top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
dcd_ongdo.jpg

TIẾNG HÁN CỔ

với Ông Đồ ĐỖ CHIÊU ĐỨC

 

CHS Phan Thanh Giản (Cần Thơ)

Cựu GS Trung Học Tân Hưng (Cái Răng)

Cựu Giảng Viên ĐH Xã Hội - Nhân Văn (Sài Gòn)

Houston,Texas________

DCD_KimDung3.JPG
DCD_KimDung.JPG

Đọc truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑傲江湖", không ai là không trầm trồ đoạn luận về uống rượu và các ly chén dùng để uống rượu rất điệu nghệ của Đại Hiệp KIM DUNG thông qua các nhân vật và văn thơ cổ được ông đưa vào để dẫn chứng một cách tài tình và lý thú. Nào ta hãy cùng đọc bài thơ sau đây :  

   

                  蘭陵美酒鬱金香,   Lan lăng mỹ tửu uất kim hương, 

                  玉碗盛來琥珀光。   Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang

                  但使主人能醉客,   Đản sử chủ nhân năng tuý khách,

                  不知何處是他鄉。   Bất tri hà xứ thị tha hương ! 

Có nghĩa :

                  Lan Lăng rượu ủ uất kim hương,  

                  Chén ngọc rót đầy lóng lánh gương.

                  Chủ nhân nếu biết say lòng khách, 

                  Non nước đâu mà chẳng cố hương !   

 

            

 

       Đó là bài thơ Khách Trung Hành 客中行 (còn có tên là Khách Trung Tác 客中作) của Thi Tiên LÝ BẠCH  李白 mà một trong Hoàng Hà Lão Tổ là Tổ Thiên Thu 祖千秋 đã mượn hai câu đầu để nói về một loại rượu ngon (Phần Tửu 汾酒) của Trấn Lan Lăng được nấu bằng cây cao lương và ủ bằng hoa Uất Kim Hương (Hoa Tulipa) thì phải uống bằng chén ngọc, vì khi rượu được rót vào chén ngọc sẽ ửng lên màu vàng của hổ phách lóng lánh rất đẹp, uống sẽ tăng thêm phần cảm giác nên sẽ cảm thấy ngon hơn nhiều. Vì thế mà :

 

      - Lan Lăng Mỹ Tửu thì phải uống bằng Chén Ngọc. Còn...

      - Bồ Đào Mỹ Tửu thì phải uống bằng chén Dạ Quang, như trong bài thơ Lương Châu Từ 涼州詞 nổi tiếng của Vương Hàn 王翰 :

 

              葡萄美酒夜光杯,    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, 

              欲飲琵琶馬上催。    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.

              醉臥沙場君莫笑,    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, 

              古來征戰幾人回。    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?

Có nghĩa :

                 Bồ đào rót chén dạ quang,

                 Tì bà giục giã sa tràng tiến ngay.

                 Chớ cười chiến địa ta say,

                 Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về ?!

 

             

 

       Tổ Thiên Thu đã lý luận rằng : Rượu Bồ Đào (BỒ ĐÀO 葡萄 là trái Nho, nên Rượu Bồ Đào là Rượu Nho, tiếng Pháp là "Le Vin", người miền Bắc của ta đọc trại thành "Vang", nên gọi là "Rượu Vang") vốn đã có màu đỏ sậm rồi, lại được rót vào chén Dạ Quang sẽ cho màu đỏ sậm như máu, người chiến sĩ trước khi ra trận uống vào như uống máu quân địch sẽ tăng thêm phần hào hùng quyết sống chết với quân thù, như hai câu thơ của Nhạc Bằng Cử (Nhạc Phi) đời Tống :

 

               壯志饑餐胡虜肉, Tráng chí cơ san Hồ Lỗ nhục,

               笑談渴飲匈奴血。 Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.

Có nghĩa :

         - Cái hùng tâm tráng chí của người lính chiến khi đói sẽ ăn cả thịt của rợ Hồ, và trong lúc cười nói nơi sa trường lúc khát sẽ uống cả máu của giặc Hung Nô.    

              

       Tổ Thiên Thu lại chỉ một hũ rượu trắng thượng thặng của quan ngoại mà nói rằng :"Loại rượu nầy rất ngon nhưng lại cực nồng, nên phải uống bằng ly được làm bằng sừng tê giác (Tê Giác Bôi 犀角杯) sẽ tăng thêm phần thơm ngon của rượu. Có ly làm tăng màu sắc của rượu thì cũng có loại ly làm tăng hương vị của rượu chẳng phải sao?!

 

       Lệnh Hồ Sung 令狐冲 chỉ giỏi uống rượu, chớ hồi nào tới giờ chưa từng biết cân nhắc xem, rượu nào phải uống bằng loại ly nào thì mới thơm ngon hơn. Nghe Tổ Thiên Thu nói một thôi một hồi những đạo lý về phép uống rượu và ly chén dùng để uống rượu, nên cảm thấy rấy lý thú. Tổ Thiên Thu lại chỉ vào hũ rượu kế bên và nói rằng :"Còn đây là rượu Cao Lương, loại rượu lâu đời nhất có từ thời bàng cổ, khi bà Nghi Địch 儀狄 dùng cao lương để ủ và nấu thành rượu, vua Đại Vũ lúc đó đang trị thủy, nếm thử và khen ngon, nên Rượu Cao Lương có từ thời đó và bà Nghi Địch được tôn là Tổ của loại rươu nầy. (Giới văn học của ta hiện nay vẫn còn gọi những tay bơm nhậu là "Con cháu của bà Nghi Địch"). Loại rưọu lâu đời nầy phải uống bằng ly làm bằng đồng xanh (Thanh Đồng Bôi 青銅杯) mới cảm thấy được hết cái cổ ý của rượu. 

      Tổ Thiên Thu lại xoay mình lại vỗ vào hũ rượu có dán hàng chữ : "Bách Thảo Mỹ Tửu 百草美酒" nói rằng : Đây là loại rượu được ngâm bằng hằng trăm loài thảo dược, nên mùi thơm nhe nhàng như hoa cỏ, ngửi mùi rượu bốc lên ta có cảm giác như đang đi trên một cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ; nên uống rượu nầy phải dùng ly được làm bằng những gốc mây to ngàn năm (Cổ Đằng Bôi 古藤杯) thì mới khơi dậy được hết mùi thơm của các loại hoa cỏ ẩn chứa trong loại rượu nầy. Còn rượu "Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng 紹興女兒紅 thì phải uống bằng ly gốm sứ xưa (Cổ Từ Bôi 古瓷杯) của đời Bắc Tống, nếu của đời Nam Tống thì sẽ kém thơm đi, còn nếu là ly gốm sứ  của đời Nguyên thì mùi vị sẽ rất tầm thường...

      Còn bình "Lê Hoa Tửu 梨花酒" nầy, thì phải uống bằng ly Phỉ Thúy có màu xanh biếc như trong bài thơ "Hàng Châu Xuân Vọng 杭州春望" của Bạch Lạc Thiên có câu :"Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花". Có nghĩa : "Thiếu nữ Hàng Châu khoe lụa tốt, Cờ xanh tranh được rượu lê hoa". Cho nên, uống Rượu Lê Hoa phải dùng ly Phỉ Thúy màu xanh; và uống Ngọc Lộ Tửu 玉露酒 thì phải dùng chén Lưu Ly, vì trong rượu có những bọt rượu tròn như những hạt sương lóng lánh trong chén Lưu Ly, uống vào có cảm giác như uống những hạt sương ngọt ngào ban sáng...

 

       

 

      Bỗng nghe tiếng lêu lêu của Nhạc Linh San nói rằng :"Khéo khoát lác, uống có mấy chén rượu mà bày đặt bày điều đủ thứ ly chén, suốt ngày cứ như hũ chìm, thì còn nói gì là Anh Hùng Hảo Hán!". Tổ Thiên Thu đáp rằng :

     - Cô nương sai rồi, năm xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang trong cơn say đã trãm bạch xà, khởi nghĩa lập nên nhà Hán, há chẳng phải là Anh Hùng sao ? Còn trong Hồng môn yến Phàn Khoái đã dùng thuẫn của quân sĩ để cắt thịt, uống rượu bằng đấu, há chẳng phải là Hảo Hán sao ?!

     Đào Cán Tiên trong Đào Cốc Lục Tiên nói rằng :

    - Nảy giờ người cứ ba hoa thiên địa, nào là chén Phỉ Thúy, chén Dạ Quang, chén Lưu Ly... Trên đời làm gì có nhiều chén thế, ngươi tưởng mình là người hào hoa phong nhã lắm hay sao ? Tổ Thiên Thu đáp rằng :

    - Hào hoa thì không dám, nhưng phong nhã chắc cũng được ba phần !

     Đào Diệp Tiên cười ha hả hỏi rằng :

    - Thế thì uống hết tám loại rượu ngon nầy, trên mình ngươi mang theo được mấy chiếc ly ? Tổ Thiên Thu cũng cười mà đáp rằng :

    - Nói nhiều không nhiều, nói ít không ít, mỗi thứ một chiếc chắc là có được ! Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh la lên :

    - Đồ khoát lác, đồ nói dóc ! Đào Căn Tiên cười nói :

    - Ta thách ngươi, nếu như trong mình ngươi lấy ra đủ tám chiếc ly như ngươi nói, thì ta sẽ... ăn hết tám chiếc ly đó vào bụng. Còn ngược lại thì người tính sao đây ? Tổ Thiên Thu đáp :

    - Thì ta cũng sẽ ăn hết tất cả ly chén ở đây chứ sao !

      Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh nói :

    - Hay lắm ! Hay lắm ! để chúng ta xem ngươi...

      Chưa dứt lời đã thấy Tổ Thiên Thu thò tay vào bọc móc ra một chiếc ly trắng nuột bóng láng, quả là một chiếc Bạch Ngọc Bôi 白玉杯, làm cho Đào Cốc Lục Tiên câm họng không dám nói tiếp. Sau đó Tổ Thiên Thu lại móc ra từng chiếc từng chiếc một bày trên bàn, quả là Dạ Quang Bôi 夜光杯, Phỉ Thúy Bôi 翡翠杯, Tê Giác Bôi 犀角杯, Thanh Đồng Bôi 青銅杯, Lưu Ly Bôi 琉璃杯, Cổ Đằng Bôi 古藤杯 (Ly bằng Gốc Mây), Cổ Từ Bôi 古瓷杯 (Ly gốm sứ cổ). Ngoài tám loại ly đó ra, Tổ Thiên Thu còn tiếp tục móc ra nào là Kim Bôi, Ngân Bôi, Thạch Bôi, Tượng Nha Bôi, Hổ Xỉ Bôi, Ngưu Bì Bôi, Trúc Đồng Bôi, Tử Đàn Bôi... Trên hai mươi loại ly khác nhau. 

     Mọi người đều ngẩn ngơ ngạc nhiên đến không nói nên lời. Đào Căn Tiên thò tay bốc lấy chiếc ly bằng Gốc Mây lên nói :

    - Ta thua rồi, ta ăn hết tám chiếc ly nầy ! Nói đoạn bèn cắn bể chiếc ly bằng mây một miếng nhai ngốn ngáo rồi nuốt luôn vào bụng. Tổ Thiên Thu vội vàng thò tay giựt phần ly mây còn lại cười mà nói rằng :

    - Ta cũng thua ngươi rồi ! Ngươi dám ăn nhưng ta lại không nở để mất tám chiếc ly quý giá nầy được. Thôi đừng làm hỏng việc của ta !

      Thì ra, Tổ Thiên Thu vì muốn "lấy điểm" với Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh, nên mới cố ý tới đây để gạt cho Lệnh Hồ Sung uống tám viên "Tục Mệnh Bát Hoàn 續命八丸" mà mình đã lấy trộm của Lão Đầu Tử.

 

     Trước khi xuất hiện, Kim Dung đã cho Tổ Thiên Thu đứng trên bờ ngửi được mùi rượu ngon ở dưới thuyền và cất tiếng khen là "Rượu ngon Phần Tửu đã được cất giấu 62 năm rồi, khiến cho Lệnh Hồ Sung phải ngạc nhiên và mời ông ta xuống thuyền. Sau nầy, khi gặp Tứ trang chủ của Mai Trang trong Giang Nam Tứ Hữu là Đan Thanh Sinh 丹青生 thì Lệnh Hồ Sung sau khi được Lục Trúc Ông và Tổ Thiên Thu chỉ điểm nay đã là "cao thủ" về ngửi rượu để nhận dạng rồi, nên khi thấy Đan Thanh Sinh đến gặp mình mà trên tay còn cầm ly Phỉ Thúy thì đã đọc ngay 2 câu thơ của Bạch Lạc Thiên mà Tổ Thiên Thu đã đọc cho mình nghe là : "Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花" và hỏi Đan Thanh sinh là : Có phải ngài đang uống rượu Lê Hoa phải không ? Làm cho Đan Thanh Sinh vô cùng kinh ngạc và ôm chầm lấy Lệnh Hồ Sung kêu lên :" Nào, ông bạn tốt, ta sẽ cùng nhau uống cạn ba trăm ly nhé !.

      Khi vừa bước vào phòng của Đan Thanh Sinh, thì mùi thơm của rượu đã ập vào mũi. Lệnh Hồ Sung bất giác khen :" Chà thơm qúa, mùi Phần tửu được cất nấu 2 lần, cộng với mùi Bách Thảo Tửu đã 75 năm hoà với mùi thơm của Hầu Nhi Tửu thật là tuyệt diệu". Đan Thanh Sinh vổ tay cười lớn :" Đúng là tuyệt diệu, bạn vừa bước vào phòng của ta thì đã nói ra 3 loại rượu qúy mà ta để trong phòng nầy ". Lệnh Hồ Sung thấy trong phòng bày la liệt khắp nơi nào là tỉnh lớn hũ nhỏ, bình rượu chai rượu, hồ lô và ly uống rượu vung vải khắp nơi... Chàng ta bèn phình mũi ra hít hít rồi nói rằng :"Không chỉ có ba loại rượu qúy đâu, còn có mùi của rượu ngon cực phẩm Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng và đặc biệt là mùi rượu Bồ Đào của xứ Thổ Phồn ở Tây Vực đã qua bốn lần chưng cất !". Đan Thanh Sinh vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ hỏi :" Rượu Bồ Đào bốn lần chưng cất của Thổ Phồn ta đựng trong thùng gỗ và cất ở dưới hầm, sao lão đệ lại biết được ?" Lệnh Hồ Sung mĩm cười đáp :"Loại rượu ngon nầy, cho dù cất dấu mấy trượng sâu dưới đất cũng không ngăn nổi mùi thơm của nó lan tỏa ra ngoài !".

     Đan Thanh Sinh nói cho Lệnh Hồ Sung biết rằng để có được thùng rượu Bồ Đào nầy, ông đã phải dùng 3 tuyệt chiêu kiếm pháp gia truyền để đổi về đó. Nay có bạn biết thưởng thức nên ông cho xuống hầm lấy lên và rót 3 chén để mời Lệnh Hồ Sung bình phẩm kèm theo môt lời thách đố là : "Rượu đã được bao nhiêu năm tuổi rồi ?". Lệnh Hồ Sung lần lượt uống cạn ba ly rượu, nhắm mắt lại gụt gặt đầu một lúc mới lên tiếng :"Rượu nầy lạ thiệt, hương vị thì tuyệt vời khỏi phải nói rồi, nhưng nồng độ thì dường như vừa cũ vừa mới; Vừa tựa như rượu đã được cất ủ trên một trăm hai mươi năm rồi, lại vừa như chỉ mới khoảng độ mười hai mười ba năm mà thôi !". Làm cho Hướng Vấn Thiên đứng bên cạnh giật mình lo lắng :"Chuyến nầy thì tiêu rồi, một trăm hai mươi năm với mười hai mười ba năm cách nhau cả trăm năm lận !". Nào ngờ, Đan Thanh Sinh vuốt râu cười ha hả mà rằng :"Hảo huynh đệ, quả nhiên lợi hại ! Cái bí quyết làm cho rượu ngon là ở nơi đó đó ! Tên kiếm khách Tây Vực Mạc Hoa Nhĩ Triệt sau khi học 3 chiêu kiếm gia truyền của ta, đã tặng cho ta mười hũ rượu Bồ Đào đã một trăm hai mươi năm và đã qua ba lần chưng cất. Ta đã theo cách hướng dẫn của ông ta tiến hành thêm một lần chưng cất nữa, đem mười hũ rượu chưng cất lại thành một thùng, tính đến nay cũng đã mười hai năm có hơn rồi, nên mùi rượu rất thơm ngon, khử hết vị chua và nồng độ tuyệt vời ở chỗ vừa mới vừa cũ, vừa như mới mười mấy năm hơn lại vừa như cả trăm năm qua rồi !"

 

        

 

     Đó là những khoa trương về tài thử rượu của Đại Hiệp KIM DUNG, Hư Cấu để gán cho những nhân vật trong truyện võ hiệp của mình. Đọc truyện trên làm cho ta nhớ lại những truyện cười về "Sành Rượu" và "Thử Rượu" của thời đại hiện nay. Mời tất cả cùng đọc lại cho vui...

 

                    SÀNH RƯỢU

 

     Trong một hãng rượu tại Napa Valley, California, một chuyên viên thử rượu vừa qua đời. Chủ hãng lo lắng đăng báo, kiếm người thay thế. Một anh chàng say rượu bí tỉ, quần áo rách rưới tới xin việc. Chủ hãng muốn tống cổ anh say rượu đi chỗ khác chơi, nhưng vẫn muốn thử tài anh ta xem sao. 

 

     Chủ hãng bèn ngoắc tay, và cô hầu bàn mang ra một ly rượu. Anh chàng say rượu cầm ly uống cạn, và nói :“Rượu vang đỏ loại Muscat, 3 tuổi, trồng ở miền Bắc của Napa Valley, chứa trong thùng thép!” “Đúng thế !”, Chủ hãng tuyên bố.

 

     Chủ Hãng lại ra hiệu cho cô hầu bàn mang ra một ly rượu khác. Anh chàng say rượu nâng ly lên, uống cạn, lè nhè nói :“Rượu vang đỏ, Cabernet, 8 năm, trồng tại phía Tây Nam của Napa Valley, chứa trong thùng gỗ Oak!”. Chủ hãng phục lăn! 

 

     Ông ta nháy mắt cho cô thư ký, ngầm ra hiệu. Cô thư ký bưng ra một ly nước tiểu. Gã say rượu mắt nhắm mắt mở, nâng ly uống cạn. Uống xong, gã lè nhè nói :“Tóc vàng, 26 tuổi, mang thai 3 tháng... Và nếu không cho tôi việc làm, thì tôi sẽ nói tọac tên... "bố đứa bé" ra cho mà xem !”

 

     Chũ Hãng và cô hầu bàn đều tõn tè, ngẩn ngơ !

 

                 

Ta thấy...

         "HƯ CẤU" về "Tài uống rượu và sành rượu của anh chàng bơm nhậu ngày nay", còn hơn hẵn tài Hư Cấu của Đại Hiệp KIM DUNG trong tiểu thuyết võ hiệp của ông ta rất nhiều !

 

            Hẹn bài viết tới !

 

       杜紹德

       Đỗ Chiêu Đức

Hư Cấu Trong Võ Hiệp Kim Dung (2)

(Những mối tình oan nghiệt)

 

四張機,                Tứ Trương Cơ,

鴛鴦織就欲雙飛, Uyên ương chức tựu dục song phi,

可憐未老頭先白。 Khả lân vị lão đầu tiên bạch.

春波碧草,             Xuân ba bích thảo,

曉寒深處,            Hiểu hàn thâm xứ,

相對浴紅衣。        Tương đối dục hồng y.

 

Đó là bài TỪ 詞 của bà Anh Cô 瑛姑 (trước là Lưu Qúy Phi của Đoàn Nam Đế) thêu trên chiếc khăn tay để tặng cho Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông 周伯通. Châu Bá Thông là người không sợ trời không sợ đất, bình sinh ông ta chỉ sợ có hai người : Sư huynh Vương Trùng Dương và... Hoàng Dung, cô em dâu bất đắc dĩ của thằng bạn kết nghĩa vong niên Quách Tĩnh. Mỗi lần muốn khống chế và đối phó với Lão Ngoan Đồng thì Hoàng Dung chỉ cần đọc ba chữ "TỨ TRƯƠNG CƠ..." thì Chu Bá Thông y như là trúng phải tà, như Tông Ngộ Không bị Đường Tăng niệm chú khẩn cô, nhất nhất nói gì cũng nghe theo cả ! Thì ra...

Sau luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhất, Vương Trùng Dương biết mình không còn sống được bao lâu, nên mới dắt theo sư đệ là Chu Bá Thông đến nước Đại Lý gặp Đoàn Nam Đế để truyền thụ lại môn Tiên Thiên Công cho Đoàn Nam Đế phối hợp với Nhất Dương Chỉ mà khống chế Tây Độc Âu Dương Phong đang lăm le muốn chiếm đoạt Cửu Âm Chân Kinh để xưng bá võ lâm Trung Nguyên. Trong lúc hai huynh trưởng đang đàm luận trao đổi võ công, thì Chu Bá Thông với tính khí vô tư như trẻ con chạy lung tung trong hậu cung Đại Lý, với tính ham vui và háo thắng Chu Bá Thông đã dạy cho Lưu Qúy Phi môn điểm huyệt, nào ngờ gái xuân trai trẻ, tiếp xúc đụng chạm lâu ngày, Lưu Phi sinh lòng cảm mến yêu thương Chu Bá Thông. Rồi trong một lần đụng chạm thân mật hai người đã làm chuyện không nên làm. Lưu Phi đã tặng cho Chu Bá Thông chiếc khăn tay có thêu đôi uyên ương hí thủy và bài từ nêu trên. Trong bản dịch của Hàn Giang Nhạn ngày xưa đã thoát dịch bài từ trên thành một bài thơ tứ tuyệt thật hay như sau:

 

Liền cánh uyên ương dệt mộng mơ,

Lòng xuân tóc trắng điểm bơ phờ,

Hương xuân chưa thắm tình trăng gió,

Áo đỏ không phai nét hững hờ!

 

 

Sự việc đổ bể, Vương Trùng Dương trói Chu Bá Thông đến chịu tội với Đoàn Hoàng Gia. Với tinh thần hiệp nghĩa của võ lâm đồng đạo, Nam Đế chẳng những không bắt tội mà còn gả luôn Lưu Phi cho Chu Bá Thông. Nhưng Chu Bá Thông lại không chịu, vì với tính khí vô tư và thích vui đùa của Chu, ông ta chỉ nghĩ là như một cuộc vui chơi qua rồi thì thôi, chớ không chịu gò bó lập gia đình với đủ điều phiền toái. Ông rút chiếc khăn thêu trả lại cho Lưu Phi và chịu tội chết với Đoàn Hoàng Gia, nhưng lại được tha tội. Ông bỏ đi biệt tích để lại mối hận tình oan nghiệt cho bà Lưu Phi ưu sầu trong cung cấm...

 

Vì thế nên hễ nhắc đến bài từ "Tứ trương cơ..." là Chu Bá Thông ta lại cảm thấy áy náy, hối hận, ray rức... nên chịu nghe theo lời Hoàng Dung chỉ cần cô ta không đọc tiếp bài từ đó nữa là được rồi !

 

KIM DUNG đã nhặt bài từ trên từ trong dân gian, các bài từ vô danh nhưng rất gợi cảm dễ đánh động lòng người như những câu ca dao dân gian trong bài "Mười Thương" của ta vậy :

 

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

Ba thương má lúm đồng tiền,

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua...

 

Còn "TỨ TRƯƠNG CƠ" là thể loại TỪ rất thịnh hành trong đời Tống, bài từ trên chỉ là một vế của toàn bài Từ có tên là "CỬU TRƯƠNG CƠ 九張機". Có nghĩa : Chín cái khung cửi dệt vải, là Chín cái máy dệt. Từ "Nhất Trương Cơ" cho đến "Cửu Trương Cơ" là Chín Khung Cửi, bài TỨ TRƯƠNG CƠ là khung cửi thứ tư mà thôi. Nếu dịch đúng theo thể loại của bài từ thì là :

 

Khung cửi tư này,

Uyên ương dệt mộng muốn cùng bay,

Khá thương xuân sắc đầu đà bạc.

Sóng xuân cỏ biếc,

Sáng lòng lạnh lẽo,

Áo đỏ giặt cùng ai!

 

Hoàng Dung cũng đã nhái theo thể loại nầy mà làm hai bài tặng cho Quách Tĩnh là "Thất Trương Cơ 七張機" và "Cửu Trương Cơ 九張機" như sau :

 

七張機,                 Thất Trương cơ (Ki),

春蠶吐盡一生絲, Xuân tầm thổ tận nhất sanh ti,

莫教容易裁羅綺。 Mạc giao dung dị tài la y.

無端剪破,             Vô đoan tiễn phá,

仙鸞綵鳳,             Tiên loan thái phụng,

分作兩邊衣。         Phân tác lưỡng biên y!

 

Có nghĩa:

Khung Cửi Bảy Hờ,

 

Tầm xuân nhả hết một đời tơ,

Chớ để dễ dàng may áo gấm.

Khi không cắt xén,

Loan tiên Phụng múa,

Chia vạt áo hai bờ!

 

Bài "Cửu Trương Cơ" như sau:

 

九張機,                 Cửu Trương Cơ (ki),

雙飛雙葉又雙枝, Song phi song diệp hựu song chi,

薄情自古多別離。 Bạc tình tự cổ đa biệt ly.

從頭到底,             Tòng đầu đáo đễ,

將心縈繫,             Tương tâm oanh hệ,

穿過一條絲。          Xuyên quá nhất điều ti.

 

Có nghĩa:

Khung Cửi Chín Ni,

 

Hai cành hai lá lại song phi,

Bạc tình xưa nay lắm biệt ly.

Từ đầu đến cuối,

Để lòng vấn vít,

Vướng mắc sợi tơ chi!

 

 

Đây là những bài ca bài hát của các cô gái hoài xuân ngồi quay tơ dệt vải bên khung cửi để bày giải nổi lòng tâm tư tình cảm của mình. Kim Dung đã khéo chọn "bài thứ tư" có nội dung ướt át và hợp với hoàn cảnh và chuyện tình oan nghiệt của Lưu Qúy Phi (Anh Cô) và Chu Bá Thông để đưa vào trong truyện. Chỉ có Hàn Giang Nhạn dịch thoát nhưng rất hay, rất gợi tình và lại có tính văn chương mượt mà ướt át, không như những bản dịch sau nầy rất hời hợt và rất dở, rất vụng không có tính văn chương chút nào cả.

 

Mối tình oan nghiệt thứ hai là của Lý Mạc Sầu và Lục Triển Nguyên. Lý Mạc Sầu trốn khỏi Cổ Mộ thâm u để đi ra thế giới bên ngoài. Trước cảnh non xanh nước biếc, mãi vui chơi nên lạc đến nước Đại Lý và tình cờ quen với Lục Triển Nguyên. Hai người yêu nhau, Lục từ giã về quê, hứa sẽ trình thưa với cha mẹ để cưới Lý Mạc Sâu. Không ngờ đợi mãi vẫn không thấy tăm hơi gì cả, bèn lần mò đến Lục gia trang, thì thấy Lục Triển Nguyên đang làm lễ thành hôn với Hà Nguyên Quân là nghĩa nữ của Võ Tam Thông. Lý Mạc Sầu nổi giận định phá tan hôn lễ, nhưng có cao tăng của Thiên Long Tự ngăn cản. Lý Mạc Sầu hẹn mười năm sau khi công phu luyện thành sẽ đến báo thù rửa hận. Qủa nhiên mười năm sau Lý Mạc Sầu đến khủng bố và tàn sát hết cả nhà của Lục Triển Nguyên cả gà chó cũng không chừa. Trong khoảng thời gian hận sầu với mối tình ngang trái nầy Lý Mạc Sầu luôn miệng ngâm nga hai câu thơ sau:

 

問世間,情為何物, Vấn thế gian, tình vi hà vật,

直教生死相許? Trực giao sanh tử tương hứa?

 

Có nghĩa:

 

Hỏi thế gian, tình là vật chi, mà khiến cho người ta...

Phải lấy cái sống chết để hứa hẹn với nhau?

 

Đây là hai câu mở đầu trong bài "Nhạn Khâu Từ 雁丘詞" của Nguyên Háo Vấn 元好問 (1190-1257) là nhà văn học, sử học ở giữa đời Kim và Nguyên của Trung Hoa. Lúc nhỏ thông minh dĩnh ngộ, nổi tiếng là thần đồng. Năm 16 tuổi, trên đường lai kinh ứng thí, ông gặp một người thợ săn giương cung bắn một cặp nhạn đang bay. Một con nhạn bị bắn rơi xuống đất, con nhạn kia bèn xếp cánh cắm đầu rớt xuống chết theo. Cảm động trước tấm tình thủy chung của đôi chim nhạn, Nguyên Háo Vấn đã hỏi mua xác của đôi chim và chôn cùng một nấm mộ, đề là NHẠN KHÂU 雁丘, rồi làm bài từ theo điệu Mạc Ngư Nhi 摸魚兒 lấy tên là NHẠN KHÂU TỪ 雁丘詞 là "Mồ Chôn Chim Nhạn"như sau :

 

問世間,情為何物, Vấn thế gian, tình vi hà vật,

直教生死相許 ?        Trực giao sanh tử tương hứa ?

天南地北雙飛客,     Thiên nam địa bắc song phi khách,

老翅幾回寒暑             Lão xí kỷ hồi hàn thử.

歡樂趣,離别苦,     Hoan lạc thú, ly biệt khổ,

就中更有痴兒女...     Tựu trung cánh hữu si nhi nữ...

 

Có nghĩa:

 

Hỏi thế gian tình là vật gì,

Mà đem chết sống hứa nhau chi?

Trời nam đất bắc cùng là khách,

Ấm lạnh cánh già mòn mõi.

Vui hoan lạc, khổ biệt ly,

Chỉ riêng nhi nữ mối tình si...

 

 

Bài từ còn dài (16 câu nữa), nhưng phần sau không ăn vào những tình tiết câu truyện nên Kim Dung không có trích. Mỗi lần ngâm các câu thơ trên với mối hận bạc tình, Lý Mạc Sầu đã ra tay giết cả nhà Lục Triển Nguyên một cách tàn độc không thương xót, cho thấy đau khổ vì thất tình đã biến con người trở nên vô cảm biết chừng nào !

 

Sau đây là các kiểu ghen, các kiểu hận tình của các người đẹp trong truyện THIÊN LONG BÁT BỘ 天龍八部. Đầu tiên là ...

 

- CHUNG PHU NHÂN (CAM BẢO BẢO 甘宝宝) : mẹ của Chung Linh. Bị người yêu đẹp trai hào hoa phong nhã là Đoàn Chính Thuần phụ rẫy. Bà quyết định lấy một người chồng "Xấu như ma, Mặt dài như ngựa" để trả thù người yêu. Chồng bà là Chung Vạn Cừu, lấy hiệu là VẠN CỪU ĐOÀN, tức coi họ Đoàn là kẻ thù muôn thuở.

 

- TU LA ĐAO 修羅刀 TẦN HỒNG MIÊN 秦红棉 : Bị Đoàn Chính Thuần phụ rẫy khi đã có thai, nên khi sanh ra Mộc Uyển Thanh thì bảo là nhặt được con hoang bên đường, chỉ cho con gọi mình là sư phụ. Dạy cho con giỏi võ công để đi giết người yêu và vợ cả của Đoàn Chính Thuần là Vương Phu Nhân và Đao Bạch Phượng.

 

- VƯƠNG PHU NHÂN (LÝ THANH LA 李青蘿) : Hận Đoàn Chính Thuần bạc tình, nên hận luôn cả những người nào mang họ Đoàn. Hễ gặp người mang họ Đoàn là giết chết không tha, ngay cả những người của nước Đại Lý hay ở gần nước Đại Lý cũng giết luôn để chôn xác làm phân cho Mạn Đà La Hoa (tên riêng của Trà Hoa) mà người tình phụ bạc của mình... Đoàn Chính Thuần rất yêu thích !

- NGUYỄN TINH TRÚC 阮星竹 : Không giỏi võ công, chỉ giỏi thủy tính, bơi lội rất giỏi, là mẹ của A CHÂU và A TỬ. Bà là người hời hợt nhất, dễ dãi nhất, nên cũng hạnh phúc nhất. Đoàn Chính Thuần phụ bạc thì khi đẻ con ra bà cho người khác nuôi; Khi gặp lại chỉ cần năn nỉ vài câu là bà tha thứ cho Đoàn Chính Thuần ngay và hai người lại vui vẻ ở bên nhau.

 

- MÃ PHU NHÂN (KHANG MẪN 康敏): Bà là người thâm hiễm, độc ác và có dã tâm nhất trong các người tình của Đoàn Chính Thuần. Bị Đoàn phụ rẫy, bà lấy Phó Bang chủ Cái Bang là Mã Đại Nguyên, hy vọng sẽ được làm Bang Chủ Phu Nhân, nhưng Bang Chủ lại lọt vào tay của Kiều Phong, bà bèn quay sang gạ gẫm Kiều Phong. Nhưng Kiều Phong là bản sắc anh hùng chính hiệu chỉ biết giao du với bằng hữu và uống rượu mà không màng đến nhi nữ thường tình. Bà đâm ra hận Kiều Phong bèn lén lúc tư tình với Chấp Pháp Trưởng Lão Bạch Thế Kính và Thập Phương Tú Tài Toàn Quán Thanh, để cùng moi móc nguồn gốc Khất Đan của ông với mục đích là làm cho ông thân bại danh liệt, vì ông đã dám coi thường mối tình si của bà dành cho ông. Về phần Đoàn Chính Thuần khi gặp lại, bà đã gài cho họ Đoàn uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho mất hết sức lực, rồi nhắc lại lời thề năm xưa nếu phụ bạc thì sẽ bị muôn đao phân thây. Bà kể cho Đoàn Chính Thuần nghe : Lúc nhỏ nhà nghèo, Tết đến thấy cô bé nhà bên khoe có bộ đồ mới mua. Bà tức lắm đêm đó thừa lúc mọi người ngủ say, bà lẻn qua nhà cô bé, lục ra bộ đồ mới, rồi lấy kéo cắt xuôi cắt ngược, cắt cho không còn vá lại được nữa mới thôi. Rồi bà kết luận rằng : "Cái nào mà bà không có được, thì sẽ tìm cách huỷ hoại nó đi, chớ không để cho người khác có được". Nói xong, bà hôn Đoàn Chính Thuần từ đầu đến vai một cách âu yếm, rồi hé miệng cắn cho một phát phun máu và rớt một miếng thịt ra. Bà nói là ở đây không có muôn đao phân thây, bà sẽ... cắn Đoàn Chính Thuần từ từ cho đến chết!

 

- ĐAO BẠCH PHƯỢNG 刀白鳳 là chính phi của Đoàn Chính Thuần, là mẹ của Đoàn Dự. Vì chịu không nổi tính trăng hoa lăng nhăng của chồng mà xuất gia làm đạo cô, hiệu là Ngọc Hư Tản Nhân 玉虛散人. Ngoài việc giận chồng xuất gia làm đạo cô ra, trong lúc ghen tương qúa độ bà đã làm nhục chồng bằng cách lấy một người ăn mày hèn hạ; chẳng ngờ gả ăn mày hèn hạ dơ dáy kia chính là Thái tử Diên Khánh, người đứng đầu TỨ ÁC NHÂN sau nầy là ÁC QUÁN MÃN DOANH. Cũng nhờ thế, mà theo tập tục của nước Đại Lý lúc bấy giờ, Đoàn Dự có thể lấy hết các cô em chú bác 2 đời như Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên một cách hợp lệ.

 

 

Cái hay của Kim Dung là đã HƯ CẤU ra rất nhiều chuyện tình mà không chuyện nào giống chuyện nào cả. Tâm lý nhân vật cũng vậy, muôn hình vạn trạng, nhưng lại rất nhân bản rất thực tế giống như là cuộc sống của ta trước mắt. Trong số các tình nhân của Đoàn Chính Thuần thì Nguyễn Tinh Trúc là người vô tư, ít chủ kiến và hiền lành nhất. Bà ta không thông minh và biết tiến thoái như Cam Bảo Bảo; cũng không sắc sảo và oán hận như Tần Hồng Miên; càng không kiêu ngạo và bá đạo như Vương Phu Nhân; và càng không ngông cuồng ác độc nham hiễm như Mã phu nhân Khang Mẫn. Nên...

Mặc dù không có nét đặc sắc nào cả, nhưng lại là một người đẹp đầy nữ tính và rất hồn nhiên, chính những nét rất bình thường đó đã làm cho nàng ta sống những ngày tháng hạnh phúc nhất, lâu dài nhất bên cạnh Đoàn Chính Thuần hào hoa phong nhã.

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

 

Hư Cấu Trong Võ Hiệp Kim Dung (1)

 

Ai cũng biết truyện võ hiệp của Kim Dung đều toàn là những câu truyện HƯ CẤU, nhưng sao tất cả mọi người già trẻ lớn bé, bất kể sang hèn nam nữ, từ bình dân đến trí thức đều mê như điếu đổ. Truy nguyên, ta sẽ thấy được những HƯ CẤU của Kim Dung đều dựa vào những thực tế của cuộc sống hằng ngày, của tâm lý tình cảm chân thật của con người, của những sự kiện lịch sử có thật kết hợp với những dã sử trong dân gian, những phong tục tập quán của từng địa phương hòa vào trong các tình tiết khúc chiết ly kỳ gây cấn để hấp dẫn người đọc bằng lối kể truyện vừa bình dân vừa bác học, vừa chất phác vừa văn chương, vừa xen vào cái không khí trinh thám như của Sherlock Holmes... Tất cả Lịch sử, Địa lý, Chính trị, Văn hóa, văn chương, tâm lý tình cảm của con người, tất cả tất cả... hòa quyện vào nhau trong câu truyện VÕ HIỆP HƯ CẤU một cách tài tình hợp lô-gích và phù hợp với cuộc sống thực tại của con người!

 

Trước tiên xin được điểm qua vài nét về mặt văn chương văn học trong truyện Võ Hiệp của Kim Dung :

Trong truyện "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部 (1963-1966)". Khi Đoàn Dự bị nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí bắt đem về xứ Giang nam để tế sống trước mộ của Mộ Dung Bác, vì chàng ta thuộc lòng hết khẩu quyết của Lục Mạch Thần Kiếm. Đến xứ Giang nam vào môt buổi chiều xuân tươi đẹp với sóng nước lăn tăn, với liễu xanh rũ bóng bên bờ, với cỏ non xanh rợn chân trời xa xa là xóm nhà thấp thoáng với những hoa hạnh bay là đà trong ánh nắng chiều. Trước cảnh đẹp của Giang nam mà ở Đại Lý chưa từng thấy qua, chàng thư sinh Vương tử Đoàn Dự nổi hứng cất giọng ngâm:

 

波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;

孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,

斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !

 

Có nghĩa:

 

Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,

Cỏ non xanh biếc xóm xa ,

Hạnh hoa theo nắng là đà bay bay!

 

Khiến cho nhà sư Cưu Ma Trí cũng phải bật cười mà nói rằng :"Chết đến nơi, bộ vui lắm sao mà còn ngâm thơ nữa ?!"

 

Ba miểu miểu, Liễu y y...

 

Lúc nhỏ khi đọc đến đây, tôi cứ ngỡ là thơ của "Kim Dung làm cho Đoàn Dự ngâm"; đến lúc học về văn học cổ thì mới biết rằng đây là bài TỪ "Ba Miểu Miểu" trong từ điệu "Giang Nam Xuân" của Khấu Chuẩn 寇準的"江南春·波渺渺". Khấu Chuẩn (961-1023) là nhà văn nhà thơ đời Bắc Tống, đậu Tiến sĩ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5, làm quan đến chức Thừa tướng. Bài từ trên của ông, nhà văn Kim Dung trích còn thiếu 2 câu. Cả bài như sau :

 

波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;

孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,

斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !

江南春盡離腸斷, Giang Nam xuân tận ly trường đoạn,

苹滿汀洲人未歸。 Bình mãn đinh châu nhân vị quy!

 

Có nghĩa:

 

Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,

Cỏ non xanh biếc xóm xa ,

Hạnh hoa theo nắng là đà bay mau.

Giang Nam xuân hết lòng đau,

Bèo đầy bến bãi người sao chưa về!

 

Kim Dung đã trích rất khéo vì 2 câu sau không ăn với hoàn cảnh của Đoàn Dự lúc bấy giờ.

 

Còn trong truyện "Anh Hùng Xạ Điêu" , tức "Xạ điêu anh hùng truyện 射鵰英雄傳 (1957-1959)", xem phim thì không có, nhưng nếu xem truyện, chúng ta sẽ đọc thấy...

 

... Khi bị Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận đánh cho một thiết chưởng thừa sống thiếu chết, Hoàng Dung phải nhờ Quách Tĩnh cỏng đi tìm người trị thương. Được sự chỉ điểm của Thần Toán Tử Anh Cô, đi tìm Đoàn Nam Đế nhờ ngài dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho Hoàng Dung. Vì mỗi lần dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho ai, thì Đoàn Nam Đế phải mất hết công lực, sau 3 năm mới phục hồi lại được, cho nên các học trò của ngài là Ngư, Tiều, Canh và Độc có ý ngăn cản không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi. Từ chân núi đến đỉnh núi, Ngư Tiều Canh Độc 魚,樵,耕,讀 chia làm 4 trạm để cản trở, khó khăn lắm mới vượt qua được 3 trạm Ngư, Tiều và Canh.... Bây giờ tới trạm cuối cùng của ông ĐỘC nhé !...

 

Thấy Hoàng Dung giỏi văn thơ và đã lên tiếng chê trách là ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa của Thánh hiền, qua câu chuyện : Khi nghe ông Độc đọc một câu trong sách Luận ngữ là : "Mạc xuân dã, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui...末春也,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎宜,風乎宇于,咏而歸...". Có nghĩa ; Vào cuối xuân, quần áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người lớn, sáu bảy trẻ nhỏ, tắm ở dòng sông Nghi, hứng gió ở đền Vũ Vu, rồi hát mà về...(tả cảnh sống thanh bình vui vẻ, tự do tự tại của dân chúng trong buổi đầu xuân)... mà hỏi ông rằng : "Ông đọc sách Thánh hiền, mà có biết Bảy Mươi Hai người thành đạt 七十二賢 (thất thập nhị hiền) trong số 3 ngàn học trò của Không Tử, là : Có bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ không ? Ông Độc suy nghĩ mãi không ra , sách chỉ nói Thất thập nhị Hiền, chứ đâu có nói gì đến già trẻ đâu. Hoàng Dung mới cười ông , và đem câu Luận ngữ mà ông vừa đọc ở trên để giải thích như thế nầy : Quan giả là người đội mũ, là người lớn, ngũ lục nhân, năm sáu người, 5 lần 6 là 30 người. Đồng tử là con nít là người trẻ, lục thất nhân, sáu bảy người, 6 lần 7 là 42 người. 30 cộng với 42, chẳng phải 72 là gì ? Cho nên tôi nói ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa sâu xa ở bên trong là vậy đó !". Thấy Hoàng Dung mặc dù ngụy biện, lấy câu sách mình vừa đọc để mắng mình, nhưng cũng phải phục tài thông minh, cơ trí của cô ta, nên định thử xem con bé nầy giỏi tới đâu...

 

Đầu tiên, ông ta đọc một bài thơ, cho Hoàng Dung đoán lý lịch của mình (đây là một cách chơi chữ bằng cách đố chữ rất lý thú để cho người ta đoán). Bài thơ như sau :

 

Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, 六經蕴籍胸中久,

Nhất kiếm thập niên ma tại thủ. 一剣十年磨在手.

Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành, 杏花頭上一枝横,

Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu. 恐泄天機莫露口.

Nhất điểm luy luy đại như đấu, 一点畾畾大如斗,

Giảm khước bán sàng chung sở hữu. 减却半牀终所有.

Hoàn danh trực đãi quải quan quy, 完名直待挂冠歸,

Bản lai diện mục quân tri phủ ? 本来面目君知否?

 

* LỤC KINH 六經 : gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu《詩》《書》《禮》《易》《樂》《春秋》. Đến đời Tống "Kinh Lễ và Kinh Nhạc" được nhập lại thành một, gọi là "Kinh Lễ Nhạc", nên chỉ còn có NGŨ KINH mà thôi. Ta hay nghe nói TỨ THƯ NGŨ KINH 四書五經 là vì thế !

 

Bài thơ có nghĩa:

 

Sáu bộ kinh sách đã nung nấu trong lòng từ lâu và trong tay mười năm nay đã luôn mài một lưỡi gươm. Trên đầu hạnh hoa có một cành ngang, sợ để lộ thiên cơ nên đừng mở miệng. Một chấm to lớn như là cái đấu, sẽ có được khi đã giảm nửa sàng. Công thành danh toại nên muốn cáo lão về quê, gốc gác mặt mũi của ta, bạn đã biết rồi chưa?

 

Hoàng Dung nghe xong, bèn lập lại hai câu đầu "Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, Nhất kiếm thập niên ma tại thủ" là : Lục kinh đã thuộc nằm lòng, lại mười năm mài một lưỡi gươm, Quả là văn võ song toàn. Chữ lục 六 thêm chữ nhất 一 trong chữ "nhất kiếm" và chữ thập 十 trong chữ "thập niên", gộp lại thành chữ Tân 辛. Trên đầu chữ Hạnh 杏 thêm một gạch ngang , và ở phía dưới bỏ đi chữ khẩu (mạc lộ khẩu 口) còn lại là chữ Mùi 未. "Nhất điểm" là một chấm ở trên chữ "đại" là chữ Khuyển 犬, giảm khước là giảm đi phân nữa chữ sàng 牀, tức là bỏ chữ mộc 木 đi, thêm chữ khuyển 犬 vào, sẽ thành chữ Trạng 狀. Cuối cùng, chữ "hoàn danh", Hoàn 完 mà "quải quan" là treo nón, bỏ cái nón ra, chữ Hoàn chỉ còn lại có chữ Nguyên 元. Nhập kết quả của bảy câu lại thành ra 4 chữ : Tân Mùi Trạng Nguyên 辛未狀元, Câu chót "Bản lai diện mục quân tri phủ? " là : "Mặt mũi vốn có của ta, cô đã biết hay chưa?" À, thì ra ông xuất thân là Trạng Nguyên đậu năm Tân Mùi, Xin kính chào Ngài Trạng Nguyên ạ !

 

Tranh và tạo hình của Ngư, Tiều, Canh, Độc qua phim

 

Ông Độc rất phục cái thông minh, tài trí của Hoàng Dung, nhưng ông vẫn phải làm khó, vì nếu để cho sư phụ của mình là Đoàn Nam Đế trị thương cho Hoàng Dung thì ông ta phải chịu mất hết công lực trong 3 năm, mà trước mắt ông ta đang gặp phải cường địch. Vì vậy, ông Độc bắt Hoàng Dung phải đối thêm 2 câu đối nữa, nếu đối được mới cho vào. Câu thứ nhất, vế ra của Ông như sau :

 

Phong bãi tông lư, thiên thủ Phật dao triệp điệp phiến,

風 摆 棕 梠,千 手 佛 摇 槢 叠 扇,

 

Có nghĩa:

Gió đưa các nhánh cọ (như cây thốt nốt xòe các nhánh như lá dừa), giống như là ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt.

 

Vế ra hay quá, lại rất tượng hình, muốn đối lại không khó, nhưng muốn đối cho hay thì... Chợt Hoàng Dung nhìn thấy một cọng sen vương cao lên trong hồ, bèn xúc cảnh sinh tình mà đối ngay rằng :

 

Sương điêu hà diệp, độc cước quỷ đái tiêu dao cân.

霜 凋 荷 叶, 独 脚 鬼 戴 逍 遥 巾.

 

Có nghĩa:

Sương thu làm héo úa lá sen, trông giống như con quỷ một giò đội khăn tiêu dao.

 

Phong bãi tông lư... Sương điêu hà diệp...

 

Bấy giờ trời đã vào buổi tàn thu, sen trong đầm đà tàn tạ, một cọng sen vương cao lên, lá sen bên trên bị sương thu nên héo úa đen đúa rũ xuống, trông tựa như người đang đội khăn, ông Độc đang đội khăn Tiêu Dao, khăn của thư sinh ngày xưa, bây giờ bị Hoàng Dung diễu là "Con quỷ một giò đội khăn tiêu dao", để đối lại với "Ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt". Đối khéo và hay quá, lại còn mắng mình là "con quỷ một giò" nữa chớ !. Nhưng vẫn không chịu thua, ông tiếp tục moi ra câu đối hóc búa mà ngày xưa thầy ông đã ra cho ông khi còn đi học, và mãi cho đến nay mặc dù đã đậu Trạng Nguyên mấy chục năm rồi ông vẫn chưa đối lại được. Câu đối đó như sau :

 

Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện ,

琴 瑟 琵 琶 八 大 王, 一 般 頭 面. 

 

Có nghĩa:

"Cầm sắt tì bà" (là 4 loại nhạc cụ) , mỗi chữ trên đầu đều có 2 chữ VƯƠNG 王, nên gọi là bát đại vương 八大王, "Nhất ban đầu diện" là mặt mũi đều giống nhau, vì 2 chữ vương của mỗi chữ đều nằm ở phần trên đầu.

 

Vế ra quả là hóc búa, trong một lúc muốn đối cho chỉnh không phải là dễ. Nhưng Hoàng Dung lại rất thông minh dĩnh ngộ, lại đúng ngay tình cảnh mình đang gặp trước mắt, nên nàng bèn cất tiếng đối ngay:

 

Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường .

魑 魅 魍 魉 四 小 鬼, 各 自 肚 腸.

 

Có nghĩa:

 

"Si mị võng lượng" là 4 loài tiểu quỷ ở trong núi, chuyên phá phách người đi đường, "các tự đỗ trường" là mỗi con bụng dạ đều khác nhau. Câu đối thật khéo, thật chỉnh, "Cầm sắt tì bà" đối với "Si mị võng lượng", "Bát đại vương" đối với "Tứ tiểu quỷ", "Nhất ban đầu diện" đối với "Các tự đỗ trường". Vì phần trong của 4 chữ QUỶ 鬼 là 4 bộ khác nhau. Câu đối còn hay ở chỗ, vừa đối chỉnh lại vừa mượn ý câu đối mà mắng 4 ông Ngư Tiều Canh Độc là "Tứ tiểu quỷ" , mỗi người một bụng dạ khác nhau, như 4 con quỷ núi đều tìm cách ngăn chặn không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi...

 

Cầm sắt tì bà... Si mị võng lượng

 

Đến nước nầy, Ông Độc cũng phải chịu Hoàng Dung là giỏi và để cho 2 người lên núi trị thương...

 

Riêng tôi, thì tôi không biết là Hoàng Dung giỏi cở nào, chứ KIM DUNG thì quả nhiên giỏi thiệt, chả trách mọi người đều mê đọc truyện của ông ta, già mê theo già, trẻ mê theo trẻ, trí thức mê theo trí thức, bình dân mê theo bình dân... Quả thật là Ông Thần của tiểu thuyết Võ Hiệp Trung Hoa. Chả trách ở Trung Quốc có thành lập một tổ chức gọi là : Kim Dung Học, để chuyên nghiên cứu về 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung về tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, triết học, lịch sử, đia lý...

 

Thực ra theo "Cổ kim đàm khái, Đàm tư bộ 古今譚概·談資部" của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh thì đây là câu đối của một Đường Cao 唐皋 Trạng nguyên đời nhà Minh khi đi sứ sang nước Cao Ly. Chúa Cao ly ra câu đối thử tài là : Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện 琴瑟琵琶八大王,一般頭面. Trạng bèn đối lại là : Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường 魑魅魍魉四小鬼, 各 自肚腸. Chúa Cao Ly kinh ngạc khen hay.

 

Lại có thuyết cho là khi liệt cường xâu xé Trung Hoa, trong Bát quốc Liên quân có người giỏi tiếng Hoa muốn làm nhục triều đình Mãn Thanh đã ra câu đối hóc búa sau đây :

 

騎奇馬,張長弓,琴瑟琵琶八大王王王在上,單戈作戰。

Kỵ kỳ mã, trương trường cung, cầm sắt tì bà bát đại vương,

vương vương tại thượng, đơn qua tác chiến.

 

Có nghĩa:

Cởi ngựa lạ, giương cung dài, cầm sắt tì bà tám đại vương, mỗi vị vương đều ở trên, đơn thương tác chiến. Vế ra nầy hóc búa ở chỗ, ngoài Cầm Sắt Tì Bà Bát Đại Vương... lắt léo như đã nói ở trên, thì :

 

Chữ KỲ 奇 đặt sau chữ MÃ 馬 là chữ KỴ 騎;

Chữ CUNG 弓 đặt trước chữ TRƯỜNG 長 thành chữ TRƯƠNG 張.

Chữ QUA 戈 ghép sát lại với chữ ĐƠN 單 thành chữ CHIẾN 戰.

 

Lúc đó trong đám quan viên của Thanh Triều, có một người đứng ra đối lại rằng:

 

偽為人,襲衣衣,魅魑魍魎四小鬼鬼鬼犯邊,合手即拿。

Ngụy vi nhân, tập long y, Si mị võng lượng tứ tiểu qủy,

qủy qủy phạm biên, hiệp thủ tức nã.

 

Có nghĩa:

 

Làm người ngụy, trộm áo rồng, Si mị võng lượng bốn qủy nhỏ, qủy nào cũng muốn phạm biên cượng nắm tay lại là sẽ bắt lấy. Vế đối cũng có các chữ :

 

Chữ VI 為 đặt sau chữ NHÂN 人 là chữ NGỤY 偽;

Chữ Y 衣 đặt dưới chữ LONG 衣 là chữ TẬP 襲.

Chữ HIỆP 合 đặt trên chữ THỦ 手 là chữ NÃ 拿.

 

Bát Quốc Liên Quân xâu xé Trung Hoa

 

Câu đối hay ở chỗ Bát Quốc Liên Quân đến xâu xé Trung Hoa là Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật, Áo, Ý 英、美、法、德、俄、日、奧、意 xưng là "Bát Đại Vương" là "Tám ông vua lớn", thì bị gọi lại là "Tứ Tiểu Qủy" là "Bốn con qủy nhỏ". "Cởi ngựa lạ, giương cung dài, ngồi trên mà chiến đấu", thì được đối lại là "Ngụy quân tử, trộm áo vua, đến để xâm lấn biên cương"...

 

Nhưng trên đây chỉ là truyền thuyết, không có trong chính sử. Kim Dung đã khéo lượm lặt những giai thoại trong dân gian rồi ghép vào cho những nhân vật võ hiệp Hư Cấu của mình cho câu truyện thêm phần ly kỳ hấp dẫn và lý thú hơn mà thôi.

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức.

Nên gọi Quan Âm hay Quán Âm?

 Những năm gần đây, hầu như tất cả các chùa chiền, tăng ni, cư sĩ, Phật tử ... kể cả trong nước lẫn ngoài nước, đều có thói quen gọi QUAN Thế Âm Bồ Tát thành QUÁN (có dấu SẮC) thế Âm Bồ Tát ?!


        Mới nghe một hai lần đầu, tôi cứ ngỡ là người ta đọc sai, đọc lộn âm, nhưng chẳng những tín đồ Phật tử, cư sĩ tăng ni mà ngay cả các Tỳ kheo Đại đức, Thượng tọa Cao tăng khi tụng kinh hay đăng đàn thuyết giảng, hễ có dịp nhắc đến QUAN Âm Bồ Tát thì đều đọc là QUÁN Âm Bồ Tát cả !


       Tôi vô cùng ngạc nhiên, ngạc nhiên hết sức... Không biết tại sao Phật hiệu Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT nghe hiền hòa là thế, từ bi là thế, êm tai là thế, bỗng dưng lại bị bỏ thêm cái Dấu Sắc vô duyên nghe chói tai muốn chết ! Ấy thế, mà tại sao mọi người đều nghe theo và đọc theo cái Phật hiệu chói tai có dấu sắc kia ?!  

 

        Theo "Chữ Nho...Dễ Học" thì chữ Quan 觀 là chữ thuộc dạng Hình Thanh theo diễn tiến của chữ viết như sau :  

DCD_CHU XUAN.JPG

Ta thấy :
        Từ Chung đình văn cho đến Đại triện, Tiểu triện diễn tiến cho đến Lệ Thư đều do chữ QUÁN 雚 (một loại Lát để dệt chiếu, đệm) dùng làm ÂM kết hợp với Bộ KIẾN 見 là Thấy, là Gặp để chỉ Ý đúng theo phép tạo chữ của HÀI THANH (còn gọi là HÌNH THANH). Nên chữ 觀 được đọc là :


  * QUAN thì có nghĩa là Nhìn Ngắm, Xem Xét, như Tham quan 參觀, Quan sát 觀察... là Cách nhìn, như Quan Niệm 觀念, Quan Điểm 觀點...

     Nếu đọc là :
  * QUÁN thì có nghĩa là Cái chùa, Cái miếu của các đạo sĩ ở và tu, như Bạch Vân Quán 白雲觀, Tử Dương Quán 紫陽觀...

 

        Nhưng để truy nguyên tìm hiểu nguyên nhân của cái "dấu sắc" vô duyên kia, tôi còn tìm lật các Tự điển, Từ điển... À, thì ra chữ QUAN 觀  là Xem xét còn được đọc là QUÁN với nghĩa Xét thấu theo các tài liệu sau đây (chỉ trích những phần có liên quan) : 

 

 * Từ điển Hán Nôm :

 

    QUAN 觀 là...
      - xem, quan sát.
  1. (Động) Xem xét, thẩm thị, Ngắm nhìn, thưởng thức.
  2. (Danh) Cảnh tượng, quang cảnh, Cách nhìn, quan điểm, quan niệm.
  3. Một âm là “Quán”. (Động) Xét thấu, nghĩ thấu. ◇Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時, 照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi khổ ách.

 

 

* Từ điển Thiều Chửu :
       Giải thích âm QUÁN như sau :
      QUÁN : là Xét thấu, nghĩ kĩ thấu tới đạo chính gọi là quán. Như Chỉ Quán 止觀 yên định rồi xét thấu chân tâm, như Kinh Dịch 易經 nói Quán ngã sinh vô cữu 觀我生無咎 xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào tội lỗi. Đạo Phật có phép tu dùng tai mà xem xét cõi lòng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng, nên gọi là 
phép quán 觀. Như Quan âm bồ tát 觀音菩薩, vì ngài tu bằng phép này, sáu căn dùng lẫn với nhau được, mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán thế âm 觀世音.  

   

         À, thì ra QUAN 觀 là Xem Xét, là Nhìn Ngắm... Nếu đọc là QUÁN thì có nghĩa là Xét Thấu, Nghĩ Thấu... Nhưng suy cho cùng thì Xét Thấu Nghĩ Thấu đều là nghĩa phát sinh của Xem Xét Nhìn Ngắm ra mà thôi ! Và QUÁN còn là một phép tu tập về lục căn như có thể dùng tai để nhìn và dùng mắt để nghe được... Như trong "Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經 "..vv.. và..vv...  Nhưng,
       Ở đây tôi không nói về phép tu tập (Vì tôi có biết gì đâu mà nói ), tôi chỉ thắc mắc, ray rức không hiểu vì sao một Phật hiệu của một Bồ Tát khả kính đọc lên nghe êm ái nhẹ nhàng là QUAN THẾ ÂM Bồ Tát lại
bị ai đó hô hào rồi thô bạo thêm dấu sắc vào thành QUÁN THẾ ÂM nghe thật trúc trắc chói tai. Nếu bảo là gọi cho đúng cái con đường tu tập của Bồ Tát thì càng sai hơn, vì Phật hiệu là cái tên gọi, còn con đường tu tập là cái việc làm. Hơn nữa cái Phật hiệu đại từ đại bi Cứu khổ Cứu nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát mà mọi người còn gọi một cách thân mật gần gũi với cuộc sống hơn là Mẹ Hiền Quan Âm đã có từ hơn một ngàn năm trăm năm nay, từ thời Bắc Chu của Nam Bắc Triều (420-589) đời vua Diệu Trang Vương với Quan Âm Diệu Thiện và trên hai trăm năm với truyện nôm Quan Âm Thị Kính của ta dưới triều nhà Nguyễn (1802---). Phật hiệu QUAN ÂM BỒ TÁT đã đi sâu vào lòng quần chúng nhân dân, đã ăn sâu vào tâm khảm của muôn vạn tín đồ Phật tử, thì tại sao lại phải vì một lý do nào đó mà thêm vào "Dấu Sắc" cho trúc trắc khó đọc và nghe không êm ái chút nào cả !

 

                Xin được lạm bàn về Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Như các Từ điển nêu trên...


       QUAN 觀 là Quan sát, là Xem xét. THẾ 世 là Thế giới, là Cuộc đời nầy. ÂM 音 là Âm tín, Âm hao. Vậy thì...
      QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT 觀世音菩薩 là vị Bồ Tát quan sát xem xét hết những âm tín âm hao của cuộc đời nầy, của cả thế giới nầy, để cứu khổ cứu nạn với tấm lòng đại từ đại bi của mình cho tất cả chúng sinh. Vì thế mà ta thường nghe mọi người niệm câu " Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát " với một tấm lòng thuần thành và lắng lòng với Mẹ Hiền QUAN ÂM nhẹ nhàng êm ái. Nhưng nếu đọc là QUÁN ÂM thì vừa khó nghe, vừa chói tai lại vừa có vẻ
Bá Đạo nữa, vì ...

 

      Âm QUÁN dễ làm cho người ta liên tưởng và hiểu lầm thành...


    * QUÁN 冠 : là Bao trùm, Phủ trùm, như từ Quán Quân 冠軍 là Bao trùm cả Tam quân, là Hạng Nhất. Ngày xưa chỉ có những cuộc thi đua so tài trong quân đội, nên từ Quán Quân là Hạng Nhất được sử dụng thông dụng cho đến hiện nay. Nếu hiểu nhầm QUÁN THẾ ÂM là chữ QUÁN 冠 nầy, thì QUÁN THẾ 冠世 có nghĩa là Bao trùm cả thế giới, là Hạng Nhất ở trên đời nầy ! Nên tôi nói có vẻ Bá Đạo là thế, không thích hợp với Mẹ Hiền Quan Âm chút nào cả ! Còn như hiểu nghĩa... 

 

    * QUÁN 貫 là Quán Triệt 貫徹, Quán Xuyến 貫穿, là Xuyên suốt, thì QUÁN THẾ 貫世 là Xuyên suốt lo toan cho cả thế giới, nên có vẻ ôm đồm hết mọi việc của người đời. Mẹ Hiền Quan Âm chỉ Cứu khổ cứu nạn để giúp cho con người thoát khỏi bể khổ bến mê, chớ không phải ôm đồm làm hết mọi việc cho người đời. Còn nếu phát âm theo dân Nam Kỳ Lục Tỉnh chúng tôi không phân bịêt có "g" hay không "g" mà đọc là QUÁNG  (là Đui mù bóng QUÁNG) thành QUÁNG ÂM thì lại càng tội lỗi hơn ! Cho nên...

 

      Thiết nghĩ, QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT là tên gọi của Phật Bà Quan Âm đã hơn ngàn năm nay, đã thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là thói quen của tiếng nói, đã ăn sâu vào tâm thức của mọi người kể cả những người không phải là tín đồ Phật Giáo thuần túy như tôi, nhưng trong đời sống ở làng quê thôn xóm với ngôi chùa ở đầu thôn hay cuối làng, mọi người đã quen rồi với từ Quan Âm Bồ Tát, nay bỗng dưng lại đổi thành Quán Âm Bồ Tát; Mẹ Hiền Quan Âm thành Mẹ Hiền Quán Âm, nghe chua xót và ngỡ ngàng làm sao ấy ! Đã là thói quen của TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, sao ta không duy trì giữ nguyên mà lại thay đổi một cách không cần thiết như thế ? Vì mọi người, mọi tín đồ bình dân đâu cần biết đến cái phép tu tập, cái lối tu tập hay cái con đường tu tập của các bậc cao tăng chính giác mà chi, họ chỉ biết Quan Âm Bồ Tát là Mẹ Hiền Quan Âm cứu khổ cứu nạn mà thôi !    

   Nhớ...
       Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn (Vốn là Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũ), nội dung bài báo đề cập đến việc nên dùng từ "CHÚNG CƯ 眾居" thay thế cho từ " CHUNG CƯ " với lý do CHUNG CƯ là từ kép được thành lập theo văn phạm Hán Việt, vì Tính Từ đứng trước Danh Từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ CHUNG 終 Hán việt không có nghĩa là Chung chạ mà có nghĩa là Cuối cùng. Nên CHUNG CƯ 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở Cuối Cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ CHUNG CƯ 終居 thành CHÚNG CƯ 衆居 thì mới ổn.
 Vì CHÚNG 衆 là Quần Chúng 群眾, nên CHÚNG CƯ 衆居 mới là nơi Nhiều người cùng ở chung. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ
CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn 20 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ ! Tại sao ? Vì CHUNG CƯ là từ viết tắt của nhóm từ 4 chữ "CÙNG CHUNG CƯ NGỤ", hơn nữa từ CHÚNG CƯ nghe nó chỏi cái lổ tai làm sao ấy !. Nên, trước mắt tất cả báo đài đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, chớ không phải CHÚNG CƯ nữa, như CHUNG CƯ CAO CẤP Phú Mỹ Hưng chẳng hạn !  

 

                Trở lại với Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, thiết nghĩ giới Phật tử quần chúng bình dân đã quen miệng với các cách gọi thân thương là :


    - Quan Âm Bồt Tát,
  - Phật Bà Quan Âm,
  - Mẹ Hiền Quan Âm....


đã thành một Tập Quán Ngôn Ngữ rồi, nếu bây giờ phải gọi Bà Quan Âm là Bà QUÁN Âm thì nghe rất chướng tai và... không giống ai cả ! Nên, theo thiển ý thì...


     Khi tu tập hay khi nghiên cứu về giáo lý cao siêu của Phật Giáo thông qua các phép, các cách hay các con đường tu tập thì qúy Tỳ Kheo Đại Đức Thượng Tọa hay Hòa Thượng ... muốn gọi sao thì gọi, nhưng khi thuyết giảng giáo pháp trước quần chúng nhân dân thì nên giữ theo lối gọi truyền thống trước đây là QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, chứ đừng cho máy phóng thanh cứ oang oang là " QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT" như chọc vào tai của muôn vạn người nghe một cách bá đạo và khó chịu vô cùng !

       Trên đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân của người viết thông qua những phản ánh của bạn bè thân hữu chung quanh, xin chân thành gởi đến các vị chức sắc trong Giáo Hội Phật Giáo và quảng đại thiện nam tín nữ trong và ngoài nước để cùng nhau trao đổi và góp ý về tên gọi của một vị Bồ Tát rất gần gũi thân thương với tất cả chúng sinh còn chìm đắm trong biển khổ !

         Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát Ma Ha Tát !

 

                                                                                                                                                                           杜紹德
      Đỗ Chiêu Đức

___________________

 Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ 天有四時春在首, là "Trời có bốn mùa, XUÂN là mùa đứng đầu". XUÂN là chữ Hội Ý trong Lục Thư là một trong 6 cách hình thành chữ Nho, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

 

 

 

 

                

                     

Ta thấy :

            Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của bộ Thảo 艸 là Cỏ ở phía trên và chữ Đồn 屯 bên dưới tượng trưng cho các mầm non của cây cỏ nức đất vươn lên, bên cạnh là  hình tượng của chữ Nhật ㄖ là mặt trời là ánh nắng của mùa xuân giúp cho cỏ cây phát triển sau những ngày đông tháng giá; nên XUÂN 春 là mùa Xuân, mùa đầu tiên trong năm khi tiết trời trở lại ấm áp. Chưa có chữ NHO nào có diễn tiến phức tạp và thay đổi kiểu viết nhiều như chữ Xuân vậy. Có thể là do những ngày đông rét mướt vạn vật cỏ cây đều héo úa tàn tạ, vào xuân lại được dịp tái sinh, nên các mầm sống thi nhau phát triển, vì thế mà chữ viết cũng phát triển đa dạng theo như vạn vật đang hồi sinh chăng  ?! Mời xem diễn tiến chữ viết của chữ XUÂN qua các hình thức sau đây :

            

     

       

 

 

 

 

XUÂN là mùa đầu tiên trong năm, nên những ngày Lễ Hội đầu năm được gọi là XUÂN TIẾT  春節, là những ngày Lễ Tết của buổi đầu xuân, nên ta còn gọi "Ba ngày Tết" là "Ba ngày Xuân".  Đón Xuân là đón Tết, và "Ăn Tết" là để "Mừng Xuân". Tất cả những hoạt động của ngày Tết thường đều có chữ Xuân chen vào, như chợ bán hoa ngày Tết thì gọi là "Hội Hoa Xuân", đi dự hội ngày Tết thì gọi là "trẩy hội Xuân", đi lễ chùa ngày Tết thì gọi là đi "Lễ Xuân" như trong bản nhạc "Câu Chuyện Đầu Năm" của nhạc sĩ Hoài An :

 

                               Trên đường đi Lễ Xuân đầu năm ...

 

         Nói theo chiết tự thì chữ XUÂN được viết theo thứ tự : Chữ Nhất 一, chữ Nhị 二 rồi chữ Tam 三, xong chồng bộ Nhân 人 lên trên và phía dưới cùng là chữ Nhật 日.  Ghép tất cả các phần trên lại ta có chữ XUÂN 春. NHẤT là Thiên là Trời; NHỊ là Địa là Đất; TAM là NHÂN là Người, nói theo sách TAM TỰ KINH 三字經 là "TAM TÀI giả : Thiên Địa Nhân 三才者,天地人". Con Người là một thành viên hợp với Trời Đất tạo nên cái vũ trụ hỗn mang nầy, và khi mặt trời (NHẬT 日) bắt đầu ló dạng là vạn vật cũng bắt đầu phục sinh cho cuộc sống mới theo quy luật Âm Tiêu thì Dương Trưởng; đêm sẽ dần ngắn lại và ngày sẽ càng dài thêm ra; cây cỏ lá hoa đâm chồi nẩy lộc cho cuộc sống mới bắt đầu bằng màu hồng của những tia nắng xuân đầu tiên ấm áp để "Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng". 

               

         Nên từ đầu tiên ta có về mùa xuân là XUÂN QUANG 春光 là Ánh sáng  ấm áp của mùa xuân mang đến vẻ đẹp đẽ rực rỡ của cỏ cây hoa lá tươi hồng, nên để chỉ mùa xuân đẹp đẽ, ta có từ XUÂN HỒNG 春紅 như trong 4 câu thơ bất hủ mở đầu bài thơ "Tình Sầu" của thi nhân Huyền Kiêu thời Tiền Chiến :

 

                              XUÂN HỒNG có chàng tới hỏi

                              Em thơ, chị đẹp em đâu?

                              Chị tôi tóc xoã ngang đầu

                              Đi hái hoa tươi ngoài nội

 

          XUÂN HỒNG còn là sức sống và sự yêu đời như trong bài thơ nổi tiếng "Giây Phút Chạnh Lòng" của Thế Lữ :

 

                            Ta thấy XUÂN HỒNG thắm khắp nơi,

                            Trên đường rộn rã tiếng đua cười,

                            Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.

                            Cùng ngắm xuân về trên khóm mai...

                              

         Song song với XUÂN QUANG 春光 ta còn có từ XUÂN HUY 春暉 cũng chỉ ánh nắng ấm áp của mùa xuân mang lại sức sống cho cỏ cây, được ví như là công ơn của từ mẫu như trong bài thơ Du Tử Ngâm 遊子吟  của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường :

 

                         慈母手中线    Từ mẫu thủ trung tuyến              

                         遊子身上衣    Du tử thân thượng y                             

                         临行密密缝    Lâm hành mật mật phùng                       

                         意恐遲遲歸    Ý khủng trì trì quy             

                         誰言寸草心    Thùy ngôn thốn thảo tâm                

                         報得三春暉    Báo đắc tam XUÂN HUY