



Tương truyền, khi làm xong 2 câu đầu của bài "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" nầy là :
月落乌啼霜满天, Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
江枫魚火對愁眠. Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên.
… thì nhà thơ Trương Kế 張繼 (715~779) của ta bí lối, bí vần, "bí xà lù"... không biết phải làm tiếp 2 câu kế như thế nào, nên cứ trằn trọc mãi, không ngủ được. Thời may, từ đâu vọng đến tiếng chuông chùa trên núi Hàn San gần đấy, làm cho ông xúc cảnh sinh tình mà hạ nốt 2 câu chót rất bất hủ là :
姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại, Hàn San tự,
夜半锺聲到客船. Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.
Tiếng chuông vừa khuấy động không gian tĩnh mịch của đêm thanh, vừa như cảm thông với người lữ thứ cô đơn mà vọng đến để an ủi, dỗ dề....Nhưng, tại sao giữa đêm khuya (dạ bán : là nửa đêm) lại có tiếng chuông chùa vọng đến thế kia ? Thường thì rựng sáng chùa mới có hồi chuông công phu, sao chùa Hàn San lại công phu giữa đêm. À, thì ra lại có một câu chuyện giai thoại văn chương như thế nầy :

Tương truyền, đêm hôm ấy, khoảng mùng 3, mùng 4 gì đó, nên vành trăng non đầu tháng treo lơ lửng trên không, khiến cho Sư Cụ trong chùa ngắm trăng rồi xúc động mà ngâm thành 2 câu thơ sau :
一片玉弧分两段, Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
半沉水底半浮空. Bán trầm thủy để, bán phù không.
Có nghĩa :
Một cây cung bằng ngọc, được chia ra làm 2 đoạn. Một nửa chìm dưới đáy nước, một nửa nổi ở trên không trung. Ý thơ hay quá, vì 2 mảnh trăng lưỡi liềm, một trên trời, một dưới nước, nếu ráp lại với nhau thì như là một vành cung bằng ngọc.
Nhưng, khổ nỗi, là thầy cũng không tìm ra được 2 câu nối để hoàn tất bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Nên chi, thầy không ngủ được, thao thức mãi mới bật dậy đi quanh chùa, tình cờ thầy gặp một chú Tiểu cũng đang thơ thẩn cạnh hồ sen. Sau phút ngạc nhiên, hỏi ra, thì ra chú Tiểu ta cũng thấy trăng non mà xúc động nên làm ra 2 câu thơ, và cũng không tìm được 2 câu nối, nên cũng không ngủ được mà còn thơ thẩn ở đây. Quả là sự ngẫu nhiên trùng hợp. Sư Cụ mới bảo chú Tiểu đọc ra 2 câu thơ đó xem sao. Chú Tiểu bèn đọc là :
初三初四月朦朧, Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,
半似银钩半似弓. Bán tự ngân câu, bán tự cung.
Có nghĩa :
Mùng 3 mũng 4 ánh trăng còn mông lung mờ ảo, Nửa giống như là cái móc bạc, nửa giống như là cánh cung...
... thì cũng vừa vặn ráp với 2 câu của Sư Cụ thành một bài Tứ Tuyệt như sau :
初三初四月朦朧, Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung,
半似银钩半似弓. Bán tự ngân câu, bán tự cung.
一片玉弧分两段, Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn,
半沉水底半浮空. Bán trầm thủy để, bán phù không.
Có nghĩa :
Mùng ba mùng bốn trăng mờ,
Nửa như móc bạc nửa ngờ cánh cung.
Ngọc bình hai nửa chia phân,
Nửa chìm đáy nước nửa phần trời cao.
Hay quá, lại vừa đúng niêm luật, lại vừa đúng vận, thành một bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt hoàn bích. Sư Cụ mới bảo với chú Tiểu là : Không biết sau nầy thầy trò ta có cùng tu thành chánh quả hay không, chứ hiện nay thì thầy trò ta đã cùng gặp nhau trong văn chương rồi, âu đây cũng là ý của Phật Tổ chứng chiếu, vậy thì con hãy vào nấu nước pha trà, để thầy trò ta cùng tạ ơn Phật Tổ. Chú Tiểu vâng lời thầy, nên sau khi thắp nhang cúng Phật, mới có tiếng chuông chùa nửa đêm vọng xuống thuyền của Trương Kế, để nhà nhơ hoàn tất bài thơ bất hủ "Phong Kiều Dạ Bạc" là thế ! (楓橋夜泊 Đêm ghé thuyền ở bến Phong Kiều).

Sau đây là bài thơ diễn nôm bằng thể Lục bát của nhà thơ Tản Đà :
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
... Và sau đây là bài diễn nôm của Đỗ Chiêu Đức :
Trăng lặn qụa kêu sương khắp trời,
Bờ phong leo lét lửa chài phơi.
Cô Tô chùa lạnh Hàn San ấy,
Chuông vẳng nửa đêm não dạ người.
Thơ Tám chữ :
Trăng tà lạnh, tiếng quạ kêu sương xuống
Giấc sầu miên, sông vắng, đối lửa chài
Chùa Hàn San ngoại thành Cô Tô ấy
Nửa đêm buồn, chuông vẳng đến thuyền ai !

Giai thoại trên đây có thể do người đời sau đặt ra để tô điểm thêm cho bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc 楓橋夜泊" càng huyền hoặc và hấp dẫn hơn, đồng thời cũng giải thích cho việc tại sao vào lúc nửa đêm lại có tiếng chuông chùa công phu bất chợt. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng được thưởng thức thêm môt bài thơ hay nữa, chả tốt hơn sao !?...
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


Đây là bài thất ngôn cổ thi của Thi Tiên Lý Bạch, làm vào năm Thiên Bảo thứ 2 đời Đường Huyền Tông. Bài thơ gồm có 6 câu 42 chữ, tả lại lòng tưởng nhớ của một cô phụ đất Tần (Tràng An) nhớ về vùng biên tái xa xôi, nơi mà người chinh phu chinh chiến lâu ngày vẫn chưa trở lại. Nhớ thương trong nỗi niềm tuyệt vọng vì cũng tuyệt luôn cả đường giao thông và thư tín !
思邊 TƯ BIÊN
去 年 何 時 君 別 妾 ? Khứ niên hà thời quân biệt thiếp ?
南 園 綠 草 飛 蝴 蝶. Nam viên lục thảo phi hồ điệp.
今 歲 何 時 妾 憶 君 ? Kim tuế hà thời thiếp ức quân ?
西 山 白 雪 暗 秦 雲. Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân.
玉 關 去 此 三 千 里, Ngọc quan khứ thử tam thiên lý,
欲 寄 音 書 那 可 聞。 Dục ký âm thư nả khả văn.
李白 Lý Bạch

* Chú thích :
- HÀ THỜI 何 時 là Nghi vấn tự, có nghĩa :Khi nào, Lúc nào ?...
- NAM VIÊN 南 園 là từ phiếm chỉ, chỉ chung về các khu vườn cỏ, vườn hoa...
- LỤC THẢO PHI HỒ ĐIỆP 綠 草 飛 蝴 蝶 là Bướm bay trên thảm cỏ xanh; ý chỉ "Mùa Xuân".
- TÂY SƠN 西 山 là Núi Tây, chỉ vùng cao nguyên Thanh Tạng của nước Thổ Phồn ngày xưa, với quanh năm tuyết phủ.
- TẦN VÂN 秦 雲 là Mây ở đất Tần, Tần là đất của vùng Thiểm Tây, nơi có kinh đô Tràng An, mà cũng là nơi của người chinh phụ đang ở.
- NGỌC QUAN 玉 關 là Ngọc Môn Quan, cửa ải thông về hướng Tây bắc nằm ở biên tái tỉnh Cam Túc, là cửa ải nối liền với vùng Tây vực.
- Câu cuối : DỤC KÝ ÂM THƯ 欲 寄 音 書 là Muốn gởi thư hay nhắn tin...NẢ KHẢ VĂN 那 可 聞 là Điều đó làm sao mà nghe thấy được !? (Là Không thể có được!).
* Nghĩa Bài Thơ :
NHỚ VỀ VÙNG BIÊN TÁI
Năm trước, lúc nào thì chàng rời xa thiếp ? Đó là lúc bướm trong vườn đang bay lượn trên thảm cỏ xanh ! (là mùa xuân).
Năm nay, lúc nào thì thiếp đang nhớ chàng đây ? Chính là lúc mùa đông, khi tuyết trắng ở các dãy núi tây đang che mờ cả mây của đất Tần (là đất Tràng An mà thiếp đang ở đây).
Từ đây đến Ngọc Môn Quan phải mất ba ngàn dặm đường, nên muốn nhắn tin hay gởi thư đều không thể được gì cả ! (Vì có ai đi đến đó đâu mà gửi thư hay nhắn tin ! Cho nên đành nhớ thương trong đau buồn tuyệt vọng mà thôi !).
* Diễn Nôm :

Năm trước khi nào chàng biệt thiếp ?
Vườn nam cỏ biếc bướm vờn bay.
Năm nay lúc nào thiếp nhớ chàng ?
Núi Tây tuyết trắng mờ Tràng An.
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm,
Thư từ tin nhắn chẳng ai kham !
Lục bát :
Chia tay năm trước tiễn chàng,
Xuân tươi cỏ biếc bướm vàng lượn bay.
Năm nay đông đến nhớ ai...
Đất Tần mây phủ núi Tây lạnh lùng.
Ngọc Môn Quan cách nghìn trùng,
Tin thư vắng bặt não nùng lòng đây !
Hẹn bài dịch tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Một năm có bốn mùa : Xuân Hạ Thu Đông; THU là mùa thứ ba trong năm. Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì THU 秋 thuộc dạng chữ Hội Ý sau Tượng Hình, có diễn tiến chữ viết như sau :

Ta thấy :
- Bộ HÒA 禾 là Cây lúa, phần chữ Tượng hình có một bông lúa chín gục đầu về bên trái.
- Bộ HỎA 火 là Lửa, phần Tượng hình là hình tượng của một đống lửa cháy lên ba ngọn.
- Chữ THU 秋 là Mùa Thu, đươc ghép bởi chữ HÒA là Cây Lúa và chữ Hỏa là Lửa, với Hội ý là : Cây lúa đã chín đỏ rực như lửa khắp đồng ruộng. Mùa lúa chín tức là mùa thu hoạch và cũng là mùa THU trong năm, được gọi là THU THÂU 秋收 là "Thâu hoạch vào mùa Thu".
Chữ THU 秌 còn có một hình thức đặc biệt nữa là bộ HỎA 火 có thể đặt trước bộ HÒA 禾 để chỉ sự đỏ rực, vàng hực của cây lúa trong mùa Thu và đồng thời cũng là mùa của "Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo !" như cụ Nguyễn Khuyến đã tả trong bài THU ĐIẾU 秋釣 là "Câu cá trong mùa Thu".
Kể về bốn phương Đông Nam Tây Bắc, thì mùa Thu là hướng Tây, còn kể về Âm dương Ngũ hành thì Tây phương Canh Tân thuộc Kim, nên gió mùa thu là Kim Phong 金風, là "Gió Vàng" hiu hắt, se sắt lạnh lùng, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng hai câu :
Trải vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng!
Gió mùa thu là Gió Vàng, là gió của hướng Tây, nên trong ca dao dân gian vùng Nam bộ sông nước cũng có câu :
Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng.
..........
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo anh về đi học kẻo trưa!
Trong văn học cổ thì mùa thu được nhắc nhở bài bản tượng hình tiêu biểu với một chiếc lá Ngô đồng qua hai câu :

Ngô đồng nhất diệp lạc, 梧桐一葉落,
Thiên hạ cộng tri thu ! 天下共知秋!
Có nghĩa :
Ngô đồng một chiếc lá rơi,
Khắp cùng thiên hạ biết trời vào thu!
Còn trong văn thơ thời Tiền Chiến thì thi sĩ Ngyễn Bính đã cảm nhận mùa thu bằng hai chiếc lá Bàng, mà ngày xưa thầy giáo lớp Sơ cấp Tiểu học đã bắt học thuộc lòng như sau :
Thu đi, trên những cành Bàng,
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi,
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
Hôm nay, bởi thấy tôi buồn,
Lìa cành theo gió, lá luồn qua song.
Hai tay ôm lá vào lòng,
Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này,
Âm thầm sống với những ngày gió mưa...
Mùa thu năm Bính Tí (1937)

Riêng thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì cảm nhận mùa thu qua tất cả các mặt đặc trưng như THU PHONG (Gió thu), THU SƯƠNG (Sương thu), THU NGUYỆT (Trăng thu), THU DIỆP (Lá thu), THU GIANG (Sông thu)... trong bài "Cảm Thu, Tiễn Thu" qua các câu mở đầu của bài thơ như sau...
Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt, (Thu Phong 秋風)
Sương thu lạnh, (Thu Sương 秋霜)
Trăng thu bạch, (Thu Nguyệt 秋月)
Khói thu xây thành. (Thu Yên 秋煙)
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh, (Thu Diệp 秋葉)
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly....(Thu Giang 秋江)
Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du chỉ chấm phá những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu mà thôi, như:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng !

hoặc như :
... Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phao cầu giá đen gầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời Thu để riêng ai một người !
Mùa thu là mùa của thi nhân, mùa của những thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, với tình cảm thiết tha sướt mướt, với những khối tình sầu của những người yêu tưởng nhớ đến nhau; Ta hãy nghe Huyền Kiêu diễn tả thật nên thơ với các câu :
Thu vàng có chàng tới hỏi:
- Em thơ, chị đẹp em đâu?
- Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi !
Còn "Giọt Lệ Thu" của nữ sĩ Tương Phố thì buồn thương ướt át với...
Sầu thu nặng lệ thu đầy,
Vi lô san sát hơi may lạnh lùng.
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem Thu cảnh bạn cùng THU TÂM.
THU TÂM 秋心 là Tâm tình, tâm sự trong mùa thu heo may hiu hắt khi lòng đang nặng trĩu sầu tư... và đây cũng là một cách chơi chữ của nữ sĩ Tương Phố tài hoa : Lấy chữ TÂM 心 đặt dưới chữ THU 秋 ta sẽ có chữ SẦU 愁 theo phép Hội Ý; Tâm tình trong mùa thu thì thường là những mối tình sầu. Chẳng những trong thi ca mà cả trong âm nhạc nữa, mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc "THU SẦU" của cố nhạc sĩ tài hoa Lam Phương :

Ngoài nghĩa chỉ mùa Thu ra, THU còn có nghĩa là Một Năm, vì mỗi năm chỉ có một mùa Thu thôi; nên TAM THU 三秋 ngoài nghĩa là 3 tháng của mùa thu ra, còn có nghĩa là ba năm nữa; Như trong bài Thái Cát, chương Vương Phong trong Kinh Thi 《詩经·王風·采葛》:
彼采葛兮, Bỉ thái cát hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三月兮! Như tam nguyệt hề!
彼采蕭兮, Bỉ thái tiêu hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三秋兮! Như tam thu hề!
彼采艾兮, Bỉ thái ngải hề,
一日不見, Nhất nhật bất kiến,
如三歲兮! Như tam tuế hề!
Có nghĩa :
Người kia đi hái bố đay,
Vắng nhau dù chỉ một ngày mà thôi.
Tưa như ba tháng đà trôi !
Người kia đi hái cỏ tiêu,
Không gặp từ sáng đến chiều mà thôi.
Tưởng như ba thu qua rồi !
Người kia hái ngải nơi đâu,
Một ngày không gặp nghe sầu không thôi.
Đằng đẵng như ba năm trời!

Từ bài Kinh Thi trên đã hình thành một thành ngữ "Nhất Nhật Tam Thu 一日三秋" Có nghĩa : Một ngày dài tựa ba mùa thu (ba năm). Trong Truyện Kiều, tả lúc Kim Trọng tưởng nhớ Thúy Kiều cụ Nguyễn Du đã viết:
Sầu đong càng khắc càng đầy,
BA THU dọn lại MỘT NGÀY dài ghê!
Trong ca dao dân gian Nam bộ cũng có câu:
Xin đừng rẻ Bắc chia Nam.
Nhất nhật bất kiến như Tam Thu hề.
Huống Tam Thu bất kiến hề,
Người Nam kẻ Bắc nhớ về một phương!
TAM THU 三秋 là ba năm, nên THIÊN THU 千秋 là Ngàn năm, chỉ thời gian rất dài rất lâu, là mãi mãi về sau... như trong vế thơ mà nhà văn Khái Hưng trong Tự Lực văn Đoàn đã thoát dịch bài thơ của kịch tác gia người Pháp Félix Arvers (1806 - 1850) trong truyện ngắn "Tình Tuyệt Vọng" của Ông là:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành THIÊN THU.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay!...
THIÊN THU là Ngàn năm, thường dùng để chỉ thời gian vô tận của mãi mãi về sau mà không bao giờ với tới được... nên cũng dùng để tiễn đưa, điếu tang để tỏ lòng tiếc thương với người qúa cố; Ta hay nghe câu THIÊN THU VĨNH BIỆT 千秋永別, nói Nôm na là NGÀN THU VĨNH BIỆT hay VĨNH BIỆT NGÀN THU là sẽ mãi mãi không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa!
THIÊN THU là mãi mãi rồi, là cái móc thời gian ngàn năm mà con người không sao vươn tới được, nhưng dã tâm trong lòng con người lại rất lớn, nhất là những người đang có quyền lực trong tay, như trong truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của nhà văn Kim Dung, Nhậm Ngã Hành sau khi về nắm lại chức giáo chủ của Nhật Nguyệt Thần Giáo đã cho giáo chúng tung hô mình với câu "Văn thành võ đức, THIÊN THU VẠN TẢI, nhất thống giang hồ 文成武德,千秋萬載,一統江湖". Ý chỉ mới là giáo chủ của một bang giáo mà thôi, chả trách các hoàng đế ngày xưa đều muốn mọi người phải tung hô "VẠN TUẾ 萬歲". Ngàn tuổi còn không đạt được huống hồ muôn tuổi ! Thường thì từ "THIÊN THU" chỉ để ca ngợi công đức của các bậc thần thánh mà thôi, như những miếu thờ Quan Công của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới, ta thường thấy có đôi câu đối sau đây:
千秋義勇無雙士, THIÊN THU nghĩa dũng vô song sĩ,
萬古精忠第一人. Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhân.
Có nghĩa :
- Từ ngàn xưa đến nay, không có được người thứ hai trung nghĩa và dũng cảm như thế.
- Tính từ muôn đời trước, đây là người số một hết dạ trung thành với chúa mà thôi.
NGÀN THU nghĩa dũng không hai tướng,
Vạn cổ tinh trung chỉ một người!
Vì THU 秋 chỉ thời gian gần cuối năm, nên THU NƯƠNG 秋娘 là từ dùng để chỉ những phụ nữ đứng tuổi mà nhan sắc còn mặn gợi cảm, ta có thành ngữ "Bán Lão Thu Nương 半老秋娘" dùng để tán thưởng các bà các cô tuy già mà còn đẹp. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ những cô kỹ nữ, ca kỹ tài hoa ở đời Đường. Thường thì các cô nàng đã rất đẹp rồi lại trang điểm và làm dáng ra vẻ sầu thương ủy mị, lạnh lùng như nước mùa thu se sắt nhưng dễ đánh động lòng người, nên các cô thường được gọi là các "THU NƯƠNG 秋娘", là các "Nàng Thu" đẹp não nùng làm say mê các vương tôn công tử thích ăn chơi lúc bấy giờ. Nổi tiếng nhất có Đỗ Thu Nương 杜秋娘, Tạ Thu Nương 謝秋娘 (Xem lại bài NƯƠNG là NÀNG)... Trong bài thơ trường thiên "TÌ BÀ HÀNH" của Bạch Cư Dị, khi nàng ca kỹ đàn Tì Bà nổi tiếng năm xưa ở đất Tràng An kể lại thời vàng son của mình lúc còn trẻ đã nói:
曲罷曾教善才服, Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
妝成每被秋娘妒。 Trang thành mỗi bị THU NƯƠNG đố.
Có nghĩa :
- Đàn xong một khúc, thường được các người giỏi về đàn khâm phục,
- Mỗi lần trang điểm xong, thường bị các THU NƯƠNG đố kỵ, ganh tị.
Tì bà thán phục thiện tài,
Mỗi lần trang điểm ganh hoài THU NƯƠNG
Nên...
THU NƯƠNG 秋娘 còn là các cô nàng xinh đẹp như mùa Thu; THU BA 秋波, THU THỦY 秋水 là ánh mắt trong và đẹp như nước mùa thu gợn sóng của các giai nhân; THU NHAN 秋颜, THU DUNG 秋容 là Dung nhan đẹp mà buồn như mùa Thu, như nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã tự hào :
... Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi THU DUNG.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé THU BA dợn sóng khuynh thành...
THU đi với XUÂN, cho ta từ XUÂN THU 春秋, cũng là từ dùng để chỉ một khoảng thời gian dài, như : Đã trải qua biết mấy độ XUÂN THU rồi !... Có nghĩa là : Đã trải qua một thời gian với rất nhiều năm tháng qua đi rồi. Ta lại có thành ngữ "XUÂN KHỨ THU LAI 春去秋来" là : Xuân đi Thu đến, chỉ thời gian tuần tự qua đi một cách âm thầm lặng lẽ. Thành ngữ nầy lại làm cho ta nhớ đến một vế thơ trong bài "Mai Rụng" của J. Leiba (Lê Văn Bái), một thi sĩ thời Tiền Chiến:
Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh Thu sầu,
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau.
Xuân tới cành đào hoa lại nở,
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu?
Ngoài ra...
XUÂN THU 春秋 còn là một trong NGŨ KINH 五經 do khổng Tử san định là : Kinh DỊCH 易, Kinh THI 詩, Kinh THƯ 書, Kinh LỄ NHẠC 禮樂, Kinh XUÂN THU 春秋. KINH XUÂN THU được xem như là quyển biên niên sử đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Thời Kỳ Xuân Thu 春秋時期 vào khoảng (770-476/403 Trước Công Nguyên)là thời kỳ đầu của Đông Chu (Châu). Khổng Tử đã căn cứ vào Lỗ sử, từ Lỗ Ẩn Công nguyên niên (722 TCN) cho đến Lỗ Ai Công năm thứ 14 (481 TCN) qua 12 đời vua Lỗ để san định Kinh Xuân Thu. Lúc bấy giờ Thiên tử nhà Chu đã bắt đầu suy yếu, không còn hiệu lệnh được Chư hầu. Các châu huyện lớn và các thị tộc lớn đều đứng lên tuyên bố tự trị như một nước Chư hầu, tất cả có trên 140 nước chư hầu lớn nhỏ cùng tranh bá đồ vương. Các Chư hầu lớn mạnh dần lên rồi xưng hùng xưng bá, hình thành Xuân Thu Ngũ Bá 春秋五霸 là Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Vương kế tiếp nhau mà Xưng Bá Thiên Hạ. Suốt khoảng 242 năm của thời kỳ Xuân Thu có 36 vua Chư hầu bị sát hại, 52 nước Chư hầu nhỏ bị diệt vong, với hơn 480 trận chiến lớn nhỏ và trên 450 lần hiệp minh cùng triều kiến Thiên tử nhà Chu. Sau Thời kỳ XUÂN THU là Thời kỳ CHIẾN QUỐC 戰國時期 khoảng(475—221 TCN)Gọp chung hai thời kỳ nầy lại gọi là Thời kỳ XUÂN THU CHIẾN QUỐC 春秋戰國時期 khoảng trên 500 năm Trước Công Nguyên. "Xuân Thu Ngũ Bá 春秋五霸" cũng là tiền đề gợi ý cho nhà văn Kim Dung viết nên truyện võ hiệp nổi tiếng "Võ Lâm Ngũ Bá 武林五霸" sau nầy.

Khi san định KINH XUÂN THU, Khổng Tử đã dùng bút pháp thật nghiêm cẩn, khen chê đúng mực thẳng thắn, không vị nể, nên lại hình thành thành ngữ "XUÂN THU BÚT PHÁP 春秋筆法"; dùng rộng ra còn có nghĩa là chỉ cách viết phê phán việc gì đó một cách bộc trực, thẳng thắn không thiên vị. Trong văn học cổ, ta còn thường gặp các thành ngữ "Xuân... Thu..." như sau :
- XUÂN LAN THU CÚC 春蘭秋菊 : là Hoa lan của mùa xuân và hoa cúc của mùa thu. Có xuất xứ từ bài Lễ Hồn trong Cửu Ca của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc 戰國·屈原《九歌·禮魂》. vốn chỉ mỗi mùa hoa đều có một loại hoa đặc trưng riêng của mùa đó, và với hàm ý là : Hoa lan thì đẹp trong mùa xuân và hoa cúc thì đẹp trong mùa thu. Mỗi mùa mỗi hoa đều có vẻ đẹp độc đáo riêng của mùa hoa đó, mà không thể so sánh là "Mèo nào hơn mỉu nào" được ! Như cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim Trọng đánh giá một cách "Nịnh đầm" hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân là :
Bóng hồng nhác thấy nẽo xa,
XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai!
... Chỉ mới "nhác thấy nẽo xa..." thôi, mà đã biết là "XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai" rồi ! Thiệt là "Xạo hết chỗ nói". Nhưng... biết "Xạo" với phái đẹp, thì cũng "Dễ thương" thôi!
- XUÂN HOA THU NGUYỆT 春花秋月 : là Hoa của mùa xuân và trăng của mùa thu. Hai cái đẹp tiêu biểu nhất của hai mùa, nên cũng dùng để ám chỉ đó là cái thời gian vàng son, tươi đẹp, vui vẻ, hạnh phúc nhất của con người. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞美人" của Nam Đường Lý Hậu Chúa Lý Dục 李煜. Về mặt chính trị Lý Dục là một hôn quân không biết chăm lo cho việc triều chính, để đến đổi phải mất nước; nhưng về mặt văn học, thì ông lại là một văn học gia, một thi nhân và được xưng tụng là "Hoàng đế của Từ Đàn", nhất là khi ông bị giam lỏng như một tù nhân của nhà Tống, thì lời từ của ông càng thắm thía da diết buồn thương hơn của một đế vương vong quốc, như bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞美人" nổi tiếng sau đây:
春花秋月何時了? XUÂN HOA THU NGUYỆT hà thời liễu?
往事知多少! Vãng sự tri đa thiểu!
小樓昨夜又東風, Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,
故國不堪回首月明中。 Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
雕欄玉砌應猶在, Điêu lan ngọc thế ưng do tại,
只是朱顏改。 Chỉ thị chu nhan cải.
问君能有幾多愁? Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu ?
恰似一江春水向東流! Kháp tự nhất giang xuân thuỷ hướng đông lưu!
Có nghĩa :
- Cảnh đẹp như hoa xuân trăng thu bao giờ mới hết đây?
- Chuyện (tốt đẹp) cũ ôi biết là bao nhiêu !
- Đêm qua trên lầu nhỏ nầy lại hây hẩy gió xuân (gió hướng đông),
- Nhớ về cố quốc mà chẳng dám quay đầu (vì thẹn) với ánh trăng trong.
- Cung son điện ngọc chắc hãy vẫn còn đó...
- Chỉ là dung nhan tươi trẻ đã đổi thay...
- Dám hỏi người còn có được bao nhiêu là nỗi sầu (vong quốc đây)?
- Tất cả cũng giống như là một dòng nước xuân chảy miết và mất hút về hướng đông mà thôi ! (Không bao giờ còn tìm thấy lại được nữa !).
Lục bát :
XUÂN HOA THU NGUYỆT mãi còn,
Bấy nhiêu chuyện cũ mõi mòn lòng ta.
Gió xuân lầu nhỏ đêm qua,
Thẹn cùng cố quốc trăng xa quay đầu.
Cung son điện ngọc còn đâu?
Tuổi xanh má thắm dãi dầu sương pha.
Hỏi người sầu muộn kỷ đa ?
Tựa như dòng nước la đà về đông ...
Lời từ bày tỏ nỗi lòng ưu tư sầu muộn, nuối tiếc cho những ngày tháng tươi đẹp như "Xuân Hoa Thu Nguyệt" đã đi qua và sẽ mãi mãi không bao giờ còn tìm lại được nữa, mặc dù cung son điện ngọc ngày xưa vẫn còn đó. Chính lòng hối hận tiếc muối và đau buồn nầy của Lý Hậu Chúa đã khiến cho Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ban thuốc độc cho ông chết đi để chừa hậu hoạn. Bấm vào link dưới đây để nghe ca sĩ Đặng Lệ Quân, danh ca Đài Loan, hát bài "Kỷ Đa Sầu 幾多愁?" phổ nhạc bài từ trên :

Mùa THU là mùa của Thi nhân, của trời xanh mây trắng, của gió mát trăng thanh, của lá vàng bay trước gió... Ta hãy nghe cụ Tam Nguyên Yên Đổ vịnh trời thu như sau :
Trời THU xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu...
... và...
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Kịp đến bài THU ĐIẾU là "Mùa Thu Câu Cá" thì toàn cảnh mùa thu hiện ra một cách sống động, nhưng nhẹ nhàng với cái heo may hiu hắt lạnh lẽo của trời thu vắng lặng qua các vần "trong veo, tẻo teo, đưa vèo, vắng teo..." một cách tài tình và tuyệt vời :
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đến thời kỳ THƠ MỚI của các thi nhân Tiền Chiến thì không ai là không biết đến bài thơ "Tiếng Thu" của thi sĩ Lưu Trọng Lư khi nhắc đến mùa thu:
Em không nghe mùa thu...
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực...
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu...
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác...
Đạp trên lá vàng khô?...
Chỉ vỏn vẹn có 9 câu thơ mà tạo nên tên tuổi của Lưu Trọng Lư một cách bất hủ với hình ảnh của "Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô !..." và đó cũng là hình ảnh của Lưu Trọng Lư đã để lại một cách đậm nét trên thi đàn THƠ MỚI lúc bấy giờ và mãi mãi về sau nữa!...
Cũng như chỉ có hai câu văn trong bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC TỰ 滕王閣序 ở đời Đường khi tả cảnh Mùa Thu trên sông nước, cũng đã làm nên tên tuổi bất hủ của người đứng đầu Sơ Đường Tứ Kiệt 初唐四傑 Vương Bột 王勃 là :
落霞與孤騖齊飛, Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
秋水共長天一色。 THU THỦY cộng trường thiên nhất sắc!
Có nghĩa :
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Long lanh THU THỦY nước mây một màu!
Hình ảnh một cánh cò đơn lẻ bay trên sông nước mênh mông trong ánh nắng chiều tà đã gợi nên một ý thơ lai láng, cũng như một cánh hạc trắng bay vút lên không và in hình trên khoảng trời thu xanh lơ bát ngát cũng đưa hồn thơ của thi sĩ lên tận chốn mây xanh. Mời đọc bài THU TỪ 秋詞 của "Chàng Lưu" Lưu Vũ Tích sau đây :
自古逢秋悲寂寥, Tự cổ phùng thu bi tịch liêu,
我言秋日勝春朝。 Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu.
晴空一鶴排雲上, Tình không nhất hạc bài vân thượng,
便引詩情到碧霄。 Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu!
Có nghĩa :
Ngàn xưa THU đến gợi buồn tanh,
Ta bảo THU hơn xuân thắm xanh.
Cánh hạc vút trời mây bát ngát...
Hồn thơ cũng vút tận mây xanh !

Năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông ở xứ Quì Châu, lúc đó Thi Thánh Đỗ Phủ đã 56 tuổi đang mang bệnh phổi lại thân ở nơi tha hương đất khách. Cảm vì thân phận nổi trôi, công danh sự nghiệp trắc trở, tuổi già lại sồng sộc đến nơi, nên trong ngày mùng 9 tháng 9 tiết Trùng cửu đăng cao, một mình lên trên thành Bạch Đế ở Quì Châu, nhìn cảnh thu hiu hắt tiêu điều, núi sông lạnh lùng hùng vĩ, cuồn cuộn nước sông trong cảnh lá đổ muôn chiều, trăm ngàn cảm xúc dâng trào nên ông viết nên bài thơ "Đăng Cao" với cảnh thu bất hủ qua bốn câu thực và luận như sau đây :
... 無邊落木蕭蕭下, Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
不盡長江滾滾來。 Bất tận trường giang cổn cổn lai.
萬里悲秋常作客, Vạn lý bi thu thường tác khách,
百年多病獨登台。 Bách niên đa bệnh độc đăng đài...
Có nghĩa :
... Lá vàng lìa cội vàng rơi rụng,
Nước cuộn sông dài cuộn chảy tuôn.
Muôn dặm sầu thu thân đất khách,
Trăm năm thân thế bệnh còn vương...
Thật não lòng thay cho "Vạn lý bi thu thường tác khách"(Muôn dặm sầu thu thân đất khách)! Nhìn nước sông cuồn cuộn chảy trong cảnh lá đổ rạt rào, nỗi sầu thu trên đất khách càng thấm thía hơn khi có làn gió thu hắt hiu lạnh lùng thổi đến với đàn nhạn bay về nam in bóng trên nền trời xanh thẳm, như bài "Thu Phong Dẫn 秋風引" của Lưu Vũ Tích :
何處秋風至? Hà xứ thu phong chí ?
蕭蕭送雁群。 Tiêu tiêu tống nhạn quần.
朝來入庭樹, Triêu lai nhập đình thọ,
孤客最先聞。 Cô khách tối tiên văn.

Có nghĩa :
Gió thu từ đâu thổi đến ?
Hắt hiu đưa tiễn nhạn bầy,
Sáng nay luồn vào cây lá,
Lữ khách hay trước hơn ai !
Lục bát :
Từ đâu thổi đến gió thu ?
Hắt hiu đưa nhạn mịt mù bay cao.
Sáng nay cây lá lao xao,
Cô đơn lòng khách nao nao trước người !
Cảnh lạnh lùng hiu hắt heo may của mùa thu càng gợi sầu gợi cảm hơn với cảnh trí tiêu điều của hoa lá cỏ cây, của con đường mòn qua chiếc cầu nho nhỏ dưới ánh nắng chiều thu nhàn nhạt càng làm cho người khách tha phương ở tận chân trời cảm thấy đứt ruột hơn bao giờ hết qua bài từ "Thu Tứ 秋思" của Mã Trí Viễn đời Nguyên :
枯藤老樹昏鴉, Khô đằng, lão thụ, hôn nha,
小橋流水人家, Tiểu kiều, lưu thủy, nhân gia,
古道西風瘦馬。 Cổ đạo, Tây phong, xấu mã.
夕陽西下, Tịch dương tây hạ,
斷腸人在天涯 ! Đoạn trường nhân tại thiên nha !
Có nghĩa :
Mây khô, cây già, quạ ám,
Cầu nhỏ, nước chảy, nhà ai,
Đường xưa, gió tây, ngựa ốm,
Nắng chiều dần tắt,
Bên trời đứt ruột ai hay !

Trong cảnh... Mấy cọng mây khô quấn quanh một thân cây già trụi lá, có con qụa lạnh như đang ngủ gật đậu trên cành khô; Bên chiếc cầu nho nhỏ có dòng nước chảy qua là mấy nóc nhà ai trên con đường mòn xưa cũ; Gió tây hiu hắt lạnh lùng khiến cho con ngựa ốm hí vang... Nắng chiều dần tắt, một người lữ khách tha hương đang buồn muốn đứt ruột bên góc trời xa thẳm !
Ba câu đầu là 9 cái Danh từ cùng họp lại để tạo nên một cảnh mùa thu thê lương lạnh lùng hiu hắt se sắt trong gió Tây lạnh ngắt như đồng; Rồi mới hạ 2 câu sau : Trong cảnh nắng chiều dần tắt, có một người đang sầu thương đứt ruột bên trời !
Đọc bài từ trên, làm cho ta lại nhớ đến một bài đoản văn "CẢM THU" của nhà văn nhà thơ Đinh Hùng hồi thời Tiền Chiến trong phong trào Thơ Mới. Văn mà là thơ, vì ý thơ tràn ngập và bàng bạc trong từng câu văn gợi cảm; mời đọc các trích đoạn sau đây :
"Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ... Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và thấp thoáng trong vườn nhà ai, hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một tâm hồn con trẻ ?... Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi năm trước... Tôi vẫn ngờ như không sự đổi thay, vì lại thấy mình đi trên con đường vắng này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng đang rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ..."
Xin được kết thúc bài viết bằng lời trong nhạc phẩm "Nhìn Những Mùa Thu Đi" của Trịnh Công Sơn...
Nhìn những mùa thu đi...
em nghe sầu lên trong nắng...
và lá rụng ngoài song...
nghe tên mình vào quên lãng...
nghe tháng ngày chết trong thu vàng...
Mời bấm vào link dưới đây để nghe nhạc :
https://www.youtube.com/watch?v=DbrEfl6X7UQ
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT : ÔNG TƠ là ÔNG già se TƠ ở dưới ánh trăng, chữ Nho gọi là NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人, gọi cho gọn lại là NGUYỆT LÃO 月老, và "Bà xã" của Nguyệt Lão là BÀ NGUYỆT. Điển tích "ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT" có xuất xứ từ "Tục Huyền Quái Lục của Văn học gia Lý Phục Ngôn đời nhà Đường 唐朝文學家李復言所著的《續玄怪錄》, nhưng đến đời nhà Tống vì kỵ húy của Tống Thánh Tông là Triệu HUYỀN Lãng 趙玄朗, nên "Tục Huyền Quái Lục" được đổi thành "TỤC U QUÁI LỤC 續幽怪錄" với tích Định Hôn Điếm 定婚店 (Cái quán định đoạt hôn nhân), Xích Thằng Hệ Túc 赤繩繫足 (dây đỏ buộc chân) hay NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN (Ông lão dưới trăng) như sau đây :

Vào năm Đường Nguyên Hòa thứ hai (807), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố 韋固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.
Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi.
Inline image
Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không ? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng : Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng : “Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu ?”. Ông lão đáp là :“Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi!”
Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo : “Đây là vợ cậu đó !”. Vi Cố nghe xong cả giận nói : “Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy !”. Ông lão cười bảo : “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu !”. Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.
Inline image
Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vi Cố hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết !
Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vi Cố cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại : làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.
Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi.
Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc.
Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng : “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi !” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.
Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng : “Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không ?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng : “Sao chàng lại biết ?!”. Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.
Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm 定婚店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu 月老廟.

Trong văn học cổ Việt nam Nguyệt Hạ Lão Nhân được nhắc đến với các tên gọi : Ông Già Dưới Trăng, Ông Tơ, Nguyệt Sứ, Nguyệt Lão... Như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn như Hầu Nguyễn Gia Thiều nàng cung phi đã gọi một cách lẫy hờn và nghi ngờ rằng :
Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
Xe thế nầy có dở dang không ?
Còn trong truyện thơ Nôm Khuyết danh "Từ Thức Gặp Tiên" thì gọi là Nguyệt Sứ với câu :
Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.
Còn trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nữ Tú Tài" thì gọi là Ông Nguyệt :
Toại lòng hương lửa tưng bừng,
Tạm quyền ÔNG NGUYỆT, Xích Thằng xe dây.
Vì chuyên se tơ cho trai gái lấy nhau, nên ÔNG NGUYỆT còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách :
ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
Hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho Thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách :
ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
Se tơ sao lại vơ quàng vơ xiên ?!
Sợi TƠ mà Ông Tơ dùng để se là một sợi chỉ màu hồng, nên còn được gọi là CHỈ HỒNG. Như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng :
Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký :
Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
Rắp đem CHỈ THẮM se cho Trịnh Hằng.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như :
Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm
Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.
Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc chữ Nho là XÍCH THẰNG 赤繩 (là sợi dây màu đỏ) mà ra cả. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ :
Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai ?!
... hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “ là :
Cạn lời khách mới thưa rằng :
Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
Sau dù sinh sự thế nào,
Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần !
... hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách :
Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,
Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân
Nói tóm lại, các Điển tích : Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng, Nguyệt Lão hay Ông Tơ... đều do cùng một điển tích NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人 trong Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn mà ra cả. Và vì có liên quan đến hôn nhân và nhân duyên của trai gái, nên mãi cho đến...

... Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, hễ nơi nào có người Hoa là nơi đó đều có miếu thờ Nguyệt Lão cả, nếu không, thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :
Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
願 天 下 有 情 人 终 成 了 眷 屬,
Thị tam sinh chú định sự mạc thác qúa lương duyên !
是 三 生 註 定 事 莫 錯 過 良 緣。
Có nghĩa :
Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành !
Rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình và hợp với tình người !
Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là : Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “Bà Nguyệt“ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Trung Hoa thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái yêu đương là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt :
Tay NGUYỆT LÃO KHỜ sao có một
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng !

Hẹn bài viết tới!
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Hai chữ TƯƠNG 相 là "với nhau" và TƯƠNG 將 là "Sắp, sẽ" theo phép Giả tá của "Chữ Nho... Dễ học" còn có thể đọc là TƯỚNG. Ta sẽ lần lượt tìm hiểu và phiếm về hai chữ TƯỚNG 相, 將 nầy nhé !
TƯỚNG 相 là từ chỉ cái dáng vẻ, cái dung mạo bên ngoài của con người; nên ta có từ đầu tiên là TƯỚNG MẠO 相貌. TƯỚNG là cái hình dáng mà ta trông thấy bằng mắt, nên các thầy Tướng Số lại bày ra các trò xem TƯỚNG của Tai, Mắt, Mũi, Miệng, gọi là NHĨ TƯỚNG 耳相, NHỠN TƯỚNG 眼相, TỊ TƯỚNG 鼻相, KHẨU TƯỚNG 口相 và gọi chung hình dáng của khuôn mặt là DIỆN TƯỚNG 面相 hay là MẠO TƯỚNG 貌相 như trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
凡人不可貌相, Phàm nhân bất khả MẠO TƯỚNG,
海水不可斗量。 Hải thủy bất khả đấu lượng.
Có nghĩa :
- Phàm con người thì không thể trông vào diện mạo (để phân biệt người đó là người tốt hay người xấu được), cũng như...
- Nước biển thì không thể dùng đấu để đong đo được.
Lòng người thâm hiểm khó lường, không thể "Trông mặt mà bắt hình dong" được, cũng như nước biển mênh mông làm sao có thể dùng đấu dùng thùng để đong đo cho hết được.
TƯỚNG là Tướng Mạo 相貌 nên thầy xem tướng mạo gọi là Thầy Tướng Số. Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du gọi là Thầy TƯỚNG SĨ 相士, khi Thúy Kiều tâm tình với Kim Trọng trong ngày đầu tiên hẹn ước :
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người TƯỚNG SĨ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
... và bản thân Thúy KIều cũng là một "Bà thầy Tướng Số" khi chỉ "liếc nhìn" Kim Trọng thôi thì đã đánh giá :
Nàng rằng: “Trộm liếc DUNG QUANG,
Chẳng sân Ngọc bội cũng phường Kim Môn.
DUNG QUANG là Dung mạo 容貌 và Quang Thái 光彩, là cái vẻ sáng sủa bên ngoài của một con người. Thay vì nói Thúy Kiều thì phải nói là chính cụ Nguyễn Du mới là một thầy Tướng Sĩ đại tài. Ta hãy xem cụ chỉ chấm phá vài nét là con người nhân vật mà cụ định diễn tả hiện ra một cách rõ nét như ở trước mắt. Hình tượng ăn chơi của một gả đàn ông trung niên Mã Giám Sinh hiện ra dưới...
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao .
Còn mụ Tú Bà thì...
Thoát trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao !
Đến tên Sở Khanh chuyên dùng ngoại hình thư sinh giả tạo để gạt gẫm các cô gái nhẹ dạ thì...
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng.
Kịp đến anh hùng Từ Hải thì...
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài !

I'm a paragrap
TƯỚNG khi là Danh từ thì có nghĩa là TƯỚNG MẠO; còn khi là Động từ thì có nghĩa là "Xem Tướng" và không phải chỉ xem tướng cho người thôi, mà còn xem tướng cả cho ngựa nữa. Ta có thành ngữ BÁ LẠC TƯỚNG MÃ 伯樂相馬 là "Ông Bá Lạc chuyên xem tướng cho ngựa". Có xuất xứ như sau :
Theo "Hàn Thi Ngọai Truyện" của Hàn Anh đời Hán 漢代韓嬰《韓詩外傳》:
Trong truyền thuyết dân gian, người chuyên chăn dắt và muôi dưỡng ngựa ở trên trời là Thiên tướng Bá Lạc 伯樂. Nên trong đời sống thường ngày, ai giỏi về xem tướng ngựa, biết được ngựa nào giỏi ngựạ nào dở thì đều được gọi là BÁ LẠC.
Người được gọi là Bá Lạc đầu tiên tên là Tôn Dương 孫陽, là người nước Sở thời Chiến Quốc. Ông được vua nước Sở phái đi các nước để tìm môt con Thiên lý mã, là ngựa tốt có thể ngày đi cả ngàn dặm đường. Ông đi qua rất nhiều nước, kể cả các nước Yên nước Triệu là nơi nổi tiếng với nhiều hiệp khách và ngựa tốt, đều không tìm thấy con thiên lý mã nào vừa ý cả. Một hôm, trên đường từ nước Tề trở về Sở, ông trông thấy một con ngựa ốm yếu đang ì ạch kéo một xe chở muối đi lên dốc một cách nặng nhọc. Theo thói quen quan tâm đến ngựa, Bá Lạc bước đến ngắm nhìn chú ngựa tội nghiệp nầy. Nào ngờ ngựa thấy ông bèn dựng đứng hai vó trước lên và hí to một tiếng như chào mừng. Nghe tiếng ngựa hí như tiếng chuông ngân và điệu bộ hùng dũng khi dựng hai vó lên. Bá Lạc nhận ra đây là một con thiên lý mã hiếm có chỉ vì không được chăm sóc đàng hoàng mà thôi. Ông bèn hỏi chủ nhân và ra giá cao để mua lại con ngựa gầy ốm nầy, rồi trực chỉ về thẳng nước Sở để giao lại ngựa cho Sở Vương. Nghe tiếng ngựa hí vang trước cổng, Sở Vương mừng rỡ chạy vội ra xem. Trông thấy chỉ là một chú ngựa gầy gò bình thường thì lại vô cùng thất vọng. Bá Lạc phải giải thích cho Sở Vương biết về tướng mạo và giọng hí của ngựa, đoạn ông tự nguyện phụ trách chăm sóc và nuôi dưỡng ngựa theo phương pháp riêng của mình. Chỉ hơn tháng sau là con ngựa đã trở nên cao lớn mạnh mẽ trông hùng dũng vô cùng. Sở Vương rất đẹp ý bèn thắng yên cương nhảy lên cưỡi thử. Con ngựa cất cao bốn vó phi như bay về phía trước. Sở Vương nghe hai bên tai gió nổi vù vù, cây cỏ hai bên đường như đang vùn vụt lùi về phía sau. Nhà vua vô cùng đẹp ý và con Thiên Lý Mã nầy về sau đã nhiều lần giúp Sở Vương bôn ba sa trường tranh phong cùng các chư hầu lập nên rất nhiều chiến công hiển hách.
Trong bài "Tạp Thuyết" của Hàn Dũ, một trong Đường Tống Bát Đại Gia đời Đường 唐·韓愈《雜說》có câu : "Trên đời có BÁ LẠC, nhiên hậu mới có Thiên Lý Mã. Thiên Lý Mã thì thường có được chứ Bá Lạc thì không thường có được đâu". Ý là : "Người tài thì có rất nhiều, nhưng cái người mà nhận biết được người tài thì chẳng có bao nhiêu !"

TƯỚNG 相 còn có nghĩa Lựa, Chọn. Đọc "Tam Quốc Chí" hay các Truyện Tàu do nhà xuất bản "Tín Đức Thư Xã" xuất bản bán đầy khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh khoảng thập niên 50-60 của Thế kỷ trước; Ta hay gặp câu nói sau đây :"良禽相木而棲, 賢臣擇主而事 Lương cầm TƯỚNG mộc nhi thê, hiền thần trạch chủ nhi sự". Có nghĩa : "Chim khôn CHỌN cây lành mà đậu, Tôi hiền tìm chúa thánh mà thờ".
TƯỚNG 相 còn có nghĩa là Giúp đỡ, Phò trợ. Trong《Tả Truyện.Tuyên Công Tam Niên 左傳·宣公三年》có câu : CÁT NHÂN THIÊN TƯỚNG 吉人天相. Có nghĩa : Người hiền lành tốt bụng thì Trời sẽ phù hộ phò trợ cho người đó. Câu nói nầy thường dùng để khuyên những người gặp nạn hay bệnh tật hành hạ : "Cát nhân tự hữu Thiên Tướng, bạn rán tịnh dưỡng thì bệnh sẽ chóng qua khỏi thôi !"
TƯỚNG PHU GIÁO TỬ 相夫教子 là Phò trợ giúp đỡ cho chồng và nuôi dạy con cái. Có phải vì thế mà các bà vợ ngày xưa hay gọi các "Ông chồng" là TƯỚNG CÔNG 相公 đó chẳng. Tức là người mà mình phải luôn luôn phò trợ giúp đỡ.
Giúp đỡ phò trợ cho chồng thì gọi là TƯỚNG PHU 相夫, còn giúp đỡ và phò trợ cho đất nước, quốc gia thì gọi là TƯỚNG QUỐC 相國. Ngày xưa là hai người hai bên tả hữu giúp đỡ và phò trợ cho nhà vua, gọi là TẢ THỪA TƯỚNG 左丞相 và HỮU THỪA TƯỚNG 右丞相. Vậy Tả Thừa Tướng và Hữu Thừa Tướng ai có quyền hành lớn hơn ai ?
Theo Chiến Quốc Sách, chức vụ THỪA TƯỚNG có từ năm thứ 2 đời Tần Vũ Vương . Lúc đầu là Sư Lý Tật 樗里疾 và Cam Mậu 甘茂 làm Tả Hữu Thừa Tướng; Sau lại phong thêm chức TƯỚNG BANG 相邦 cao hơn chức Thừa Tướng một chút, như TƯỚNG BANG Lã Bất Vi chẳng hạn. Nhưng khi Tần thống nhất đất nước rồi thì chỉ còn có Tả Hữu Thừa Tướng mà thôi. Trong đời Tần Hán thì Hữu Thừa Tướng cao hơn Tả Thừa Tướng, nhưng từ đời Ngụy Tấn về sau thì ngược lại.
Ngoài chức vụ Thừa Tướng ra, ta còn thường nghe chức TỂ TƯỚNG 宰相. Thực ra, Tể Tướng không phải là CHỨC VỤ mà chỉ là một cách gọi những quan viên cao cấp đứng đầu trong triều đình (như các Bộ Trưởng hiện nay). Cho nên những quan lớn ngày xưa đều có thể gọi là TỂ TƯỚNG được cả. Như trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã gọi cha của Hoạn Thư là “TRỦNG TỂ” 冢宰 có nghĩa là người đứng đầu trăm quan. Khi Khuyển Ưng bắt Thuý Kiều về giao nạp cho Hoạn Bà, nàng không biết là phủ đệ nhà ai, mà...
Ngước trông toà rộng, dãy dài,
“THIÊN QUAN TRỦNG TỂ”, có bài treo trên.
Ban ngày, sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà...
Nhắc đến THỪA TƯỚNG thì mọi người nghĩ ngay đến Khổng Minh Gia Cát Lượng, mặc dù ông chỉ làm Thừa Tướng có hai đời vua nước Tây Thục mà thôi, nhưng có lẽ vì ngòi bút của La Quán Trung quá xuất sắc viết nên tác phẩm Tam Quốc Chí với kế hoạch "Tam phân thiên hạ" của ông, nên mọi người đời sau đều nhớ đến ông. Cả Thi Thánh Đỗ Phủ 杜甫 cũng có bài ca ngợi THỤC TƯỚNG 蜀相 rất hay như sau :
丞相祠堂何處尋。 THỪA TƯỚNG từ đường hà xứ tầm,
錦官城外柏森森。 Cẩm quan thành ngoại bách sâm sâm.
映階碧草自春色。 Ánh giai bích thảo tự xuân sắc,
隔葉黃鸝空好音。 Cách diệp hoàng li không hảo âm.
三顧頻煩天下計。 Tam cố tần phiền thiên hạ kế,
兩朝開濟老臣心。 Lưỡng triều khai tế lão thần tâm.
出師未捷身先死。 Xuất sư vị tiệp thân tiên tử,
長使英雄淚滿襟。 Trường sử anh hùng lệ mãn khâm !
Có nghĩa :
Từ đường THỪA TƯỚNG tìm đâu,
Bên ngoài thành Cẩm rầu rầu cỏ cây.
Sắc xuân thềm biếc mọc đầy,
Oanh vàng khéo hót đâu đây vắng người.
Thảo Lư Tam Cố đâu rồi ?
Hai triều hưng phế bề tôi hết lòng .
Xuất sư hai lượt thân vong,
Anh hùng lệ ướt cho lòng xót xa !

Còn THỪA TƯỚNG đầu tiên nổi tiếng nhất của Việt Nam ta là ai ? Đó là...
Thừa Tướng LỮ GIA 呂嘉 (191–110 TCN), tên hiệu là Bảo Công 保公, ông là Thừa Tướng của ba đời vua nhà Triệu nước Nam Việt, là người nắm chính trường nước Nam Việt những năm cuối và cuối cùng thất bại trước cuộc xâm lăng Nam Việt của nhà Hán. Ông mất ngày 25 tháng 3, các đời sau họ Lữ và họ Lã ở miền Bắc Việt Nam còn tổ chức làm giỗ Tổ vào ngày 25 tháng 3 âm lịch hằng năm.
Tên của Lữ Gia cũng đã và đang được đặt cho một số đường phố tại Hà Nội, Thành phố Sài Gòn, một đường phố lớn ở trung tâm thành phố Nam Định và một con đường ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Cư xá Lữ Gia Sài Gòn (Quận 11) Trước đây là Cư xá Sĩ Quan Quân Đội, hiện nay là một trong những cư xá lớn nhất và đông dân cư nhất tại TP.HCM, trường THCS Lữ Gia (Quận 11), Lữ Gia Plaza – nơi đặt trụ sở của phần lớn các công ty Internet lớn nhất tại Việt Nam. "Lữ Gia Plaza" (Quận 11) còn được xem như là "Silicon Valley thu nhỏ" của Việt Nam ta.

THỪA TƯỚNG là chức vụ dưới một người mà trên vạn người, vì quyền hành quá lớn nên còn được gọi là QUYỀN TƯỚNG 權相; Nhất là những ông Thừa Tướng già từ đời trước còn giữ chức Thừa Tướng đến đời sau, nên được các "Vua con" mới lên ngôi gọi xưng tặng là TƯỚNG PHỤ 相父 (kính trọng như Cha). Vì nắm trọn quyền hành nên Thừa Tướng cũng có tốt có xấu. Như :
- Thừa Tướng tốt là Hiền Tướng 賢相, Lương Tướng 良相, Chính Tướng 正相...
- Thừa Tướng xấu là Gian Tướng 奸相, Phản Tướng 反相, Ác Tướng 惡相...
(Các từ trên cũng dùng để chỉ Tướng Mạo của con người nữa)
Chức vụ tương đương với Thừa Tướng trong xã hội hiện nay là THỦ TƯỚNG. THỦ TƯỚNG là người đứng đầu nội các chính phủ của một nước. Vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam ta là Lệ Thần Trần Trọng Kim (1945). Ông là nhà Chính trị, nhà Văn hóa, nhà Sử học, Nho học... để đời với nhiều tác phẩm nổi tiếng như : Việt Nam Sử Lược, Việt Nam Văn phạm, Nho giáo...

Sang qua chữ TƯỚNG 將 là Tướng Sĩ Tượng 將仕相 (đỏ) và Soái Sĩ Tượng 帥士象 (xanh). Ai biết đánh Tứ Sắc 四色 (Bài bốn màu) và Cờ Tướng thì chắc chắn sẽ biết 7 mặt bài và quân cờ : TƯỚNG SĨ TƯỢNG, XE PHÁO NGỰA (車炮馬) và CHỐT (兵,卒).
TƯỚNG SOÁI 將帥 là các Tướng lãnh được phong chức Nguyên soái, là người đứng đầu và chỉ huy quân đội. Còn TƯỚNG SĨ 將士 nói chung là Tướng lãnh và Binh sĩ, là những người cùng nhau sát vai chiến đấu ngoài sa trường để cùng bảo vệ non sông đất nước, là những chàng trai hào hùng trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, là...
... Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây...
Trong phép đánh cờ và đánh trận, ta có một câu ngạn ngữ rất hay là :
棋逢敵手, Ký phùng địch thủ,
將遇良才。 Tướng ngộ lương tài.
Có nghĩa :
Cờ gặp phải tay địch thủ, còn...
Tướng thì gặp phải người tài giỏi. Ý chỉ...
Kẻ nửa cân, người tám lạng; ngang tài ngang sức với nhau, không ai hơn ai kém cả !
Người đánh cờ được gọi là Kỳ Thủ; đánh cờ giỏi thì được gọi là Kỳ Vương . Còn Tướng đánh trận thì được gọi là TƯỚNG QUÂN 將軍, tướng đánh trận giỏi thì gọi là MÃNH TƯỚNG 猛將, DŨNG TƯỚNG 勇將, HỔ TƯỚNG 虎將, PHI TƯỚNG 飛將... Phi Tướng là Tướng Quân giỏi xông xáo ngoài sa trường như mây bay gió cuốn, là danh xưng của DANH TƯỚNG 名將 :
LÝ QUẢNG (187-119 TCN) người đất Lũng Tây, võ tướng đời Tây Hán . Cả đời ông trấn thủ biên cương, đánh với Hung Nô trên 40 năm, trên dưới 70 trận, người Hung Nô sợ sự anh dũng của ông, nên xưng tụng là PHI TƯỚNG QUÂN 飛將軍. Trong bài tứ tuyệt "Xuất Tái" của Vương Xương Linh nổi tiếng với 2 câu cuối là :
但使龍城飛將在, Đản sử Long thành PHI TƯỚNG tại,
不教胡馬度陰山. Bất giáo Hồ mã độ Âm san !
Có nghĩa :
- Chỉ cần có Phi Tướng Quân trấn thủ tại Long thành, thì...
- Không bao giờ ngựa của Rợ Hồ qua khỏi được núi Âm Sơn cả !
Long thành PHI TƯỚNG hãy còn,
Rợ Hồ chớ tưởng vượt miền Âm Sơn .

Tướng giỏi thời Tam Quốc còn có Quan Vân Trường (Quan Công) với tích : "Quan Công phò nhị tẩu" và "Qúa Ngũ Quan Trảm Lục Tướng" là "Phò tá hai chị dâu là vợ của Lưu Bị đi qua năm cửa ải và chém chết sáu tướng của Tào Tháo, khiến cho mọi người đều phải khâm phục.
Trai thì gọi là Tướng Quân 將軍, là Hùng Tướng 雄將; Còn nữ mà giỏi đánh trận cũng được gọi là Nữ Tướng Quân 女將軍. Những NỮ TƯỚNG 女將 nổi tiếng trong văn học Trung Hoa như Hoa Mộc Lan, Tôn Phu Nhân, Lương Hồng Ngọc... của Việt Nam ta như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân...đều là những Cân Quắc Anh Thư 巾幗英雌.
Ta có các thành ngữ chỉ về đường binh nghiệp của các ông TƯỚNG ngày xưa như :
- Điều binh Khiển Tướng 調兵遣將 là Điều động các tướng đánh trận và binh lính.
- Tướng Dũng Binh Hùng 將勇兵雄. Ta nói là Binh hùng Tướng mạnh.
- Tinh Binh Cường Tướng 精兵強將 là Lính thì tinh nhuệ, Tướng thì giỏi giang.
- Đăng Đàn Bái Tướng 登壇拜將. Lễ sắc phong cho các tướng soái sắp ra trận.
- Trảm Tướng Đoạt Thành 斬將奪城 là Chém tướng địch cướp thành trì .
- Bái Tướng Phong Hầu 拜將封侯. Khi thắng trận trở về được thăng quan tiến chức.
Khi thua trận thì :
- Tổn Binh Chiết Tướng 損兵折將. Ta nói là Hao Binh Tổn Tướng 耗兵損將.
- Tàn Binh Bại Tướng 殘兵敗將 Ta nói ngược lại là Tướng Bại Binh Tàn .
- Binh Bại Tướng Vong 兵敗將亡 là Lính thì thua, Tướng thì chết.
Các ngạn ngữ về TƯỚNG mà ta thường nghe thấy nhất là :
- Tướng Môn Vô Khuyển Tử 將門無犬子. Có nghĩa : Trong cửa nhà tướng, không có con hèn như chó. Ý là : Con của nhà tướng thì cũng dũng mãnh như tướng vậy .
- Cường Tướng Chi Hạ Vô Nhược Binh 強將之下無弱兵. Có nghĩa : Dưới tay tướng mạnh không có binh yếu.
- Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô 一將功成萬骨枯. Có nghĩa : Một tướng thành công nên danh thì có cả vạn nắm xương khô rồi. Ý nói : Một người khi đã nổi tiếng là danh tướng thì đã có hàng vạn binh sĩ phải hy sinh để tạo nên tiếng tăm cho ông ta rồi. "Cái vinh quang của một người được tạo nên bằng cái chết của cả vạn người". Không đánh nhiều trận, không có hàng vạn binh sĩ phải hy sinh trong các trận đánh đó, thì làm sao nổi danh là tướng giỏi cho được !

Đó là ngày xưa, còn ngày nay đi lính mà muốn lên tới cấp Tướng là điều không tưởng, vì từ Binh nhì đến Thống Tướng phải trải qua gần 20 cấp. Chỉ riêng cấp Tướng thôi cũng đã có đến 5 bậc rồi : Chuẩn Tướng, Thiếu Tướng, Trung Tướng, Đại Tướng và Thống Tướng. Riêng chế độ quân hàm của miền Bắc còn có thêm cấp Thượng Tướng nữa mới nhiêu khê đó chứ ! Nói chung, bất cứ theo quy chế hệ thống của quân đội nào thì một sĩ quan muốn lên đến cấp tướng thì không phải là chuyện dễ dàng gì !
Có một điều rất lý thú mà ít ai nghĩ đến, đó là học VĂN mà lên đến cấp Tướng là THỪA TƯỚNG 丞相 hay THỦ TƯỚNG 首相 (như hiện nay) thì sẽ có quyền lực cao hơn là học VÕ mà lên đến cấp Tướng là ĐẠI TƯỚNG 大將 hay THỐNG TƯỚNG 統將. Ông THỪA TƯỚNG (THỦ TƯỚNG) chỉ ở trong triều, ở trong văn phòng đưa ra quyết định (Hoà hay Chiến) thì ông ĐẠI TƯỚNG ngoài biên cương hay THỐNG TƯỚNG ở Bộ Tư Lệnh phải thi hành theo răm rắp mà thôi. Nên chi, các ông TƯỚNG 將 ngoài biên cương rất đố kỵ với các ông TƯỚNG 相 ở trong triều : Mình vất vả trãi gió dầm sương ngoài sa trường với cái sống chết cận kề mà phải chịu thua, phải nghe lời của những tên hủ Nho ăn ngon ngủ kỷ ở trong triều sao ?! Điều nầy đưa đến một thành ngữ TƯỚNG TƯỚNG BẤT HÒA 將相不和. Có nghĩa : Ông Tướng ngoài biên cương và ông Tướng ở trong triều luôn luôn bất hòa. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ《Sử Ký.Liêm Pha Lạn Tương Như liệt truyện 史記·廉颇藺相如列傳》như sau :
LIÊM PHA 廉颇 là Đại Tướng kiệt xuất của nước Triệu. Năm Triêu Huệ Văn Vương thứ 16, ông đã đem binh đánh bại nước Tề, chiếm được đất Tấn Dương, uy danh lừng lẫy khắp chư hầu. Ông được phong là Tả Thượng Khanh, tương đương như chức Tả Thừa Tướng vậy.
LẠN TƯƠNG NHƯ 藺相如 là môn khách của Hoạn quan Mục Hiền đã giúp vua Triệu giữ vững được thể diện trước vua Tần ở Hội nghị Mẫn Trì và nhất là đã giúp "Hoàn Bích Quy Triệu 完璧歸趙" là đem ngọc bích nguyên vẹn về cho vua Triệu, nên được phong làm Hữu Thượng Khanh, tương đương như chức Hữu Thừa Tướng vậy.
Liêm Pha rất bất mãn vì mình là đại tướng đã nhiều phen sống chết ở sa trường mà chức vụ lại thấp hơn gả thư sinh chỉ biết sử dụng có ba tất lưỡi, nên dọa rằng sẽ làm nhục Lạn Tương Như trước mặt đồng liêu. Lạn Tương Như nghe thế nên luôn tìm cách tránh mặt Liêm Pha. Một hôm khi kiệu của ông đang đi trên đường phố Hàm Đan, bỗng gặp phải xe ngựa của Liêm Pha từ đầu kia đi đến, ông bèn ra lệnh cho các Kiệu phu tránh vào trong hẽm, đợi xe ngựa của Liêm Pha qua khỏi rồi mới ra đường lớn về nhà. Các môn khách của ông rất bất mãn mà nói với ông rằng :"Chúng tôi theo phò tá ông là vì thấy ông là người dũng cảm và có đạo đức tốt, nay ông và Liêm Pha chức vụ tương đương nhau mà ông ta chỉ dọa một câu là ông đã sợ đến nỗi không dám đối diện, thế thì chúng tôi còn trông mong gì vào ông nữa. Xin cho cáo biệt". Lạn Tương Như ngăn lại hỏi rằng :"Liêm Pha với Tần Vương ai đáng sợ hơn ai ?" Môn khách đáp :"Dĩ nhiên là Tần Vương đáng sợ hơn". Lạn Tương Như bèn nói rằng :"Tần Vương uy vũ là thế, nhưng trước mặt vua Tần và các quần thần tôi cũng đã dám quắt mắt lớn tiếng khiển trách và giữ vững ngọc bích mang về cho Triệu vương. Lạn Tương Như tôi mặc dù tài mọn, nhưng há lại sợ gì Liêm Pha tướng quân hay sao ? Chẳng qua, tôi nghĩ rằng : Nước Tần sở dĩ úy kỵ nước Triệu ta là vì có tôi và Liêm Pha tướng quân, một văn một võ cùng nhau phò trợ, nếu nay văn võ bất hòa, xào xáo chống chọi lẫn nhau, không chung lòng giữ nước, há chẳng là dịp tốt cho nước Tần dòm ngó để xâm lấn hay sao ?!" Các môn khách nghe thế đều bái phục cho sự biết nhường nhịn vì đại cuộc của Lạn Tương Như.
Tin đưa đến tai Liêm Pha. Liêm Pha bèn cởi áo đưa lưng ra, rồi vác một cái cây đầy gai góc trên lưng, nhờ người đưa đến quỳ trước cửa nhà Lạn Tương Như mà xin lỗi rằng :"Tôi là người thô lổ, xin Tướng quốc rộng lượng mà bỏ qua cho". Từ đó về sau, hai người thân thiết nhau như là một cặp sinh tử chi giao, và nước Tần nghe tin, càng không dám có ý đồ gì với nước Triệu nữa cả !
Và ta lại có một thành ngữ mới chỉ có 3 chữ mà thôi "TƯỚNG TƯỚNG HÒA 將相和" là "TƯỚNG QUỐC và TƯỚNG QUÂN; THỦ TƯỚNG và ĐẠI TƯỚNG hòa thuận nhau" Ý chỉ : Hai thành phần nồng cốt của một đoàn thể, một tổ chức biết hòa hợp nhau thì sẽ cho ra sức mạnh vô địch.

Cuối cùng, ta thường thấy trong văn học cổ gọi những người thành đạt trong quan trường là Công, Hầu, Khanh, Tướng. TƯỚNG ở đây chỉ cả Thừa Tướng và Tướng Quân. Nói chung là chỉ những người thành đạt, cao sang quyền quý. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có một câu nói rất hay là :
將相胸前堪走馬, TƯỚNG TƯỚNG hung tiền kham tẩu mã,
公侯肚裡好撐船。 Công hầu đổ lý hảo sanh thuyền !
Có nghĩa :
- Trước lồng ngực của TƯỚNG QUÂN và THỪA TƯỚNG có thể chạy ngựa được.
- Trong bụng dạ của Công Hầu có thể chống thuyền đi được ở trong đó.
Ý muốn nói :
Những người thành đạt như Công, Hầu, Khanh, Tướng thì nên có bụng dạ rộng rãi : Lồng ngực (Hung 胸) rộng đến có thể cưởi ngựa chạy trong đó được; và bụng dạ (Đổ 肚) rộng đến có thể chống xuồng đi trong đó được. Tức là muốn khuyên đã thành đạt rồi thì nên có lòng khoan dung rộng rãi của một kẻ cả; Xí xóa tha thứ mọi lỗi lầm không cần thiết của những người chung quanh. Trong cuộc sống thường ngày cũng vậy, ta luôn luôn phải biết :
責人之心責己, Trách nhân chi tâm trách kỷ,
恕己之心恕人。 Thứ kỷ chi tâm thứ nhân.
Có nghĩa :
- Lấy cái lòng mình trách người ta để trách mình, và...
- Lấy cái lòng mình tha thứ mình để tha thứ cho người khác !

Mong rằng tất cả mọi người đều sống với lòng vị tha hỉ xả, mặc dù chúng ta chỉ là những người bình thường chớ không phải là Công, Hầu, Khanh, Tướng gì cả !
Mong lắm thay !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Nói đến chữ TƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ nhau; và hễ nói đến TƯƠNG TƯ là người ta cũng nghĩ ngay đến trai gái hai bên thương yêu và nhớ nhau đến sinh bệnh, gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ, là một cái bệnh trầm kha, nên thơ, đáng yêu và dai dẳng đến không có một lương y nào có thể chửa khỏi được cả ! Nhưng nếu chỉ có một bên thương nhớ phía bên kia; Nam thương nhớ nữ hay nữ thương nhớ nam thì là ĐƠN TƯ 單思, chớ không thể nói là TƯƠNG TƯ được. Vì Theo "Chữ Nho... Dễ Học" TƯƠNG 相 có nghĩa là "Nhau", như : Tương Thân, là Thân nhau; Tương Ái là Yêu nhau; Tương Tư là Nhớ nhau... Nên phải cả hai bên cùng thương yêu tưởng nhớ đến nhau thì mới gọi là TƯƠNG TƯ được ! Nhưng trong "Tập quán Ngôn ngữ" theo thói quen sử dụng hằng ngày mà mọi người đều chấp nhận; Hễ thương nhớ ai thì đều có thể nói là TƯƠNG TƯ người đó được cả, như :
- Hắn đang "Tương Tư" nàng nào đó.
- Bộ mày đang "Tương Tư" ai hả ?
- Chàng ta đã "Tương Tư" cô ả đó rồi !
Không phải chỉ có giới bình dân, mà cả trong văn chương thơ phú cũng đã quen dùng từ TƯƠNG TƯ để chỉ sự nhớ nhung đến người mình yêu dấu, như thi sĩ nổi tiếng thời Tiền chiến Nguyễn Bính đã viết :
Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của Trời,
TƯƠNG TƯ là bệnh của tôi yêu nàng !
... và thi sĩ Xuân Diệu với hai câu thơ toàn thanh bằng trong bài thơ Nhị Hồ là :
Sương ngưng theo trăng ngừng lưng trời,
TƯƠNG TƯ nâng hồn lên chơi vơi !...
Ngay cả trong văn học cổ, trong Đường Thi cũng thế. Dưới đây là bốn câu thơ trong bài "Trường Tương Tư" của Thi Tiên Lý Thái Bạch :
...香亦竟不滅, ...Hương diệc cánh bất diệt,
人亦竟不来。 Nhân diệc cánh bất lai.
相思黄葉落, Tương Tư hoàng diệp lạc,
白露點青苔。 Bạch lộ điểm thanh đài !
Có nghĩa :
... Mùi hương chẳng dứt mãi còn,
Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.
Tương Tư lá rụng đầy sân,
Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh !
... và hai câu rất hay trong bài "Thu Phong Từ" cũng của Thi Tiên Lý Bạch là :
相思相見知何日, Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật,
此時此夜難為情。 Thử thời thử dạ nan vi tình.
Có nghĩa :
Nhớ nhau, gặp nhau biết ngày nào
Đêm nay là lúc nao nao hàm tình !...
Ở cuối truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung, người đọc thấy tội nghiệp cho Quách Tương nữ hiệp nhìn theo bóng dáng của Thần Điêu Đại Hiệp Dương Quá và Tiểu Long Nữ đi xuống núi Hoa Sơn trong cảnh lá thu rơi rụng rạt rào mà nước mắt lưng tròng và miệng thì lẫm nhẫm ngâm câu :"Tương Tư Tương Kiến tri hà nhật...
TƯƠNG TƯ 相思 là Nhớ đến nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, là Gặp nhau. TƯƠNG VẤN 相問 là Hỏi thăm nhau, như hai câu thơ rất nổi tiếng trong bài "Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm" của Vươg Xương Linh :
洛陽親友如相問, Lạc Dương thân hữu như TƯƠNG VẤN,
一片冰心在玉壺. Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Có nghĩa :
Thân hữu Lạc Dương như có hỏi,
Bình ngọc tuyết băng một tấm lòng.
Thi vị hơn nữa là nhóm từ TƯƠNG ÁNH HỒNG 相映紅, chỉ hoa đào và mặt của người đẹp như cùng soi rọi nhau và cùng hồng lên một cách đáng yêu trong vườn hoa đào, như trong bài "Đề Đô Thành Nam Trang" của chàng Thôi Hộ :
去年今日此門中, Khứ niên kim nhật thử môn trung,
人面桃花相映红。 Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
人面不知何處去, Nhân diện bất tri hà xứ khứ ?
桃花依舊笑東風。 Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Có nghĩa :
Năm ngoái hôm nay cũng cửa này,
Mặt người hoa đẹp má hây hây,
Mặt người nay biết về đâu nhỉ ?
Như trước hoa đào vẫn nở đây !
Trong Truyện Kiều, sau khi hộ tang chú ở Liêu Dương, Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều, thì "Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa"... và...
Trước sau nào thấy mặt người,
Hoa Đào Năm Ngoái còn cười gió đông.
(Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc)
https://www.youtube.com/watch?v=w78w4zdI4VY
TƯƠNG NGỘ 相遇 là Gặp nhau; TƯƠNG KIẾN 相見 là Thấy nhau, TƯƠNG THỨC 相識 là Quen biết nhau, nên BẤT TƯƠNG THỨC 不相識 là không quen biết nhau, như trong bài "Hồi Hương Ngẫu Thư" của Hạ Tri Chương, một trong Ẩm Trung Bát Tiên, là các bạn rượu của Thi Tiên Lý Bạch :
少小離家老大回, Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
鄉音無改鬢毛衰。 Hương âm vô cải mấn mao suy.
兒童相見不相識, Nhi đồng Tương Kiến bất Tương Thức
笑問客從何處來? Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?
Có nghĩa :
Trẻ nhỏ xa nhà, già trở lại,
Giọng quê còn đó, tóc như mây.
Nhi đồng gặp gỡ không quen biết,
Cười hỏi nơi nào khách đến đây ?
TƯƠNG TRI 相知 là Hiểu nhau, là biết rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc; như Thúy Kiều và Kim Trọng hiểu rõ lòng dạ của nhau mà "Đem tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ" khi "Kim Kiều tái họp" vậy :
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
TƯƠNG TRI dường ấy mới là TƯƠNG TRI.
Chở che đùm bọc thiếu gì...
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay !
TƯƠNG PHÙNG là gặp gỡ nhau. Nhớ hồi nhỏ, hay nghe bà con lối xóm nói... Nho chơi với nhau là :
Hữu duyên thiên lý...ăn Tương Hột,
Vô duyên đối diện... bát Tương Tàu !
Đến khi đi học chữ Nho với ông Thầy Thừng ở trong chùa rồi, mới biết đó là hai câu :
有緣千里能相遇, Hữu duyên thiên lý năng TƯƠNG NGỘ,
無緣對面不相逢。 Vô duyên đối diện bất TƯƠNG PHÙNG !
Có nghĩa :
- Nếu có duyên thì ngàn dặm cũng đưa đẩy để gặp nhau được, còn nếu...
- Không có duyên với nhau thì dù cho có ở ngang mặt nhau vẫn không thể gặp gỡ nhau được.
Có duyên, ngàn dặm gặp nhau,
Không duyên, đối diện khó chào nhau luôn !
Năm Thiên Bảo thứ 8 đời Đường Huyển Tông, thi nhân Sầm Tham 岑参 phụng chỉ ra miền Tây vực để làm Mạc phủ cho Tiết Độ Sứ Tây An. Trên đường ra ải Dương Quan để đến vùng biên tái, tình cờ gặp được sứ giả hồi kinh là bạn đồng liêu. Nỗi mừng biết lấy chi cân, bèn làm bài thơ tứ tuyệt 逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ (Gặp sứ giả trở về Kinh sư) sau đây để gởi về thăm gia đình :
故園東望路漫漫, Cố viên đông vọng lộ man man,
雙袖龍鐘淚不乾。 Song tụ long chung lệ bất can.
馬上相逢無紙筆, Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
憑君傳語報平安. Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
Có nghĩa :
Vườn xưa diệu dợi mõi mòn trông,
Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
"Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong !
Mã Thượng Tương Phùng 馬上相逢 là gặp nhau trên lưng ngựa, nên không có giấy viết gì cả, chỉ nhờ bạn báo lại cho người nhà biết là mình vẫn "Bình An" mà thôi !
逢入京使 PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Trên đây là những chữ TƯƠNG vui buồn lẫn lộn, nhưng lại đầy thi vị với tình người một cách nên thơ. Còn có những chữ TƯƠNG lạnh lùng sắt máu... như Huynh đệ TƯƠNG HẠI 兄弟相害 (Anh em hại nhau), Cốt nhục TƯƠNG TÀN 骨肉相殘 (Ruột thịt mà tàn sát lẫn nhau)... Như anh em của Tào Phi và Tào Thực con của Tào Tháo...
Sau khi lên ngôi là Ngụy Văn Đế, nhưng vẫn còn ganh tài của người em, Tào Phi mới nói với Tào Thực rằng : "Ai cũng bảo là văn tài của nhà ngươi giỏi hơn ta, vậy ta hạn cho ngươi trong vòng bảy bước phải làm xong một bài thơ, nếu không được, sẽ trị tôị khi quân. Tào Thực xin đề, thì Tào Phi bảo là : Nói về Anh Em mà không được dùng từ anh em trong bài thơ. Đoạn bắt đầu bước đi và đếm, khi vừa đúng 7 bước thì Tào Thực cũng vừa cất tiếng ngâm :
煮豆燃豆萁, Chữ đậu nhiên đậu cơ,
豆在釜中泣. Đậu tại phủ trung khấp.
本是同根生, Bổn thị đồng căn sanh,
相煎何太急 ?! TƯƠNG TIỄN hà thái cấp ?!
Có nghĩa :
- Lấy vỏ đậu làm củi để nấu đậu. Nên ...
- Đậu mới than khóc ở trong nồi. Rằng...
- Vốn dĩ chúng ta cùng chung một gốc rễ sinh ra.
- Đốt nấu lẫn nhau (TƯƠNG TIỄN), sao mà nhẫn tâm làm vậy ? !
Củi đậu đem nấu đậu,
Đậu than khóc trong nồi,
Cũng cùng chung một gốc,
Nấu nhau đành hỡi ôi !
Tào Phi nghe xong bài thơ, rất xúc động, từ đó về sau, không còn có ý muốn giết hại em mình nữa !
Tương tự, trong văn học sử Việt Nam ta cũng có câu truyện như sau :
Dưới thời Tự Đức, Nguyễn Phúc Hồng Bảo 阮福洪保 (1825-1854), hay Hường Bảo; là con trưởng vua Thiệu Trị, nhưng không được truyền ngôi. Sau hai lần mưu sự (1851 và 1854) để giành lại ngôi vị không thành, ông bị giam và chết thảm trong ngục. Người đương thời cho là vua Tự Đức có ý giết anh để trừ hậu hoạn. Sau đó, nhân một buổi ngự thiện với quần thần, Tự Đức đang dùng cơm vô ý cắn phải lưỡi, bèn nổi hứng lấy đầu đề "Răng cắn Lưỡi" ra cho đình thần làm thơ, nhưng trong thơ không được dùng chữ "Răng" chữ "Lưỡi". Nguyễn Hàm Ninh 阮咸寧 ( 1808-1867) là một danh sĩ trong lịch sử Văn học Việt Nam thời nhà Nguyễn, dâng lên một bài tứ tuyệt như sau :
Sinh ngã chi sơ, nhĩ vị sinh, 生我之初爾未生,
Nhĩ sinh chi hậu, ngã vi huynh. 爾生之後我為兄。
Như kim cộng hưởng trân cam vị, 如今共享珍甘味,
Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG cốt nhục tình ? 何忍相傷骨肉情?
Có nghĩa :
"Lưỡi nói với Răng" rằng :
Khi ta sinh ra mi chưa sinh,
Mi sinh sau ta, ta là huynh.
Nay cùng chung hưởng đồ ngon ngọt,
Sao nở tổn thương cốt nhục tình ?!
"Hà nhẫn TƯƠNG THƯƠNG 相傷 cốt nhục tình ?" Có nghĩa : "Sao nở nhẫn tâm làm Tổn Thương tình cốt nhục làm vậy?". Vua Tự Đức xem thơ xong, khen hay, thưởng cho mỗi câu một lạng vàng vì lời thơ qúa hay, nhưng lại phạt mỗi câu một roi vì ý thơ có ẩn ý xỏ xiên phạm thượng (Không chém đầu là may lắm rồi !).
Ngoài các từ TƯƠNG trên đây, trong cuộc sống hằng ngày ta còn thường gặp các từ TƯƠNG có nghĩa :
* Giống nhau như : TƯƠNG ĐỒNG 相同 (như nhau), TƯƠNG ĐƯƠNG 相當 (ngang nhau), TƯƠNG TỰ 相似 (giống nhau)...
* Khác nhau như : TƯƠNG PHẢN 相反 (ngược nhau), TƯƠNG SAI 相差 ( Xê xích nhau), TƯƠNG DỊ 相異 (khác biệt nhau)...
* Bằng nhau như : TƯƠNG ĐẲNG 相等 (ngang bằng nhau), TƯƠNG ĐỐI 相對 (ngang ngửa nhau), TƯƠNG TỈ 相比 (so sánh nhau)...
TƯƠNG TRUYỀN 相傳 là những điều được truyền tụng nhau trong dân gian. Và nếu chữ TƯƠNG 相 được chấm thêm 3 chấm Thủy 氵thành 湘 thì sẽ là giòng TƯƠNG GIANG 湘江 (sông Tương) nổi tiếng trong văn học với các câu :
君在湘江頭, Quân tại Tương Giang đầu,
妾在湘江尾。 Thiếp tại Tương Giang vĩ.
相思不相見, Tương tư bất tương kiến,
同飲湘江水。 Đồng ẩm Tương giang thủy.
Có nghĩa :
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Cùng nhớ nhau mà cùng chẳng gặp được nhau, mặc dù...
Hai ta cùng uống chung một dòng nước của sông Tương.
Diễn Nôm :
Đầu sông Tương ngẩn ngơ chàng đợi,
Cuối sông Tương mòn mõi thiếp trông.
Nhớ nhau lòng ngẩn ngơ lòng,
Đều cùng uống nước bên dòng sông Tương...
Đi vào văn học cổ Việt Nam ta thì SÔNG TƯƠNG là biểu tượng của một dòng sông thương nhớ nhau, chớ không phải là một dòng sông có thật. Như khi đã cùng nhau hẹn ước, nhưng lại không có dịp để gặp gỡ nhau, cụ Nguyễn Du đã diễn tả tình trạng thương nhớ nhau của Kim Kiều như sau :
SÔNG TƯƠNG một dãi nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
... Và SÔNG TƯƠNG lại đi vào dòng tân nhạc thời Tiền Chiến với ca khúc nhớ thương lãng mạng bất hủ "AI VỀ SÔNG TƯƠNG" rất nổi tiếng của nhạc sĩ Thông Đạt (Văn Giảng) với lời ca trữ tình gợi cảm :
Ai có về bên bến SÔNG TƯƠNG...
Nhắn người duyên dáng tôi thương...
Bao ngày ôm mối tơ vương...
(Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc) :
https://www.youtube.com/watch?v=IwfFZh0FEZM
Trên đây là TƯƠNG trong văn chương âm nhạc, còn trong dân gian thì TƯƠNG là TƯƠNG CHAO. TƯƠNG 醬 là món ăn bình dân được làm và ủ bằng đậu nành, thành một chất sền sệt vừa mặn vừa ngon vừa rẻ, lại không có dầu mỡ nên những người ăn chay ăn lạt đều thông dụng, và từ ĂN CHAY còn được gọi thế thân là ĂN TƯƠNG. "Hôm nay tôi ĂN TƯƠNG, có nghĩa là Hôm nay tôi ĂN CHAY đó !" Vì là món ăn mặn để ăn cơm, nên TƯƠNG không thể thiếu ở những bữa cơm nhà nghèo kèm với các loại dưa leo, rau lang, rau quế, rau muống... Nhớ năm xưa, lúc còn học lớp Đồng Ấu thầy giáo đã cho học một bài Học Thuộc Lòng (dường như là của nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải ?!) như sau :
Rau muống mọc ở hồ ao,
Tuy thân hèn mọn tự hào rằng hay.
Quanh năm cung phụng món nầy,
Cho nhà nghèo khó bữa rày bữa mai.
Nhà giàu thịt cá ăn hoài,
Nghèo thì rau muốn cũng hai bữa thường.
Giàu thì mỹ vị cao lương,
Nghèo thì ra muống chấm TƯƠNG kém gì !?...
Như trên đã nói TƯƠNG 醬 là chất lỏng sền sệt, khi là chất lỏng đậm đặc thì chữ TƯƠNG 漿 được đổi thành Bộ Thủy 水 bên dưới, nên QUỲNH TƯƠNG 瓊漿 là một loại chất lỏng đậm đặc có màu sắc lóng lánh như ngọc QUỲNH, và QUỲNH TƯƠNG TỬU 瓊漿酒 là một loại rượu được ủ bằng các loại trái cây lên men mà thành, là rượu "cóc-tai" (cocktail) nên vừa đậm đặc, vừa lóng lánh màu sắc, vừa thơm ngon... mà ngày xưa chỉ có các nhà quyền quý và thần tiên mới thường uống mà thôi. Như trong truyện "Bùi Hàng gặp Tiên với tích Lam Kiều" như sau :
Theo sách Thái Bình Quảng Ký 太平廣記, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền, lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :
同舟胡越猶懷想, Đồng chu Hồ Việt do hoài tưởng.
況遇天仙隔錦屏。 Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
倘若玉京朝會去, Thảng nhược Ngọc kinh triều hội khứ,
願隨鸞鶴入青雲。 Nguyện tùy loan hạc nhập thanh vân.
Có nghĩa :
Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
Huống gặp người tiên cách sáo rào.
Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !
Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình, rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :
一飲瓊漿百感生, Nhất ẩm QUỲNH TƯƠNG bách cảm sanh,
玄霜搗盡見雲英。 Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
藍橋便是神仙窟, Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
何必崎嶇上玉京? Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
Có nghĩa :
Một chén QUỲNH TƯƠNG trăm cảm sanh,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!
Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai, sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào trong nhà : "Vân Anh, bưng nước ra mời khách !". Bùi Hàng ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn ná xin ở lại nghỉ ngơi.
Sau khi làm quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới khẩn khoản ngỏ ý muốn hỏi cưới Vân Anh, thì bà lão bảo rằng :" Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến đây giả thuốc cho ta, thì ta sẽ gả nó cho chàng ". Bùi Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm chày ngọc cối ngọc.
Chàng lang thang suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả. Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc cối ngọc mà thôi. Một hôm đang lang thang để hỏi thăm tin tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc, nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa.
Khi thuốc đã giã xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với "Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng" được thị tì hai bên đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp như … tiên !
Sau khi cử hành hôn lễ, bà lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồi, mà trước đây mình đâu có biết. Sau những năm tháng sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng đắc đạo thành tiên cả.
Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp vừa có cuộc sống thoải mái như … tiên. Không bị ràng buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân trong quan trường đầy hiễm họa.
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Sẽ, là Sắp. Như TƯƠNG LAI 將來 là Sắp đến, Sẽ đến, thường dùng để chỉ thời gian và hoàn cảnh sắp diễn ra, có thể tốt có thể xấu, như :
- TƯƠNG LAI xán lạn, rực rỡ...
- TƯƠNG LAI đen tối, mờ mịt...
Tùy theo ngữ cảnh, khi nói lên những "mơ ước về sau" thì TƯƠNG LAI tự nó đã có nghĩa là tốt rồi, vì đâu có ai mơ ước những chuyện xấu bao giờ, như lời cha mẹ khuyên con cái, thầy giáo khuyên học trò :
- Rán học giỏi thì mới có TƯƠNG LAI.
- Biếng nhác quá thì làm sao có TƯƠNG LAI cho được !
TƯƠNG 將 là sắp, là Sẽ; Nên TƯƠNG YẾU 將要 (Sẽ phải), TƯƠNG DỤC 將欲 (Sắp muốn) là những từ dùng để nhấn mạnh thêm những sự việc sắp xảy ra mà thôi, như bài thơ "Tặng Uông Luân 贈汪倫" của Lý Bạch sau đây :
李白乘舟將欲行, Lý Bạch thừa chu TƯƠNG DỤC hành,
忽聞岸上踏歌聲。 Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
桃花潭水深千尺, Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích,
不及汪倫送我情。 Bất cập Uông Luân tống ngã tình !
Có nghĩa :
Lên thuyền Lý Bạch toan rời,
Bỗng nghe trên bến tiếng người nhịp ca.
Sâu ngàn thước, đầm Đào hoa,
Uông Luân tình bạn tiễn ta hơn nhiều !
Nhắc đến Thi Tiên Lý Bạch thì không thể không nhắc đến bài TƯƠNG TIẾN TỬU 將進酒 nổi tiếng của ông. TƯƠNG 將 ở đây có nghĩa là Mời; TƯƠNG TIẾN TỬU có nghĩa là "Mời Uống Rượu; Mời Cạn Ly". Bài thơ bất hủ với những câu như :
... 會須一飲三百杯, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
và...
... 與爾同銷萬古愁! Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu !
Có nghĩa :
Ba trăm ly uống hả hê...
Mối sầu vạn cổ trả về thiên thu !...
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Đem, là Lấy ; như trong các thành ngữ TƯƠNG CÔNG THỤC TỘI 將功贖罪 là "Lấy Công Chuộc Tội", TƯƠNG KẾ TỰU KẾ 將計就計 là "Đem kế (của người ta) làm kế (của mình) để đối phó lại với đối phương... Theo như tích trong "Tam Quốc Chí" sau đây :
Sau khi Tào Tháo lấy ít thắng nhiều ở trận chiến Quan Độ, bèn xua Tám mươi ba vạn quân với khí thế hừng hực tiến chiếm Kinh Châu và Đông Ngô. Hai bên dàn quân ở hai bên bờ Hạ Khẩu của sông Trường Giang. TƯỞNG CÁN 蔣幹 tự là Tử Dực, một mưu sĩ dưới trướng của Tào Tháo, xin với Tháo cho mình qua sông làm thuyết khách để chiêu hàng Chu Du vì mình là bạn đồng song với Chu Du thuở trước. Chu Du là Đô đốc của Đông Ngô đang lo lắng vì sau khi Tào Tháo chiếm Kinh Châu thì 2 tướng Thủy quân Đề Đốc là Thái Mạo và Trương Doãn đã đầu hàng Tào Tháo và hiện đang giúp Tào Tháo chấn chỉnh thao luyện thủy binh. Chu Du nghe tin Tưởng Cán đến bèn cùng các tướng bàn bạc, TƯƠNG KẾ TỰU KẾ niềm nở tiếp đón bạn học cũ Tưởng Cán và bày ra tiệc "Quần Anh Hội" để mừng bạn và quy định trong tiệc chỉ hàn huyên tình cố cựu mà không được nói đến việc quân cơ. Sau tiệc rượu lại giả say mà mời bạn cùng ngủ chung giường với mình. Tưởng Cán rất buồn vì không nói được lời chiêu hàng nào cả. Nằm trằn trọc không ngủ được, thấy trên án thư có rất nhiều thư từ qua lại, trong đó có thư của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn, nói rằng mình chỉ bất đắc dĩ mới đầu hàng Tào Tháo mà thôi, sẽ lừa dịp mà giết chết và dâng đầu Tào Tháo trong nay mai. Tưởng Cán cả mừng bèn dấu thư đó vào tay áo, rồi giả đò nằm ngủ, lúc trời gần sáng, lại nghe có người đến gọi Chu Du dậy và thì thầm chuyện gì đó như có tin bên quân trại của Tào Tháo đưa qua mà có chắc đến 2 tên Thái Mạo và Trương Doãn. Khi trời sáng, thấy Chu Du vẫn còn say ngủ, bèn lẻn ra lấy thuyền sang sông về dinh Tào Tháo, trình thư đầu hàng Đông Ngô của 2 tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên và kể lại mọi điều nghe thấy. Tào Tháo xem thư và nghe kể xong, bèn cả giận, truyền lệnh cho quân sĩ bắt hai tướng lại và chém đầu trước ngọ môn. Khi đao phủ thủ dâng đầu của hai tướng Thái Mạo và Trương Doãn lên, thì Tào Tháo mới chợt tỉnh ngộ biết rằng mình đã trúng kế phản gián của đối phương, nhưng vì tự ái đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà khen thưởng cho Tưởng Cán. Riêng cái anh chàng hủ nho Tưởng Cán vẫn dương dương tự đắc tưởng rằng mình đã lập công to, nào có biết đâu rằng mình đã trúng cái "TƯƠNG KẾ TỰU KẾ" của ông bạn Đô Đốc Chu Du ranh mảnh.
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là giúp đỡ phù trợ. Như bài thơ Cù Mộc trong chương Chu Nam của Kinh Thi 詩經.周南·樛木 :
南有樛木, Nam hữu cù mộc,
葛藟荒之。 Cát lũy hoang chi.
樂只君子, Lạc chỉ quân tử,
福履將之。 Phúc lý TƯƠNG chi.
Có nghĩa :
Núi nam cù mộc một cây,
Cóc kèn bìm bịt phủ đầy lên trên.
Vui vì quân tử được nên,
Phúc đức theo gót đến liền chung vui.
Đây là bài ca dao đời Tây Chu thường để chúc tụng cho cô dâu chú rể trong hôn lễ được vui vẻ và hạnh phúc; cô dâu tìm được chỗ dựa vững vàng. Có thuyết cho là bài thơ ca tụng bà Hậu Phi ở trong cung không đố kỵ với các phi tần bên dưới, nên mong cho phúc đức sẽ phù trợ bà.
TƯƠNG 將 còn có nghĩa là Tiễn đưa, bảo vệ. Trong bài thơ Thước Sào trong chương Thiệu Nam Quốc Phong trong Kinh Thi 詩經.國風.召南.鵲巢 :
維鵲有巢, Duy thước hữu sào,
維鳩方之。 Duy cưu phương chi.
之子于歸, Chi tử vu quy,
百兩將之。 Bách lượng tương chi.
Có nghĩa :
Chim khách có ổ có nơi,
Chim cu bay đến suốt đời ở chung.
Cô kia đi về nhà chồng,
Trăm xe ngựa kéo nối dòng đưa đi.
Đưa dâu có đến cả trăm xe ngựa kéo, thì quả là đám cưới của hàng quý tộc chứ không phải hạng thường dân. Từ bài Kinh Thi nầy đã hình thành một thành ngữ còn thông dụng cho đến hiện nay; đó là 4 chữ "CHI TỬ VU QUY 之子于歸" chỉ các cô gái "về" nhà chồng có cưới gả hẵn hoi, chứ không phải "cuốn gói theo trai" như nàng Trác Văn Quân của Tư Mã Tương Như vậy.
"TƯƠNG... TƯƠNG..." là Liên từ, có nghĩa như : "Vừa... Vừa..." như trong thành ngữ "TƯƠNG TÍN TƯƠNG NGHI 將信將疑" là "Vừa tin vừa ngờ", có nghĩa như thành ngữ "BÁN TÍN BÁN NGHI 半信半疑" là "Nửa tin nửa ngờ" để chỉ chuyện gì đó còn chưa chắc chắn vậy.
TƯƠNG TƯƠNG 將相 là : "Sẽ... nhau". là "Chỉ còn có nước..." Như một câu ngạn ngữ trong dân gian được ghi trong Tăng Quảng Hiền Văn là :
三十不豪, Tam thập bất hào,
四十不富, Tứ thập bất phú,
五十將相尋死路。 Ngũ thập TƯƠNG TƯƠNG tầm tử lộ !
Có nghĩa :
- Ba mươi tuổi chẳng hào sảng (dễ chịu, khá giả),
- Bốn mươi tuổi chẳng phú túc (giàu sang đầy đủ), thì...
- Năm mươi tuổi SẼ chờ NHAU để tìm đường chết. Ý là :
Chỉ Còn Có Nước đi tìm đường chết mà thôi !
Theo quan niệm xưa : Tam thập nhi lập. Ba mươi tuổi là phải lập thân lập nghiệp, ít nhất là phải có gia đình và nghề nghiệp hẵn hoi. Chớ ba mươi tuổi mà còn long bong chưa có việc làm, chưa có nghề nghiệp vững chắc, đến bốn mươi tuổi mà còn chưa ổn định, chưa khá giả giàu có... thì khi đã năm mươi tuổi, là tuổi Tri Thiên Mệnh rồi thì chỉ còn có nước chờ chết mà thôi, chớ khó mà có dịp trở mình để làm quan làm giàu được nữa. Đó là nói theo quan niệm của Thế kỷ 19-20 khi tuổi thọ trung bình của con người chỉ từ 60-65. Với quan niệm "60 năm cuộc đời" như bài hát trước đây của dân Sài Gòn :
Em ơi, có bao nhiêu... 60 năm cuộc đời !
20 năm đầu, sung sướng không bao lâu,
20 năm sau sầu tư cao vời vợi,
20 năm cuối là bao !...
(Bấm vào link dưới đây để nghe nhạc)
Còn Thế kỷ 21 bây giờ, tuổi thọ trung bình trên thế giới hiện nay là từ 70-80 tuổi, nên 50 tuổi mới là tuổi chín chắn để làm nên sự nghiệp : Nghề nghiệp đã ổn định, kinh nghiệm sống và tín dụng đã đầy đủ, cơ sở vật chất cũng đã vững chắc... Nên, 50 tuổi là tuổi dễ phất lên và làm giàu nhất trong thời buổi hiện nay. Chớ không phải "TƯƠNG TƯƠNG tầm tử lộ" như ông bà xưa đã nói đâu !
Mong rằng mọi người, mọi giới, mọi ngành, mọi nghề... tất cả đều HỖ TƯƠNG 互相 giúp đỡ lẫn nhau để cùng hướng đến TƯƠNG LAI 將來 huy hoàng rực rỡ đang chờ đón phía trước mặt.
Hẹn bài viết tới :
Chữ TƯỚNG
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức













