai nở vào tháng 12 âm lịch.
- Tiết Vật 節物 : Thời tiết và cảnh vật.
- Bàng Thủy 傍水 : Ở cạnh bờ nước; ở gần sông hồ.
- Bán Âm Tình 半陰晴 : là Nửa râm nửa nắng.
- Trích Mật 摘蜜 : là Hái mật, chỉ ong hút mật.
- Thâu Hương 偷香 : là Trộm hương, ở đây chỉ bướm hút phấn thơm của hoa.
- Danh Viên 名園 : là Những vườn hoa nổi tiếng.
* Nghĩa bài thơ :
ĐẦU XUÂN
Lạp mai trong tháng chạp đã nở cả rồi, tuyết chỉ còn rơi rải rác. Tâm tình của người già thấy thời tiết cảnh vật thay đổi mà phát kinh. Nhà ai bên bến nước dương liễu mới trổ xanh non, Trời còn lạnh nên phòng khách nửa râm nửa nắng. Những con ong bay lượn hút mật rồi bay xuyên qua những cánh hoa, và những con bướm hoang trộm hương hoa mang phấn bay đi. Kiểm điểm lại những vườn hoa nổi tiếng mà người ta thường tán thưởng thì thấy rằng : Hoa xuân nở ra trăm vẻ đều đẹp như nhau mà thôi. (Chớ không phải vườn nổi tiếng thì hoa nở mới đẹp, còn vườn bình thường thì hoa nở không đẹp !).
* Diễn Nôm :
ĐẦU XUÂN
Tuyết rơi mai nở báo xuân sang,
Cảnh vật đổi thay luống ngỡ ngàng.
Bến nước nhà ai xanh liễu mới,
Trời râm phòng khách nắng hoe vàng.
Ong vui hái mật đùa bay lượn,
Bướm hút nhuỵ hoa vội tách ngang.
Điểm hết vườn xuân bao thắng cảnh,
Hoa xuân trăm vẻ đẹp mơ màng.
Lục bát :
Tuyết rơi mai nở hết rồi,
Tuổi già thấy cảnh đổi dời mà kinh.
Nhà ai bến nước liễu xinh,
Nửa râm nửa nắng sân đình đìu hiu.
Ong bay hút mật dập dìu,
Bướm hoang lén trộm thật nhiều phấn hoa.
Vườn xuân nổi tiếng gần xa,
Hoa xuân trăm vẻ mặn mà như nhau.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. Bài thơ XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI :
Nguyễn Văn Siêu 阮文超 (1798-1872) tên khác là Định 定, tự Tốn Ban 遜班, hiệu Phương Đình 方亭 và Thọ Xương cư sĩ 壽昌居士, thuỵ Chí Đạo 志道, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Đỗ phó bảng năm 1838 đời vua Minh Mệnh. Ông là người cùng thời với Cao Bá Quát, hai người nổi tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là “thần Siêu thánh Quát”. Nguyễn Văn Siêu làm quan đến chức án sát, có sang sứ Trung Hoa. Sau đây là bài thơ tiêu biểu của ông trong ngày xuân.
春日曉起 XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI
宿火明書牖, Túc hỏa minh thư dũ,
曉鍾聞佛臺。 Hiểu chung văn Phật đài.
主人催被起, Chủ nhân thôi bị khởi,
小子報花開。 Tiểu tử báo hoa khai.
夜氣融孤竹, Dạ khí dung cô trúc,
晴光弄小梅。 Tình quang lộng tiểu mai.
流鶯囀不已, Lưu oanh chuyển bất dĩ,
應有故人來。 Ưng hữu cố nhân lai !
阮文超 Nguyễn Văn Siêu
* Chú Thích :
- Túc Hỏa 宿火: Đèn hoặc nến ban đêm để thắp sáng.
- Thư Dũ 書牖 : Cửa sổ bên bàn học.
- Hiểu Chung 曉鍾 : Chuông chùa công phu buổi sáng.
- Thôi Bị Khởi 催被起 : Đẩy cái mền ra ngồi dậy, ý chỉ thức giấc.
- Tiểu Tử 小子 : Ở đây không có nghĩa là CON NHỎ mà là Tiểu Đồng, Thư Đồng để đối với chữ CHỦ NHÂN ở trên.
- Dung 融 : là Hòa, Tan, lẫn vào.
- Tình Quang 晴光 : là Ánh Nắng sáng.
- Chuyển 囀 : Có bộ KHẨU 口 là Cái miệng bên trái, là (tiếng hót) Uyển Chuyển, véo von, líu lo.
- Ưng Hữu 應有 : Chắc có, Có thể có.
* Nghĩa Bài Thơ :
SÁNG XUÂN THỨC GIẤC
Đèn đêm còn chiếu sáng song cửa sổ, đã nghe tiếng chuông công phu buổi sáng ở Phật đài rồi. Chủ nhân vừa tung chăn thức giấc thì tiểu đồng đã báo cho biết là hoa sáng cũng đã nở rồi. (Mở cửa ra thì thấy) Hơi đêm còn như đang tan vào bụi trúc cô đơn trước ngõ và ánh nắng ban mai le lói như đang ghẹo cành mai nhỏ trước sân, tiếng chim oanh bay lượn không ngừng hót líu lo, như báo trước chắc là có bạn cũ đến chơi.
* Diễn Nôm :
XUÂN NHẬT HIỂU KHỞI
Đèn đêm còn soi song cửa,
Đã nghe chuông sớm ngân nga.
Chủ nhân tung chăn thức giấc,
Tiểu đồng báo sáng nở hoa.
Hơi đêm tan vào tre lạnh,
Nắng sớm ghẹo cội mai già.
Tiếng oanh líu lo không ngớt,
Chắc là bạn đến thăm ta !
Lục bát :
Đèn còn hắt sáng cửa song,
Phật đài đã vẳng chuông ngân đầu ngày.
Chủ nhân thức giấc vươn vai,
Thư đồng đã báo nở vài cành hoa.
Hơi đêm nhành trúc la đà,
Vài tia nắng sớm ghẹo hoa mai vàng.
Chim oanh ríu rít rộn ràng,
Chắc là có bạn thuận đàng ghé chơi !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
4. Bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN :
Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở nội các viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm tham chính ở Hải Dương, sau nữa được đặc cách giữ chức phó nguyên suý hội Tao Đàn. Tác phẩm còn lại: Lữ Đường Thi di cảo do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính Mô sưu tầm, biên soạn.
初春 SƠ XUÂN
三冬過了一春歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍暖東風放放吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.
冰雪凍痕鋪水面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
乾坤生意上林枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi.
柳還舊綠鶯猶靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
桃試新紅蝶未知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri.
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
蔡順 Thái Thuận
* CHÚ THÍCH :
- SƠ XUÂN 初春 : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
- TAM ĐÔNG 三冬 : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
- SẠ NOÃN 乍暖 : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên.
- NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
- SANH Ý 生意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
- THẢO TÂM 草心 : Nỗi lòng của tấc cỏ.
* NGHĨA BÀI THƠ :
CHỚM XUÂN
Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên :
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ "Tam đông" làm ta nhớ đến từ "Tam xuân" trong 2 câu trong bài "Du Tử Ngâm" của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
"Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
Ta thấy từ "Thảo Tâm Du Tử" : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dung ở câu cuối :
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi ! (Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ cuối của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
... mà Tản Đà đã dịch rất hay là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
* DIỄN NÔM :
CHỚM XUÂN
Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
Lục bát :
Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
5. Bài thơ XUÂN ĐÁN của CHU VĂN AN :
春旦 XUÂN ĐÁN
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉, Bích mê thảo sắc thiên như túy
紅濕花梢露未乾。 Hồngthấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫, Thân dữ cô vân trừơng luyến tụ
心同古井不生瀾。 Tâm đồng cổ tỉnh bất sanh lan.
柏薰半冷茶煙歇, Bách huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
朱文安 Chu Văn An
* Chú thích :
- Trấn Nhật 鎮日 : là Suốt cả ngày.
- Tà Ủng 斜擁 : TÀ là Nghiêng , là Xiên; ỦNG là Ôm; nên TÀ ỦNG là Ôm Nghiêng, chỉ cánh cửa tre (trúc phi) xiêu vẹo nghiêng nghiêng ôm lấy cửa rào.
- Bích Mê 碧迷 : là Xanh biêng biếc; BÍCH MÊ THẢO SẮC 碧迷草色 là màu cỏ xanh biêng biếc.
- Hồng Thấp Hoa Tiêu 紅濕花梢 : là Đỏ ướt cả đầu cành hoa, vì Sương Chưa Khô : LỘ VỊ CAN 露未乾.
- Tụ 岫 : Những cái hang trên đỉnh núi, thường có hơi bốc lên thành mây.
- Lan 瀾 : là những gợn sóng nhỏ; BẤT SANH LAN 不生瀾 Không còn gợn sóng.
- Bách Huân 柏薰 : Cây Bách cây thông dùng để đốt lửa hong cho ấm.
- Trà Yên 茶煙 : YÊN là Khói mà cũng có nghĩa là Thuốc hút nữa (thuốc Lào chẳng hạn); nên TRÀ YÊN là Trà và thuốc hút.
- Yết 歇 : là Nghỉ, là thôi, ở đây có nghĩa là Hết, là Cạn.
* Dịch Nghĩa :
Sáng Ngày Xuân
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
* DIỄN NÔM :
XUÂN ĐÁN
Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Lục bát :
Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Chúc mọi người đều có được một cái Tết BÌNH AN, NHƯ Ý !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
THƠ CỦA VUA THÀNH THÁI
Cần xem tiết mục nào
xin click vào Trang bài /
webpage trong MENU
dưới đây:
SINH HOẠT HOUSTON
TÁC GIẢ:
Vua Thành Thái 成泰 (1879-1954) tên thật là Nguyễn Phước Bửu Lân, là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1889 nhưng vì có khuynh hướng chống Pháp đô hộ nên bị truất phế năm 1907, đưa vào giam lỏng ở Vũng Tàu, đến năm 1916 thì bị đày qua đảo La Réunion (ở châu Phi) cùng một lần với vua Duy Tân. Mãi đến năm 1947, vua Thành Thái mới được về nước, nhưng chỉ được chính quyền thực dân cho phép sống tại Sài Gòn. Năm 1953, vua có ra thăm lại cố đô Huế, rồi mất vào năm sau.
Năm 1902 nhà Vua được Pháp mời đến Hà Nội dự lễ khánh thành cây cầu Paul Doumer (Long Biên), trong khi Hoàng Cao Khải đưa ra một danh sách xin nhà vua ban thưởng cho những người có công xây cầu, nhà vua đã cười nhạt mà trả lời rằng :"Ta có biết mặt mũi những đứa nào đâu". Vì nghe đâu xây cầu đã phải mộ hơn ba ngàn dân ta và nhiều người đã phải bỏ mạng khi xây dựng cây cầu đó, như bài vè lưu truyền trong dân gian :
Lập mưu xây được cây cầu,
Chế ra cái chụp để hầu bơm lên.
Bơm hết nước đến bùn đen,
Người chết như rạ, phải len mình vào.
Vỡ bơm nước lại chảy vào,
Chết thì mặc chết, ai nào biết không?!...
Cám cảnh trước dân tình cơ cực, chết chóc; Mình làm vua mà không nói được gì lại phải giả vui mà dự lễ khánh thành, nên nhà vua đã làm nên bài thơ VÔ ĐỀ dưới đây :
無題 VÔ ĐỀ
武武文文著錦袍, Võ võ văn văn chước cẩm bào,
朕為天子獨艱勞。 Trẫm vi thiên tử độc gian lao.
三杯紅酒群黎血, Tam bôi hồng tửu quần lê huyết,
一盞青茶百姓膏。 Nhất trản thanh trà bách tính cao.
民淚落何予淚落, Dân lệ lạc hà dư lệ lạc,
歌聲高也哭聲高。 Ca thanh cao dã khốc thanh cao.
休談此潰干戈靜, Hưu đàm thử hội can qua tịnh,
禍福將來付爾曹。 Họa phước tương lai phó nhĩ tào !
成泰 Thành Thái
阮福寶嶙 Nguyễn Phúc Bửu Lân
* Chú thích :
- Gian Lao 艱勞 : là Gian nan lao nhọc; ở đây nhà vua mượn để chỉ cái tâm lý, tâm tình của mình lúc bấy giờ. GIAN LAO về mặt tinh thần chớ không phải thể chất.
- Quần Lê 群黎 : là Quần chúng Lê dân, chỉ chung tất cả những người dân bình thường trong nước.
- Bách Tính 百姓 : là Bá tánh, là Trăm họ, cũng chỉ chung tất cả nhân dân trong nước.
- Cao 膏 : Trái cây thực vật hay xương cốt động vật đổ nước nấu cho sắt lại thành nhựa, đó là chất CAO, như CAO HỔ CỐT là chất nhựa, thuốc dán được nấu bằng xương cọp... Ở đây BÁCH TÍNH CAO 百姓膏 : là chất nhựa được nấu thành bởi xương cốt của bá tánhl Ý chỉ : Đó là huyết lệ xương máu của nhân dân.
- Hưu Đàm 休談 : là Nghỉ nói, Thôi nói, không nói nữa; là Đừng bảo là...
- Hội 潰 : Có 3 chấm thuỷ 氵bên trái, nên có nghĩa là : Vỡ (đê), là Tan vỡ, nghĩa phát sinh là : Thua trận, là Bỏ chạy, là Dân bỏ người cai trị trốn đi...
- Can Qua 干戈 : CAN là cái mộc để đở; QUA là ngọn giáo để đâm. Nên CAN QUA là Vũ khí dùng để đánh nhau, nghĩa phát sinh là Chiến tranh.
- Nhĩ Tào 爾曹 : NHĨ là Danh xưng Đại từ Ngôi thứ 2; NHĨ TÀO là số nhiều, có nghĩa : Lũ chúng bây, các ngươi, các người. Ở đây chỉ các quan trong triều.
* Nghĩa Bài thơ :
VÔ ĐỀ
- Tất cả quan văn quan võ đều xôn xao mặc áo gấm để dự lễ hội.
- Riêng mình Trẫm là thiên tử đây cảm thấy xốn xang trong lòng.
- Ba ly rượu đỏ (rượu Chát hay rượu Vang) như là máu của quần chúng lê dân.
- Một chén trà xanh như được sắt từ cao cốt của bách tính trăm họ.
- Dân rơi lệ nhưng sao lệ của ta cũng rơi theo,
- Tiếng hát (chúc mừng) cất cao thì tiếng khóc (của dân) cũng cất cao.
- Đừng bảo là sau lần thua trận bỏ chạy nầy can qua sẽ lặng yên...
- Cái họa phước về sau trong tương lai sẽ phó thác trông nhờ vào lũ các ngươi đó !
Sanh năm 1879, lên ngôi năm 1889, lúc mới chỉ có 10 tuổi. Khi dự lễ khánh thành cầu Paul Doumer năm 1902, nhà vua mới chỉ có 23 tuổi đời, còn rất trẻ, nhưng đã có khẩu khí của một đấng minh quân thương nước thương dân. Gian nan khổ hận vì lực bất tòng tâm, có lòng vì dân vì nước nhưng lại không có thực quyền. Đến nỗi thấy cảnh dân tình lao khổ làm thơ cảm thán cũng phải để là VÔ ĐỀ (Sao lại "Vô Đề" ? Chủ đề chẳng đã hiện rõ ràng từng câu từng chữ trong nội dung bài thơ rồi hay sao ?!). Mứng lễ khánh thành cây cầu đã giết hại biết bao con dân của mình, nên chi nhà vua thấy rượu nho màu đỏ như là màu máu của dân đã đổ ra; và chén trà màu xanh như là cao cốt của bá tánh lê dân đã thiệt mạng. Lệ của dân rơi khiến cho lệ của nhà vua cũng rơi theo, và tiếng hát chúc mừng càng cất cao thì tiếng khóc của con dân cũng vút theo lên cao. Đừng bảo rằng sau trận can qua chết chóc nầy rồi sẽ yên đâu, vì tương lai họa phúc biết đâu mà lường, tất cả chỉ còn trông chờ vào lũ các ngươi (là những quan văn quan võ áo mão sum suê kia, chớ ta là thiên tử nhưng lại chẳng có thực quyền gì cả !)
Đau xót thay cho nhà vua trẻ có lòng vì nước vì dân nhưng đành phải bó tay ! Nhưng nhà vua vẫn không "yên thân" được với Thực dân Pháp, vì họ cũng rất tinh ý, nên chỉ 5 năm sau, 1907 nhà vua trẻ đã bị truất phế và bị đày vào Cap Saint Jacques (Vũng Tàu ngày nay) để ngồi chơi xơi nước. Đến năm 1916 ông bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.
* Diễn Nôm :
VÔ ĐỀ
Văn võ bá quan mặc cẩm bào,
Mình ta thiên tử chịu gian lao.
Rượu hồng tựa thể muôn dân huyết,
Trà đậm trông như bá tánh cao.
Dân lệ ướt mi ta cũng ướt,
Tiếng ca cao vút khóc càng cao.
Thôi đừng vọng tưởng can qua hết,
Họa phước về sau mặc chúng nào !
Lục bát :
Văn văn võ võ cẩm bào,
Thân là thiên tử nghẹn ngào riêng ta.
Rượu vang máu của dân mà...
Trà xanh tựa thể như là cao dân.
Lệ rơi ta cũng như dân,
Tiếng ca như tiếng khóc ngân vút trời.
Can qua đừng tưởng yên rồi,
Tương lai họa phước trông vời các quan !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Trong khoảng thời gian bị an trí ở Cấp (Cap Saint Jacques), buồn vì lực bất tòng tâm không thể làm được gì cho non sông đất nước của mình . Trước cảnh trời nước mênh mông vẳng lại tiếng súng xa xa của quân Pháp, nhà vua đã cám cảnh mà làm nên bài thơ SẦU TÂY BỂ CẤP như sau :
Sống thừa nào biết có hôm nay,
Nhìn thấy non sông đất nước này.
Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ,
Ruột tằm đòi đoạn mối sầu tây.
Thanh xuân nghìn dặm mây mù mịt,
Bể Cấp tư bề sóng bủa vây.
Tiếng súng ngày đêm như khúc nhạc,
Dầu cho sắt đá cũng chau mày.
Dưới đây là một bài thơ rất nổi tiếng và chứa đầy tâm huyết của nhà vua đối với hiện tình của đất nước, bài THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ sau đây :
昇龍城懷古 THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
幾度桑滄幾度驚, Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh,
一番回首一番情。 Nhất phiên hồi thủ nhất phiên tình.
牛湖已變三朝局, Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục,
虎洞空餘百戰城。 Hổ động không dư bách chiến thành.
儂嶺浮雲今古色, Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc,
珥河流水泣歌聲。 Nhị hà lưu thủy khấp ca thanh.
擒胡奪槊人何在? Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại?
誰為江山洗不平? Thùy vị giang sơn tẩy bất bình?
成泰皇帝 Thành Thái Hoàng Đế
阮福寶嶙 Nguyễn Phúc Bửu Lân
* Chú thích :
- Ngưu Hồ Hổ Động 牛湖虎洞 : tức KIM NGƯU HỒ 金牛湖 là Hồ Trâu Vàng và BẠCH HỔ ĐỘNG 白虎洞 là Hang Cọp Trắng. Hai truyền thuyết về tiền thân của Hồ Tây. Trong Tụng Tây Hồ Phú 頌西湖賦 (bài phú ca tụng Tây Hồ) của Chương lĩnh hầu Nguyễn Hữu Lượng đọc trong lễ tế trời đất của vua Quang Toản năm 1801, có nhắc lại gốc tích Hồ Tây theo các truyền thuyết kể trên:
Lạ thay cảnh Tây hồ!
Lạ thay cảnh Tây hồ!
Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi,
Nghe rằng đây đá mọc một gò.
Trước Bạch Hổ vào ở đó làm hang,
Long vương trổ nên vùng đại trạch.
Sau Kim Ngưu lại vào đây hóa vực,
Cao vương đào chặn mạch hoàng đô...
- Nùng Lĩnh Nhị Hà 儂嶺珥河 : là Núi Nùng, Danh sơn chính khí của đất Thăng Long, và Sông Nhị tức Sông Hồng hiện nay. Đây là hai biểu tượng NÚI SÔNG của đất Thăng Long xưa.
- Cầm Hồ Đoạt Sáo 擒胡奪槊 : Bắt giặc Hồ (HỒ 胡 : là Rợ Hồ, giặc từ miền bắc tràn xuống quấy nhiễu Trung Hoa. Ta mượn từ Hồ nầy để gọi chung các triều đại phương bắc tràn xuống xâm lược nước ta). Đoạt Sáo là cướp cây giáo của giặc. Câu thơ nầy lấy ý ở bài thơ "Tùng Giá Hoàn Kinh 從駕還京" của Trần Quang Khải với hai câu đầu là :
奪槊章陽渡, Đoạt sáo Chương Dương Độ,
擒胡咸子關。 Cầm Hồ Hàm Tử Quan.
* Nghĩa bài thơ :
Thăng Long Thành Hoài Cổ
Mấy lần tang thương biến đổi là mấy lần phải chịu cảnh kinh hoàng, nên mỗi lần quay đầu nhìn lại là mỗi lần lại xúc động tâm tình. Hồ Kim Ngưu đã trải qua thời cuộc của ba triều đại (Lý Trần Lê); Động Bạch Hổ cũng chỉ còn lại một cổ thành đã trải qua hàng trăm trận chiến. Trên đĩnh núi Nùng của đất Thăng Long mây còn vương màu chính khí của xưa nay; Tiếng nước chảy của sông Nhị Hà như tiếng ca tiếng khóc râm rang. Nào những ai "Cầm Hồ Hàm Tử, Đoạt sáo Chương Dương" nay ở nơi đâu ? Ai sẽ vì giang san nầy mà tẩy rửa đi sự bất bình ẩn ức ?!
Hai câu cuối như là lời hiệu triệu gián tiếp, vừa nhắc lại lịch sử hào hùng của dân tộc vừa thức tỉnh và kêu gọi những ai còn nặng lòng vì nước hãy đứng lên để rửa sạch những nỗi bất bình của dân tộc phải cam chịu bấy lâu nay.
* Diễn Nôm :
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Mấy lượt tang thương mấy hiễm kinh,
Mấy phen nhìn lại biết bao tình.
Kim Ngưu từng trải ba triều đại,
Bạch Hổ còn trơ một mảnh thành.
Nùng lĩnh mây lành kim cổ tựa,
Nhị Hà sông réo khóc ca thanh.
Cầm Hồ đoạt sáo người đâu tá ?
Ai giúp giang san rửa bất bình ?!
Lục bát :
Tang thương kinh hiễm bao lần,
Quay đầu nhìn lại bội phần xót xa.
Trâu vàng ba lượt triều ca,
Bạch hổ trăm trận trải qua một thành.
Cổ kim mây phủ đĩnh Nùng,
Nhị Hà ca khóc theo dòng nước trôi.
Cầm Hồ đoạt sáo qua rồi,
Bất bình non nước ai người rửa cho ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Bài thơ THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ 昇龍城懷古 nầy còn có một dị bản nữa, (theo Nguồn : Trương Chính, Đinh Xuân Lâm, "Ba bài thơ chữ Hán về Hà Nội," Tạp chí Hán Nôm, số tháng 1/1992) là của Phan Trọng Mưu 潘仲謀 (1853-1904) quê làng Đông Thái (nay là xã Châu Phong), huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đậu tiến sĩ năm 1879. Bài thơ có nội dung như sau đây :
昇龍城懷古 THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
此地繁華幾度經, Thử địa phồn hoa kỷ độ kinh,
年年回首不勝情。 Niên niên hồi thủ bất thăng tình.
牛湖已變三朝局, Ngưu hồ dĩ biến tam triều cục,
龍肚空餘百戰城。 Long đỗ không dư bách chiến thành.
濃嶺浮雲今古色, Nùng lĩnh phù vân kim cổ sắc,
珥河流水泣歌聲。 Nhị hà lưu thủy khấp ca thanh.
擒胡奪槊人何在, Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà tại ?
應為江山洗不平。 Ưng vị giang sơn tẩy bất bình.
潘仲謀 Phan Trọng Mưu
* Chú thích :
- Ngưu Hồ 牛湖 : là Hồ Trâu (tức Hồ Tây) gắn liền với truyền thuyết con trâu vàng tìm mẹ.
- Long Đỗ 龍肚 : là Bụng rồng. là cái Rốn của con Rồng, theo thuyết phong thủy xưa, thành Thăng Long được xây ngay vào rốn của một con rồng.
* Nghĩa bài thơ :
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Mảnh đất nầy đã trải qua mấy độ phồn hoa rồi, nên mỗi năm quay đầu nhìn lại không khỏi xúc động tâm tình. Hồ Kim ngưu cũng đã biến đổi qua ba triều đại, và giữa cái rốn rồng chỉ còn trơ lại một mảnh thành đã trải qua hàng trăm trận chiến. Trên đĩnh núi Nùng của đất Thăng Long mây còn vương màu chính khí của xưa nay; Tiếng nước chảy của sông Nhị Hà như tiếng ca tiếng khóc râm rang. Những người "Cầm Hồ Hàm Tử, Đoạt sáo Chương Dương" nay ở nơi đâu ? Phải biết vì giang san nầy mà rửa đi nỗi bất bình.
Bài thơ nầy đã được Trương Chính và Đinh Xuân Lâm diễn Nôm rất sát nghĩa và rất hay như sau đây :
Chốn này trải mấy độ phồn hoa,
Càng gẫm càng thêm nỗi xót xa.
Long Đỗ thành trơ trăm trận đánh,
Ngưu Hồ sóng vỗ mấy triều qua.
Núi Nùng mây vẽ mầu kim cổ,
Sông Nhị dòng trôi tiếng khóc ca.
Cướp giáo bắt thù ai đó tá?
Nên vì non nước tuốt gươm ra!
So với bài thơ của vua Thành Thái thì khác nhau ở các câu 1, 2, 4 và 8, nhưng tựu trung thì ý nghĩa nội dung của bài thơ cũng như nhau. Rốt cuộc, bài thơ nầy là của ai, còn chờ các học giả, sử gia, nhà nghiên cứu soi sáng sau nầy. Trên "thivien.net" thì có cả hai bài của vua Thành Thái và của Phan Trọng Mưu, nhưng chưa có sự so sánh nhận xét nào cả.
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Ghi lại
_____________________
Góc Việt Cổ Thi
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (7)
31. Bài thơ LỴ NHÂN THỔ NỮ :
蒞仁土女 Lỵ Nhân Thổ Nữ
高塘春近雨風寒, Cao đường xuân cận vũ phong hàn,
秦女燕姬笑語歡。 Tần nữ Yên cơ tiếu ngữ hoan,
溪上千紅芳思暖, Khê thượng thiên hồng phương tứ noãn,
遊蜂無意不相干。 Du phong vô ý bất tương can !
* Chú thích :
- Lỵ Nhân Thổ Nữ 蒞仁土女 : THỔ NỮ chỉ những người con gái ở một địa phương nào đó (cũng như THỔ SẢN 土產 chỉ Sản phẩm hay hàng hóa của riêng một nơi nào đó). Nên LỴ NHÂN THỔ NỮ chỉ những người con gái của đất Lỵ Nhân (LỴ NHÂN là huyện Lý Nhân, Hà Nam hiện nay).
- Cao Đường 高塘 : là Trên bờ đê cao cao.
- Tần Nữ Yên Cơ 秦女燕姬 : Chỉ các cô gái đẹp, lấy ý theo 4 câu cuối trong bài thơ "Cổ Ca 古歌" của Thẩm Thuyên Kỳ 沈佺期 đời Đường là :
燕姬綵帳芙蓉色, Yên cơ thái trướng phù dung sắc,
秦女金爐蘭麝香; Tần nữ kim lô lan xạ hương;
北斗七星橫夜半, Bắc đẩu thất tinh hoành dạ bán,
清歌一曲斷人腸. Thanh ca nhất khúc đoạn nhân trường.
Có nghĩa :
Tấm màn có hoa văn của cô gái nước Yên màu hoa phù dung, Chiếc lò vàng của cô gái nước Tần có mùi hương lan, xạ; Bảy ngôi của chòm sao Bắc Đẩu lúc nửa đêm đã nằm vắt ngang bầu trời. Một tiếng ca trong trẻo vút lên cao khiến người nghe như đứt từng khúc ruột.
- Khê Thượng 溪上 : Trên bờ khe suối.
- Phương Tứ Noãn 芳思暖 : Cái vẻ xuân thơm tho nồng ấm.
- Du Phong 遊蜂 : Chỉ Những con ong bay lượn nhởn nhơ.
- Bất Tương Can 不相干 : Không liên quan gì đến cả. Không màng đến.
* Nghĩa bài thơ :
Các Cô Gái Đất Lỵ Nhân
Mặc dù đã gần đến mùa xuân, nhưng trên bờ đê cao cao gió mưa xuân vẫn còn lành lạnh. Các cô gái đẹp như những Tần nữ Yên cơ đang cười nói vui vẻ. Trên khe suối muôn hồng ngàn tía tỏa ra cái dáng xuân thơm tho nồng ấm. Nhưng các con ong cứ bay nhởn nhơ như chẳng thèm chú ý gì đến cả !
* Diễn Nôm :
LỴ NHÂN THỔ NỮ
Đê cao lành lạnh gió mưa xuân,
Tần nữ Yên cơ cười nói rân,
Khe suối muôn hồng ngàn tía ngát,
Ong kia bay lượn cứ như không !
Lục bát :
Chớm xuân mưa lạnh đê cao,
Yên cơ Tần nữ lao xao nói cười.
Hoa thơm khe suối khoe tươi,
Nhởn nhơ ong nọ vui chơi chẳng màng !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
32. Bài thơ MẶC :
墨 MẶC
祖父惟從易水津, Tổ phụ duy tòng Dịch thủy tân,
詞場贊劃掃千軍。 Từ trường tán hoạch tảo thiên quân.
可憐萬杵魚胞熟, Khả lân vạn chử ngư bào thục,
仰見經天緯地文。 Ngưỡng kiến kinh thiên vĩ địa văn.
* Chú thích :
- MẶC 墨 : là Thỏi mực Tàu; Mực của ngày xưa dùng để viết bút lông.
- Câu đầu TỔ PHỤ 祖父là Ông Nội, ý chỉ Tổ Tiên; DUY TÒNG 惟從 là Chỉ đi theo; DỊCH THỦY TÂN 易水津 : là Bến sông Dịch; nên câu đầu có nghĩa : Tổ tiên của mực chỉ theo hai bên bờ của dòng sông Dịch mà truyền đi... Vì, một dãy của Thái Hành Sơn quanh bờ sông Dịch sản xuất loại thông ba lá cho nhựa và khói thật đen, thật mịn, thật bóng để làm thành những thỏi mực Tàu ngày xưa.
- Tán Hoạch 贊劃 : Tán đồng giúp đỡ cho các trù hoạch tính toán.
- Vạn Chữ Ngư Bào Thục 萬杵魚胞熟 : CHỮ là Cái chày giã; NGƯ BÀO là Bong bóng cá (có nhiều chất nhựa); THỤC 熟 " là Chín, là nhuyễn. Nên VẠN CHỮ NGƯ BÀO THỤC có nghĩa : Giả một muôn lần cho bóng bóng cá nhuyễn ra (đễ làm chất nhựa pha vào mực). Theo như thơ của Khất Triết Đốc 契哲篤 đời Nguyên :
魚胞萬杵成玄玉, NGƯ BÀO VẠN CHỮ thành huyền ngọc,
應是柯仙得妙傳。 Ưng thị Kha tiên đắc diệu truyền.
Có nghĩa :
Giã muôn lần cho bong bóng cá nhuyễn ra thành ngọc đen,
Đó là do Kha Tiên truyền cho bí kíp kỳ diệu đó.
- Kinh Thiên Vĩ Địa 經天緯地 : KINH là Kinh tuyến, là đường dọc; VĨ là Vĩ Tuyến, là đường ngang; cho nên KINH THIÊN VĨ ĐỊA là Trời dọc đất ngang, như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói :
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc !
* Nghĩa bài thơ :
MỰC
Tổ tiên (của MỰC) vốn dĩ được truyền dọc theo bờ sông Dịch (trong dãy núi Thái Hành Sơn). Đã giúp đỡ cho các văn thơ thêm sức mạnh có thể quét sạch trăm ngàn quân lính. Khá thương thay phải trải qua muôn ngàn lần chày giã bóng cá cho nhuyễn (để hòa vào mực), nên mới có được những áng văn dọc ngang trời đất để cho người đời ngưỡng mộ !
* Diễn Nôm :
MẶC
Dịch Thủy tổ tiên dọc bến sông,
Giúp văn từ mạnh quét ngàn quân.
Khá thương chày giã muôn muôn lượt,
Mới được dọc ngang trời đất văn !
Lục bát :
Tổ tiên sông Dịch theo bờ,
Quét ngàn quân địch văn nhờ vào đây.
Muôn lần chày giã thương thay,
Dọc ngang trời đấy văn bài từ ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
33. Bài thơ NGUYỆT HẠ TÚY ẨM:
月下醉飲 NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
皎皎懸天頭戴一, Hạo hạo huyền thiên đầu đới nhất,
翻翻伴我影成三。 Phiên phiên bạn ngã ảnh thành tam.
攻腸濁酒無刀箭, Công trường trọc tửu vô đao tiễn,
聒耳煩心士不堪。 Quát nhĩ phiền tâm sỹ bất kham.
* Chú thích :
- Nguyệt Hạ Túy Ẩm 月下醉飲 : Uống say dưới trăng là Dưới ánh trăng uống đến say sưa.
- Hạo Hạo 皎皎 : Sáng vằng vặc.
- Huyền Thiên 懸天 : là Treo lơ lửng trên trời.
- Phiên phiên 翻翻 : là Chập chờn, chấp chới.
- Trọc Tửu 濁酒 : Không phải là rượu dơ, mà là rượu chưa được lọc kỹ.
- Quát Nhĩ Phiên Tâm 聒耳煩心 : Tai ù tim rối; Tai thì lù ù, tim thì đập loạn xạ; ý chỉ không còn tỉnh táo minh mẫn nữa.
- Sĩ Bất Kham 士不堪 : là Không kham nổi là kẻ sĩ nữa; tức là không còn giữ được bản chất của kẻ sĩ nữa.
* Nghĩa bài thơ :
UỐNG SAY DƯỚI TRĂNG
Một vầng sáng vằng vặc treo lơ lửng trên đầu là một; Chập chờn bên cạnh là bóng của ta nữa là ba. Công phá ruột gan cái thứ đồ rượu cặn nầy không cần dùng đến cung đao, mà cũng làm cho kẻ sĩ đầu choáng mắt hoa tai ù tim loạn không ra thể thống gì cả !
Đọc bài thơ nầy của ông vua làm cho ta nhớ lại 2 câu trong bài Nguyệt Hạ Độc Chước 月下獨酌 (Chuốc rượu một mình dưới trăng) của Thi Tiên Lý Bạch 李白 :
舉杯邀明月, Cử bôi yêu minh nguyệt,
對影成三人。 Đối ảnh thành tam nhân.
Có nghĩa :
Nâng ly mời trăng sáng,
Đối bóng nữa ba người !
Nhưng, Thi Tiên nói lên sự hào sảng phóng khoáng của đệ tử Lưu Linh, uống rượu một mình rồi mời trăng mời bóng, nên cũng vui vẻ và thoải mái như thường; Còn ông vua của ta có ý chê trách kẻ sĩ uống rượu vào sẽ mất tư cách vì tai ù tim loạn, đầu choáng mắt hoa nên trông gà hóa cuốc, thấy trăng thấy bóng như chập chờn lởn vởn bên mình !
* Diễn Nôm :
NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
Một vầng vằng vặc đỉnh đầu ta,
Lởn vởn quanh mình bóng nữa ba.
Rượu phá ruột gan không giáo mác,
Tai ù kẻ sĩ mắt thì hoa !
Lục bát :
Đỉnh đầu vằng vặc một vầng,
Chập chờn bóng của riêng mình nữa ba.
Rượu công gan ruột xót xa,
Bất kham kẻ sĩ mắt hoa tai ù !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
34. Bài thơ NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG:
御制題綠雲洞 NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
綠雲深洞碧巑岏, Lục vân thâm động bích toàn ngoan,
名利塵消宇宙寬。 Danh lợi trần tiêu vũ trụ khoan.
夕照溪山花掩暎, Tịch chiếu khê sơn hoa yểm ánh,
春開楊柳鳥間關。 Xuân khai dương liễu điểu gian quan.
清泉洗耳猿心靜, Thanh tuyền tẩy nhĩ viên tâm tĩnh,
幽室懸燈鹿夢寒。 U thất huyền đăng lộc mộng hàn.
無相虛靈機事少, Vô tướng hư linh cơ sự thiểu,
壼天日月不勝閒。 Hồ thiên nhật nguyệt bất thăng nhàn.
* Chú thích :
- NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG 御制題綠雲洞 : Thơ của vua đề Lục Vân động. LỤC VÂN ĐỘNG là Động có mây màu xanh lục (có thể do có nhiều cây cỏ). Bài thơ này được khắc trên vách núi tại xã Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá. Lạc khoản đề “Hữu Thiên Nam hoàng đế đề; Hồng Đức kỷ nguyên chi nhị thập ngũ xuân tam nguyệt cát nhật; Trung thư giám Trung thư Xá nhân Nguyễn Công Trực phụng thư; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo phụng tuyên” 右天南皇帝題,洪德紀元之二十五春三月吉日,中書監中書舍人阮公直奉書,御用監山書局正范寶奉鐫 (Thiên Nam hoàng đế đề; Ngày lành tháng 3 năm Hồng Đức 25 (1494); Trung thư giám Trung thư xá thân Nguyễn Công Trực vâng mệnh viết chữ; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo vâng mệnh khắc).
- Toàn Ngoan 巑岏 : Núi nhọn cao chót vót; lẽ ra phải đọc là "Tán Hoàn", âm Quan Thoại là [cuánwán], cũng có thể đọc là "Toản Ngoan"; đọc là TOÀN NGOAN để cho ăn Luật và ăn Vận mà thôi.
- Trần Tiêu 塵消 : Tiêu tan như bụi bặm.
- Yễm Ánh 掩暎 : Chấp chới ẩn hiện.
- Gian Quan 間關 : Líu lo, oang oác (tiếng chim hót).
- Viên Tâm 猿心 : Lòng của con vượn. Thiền gia ví cái tâm của con người hay động loạn như tâm con vượn hay nhảy nhót lung tung.
- Lộc Mộng 鹿夢 : Giấc mộng đuổi bắt con nai, là giấc mộng tranh danh đoạt lợi. Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, gọi là "Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原", vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc. Các lộ anh hùng nổi lên lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng Lưu Bang dành được thiên hạ, lập nên nhà Hán kéo dài hơn bốn trăm năm.
* Nghĩa bài thơ :
Thơ Đề LỤC VÂN ĐỘNG của Nhà Vua
Động Lục Vân sâu thăm thẳm trên vách núi cao dựng đứng màu xanh biếc. Trước cảnh vũ trụ bao la thì lòng danh lợi cũng tiêu pha như bụi trần. Ánh nắng chiều chiếu trên hoa lá bên khe núi chập chờn như ẩn như hiện; Mùa xuân đã ngự đến trên cành dương liễu đang rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Tiếng suối nước trong như rửa sạch tai làm cho lòng thích động loạn nhảy nhót như con vượn cũng phải yên ắng lại. Trong căn phòng thâm u với ngọn đèn treo khi mờ khi tỏ cũng làm cho nguội lạnh đi cái lòng hám danh lợi quyền uy "trục lộc Trung nguyên". Không còn sắc tướng, chỉ có hư linh nên những huyền cơ cũng ít đi (Ý nói không còn gì để ham muốn theo đuổi, chỉ là hư không nên ít phiền toái). Như mặt trăng mặt trời trong một cái bầu riêng biệt (Ý nói có riêng một góc trời) nên cảm thấy rất là nhàn tản.
* Diễn Nôm :
NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
Thẳm thẳm Lục Vân mờ núi biếc,
Lợi danh như bụi vút trời cao.
Nắng chiều khe núi hoa khoe sắc,
Xuân đến liễu dương chim hót chào.
Suối rửa sạch tai lòng vượn tịnh,
Phòng im đèn lạnh mộng nai chao.
Tâm không vướng bận không phiền toái,
Nhật nguyệt riêng bầu nhàn tản sao !
Lục bát :
Lục Vân Động, núi biếc xanh,
Bao la vũ trụ lợi danh bụi trần.
Nắng chiều hoa cỏ chập chờn,
Xuân tươi dương liễu chim cành hót vang.
Suối trong tai sạch vượn an,
Phòng đơn trục lộc đèn tàn mộng tiêu.
Sắc không thế sự ít nhiều,
Bầu trời riêng một, tiêu diêu thanh nhàn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
35. Bài thơ NHA TƯỜNG NGUYỆT THI:
牙檣月詩 NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
銀魄當天刻漏長, Ngân phách đương thiên khắc lậu trường,
溶溶玉鏡掛牙檣。 Dung dung ngọc kính quải nha tường.
山河滿目光如晝, Sơn hà mãn mục quang như trú,
倚遍欄杆夜未央。 Ỷ biến lan can dạ vị ương !
* Chú thích :
- NHA TƯỜNG NGUYỆT THI 牙檣月詩 : NHA là Ngà Voi, TƯỜNG là Cột Buồm; nên NHA TƯỜNG là Cột buồm được trang trí bằng ngà voi. Vì thế NHA TƯỜNG NGUYỆT THI là "Bài thơ trăng treo cột buồm".
- Ngân Phách 銀魄 : là Cái đĩa bằng bạc, chỉ mặt trăng tròn và sáng.
- Dung Dung 溶溶 : là Tan chảy hòa vào nhau. Quải 掛 : là Treo.
- Trú 晝 : là Ban ngày, nên Quang Như Trú 光如晝 có nghĩa "Sáng như ban ngày".
- Ỷ 倚 là Dựa vào; Biến 遍 là Khắp cùng.
- Dạ Vị Ương 夜未央 : VỊ ƯƠNG là Chưa đến cao điểm; nên DẠ VỊ ƯƠNG là Đêm chưa đến lúc cao điểm, nghĩa là chưa đến giờ Tý, vì giờ Tý là giờ cao điểm của giữa đêm.
* Nghĩa bài thơ :
Bài thơ Trăng Treo Cột Buồm
Một cái đĩa bạc lơ lửng trên bầu trời, thời khắc của cái đồng hồ cứ nhỏ giọt dài dài. Ánh trăng hòa vào không gian như chiếc gương ngọc treo lơ lửng trên cột buồm được nạm ngà voi. Cảnh núi sông bày ra trước mắt sáng rực như ban ngày. Ta đã lần lượt vựa hết lan can quanh thuyền để ngắm trăng, mà đêm vẫn còn chưa về khuya chút nào cả !
* Diễn Nôm :
NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
Đĩa bạc giữa trời khắc lậu trôi,
Cột buồm gương ngọc lửng lơ rồi.
Núi sông trước mắt như bừng sáng,
Tựa hết lan can đêm chửa vơi !
Lục bát :
Đêm trôi đĩa bạc giữa trời,
Trong như gương ngọc chơi vơi cột buồm.
Non sông bừng sáng khác thường,
Tựa lan can ngắm đêm trường mênh mang !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (8)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
__________________________
Góc Việt Cổ Thi:
THƠ VUA LÊ THÁNH TÔNG (5)
21. Bài thơ ĐÔNG DẠ CHƯỚC TỬU:
冬夜酌酒 ĐÔNG DẠ CHƯỚC TỬU
軒前楚楚席群英, Hiên tiền sở sở tịch quần anh,
攜酒看來俗慮清。 Huề tửu khan lai tục lự thanh.
可看閑階一片地, Khả khán nhàn giai nhất phiến địa,
竹篩不礙月花明。 Trúc si bất ngại nguyệt hoa minh.
* Chú thích :
- Đông Dạ Chước Tửu 冬夜酌酒 : là Đêm Đông Chuốc Rượu, là Tiệc rượu đêm đông.
- Sở Sở 楚楚 : là Sặc sở, đẹp đẽ sạch sẽ.
- Tịch 席 : là chiếc chiếu, là chỗ ngồi; là bàn tiệc. Động từ là Đãi tiệc.
- Anh 英 : là Hình cây cỏ mới mọc, chỉ sức sống mạnh mẽ đang lên; từ đó ANH có nghĩa là thành phần ưu tú, nên Quần Anh : là những người ưu tú giỏi giang.
- Huề Tửu 攜酒 : là Mang rượu, ở đây là Nâng ly rượu.
- Lự 慮 : là Tư lự, là suy nghĩ, là mong muốn; nên Tục Lự Thanh 俗慮清 : Thô tục tầm thường mà muốn làm ra vẻ thanh cao.
- Trúc Si 竹篩 : là Cái sàng đan bằng tre, ở đây chỉ Bụi trúc, Khóm trúc như cái sàng để sàng lọc ánh trăng.
* Nghĩa bài thơ :
Chuốc Rượu Đêm Đông
Trước mái hiên áo quần rực rỡ như toàn là những thành phần ưu tú đang dự tiệc, nâng ly rượu lên, xem ra ai thô tục mấy cũng muốn trở nên thanh cao. Nhưng hãy nhìn xem cái mảnh đất bên thềm trống kia, khóm trúc như là cái sàng bằng tre không làm trở ngại cho ánh trăng đã được sàng lọc chiếu lên trên mặt đất ở đó.
Nhà vua muốn ngụ ý gì và muốn nói hay muốn gởi gắm gì đây ?!...
* Diễn Nôm :
CHUỐC RƯỢU ĐÊM ĐÔNG
Trước hiên rực rỡ tiệc quần anh,
Nâng chén đều mong tục hóa thanh.
Hãy ngắm thềm không bên đất trống,
Ánh trăng sàng lọc đã rành rành !
Lục bát :
Trước hiên tiệc đãi anh hào,
Chén nâng dù tục ra màu thanh cao.
Kìa xem thềm trống lao xao,
Ánh trăng sàng lọc khác nào bóng hoa.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
22. Bài thơ ĐÔNG NGẠC CHÂU:
東鄂洲 ĐÔNG NGẠC CHÂU
詩成山月上, Thi thành sơn nguyệt thướng,
睡覺野雲飛。 Thụy giác dã vân phi.
花落殊多意, Lạc hoa thù đa ý,
風前點客衣。 Phong tiền điểm khách y !
* Chú thích :
- Đông Ngạc Châu 東鄂洲 : là Bãi Đông Ngạc, là bãi trên sông Hồng thuộc vùng Chèm, Vẽ, khu vực gần cầu Thăng Long của Hà Nội ngày nay.
- Thướng 上 : Động từ là Lên, là Mọc. khi đọc là THƯỢNG (Hình dung từ) là Trên. (Danh từ) là phía trên, bên trên.
- Dã 野 : Cánh đồng ở ngoại ô, là hoang dã; nên Dã Vân 野雲 là Mây bay ngoài đồng nội, là Mây ngàn.
- Thù 殊 : là Đặc thù, khác thường, là rất đặc biệt.
- Điểm 點 : Danh từ là Chấm; Động từ là Chấm phá, là Điểm xuyết.
* Nghĩa bài thơ :
BÃI ĐÔNG NGẠC
Khi thơ làm xong thì trăng cũng đã mọc lên đầu núi, lúc ngủ dậy thì mây ngàn cũng đã bay đi. Nhìn hoa rụng như mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, bay trước gió như điểm xuyết thêm lên tà áo khách đến thăm.
Bãi Đông Ngạc trên sông qủa là nên thơ nhàn nhã như cảnh thần tiên ! Với cảnh trăng lên, với mây ngàn gió núi làm cho hoa rụng bay cả lên mình của khách viếng thăm. Nhà vua quả có tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp của thiên nhiên vô tận !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG NGẠC CHÂU
Thơ xong trăng núi mọc,
Ngủ dậy mây ngàn bay.
Hoa rụng như có ý,
Chạm áo khách gió lay !
Lục bát :
Thơ xong trăng núi vừa lên,
Vươn vai tỉnh giấc mây trên cánh đồng.
Hoa rơi như cũng có lòng,
Bay lên áo khách bềnh bồng gió lay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
23. Bài thơ ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG:
東巡曉發禁江 ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG
千丈暖光浮羽旆, Thiên trượng noãn quang phù vũ bái,
六師喜色挾狐貂。 Lục sư hỷ sắc hiệp hồ điêu.
日昇暘谷雲容薄, Nhật thăng dương cốc vân dung bạc,
目極江山萬里遙。 Mục cực giang sơn vạn lý diêu.
* Chú thích :
- ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG 東巡曉發禁江 : Đi tuần phía đông, buổi sáng xuất phát từ sông Cấm.
- Vũ Bái 羽旆 : là Loại cờ phướng cắm trên xe hoặc thuyền khi đi xa, có tua trang trí như hình đuôi chim én rủ xuống.
- Lục Sư 六師 : là Biên chế của quân đội đời nhà Chu. Theo sách "Chu Lễ 周禮" Lục Sư còn gọi là Lục Quân 六軍, được tổ chức như sau :"5 người là một NGŨ, 5 NGŨ là một LƯỠNG, 4 LƯỠNG là một TỐT, 5 TỐT là một LỮ, 5 Lữ là một SƯ, 5 SƯ là một QUÂN. Sau dùng rộng ra chỉ quân đội do nhà Vua chỉ huy thì gọi là LỤC SƯ.
- Hỷ Sắc 喜色 :là Khí sắc vui vẻ, ở đây chỉ sự Hồ Hỡi của binh lính.
- Hiệp 挾 : có bộ THỦ 扌bên trái, có nghĩa là Kẹp, là Gắp; trong câu có nghĩa là Ỷ vào, Vựa vào.
- Hồ Điêu 狐貂 : là một loại chồn cáo, lông rậm có đuôi dài, da dùng làm áo mặc rất ấm. Xưa hay dùng để may áo cho binh lính ở vùng xa xôi lạnh lẽo, gọi là Điêu Cẩm 貂錦, nên Điêu Cẩm còn dùng để chỉ binh lính tinh nhuệ ở vùng biên tái, như trong bài Lũng Tây Hành của Trần Đào đời Đường :
誓掃匈奴不顧身, Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
五千貂錦喪胡塵。 Ngũ thiên ĐIÊU CẨM táng Hồ trần.
Có nghĩa :
Thề quét Hung Nô chẳng nệ thân,
Năm ngàn CHIẾN SĨ vùi thân đất Hồ.
Nên...
Hồ Điêu trong câu thơ là chỉ binh lính của nhà vua mặc Áo giáp rực rỡ trong buổi đi tuần.
- Mục Cực 目極 : còn nói là CỰC MỤC, là Mút tầm con mắt.
* Nghĩa bài thơ :
Buổi Sáng Xuất Phát Từ Sông Cấm Khi Đi Tuần Ở Phía Đông.
Ánh nắng ấm áp vươn lên cả ngàn trượng toả trên các cờ phướng cắm trên quân thuyền của vua đi, Lục quân hồ hỡi rực rỡ với áo hồ điêu nghiêm chỉnh. Mặt trời mọc lên trong sơn cốc rực nắng nên sắc mây như cũng mỏng và nhẹ hơn, ta có thể nhìn mút tầm mắt ngắm giang sơn muôn dăm hiện ra ở chốn xa xa !
Quang cảnh lục quân với đội thuyền của nhà vua đi tuần buổi sáng thật hào hùng phấn khởi !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN HIỂU PHÁT CẤM GIANG
Ngàn trượng nắng hanh rợp bóng cờ,
Lục quân hồ hỡi áo điêu cơ.
Nắng lên rực núi mây cao vút,
Mút mắt non sông vạn dặm chờ !
Lục bát :
Nắng hanh ngàn trượng rợp cờ,
Lục sư khoát áo điêu cơ oai hùng.
Nắng lên mây núi chập chùng,
Non sông muôn dặm khuất tầm mắt ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
24. Bài thơ ĐÔNG TUẦN QUÁ AN LÃO:
東巡過安老 ĐÔNG TUẦN QUÁ AN LÃO
窅窅關河路幾千, Diểu diểu quan hà lộ kỷ thiên,
北風有力送歸船。 Bắc phong hữu lực tống quy thuyền
江含落日搖孤影, Giang hàm lạc nhật dao cô ảnh,
心逐飛雲息萬緣。 Tâm trục phi vân tức vạn duyên
霜露霝時無綠樹, Sương lộ linh thì vô lục thụ,
桑蔴深處起青煙。 Tang ma thâm xứ khởi thanh yên.
海山離異窮逾目, Hải sơn ly dị cùng du mục,
只見雄雄亙碧天。 Chỉ kiến hùng hùng cắng bích thiên.
* Chú thích :
- AN LÃO 安老 : tên một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, nay thuộc ngoại thành của Hải Phòng.
- DIỂU DIỂU 窅窅: là Xa Xôi, Diệu Dợi.
- BẮC PHONG HỮU LỰC 北風有力 : là Gió Bấc GIÀ nên thổi VÙ VÙ rất mạnh.
- GIANG HÀM LẠC NHẬT 江含落日 : là Con sông như NGẬM lấy cái mặt trời lặn. Chỉ cảnh mặt trời chen lặn ở ven sông, nửa ở phía trên chân trời nửa in bóng xuống đáy nước, thật là thi vị !
- TÂM TRỤC PHI VÂN 心逐飛雲 : là Lòng ĐUỔI theo những áng mây bay, Ý chỉ Thả hồn theo mây trời về cỏi xa xăm !
- TANG MA 桑蔴 : TANG là Cây Dâu Tằm ăn. MA là Câ ĐAY, cây GAI, miền Nam gọi là Cây BỐ. Dâu Tằm ăn để con tằm cho kén, kéo tơ dệt lụa. ĐAY để kéo thành chỉ dệt thành Vải Đay, Vải Bố.
- LY DỊ 離異 : LY là Rời, DỊ là Khác. Nên LY DỊ : là Phân biệt một cách rõ ràng ! Vợ chồng LY DỊ là Rời nhau ra mạnh ai nấy ở nấy sống.
- CÙNG DU MỤC 窮逾目 : CÙNG là hết, DU là Vượt qua, MỤC là Con mắt.
CÙNG DU MỤC là Vượt qua khỏi tằm mắt, có nghĩa là Nhìn mút con mắt.
- CẮNG có 2 cách viết như sau : 亘, 亙 : Khoảng cách từ đầu nầy đến đầu kia (kể cả không gian và thời gian). Ví dụ :
* CẮNG CỔ 亙古 : là từ Xưa đến nay.
* CẮNG MIÊN SỔ LÝ 亙綿數里 : Kéo dài đến mấy dặm.
* Nghĩa bài thơ :
TUẦN DU PHÍA ĐÔNG NGANG QUA XỨ AN LÃO
Quan hà diệu dợi xa xôi mấy ngàn dặm đường, Gió bấc đã thổi rất mạnh như để đưa thuyền về lối cũ. Mặt trời chen lặn soi bóng trên dòng sông làm lung linh chiếc bóng cô độc của ta, và lòng ta thì như đang dõi theo những đám mây trời xa xa nên tắt lịm hết muôn ngàn tạp niệm. Sương móc xuống nhiều làm trắng xóa cả rừng cây xanh, và thấp thoáng trong rừng dâu đay một làn khói xanh ỏng ẹo bốc lên. Trong tầm nhìn mút con mắt chỉ thấy núi và biển phân biệt rõ ràng in lên trên nền trời xanh vô tận thật nguy nga hùng vĩ !
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN QUÁ AN LÃO
Diệu vợi quan hà đường vạn dặm,
Bắc phong vi vút thổi thuyền về.
Lung linh chiếc bóng sông vờn nắng,
Lơ lửng riêng lòng dạ gởi mây.
Móc úa cây cành sương trắng xóa,
Dâu đay rừng phủ khói mờ bay,
Chập chùng hùng vĩ dôi tầm mắt,
Chỉ thấy trời xanh núi biển bày !
Lục bát :
Đường xa diệu vợi quan hà,
Dục dù gió bấc thuyền xa quay về,
Nửa vành mặt nhựt trầm mê,
Lòng theo mây nổi tan về hư không.
Sương rơi phủ trắng rừng thông,
Vườn dâu đay rậm mịt mùng khói lam.
Chia hai biển núi ngút ngàn,
Chập chùng hùng vĩ trong làn trời xanh.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
25. Bài thơ ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG:
東巡駐潼港 ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG
海濱魚似土, Hải tân ngư tự thổ,
市上米如金。 Thị thượng mễ như câm (kim).
歸鳥參差沒, Qui điểu sâm si một,
悠悠日影沉。 Du du nhựt ảnh trầm !
* Chú thích :
- Đông Tuần Trú Đồng Cảng 東巡駐潼港 : Đi tuần phía đông, dừng lại ở Đồng Cảng.TRÚ 駐 : là Trú đóng, ở đây chỉ Dừng chân, Nghỉ tạm.
- Hải Tân 海濱 : là Bờ biển, Bãi bễ.
- Câm 金 : Chữ KIM là Vàng, mượn đọc là CÂM cho ăn VẬN với câu Cuối .
- Sâm Si 參差 : là So le, cao thấp không đều nhau; ở đây chỉ Rải rác, lẻ tẻ.
- Du Du 悠悠 : là Dằng dặc, Vời vợi, Xa xăm.
* Nghĩa bài thơ :
Đi Tuần Ở Phía Đông, Dừng Chân Ở ĐỒNG CẢNG
Trên bãi biển thì cá tựa như đất (vì qúa nhiều nên rất rẻ), còn ở trên chợ thì gạo qúy tựa vàng (vì gần bờ biển không có ruộng lúa). Chim chóc rải rác lần lượt bay về tổ rồi dứt hẵn, trong khi bóng mặt trời cứ từ từ lặng lẽ chìm vào đáy nước.
Cảnh chợ chiều buồn bã vắng lặng trên bãi Đồng Cảng khi chim chiều bay về tổ và mặt trời từ từ lặn xuống biển.
* Diễn Nôm :
ĐÔNG TUẦN TRÚ ĐỒNG CẢNG
Bờ biển cá như đất,
Trên chợ gạo tựa vàng.
Chim chiều dần bay khuất,
Dằng dặc bóng chiều tàn !
Lục bát :
Bờ biển cá tựa đất thôi,
Như vàng trên chợ gạo thời đắt thay.
Chim chiều rãi rác bay bay,
Bóng chiều chầm chậm biển đoài chìm sâu !
Hẹn bài viết tới !
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (6)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Góc Việt Thi:
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (4)
16. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 1) :
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其一) (kỳ 1)
歌罷薰風日正長, Ca bãi huân phong nhựt chánh trường,
望湖亭上芰菏香。 Vọng hồ đình thượng kỵ hà hương.
俄驚紈扇回天力, Nga kinh hoàn phiến hồi thiên lực,
消得人間六月涼。 Tiêu đắc nhân gian lục nguyệt lương !
* Chú thích :
- ĐỀ PHIẾN 題扇 : Đề Thơ lên Quạt.
- Huân Phong 薰風 : Cơn gió ấm hòa dịu của mùa hè thổi từ Nam sang Bắc.
- Kỵ Hà 芰菏 : KỴ là Ấu, HÀ là Sen; Nói chung KỴ HÀ là chỉ sen súng ấu... mọc trong các ao, hồ, đầm nước.
- Nga Kinh 俄驚 : Bỗng giật mình, chợt giật mình kinh ngạc...
- Hoàn Phiến 紈扇 : Các loại quạt có hình tròn hay hình bầu dục ngày xưa.
- Hồi Thiên Lực 回天力 : Vãn hồi lại cái sức của trời; Ý nói : Cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng trở thành mát. Chỉ là một cách nói nhấn về công dụng của chiếc quạt mà thôi.
* Nghĩa bài thơ :
ĐỀ THƠ LÊN QUẠT
Ca múa xong rồi nhưng gió vẫn đang nóng và ngày cũng như đang dài ra, trên cái đình trên hồ ta nhìn các hoa ấu hoa súng hoa sen đang tỏa hương thơm. Chợt giật mình kinh ngạc vì chiếc quạt tròn nhỏ bé nầy có thể vãn hồi lại cái sức của trời, làm tiêu tan đi cái nóng mà đem cái mát mẻ đến cho trời tháng sáu nầy.
Nhà vua đã khéo ví von cái năng lực của chiếc quạt tròn nhỏ bé có thể làm nên việc lớn chẳng ai ngờ. Phải chăng chiếc quạt nhỏ bé đó lại được bàn tay xinh xắn của một cung nhân tuyệt đẹp phe phẩy để quạt cho nhà vua, nên mới có cái khả năng "hồi thiên lực" như nhà vua đã cảm nhận, chứ đối với một nông phu tay lắm chân bùn thì "cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày" và "Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!".
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
Ca dứt gió hanh ngày tựa dài,
Trên hồ hương tỏa súng sen lay.
Lạ lùng đoàn phiến xoay trời đất,
Tháng sáu mà sao mát mẻ thay !
Thơ tám chữ :
Tiếng ca dứt gió nồng ngày đằng đẵng,
Trên đình hồ lặng ngắm súng sen thơm.
Chợt lạ lùng chếc quạt lụa con con,
Xoay trời đất mát còn hơn tháng sáu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
17. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 10) :
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其十) (KỲ 10)
南樓方溽暑, Nam lâu phương nhục thử,
火夏日如年。 Hoả hạ nhật như niên.
卻愛掌中物, Khước ái chưởng trung vật,
能參造化權。 Năng tham tạo hóa quyền.
* Chú thích :
- Phương 方 : là Đúng lúc; đang nhằm lúc.
- Nhục Thử 溽暑 : Ẩm thấp nóng nực đến bức rức.
- Hỏa Hạ 火夏 : chỉ Nắng của mùa hè nóng như lửa, ta gọi là Lửa Hạ.
- Chưởng Trung Vật 掌中物 : Đồ trong lòng bàn tay, ở đây chỉ Cây quạt.
- Tham 參 : là Tham gia, là Can dự vào.
* Nghĩa bài thơ :
Đề Thơ Lên Quạt
Lầu phía nam đang lúc nóng như thiêu như đốt, lửa hạ nóng nực làm cho người ta có cảm giác là ngày dài như năm. Nên lại đâm ra yêu thích cái vật đang cầm trong tay (cây quạt), vì nó có thể can dự vào uy quyền của tạo hóa (Ý nói cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng nực trở nên mát mẻ!).
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
Lầu nam đang nóng bức,
Lửa hạ, ngày như năm.
Vật trong tay yêu dấu,
Can dự quyền hóa công !
Lục bát :
Lầu nam nóng bức đang khi,
Ngày dài lửa hạ khác gì như năm.
Yêu thay vật trong tay cầm,
Thay quyền tạo hóa xoay vần mát thay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
18 . Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 8) :
Đây là bài thơ Lục Ngôn Thi duy nhất trong mười bài ĐỀ PHIẾN của nhà vua. Căn cứ theo ý nghĩa của bài thơ, theo tôi thì bài nầy nên lui xuống thứ mười (Kỳ Thập) cho thích ứng với vai trò và công dụng của cây quạt hơn khi gió tây đã bắt đầu phe phẩy !
題扇 ĐỀ PHIẾN
(其八) (Kỳ bát)
赫赫空中火扇, Hách hách không trung hỏa phiến,
甚明君子行宜。 Thậm minh quân tử hành nghi.
折折西風暑退, Chiết chiết tây phong thử thoái,
正知君子藏時。 Chính tri quân tử tàng thì !
* Chú thích :
- Hách Hách 赫赫 : Chữ HÁCH 赫 được ghép bởi 2 bộ XÍCH 赤 là màu đỏ, nên HÁCH HÁCH là Đỏ chói, là rực rỡ, là Hừng hực, là Rõ rệt, là Hiển Hách.
- Thậm 甚 : là Rất, Thậm Minh 甚明 là Hiểu rất rõ ràng tường tận.
- Chiết Chiết 折折 : ở đây là từ Tượng thanh, có nghĩa Xào Xạc, hây hẩy, hắc hiu. TÂY PHONG 西風 là gió từ hướng Tây thổi đến, là gió của mùa thu.
- Tàng 藏 : là Cất, giấu. TÀNG THÌ 藏時 là Lúc nên cất giấu lại, từ nầy đối chọi với từ HÀNH NGHI 行宜 là Lúc nên đem ra dùng ở câu 2. Đối với Sự Vật thì như thế, còn đối Con Người thì HÀNH 行 là lúc hoạt động, như ra thi cử, làm quan , tạo dựng công danh sự nghiệp... Còn TÀNG 藏 là lúc chưa gặp thời, còn ẩn mình hay lúc đã thoái quan về hưu ở ẩn.
* Nghĩa bài thơ :
Đề Thơ Trên Quạt (bài số 8)
Hừng hực trên không nóng như là đang quạt lửa (chỉ khí hậu nóng bức của mùa hè), thì hiểu rất rõ ràng rằng chính là lúc người quân tử phải đem ra dùng (cây quạt). Đến khi gió tây hây hẩy làm cho cái nóng lui đi (chỉ mùa thu tới), thì biết rằng chính là lúc người quân tử đem cất nó đi.
Con người "quân tử" bạc bẽo là thế đó, khi cần thì chìu chuộng đủ điều, ấp yêu hết mức; đến lúc đã không còn cần nữa thì đem cất giấu hay vứt bỏ một bên chẳng thiết ngó ngàng. Đọc bài thơ nầy của ông vua lại làm cho ta nhớ đến 2 câu cuối trong bài Trường Tín Cung của Lưu Phương Bình 劉方平《長信宮》đời Đường là :
秋風能再熱, Thu phong năng tái nhiệt,
團扇不辭勞。 Đoàn phiến bất từ lao !
Có nghĩa :
Cơn gió thu nếu có thể "nóng trở lại" được, thì cây quạt tròn (bị dứt bỏ) nầy cũng sẽ chẳng từ lao nhọc mà sẽ sẵn sàng quạt mát cho đấng quân vương ! Tội nghiệp thay cho số phận của những nàng cung nữ bị bỏ quên trong cung vua lạnh lẽo, khao khát cả những gì bạc bẽo nhất ở trên đời nầy.
* Diễn Nôm :
ĐỀ PHIẾN
(kỳ 8)
Hừng hực trên không lửa đốt,
Là thời quân tử ấp yêu.
Hiu hắt gió tây thôi nóng,
Là khi quân tử hết chìu !
LỤc bát :
Không gian hầm hập như thiêu,
Là khi quân tử ấp yêu chẳng rời.
Gió tây se sắt đến nơi,
Cất đi quân tử quên rồi thuở xưa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
19 . Bài thơ ĐIỆU ĐỒNG KHÍ :
悼同氣 ĐIỆU ĐỒNG KHÍ
憶昔玉樓連帳夜, Ức tích ngọc lâu liên trướng dạ,
淒涼今日異存亡。 Thê lương kim nhật dị tồn vong.
乘鸞遊覓無消息, Thừa loan du mịch vô tiêu tức,
望美人兮天一方。 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương !
* Chú thích :
- Điệu Đồng Khí 悼同氣 : là Truy điệu người cùng chung chí khí.
- Liên Trướng 連帳 : LIÊN là Liền nhau, sát cạnh nhau; TRƯỚNG cái màn, cái mùng để ngủ cho muỗi khỏi cắn. LIÊN TRƯỚNG là hai cái mùng giăng sát cạnh nhau.
- Dị Tồn Vong 異存亡 : là Khác biệt giữa còn và mất, giữa sống vả chết.
- Thừa Loan 乘鸞 : là Cởi chim loan (bay về cỏi tiên giới) chỉ đã chết.
- Câu "望美人兮天一方 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương" : Có xuất xứ từ bài Tiền Xích Bích Phú 前赤壁賦 của Tô Thức 蘇軾 (Đông Pha) đời Tống. Ý nói : Nhìn về một phương trời để nhớ đến người đẹp nơi đó. Người Đẹp (Mỹ Nhân) ở đây ám chỉ nhà vua lúc bấy giờ; còn trong bài thơ nầy "người đẹp" chính là "người bạn cùng chung chí khí" với vua Lê Thánh Tông.
* Nghĩa bài thơ :
Truy Điệu Người Cùng Chung Chí Khí.
Nhớ lúc xưa trên lầu ngọc, hai ta cùng ngủ sát liền mùng với nhau (để cùng tâm sự). Còn hôm nay thì lạnh lẽo làm sao khi đã khác biệt giữa người còn kẻ mất. Bạn đã cởi chim loan bay đi tìm nơi dạo chơi không còn biết được tin tức gì nữa cả. Ta chỉ còn có nước ngóng trông về một phương trời để nhớ về bạn mà thôi !
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài hát nói "Vịnh Tiền Xích Bích" của cụ Nguyễn Công Trứ với các câu như :
... Ông Tô Tử qua chơi Xích Bích,
Một con thuyền với một túi thơ
Gió hiu hiu mặt nước như tờ
Trăng chếch chếch đầu non mới ló
Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ
Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương
Ca rằng:
Quế trạo hề lan tương 桂棹兮蘭槳,
Kích không minh hề tố lưu quang 擊空明兮溯流光
Diếu diếu hề dư hoài 渺渺兮予懷,
Vọng Mỹ Nhân Hề Thiên Nhất Phương 望美人兮天一方。
Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương
Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước...
* Diễn Nôm :
ĐIỆU ĐỒNG KHÍ
Nhớ xưa lầu ngọc sát mùng đôi,
Lạnh lẽo giờ đây sống chết rồi.
Biệt tích cởi loan chơi xứ lạ,
Riêng ta nhớ bạn ngắm phương trời !
Lục bát :
Nhớ xưa lầu ngọc liền màn,
Hôm nay sống thác vô vàn thê lương
Cởi loan biệt tích ngàn phương,
Góc trời lặng ngắm đoạn trường riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
20. Bài thơ ĐỈNH HỒ :
鼎湖 ĐỈNH HỒ
鑄鼎湖邊日, Chú đỉnh hồ biên nhật,
雲煙秀氣鍾。 Vân yên tú khí chung.
乘龍仙去遠, Thừa long tiên khứ viễn,
水上碧溶溶。 Thủy thượng bích dung dung.
* Chú thích :
- Đỉnh Hồ 鼎湖 : Tên hồ nằm ở thành phố Bảo Linh, tỉnh Hà Nam Trung Hoa. Theo truyền thuyết Hiên Viên Huỳnh Đế 軒轅黃帝 đã khai quật mỏ đồng ở trên núi Thủ Sơn và dùng nước của Đỉnh Hồ để đúc đỉnh đồng ở dưới chân núi Kinh Sơn. Đỉnh đúc xong thì vua băng, cởi rồng mà lên tiên. Hiện còn khu di tích lịch sử và là điểm du lịch nóng ở nơi nầy.
- Chú 鑄 : là Hun đúc, trui rèn.
- Tú Khí 秀氣 : chỉ khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông. TÚ KHÍ cũng dùng để chỉ cái dáng vẻ đẹp đẽ thanh thoát của con người, nhất là dùng để chỉ các cô thiếu nữ mới lớn.
- Chung 鍾 :là Tập trung, gom góp lại.
- Bích Dung Dung 碧溶溶 : BÍCH là màu xanh biếc; DUNG 溶 có ba chấm thủy 氵 là Tan Chảy như DUNG DỊCH 溶液. DUNH DUNG đi liền nhau là Hình Dung Từ chỉ "thế nước tuôn chảy mênh mông".
* Nghĩa bài thơ :
ĐỈNH HỒ
Cái ngày đúc đỉnh ở bên bờ hồ, thì mây khói khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông như cũng được gom góp đúc kết lại. Nay thì người đúc đỉnh đã cởi rồng lên tiên về nơi xa rồi, nhưng mặt hồ nước vẫn còn mênh mông xanh biếc !
* Diễn Nôm :
ĐỈNH HỒ
Ngày bờ hồ đúc đỉnh,
Khí thiêng sông núi gom.
Cởi rồng tiên xa khuất,
Nước hồ mãi xanh om !
Lục bát :
Ngày nao đúc đỉnh bờ hồ,
Khí thiêng sông núi chực chờ khói mây.
Cởi rồng tiên đã xa bay,
Mặt hồ nước biếc vẫn đầy mênh mông.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới :
Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (5)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
_______________________________
Góc Việt Cổ Thi:
Chùm thơ Xuân 2021
1. Bài thơ NGUYÊN NHẬT của Lê Cảnh Tuân :
元日 NGUYÊN NHẬT
旅館客仍在, Lữ quán khách nhưng tại,
去年春復來。 Khứ niên xuân phục lai.
歸期何日是? Quy kỳ hà nhật thị ?
老盡故園梅。 Lão tận cố viên mai !
黎景詢 Lê Cảnh Tuân
* Chú thích :
- Nguyên Nhật : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày ĐầuCủa Một Năm, như chữ Nguyên Đán.
- Nhưng : là Vẫn, Vẫn Cứ...
- Phục : là Lại, là Trở lại.
- Quy Kỳ : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
- Lão Tận : là Già đến tận cùng, là Già khú,già chát, già khằng !
* Nghĩa Bài Thơ :
Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây ? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi !
Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến Tết về. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm !
* Diễn Nôm :
Mùng Một Tết
Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !
Lục bát :
Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê ?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
2. Bài thơ XUÂN TỪ của Ngô Chi lan :
春詞 XUÂN TỪ
初晴薰人天似醉, Sơ tình huân nhân thiên tự túy,
艷陽樓臺浮暖氣。 Diễm dương lâu đài phù noãn khí.
隔簾柳絮度鶯梭, Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
繞檻花鬚穿蝶翅。 Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp xí.
階前紅線日添長, Giai tiền hồng tuyến nhựt thiêm trường.
粉汗微微沁綠裳。 Phấn hạn vi vi tẩm lục thường.
小子不知春思苦, Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ,
傾身含笑過牙牀。 Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.
吳芝蘭 Ngô Chi Lan
* Chú Thích :
- Sơ Tình 初晴 : là nắng mới, chỉ nắng của mùa xuân sau ba tháng mùa đông lạnh lẽo.
- Huân Nhân 薰人 : là Hanh người, là Làm cho con người cảm thấy ấm áp.
- Diễm Dương 艷陽 : là Ánh nắng đẹp, trời nắng rất đẹp đẽ.
- Oanh Thoa 鶯梭 : Các con chim oanh len lỏi trong cành liễu như con thoi.
- Nhiễu Hạm 繞檻 : là Lòng vòng ở dưới mái hiên.
- Giai Tiền 階前 : là Trước thềm.
- Phấn Hạn 粉汗...câu 6 : Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
* Nghĩa Bài Thơ :
Thơ Mùa Xuân
- Nắng mới ấm áp hanh người làm cho trời cũng tựa như đang say,
- Lâu đài chìm trong nắng đẹp cũng chan hòa vẽ ấm áp.
- Trên cành tơ liễu cách rèm bên ngoài chim oanh len lỏi trong các cành liễu tựa con thoi.
- Bay vòng dưới mái hiên con bướm bị các tua hoa xuyên qua cánh.
- Những vệt nắng như những sợi chỉ hồng trước thềm làm cho ngày như dài thêm ra.
- Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
- Chàng tuổi trẻ kia không biết được sự nhớ nhung trong mùa xuân là khổ tâm như thế nào (mùa xuân là mùa đoàn tụ mà phải xa nhau nhớ nhau), nên mới...
- Nghiêng mình cười mĩm mà đi qua giường ngà (như chẳng có việc gì xảy ra !).
Nằm trên giường ngà để nhớ người tình xa trong mùa xuân ấm áp tràn đầy nhựa sống thì còn gì khổ tâm và ray rức hơn nữa. Tâm sự và nỗi lòng nầy làm cho ta nhớ đến nàng thiếu phụ có chồng là quan to, nên mỗi buổi sáng mùa xuân, lúc đôi lứa đang mặn nồng và ấp yêu nhất, thì lại phải dậy sớm để đi chầu vua, bỏ mặc gối chăn thơm phức và nàng vợ trẻ. Bài thơ "Vị Hữu" của Lý Thương Ẩn như sau :
Vị hữu vân bình vô hạn kiều, 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim qui tế, 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo triều . 辜負香衾事早朝 .
Có nghĩa :
Vì có bình phong đẹp lắm mầu
Kinh thành hết lạnh, sợ canh thâu
Khéo xui lấy được ngài quan lớn
Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu !
Lục Bát :
Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai,… đi chầu !
* Diễn Nôm :
THƠ XUÂN
Nắng mới hanh người trời túy lúy,
Lâu đài nắng đẹp ấm xuân khí.
Ngoài rèm tơ liễu rộn oanh ca,
Bướm lượn vờn hoa tua rách xí.
Vệt nắng trước thềm ngày chẳng nhanh,
Mồ hôi hòa phấn thấm bào xanh.
Trẻ con nào biết xuân nhung nhớ,
Cười mĩm nghiêng mình lại dạo quanh !
Lục bát :
Hanh người nắng mới trời say,
Nắng lên ấm đẹp lâu đài thêm xuân.
Ngoài rèm oanh hót liễu xanh,
Xuyên hoa cánh bướm lượn quanh hiên nhà.
Trước thềm vệt nắng dài ra,
Mồ hôi rịn phấn thấm tà áo xanh.
Trẻ trung nào biết xuân tình,
Thản nhiên cười mĩm nghiêng mình lướt qua !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. Bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN :
初春 SƠ XUÂN
三冬過了一春歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍暖東風放放吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.
冰雪凍痕鋪水面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
乾坤生意上林枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi.
柳還舊綠鶯猶靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
桃試新紅蝶未知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri.
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
蔡順 Thái Thuận
* CHÚ THÍCH :
SƠ XUÂN : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
TAM ĐÔNG : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
SẠ NOÃN : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên, Mới vừa. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên
NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
SANH Ý 生意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
THẢO TÂM : Nỗi lòng của tấc cỏ.
* NGHĨA BÀI THƠ :
CHỚM XUÂN
Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ " Tam đông " làm ta nhớ đến từ " Tam xuân " trong 2 câu trong bài " Du Tử Ngâm " của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
" Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân "
Ta thấy từ " Thảo Tâm Du Tử " : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dụng ở câu cuối :
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
(Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
... mà Tản Đà đã dịch rất hay là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
* DIỄN NÔM :
CHỚM XUÂN
Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
Lục bát :
Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
4. Bài thơ XUÂN HIỂU của Thái Thuận :
春曉 XUÂN HIỂU
忽聞何處鳥, Hốt văn hà xứ điểu,
客枕夢回新。 Khách chẩm mộng hồi tân.
窗外雲如幕, Song ngoại vân như mạc,
空中雨似塵。 Không trung vũ tự trần.
花容猶隱露, Hoa dung do ẩn lộ,
草色欲圍人。 Thảo sắc dục vi nhân.
遊子吟風月, Du tử ngâm phong nguyệt,
誰能報得春。 Thùy năng báo đắc xuân.
蔡順 Thái Thuận
* Nghĩa Bài Thơ :
Buổi Sáng Mùa Xuân
Chợt nghe tiếng chim hót xa xa như ở tận nơi nào, bên gối khách vừa tỉnh dậy sau một giấc mộng dài. Ngoài song mây giăng giăng như màn che, trên bầu trời mưa lưa thưa lất phất như bụi. Những đóa hoa nở như còn đọng lại những hạt sương đêm và màu cỏ xanh mơn mởn như vây lấy con người. Người du tử ngâm câu hoa nguyệt, nhưng nào ai đã báo đáp được nàng xuân đâu !
* Diễn Nôm :
SÁNG XUÂN
Chim nơi đâu chợt hót,
Khách bỗng tỉnh mộng dài.
Ngoài song mây mờ phủ,
Bên trời mưa bụi bay.
Hoa nở sương còn đọng,
Cỏ xanh biếc quanh ai,
Du tử ngâm thơ thẩn,
Ai báo được xuân nay ?
Lục bát :
Chợt nghe chim hót đâu đây,
Khách choàng tỉnh mộng mới say giấc nồng.
Mây che rèm phủ ngoài song,
Phất phơ mưa bụi trên không mơ hồ.
Lá hoa còn ngậm sương mơ,
Biếc xanh đồng cỏ ơ hờ quanh ta.
Ngâm câu tuyết nguyệt phong hoa,
Nào ai báo được xuân qua bao lần ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Kính mời đọc lại bài ...
春曉 Xuân hiểu
孟浩然 Mạnh Hạo Nhiên
春眠不覺曉, Xuân miên bất giác hiểu,
處處聞啼鳥。 Xứ xứ văn đề điểu,
夜來風雨聲, Dạ lai phong vũ thanh,
花落知多少。 Hoa lạc tri đa thiểu?
DIỄN NÔM :
SÁNG XUÂN
Đêm Xuân ngủ quên sáng,
Chim hót khắp nơi nơi !
Đêm qua dường mưa gió,
Bao nả cánh hoa rơi ?!
Lục bát :
Đêm xuân quên sáng ngủ vùi,
Chợt nghe chim hót nơi nơi rộn ràng
Đêm qua mưa gió mơ màng,
Bao nhiêu hoa rụng bàng hoàng sáng xuân.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
5. Bài thơ XUÂN DẠ ĐỘC THƯ của Cao Bá Quát :
春夜讀書 Xuân Dạ Độc Thư
今人不見古時春, Kim nhân bất kiến cổ thời xuân
惆悵今春對古人。 Trù trướng kim xuân đối cổ nhân.
世事幾何今不古, Thế sự kỷ hà kim bất cổ,
眼前莫認幻為真。 Nhỡn tiền mạc nhận huyễn vi chân
幾多名利終朝雨, Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ,
無數英雄一聚塵。 Vô số anh hùng nhất tụ trần.
自笑俗拘拋未得, Tự tiếu tục câu phao vị đắc,
邇來攜卷太諄諄。 Nhĩ lai huề quyển thái truân truân.
高伯适 Cao Bá Quát
2. Chú Thích :
* Độc Thư : là Xem Sách mà cũng có nghĩa là Học Hành nữa, vì ngày xưa Xem Sách tức là đang Học Tập đó.
* Trù Trướng : là Do dự, Ngập ngừng, là Ngơ Ngẩn.
* Huyễn Vi Chân : là Lấy ảo làm thực, lấy huyễn hoặc làm thực tế.
* Triêu Vũ : là Mưa buổi sáng.
* Tụ Trần : làBụi phủ, Bụi mờ.
* Tục Câu : Tục ở đây có nghĩa là Thói Thường, nên Tục Câu có nghĩa là những câu nệ tầm thường, những thói xấu tầm thường khó bỏ. PHAO VI ĐẮC là Không dứt bỏ được.
* Nhĩ lai : là Gần đây, là Dạo nầy.
* Huề Quyển : là Cầm quyển sách lên, ý chỉ Học tập.
* Truân Truân : là Cần mẫn, Chăm chỉ.
3. Nghĩa Bài Thơ :
Đọc Sách Đêm Xuân
Người của ngày hôm nay không thấy được mùa xuân của thủơ xưa, nên giờ ta đang ngẩn ngơ trước mùa xuân hôm nay mà đối mặt với người xưa trên sách vở. Chuyện đời biết như thế nào mà nói, vì hôm nay chứ không phải ngày xưa nữa, nên đừng có nhận lầm những cái huyễn hoặc trước mắt là thực tế ( mà phải phân biệt cho rõ ràng ). Biết bao nhiêu danh lợi chỉ đến trong đêm như một giấc mộng, rồi kết thúc bằng một trận mưa sáng trôi đi tất cả, cũng như vô số anh hùng tụ hợp rồi cũng tan biến như lớp bụi mờ. Ta tự cười mình vì cái tật xấu xưa nay không bỏ đi được, nên gần đây hễ cứ cầm quyển sách lên là cứ đọc một cách chăm chỉ như ngày xưa vậy !
Biết được rằng Xưa không phải là Nay nữa, Xuân xưa khác xuân nay và Chuyện xưa cũng khác với Chuyện ngày nay, bằng chứng là biết bao danh lợi chỉ thoáng qua như giấc mộng trong đêm, anh hùng hào kiệt rồi cũng tan biến như bụi trần. Biết thế, mà vẫn cứ thế, hễ cầm được quyển sách lên là lại cứ muốn chăm chỉ mà học tập theo gương của người xưa, để làm gì ?! Vì rốt cuộc cũng có được gì đâu ?! Cao Bá Quát vừa cười mình ngớ ngẩn có thói quen xấu khó bỏ, lại vừa đề cao mình là người luôn luôn chăm chỉ học tập mặc dù biết rằng đọc sách chỉ là nhại lại những cái bã của cổ nhân!
4. Diễn Nôm :
Xuân Đọc Sách Xưa
Người nay chẳng thấy được xuân xưa,
Ngơ ngẩn xuân nay trước cổ thư.
Bao nả chuyện đời kim khác cổ,
Chớ lầm trước mắt thực làm hư.
Biết bao danh lợi theo mưa sáng,
Vô số hùng anh khuất bụi mờ.
Thói xấu cười mình không bỏ được,
Hễ cầm quyển sách cứ khư khư !
Lục bát :
Người nay không thấy xuân xưa,
Xuân nay ngơ ngác người xưa đâu rồi.
Chuyện đời kim cổ đổi vời,
Chớ lầm hư thực thực rồi hóa hư.
Lợi danh như sáng mưa thu,
Anh hùng bao kẻ mịt mù trần ai.
Cười mình tật cũ khó phai,
Quơ nhằm quyển sách miệt mài thâu canh.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
6. Bài thơ XUÂN HÀN Nguyễn Bỉnh Khiêm :
春寒 XUÂN HÀN
十二韶光春一團, Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,
一天料峭送餘寒. Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
輕陰借雨侵花易, Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
殘雪因風墜柳難. Tàn tuyết nhân phong trụy liễu nan.
繡闥佳人低玉帳, Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
香街醉客促金鞍. Hương giai túy khách xúc kim an.
旋乾自有神功在, Toàn kiền tự hữu thần công tại,
已播陽和滿際蟠. Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.
阮秉謙 Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Chú Thích :
- XUÂN HÀN 春寒 : Cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Thiều Quang 韶光 : là Cái khoảng thời gian đẹp đẽ.
- Liệu Tiễu 料峭 : là LIỆU TIỄU XUÂN HÀN 料峭春寒 là thành ngữ dùng để hình dung cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Khinh Âm Tá Vũ 輕陰借雨 : là Trời âm u nhẹ trong cơn mưa xuân.
- Tàn Tuyết Nhân Phong 殘雪因風 : là Gió cuốn những tàn dư của băng tuyết còn lại.
- Tú Thát 繡闥 : là Trong phòng thêu, tức là Khuê phòng của các cô gái.
- Hương Giai 香街 : là Đường phố thơm, ý chỉ những đường phố có nhiều người đẹp ở hay đường phố có nhiều kỹ viện.
- Xúc 促 : là Thúc mạnh vào. KIM AN 金鞍 : là Yên cương ngựa mạ vàng.
- Toàn Kiền 旋乾 : là Tuyền Càn Chuyển Khôn 旋乾轉坤 là thành ngữ chỉ xoay chuyển từ Càn qua Khôn, từ Dương sang Âm và ngược lại; Nói chung là chỉ sự xoay vần của trời đất, vạn vật, mùa màng... hết đông rồi đến xuân...
- Bá 播 : là Gieo hạt giống , là Truyền Bá, là Rải khắp.
- Dương Hoà 陽和 : là Khí dương xuân, chỉ khí trời ấm áp của mùa xuân.
- Tế Bàn 際蟠 : là Trời Đất, do sách Trang Tử có câu: "Thượng tế vu thiên, hạ bàn vu địa 上際于天,下蟠于地", nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất. Sau người ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa 際天蟠地" như là một thành ngữ. Ở đây, tác giả lại lược đi hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn 際蟠" nhưng cần hiểu như nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".
* Nghĩa Bài Thơ :
CÁI LẠNH CỦA BUỔI ĐẦU XUÂN
Cái khoảng thời gian đẹp đẽ của 12 ngày đầu năm đã mở màn cho một vừng xuân sắc, Từng ngày một ta sẽ lần lượt đưa tiễn cái lạnh của buổi đầu xuân. Trời râm nhẹ với mưa xuân phơi phới sẽ ngấm vào hoa cỏ một cách dễ dàng, những làn gió đầu xuân còn rất lạnh khó mà thổi được những băng tuyết còn sót lại cho rơi xuống gốc liễu. Trong khuê phòng các giai nhân còn buông thấp rèm ngọc xuống vì trời còn lạnh, trên đường phố nơi có nhiều người đẹp các khách say cũng thúc vào yên cương mạ vàng để đi mau qua. Trời đất âm dương đã xoay chuyển một cách thần kỳ từ đông sang xuân, vá ánh dương xuân đã được gieo đầy khắp cả trên trời dưới đất.
* Diễn Nôm :
XUÂN HÀN
Mười hai xuân sắc đã vầy đoàn,
Cái lạnh lui dần tiết mới sang.
Phơi phới mưa xuân hoa ướm nhụy,
Rao rao gió nhẹ tuyết dần tan.
Khuê phòng người đẹp buông rèm ngọc,
Trên phố khách say thúc ngựa vàng.
Chuyển đổi thần công trời lẫn đất,
Ánh xuân chan chứa khắp nhân gian.
Lục bát :
Mười hai ngày tiết xuân hàn,
Mỗi ngày cái lạnh lại càng bớt đi.
Mưa xuân dễ thấm hoa chi,
Gió xuân lay liễu tuyết thì chưa tan.
Phòng khuê người đẹp buông màn,
Trên đường khách hãy yên vàng thúc mau.
Càn khôn huyền diệu làm sao,
Ánh dương xuân đã phủ mau đất trời !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Kính chúc mọi người Xuân Tân Sửu 2021 An Khang Thịnh Vượng.
Góc Việt Cổ Thi:
Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
(Phần 3)
11. Bài thơ Thái Thạch Độ :
采石渡 THÁI THẠCH ĐỘ
采石乃天塹, Thái Thạch nãi thiên tiệm,
江南舊霸圖。 Giang Nam cựu bá đồ.
群山連建業, Quần sơn liên Kiến Nghiệp,
一水接蕪湖。 Nhất thủy tiếp Vu Hồ.
風景愁猶在, Phong cảnh sầu do tại,
英雄事己無。 Anh hùng sự dĩ vô.
六朝興廢事, Lục Triều hưng phế sự,
攬轡獨長呼。 Lãm bí độc trường hô !
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Thái Thạch Độ 采石渡 : là Bến đò Thái Thạch. THÁI THẠCH là tên ghềnh đá nằm ở phía nam của sông Trường Giang thuộc thành phố Mã Yên Sơn tỉnh An Huy Trung Quốc. Hình thế nơi đây hiểm trở, hùng tráng. Từ đời Lưỡng Hán trở về sau là chỗ chiến trường hay xảy ra các cuộc chiến tranh giành nhau ở nơi đây.
- Thiên Tiệm 天塹 : là Trời đẻo tạc ra, chỉ địa thế hiễm trở.
- Kiến Nghiệp 建業 : là tên gọi của thành phố Nam Kinh thời Đông Ngô, là đô thành của Đông Ngô thời Tam Quốc.
- Vu Hồ 蕪湖 : Còn gọi là Giang Thành 江城, gọi tắt là Vu, là hồ ở phía tây nam huyện Vu Hồ, tỉnh An Huy, Trung Quốc.
- Lục Triều 六朝 : Sáu triều đại của Trung Quốc trong khoảng từ năm 222 đến năm 589, gồm Đông Ngô, Đông Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần. Sáu triều đại này đều đóng đô ở Kiến Khang (tức Kiến Nghiệp thời Tam Quốc, Nam Kinh của ngày hôm nay).
- Lãm Bí 攬轡 : LÃM là Nắm, là Ôm đồm. BÍ là dây cương ngựa, nên LÃM BÍ là nắm chặc lấy dây cương ngựa, là ghìm cương ngực lại.
* Nghĩa bài thơ :
Bến Đò THÁI THẠCH
Thái Thạch là hào rãnh của trời đất tạc dựng nên. Đây là nơi tranh bá đồ vương của đất Giang nam xưa. Các dãy núi nối liền nhau chạy dài đến tận vùng Kiến Nghiệp và một dòng sông nối tiếp với đất Vu Hồ. Vẻ ưu sầu của cảnh vật thì vẫn hãy còn đây, nhưng những sự tích anh hùng ngày xưa thì đã không còn nữa. Biết bao nhiêu là chuyện hưng vong thành bại của thời buổi Lục Triều, ta chỉ còn biết nắm chặc dây cương mà một mình hú to lên để tỏ niềm cảm khái mà thôi !
Đây quả là một bài thơ hoài cổ vô cùng cảm khái ! Khiến người đọc cũng không khỏi bâng khuâng trước đỗi thay thành bại của cuộc đời. Lịch sử đã sang trang, thời gian đà biền biệt. Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu !?...
* Diễn Nôm :
THÁI THẠCH ĐỘ
Thái Thạch hào rãnh đất trời,
Giang Nam tranh bá tự thời Đông Ngô.
Núi liền Kiến Nghiệp lô nhô,
Một dòng sông tiếp Vu Hồ đâu đây.
Cảnh xưa sầu vẫn đong đầy,
Anh hùng thế sự đã phai mất rồi.
Lục Triều hưng phế đầy vơi,
Ghìm cương cảm khái bên trời hú vang !
Đỗ Chiêu Đức
12. Bài thơ Trường An Thành Hoài Cổ :
長安城懷古 TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
木落禾凋帝業移, Mộc lạc hòa điêu đế nghiệp di,
李家收得版圖歸。 Lý gia thâu đắc bản đồ quy.
山圍故國規模小, Sơn vi cố quốc quy mô tiểu,
竹暗荒城草木非。 Trúc ám hoang thành thảo mộc phi.
古寺僧鍾敲落日, Cổ tự tăng chung xao lạc nhựt,
斷溪牛笛弄斜暉。 Đoạn khê ngưu địch lộng tà huy.
英雄舊事無尋處, Anh hùng cựu sự vô tầm xứ,
獨倚江亭看翠微。 Độc ỷ giang đình khán thúy vi.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Trường An 長安 : là Trường kỳ bình an 長期平安, là Bình an dài lâu, từ dùng để đặt tên cho kinh đô từ đời nhà Hán, trải qua 13 triều đại sau đó đều gọi kinh đô là Trường An, cho đến đời nhà Minh mới đổi tên thành Tây An cho đến hiện nay. Trong lịch sử Việt Nam ta cũng gọi Thăng Long thành là Trường An.
- Mộc Lạc Hòa Điêu 木落禾凋 : Cây rụng lá, lúa rơm tàn tạ; chỉ cảnh hoang tàn buổi cuối thu, cảnh tiêu điêu hoang phế của di tích bị bỏ hoang. Bốn chữ đầu câu 1, lẽ ra có thể nói đơn giản là THẢO MỘC ĐIÊU LINH 草木凋零 (Cỏ cây tàn tạ), nhưng lại được nói cầu kỳ là MỘC LẠC HÒA ĐIÊU, phải chăng cụ Nguyễn Trung Ngạn muốn nhắc cho ta nhớ lại bài sấm cây gạo của Sư Vạn Hạnh làm ra để hợp thức hóa cho Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn lên ngôi, trong đó có 2 câu chính là :
...禾刀木落 Hòa đao mộc lạc,
十八子成... Thập bát tử thành.
Có nghĩa :
- 禾 Hòa 刀 Đao 木 Mộc : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 梨 LÊ, đồng âm với chữ LÊ là họ LÊ 黎; LẠC là rơi rụng; chỉ Nhà LÊ mất.
- 十 Thập 八 Bát 子 Tử : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 李 LÝ; THÀNH là Thành lập, chỉ nhà LÝ sẽ được thành lập nên.
- Lý Gia 李家 : Nhà họ Lý, ở đây chỉ triều đại của Lý Thái Tổ 李太祖, tên thật là Lý Công Uẩn 李公蘊, là vị hoàng đế lập ra nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, ông trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
- Tăng Chung 僧鍾 : Tiếng chuông do các nhà sư dộng lên ở trên chùa.
- Ngưu Địch 牛笛 : Tiếng sáo của những đứa trẻ chăn trâu.
- Giang Đình 江亭 : Cái đình cất ở ven sông.
- Thúy Vi 翠微 : Tên của một loại hoa Lan; đồng thời THÚY VI cũng có nghĩa là cảnh vật xanh tươi của núi sông, hay chỉ cây cỏ xanh tươi rậm rạp.
* Nghĩa bài thơ :
TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
Cây rụng lá, cỏ rơm tàn tạ héo úa, cảnh vật hoang tàn khi cơ nghiệp của đế vương đã vời đi nơi khác, Nhà họ Lý đã thâu tóm được bản đồ của giang san nầy về một mối. Những dãy núi vây quanh nước cũ quy mô như bị nhỏ lại; những rừng trúc dại che mờ cả thành trì bị bỏ hoang, cây cỏ như chẳng biết gì. Tiếng chuông chùa cổ ngân lên trong ánh nắng tà huy và tiếng sáo của trẻ mục đồng cũng véo von trong buổi chiều tà. Chuyện hào hùng xưa của các anh hùng giờ biết tìm nơi đâu ? Ta chỉ còn một mình dựa vào cái đình bên sông nầy mà ngắm cảnh vẫn xanh tươi của núi non cây cỏ mà thôi !
Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" của Bà Huyện Thanh Quan với :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
và thật cảm khái với :
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương !
Cảnh hoài cổ nào mà chẳng buồn, chẳng làm xúc động lòng người !?
* Diễn Nôm :
TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
Cỏ cây tàn úa nghiệp vua vời,
Nhà Lý gồm thâu hết mọi nơi.
Núi phủ nước xưa quy mô nhỏ,
Trúc che thành cũ cỏ cây phơi.
Chuông ngân cổ tự chiều nghiêng bóng,
Sáo vẳng mục đồng nắng xế lơi.
Sự nghiệp anh hùng đâu thấy nữa,
Tựa đình lặng ngắm núi mây trôi !...
Lục bát :
Vua vời cây cỏ tàn phai,
Gom về họ Lý đất đai một nhà.
Núi vây cố quốc quanh ta,
Thành hoang trúc phủ la đà cỏ cây.
Chuông chùa cổ vẳng đâu đây,
Mục đồng sáo trúc hây hây nắng chiều.
Anh hùng chuyện cũ buồn thiu,
Tựa đình nước ngắm non chiều xanh xanh !
Đỗ Chiêu Đức
13. Bài thơ Túc Hoa Âm Tự :
宿花陰寺 TÚC HOA ÂM TỰ
偶徬招提宿, Ngẫu bạng chiêu đề túc,
僧留半榻分。 Tăng lưu bán tháp phân
石泉朝汲水, Thạch tuyền triêu cấp thuỷ,
紙帳夜眠雲。 Chỉ trướng dạ miên vân.
松子臨窗墜, Tùng tử lâm song truỵ.
猿聲隔岸聞。 Viên thanh cách ngạn văn
粥魚敲夢醒, Chúc ngư sao mộng tỉnh,
花雨落繽紛。 Hoa vũ lạc tân phân.
阮中彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Hoa Âm Tự 花陰寺 : Chùa Hoa Âm, ở phía bắc của thành phố Loan Châu thuộc đông bộ của tỉnh Hà Bắc hiện nay. HOA ÂM TỰ hiện đã phát triển thành Bắc Tự Công Viên 北寺公園.
- Ngẫu Bạng 偶徬 : NGẪU là Ngẫu nhiên, là Tình cờ đến bên cạnh...
- Chiêu Đề 招提 : Có gốc tiếng Phạn là caturdeśa, phiên âm tiếng Hoa là "Thác đấu đề xa 拓鬥提奢", gọi tắt là THÁC ĐỀ, sau nhầm chữ THÁC 拓 thành chữ CHIÊU 招, nên mới gọi là CHIÊU ĐỀ. Vốn có nghĩa Phạn là "Bốn Phương", dùng để chỉ các tăng lữ vân du bốn phương gọi là "CHIÊU ĐỀ TĂNG 招提僧". Bắc Ngụy Thái Võ Đế cất tăng viện, gọi là CHIÊU ĐỀ, nên sau gọi chung chùa chiền là CHIÊU ĐỀ hoặc GIÀ LAM 伽藍, tiếng Phạn là samghrma, cũng là từ dùng để chỉ "Thiền Môn Chùa Chiền" như trong Truyện Kiều tả lúc Thúy Kiều ở Chiêu Ẩn Am với sư Giác Duyên có câu :
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa GIÀ.
Cửa GIÀ là cửa GIÀ LAM là Cửa Chùa giống như là CHIÊU ĐỀ vậy. Nên...
- Chiêu Đề Túc 招提宿 : là Tá túc lại trong chùa, là ngủ qua đêm trong chùa.
- Tháp 榻 : là cái sạp, cái giường hẹp mà dài. Như TRÚC THÁP 竹榻 là cái Chỏng bằng tre. BÁN THÁP 半榻 là Nửa cái chỏng, nửa cái giường nằm.
- Cấp Thủy 汲水 : là Múc nước, rút nước.
- Chỉ Trướng 紙帳 : là Màn giấy, là cái mùng ngủ được làm bằng vỏ của cây mây đai kết sơ sài lại để làm mùng, phía trên được phủ bởi một lớp vải mỏng có vẽ hình các loại hoa, ở trong chùa thì vẽ hình mây bay ở trên trời, nên câu thơ "Chỉ Trướng dạ miên vân 紙帳夜眠雲" có nghĩa : "Ban đêm ngủ với MÂY trong mùng giấy" là thế.
- Chúc Ngư 粥魚 : là cái Mỏ, là khúc cây đẽo hình con cá được móc rổng ruột để gỏ cho kêu, còn gọi là MỘC NGƯ 木魚.
- Tân Phân 繽紛 : là Sặc sỡ, là lả tả. LẠC TÂN PHÂN là Rơi lả tả.
* Nghĩa Bài Thơ :
ĐÊM TRỌ CHÙA HOA ÂM
Tình cờ đến cạnh ngôi chùa và tá túc qua đêm nơi đây, nhà sư đã chia cho ta nửa chiếc giường để nằm. Buổi sáng thì đi lấy nước ở các khe suối đá, còn ban đêm thì ngủ với mây trong mùng giấy. Những trái thông sột soạt rụng ngay trước song cửa và tiếng vượn hú gọi đàn vẳng bên kia bờ khe suối. Tiếng mỏ sáng vang lên làm tỉnh giấc mộng buổi ban mai, nhìn ra ngoài thấy những cánh hoa đang lả tả rơi rụng như mưa !
* Diễn Nôm :
ĐÊM TRỌ CHÙA HOA ÂM
Ngủ lại chùa đêm xuống,
Nửa giường sư nhượng ta.
Nước đá khe sáng lấy,
Mùng mây giấc đêm qua.
Bên song nghe thông rụng,
Tiếng vượn vẳng bờ xa.
Mỏ sớm choàng tỉnh mộng,
Lả tả trận mưa hoa !
Lục bát :
Tình cờ tá túc Hoa Âm,
Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
Nước trong suối đá êm êm,
Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !
Đỗ Chiêu Đức (diễn Nôm)
14. Bài thơ Tư Quy:
思歸 TƯ QUY
百歲能堪幾別離, Bách tuế năng kham kỷ biệt ly ?
異鄉久客未成歸。 Dị hương cửu khách vị thành quy.
春深庭院槐陰合, Xuân thâm đình viện hòe âm hợp,
日暖池塘柳絮飛。 Nhật noãn trì đường liễu nhứ phi.
萬斛鄉愁難當酒, Vạn hộc hương sầu nan đáng tửu,
三分病骨不勝衣。 Tam phân bệnh cốt bất thăng bi.
黃塵無限都門外, Hoàng trần vô hạn đô môn ngoại,
早趁南薰賦式微。 Tảo sấn nam huân phú Thức Vi.
阮中彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Cửu Khách 久客 : Ở nơi đất khách lâu ngày.
- Xuân Thâm 春深 : Xuân đã vào sâu, có nghĩa là đã cuối xuân rồi.
- Liễu Nhứ 柳絮 : Hạt và hoa liễu màu trắng ở buổi cuối xuân.
- Vạn Hộc 萬斛 : Một Hộc = 10 đấu; VẠN HỘC ở đây chỉ Thật nhiều thật nhiều.
- Nan Đương Tửu 難當酒 : Khó mà uống được rượu, khó mà rót rượu uống cho nổi.
- Bất Thăng Y 不勝衣 : Không mặc nổi áo, không có sức để mặc áo.
- Sấn 趁 : Nhân lúc, Thừa dịp...
- Nam Huân 南薰 : Theo Khổng Tử Gia Ngữ, có dẫn bài ca của Đế Thuấn là : " Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề. 南風之薰兮,可以解吾民之愠兮。 "... Có nghĩa : Cái mát mẻ ấm áp của gió Nam, có thể giải tỏa được nỗi lòng u uẩn ẩn ức của dân Nam ta ! Với thâm Ý nầy, ông Phạm Qùynh đã lập ra Nam Phong Tạp Chí với Ý đồ mở mang dân trí và xoa dịu lòng dân để ẩn nhẫn đợi thời ! NAM HUÂN ở đây chỉ sự mát mẻ của gió nam vào những buổi trưa.
- Thức Vi 式微 : Tên bài thơ thuộc chương Bắc Phong 邶風 trong Kinh Thi 詩經 như sau :
式微,式微 ! Thức vi! Thức vi!
胡不歸 ? Hồ bất quy?
微君之故, Vi quân chi cố,
胡為乎中露 ! Hồ vi hô trung lộ ?
Có nghĩa :
Tối rồi đa, tối rồi đa !
Sao chẳng về nhà, ở đó làm chi ?
Vì vua nên phải chay lì,
Dầm sương dãi nắng xá chi thân nầy !
- Phú Thức Vi 賦式微 : Ngâm bài ca dao Thức Vi, ý nói "Sao chẳng về nhà ?"
* Nghĩa bài thơ :
MUỐN TRỞ VỀ
Đời người trăm năm có thể chịu đựng được mấy lần ly biệt đây ? Làm khách nơi xứ lạ quê người đã lâu nhưng còn chưa về được. Trong buổi tàn xuân nhìn bóng cây hòe trong sân họp lại. Ánh nắng ấm áp bên ao hồ tơ liễu trắng tung bay. Rượu cả vạn hộc nhưng vì lòng đang mang mối sầu quê hương nên không thể chuốc chén được; Bệnh tật đã thâm vào xương hết ba phần rồi nên hầu như không còn sức để mặc áo nữa ! Ngoài cửa Đô môn bụi vàng (của những ngựa xe qua lại) cuốn bay mờ mịt. Ta muốn sớm nhân lúc gió nam còn mát mẻ nầy mà tìm đường về lại quê nhà (hát bài Thức Vi, tức là Ý muốn về lại quê nhà).
* Diễn Nôm :
TƯ QUY
Trăm năm chịu được mấy phân ly ?
Đất khách muốn về dễ mấy khi.
Sân trước xuân tàn hòe rợp bóng,
Ao truôm nắng ấm liễu bay đi.
Lòng quê trước rượu khôn nâng chén,
Bệnh tật vào xương áo khó ghì.
Mù mịt bụi vàng bay trước ngõ,
Gió nam hát khúc "Thức Vi" thi !
Lục bát :
Trăm năm chịu mấy chia ly ?
Xứ người thân khách mấy khi được về !
Xuân tàn sân rợp bóng hòe,
Bên ao nắng ấm đón hè liễu bay.
Nhớ quê muôn chén khó say,
Xương tàn bệnh tật khôn cài áo khuy.
Cửa Đô bụi cuốn bay đi,
Gió nam hát khúc Thức Vi muốn về !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
15. Bài thơ Tương Giang Tặng Biệt:
湘江贈別 TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
數杯別酒驛亭邊, Sổ bôi biệt tửu dịch đình biên,
君上征鞍我上船。 Quân thướng chinh yên ngã thướng thuyền.
獨倚蓬山愁不語, Độc ỷ Bồng sơn sầu bất ngữ,
一江湘水碧連天。 Nhất giang Tương thủy bích liên thiên !
阮中彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú thích :
- Tương Giang 湘江 : Còn được gọi là Tương Thủy 湘水, là một trong những con sông nhánh quan trọng của Trường Giang và con sông lớn nhất của tỉnh Hồ Nam.
- Sổ 數 : là Một vài, là Mấy. Nếu là Động từ thì có nghĩa là Đếm; Còn nếu đọc là SỐ thì là Danh từ chỉ các chữ số, con số.
- Dịch Đình 驛亭 : là Cái trạm, cái đình cất ở ven đường hay ven sông để nghỉ chân và để làm nơi đưa tiễn nhau.
- Chinh Yên 征鞍 : là cái yên ngựa, mà cũng để chỉ con ngựa sẽ được cởi đi xa.
- Bồng Sơn 蓬山 : Núi Bồng Lai, chỉ chung nơi tiên ở.
* Nghĩa bài thơ :
TẶNG LÚC CHIA TAY TRÊN SÔNG TƯƠNG
Bên cạnh quán dịch bên đường, ta cùng bạn uống vài chung rượu chia tay. Đoạn bạn lên ngựa để vượt đường xa còn ta thì bước xuống thuyền. Ta một mình đứng tựa thuyền nhìn núi Bồng Lai mà buồn nói chẳng nên lời. Xa xa dòng nước sông Tương xanh biếc như nối liền cả nước trời lại với nhau.
Đọc hai câu chót của bài nầy làm cho ta nhớ đến bài thất ngôn tứ tuyệt "黃鶴樓送孟浩然之廣陵 Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng" của Thi Tiên Lý Bạch :
故人西辭黃鶴樓, Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu,
煙花三月下陽州。 Yên ba tam nguyệt hạ Dương Châu.
孤帆遠影碧空盡, Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
惟見長江天際流。 Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Diễn Nôm :
Giả từ Hoàng Hạc phía lầu tây,
Xuân đến Dương Châu rực cỏ cây.
Chỉ thấy cánh buồm côi khuất dạng,
Trường Giang nước chảy lẫn trời mây !
Lý Bạch không nói gì đến tình cảm thắm thiết của mình với "cố nhân", nhưng qua hình ảnh đứng nhìn theo cánh buồm của chiếc thuyền chở bạn đi đến khi mất hút trong bầu trời xanh mà vẫn còn nhìn mãi dòng nước chảy đã đưa bạn đến tận phía chân trời, ta cũng thấy được sự quyến luyến vô vàn của một tình bạn nồng nàn thắm thiết đến cở nào ! Nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn của ta cũng vậy, một mình đứng tựa thuyền mà trông dòng sông Tương xa xa mênh mông xanh biếc trời nước liền nhau mà buồn nói chẳng nên lời.
* Diễn Nôm :
TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
Dịch quán chia tay rượu mấy hồi,
Xuống thuyền lên ngựa tách đôi nơi.
Núi Bồng sầu tựa buồn không nói,
Một dãi sông Tương nước lộn trời.
Lục bát :
Tiễn đưa mấy chén quan hà,
Bạn thì lên ngựa còn ta xuống thuyền.
Bồng Sơn sầu tựa núi tiên,
Sông Tương một dãi nối liền trời mây !
Mời đọc tiếp Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 4)
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
__________________________________
Góc Việt Cổ Thi:
Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
(Phần 2)
6. Bài thơ Hoàng Hạc Lâu:
黃鶴樓 Hoàng Hạc Lâu
旅懷何處可消憂, Lữ hoài hà xứ khả tiêu ưu ?
黃鶴磯南一倚樓。 Hoàng hạc cơ nam nhất ỷ lâu.
夏口遠帆來別浦, Hạ Khẩu viễn phàm lai biệt phố,
漢陽晴樹隔滄洲。 Hán Dương tình thọ cách thương Châu.
樓前歌管迴翁醉, Lâu tiền ca quản hồi ông túy,
檻外煙波太白愁。 Hạm ngoại yên ba Thái Bạch sầu.
猛拍欗杆還自傲, Mãnh phách lan can hoàn tự ngạo,
江山奇絕我茲遊。 Giang sơn kỳ tuyệt ngã tư du !
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
- Lữ Hoài 旅懷 : LỮ là Ở xa nhà, HOÀI là Nỗi lòng, nên LỮ HOÀI là Nỗi lòng của người xa xứ.
- Tiêu Ưu 消憂 : là Tiêu trừ ưu tư, là Làm cho hết buồn lo.
- Hoàng Hạc Cơ 黃鶴磯 : là núi đá nhô lên trên Xà Sơn của thành phố Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Tương truyền có tiên nhân Tử An cởi hạc ghé ngang qua đây, nên mới có tên là HOÀNG HẠC CƠ. Hoàng Hạc Lâu được xây dựng trên Hoàng Hạc Cơ nầy.
- Hạ Khẩu 夏口 : Nằm trong quận Giang Hạ, là Hán Khẩu của thành phố Vũ Hán hiện nay, nằm ở phía đông của Hán Thủy và bờ bắc của sông Trường Giang.
- Hán Dương 漢陽 : Địa danh nằm ở phía tây Hoàng Hạc Lâu và ở bờ bắc của sông Hán Thủy.
- Thương Châu 滄洲 : Phiếm chỉ Đại từ dùng để chỉ những bến nước hay cồn đảo, nơi mà ngày xưa các ẩn sĩ hay tìm đến để ở. Còn THƯƠNG CHÂU 滄洲 (địa danh) là thành phố lớn phía đông nam của tỉnh Hà bắc, phía đông giáp biển Bột Hải, phía bắc giáp thành phố Thiên Tân, cách Hoàng Hạc lâu rất xa.
- Hồi Ông Túy 迴翁醉 : Chỉ Ông đạo sĩ trở lại uống rượu say sưa lần chót trên lầu, rồi thổi tiêu cho hạc bay xuống và cởi hạc đi mất.
- Thái Bạch Sầu 太白愁 : Thi tiên Lý Bạch buồn vì không làm thơ được trước bài thơ qúa hay của Thôi Hiệu.(Mời đọc bài Hoàng Hạc Lâu theo link dưới đây sẽ rõ : 57 . Hoàng Hạc Lâu & .... - Đỗ Chiêu Đức 1
57 . Hoàng Hạc Lâu & .... - Đỗ Chiêu Đức 1
- Mãnh Phách 猛拍 : là Vỗ mạnh, vỗ đánh đét vào ...cái gì đó.
- Tư 茲 : là Nay, là Nầy. TƯ DU 茲遊 là Nay ta được dạo chơi ở đây.
* Nghĩa Bài Thơ :
LẦU HOÀNG HẠC
Nỗi lòng của người xa xứ biết nơi nào mới có thể tiêu sầu được đây ? Chỉ có đứng vựa vào lầu để ngắm lầu Hoàng Hạc trên Hoàng Hạc Cơ mà thôi ! Từ cửa Hạ Khẩu ta thấy những cánh buồm xa xa đến từ những bến bờ khác, Cách các cồn đảo trên sông nước ta thấy hàng cây xanh bày ra bên bờ Hán Dương xa xa. Trước lầu tiếng tiêu thiều ca múa như lúc ông đạo sĩ uống say trở lại, và bên ngoài lầu khói sóng trên sông làm cho Lý Thái Bạch phải buồn bã vì không làm thơ được. Ta vỗ mạnh vào lan can mà tự mãn nguyên rằng, ngày hôm nay, tại nơi đây ta cũng đã ngắm được cảnh núi sông kỳ tuyệt nầy.
Vẫn giữ vần điệu và âm vận bất hủ của bài "Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu" với các vần như LÂU, CHÂU, SẦU ... làm người đọc có cảm giác như đây là một tục bản của Hoàng Hạc lâu thuở nào . Sau nầy cụ Nguyễn Du và Phan Thanh Giản khi đi sứ phương bắc cũng có thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu, mặc dù không theo các âm vận trên, nhưng cũng có nét độc đáo riêng của Lầu Hoàng Hạc nên thơ và gợi cảm theo cách nhìn và cảm xúc của từng người theo từng thời đại ...
* Diễn Nôm :
HOÀNG HẠC LÂU
Nỗi lòng viễn xứ tỏ nơi đâu ?
Đứng tựa nam cơ Hoàng Hạc Lâu.
Hạ Khẩu buồm xa từ bến lạ,
Hán Dương cây tạnh cách thương châu.
Trước lầu tiêu sáo ông say đến,
Ngoài bãi khói sông Lý Bạch sầu.
Vổ mạnh lan can lòng tự mãn,
Núi sông tuyệt đẹp khỏi tìm đâu !
Lục bát :
Lòng sầu lữ khách khôn khây,
Lên lầu Hoàng Hạc ngắm mây cuối trời.
Cánh buồm Hạ Khẩu ngoài khơi,
Hán Dương trời tạnh cây phơi bãi cồn.
Trước lầu tiêu sáo dập dồn,
Ngoài hiên Lý Bạch chợt buồn vì thơ.
Lan can vổ mạnh chẳng ngờ,
Núi sông thắng cảnh hiện giờ riêng ta !
Đỗ Chiêu Đức
7.Bài thơ Hồi Nhạn Phong:
回鴈峰 HỒI NHẠN PHONG
竹露松煙曉翠岩, Trúc lộ tùng yên hiểu thúy nham,
參差亭下出青嵐。 Sâm si đình hạ xuất thanh lam.
山頭回去秋風雁, Sơn đầu hồi khứ thu phong nhạn,
誰為傳書到嶺南。 Thùy vị truyền thư đáo Lĩnh Nam ?
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích:
- Hồi Nhạn Phong 回鴈峰 : Địa danh, nằm ở thành phố Hành Dương tỉnh Hồ Nam. Độ cao hơn mặt nước biển 96.8 m, đứng đầu trong 72 ngọn núi cao của Nam Nhạc, xưng là Nam Nhạc Đệ Nhứt Phong. Tương truyền, khi nhạn xuôi nam, bay đến đây đều quay ngược trở về, nên mới có tên là Hồi Nhạn Phong.
- Hiểu Thúy Nham 曉翠岩 : HIỂU là Buổi sáng, THÚY là Màu xanh biếc, NHAM là Nham thạch, là những tảng đá xanh biếc trong buổi sáng.
- Sâm Si 參差 : Vốn là chữ THAM 參 và chữ SAI 差, ở đây ghép lại thành Hình Dung Từ, nên đọc là SÂM SI : có nghĩa là So le, cao thấp không đều nhau. Trong Thiên " Chu Nam. Quan Thư 周南. 關雎 " trong Kinh Thi có bài :
參差荇菜,左右流之。Sâm si hạnh thái, Tả hữu lưu chi.
窈窕淑女,寤寐求之。Yểu điệu thục nữ, Ngụ mị cầu chi.
求之不得,寤寐思服。Cầu chi bất đắc, ngụ mị tư phục.
悠哉悠哉,輾轉反側。Du tai du tai, Triển chuyển phản trắc.
Có nghĩa :
So le rau Hạnh, phải trái xuôi dòng.
Yểu điệu thục nữ, đêm nhớ ngày mong.
Cầu mà chẳng được, thức ngủ nhớ mong.
Dài thay dài thay, trăn trở mấy vòng !
Lục bát :
Kìa xem rau hạnh so le,
Theo nước trong xè, phải trái chảy đi.
Cô em yểu điệu nhu mì,