top of page
hmpg.jpg
Titlej (1).jpg
dcd_ongdo.jpg

TIẾNG HÁN CỔ

với Ông Đồ ĐỖ CHIÊU ĐỨC

CHS Phan Thanh Giản (Cần Thơ)

Cựu GS Trung Học Tân Hưng (Cái Răng)

Cựu Giảng Viên ĐH Xã Hội - Nhân Văn (Sài Gòn)

Houston,Texas________

 

Trân trọng giới thiệu TRANG NHÀ ĐỖ CHIÊU ĐỨC:

https://sites.google.com/view/dochieuduc5/startseite?authuser=0

DCD_Thattich1.png

THẤT 七 là Bảy; TỊCH 夕 là Đêm. Nhưng THẤT TỊCH 七夕 không phải là Bảy đêm, mà là đêm "Mùng Bảy Tháng Bảy" Âm lịch. Đêm mà Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau nhờ ô thước bắc cầu qua dòng sông Ngân Hà như trong truyền thuyết. Ngưu Lang Chức Nữ là một trong bốn chuyện tình lớn nhất của dân gian trong xã hội sơ khai của nền nông nghiệp : Nam thì chăn trâu cày ruộng; Nữ thì chăn tằm dệt vải. Nhưng vợ chồng lại không được đoàn tụ phải sống trong bi kịch mỗi người một nơi, một năm chỉ gặp mặt được có một lần. Nhân tháng 7 âm lịch, ta đọc lại một số bài thơ có liên quan đến tình yêu nam nữ lớn nhất, lâu đời nhất này nhé !...

 

1. Bài thơ ĐIỀU ĐIỀU KHIÊN NGƯU TINH 迢迢牽牛星 : 

 

               迢迢牽牛星,    Điều điều Khiên Ngưu tinh,

               皎皎河漢女。    Kiểu kiểu Hà Hán nữ.

               纖纖擢素手,    Tiêm tiêm trạc tố thủ,

               札札弄機杼。    Trát trát lộng cơ trữ.

               終日不成章,    Chung nhật bất thành chương.

               泣涕零如雨。    Khấp thế linh như vũ.

               河漢清且淺,    Hà Hán thanh thả thiển,

               相去復幾許?    Tương khứ phục kỷ hử ?

               盈盈一水間,    Doanh doanh nhất thuỷ gian,

               脈脈不得語。    Mạch mạch bất đắc ngữ !

                         無名氏                   Vô Danh Thị (Không rõ tên tác giả)

 

   

 

* Chú thích :

    - Điều Điều : là Xa xăm diệu vợi; là Xa xa...

    - Kiểu Kiểu : là Trắng trẻo nõn nà; là Lấp lánh. Còn được đọc là Hạo Hạo.

    - Tiêm Tiêm : là Mềm mại, thon thả. - Trạc : Nhấc lên, Đưa lên.

    - Trát Trát : là Lách cách lác các (từ Tượng thanh).

    - Bất Thành Chương : là Không thành văn vẻ vải vóc gì cả.

    - Khấp Thế : Khấp là Nước mắt ; Thế : là Nước mũi; Linh : là Chảy. Câu : "Khấp thế linh như vũ"là "Nước mắt nước mũi chảy như mưa". 

    - Hà Hán : Chỉ sông Thiên Hà, còn gọi là Sông Ngân Hà hay Ngân Hán.

    - Kỷ Hử ? : Là Nghi vấn tự, có nghĩa là Bao nhiêu ?"

    - Doanh Doanh : Là Đầy âm ấp. Là Vẻ nhởn nhơ của các bà các cô. Là (Nước) nông và trong, là Nông sờ. Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :

 

                           Sông Tương một dãy NÔNG SỜ,

                          Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.

 

    - Mạch Mạch : là (Nhìn) Đăm đắm, Đắm đuối, Chứa chan tình cảm.

 

* Nghĩa bài thơ :

       Xa xôi diệu vợi ở đầu bên kia sông là Sao Khiên Ngưu. Lấp lánh sáng sủa phía bên nầy sông là sao Chức Nữ (HÀ HÁN NỮ). Với đôi tay mềm mại trắng trẻo vươn ra, và tiếng lách cách lác các của khung cửi đang hoạt động. Nhưng... suốt cả ngày không dệt ra được vải vóc gì cả; mà còn khóc đến nước mắt nước mũi chảy như mưa. Sông Ngân Hà lại trong mà cạn, đây qua đó khoảng cách có bao xa đâu ? Chỉ là một dòng nước đầy ngăn cách, nhưng lại chỉ nhìn nhau đăm đắm mà chẳng nói nên lời !  

 

       Đây là bài thơ thứ mười trong "Cổ thi thập cửu thủ 古詩十九首" (19 bài thơ xưa thời Tần, Hán). Bài thơ đã mượn truyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ trong cái bi kịch là bị ngăn cách bởi sông Ngân Hà, người ở bên nầy sông người ở bên kia sông. Chức Nữ đã nói lên nỗi tương tư của sự chia cắt, bày tỏ nỗi bi thương sầu thảm của cảnh vợ chồng không được đoàn tụ một nhà. Không còn lòng dạ nào để canh cửi nữa, nên mặc dù khung máy dệt vẫn lách ca lách cách mà lại chẳng dệt nên gì cả, trong khi nước mắt nước mũi lại đầm đìa. Ý thơ và lời thơ đã hàm chứa một ý thức bất mãn và phản kháng về sự việc "Vợ một nơi chồng một nẻo" nầy. Lời thơ thiết tha chân thành, hình ảnh gợi tình gợi cảm một cách chân thật : Chỉ cách có mỗi một dòng sông nước cạn mà đôi lứa đành phải tương tư sầu khổ; Gần nhau trong gang tấc mà như là cách trở quan san !

 

* Diễn Nôm :

 

                ĐIỀU ĐIỀU KHIÊN NGƯU TINH

 

                  Xa xăm sao Khiên Ngưu,

                  Lấp lánh sông Chức Nữ.

                  Thon thả vươn tay ngà,

                  Lách cách trên khung cửi.

                  Suốt buổi chẳng nên chi,

                  Như mưa kìa mắt mũi.

                  Ngân Hà cạn lại trong,

                  Phải cách chi non núi ?!

                  Một dòng nước vơi đầy,

                  Nhìn nhau chừng đắm đuốì !

      Lục bát :

                  Sao Ngưu diêu vợi trời xa,

                  Lấp lánh Chức Nữ bên Hà Hán đây.

                  Tay ngà thon thả vươn đầy,

                  Thoi đưa lách cách khung cây suốt ngày.

                  Chẳng thành vải vóc cân đai,

                  Nước mắt bước mũi chảy dài như mưa.

                  Ngân Hà trong cạn như xưa,

                  Gần nhau gang tấc, lại vừa xa xôi.

                  Cách ngăn chỉ một sông thôi,

                  Nhìn nhau đăm đắm khôn lời thở than !

                                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

 

2. Bài thơ THẤT TỊCH 七夕 của LÝ HẠ 李賀 đời Đường :

          LÝ HẠ 李賀(790~816) Thi nhân đời Đường. Tự là Trường Cát 長吉. Người ở đất Phước Xương huyện Xương Cốc. Được người đời xưng tụng là THI QUỶ 詩鬼. Ông còn có biệt hiệu là Lý Xương Cốc 李昌谷. Cuộc sống của ông trường kỳ chìm đắm trong ưu tư sầu não, vắt óc khổ ngâm sống cuộc sống hành hạ bản thân. Thêm vào gia cảnh bần hàn khốn đốn làm cho cái ngôi sao thơ chưa kịp tỏa hết những ánh sáng lạ kỳ độc đáo thì đã phải vẫn lạc rụng sớm khi mới vừa 27 tuổi. Sau đây là bài thơ THẤT TỊCH 七夕 của ông.

 

                七夕                THẤT TỊCH

            別浦今朝暗,    Biệt phố kim triêu ám,

            羅帷午夜愁。    La duy ngọ dạ sầu.

            鵲辭穿線月,    Thước từ xuyên tuyến nguyệt,

            螢入曝衣樓。    Huỳnh nhập bộc y lâu.

            天上分金鏡,    Thiên thượng phân kim kính,

            人間望玉鉤。    Nhân gian vọng ngọc câu.

            錢塘蘇小小,    Tiền Đường Tô Tiểu Tiểu,

            更值一年秋。    Cánh trị nhất niên thu.

 

          

 

* Chú thích :

    - Thất Tịch : là Đêm mùng 7 tháng 7 Âm lịch. 

    - Biệt Phố : là Bến nước ly biệt, ở đây chỉ bến sông Ngân Hà nơi Ngưu Lang Chức Nữ chia tay với nhau, ai về bến nấy.

    - Kim Triêu : là Sáng nay; là Hôm nay; nghĩa trong bài là "Đêm Nay". Như trong câu "Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại NHẤT TRIÊU 養軍千日,用在一朝。" Có nghĩa : "Nuôi quân ngàn ngày, (nhưng chỉ) dùng trong MỘT BUỔI.

    - La Duy : là Rèm màn được dệt bằng tơ. Trong bài "Phong Phú 風賦" của Tống Ngọc thời Chiến Quốc có câu :"Tễ ư LA DUY, kinh ư động phòng 躋於羅帷,經於洞房" là Bước vào rèm tơ để động phòng. 

    - Câu 螢入曝衣樓. HUỲNH nhập bộc y lâu. Có dị bản là "HOA nhập bộc y lâu 花入曝衣樓". HUỲNH 螢 là con Đom đóm.

    - Phân Kim Kính 分金鏡 : là Chia cái gương bằng vàng ra làm hai. Ý chỉ mùng bảy trăng chưa tròn, chỉ có nửa vầng trăng thôi. Giống như là mảnh gương vỡ đôi của Lạc Xương công chúa và Từ Đức Ngôn, và như cụ Nguyễn Du cũng đã viết "Vầng trăng ai xẻ làm đôi ?". Ở đây Lý Hạ ví mình như "nửa vầng trăng" vì đơn độc có một mình.    

    - Ngọc Câu : là Cái móc bằng ngọc, chỉ trăng lưỡi liềm của đêm mùng bảy.

    - Tô Tiểu Tiểu 蘇小小 : là một danh kỹ của Nam Tề thời Nam Bắc Triều, được rất nhiều văn nhân thi sĩ nhắc đến. Ở đây Lý Hạ mượn hình tượng của Tô Tiểu Tiểu để chỉ người mình yêu.

    - Câu 更值一年秋 CÁNH trị nhất niên thu. có dị bản là : HỰU trị nhất niên thu 又值一年秋. CÁNH và HỰU ở đây đềi có nghĩa là LẠI, Lại thêm, Lại càng.

 

* Nghĩa bài thơ :

        Trên bến sông Ngân Hà đêm nay trời rất ảm đạm. Ngồi trong rèm tơ lúc nửa đêm để nghe sầu dâng tràn ngập. Chim ô thước đã từ biệt vầng trăng xỏ chỉ để KHẤT XẢO (xin được khéo tay). Chỉ còn những con đom đóm bay vào lầu phơi áo mà thôi (Đây là lần phơi áo cuối cùng trước khi trời vào thu). Trên trời vầng trăng như chiếc gương vàng bị chia đôi (Như Ngưu Lang Chức Nữ hợp rồi lại tan). Nên (những người yêu nhau) trong nhân gian chỉ ngắm được có nửa cái móc ngọc mà thôi. (Không thấy được người yêu) như là Tô Tiểu Tiểu ở xứ Tiền Đường; Đành âm thầm sống lẻ loi cô độc thêm một mùa thu nữa vậy !

 

       Đường Minh Hoàng và Dương Qúy Phi trong đêm Thất Tịch thì nguyện "Trên trời cùng làm chim liền cánh, dưới đất thì làm cây liền cành". Nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì "Mượn điều THẤT TỊCH mà thề bách niên" còn Lý Hạ lại mượn đêm Thất Tịch để bày tỏ nỗi lòng ưu sầu và thương nhớ người yêu của mình. Ngưu Lang Chức Nữ một năm còn được gặp nhau một lần trong đêm Thất Tịch, mặc dù sau đó lại phải chia tay; Còn mình xa người yêu hết năm nầy qua năm khác không biết đến bao giờ mới lại được gặp nhau đây. Vầng trăng mãi cứ như mảnh gương xẻ nửa đêm Trừ Tịch. Không biết đến bao giờ thì "Gương vỡ lại lành" đây ?!  Đành cô đơn lẻ bóng thêm một năm nữa vậy !

 

 

 

 

 

 

                

* Diễn Nôm :

   

                      THẤT TỊCH

 

                 Bờ Ngân Hà ảm đạm,

                 Rèm tơ nửa đêm sầu.

                 Qụa rời trăng xỏ chỉ,

                 Đom đóm áo phơi lầu.

                 Trên trời gương bẻ nửa,

                 Dưới thế ngắm móc câu.

                 Đâu Tiền Đường Tiểu Tiểu ?

                 Lại thêm một năm thu !

 

        

    Lục bát :

                 Ngân Hà ảm đạm đôi bờ,

                 Một mình cô lẻ rèm tơ đêm sầu.

                 Qụa rời xỏ chỉ trăng thâu,

                 Áo phơi đóm lượn bên lầu trăng soi.

                 Trên trời gương bẻ làm đôi,

                 Dưới trần buồn ngắm bồi hồi ngọc câu.

                 Tiền Đường Tiểu Tiểu về đâu ?

                 Lại mùa thu nữa nghe sầu chia ly !

                                              Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

 

3. Bài thơ THU TỊCH 秋夕 của Đỗ Mục 杜牧 đời Đường :

           ĐỖ MỤC 杜牧 (803-852), tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ 樊川居士, người đất Kinh Triệu 京兆 (Tây An thiểm Tây ngày nay). Ông là con của Đỗ Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm thứ 2. 

      Đỗ Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời. Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ để phân biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường. Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là Lý Bạch và Đỗ Phủ.

      Sau đây là bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt THU TỊCH của ông :

 

                   秋夕                       THU TỊCH    

 

          銀燭秋光冷畫屏,   Ngân chúc thu quang lãnh họa bình

            輕羅小扇撲流螢。   Khinh la tiểu phiến phốc lưu huỳnh

            天街夜色涼如水,   Thiên giai dạ sắc lương như thủy

            臥看牽牛織女星。   Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .

 

          

 

 

 

 

 

 

 

* Chú thích :

    - Ngân Chúc : Ngân là Bạc, ở đây là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc là đuốc. Hoa Chúc là Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây Đèn Cầy, Cây Nến. Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu trắng bạc.

    - Họa Bình : là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà quyền quý thời xưa.

    - Khinh La : Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là Vải The. Khinh La : là loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài "Khinh La Tiểu Phiến": Là chiếc quạt con làm bằng lụa là của các tiểu thơ thường cầm trên tay ngày xưa.

    - Phốc : Là chụp bắt.

    - Lưu Huỳnh : Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu Tinh 流星 : là Sao xẹt. Huỳnh : là con Đom đóm.

    - Thiên Giai : Giai là con đường. Thiên Giai : không phải là đường ở trên trời, mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.

    - Lương Như Thủy : là Mát như nước.

 

* Dịch nghĩa :

                        ĐÊM THU

       Ánh sáng lung linh từ ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho tấm bình phong đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng phe phẩy chiếc quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang lặp lòe bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con đường của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm thanh vắng lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao Chức Nữ và Ngưu Lang.

 

Diễn nôm : 

                                     

 

           

                      

                       Lung linh nến trắng bình phong lạnh,

                       Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.

                       Lấp lánh sao trời trong như nước,

                       Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu .

       Lục bát :

                       Bình phong thu lạnh se se,

                       Quạt là nến trắng lặp lòe đóm bay

                       Trời thu như nước mát thay,

                       Ngưu Lang Chức Nữ đêm nay tương phùng !

                                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

                                                                                               

      Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay lượn lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.... Rất bình dị và rất nên thơ !. Có ai ngờ được đây lại là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé

   ... Ngọn bạch lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực rỡ, rõ ràng là cuộc sống của các nhà quyền quý vương hầu, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường trong Kinh thành, trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời ?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không !. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả tuổi thanh xuân, cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ?! Duy chỉ có nàng cung phi trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới ...

 

                  Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên  ....    mà thôi ! 

                                                                                             

       "Bách niên" mà chỉ gặp nhau vào đêm "Thất Tịch" hằng năm, thì có ai ao ước mà làm gì !!!

 

        Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái "Oán" trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị. Phải chăng cái oán đeo đẳng miên man lâu dần nên đã hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một sự tự nhiên tội nghiệp ! Không như nàng cung phi của Ôn Như Hầu :

 

         ..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !... 

    Khi...   

            Cái oán đã lên đến cực điểm và trở thành bạo động !  

 

 

 

 

 


 

       Hẹn bài viết tới :

 

                          CHÙM THƠ THẤT TỊCH  (2)

 

  杜紹德

  Đỗ Chiêu Đức

dcd_thutich.JPG
dcd_50nam.JPG

   THẮM THOÁT NĂM MƯƠI NĂM

 

  Thắm thoát thời gian khéo hững hờ

   Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ

   Năm mươi năm cũ tình ​đeo đẵng

   Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ....

   ........................................................

   Năm mươi năm cũ tình chưa cũ

   Còn nhớ không em tự thuở nào

   Hai đứa tung tăng cùng đến lớp

   Tan trường chung lối vẫn bên nhau

 

    Em như Ngọc Nữ ngây thơ quá

    Đuổi bướm vờn hoa dại bên rào

    Anh thì ngờ nghệch nhìn ngơ ngác

    Chỉ cười khi thấy bướm bay cao

 

    Phụng phịu dỗi hờn như trách móc

    Suốt buổi lặng thinh chẳng nói gì

    Anh ghẹo em cười ba bốn bận

    Khi nhìn "Hồ điệp mãn viên phi"..(1)

       .....................................................

    Lần lữa, thời gian êm ả trôi

    Em tròn mười sáu, anh thế thôi,

   Sáng chiều hai buổi Phan Thanh Giản

    Bốn lượt đi về vẫn có nhau

    Xe đạp song song giữa nắng chiều

    Thướt tha trong gió nhẹ hiu hiu

    Phất phơ áo trắng bay theo gió

    Xao xuyến lòng anh tuổi chớm yêu !

 

    Ngây thơ nào biết đến tình ai

    Em vẫn vô tư rạng nét ngài

    Nhìn anh vẫn mĩm cười trong nắng

    Để mặc gió lùa tóc rối bay...

 

    Mười sáu em như nụ mai xanh

    Trong trắng trinh nguyên giấc mộng lành

    Đâu biết lòng anh đang rạo rực

    Mỗi chiều trong nắng gió mong manh

 

    Từ đó anh thường hay ngẩn ngơ

    " Thi nhân Tiền Chiến " lẫn trong mơ

    Anh ngồi chép mãi thơ người khác

    Đâu biết chuyện mình cũng nên thơ

 

    Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trong Lư....

    Đọc cả Đường thi lẫn Tống từ....

    Chép mãi trăm lần " Tình thứ nhất ,

    Đem cho em kèm với một lá thư... "(2)

 

    Một buổi chiều kia anh đánh bạo

    Kẹp thư trong sách tỏ tình... thân

    Thẹn thùa ba, bốn, năm  ngày tiếp

    Em chẳng nhìn anh lấy một lần !...

 

    Im lặng, khiến lòng anh thấp thỏm

    Hỏi thì...Em lại bẳng như không :

    "Thấy ghét!". Em làm anh bối rối,

    Nhưng "ghét" là... yêu đó, phải không?

    ..........................................................

 

    Rồi những chiều xuân ta có nhau

    "Thầy Cầu" vườn biếc, lá lao xao

    "Ninh Kiều" gió lộng, bao lưu luyến

    Nhẹ bước "Đàn Tiên", những buổi nào!(3

    

    Anh với em như Điệp với Lan

    "Thanh mai trúc mã" đẹp muôn vàn

    Võ vẽ thơ Đường anh đọc thấy

    Chuyện mình sao giống khúc "Trường Can"..(4)

 

    Em bảo, em yêu thơ Thái Can

    Thương người thiếu nữ khóc hoa lan

    Ghét anh Hồ Dzếnh " Tình... dang dở "

    Chê chàng Nguyễn Bính "... bước sang ngang "(5)

 

    Em muốn duyên ta kết Tấn Tần

    Muôn đời vạn kiếp mãi không phân

    Xinh như Ngọc Nữ Tiên Đồng ấy

    Sớm dạo vườn đào, tối sông Ngân...

 

    Tiếc thay anh chẳng phải Tiên Đồng

    Mơ mộng em anh khéo viễn vông !

    Mười sáu yêu nhau chừng quá sớm

    Nên ngòi ly biệt đã khơi dòng...

 

    Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu

    Người đời miệng tiếng lắm xôn xao

    "Hộ đối môn đăng" muôn kiếp vẫn

    Là rào ngăn cách kẻ yêu nhau!

 

    Em là gái "Khuê môn bất xuất" !

    Phận anh nghèo "Bạch diện thư sinh"

    Thói đời đen bạc cho nên nỗi

    Dang dở vì đâu một chữ tình ?!

 

 

    Mười bảy anh thi rớt Tú Tài

    Lên đường viễn xứ một thân trai

    Cầu thực tha phương trong khói lửa

    Lòng còn trĩu nặng bóng hình ai !....

 

    Nỗi biệt ly nào chẳng xót xa

    Tiễn đưa không một chén quan hà (6)

    Nhìn nhau cố nén lòng không khóc

    Không khóc mà sao mắt cứ nhòa...

            ....................................................

    Từ ấy, đường đời ai nấy đi

    Các thành gia thất các tương nghi (7)

    Chạnh lòng giây phút khi nghe trẻ

    Hát bài " Hồ điệp mãn viên phi " !

 

    Trải bao thế thái với nhân tình

    Dâu bể, nổi chìm, lắm đão khuynh

    Mới hay " Tình... đẹp, khi...dang dở " 

    Trách chi Hồ Dzếnh thuở bình sinh !

 

    Năm mươi năm cũ, tình đeo đẳng

    Lòng vẫn tơ vương... chiếc áo dài !

   Mỗi lúc nắng chiều phơn phớt gió

    Bồi hồi lại nhớ...áo ai bay !

 

    Những lúc trà dư tửu hậu tan

    Chạnh niềm cô lữ, buổi xuân tàn

    Chiều nay chợt thấy lòng xao xuyến

    Ngậm ngùi đọc lại khúc " Trường Can "...

 

    "Mai Trúc" ngày xưa đã dở dang

    Phương trời cách biệt vẫn băn khoăn

    "Thanh Mai" vẫn thắm như ngày trước?

    "Trúc Mã" giờ đây...đã cỗi cằn!

                 .......................................................

 

    Thắm thoát thời gian khéo hững hờ

    Bóng câu, cửa sổ, thoáng như mơ

    Năm mươi năm cũ... tình đeo đẳng

    Còn ngỡ hôm nào, khi tuổi thơ

 Đỗ Chiêu Đức

DCD_1.JPG

GHI CHÚ :

                     Vì là thơ tình của thầy đồ, nên không bỏ được... bệnh nghề nghiệp, nói Nho nhiều quá , và vì thế nên phải có các chú thích kèm theo sau đây :

Chú Thích :
             (1) " Hồ điệp mãn viên phi " là : Bướm bay đầy vườn, tên một bài hát của các học sinh Tiểu học trường Hoa trước đây, giống như bài " Kìa con bướm vàng..." , của ta vậy.

             (2) Trích dở bài thơ " Một mối tình " của nhà thơ Xuân Diệu :

                Anh có một tình yêu thứ nhất
               Đem cho em kèm với một là thơ
               Em không lấy và tình anh đã mất
               Tình đã cho không lấy lại bao giờ !

            (3) " Vườn Thầy Cầu , Bến Ninh Kiều, Đàn Tiên " là những nơi để dạo chơi, giải trí, cắm trại... của thanh niên học sinh ở Cần Thơ hồi khoảng thập niên 50-60. Hiện nay, chỉ còn lại có Bến Ninh Kiều.

           (4) " Thanh Mai Trúc Mã " là thành ngữ điển tích xuất xứ từ bài thơ Ngũ Ngôn Cổ Phong của Lý Thái Bạch đời Đường. Bài thơ có tên là " Trường Can Hành ", trong đó có hai câu :

            Lang kỵ TRÚC MÃ lai        郎騎竹馬來,
            Nhiễu sàng lộng THANH MAI    繞床弄青梅.

thường dùng để chỉ trai gái quen nhau từ thuở nhỏ, lớn lên yêu nhau hoặc thành chồng vợ với nhau. Sau này dùng rộng ra còn để chỉ VỢ CHỒNG và được nói gọn lại thành " MAI TRÚC" hay " TRÚC MAI ", như trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

            Một nhà sum họp TRÚC MAI
            Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông !
      Hoặc :
                  Tưởng rằng MAI TRÚC lại vầy
             Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !

          (5) Trích dở câu thơ nổi tiếng của nhà thơ HỒ DZẾNH : " Tình chỉ đẹp khi còn dang dở ". Mới yêu nhau, ai cũng chê câu nầy cả, cũng như đều chê tên tập thơ cũng là tựa của bài thơ nổi tiếng của thi sĩ NGUYỄN BÍNH là " Lỡ bước sang ngang ".

          (6) Lấy ý thơ trong truyện Kiều của Nguyễn Du :

                                       Tiễn đưa một chén quan hà
                                  Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình !

          (7) " Các thành gia thất các tương nghi 各成家室各相宜 " là Mỗi người đều thành gia lập thất và đều có một gia đình êm ấm cả !
 

 Thầy Đồ Dõm
Đỗ Chiêu Đức 

              kính.

Lời TỰA của Tác giả :

 

       Năm Nguyên Hòa thứ mười (815), ta bị biếm làm Tư Mã quận Cửu Giang. Mùa thu năm sau, đưa khách ở cửa sông Bồn, đêm nghe trong thuyền có tiếng tì bà của ai đó gảy, nghe âm điệu có giọng thánh thót của kinh thành. Hỏi ra, thì là một kỹ nữ của đất Trường An, từng học đàn tì bà với hai thiện tài Mục, Tào. Nay vì tuổi lớn nhan sắc tàn phai, nên lấy một thương buôn nương thân. Ta cho thuộc nhân bày tiệc rượu, mời đàn vài bản. Đàn xong, với vẻ âu sầu buồn bã kể lại những hoan lạc của ngày xưa, còn nay thì tiều tụy phiêu bạt giang hồ. Ta bị biếm đã hai năm, cũng đã sống an nhiên bình thản, chợt nghe lời kể lể, đêm nay mới có chút cảm giác của kẻ bị đi đày, nên làm bài thơ trường thiên nầy để tặng lại, gồm 616 chữ (88 câu), đặt tên là "TÌ BÀ HÀNH".

   

 元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞舟中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲。問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆、曹二善才,年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲。曲罷憫然,自敍少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年,恬然自安,感斯人言,是夕始覺有遷謫意。因為長句,歌以贈之,凡六百一十六言,命曰《琵琶行》。

           潯陽江頭夜送客,      Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,

           楓葉荻花秋瑟瑟。      Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.

           主人下馬客在船,      Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền,

           舉酒欲飲無管絃。      Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.

           醉不成歡慘將別,      Túy bất thành hoan thảm tương biệt,

           別時茫茫江浸月。      Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.

           忽聞水上琵琶聲,      Hốt văn thủy thượng tì bà thanh,

           主人忘歸客不發。      Chủ nhân vong quy khách bất phát.

           尋聲闇問彈者誰,      Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy?

           琵琶聲停欲語遲。      Tì bà thanh đình dục ngữ trì.

           移船相近邀相見,      Di thuyền tương cận yêu tương kiến,

           添酒回燈重開宴。      Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.

           千呼萬喚始出來,      Thiên hô vạn hoán thỉ xuất lai,

           猶抱琵琶半遮面。      Do bảo tì bà bán già diện.

           轉軸撥絃三兩聲,      Chuyển trục phất huyền tam lưỡng thanh,

           未成曲調先有情。      Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.

           絃絃掩抑聲聲思,      Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,

           似訴生平不得志。      Tự tố sanh bình bất đắc chí.

           低眉信手續續彈,      Đê my tín thủ tục tục đàn,

           說盡心中無限事。      Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.

           輕攏慢撚抹復挑,      Khinh lũng mạn nhiên mạt phục khiêu,

           初為霓裳後六么。      Sơ vi Nghê Thường hậu Lục Yêu.

           大絃嘈嘈如急雨,      Đại huyền tào tào như cấp vũ,

           小絃切切如私語。      Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.

           嘈嘈切切錯雜彈,      Tào tào thiết thiết thố tạp đàn,

           大珠小珠落玉盤。      Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.

           間關鶯語花底滑,      Nhàn quan oanh ngữ hoa đễ hoạt,

           幽咽泉流水下灘。      U yết kưu tuyền thủy há than.

           水泉冷澀絃凝絕,      Thủy huyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,

           凝絕不通聲暫歇。      Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết

           別有幽愁暗恨生,      Biệt hữu u sầu ám hận sanh,

           此時無聲勝有聲。      Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.

           銀瓶乍破水漿迸,      Ngân bình sạ phá thuỷ tương binh,

           鐵騎突出刀槍鳴。      Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.

           曲終收撥當心劃,      Khúc chung thâu phất đương tâm hoạch,

           四絃一聲如裂帛。      Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.

           東船西舫悄無言,      Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,

           唯見江心秋月白。      Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.

           沉吟放撥插絃中,      Trầm ngâm phóng bát tháp huyền trung,

           整頓衣裳起斂容。      Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.

           自言本是京城女,      Tự ngôn bổn thị kinh thành nữ,

           家在蝦蟆陵下住。      Gia tại Hà Mô Lăng hạ trú.

           十三學得琵琶成,      Thập tam học đắc tì bà thành,

           名屬教坊第一部。      Danh thuộc gío phường đệ nhât bộ.

           曲罷曾教善才服,      Khúc bãi thường giao thiện tài phục,

           妝成每被秋娘妒。      Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.

           五陵年少爭纏頭,      Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,

           一曲紅綃不知數。      Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.

           鈿頭銀篦擊節碎,      Điền đầu ngân bề kích tiết toái,

           血色羅裙翻酒污。      Huyết sắc la quần phiên tửu ô.

           今年歡笑復明年,      Kim niên hoan lạc phục minh niên,

           秋月春風等閒度。      Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.

           弟走從軍阿姨死,      Đệ tẩu tòng quân a di tử,

           暮去朝來顏色故。      Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.

           門前冷落車馬稀,      Môn tiền lãnh lạc xa mã hi,

           老大嫁作商人婦。      Lão đại giá tác thương nhân phụ.

           商人重利輕別離,      Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,

           前月浮梁買茶去。      Tiền nguyệt Phù Lương mại trà khứ.

           去來江口守空船,      Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,

           繞船月明江水寒。      Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn.

           夜深忽夢少年事,      Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,

           夢啼妝淚紅闌干。      Mộng đề trang lệ hồng lan can.

           我聞琵琶已歎息,      Ngã văn tì bà dĩ thán tức,

           又聞此語重唧唧。      Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.

           同是天涯淪落人,      Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,

           相逢何必曾相識。      Tương phùng hà tất tằng tương thức.

           我從去年辭帝京,      Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,

           謫居臥病潯陽城。      Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành.

           潯陽地僻無音樂,      Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc,

           終歲不聞絲竹聲。      Chung tuế bất văn ti trúc thanh.

           住近湓江地低溼,      Trú cận Bồn Giang địc đê thấp,

           黃蘆苦竹繞宅生。      Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sanh.

           其間旦暮聞何物,      Kỳ gian đản mộ văn hà vật,

           杜鵑啼血猿哀鳴。      Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.

           春江花朝秋月夜,      Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,

           往往取酒還獨傾。      Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.

           豈無山歌與村笛,      Khởi vô sơn ca dữ thôn địch ?

           嘔啞嘲哳難為聽。      Ẩu á trào triết nan vi thính.

           今夜聞君琵琶語,      Kim dạ văn quân tì bà ngữ,

           如聽仙樂耳暫明。      Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.

           莫辭更坐彈一曲,      Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc,

           為君翻作《琵琶行》。  Vị quân phiên tác "Tì Bà Hành".

           感我此言良久立,      Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,

           卻坐促絃絃轉急。      Khước tọa thúc huyền huyền chuyển cấp.

           淒淒不似向前聲,      Thê thê bất tự hướng tiền thanh,

           滿座重聞皆掩泣。      Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp.

           座中泣下誰最多?      Tọa trung khấp hạ thùy tối đa ?

           江州司馬青衫濕。      Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp.

                         白居易                                         Bạch Cư Dị

dcd_tibahanh_3.JPG

* Nghĩa bài thơ :

                        TÌ BÀ HÀNH

     1. Ta đến đầu sông Tầm Dương để đưa khách trong đêm thu.

     2. Lá cây phong và lau sậy bên sông xào xạc trong gió thu hiu hắt.

     3. Chủ nhân thì xuống ngựa còn khách thì đã ở trên thuyền.

     4. Cùng cất chén rượu đưa tiễn lên để uống nhưng không có đàn sáo gì cả.

     5. Say nhưng lòng chẳng vui nên buồn thảm mà ly biệt nhau.

     6. Lúc ly biệt thì thấy mênh mông như dòng sông đang chìm đắm dưới ánh trăng.

     7. Bỗng nghe được tiếng đàn tì bà vang lên trên mặt nước, khiến cho...

     8. Chủ thì quên về, còn khách cũng quên xuất phát...

     9. Tìm theo âm thanh thầm hỏi: Ai là người cho phát ra tiếng đàn nầy đây?

    10. Tiếng tì bà chợt tắt như muốn nói lại thôi...

    11. Di chuyển cho thuyền đến gần nhau và xin cho được gặp mặt.

    12. Thắp lại đèn, lấy thêm rượu, mở lại tiệc...

    13. Mời gọi mãi cả trăm ngàn lần mới thấy người ra, nhưng...

    14. Vẫn còn ôm cây đàn tì bà che khuất đi nửa khuôn mặt một cách ngại ngần.

    15. Vặn trục so dây dạo lên vài ba tiếng...

    16. Chưa thành khúc điệu nào cả, nhưng đã chan chứa cảm tình.

    17. Mỗi dây như mỗi ẩn ức, mỗi tiếng đàn như những tiếng lòng...

    18. Như muốn bày tỏ cuộc sống bình sinh bất đắc chí...

    19. Cúi mặt cúi mày hai tay liên tục đàn không ngớt, như...

    20. Muốn nói hết bao điều muốn nói ở trong lòng.

    21. Vuốt nhẹ nhấn chậm móc rồi khảy.

    22. Mở đầu là điệu Nghê Thường, sau đó là khúc Lục Yêu.

    23. Dây to rào rào như mưa đang đổ xuống rất gấp.

    24. Dây nhỏ tỉ tê như những lời thỏ thẻ riêng tư.

    25. Rào rạt ào ào lẫn trong tiếng tỉ tê thỏ thẻ trong tiếng đàn, như...

    26. Những hạt châu lớn hạt châu nhỏ cùng lúc rơi xuống mâm ngọc.

    27. Như tiếng chim oanh hót vang dưới hoa ngoài ải vắng,

    28. Róc rách như tiếng suối reo đổ xuống từ đầu ghềnh ...

    29. Nước suối lạnh căm căm làm cho tiếng huyền như ngưng đọng lại...

    30. Ngưng đọng lại không thông nên tiếng đàn chợt tắt...

    31. Như có nỗi ưu sầu gì đó, làm sanh ra nỗi hận ngút ngàn...

    32. Trong lúc yên lặng nầy không có tiếng đàn lại hay hơn là có tiếng đàn.

    33. Bỗng như bình thủy ngân vỡ ra nước bắn tung tóe...và như...

    34. Tiếng vó ngựa sắt đột nhiên dồn dập trong tiếng đao kiếm rổn rảng...

    35. Cuối khúc nhạc dùng các phiếm đàn gạt mạnh một đường qua tâm đàn...

    36. Bốn dây đàn cùng lúc rít vang lên như xé lụa !...

    37. Thuyền đậu hai bên đông tây đều im lặng như tờ...

    38. Chỉ thấy ánh trăng sáng vằng vặc soi bóng giữa dòng sông.

    39. Nàng trầm ngâm lặng lẽ gài lại các phiếm đàn trong dây.

    40. Chỉnh trang lại áo xống và vuốt lại tóc tai một cách nghiêm chỉnh.

    41. Rồi tự kể lại rằng : Mình vốn dĩ là gái ở kinh thành.

    42. Nhà ở tại khu Lăng Hà Mô (nơi nổi tiếng ăn chơi) của đất Trường An.

    43. Mười ba tuổi thì đã học xong xuôi thành thạo đàn tì bà rồi.

    44. Được xếp vào nhóm hạng nhất của giáo phường âm nhạc.

    45. Mỗi lần đàn xong một khúc thì thường được các bậc thầy tán thưởng.

    46. Mỗi lần trang điểm xong thì các Thu Nương cũng phải đố kỵ.

    47. Các chàng thiếu niên giàu có ở Ngũ Lăng tranh nhau mà tặng qùa cáp.

    48. Chỉ một khúc đàn thôi thì đã có vô số gấm vóc nhung lụa.

    49. Dùng trâm vàng lược bạc gõ nhịp đến gãy cả ra... và...

    50. Màu quần là đỏ tươi như máu cũng bị ô nhiễm vì rượu bị đổ vải...

    51. Năm nay cười đùa vui vẻ đến sang năm... đều...

    52. cùng vui với gió xuân, với trăng thu một cách nhàn nhã với tháng ngày.

    53. Rồi em trai phải đi tòng quân và bà dì lại mất...

    54. Ngày qua tháng lại nhan sắc cũng tàn phai...

    55. Trước cửa đã vắng vẻ lạnh lẽo vì xe ngựa đã thưa dần...

    56. Khi già lớn thì theo làm vợ của một thương buôn.

    57. Thương buôn thì luôn trọng cái lợi và xem nhẹ chuyện biệt ly.

    58. Tháng trước đã đến vùng Phù Lương để mua bán trà rồi.

    59. Ông ta đi rồi tôi chỉ còn biết thủ cái thuyền trống không nầy mà thôi.

    60. Quanh thuyền là ánh trăng sáng lắp loáng và dòng nước sông lạnh lẽo.

    61. Nửa đêm lại bỗng nằm mơ thấy chuyện của hồi niên thiếu.

    62. Nức nở trong mơ đến nước mắt chảy đỏ cả phấn son.

    63. Ta nghe tiếng tì bà đã thở dài não nuột rồi, lại...

    64. Nghe những lời kể lể nầy lại càng trắc ẩn não nuột hơn.

    65. Đều cùng là "người lưu lạc phương trời" với nhau...

    66. Gặp nhau đây sao lại phải cần quen biết nhau trước chứ ?!

    67. Từ năm ngoái đến nay, ta đã từ biệt kinh thành đế đô. Bị...

    68. Trích biếm đi đày rồi lại bị nhuốm bệnh ở Tầm Dương thành nầy.

    69. Tầm Dương là nơi hẻo lánh nên không có âm nhạc gì cả !

    70. Suốt năm chẳng nghe được tiếng tơ tiếng trúc gì hết !

    71. Lại ở gần sông Bồn Giang nên địa thế ẩm thấp.

    72. Lau sậy và tre nứa lồ ồ mọc đầy cả chung quanh nhà. Nên...

    73. Từ sáng đến chiều nghe được những gì trong ấy đây ?...

    74. Tiếng chim Đỗ Quyên kêu đến mửa máu và tiếng vượn hú u buồn.

    75. Trước những hoa xuân buổi sáng ở ven sông và những đêm trăng thu sáng.

    76. Chỉ còn có nước lấy rượu ra nhấm nháp một mình mà thôi !

    77. Chẳng lẻ không có hát hò và tiếng sáo của thôn quê hay sao ?!

    78. Chỉ là những giọng ngô nghê thôn dã khó mà nghe để cảm xúc.

    79. Đêm nay, nghe được tiếng đàn tì bà như nói lên được tâm sự...

    80. Ta như nghe được tiếng nhạc trên tiên cung làm cho sáng tai ra.

    81. Thôi thì đừng từ chối, hãy đàn thêm một khúc nữa đi...

    82. Ta sẽ vì nàng mà viết nên bài "TÌ BÀ HÀNH" nầy.

    83. Cảm vì lời nói của ta, nàng đứng tần ngần giờ lâu, mới...

    84. Ngồi xuống dặn đàn và đàn rất gấp...

    85. Tiếng đàn cất lên thê lương não nuột không giống như lúc ban nảy...

    86. Cả cử tọa ngồi nghe lại, ai cũng đều dấu che dòng lệ...

    87. Trong số cử tọa đó, ai là người xúc động và khóc nhiều nhất ?

    88. Chính ngài Tư Mã đất Giang Châu làm ướt cả tà áo xanh !!!

* Diễn Nôm :

                             TÌ BÀ HÀNH

 

                 Tầm Dương tiễn khách đêm thu,

                 Hắt hiu lao sậy tiếng thu xạc xào.

                 Chủ xuống ngựa, khách thuyền vào,

                 Cất chén toan uống đâu nào trúc tơ !

            

                 Chẳng vui say, buồn ngẩn ngơ,

                 Chia tay biền biệt trăng mờ bến sông.

                 Tì bà vẳng tiếng nước trong,

                 Chủ quên trở bước khách không khởi hành.

 

                 Nào ai đàn giữa đêm thanh,

                 Tì bà dứt tiếng chưa đành lời than.

                 Dời thuyền cầu kiến người đàn,

                 Thắp đèn thêm rượu dọn bàn tiệc hoa.

 

                 Gọi mời khẩn khoản mới ra,

                 Tì bà che nửa mặt hoa ngại ngần.

                 So dây chuyển trục mấy lần,

                 Chưa thành khúc điệu lâng lâng hàm tình.

 

                 Mỗi dây mỗi tiếng lòng mình,

                 Như bày tỏ hết bình sinh dạn dày.

                 Nhíu mày tay dạo như bay,

                 Như bày tỏ hết lòng này biết bao...

 

                 Bấm vuốt móc khảy như sao,

                 Nghê Thường vừa dứt khúc vào Lục Yêu.

                 Dây to sầm sập mưa nhiều,

                 Dây nhỏ thủ thỉ tựa điều riêng tư.

 

                 Rào rào thỏ thẻ thực hư,

                 Như sâu chuổi đứt tuôn từ mâm son.

                 Tiếng oanh nhẹ hót đầu non,

                 Nghẹn ngào se sắt suối còn lạnh căm.

 

                 Lạnh căm dây tiếng biệt tăm.

                 Biệt tăm ngưng bặt tiếng cầm lặng yên.

                 Lặng yên như hận triền miên,

                 Đàm im bặt tiếng tuyệt nhiên lúc nầy.

 

                 Bỗng như bình vỡ nước vây,

                 Giáo gươm vó ngựa tứ vây vang vầy.

                 Cuối đàn tay vuốt bốn dây,

                 Tiếng như xé lụa dứt ngay bản đàn.

 

                 Đông tây tĩnh lặng thuyền nan,

                 Lòng sông chỉ ánh trăng vàng lạnh căm.

                 Trầm ngâm thu vén đàn cầm,

                 Chỉnh trang y phục mày tằm thêm xanh.

 

                 Thưa rằng vốn gái kinh thành, 

                 Hà Mô Lăng đó rành rành chẳng sai.

                 Mười ba đã học thành tài,

                 Tiếng tăm đệ nhất không ai sánh bằng.

 

                 Đàn xong thiện nghệ phục lăn,

                 Đẹp thay trang điểm sánh bằng Thu Nương.

                 Ngũ Lăng trai trẻ vấn vương,

                 Nghìn vàng một khúc lệ thường xá chi !

 

                 Trâm vàng gõ nhịp gãy đi,

                 Quần hồng hoen ố mỗi khi rượu tràn.

                 Năm qua năm tới lại càng...

                 Phong hoa tuyết nguyệt an nhàn thảnh thơi.

 

                 Em tòng quân, dì qua đời,

                 Tháng năm mòn mõi hết thời xuân xanh.

                 Trước thềm xe ngựa vắng tanh,

                 Tàn phai nhan sắc lấy anh lái trà.

 

                 Thương buôn trọng lợi hay xa,

                 Phù Lương tháng trước buôn trà đến nay.

                 Một mình thuyền vắng không ai,

                 Trăng trong sông lạnh ai hoài một thân.

 

                 Đêm nằm lòng những bâng khuâng,

                 Mơ thời xưa cũ khôn ngăn lệ trào.

                 Ta nghe đàn đã xuyến xao,

                 Lại nghe lời kể càng nao tấc lòng.

 

                 Cũng người lưu lạc long đong,

                 Gặp nhau nào phải cầu mong được nào !

                 Đế kinh từ biệt năm nao,

                 Thân đày ngọa bệnh đường vào Tầm Dương.

 

                 Tầm Dương đất vắng thê lương,

                 Không tơ không trúc đời thường quanh năm.

                 Sông Bồn đất thấp lặng câm,

                 Sậy lao tre nứa bóng râm quanh nhà.

 

                 Sáng chiều trong ấy vang ra,

                 Đỗ quyên mửa máu vượn già hú vang.

                 Xuân hoa thu nguyệt không màng,

                 Chuốc rượu nhấm nháp bàn hoàn riêng ta.

 

                 Sáo làng lẫn tiếng sơn ca,

                 Ngây ngô thô kệch khó mà nguôi ngoai.

                 Nghe nàng đàn khảy đêm nay,

                 Như nghe tiên nhạc giải bày lòng ta.

 

                 Đừng từ ngồi nán lại mà...

                 Vì nàng ta viết "Tì Bà Hành" đây!

                 Cảm lời ta, nàng đứng ngây...

                 Bèn ngồi nắn phím so dây dạo đàn.

 

                 Bốn dây như oán như than,

                 Cả thuyền ngơ ngẩn chứa chan lệ đầy.

                 Trong bàn ai khóc nhiều đây ?

                 Giang Châu Tư Mã, nước mắt đầy...áo xanh !

                  Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Hẹn bài dịch tới :

             TRƯỜNG HẬN CA

                  Bạch Cư Dị

 

    杜紹德

    Đỗ Chiêu Đức

dcd_tibahanh_5.JPG
DCD_Thanhngu100.JPG

TƯỚC BÌNH TRÚNG TUYỂN 雀屏中選. TƯỚC BÌNH là Bức bình phong có vẽ hình con chim khổng tước, là con chim công". Theo tích trong《Cựu Đường Thư. Quyển ngũ nhất. Hậu Phi Liệt Truyện thượng. Cao Tổ Thái Mục Hoàng Hậu Đậu Thị 舊唐書.卷五一.后妃列傳上.高祖太穆皇后竇氏》chép rằng :

       ĐẬU NGHỊ 竇毅 (519-582) tự là Thiên Vũ, người đất Phù Phong Bình Lăng (thuộc Hàm Dương tỉnh Thiểm Tây ngày nay) là Đại thần từ đời Bắc Ngụy đến Bắc Châu thời Nam Bắc Triều. Có con gái hiền thục lại tài mạo song toàn và rất giỏi về thư pháp, nên muốn kén rể qúy. Ông cho người vẽ hình 2 con chim khổng tước lên bức bình phong dựng trước phòng khách. Các chàng đến cầu hôn sau khi qua sát hạch lại phải đứng cách xa trăm bước, trương cung lắp tên bắn trúng vào hai mắt của chim công thì mới được chọn làm rể. Lúc bấy giờ Đường Công Lý Uyên 李淵 còn đang trai tráng, văn võ song toàn, hai phát hai tên đều bắn trúng vào mắt của 2 con chim công, nên được chọn làm rể qúy. Sau Lý Uyên khởi nghiệp ở Tấn Dương Thái Nguyên lập nên nhà Đại Đường. Đậu Thị trở thành Thái Mục Hoàng Hậu và là mẹ của Đường Thái Tôn Lý Thế Dân. Nên...

      TƯỚC BÌNH TRÚNG TUYỂN là chỉ Bắn trúng chim tước ở bình phong mà được chọn làm rể, lấy được vợ. Trong văn học cổ của ta gọi là TÊN ĐÃ LỌT BÌNH, như trong truyện thơ Nôm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

 

                      Chề chà ông mới hỏi sinh,

                Bấy lâu TÊN ĐÃ LỌT BÌNH đâu chưa ?   

 

      Vì chữ TƯỚC 雀 có tới 2 nghĩa; Nếu nói là Khổng Tước 孔雀 thì là con chim Công; còn nếu nói là Hoàng Tước 黃雀 thì là con chim sẻ. Nên thay vì nói BẮN CÔNG thì Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều lại gọi là BẮN SẺ, nên trong Cung Oán Ngâm Khúc có câu :

 

                      Làng cung kiếm rắp ranh BẮN SẺ,

                    Khách công hầu ngắm nghé mong sao...               

 

             

 

       TIỆN HỒNG 便鴻 là Tiện lợi cho con chim hồng nhạn đưa thư. Nên TIỆN HỒNG hay TIN NHẠN gì đều chỉ Thư Từ ngày xưa. Như khi nghe Sở Khanh lên tiếng thương hương tiếc ngọc, Thúy Kiều đã động lòng nên mới gởi thơ cho Sở Khanh nhờ cứu giúp. Cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                         Tan sương vừa rạng ngày mai,

                    TIỆN HỒNG nàng mới nhắn lời gởi sang.

Và khi :

                       Trời tây bảng lảng bóng vàng,

                    Phúc thư đã thấy tin chàng tới nơi.

 

       Hay khi tả Thúy Kiều trông ngóng tin tức của Từ Hải, khi Từ "quyết lòng dứt áo ra đi" để lập nên sự nghiệp lớn :

 

                        Cánh HỒNG bay bổng tuyệt vời,

                    Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

 

       Còn khi Tú Bà dạy cho Thúy Kiều "Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề", thì Vành ngoài bảy chữ... trong đó có câu :

 

                          TIN NHẠN dẫn, lá thơ bày,

                  Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.

 

       TIÊU LANG 蕭郎 là Chàng Tiêu. Theo Toàn Đường Thi Thoại 全唐詩話 : Thi nhân đời Đường Nguyên Hòa là Tú Tài Thôi Giao 崔郊, thương một người nô tì tài sắc vẹn toàn của nhà bà cô. Sau vì nghèo, cô bán nô tì đó cho Liên Soái làm tì thiếp. Giao cứ thơ thẩn trước cửa Liên Soái mà không dám vào. Nhân tiết Hàn Thực người tì thiếp đi ra ngoài gặp gỡ Thôi Giao bên rặng liễu. Giao cảm xúc làm tặng nàng bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng sau đây :

 

            公子王孫逐後塵,   Công tử vương tôn trục hậu trần,

            綠珠垂淚濕羅巾。   Lục Châu thùy lệ thấp la cân.

            侯門一入深如海,   Hầu môn nhất nhập thâm như hải,

            從此蕭郎是路人。   Tòng thử TIÊU LANG thị lộ nhân.

 

Có nghĩa :

               Vương tôn công tử theo sau,

               Lục Châu nhỏ lệ ướt bao khăn là.

               Cửa hầu sâu tợ biển xa,

               CHÀNG TIÊU từ đó kẻ qua ngoài đường.

 

       Có người mách lẻo, định tâng công, đem bài thơ nầy cho Liên Soái xem. Liên Soái cho mời Thôi Giao vào dinh. Mọi người đều lo sợ cho chàng. Không ngờ Liên Soái cũng thuộc nòi tình, tuy rất yêu thương người tì thiếp tài hoa, nhưng thấy hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, nên trả nàng lại cho Thôi Giao và còn tặng cho bốn ngàn nén bạc về quê để ... yêu nhau ! Tạo nên một giai thoại trong làng thơ lúc bấy giờ.

 

                   

 

      Trong Truyện Kiều, lúc Kim Kiều tái hợp, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy khi Thúy Kiều cứ một mực khăng khăng không chịu thành thân với Kim Trọng :

 

                       ...Có điều chi nữa mà ngờ,

               Khách qua đường để hững hờ CHÀNG TIÊU !?

 

       TIÊU LANG 蕭郎 còn chỉ Tiêu Sử 蕭史, người rất giỏi về thổi tiêu. Theo Sách Liệt Tiên Truyện-Quyển thượng 列仙傳·卷上: Thời Xuân Thu Chiến quốc, Tần Mục Công có cô con gái yêu là Lộng Ngọc 弄玉, thích âm nhạc, nhất là thổi tiêu. Một hôm nằm mộng thấy một thanh niên anh tuấn thổi tiêu rất giỏi. Tỉnh ra mới kể với Tần Mục Công, Công bèn cho người đi tìm thanh niên trong mơ của con gái. Tìm đến Minh Tinh Nhai dưới núi Hoa Sơn, quả nhiên gặp được một chàng trai tuấn tú, tiên phong đạo cốt, tên là Tiêu Sử 蕭史. Sứ giả mời về cung và được Tần Mục Công gả Lộng Ngọc cho, lại cất cho một tòa lâu đài để vợ chồng cùng luyện thổi tiêu trên đó. Một đêm, vợ chồng đang thổi tiêu dưới ánh trăng, tiếng tiêu réo rắc đã làm cho một con Xích Long 赤龍 (Rồng màu đỏ) và một con Tử Phụng 紫鳳 (Phụng màu tím) bay đến. Vợ chồng cùng cởi xích long và tử phụng bay đi. Tần Mục Công cho người đuổi theo đến giữa núi Hoa Sơn thì mất dạng. Bèn cho lập miếu thờ ở Minh Tinh Nhai dưới chân núi Hoa Sơn mãi cho đến hiện nay.

     Tích trên đưa đến thành ngữ THỪA LONG KHÓA PHỤNG 乘龍跨鳳 là Cởi Rồng Cởi Phụng, chỉ vợ chồng cùng lên tiên hay vợ chồng cùng xứng đôi với nhau. Như khi Từ Hải chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, cụ Nguyễn Du đã hạ câu :

 

                          Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

                   Phỉ nguyền SÁNH PHƯỢNG đẹp duyên CỞI RỒNG.

 

     Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của vua Lê Thánh Tông thì có câu :

 

                      Cô tiên thách mực chày đâm thuốc,

                      LỘNG NGỌC xin làm bạn thổi tiêu.

 

     Còn trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì tả nàng cung phi đàn giỏi như Tư Mã Tương Như và thổi tiêu giỏi như là chàng Tiêu Sử vậy :

 

                      Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,

                      Địch lầu thu đọ gã TIÊU LANG.

 

             

 

      TIÊU PHÒNG 椒房 là TIÊU PHÒNG ĐIỆN 椒房殿, vốn là cung điện được xây dựng đặc biệt để cho Hoàng hậu và Phi tần ở. Theo tích sau đây :

      Tương truyền một hôm Hán Thành Đế 漢成帝 mặc đồ thường đi dạo chơi, tình cờ gặp được người đẹp tuyệt trần là Triệu Phi Yến 趙飛燕, bèn nạp vào cung làm một Tiệp Dư. Hán Thành Đế vô cùng sủng ái, nhưng Triệu Phi Yến chỉ ca múa giỏi mà không có con. Ngự y bảo vì hậu cung quá lạnh không thể thụ thai, nhà vua bèn cho thơ dùng hạt hồ tiêu xay nhuyễn trộn vào trong đất vôi để xây tường cho ấm; từ đó mới có từ TIÊU PHÒNG 椒房 chỉ chung các phòng ở hậu cung cho các cung nhân ở.

      Trong Cung Oán Ngâm Khúc nàng cung phi đã lên tiếng thở than :

 

                     Oán chi những khách TIÊU PHÒNG,

                    Mà xui phận bạc nằm trong má đào !

 

      Ở một đoạn sau, nàng cung phi lại một lần nữa càu nhàu :

 

                     PHÒNG TIÊU lạnh ngắt như đồng,

                   Gương loan bẻ nửa, giải đồng xẻ đôi.

 

             

         

       TIÊU TƯƠNG 瀟湘. TIÊU 瀟 là dòng Tiêu Thủy trong tỉnh Hồ Nam; TƯƠNG 湘 là dòng Tương Giang chảy ngang qua đất Hồ Nam, hai dòng sông ôm lấy huyện Kim Lăng tạo nên những phong cảnh tuyệt đẹp, thường gọi là TIÊU TƯƠNG BÁT CẢNH 瀟湘八景 là đề tài hội họa và ngâm vịnh của các văn nhân thi sĩ ngày xưa. Đây là nơi phân nhánh giữa 2 con sông nên cũng thường được dùng để tượng trưng cho sự chia tay ly biệt, như trong bài thơ "Tống Hồ Đại 送胡大" của Vương Xương Linh đời Đường :

 

                 荊門不堪別,   Kinh môn bất kham biệt,

                 況乃瀟湘秋。   Huống nãi Tiêu Tương Thu.

                 何處遙望君,   Hà xứ diêu vọng quân,

                 江邊明月樓.    Giang biên minh nguyệt lâu.

Có nghĩa :

                 Kinh môn không nở chia tay,

            Tiêu Tương luống những ai hoài hơi thu.

               Tìm người nào thấy người đâu,

            Bến sông chênh chếch bên lầu trăng soi.

 

      Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn do nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm đoạn nàng chinh phụ tiễn chồng lên đường tòng quân cứu nước rất hay như sau :

 

                  Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,

                  Bến TIÊU TƯƠNG thiếp hãy trông sang.

                  Bến TIÊU TƯƠNG cách Hàm Dương,

                  Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng !

 

        
 

       TIỂU LÂN 小憐 là nàng Phùng Tiểu Lân 馮小憐, ái phi của Bắc Tề Hậu Chúa 北齊後主 thời Nam Bắc Triều 南北朝. Được Hậu Chúa Cao Vi phong làm Thục Phi. Tiểu Lân thông minh lanh lợi, giỏi ca múa, đặc biệt là ngón đàn tì bà rất tuyệt diệu. Hậu Chúa rất sủng ái thường ăn cùng mâm, đi cùng xe.  Công nguyên 577, Bắc Tề mất vào tay Bắc Chu. Chúa Bắc Chu là Vũ Văn Ung thấy Hậu Chúa Cao Vi còn rất thương mến Phùng Tiểu Lân nên trả nàng lại cho Cao Vi. Nhưng sau khi Cao Vi mất, Vũ Văn Ung lại tặng nàng cho Đới Vương Vũ Văn Đạt. Đạt cũng rất sủng ái nàng, nhân trong bữa tiệc nàng gảy đàn tì bà giúp vui, bất ngờ dây đàn bị đứt. Phùng Tiểu Lân mới tức cảnh làm một bài thơ như sau :

 

               雖蒙今日寵,       Tuy mông kim nhật sủng,

               猶憶昔時憐。      Do ức tích thời lân.

               欲知心斷絕,      Dục tri tâm đoạn tuyệt,

               應看膝上弦。      Ưng khan tất thượng huyền.

Có nghĩa :

                  Hôm nay tuy được cưng chìu,

              Nhớ xưa sủng ái đủ điều mến thương.

                  Lòng ta chi xiết đoạn trường,

               Như dây đàn đứt vấn vương tơ tình !

 

       Trong Truyện Kiều, khi mở tiệc hạ công để ăn mừng chiến thắng, Thúy Kiều đã bị Hồ Tôn Hiến "Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu", khiến cho họ Hồ "Nghe càng đắm ngắm càng say, Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình", mới "Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai ?". Thúy Kiều đã qúa não nề với nhân tình thế thái nên đáp rằng : 

 

                    Còn chi nữa cánh hoa tàn,

                Tơ lòng đã đứt dây đàn TIỂU LÂN.

                  Rộng thương còn mảnh hồng quần, 

                Hơi tàn được thấy gốc Phần là may !

 

         

 

        TIỂU TINH 小星 là Ngôi Sao Nhỏ. Theo bài thơ "Tiểu Tinh" trong chương Thiệu Nam, Quốc Phong trong Kinh Thi《詩經.國風.召南.小星》như sau :

 

          嘒彼小星,三五在東。  Tuệ bỉ tiểu tinh, Tam ngũ tại đông.

          肅肅宵征,夙夜在公。  Túc túc tiêu chinh, Túc dạ tại công.

          寔命不同!                Thực mệnh bất đồng !

 

          嘒彼小星,維參與昴。  Tuệ bỉ tiểu tinh, duy Sâm dữ Mão.

          肅肅宵征,抱衾與裯。  Túc túc tiêu chinh, Bão khâm dữ Trù.

          寔命不猶!                Thực mệnh bất do !

Có nghĩa :

     - Nhấp nháy những vì sao nhỏ kia, chỉ lưa thưa dăm ba ngôi ở phương đông. Phải tề chỉnh gọn gàng đi lại suốt đêm. Sớm hôm ở mãi chốn cửa công; Thật vì số mạng không giống nhau.

     - Nhấp nháy những vì sao nhỏ kia, thì ra đó là nhóm sao Sâm và sao Mão. Phải tề chỉnh gọn gàng đi lại suốt đêm. Bỏ cả nệm ấm với chăn êm. Thật chỉ vì mạng số mà thôi !

 

* Diễn Nôm :

                  Lắp la lắp lánh sao hôm,

                  Năm ba cái họp một chòm hướng đông.

                  Suốt đêm đi lại nhong nhong,

                  Sớm tối tất bật việc công bề bề.

                  Rõ ràng mạng số ủ ê !

 

                  Nhắp nha nhắp nháy trên khơi,

                  Sao Sâm sao Mão báo trời rạng đông.

                  Suốt đêm tất bật việc công,

                  Bỏ cả chăn ấm phụ lòng nệm êm.

                 Rõ ràng mạng số cho nên !

                                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

      Bài Kinh Thi nầy vốn dĩ chỉ những thân phận nhỏ nhoi của các lính tráng hay những thừa lại làm những công việc trong công đường ngày đêm vất vả, nhưng không mấy ai biết đến, nên đành cam chịu với số phận thấp hèn của mình mà thôi; Cũng như những người hầu thiếp vất vả sớm hôm với việc chung trong gia đình mà ít khi được chồng thương yêu dòm dõ chiếu cố đến, nên đành cam phận với cái ngôi sao nhỏ của mình mà thôi. Từ đó, TIỂU TINH 小星 còn dùng để chỉ những người hầu thiếp, vợ lẻ vợ mọn.

 

       

 

      Khi Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều xong, lúc rước nàng về chốn trú phường thì "Vốn nhà cũng tiếc" mà "Của trời cũng tham", nên đã ăn nằm với Thúy Kiều. Vì thế mà Thúy Kiều cứ đinh ninh mình là vợ lẻ, là "TIỂU TINH" của Mã Giám Sinh. Nhưng khi về tới Lâm Truy thì Tú Bà lại bắt Thúy Kiều phải gọi Mã Giám Sinh bằng Cậu (tiếng dùng để gọi Cha hờ). Nên Thúy Kiều mới phải  phân bua :

 

                     Nàng rằng phải bước lưu ly,

                 Phận hèn vâng đã cam bề TIỂU TINH.

                     Điều đâu lấy yến làm anh,

                 Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì ?!

                     Đủ điều nạp thái vu quy,

                 Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.

                     Giờ ra thay bậc đổi ngôi,

                 Dám xin gởi lại một lời cho minh !?

 

        Hẹn bài viết tới :

 

                              TIN TINH TÒNG TÔ TỐ

 

 

                                                                                           杜紹德

                                                                                       Đỗ Chiêu Đức

DCD_tuocbinh.JPG

Trân trọng giới thiệu TRANG NHÀ ĐỖ CHIÊU ĐỨC:

https://sites.google.com/view/dochieuduc5/startseite?authuser=0

DCD_website.JPG
Doanhdoanh_DCD5.JPG
DCD_LeCha.JPG

Chúa Nhật thứ ba của Tháng Sáu hằng năm, là ngày LỄ CHA ( Father's Day  ) của nước MỸ. Ngày LỄ CHA năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 18 tháng 6 năm 2023.

           
          Ta thường gọi ngày LỄ MẸ là NGÀY HIỀN MẪU, nên khi đến ngày LỄ CHA thì rất nhiều người theo thói quen, thay chữ MẪU bằng chữ PHỤ, và gọi ngày Lễ Cha bằng NGÀY HIỀN PHỤ ??!!...


          Ngày Lễ Cha, Father's Day, không thể gọi là ngày HIỀN PHỤ được, vì Hiền Phụ 賢婦 là VỢ HIỀN, chớ không phải CHA HIỀN. Muốn nói Cha Hiền thì phải gọi là TỪ PHỤ 慈父, lấy trong thành ngữ  " Phụ Từ Tử Hiếu 父慈子孝 ", tương đương trong tiếng Nôm ta là " Cha Hiền Con Thảo."  Trong gia đình Phong Kiến ngày xưa, người Cha luôn luôn nghiêm khắc và nghiêm cẩn trong mọi hành vi cũng như sinh hoạt của gia đình, nên còn được gọi là NGHIÊM ĐƯỜNG, NGHIÊM PHỤ.  Lời dạy của Cha thì gọi là NGHIÊM HUẤN, như trong Truyện Kiều, khi Thúc Ông bắt Thúc Sinh phải bỏ cô Kiều, cụ NGUYỄN DU đã viết :


                     Thấy lời NGHIÊM HUẤN rành rành,
                    Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.


          Nhưng bây giờ mà ta gọi như thế thì nghe nghiêm khắc và xa rời con cháu quá!   Còn một từ dùng để gọi cha ngày xưa nữa là XUÂN ĐƯỜNG (còn đọc là THUNG ĐƯỜNG) 椿堂. Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình.  Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, thì chàng mới...

 

                        Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
                Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.


         Sẵn trình bày luôn về từ dùng để chỉ Mẹ, đó là từ HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂.  HUYÊN 萱 là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người mẹ nên ta có từ gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN.  Khi hay tin Kiều đã bán mình chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc than đến nỗi " Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao ", khiến cho :


                      XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
                    Hóa ra khi đến thế nào mà hay !


          Xin được trở lại và nói thêm  về từ HIỀN PHỤ 賢婦 là VỢ HIỀN;   HIỀN 賢:  Ngoài nghĩa trái với Dữ là Hiền Thục ra, Hiền còn có nghĩa là GIỎI GIANG.  Ví dụ: Hiền Thần là Bề tôi giỏi để phò Vua giúp nước.  Hiền Tài là người có Tài Giỏi và đây cũng là một chức sắc Giỏi Giang trong Cao Đài Giáo. Còn...
         PHỤ 婦:  Đây là kiểu chữ HỘI Ý, được ghép bởi bộ NỮ 女 bên trái là Cô Gái, và chữ TRỮU 帚 bên phải là Cây Chổi  hàm ý là cô gái mà cầm cây chổi (để quét dọn nhà cửa) là đã trở thành người chủ của gia đình rồi, đã kết hôn rồi, nên PHỤ là Đàn Bà, là Người Vợ.  Vì thế mà HIỀN PHỤ là VỢ HIỀN.  PHỤ NỮ là chỉ chung tất cả CÁC BÀ CÁC CÔ có chồng hoặc " chổng chừa !". PHU PHỤ là Vợ Chồng.  Hồi nhỏ thường hay nghe Má tôi hát ru em như thế nầy:


                               Sông dài cá lội biệt tăm,
                Phải duyên PHU PHỤ ngàn năm em cũng chờ!
  Nên...
          HIỀN PHỤ 賢婦 : Chẳng những chỉ người đàn bà hiền thục, mà còn chỉ người đàn bà giỏi giang " Tướng phu giáo tử "  ( Giúp đỡ chồng và nuôi dạy con cái ).

          Ca dao của Việt Nam ta có câu :
                       Công cha như núi Thái sơn,

               Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra !
  Nhưng...

         Trong văn chương không thiếu những áng văn, những bài thơ ca tụng mẹ hiền, mà lại rất hiếm, rất khó kiếm được một bài thơ, một áng văn hay ca ngợi công cha, có thể sự dịu dàng hòa ái của bà mẹ gần gũi với con cái hơn là bộ mặt lúc nào cũng "Lập nghiêm" của ông cha.  Cha thì lo việc lớn hơn, ngoài việc duy trì và nuôi sống gia đình, lắm ông còn phải chăm lo việc nước, việc ngoài xã hội...  Nhưng cũng có những người cha có máu "giang hồ" thích lang bạt rày đây mai đó... Ta hãy cùng đọc một bài Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt của Đỗ Mục đời Đường để thắm thía hơn với cái máu "giang hồ" của các ông cha ngày trước...


     歸家                           QUY GIA
  稚子牽衣問,            Trỉ tử khiên y vấn
  歸來何太遲。            Quy lai hà thái trì ?

   共誰爭歲月,            Cộng thùy tranh tuế nguyệt
  贏得鬢如絲。            Doanh đắc mấn như ti
              杜牧                                       Đỗ Mục

 

Thích nghĩa :
QUY là về, GIA là nhà, QUY GIA là Về Lại Nhà.
  1. Câu 1: Trỉ là non, Tử là Con. TRỈ TỬ: không phải là con non mà là Con Thơ.  Khiên: là nắm, là níu, là dắt.  Y là Áo, Vấn là Hỏi.  Nghĩa toàn câu là :
                    "Con thơ níu áo hỏi"
  2. Câu 2: Quy là Về, LAI là Xu hướng Động từ, chỉ sự di chuyển gần đến người viết hoặc nói.  QUY LAI là Về lại, là Về "đây."  QUY KHỨ là Về "đi " (KHỨ chỉ di chuyển Xa người nói hoặc viết).  Hà là Sao? Thái là Quá.  Trì là Trễ, muộn. Nghĩa cả câu:

       "Sao muộn quá mới về lại nhà?"


  3. Câu 3: Cộng là cùng, chung.  Thùy là Ai?  Tranh là dành, giựt.  Tuế là Tuổi, là Năm.  Nguyệt là Tháng. 
Nghĩa cả câu :
       Cùng với ai dành giựt năm tháng, ý nói: "Cùng với ai sống đua chen trong những năm tháng đó?"


  4. Câu 4: Doanh là Lời, thắng, Ăn, thu hoạch.  Đắc là được. Mấn là Tóc mai.  Như là giống, giống như.  Ti là Tơ.
Nghĩa cả câu :

            (chỉ) lời được hai bên tóc mai trắng như tơ.

Diễn nôm :

                  Về Lại Nhà

            Con thơ trì áo hỏi
           Sao đi mãi đến giờ ?
           Cùng ai ngày tháng ấy
           Mà tóc đã bạc phơ!

Lục bát :
                 Con thơ níu áo hỏi cha
           Đi sao lâu quá, bỏ nhà bỏ con!
                 Cùng ai ngày tháng mõi mòn?
          Sương pha tóc trắng chẳng còn như xưa!

 

       Hai câu đầu là lời chất vấn, thắc mắc, thơ ngây nhưng lắc léo của con thơ.  Nhưng hai câu sau... hình như là lời than van, oán trách, khúc mắc, thở than của bà... nội tướng đã biết bao ngày khoắc khoải, mòn mõi đợi chàng về!

 

       Trong ngày LỄ CHA, mong rằng các ông cha luôn luôn trân quý sự sum họp và tình cảm gia đình để gắn bó hơn với con cái và các thành viên trong đó, nhất là với người đầu gối tay ấp, sao cho...

 

                                Một nhà sum họp trúc mai,
                       Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông!

                                                                  (  Truyện Kiều )

ĐỖ CHIÊU ĐỨC


       __________________________

DCD_KimDung3.JPG
DCD_KimDung.JPG

Đọc truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑傲江湖", không ai là không trầm trồ đoạn luận về uống rượu và các ly chén dùng để uống rượu rất điệu nghệ của Đại Hiệp KIM DUNG thông qua các nhân vật và văn thơ cổ được ông đưa vào để dẫn chứng một cách tài tình và lý thú. Nào ta hãy cùng đọc bài thơ sau đây :  

   

                  蘭陵美酒鬱金香,   Lan lăng mỹ tửu uất kim hương, 

                  玉碗盛來琥珀光。   Ngọc uyển thịnh lai hổ phách quang

                  但使主人能醉客,   Đản sử chủ nhân năng tuý khách,

                  不知何處是他鄉。   Bất tri hà xứ thị tha hương ! 

Có nghĩa :

                  Lan Lăng rượu ủ uất kim hương,  

                  Chén ngọc rót đầy lóng lánh gương.

                  Chủ nhân nếu biết say lòng khách, 

                  Non nước đâu mà chẳng cố hương !   

 

            

 

       Đó là bài thơ Khách Trung Hành 客中行 (còn có tên là Khách Trung Tác 客中作) của Thi Tiên LÝ BẠCH  李白 mà một trong Hoàng Hà Lão Tổ là Tổ Thiên Thu 祖千秋 đã mượn hai câu đầu để nói về một loại rượu ngon (Phần Tửu 汾酒) của Trấn Lan Lăng được nấu bằng cây cao lương và ủ bằng hoa Uất Kim Hương (Hoa Tulipa) thì phải uống bằng chén ngọc, vì khi rượu được rót vào chén ngọc sẽ ửng lên màu vàng của hổ phách lóng lánh rất đẹp, uống sẽ tăng thêm phần cảm giác nên sẽ cảm thấy ngon hơn nhiều. Vì thế mà :

 

      - Lan Lăng Mỹ Tửu thì phải uống bằng Chén Ngọc. Còn...

      - Bồ Đào Mỹ Tửu thì phải uống bằng chén Dạ Quang, như trong bài thơ Lương Châu Từ 涼州詞 nổi tiếng của Vương Hàn 王翰 :

 

              葡萄美酒夜光杯,    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, 

              欲飲琵琶馬上催。    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.

              醉臥沙場君莫笑,    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, 

              古來征戰幾人回。    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?

Có nghĩa :

                 Bồ đào rót chén dạ quang,

                 Tì bà giục giã sa tràng tiến ngay.

                 Chớ cười chiến địa ta say,

                 Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về ?!

 

             

 

       Tổ Thiên Thu đã lý luận rằng : Rượu Bồ Đào (BỒ ĐÀO 葡萄 là trái Nho, nên Rượu Bồ Đào là Rượu Nho, tiếng Pháp là "Le Vin", người miền Bắc của ta đọc trại thành "Vang", nên gọi là "Rượu Vang") vốn đã có màu đỏ sậm rồi, lại được rót vào chén Dạ Quang sẽ cho màu đỏ sậm như máu, người chiến sĩ trước khi ra trận uống vào như uống máu quân địch sẽ tăng thêm phần hào hùng quyết sống chết với quân thù, như hai câu thơ của Nhạc Bằng Cử (Nhạc Phi) đời Tống :

 

               壯志饑餐胡虜肉, Tráng chí cơ san Hồ Lỗ nhục,

               笑談渴飲匈奴血。 Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.

Có nghĩa :

         - Cái hùng tâm tráng chí của người lính chiến khi đói sẽ ăn cả thịt của rợ Hồ, và trong lúc cười nói nơi sa trường lúc khát sẽ uống cả máu của giặc Hung Nô.    

              

       Tổ Thiên Thu lại chỉ một hũ rượu trắng thượng thặng của quan ngoại mà nói rằng :"Loại rượu nầy rất ngon nhưng lại cực nồng, nên phải uống bằng ly được làm bằng sừng tê giác (Tê Giác Bôi 犀角杯) sẽ tăng thêm phần thơm ngon của rượu. Có ly làm tăng màu sắc của rượu thì cũng có loại ly làm tăng hương vị của rượu chẳng phải sao?!

 

       Lệnh Hồ Sung 令狐冲 chỉ giỏi uống rượu, chớ hồi nào tới giờ chưa từng biết cân nhắc xem, rượu nào phải uống bằng loại ly nào thì mới thơm ngon hơn. Nghe Tổ Thiên Thu nói một thôi một hồi những đạo lý về phép uống rượu và ly chén dùng để uống rượu, nên cảm thấy rấy lý thú. Tổ Thiên Thu lại chỉ vào hũ rượu kế bên và nói rằng :"Còn đây là rượu Cao Lương, loại rượu lâu đời nhất có từ thời bàng cổ, khi bà Nghi Địch 儀狄 dùng cao lương để ủ và nấu thành rượu, vua Đại Vũ lúc đó đang trị thủy, nếm thử và khen ngon, nên Rượu Cao Lương có từ thời đó và bà Nghi Địch được tôn là Tổ của loại rươu nầy. (Giới văn học của ta hiện nay vẫn còn gọi những tay bơm nhậu là "Con cháu của bà Nghi Địch"). Loại rưọu lâu đời nầy phải uống bằng ly làm bằng đồng xanh (Thanh Đồng Bôi 青銅杯) mới cảm thấy được hết cái cổ ý của rượu. 

      Tổ Thiên Thu lại xoay mình lại vỗ vào hũ rượu có dán hàng chữ : "Bách Thảo Mỹ Tửu 百草美酒" nói rằng : Đây là loại rượu được ngâm bằng hằng trăm loài thảo dược, nên mùi thơm nhe nhàng như hoa cỏ, ngửi mùi rượu bốc lên ta có cảm giác như đang đi trên một cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ; nên uống rượu nầy phải dùng ly được làm bằng những gốc mây to ngàn năm (Cổ Đằng Bôi 古藤杯) thì mới khơi dậy được hết mùi thơm của các loại hoa cỏ ẩn chứa trong loại rượu nầy. Còn rượu "Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng 紹興女兒紅 thì phải uống bằng ly gốm sứ xưa (Cổ Từ Bôi 古瓷杯) của đời Bắc Tống, nếu của đời Nam Tống thì sẽ kém thơm đi, còn nếu là ly gốm sứ  của đời Nguyên thì mùi vị sẽ rất tầm thường...

      Còn bình "Lê Hoa Tửu 梨花酒" nầy, thì phải uống bằng ly Phỉ Thúy có màu xanh biếc như trong bài thơ "Hàng Châu Xuân Vọng 杭州春望" của Bạch Lạc Thiên có câu :"Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花". Có nghĩa : "Thiếu nữ Hàng Châu khoe lụa tốt, Cờ xanh tranh được rượu lê hoa". Cho nên, uống Rượu Lê Hoa phải dùng ly Phỉ Thúy màu xanh; và uống Ngọc Lộ Tửu 玉露酒 thì phải dùng chén Lưu Ly, vì trong rượu có những bọt rượu tròn như những hạt sương lóng lánh trong chén Lưu Ly, uống vào có cảm giác như uống những hạt sương ngọt ngào ban sáng...

 

       

 

      Bỗng nghe tiếng lêu lêu của Nhạc Linh San nói rằng :"Khéo khoát lác, uống có mấy chén rượu mà bày đặt bày điều đủ thứ ly chén, suốt ngày cứ như hũ chìm, thì còn nói gì là Anh Hùng Hảo Hán!". Tổ Thiên Thu đáp rằng :

     - Cô nương sai rồi, năm xưa Hán Cao Tổ Lưu Bang trong cơn say đã trãm bạch xà, khởi nghĩa lập nên nhà Hán, há chẳng phải là Anh Hùng sao ? Còn trong Hồng môn yến Phàn Khoái đã dùng thuẫn của quân sĩ để cắt thịt, uống rượu bằng đấu, há chẳng phải là Hảo Hán sao ?!

     Đào Cán Tiên trong Đào Cốc Lục Tiên nói rằng :

    - Nảy giờ người cứ ba hoa thiên địa, nào là chén Phỉ Thúy, chén Dạ Quang, chén Lưu Ly... Trên đời làm gì có nhiều chén thế, ngươi tưởng mình là người hào hoa phong nhã lắm hay sao ? Tổ Thiên Thu đáp rằng :

    - Hào hoa thì không dám, nhưng phong nhã chắc cũng được ba phần !

     Đào Diệp Tiên cười ha hả hỏi rằng :

    - Thế thì uống hết tám loại rượu ngon nầy, trên mình ngươi mang theo được mấy chiếc ly ? Tổ Thiên Thu cũng cười mà đáp rằng :

    - Nói nhiều không nhiều, nói ít không ít, mỗi thứ một chiếc chắc là có được ! Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh la lên :

    - Đồ khoát lác, đồ nói dóc ! Đào Căn Tiên cười nói :

    - Ta thách ngươi, nếu như trong mình ngươi lấy ra đủ tám chiếc ly như ngươi nói, thì ta sẽ... ăn hết tám chiếc ly đó vào bụng. Còn ngược lại thì người tính sao đây ? Tổ Thiên Thu đáp :

    - Thì ta cũng sẽ ăn hết tất cả ly chén ở đây chứ sao !

      Đào Cốc Lục Tiên đồng thanh nói :

    - Hay lắm ! Hay lắm ! để chúng ta xem ngươi...

      Chưa dứt lời đã thấy Tổ Thiên Thu thò tay vào bọc móc ra một chiếc ly trắng nuột bóng láng, quả là một chiếc Bạch Ngọc Bôi 白玉杯, làm cho Đào Cốc Lục Tiên câm họng không dám nói tiếp. Sau đó Tổ Thiên Thu lại móc ra từng chiếc từng chiếc một bày trên bàn, quả là Dạ Quang Bôi 夜光杯, Phỉ Thúy Bôi 翡翠杯, Tê Giác Bôi 犀角杯, Thanh Đồng Bôi 青銅杯, Lưu Ly Bôi 琉璃杯, Cổ Đằng Bôi 古藤杯 (Ly bằng Gốc Mây), Cổ Từ Bôi 古瓷杯 (Ly gốm sứ cổ). Ngoài tám loại ly đó ra, Tổ Thiên Thu còn tiếp tục móc ra nào là Kim Bôi, Ngân Bôi, Thạch Bôi, Tượng Nha Bôi, Hổ Xỉ Bôi, Ngưu Bì Bôi, Trúc Đồng Bôi, Tử Đàn Bôi... Trên hai mươi loại ly khác nhau. 

     Mọi người đều ngẩn ngơ ngạc nhiên đến không nói nên lời. Đào Căn Tiên thò tay bốc lấy chiếc ly bằng Gốc Mây lên nói :

    - Ta thua rồi, ta ăn hết tám chiếc ly nầy ! Nói đoạn bèn cắn bể chiếc ly bằng mây một miếng nhai ngốn ngáo rồi nuốt luôn vào bụng. Tổ Thiên Thu vội vàng thò tay giựt phần ly mây còn lại cười mà nói rằng :

    - Ta cũng thua ngươi rồi ! Ngươi dám ăn nhưng ta lại không nở để mất tám chiếc ly quý giá nầy được. Thôi đừng làm hỏng việc của ta !

      Thì ra, Tổ Thiên Thu vì muốn "lấy điểm" với Thánh Cô Nhậm Doanh Doanh, nên mới cố ý tới đây để gạt cho Lệnh Hồ Sung uống tám viên "Tục Mệnh Bát Hoàn 續命八丸" mà mình đã lấy trộm của Lão Đầu Tử.

 

     Trước khi xuất hiện, Kim Dung đã cho Tổ Thiên Thu đứng trên bờ ngửi được mùi rượu ngon ở dưới thuyền và cất tiếng khen là "Rượu ngon Phần Tửu đã được cất giấu 62 năm rồi, khiến cho Lệnh Hồ Sung phải ngạc nhiên và mời ông ta xuống thuyền. Sau nầy, khi gặp Tứ trang chủ của Mai Trang trong Giang Nam Tứ Hữu là Đan Thanh Sinh 丹青生 thì Lệnh Hồ Sung sau khi được Lục Trúc Ông và Tổ Thiên Thu chỉ điểm nay đã là "cao thủ" về ngửi rượu để nhận dạng rồi, nên khi thấy Đan Thanh Sinh đến gặp mình mà trên tay còn cầm ly Phỉ Thúy thì đã đọc ngay 2 câu thơ của Bạch Lạc Thiên mà Tổ Thiên Thu đã đọc cho mình nghe là : "Hồng tụ chức lăng khoa thị đế, Thanh kỳ cô tửu sấn lê hoa 紅袖織綾誇柿蒂,青旗沽酒趁梨花" và hỏi Đan Thanh sinh là : Có phải ngài đang uống rượu Lê Hoa phải không ? Làm cho Đan Thanh Sinh vô cùng kinh ngạc và ôm chầm lấy Lệnh Hồ Sung kêu lên :" Nào, ông bạn tốt, ta sẽ cùng nhau uống cạn ba trăm ly nhé !.

      Khi vừa bước vào phòng của Đan Thanh Sinh, thì mùi thơm của rượu đã ập vào mũi. Lệnh Hồ Sung bất giác khen :" Chà thơm qúa, mùi Phần tửu được cất nấu 2 lần, cộng với mùi Bách Thảo Tửu đã 75 năm hoà với mùi thơm của Hầu Nhi Tửu thật là tuyệt diệu". Đan Thanh Sinh vổ tay cười lớn :" Đúng là tuyệt diệu, bạn vừa bước vào phòng của ta thì đã nói ra 3 loại rượu qúy mà ta để trong phòng nầy ". Lệnh Hồ Sung thấy trong phòng bày la liệt khắp nơi nào là tỉnh lớn hũ nhỏ, bình rượu chai rượu, hồ lô và ly uống rượu vung vải khắp nơi... Chàng ta bèn phình mũi ra hít hít rồi nói rằng :"Không chỉ có ba loại rượu qúy đâu, còn có mùi của rượu ngon cực phẩm Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng và đặc biệt là mùi rượu Bồ Đào của xứ Thổ Phồn ở Tây Vực đã qua bốn lần chưng cất !". Đan Thanh Sinh vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ hỏi :" Rượu Bồ Đào bốn lần chưng cất của Thổ Phồn ta đựng trong thùng gỗ và cất ở dưới hầm, sao lão đệ lại biết được ?" Lệnh Hồ Sung mĩm cười đáp :"Loại rượu ngon nầy, cho dù cất dấu mấy trượng sâu dưới đất cũng không ngăn nổi mùi thơm của nó lan tỏa ra ngoài !".

     Đan Thanh Sinh nói cho Lệnh Hồ Sung biết rằng để có được thùng rượu Bồ Đào nầy, ông đã phải dùng 3 tuyệt chiêu kiếm pháp gia truyền để đổi về đó. Nay có bạn biết thưởng thức nên ông cho xuống hầm lấy lên và rót 3 chén để mời Lệnh Hồ Sung bình phẩm kèm theo môt lời thách đố là : "Rượu đã được bao nhiêu năm tuổi rồi ?". Lệnh Hồ Sung lần lượt uống cạn ba ly rượu, nhắm mắt lại gụt gặt đầu một lúc mới lên tiếng :"Rượu nầy lạ thiệt, hương vị thì tuyệt vời khỏi phải nói rồi, nhưng nồng độ thì dường như vừa cũ vừa mới; Vừa tựa như rượu đã được cất ủ trên một trăm hai mươi năm rồi, lại vừa như chỉ mới khoảng độ mười hai mười ba năm mà thôi !". Làm cho Hướng Vấn Thiên đứng bên cạnh giật mình lo lắng :"Chuyến nầy thì tiêu rồi, một trăm hai mươi năm với mười hai mười ba năm cách nhau cả trăm năm lận !". Nào ngờ, Đan Thanh Sinh vuốt râu cười ha hả mà rằng :"Hảo huynh đệ, quả nhiên lợi hại ! Cái bí quyết làm cho rượu ngon là ở nơi đó đó ! Tên kiếm khách Tây Vực Mạc Hoa Nhĩ Triệt sau khi học 3 chiêu kiếm gia truyền của ta, đã tặng cho ta mười hũ rượu Bồ Đào đã một trăm hai mươi năm và đã qua ba lần chưng cất. Ta đã theo cách hướng dẫn của ông ta tiến hành thêm một lần chưng cất nữa, đem mười hũ rượu chưng cất lại thành một thùng, tính đến nay cũng đã mười hai năm có hơn rồi, nên mùi rượu rất thơm ngon, khử hết vị chua và nồng độ tuyệt vời ở chỗ vừa mới vừa cũ, vừa như mới mười mấy năm hơn lại vừa như cả trăm năm qua rồi !"

 

        

 

     Đó là những khoa trương về tài thử rượu của Đại Hiệp KIM DUNG, Hư Cấu để gán cho những nhân vật trong truyện võ hiệp của mình. Đọc truyện trên làm cho ta nhớ lại những truyện cười về "Sành Rượu" và "Thử Rượu" của thời đại hiện nay. Mời tất cả cùng đọc lại cho vui...

 

                    SÀNH RƯỢU

 

     Trong một hãng rượu tại Napa Valley, California, một chuyên viên thử rượu vừa qua đời. Chủ hãng lo lắng đăng báo, kiếm người thay thế. Một anh chàng say rượu bí tỉ, quần áo rách rưới tới xin việc. Chủ hãng muốn tống cổ anh say rượu đi chỗ khác chơi, nhưng vẫn muốn thử tài anh ta xem sao. 

 

     Chủ hãng bèn ngoắc tay, và cô hầu bàn mang ra một ly rượu. Anh chàng say rượu cầm ly uống cạn, và nói :“Rượu vang đỏ loại Muscat, 3 tuổi, trồng ở miền Bắc của Napa Valley, chứa trong thùng thép!” “Đúng thế !”, Chủ hãng tuyên bố.

 

     Chủ Hãng lại ra hiệu cho cô hầu bàn mang ra một ly rượu khác. Anh chàng say rượu nâng ly lên, uống cạn, lè nhè nói :“Rượu vang đỏ, Cabernet, 8 năm, trồng tại phía Tây Nam của Napa Valley, chứa trong thùng gỗ Oak!”. Chủ hãng phục lăn! 

 

     Ông ta nháy mắt cho cô thư ký, ngầm ra hiệu. Cô thư ký bưng ra một ly nước tiểu. Gã say rượu mắt nhắm mắt mở, nâng ly uống cạn. Uống xong, gã lè nhè nói :“Tóc vàng, 26 tuổi, mang thai 3 tháng... Và nếu không cho tôi việc làm, thì tôi sẽ nói tọac tên... "bố đứa bé" ra cho mà xem !”

 

     Chũ Hãng và cô hầu bàn đều tõn tè, ngẩn ngơ !

 

                 

Ta thấy...

         "HƯ CẤU" về "Tài uống rượu và sành rượu của anh chàng bơm nhậu ngày nay", còn hơn hẵn tài Hư Cấu của Đại Hiệp KIM DUNG trong tiểu thuyết võ hiệp của ông ta rất nhiều !

 

            Hẹn bài viết tới !

 

       杜紹德

       Đỗ Chiêu Đức

Hư Cấu Trong Võ Hiệp Kim Dung (2)

(Những mối tình oan nghiệt)

 

四張機,                Tứ Trương Cơ,

鴛鴦織就欲雙飛, Uyên ương chức tựu dục song phi,

可憐未老頭先白。 Khả lân vị lão đầu tiên bạch.

春波碧草,             Xuân ba bích thảo,

曉寒深處,            Hiểu hàn thâm xứ,

相對浴紅衣。        Tương đối dục hồng y.

 

Đó là bài TỪ 詞 của bà Anh Cô 瑛姑 (trước là Lưu Qúy Phi của Đoàn Nam Đế) thêu trên chiếc khăn tay để tặng cho Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông 周伯通. Châu Bá Thông là người không sợ trời không sợ đất, bình sinh ông ta chỉ sợ có hai người : Sư huynh Vương Trùng Dương và... Hoàng Dung, cô em dâu bất đắc dĩ của thằng bạn kết nghĩa vong niên Quách Tĩnh. Mỗi lần muốn khống chế và đối phó với Lão Ngoan Đồng thì Hoàng Dung chỉ cần đọc ba chữ "TỨ TRƯƠNG CƠ..." thì Chu Bá Thông y như là trúng phải tà, như Tông Ngộ Không bị Đường Tăng niệm chú khẩn cô, nhất nhất nói gì cũng nghe theo cả ! Thì ra...

Sau luận kiếm Hoa Sơn lần thứ nhất, Vương Trùng Dương biết mình không còn sống được bao lâu, nên mới dắt theo sư đệ là Chu Bá Thông đến nước Đại Lý gặp Đoàn Nam Đế để truyền thụ lại môn Tiên Thiên Công cho Đoàn Nam Đế phối hợp với Nhất Dương Chỉ mà khống chế Tây Độc Âu Dương Phong đang lăm le muốn chiếm đoạt Cửu Âm Chân Kinh để xưng bá võ lâm Trung Nguyên. Trong lúc hai huynh trưởng đang đàm luận trao đổi võ công, thì Chu Bá Thông với tính khí vô tư như trẻ con chạy lung tung trong hậu cung Đại Lý, với tính ham vui và háo thắng Chu Bá Thông đã dạy cho Lưu Qúy Phi môn điểm huyệt, nào ngờ gái xuân trai trẻ, tiếp xúc đụng chạm lâu ngày, Lưu Phi sinh lòng cảm mến yêu thương Chu Bá Thông. Rồi trong một lần đụng chạm thân mật hai người đã làm chuyện không nên làm. Lưu Phi đã tặng cho Chu Bá Thông chiếc khăn tay có thêu đôi uyên ương hí thủy và bài từ nêu trên. Trong bản dịch của Hàn Giang Nhạn ngày xưa đã thoát dịch bài từ trên thành một bài thơ tứ tuyệt thật hay như sau:

 

Liền cánh uyên ương dệt mộng mơ,

Lòng xuân tóc trắng điểm bơ phờ,

Hương xuân chưa thắm tình trăng gió,

Áo đỏ không phai nét hững hờ!

 

 

Sự việc đổ bể, Vương Trùng Dương trói Chu Bá Thông đến chịu tội với Đoàn Hoàng Gia. Với tinh thần hiệp nghĩa của võ lâm đồng đạo, Nam Đế chẳng những không bắt tội mà còn gả luôn Lưu Phi cho Chu Bá Thông. Nhưng Chu Bá Thông lại không chịu, vì với tính khí vô tư và thích vui đùa của Chu, ông ta chỉ nghĩ là như một cuộc vui chơi qua rồi thì thôi, chớ không chịu gò bó lập gia đình với đủ điều phiền toái. Ông rút chiếc khăn thêu trả lại cho Lưu Phi và chịu tội chết với Đoàn Hoàng Gia, nhưng lại được tha tội. Ông bỏ đi biệt tích để lại mối hận tình oan nghiệt cho bà Lưu Phi ưu sầu trong cung cấm...

 

Vì thế nên hễ nhắc đến bài từ "Tứ trương cơ..." là Chu Bá Thông ta lại cảm thấy áy náy, hối hận, ray rức... nên chịu nghe theo lời Hoàng Dung chỉ cần cô ta không đọc tiếp bài từ đó nữa là được rồi !

 

KIM DUNG đã nhặt bài từ trên từ trong dân gian, các bài từ vô danh nhưng rất gợi cảm dễ đánh động lòng người như những câu ca dao dân gian trong bài "Mười Thương" của ta vậy :

 

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.

Ba thương má lúm đồng tiền,

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua...

 

Còn "TỨ TRƯƠNG CƠ" là thể loại TỪ rất thịnh hành trong đời Tống, bài từ trên chỉ là một vế của toàn bài Từ có tên là "CỬU TRƯƠNG CƠ 九張機". Có nghĩa : Chín cái khung cửi dệt vải, là Chín cái máy dệt. Từ "Nhất Trương Cơ" cho đến "Cửu Trương Cơ" là Chín Khung Cửi, bài TỨ TRƯƠNG CƠ là khung cửi thứ tư mà thôi. Nếu dịch đúng theo thể loại của bài từ thì là :

 

Khung cửi tư này,

Uyên ương dệt mộng muốn cùng bay,

Khá thương xuân sắc đầu đà bạc.

Sóng xuân cỏ biếc,

Sáng lòng lạnh lẽo,

Áo đỏ giặt cùng ai!

 

Hoàng Dung cũng đã nhái theo thể loại nầy mà làm hai bài tặng cho Quách Tĩnh là "Thất Trương Cơ 七張機" và "Cửu Trương Cơ 九張機" như sau :

 

七張機,                 Thất Trương cơ (Ki),

春蠶吐盡一生絲, Xuân tầm thổ tận nhất sanh ti,

莫教容易裁羅綺。 Mạc giao dung dị tài la y.

無端剪破,             Vô đoan tiễn phá,

仙鸞綵鳳,             Tiên loan thái phụng,

分作兩邊衣。         Phân tác lưỡng biên y!

 

Có nghĩa:

Khung Cửi Bảy Hờ,

 

Tầm xuân nhả hết một đời tơ,

Chớ để dễ dàng may áo gấm.

Khi không cắt xén,

Loan tiên Phụng múa,

Chia vạt áo hai bờ!

 

Bài "Cửu Trương Cơ" như sau:

 

九張機,                 Cửu Trương Cơ (ki),

雙飛雙葉又雙枝, Song phi song diệp hựu song chi,

薄情自古多別離。 Bạc tình tự cổ đa biệt ly.

從頭到底,             Tòng đầu đáo đễ,

將心縈繫,             Tương tâm oanh hệ,

穿過一條絲。          Xuyên quá nhất điều ti.

 

Có nghĩa:

Khung Cửi Chín Ni,

 

Hai cành hai lá lại song phi,

Bạc tình xưa nay lắm biệt ly.

Từ đầu đến cuối,

Để lòng vấn vít,

Vướng mắc sợi tơ chi!

 

 

Đây là những bài ca bài hát của các cô gái hoài xuân ngồi quay tơ dệt vải bên khung cửi để bày giải nổi lòng tâm tư tình cảm của mình. Kim Dung đã khéo chọn "bài thứ tư" có nội dung ướt át và hợp với hoàn cảnh và chuyện tình oan nghiệt của Lưu Qúy Phi (Anh Cô) và Chu Bá Thông để đưa vào trong truyện. Chỉ có Hàn Giang Nhạn dịch thoát nhưng rất hay, rất gợi tình và lại có tính văn chương mượt mà ướt át, không như những bản dịch sau nầy rất hời hợt và rất dở, rất vụng không có tính văn chương chút nào cả.

 

Mối tình oan nghiệt thứ hai là của Lý Mạc Sầu và Lục Triển Nguyên. Lý Mạc Sầu trốn khỏi Cổ Mộ thâm u để đi ra thế giới bên ngoài. Trước cảnh non xanh nước biếc, mãi vui chơi nên lạc đến nước Đại Lý và tình cờ quen với Lục Triển Nguyên. Hai người yêu nhau, Lục từ giã về quê, hứa sẽ trình thưa với cha mẹ để cưới Lý Mạc Sâu. Không ngờ đợi mãi vẫn không thấy tăm hơi gì cả, bèn lần mò đến Lục gia trang, thì thấy Lục Triển Nguyên đang làm lễ thành hôn với Hà Nguyên Quân là nghĩa nữ của Võ Tam Thông. Lý Mạc Sầu nổi giận định phá tan hôn lễ, nhưng có cao tăng của Thiên Long Tự ngăn cản. Lý Mạc Sầu hẹn mười năm sau khi công phu luyện thành sẽ đến báo thù rửa hận. Qủa nhiên mười năm sau Lý Mạc Sầu đến khủng bố và tàn sát hết cả nhà của Lục Triển Nguyên cả gà chó cũng không chừa. Trong khoảng thời gian hận sầu với mối tình ngang trái nầy Lý Mạc Sầu luôn miệng ngâm nga hai câu thơ sau:

 

問世間,情為何物, Vấn thế gian, tình vi hà vật,

直教生死相許? Trực giao sanh tử tương hứa?

 

Có nghĩa:

 

Hỏi thế gian, tình là vật chi, mà khiến cho người ta...

Phải lấy cái sống chết để hứa hẹn với nhau?

 

Đây là hai câu mở đầu trong bài "Nhạn Khâu Từ 雁丘詞" của Nguyên Háo Vấn 元好問 (1190-1257) là nhà văn học, sử học ở giữa đời Kim và Nguyên của Trung Hoa. Lúc nhỏ thông minh dĩnh ngộ, nổi tiếng là thần đồng. Năm 16 tuổi, trên đường lai kinh ứng thí, ông gặp một người thợ săn giương cung bắn một cặp nhạn đang bay. Một con nhạn bị bắn rơi xuống đất, con nhạn kia bèn xếp cánh cắm đầu rớt xuống chết theo. Cảm động trước tấm tình thủy chung của đôi chim nhạn, Nguyên Háo Vấn đã hỏi mua xác của đôi chim và chôn cùng một nấm mộ, đề là NHẠN KHÂU 雁丘, rồi làm bài từ theo điệu Mạc Ngư Nhi 摸魚兒 lấy tên là NHẠN KHÂU TỪ 雁丘詞 là "Mồ Chôn Chim Nhạn"như sau :

 

問世間,情為何物, Vấn thế gian, tình vi hà vật,

直教生死相許 ?        Trực giao sanh tử tương hứa ?

天南地北雙飛客,     Thiên nam địa bắc song phi khách,

老翅幾回寒暑             Lão xí kỷ hồi hàn thử.

歡樂趣,離别苦,     Hoan lạc thú, ly biệt khổ,

就中更有痴兒女...     Tựu trung cánh hữu si nhi nữ...

 

Có nghĩa:

 

Hỏi thế gian tình là vật gì,

Mà đem chết sống hứa nhau chi?

Trời nam đất bắc cùng là khách,

Ấm lạnh cánh già mòn mõi.

Vui hoan lạc, khổ biệt ly,

Chỉ riêng nhi nữ mối tình si...

 

 

Bài từ còn dài (16 câu nữa), nhưng phần sau không ăn vào những tình tiết câu truyện nên Kim Dung không có trích. Mỗi lần ngâm các câu thơ trên với mối hận bạc tình, Lý Mạc Sầu đã ra tay giết cả nhà Lục Triển Nguyên một cách tàn độc không thương xót, cho thấy đau khổ vì thất tình đã biến con người trở nên vô cảm biết chừng nào !

 

Sau đây là các kiểu ghen, các kiểu hận tình của các người đẹp trong truyện THIÊN LONG BÁT BỘ 天龍八部. Đầu tiên là ...

 

- CHUNG PHU NHÂN (CAM BẢO BẢO 甘宝宝) : mẹ của Chung Linh. Bị người yêu đẹp trai hào hoa phong nhã là Đoàn Chính Thuần phụ rẫy. Bà quyết định lấy một người chồng "Xấu như ma, Mặt dài như ngựa" để trả thù người yêu. Chồng bà là Chung Vạn Cừu, lấy hiệu là VẠN CỪU ĐOÀN, tức coi họ Đoàn là kẻ thù muôn thuở.

 

- TU LA ĐAO 修羅刀 TẦN HỒNG MIÊN 秦红棉 : Bị Đoàn Chính Thuần phụ rẫy khi đã có thai, nên khi sanh ra Mộc Uyển Thanh thì bảo là nhặt được con hoang bên đường, chỉ cho con gọi mình là sư phụ. Dạy cho con giỏi võ công để đi giết người yêu và vợ cả của Đoàn Chính Thuần là Vương Phu Nhân và Đao Bạch Phượng.

 

- VƯƠNG PHU NHÂN (LÝ THANH LA 李青蘿) : Hận Đoàn Chính Thuần bạc tình, nên hận luôn cả những người nào mang họ Đoàn. Hễ gặp người mang họ Đoàn là giết chết không tha, ngay cả những người của nước Đại Lý hay ở gần nước Đại Lý cũng giết luôn để chôn xác làm phân cho Mạn Đà La Hoa (tên riêng của Trà Hoa) mà người tình phụ bạc của mình... Đoàn Chính Thuần rất yêu thích !

- NGUYỄN TINH TRÚC 阮星竹 : Không giỏi võ công, chỉ giỏi thủy tính, bơi lội rất giỏi, là mẹ của A CHÂU và A TỬ. Bà là người hời hợt nhất, dễ dãi nhất, nên cũng hạnh phúc nhất. Đoàn Chính Thuần phụ bạc thì khi đẻ con ra bà cho người khác nuôi; Khi gặp lại chỉ cần năn nỉ vài câu là bà tha thứ cho Đoàn Chính Thuần ngay và hai người lại vui vẻ ở bên nhau.

 

- MÃ PHU NHÂN (KHANG MẪN 康敏): Bà là người thâm hiễm, độc ác và có dã tâm nhất trong các người tình của Đoàn Chính Thuần. Bị Đoàn phụ rẫy, bà lấy Phó Bang chủ Cái Bang là Mã Đại Nguyên, hy vọng sẽ được làm Bang Chủ Phu Nhân, nhưng Bang Chủ lại lọt vào tay của Kiều Phong, bà bèn quay sang gạ gẫm Kiều Phong. Nhưng Kiều Phong là bản sắc anh hùng chính hiệu chỉ biết giao du với bằng hữu và uống rượu mà không màng đến nhi nữ thường tình. Bà đâm ra hận Kiều Phong bèn lén lúc tư tình với Chấp Pháp Trưởng Lão Bạch Thế Kính và Thập Phương Tú Tài Toàn Quán Thanh, để cùng moi móc nguồn gốc Khất Đan của ông với mục đích là làm cho ông thân bại danh liệt, vì ông đã dám coi thường mối tình si của bà dành cho ông. Về phần Đoàn Chính Thuần khi gặp lại, bà đã gài cho họ Đoàn uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho mất hết sức lực, rồi nhắc lại lời thề năm xưa nếu phụ bạc thì sẽ bị muôn đao phân thây. Bà kể cho Đoàn Chính Thuần nghe : Lúc nhỏ nhà nghèo, Tết đến thấy cô bé nhà bên khoe có bộ đồ mới mua. Bà tức lắm đêm đó thừa lúc mọi người ngủ say, bà lẻn qua nhà cô bé, lục ra bộ đồ mới, rồi lấy kéo cắt xuôi cắt ngược, cắt cho không còn vá lại được nữa mới thôi. Rồi bà kết luận rằng : "Cái nào mà bà không có được, thì sẽ tìm cách huỷ hoại nó đi, chớ không để cho người khác có được". Nói xong, bà hôn Đoàn Chính Thuần từ đầu đến vai một cách âu yếm, rồi hé miệng cắn cho một phát phun máu và rớt một miếng thịt ra. Bà nói là ở đây không có muôn đao phân thây, bà sẽ... cắn Đoàn Chính Thuần từ từ cho đến chết!

 

- ĐAO BẠCH PHƯỢNG 刀白鳳 là chính phi của Đoàn Chính Thuần, là mẹ của Đoàn Dự. Vì chịu không nổi tính trăng hoa lăng nhăng của chồng mà xuất gia làm đạo cô, hiệu là Ngọc Hư Tản Nhân 玉虛散人. Ngoài việc giận chồng xuất gia làm đạo cô ra, trong lúc ghen tương qúa độ bà đã làm nhục chồng bằng cách lấy một người ăn mày hèn hạ; chẳng ngờ gả ăn mày hèn hạ dơ dáy kia chính là Thái tử Diên Khánh, người đứng đầu TỨ ÁC NHÂN sau nầy là ÁC QUÁN MÃN DOANH. Cũng nhờ thế, mà theo tập tục của nước Đại Lý lúc bấy giờ, Đoàn Dự có thể lấy hết các cô em chú bác 2 đời như Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên một cách hợp lệ.

 

 

Cái hay của Kim Dung là đã HƯ CẤU ra rất nhiều chuyện tình mà không chuyện nào giống chuyện nào cả. Tâm lý nhân vật cũng vậy, muôn hình vạn trạng, nhưng lại rất nhân bản rất thực tế giống như là cuộc sống của ta trước mắt. Trong số các tình nhân của Đoàn Chính Thuần thì Nguyễn Tinh Trúc là người vô tư, ít chủ kiến và hiền lành nhất. Bà ta không thông minh và biết tiến thoái như Cam Bảo Bảo; cũng không sắc sảo và oán hận như Tần Hồng Miên; càng không kiêu ngạo và bá đạo như Vương Phu Nhân; và càng không ngông cuồng ác độc nham hiễm như Mã phu nhân Khang Mẫn. Nên...

Mặc dù không có nét đặc sắc nào cả, nhưng lại là một người đẹp đầy nữ tính và rất hồn nhiên, chính những nét rất bình thường đó đã làm cho nàng ta sống những ngày tháng hạnh phúc nhất, lâu dài nhất bên cạnh Đoàn Chính Thuần hào hoa phong nhã.

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

 

Hư Cấu Trong Võ Hiệp Kim Dung (1)

 

Ai cũng biết truyện võ hiệp của Kim Dung đều toàn là những câu truyện HƯ CẤU, nhưng sao tất cả mọi người già trẻ lớn bé, bất kể sang hèn nam nữ, từ bình dân đến trí thức đều mê như điếu đổ. Truy nguyên, ta sẽ thấy được những HƯ CẤU của Kim Dung đều dựa vào những thực tế của cuộc sống hằng ngày, của tâm lý tình cảm chân thật của con người, của những sự kiện lịch sử có thật kết hợp với những dã sử trong dân gian, những phong tục tập quán của từng địa phương hòa vào trong các tình tiết khúc chiết ly kỳ gây cấn để hấp dẫn người đọc bằng lối kể truyện vừa bình dân vừa bác học, vừa chất phác vừa văn chương, vừa xen vào cái không khí trinh thám như của Sherlock Holmes... Tất cả Lịch sử, Địa lý, Chính trị, Văn hóa, văn chương, tâm lý tình cảm của con người, tất cả tất cả... hòa quyện vào nhau trong câu truyện VÕ HIỆP HƯ CẤU một cách tài tình hợp lô-gích và phù hợp với cuộc sống thực tại của con người!

 

Trước tiên xin được điểm qua vài nét về mặt văn chương văn học trong truyện Võ Hiệp của Kim Dung :

Trong truyện "Thiên Long Bát Bộ 天龍八部 (1963-1966)". Khi Đoàn Dự bị nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí bắt đem về xứ Giang nam để tế sống trước mộ của Mộ Dung Bác, vì chàng ta thuộc lòng hết khẩu quyết của Lục Mạch Thần Kiếm. Đến xứ Giang nam vào môt buổi chiều xuân tươi đẹp với sóng nước lăn tăn, với liễu xanh rũ bóng bên bờ, với cỏ non xanh rợn chân trời xa xa là xóm nhà thấp thoáng với những hoa hạnh bay là đà trong ánh nắng chiều. Trước cảnh đẹp của Giang nam mà ở Đại Lý chưa từng thấy qua, chàng thư sinh Vương tử Đoàn Dự nổi hứng cất giọng ngâm:

 

波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;

孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,

斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !

 

Có nghĩa:

 

Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,

Cỏ non xanh biếc xóm xa ,

Hạnh hoa theo nắng là đà bay bay!

 

Khiến cho nhà sư Cưu Ma Trí cũng phải bật cười mà nói rằng :"Chết đến nơi, bộ vui lắm sao mà còn ngâm thơ nữa ?!"

 

Ba miểu miểu, Liễu y y...

 

Lúc nhỏ khi đọc đến đây, tôi cứ ngỡ là thơ của "Kim Dung làm cho Đoàn Dự ngâm"; đến lúc học về văn học cổ thì mới biết rằng đây là bài TỪ "Ba Miểu Miểu" trong từ điệu "Giang Nam Xuân" của Khấu Chuẩn 寇準的"江南春·波渺渺". Khấu Chuẩn (961-1023) là nhà văn nhà thơ đời Bắc Tống, đậu Tiến sĩ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5, làm quan đến chức Thừa tướng. Bài từ trên của ông, nhà văn Kim Dung trích còn thiếu 2 câu. Cả bài như sau :

 

波渺渺,柳依依; Ba miểu miểu, liễu y y;

孤村芳草遠, Cô thôn phương thảo viễn,

斜日杏花飛。 Tà nhật hạnh hoa phi !

江南春盡離腸斷, Giang Nam xuân tận ly trường đoạn,

苹滿汀洲人未歸。 Bình mãn đinh châu nhân vị quy!

 

Có nghĩa:

 

Sóng lăn tăn, liễu thướt tha,

Cỏ non xanh biếc xóm xa ,

Hạnh hoa theo nắng là đà bay mau.

Giang Nam xuân hết lòng đau,

Bèo đầy bến bãi người sao chưa về!

 

Kim Dung đã trích rất khéo vì 2 câu sau không ăn với hoàn cảnh của Đoàn Dự lúc bấy giờ.

 

Còn trong truyện "Anh Hùng Xạ Điêu" , tức "Xạ điêu anh hùng truyện 射鵰英雄傳 (1957-1959)", xem phim thì không có, nhưng nếu xem truyện, chúng ta sẽ đọc thấy...

 

... Khi bị Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận đánh cho một thiết chưởng thừa sống thiếu chết, Hoàng Dung phải nhờ Quách Tĩnh cỏng đi tìm người trị thương. Được sự chỉ điểm của Thần Toán Tử Anh Cô, đi tìm Đoàn Nam Đế nhờ ngài dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho Hoàng Dung. Vì mỗi lần dùng Nhất Dương Chỉ để trị thương cho ai, thì Đoàn Nam Đế phải mất hết công lực, sau 3 năm mới phục hồi lại được, cho nên các học trò của ngài là Ngư, Tiều, Canh và Độc có ý ngăn cản không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi. Từ chân núi đến đỉnh núi, Ngư Tiều Canh Độc 魚,樵,耕,讀 chia làm 4 trạm để cản trở, khó khăn lắm mới vượt qua được 3 trạm Ngư, Tiều và Canh.... Bây giờ tới trạm cuối cùng của ông ĐỘC nhé !...

 

Thấy Hoàng Dung giỏi văn thơ và đã lên tiếng chê trách là ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa của Thánh hiền, qua câu chuyện : Khi nghe ông Độc đọc một câu trong sách Luận ngữ là : "Mạc xuân dã, xuân phục ký thành, quan giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi qui...末春也,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎宜,風乎宇于,咏而歸...". Có nghĩa ; Vào cuối xuân, quần áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người lớn, sáu bảy trẻ nhỏ, tắm ở dòng sông Nghi, hứng gió ở đền Vũ Vu, rồi hát mà về...(tả cảnh sống thanh bình vui vẻ, tự do tự tại của dân chúng trong buổi đầu xuân)... mà hỏi ông rằng : "Ông đọc sách Thánh hiền, mà có biết Bảy Mươi Hai người thành đạt 七十二賢 (thất thập nhị hiền) trong số 3 ngàn học trò của Không Tử, là : Có bao nhiêu người già, bao nhiêu người trẻ không ? Ông Độc suy nghĩ mãi không ra , sách chỉ nói Thất thập nhị Hiền, chứ đâu có nói gì đến già trẻ đâu. Hoàng Dung mới cười ông , và đem câu Luận ngữ mà ông vừa đọc ở trên để giải thích như thế nầy : Quan giả là người đội mũ, là người lớn, ngũ lục nhân, năm sáu người, 5 lần 6 là 30 người. Đồng tử là con nít là người trẻ, lục thất nhân, sáu bảy người, 6 lần 7 là 42 người. 30 cộng với 42, chẳng phải 72 là gì ? Cho nên tôi nói ông chỉ đọc sách như vẹt, chứ không hiểu hết ý nghĩa sâu xa ở bên trong là vậy đó !". Thấy Hoàng Dung mặc dù ngụy biện, lấy câu sách mình vừa đọc để mắng mình, nhưng cũng phải phục tài thông minh, cơ trí của cô ta, nên định thử xem con bé nầy giỏi tới đâu...

 

Đầu tiên, ông ta đọc một bài thơ, cho Hoàng Dung đoán lý lịch của mình (đây là một cách chơi chữ bằng cách đố chữ rất lý thú để cho người ta đoán). Bài thơ như sau :

 

Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, 六經蕴籍胸中久,

Nhất kiếm thập niên ma tại thủ. 一剣十年磨在手.

Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành, 杏花頭上一枝横,

Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu. 恐泄天機莫露口.

Nhất điểm luy luy đại như đấu, 一点畾畾大如斗,

Giảm khước bán sàng chung sở hữu. 减却半牀终所有.

Hoàn danh trực đãi quải quan quy, 完名直待挂冠歸,

Bản lai diện mục quân tri phủ ? 本来面目君知否?

 

* LỤC KINH 六經 : gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu《詩》《書》《禮》《易》《樂》《春秋》. Đến đời Tống "Kinh Lễ và Kinh Nhạc" được nhập lại thành một, gọi là "Kinh Lễ Nhạc", nên chỉ còn có NGŨ KINH mà thôi. Ta hay nghe nói TỨ THƯ NGŨ KINH 四書五經 là vì thế !

 

Bài thơ có nghĩa:

 

Sáu bộ kinh sách đã nung nấu trong lòng từ lâu và trong tay mười năm nay đã luôn mài một lưỡi gươm. Trên đầu hạnh hoa có một cành ngang, sợ để lộ thiên cơ nên đừng mở miệng. Một chấm to lớn như là cái đấu, sẽ có được khi đã giảm nửa sàng. Công thành danh toại nên muốn cáo lão về quê, gốc gác mặt mũi của ta, bạn đã biết rồi chưa?

 

Hoàng Dung nghe xong, bèn lập lại hai câu đầu "Lục kinh uẩn tịch hung trung cửu, Nhất kiếm thập niên ma tại thủ" là : Lục kinh đã thuộc nằm lòng, lại mười năm mài một lưỡi gươm, Quả là văn võ song toàn. Chữ lục 六 thêm chữ nhất 一 trong chữ "nhất kiếm" và chữ thập 十 trong chữ "thập niên", gộp lại thành chữ Tân 辛. Trên đầu chữ Hạnh 杏 thêm một gạch ngang , và ở phía dưới bỏ đi chữ khẩu (mạc lộ khẩu 口) còn lại là chữ Mùi 未. "Nhất điểm" là một chấm ở trên chữ "đại" là chữ Khuyển 犬, giảm khước là giảm đi phân nữa chữ sàng 牀, tức là bỏ chữ mộc 木 đi, thêm chữ khuyển 犬 vào, sẽ thành chữ Trạng 狀. Cuối cùng, chữ "hoàn danh", Hoàn 完 mà "quải quan" là treo nón, bỏ cái nón ra, chữ Hoàn chỉ còn lại có chữ Nguyên 元. Nhập kết quả của bảy câu lại thành ra 4 chữ : Tân Mùi Trạng Nguyên 辛未狀元, Câu chót "Bản lai diện mục quân tri phủ? " là : "Mặt mũi vốn có của ta, cô đã biết hay chưa?" À, thì ra ông xuất thân là Trạng Nguyên đậu năm Tân Mùi, Xin kính chào Ngài Trạng Nguyên ạ !

 

Tranh và tạo hình của Ngư, Tiều, Canh, Độc qua phim

 

Ông Độc rất phục cái thông minh, tài trí của Hoàng Dung, nhưng ông vẫn phải làm khó, vì nếu để cho sư phụ của mình là Đoàn Nam Đế trị thương cho Hoàng Dung thì ông ta phải chịu mất hết công lực trong 3 năm, mà trước mắt ông ta đang gặp phải cường địch. Vì vậy, ông Độc bắt Hoàng Dung phải đối thêm 2 câu đối nữa, nếu đối được mới cho vào. Câu thứ nhất, vế ra của Ông như sau :

 

Phong bãi tông lư, thiên thủ Phật dao triệp điệp phiến,

風 摆 棕 梠,千 手 佛 摇 槢 叠 扇,

 

Có nghĩa:

Gió đưa các nhánh cọ (như cây thốt nốt xòe các nhánh như lá dừa), giống như là ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt.

 

Vế ra hay quá, lại rất tượng hình, muốn đối lại không khó, nhưng muốn đối cho hay thì... Chợt Hoàng Dung nhìn thấy một cọng sen vương cao lên trong hồ, bèn xúc cảnh sinh tình mà đối ngay rằng :

 

Sương điêu hà diệp, độc cước quỷ đái tiêu dao cân.

霜 凋 荷 叶, 独 脚 鬼 戴 逍 遥 巾.

 

Có nghĩa:

Sương thu làm héo úa lá sen, trông giống như con quỷ một giò đội khăn tiêu dao.

 

Phong bãi tông lư... Sương điêu hà diệp...

 

Bấy giờ trời đã vào buổi tàn thu, sen trong đầm đà tàn tạ, một cọng sen vương cao lên, lá sen bên trên bị sương thu nên héo úa đen đúa rũ xuống, trông tựa như người đang đội khăn, ông Độc đang đội khăn Tiêu Dao, khăn của thư sinh ngày xưa, bây giờ bị Hoàng Dung diễu là "Con quỷ một giò đội khăn tiêu dao", để đối lại với "Ông Phật ngàn tay đang phe phẩy quạt". Đối khéo và hay quá, lại còn mắng mình là "con quỷ một giò" nữa chớ !. Nhưng vẫn không chịu thua, ông tiếp tục moi ra câu đối hóc búa mà ngày xưa thầy ông đã ra cho ông khi còn đi học, và mãi cho đến nay mặc dù đã đậu Trạng Nguyên mấy chục năm rồi ông vẫn chưa đối lại được. Câu đối đó như sau :

 

Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện ,

琴 瑟 琵 琶 八 大 王, 一 般 頭 面. 

 

Có nghĩa:

"Cầm sắt tì bà" (là 4 loại nhạc cụ) , mỗi chữ trên đầu đều có 2 chữ VƯƠNG 王, nên gọi là bát đại vương 八大王, "Nhất ban đầu diện" là mặt mũi đều giống nhau, vì 2 chữ vương của mỗi chữ đều nằm ở phần trên đầu.

 

Vế ra quả là hóc búa, trong một lúc muốn đối cho chỉnh không phải là dễ. Nhưng Hoàng Dung lại rất thông minh dĩnh ngộ, lại đúng ngay tình cảnh mình đang gặp trước mắt, nên nàng bèn cất tiếng đối ngay:

 

Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường .

魑 魅 魍 魉 四 小 鬼, 各 自 肚 腸.

 

Có nghĩa:

 

"Si mị võng lượng" là 4 loài tiểu quỷ ở trong núi, chuyên phá phách người đi đường, "các tự đỗ trường" là mỗi con bụng dạ đều khác nhau. Câu đối thật khéo, thật chỉnh, "Cầm sắt tì bà" đối với "Si mị võng lượng", "Bát đại vương" đối với "Tứ tiểu quỷ", "Nhất ban đầu diện" đối với "Các tự đỗ trường". Vì phần trong của 4 chữ QUỶ 鬼 là 4 bộ khác nhau. Câu đối còn hay ở chỗ, vừa đối chỉnh lại vừa mượn ý câu đối mà mắng 4 ông Ngư Tiều Canh Độc là "Tứ tiểu quỷ" , mỗi người một bụng dạ khác nhau, như 4 con quỷ núi đều tìm cách ngăn chặn không cho Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên núi...

 

Cầm sắt tì bà... Si mị võng lượng

 

Đến nước nầy, Ông Độc cũng phải chịu Hoàng Dung là giỏi và để cho 2 người lên núi trị thương...

 

Riêng tôi, thì tôi không biết là Hoàng Dung giỏi cở nào, chứ KIM DUNG thì quả nhiên giỏi thiệt, chả trách mọi người đều mê đọc truyện của ông ta, già mê theo già, trẻ mê theo trẻ, trí thức mê theo trí thức, bình dân mê theo bình dân... Quả thật là Ông Thần của tiểu thuyết Võ Hiệp Trung Hoa. Chả trách ở Trung Quốc có thành lập một tổ chức gọi là : Kim Dung Học, để chuyên nghiên cứu về 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung về tất cả các mặt tâm lý, tình cảm, triết học, lịch sử, đia lý...

 

Thực ra theo "Cổ kim đàm khái, Đàm tư bộ 古今譚概·談資部" của Phùng Mộng Long 馮夢龍 đời Minh thì đây là câu đối của một Đường Cao 唐皋 Trạng nguyên đời nhà Minh khi đi sứ sang nước Cao Ly. Chúa Cao ly ra câu đối thử tài là : Cầm Sắt Tì Bà bát đại vương, nhất ban đầu diện 琴瑟琵琶八大王,一般頭面. Trạng bèn đối lại là : Si Mị Võng Lượng tứ tiểu quỷ, các tự đỗ trường 魑魅魍魉四小鬼, 各 自肚腸. Chúa Cao Ly kinh ngạc khen hay.

 

Lại có thuyết cho là khi liệt cường xâu xé Trung Hoa, trong Bát quốc Liên quân có người giỏi tiếng Hoa muốn làm nhục triều đình Mãn Thanh đã ra câu đối hóc búa sau đây :

 

騎奇馬,張長弓,琴瑟琵琶八大王王王在上,單戈作戰。

Kỵ kỳ mã, trương trường cung, cầm sắt tì bà bát đại vương,

vương vương tại thượng, đơn qua tác chiến.

 

Có nghĩa:

Cởi ngựa lạ, giương cung dài, cầm sắt tì bà tám đại vương, mỗi vị vương đều ở trên, đơn thương tác chiến. Vế ra nầy hóc búa ở chỗ, ngoài Cầm Sắt Tì Bà Bát Đại Vương... lắt léo như đã nói ở trên, thì :

 

Chữ KỲ 奇 đặt sau chữ MÃ 馬 là chữ KỴ 騎;

Chữ CUNG 弓 đặt trước chữ TRƯỜNG 長 thành chữ TRƯƠNG 張.

Chữ QUA 戈 ghép sát lại với chữ ĐƠN 單 thành chữ CHIẾN 戰.

 

Lúc đó trong đám quan viên của Thanh Triều, có một người đứng ra đối lại rằng:

 

偽為人,襲衣衣,魅魑魍魎四小鬼鬼鬼犯邊,合手即拿。

Ngụy vi nhân, tập long y, Si mị võng lượng tứ tiểu qủy,

qủy qủy phạm biên, hiệp thủ tức nã.

 

Có nghĩa:

 

Làm người ngụy, trộm áo rồng, Si mị võng lượng bốn qủy nhỏ, qủy nào cũng muốn phạm biên cượng nắm tay lại là sẽ bắt lấy. Vế đối cũng có các chữ :

 

Chữ VI 為 đặt sau chữ NHÂN 人 là chữ NGỤY 偽;

Chữ Y 衣 đặt dưới chữ LONG 衣 là chữ TẬP 襲.

Chữ HIỆP 合 đặt trên chữ THỦ 手 là chữ NÃ 拿.

 

Bát Quốc Liên Quân xâu xé Trung Hoa

 

Câu đối hay ở chỗ Bát Quốc Liên Quân đến xâu xé Trung Hoa là Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật, Áo, Ý 英、美、法、德、俄、日、奧、意 xưng là "Bát Đại Vương" là "Tám ông vua lớn", thì bị gọi lại là "Tứ Tiểu Qủy" là "Bốn con qủy nhỏ". "Cởi ngựa lạ, giương cung dài, ngồi trên mà chiến đấu", thì được đối lại là "Ngụy quân tử, trộm áo vua, đến để xâm lấn biên cương"...

 

Nhưng trên đây chỉ là truyền thuyết, không có trong chính sử. Kim Dung đã khéo lượm lặt những giai thoại trong dân gian rồi ghép vào cho những nhân vật võ hiệp Hư Cấu của mình cho câu truyện thêm phần ly kỳ hấp dẫn và lý thú hơn mà thôi.

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức.

Nên gọi Quan Âm hay Quán Âm?

 Những năm gần đây, hầu như tất cả các chùa chiền, tăng ni, cư sĩ, Phật tử ... kể cả trong nước lẫn ngoài nước, đều có thói quen gọi QUAN Thế Âm Bồ Tát thành QUÁN (có dấu SẮC) thế Âm Bồ Tát ?!


        Mới nghe một hai lần đầu, tôi cứ ngỡ là người ta đọc sai, đọc lộn âm, nhưng chẳng những tín đồ Phật tử, cư sĩ tăng ni mà ngay cả các Tỳ kheo Đại đức, Thượng tọa Cao tăng khi tụng kinh hay đăng đàn thuyết giảng, hễ có dịp nhắc đến QUAN Âm Bồ Tát thì đều đọc là QUÁN Âm Bồ Tát cả !


       Tôi vô cùng ngạc nhiên, ngạc nhiên hết sức... Không biết tại sao Phật hiệu Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT nghe hiền hòa là thế, từ bi là thế, êm tai là thế, bỗng dưng lại bị bỏ thêm cái Dấu Sắc vô duyên nghe chói tai muốn chết ! Ấy thế, mà tại sao mọi người đều nghe theo và đọc theo cái Phật hiệu chói tai có dấu sắc kia ?!  

 

        Theo "Chữ Nho...Dễ Học" thì chữ Quan 觀 là chữ thuộc dạng Hình Thanh theo diễn tiến của chữ viết như sau :  

DCD_CHU XUAN.JPG

Ta thấy :
        Từ Chung đình văn cho đến Đại triện, Tiểu triện diễn tiến cho đến Lệ Thư đều do chữ QUÁN 雚 (một loại Lát để dệt chiếu, đệm) dùng làm ÂM kết hợp với Bộ KIẾN 見 là Thấy, là Gặp để chỉ Ý đúng theo phép tạo chữ của HÀI THANH (còn gọi là HÌNH THANH). Nên chữ 觀 được đọc là :


  * QUAN thì có nghĩa là Nhìn Ngắm, Xem Xét, như Tham quan 參觀, Quan sát 觀察... là Cách nhìn, như Quan Niệm 觀念, Quan Điểm 觀點...

     Nếu đọc là :
  * QUÁN thì có nghĩa là Cái chùa, Cái miếu của các đạo sĩ ở và tu, như Bạch Vân Quán 白雲觀, Tử Dương Quán 紫陽觀...

 

        Nhưng để truy nguyên tìm hiểu nguyên nhân của cái "dấu sắc" vô duyên kia, tôi còn tìm lật các Tự điển, Từ điển... À, thì ra chữ QUAN 觀  là Xem xét còn được đọc là QUÁN với nghĩa Xét thấu theo các tài liệu sau đây (chỉ trích những phần có liên quan) : 

 

 * Từ điển Hán Nôm :

 

    QUAN 觀 là...
      - xem, quan sát.
  1. (Động) Xem xét, thẩm thị, Ngắm nhìn, thưởng thức.
  2. (Danh) Cảnh tượng, quang cảnh, Cách nhìn, quan điểm, quan niệm.
  3. Một âm là “Quán”. (Động) Xét thấu, nghĩ thấu. ◇Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時, 照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi khổ ách.

 

 

* Từ điển Thiều Chửu :
       Giải thích âm QUÁN như sau :
      QUÁN : là Xét thấu, nghĩ kĩ thấu tới đạo chính gọi là quán. Như Chỉ Quán 止觀 yên định rồi xét thấu chân tâm, như Kinh Dịch 易經 nói Quán ngã sinh vô cữu 觀我生無咎 xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào tội lỗi. Đạo Phật có phép tu dùng tai mà xem xét cõi lòng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng, nên gọi là 
phép quán 觀. Như Quan âm bồ tát 觀音菩薩, vì ngài tu bằng phép này, sáu căn dùng lẫn với nhau được, mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán thế âm 觀世音.  

   

         À, thì ra QUAN 觀 là Xem Xét, là Nhìn Ngắm... Nếu đọc là QUÁN thì có nghĩa là Xét Thấu, Nghĩ Thấu... Nhưng suy cho cùng thì Xét Thấu Nghĩ Thấu đều là nghĩa phát sinh của Xem Xét Nhìn Ngắm ra mà thôi ! Và QUÁN còn là một phép tu tập về lục căn như có thể dùng tai để nhìn và dùng mắt để nghe được... Như trong "Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經 "..vv.. và..vv...  Nhưng,
       Ở đây tôi không nói về phép tu tập (Vì tôi có biết gì đâu mà nói ), tôi chỉ thắc mắc, ray rức không hiểu vì sao một Phật hiệu của một Bồ Tát khả kính đọc lên nghe êm ái nhẹ nhàng là QUAN THẾ ÂM Bồ Tát lại
bị ai đó hô hào rồi thô bạo thêm dấu sắc vào thành QUÁN THẾ ÂM nghe thật trúc trắc chói tai. Nếu bảo là gọi cho đúng cái con đường tu tập của Bồ Tát thì càng sai hơn, vì Phật hiệu là cái tên gọi, còn con đường tu tập là cái việc làm. Hơn nữa cái Phật hiệu đại từ đại bi Cứu khổ Cứu nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát mà mọi người còn gọi một cách thân mật gần gũi với cuộc sống hơn là Mẹ Hiền Quan Âm đã có từ hơn một ngàn năm trăm năm nay, từ thời Bắc Chu của Nam Bắc Triều (420-589) đời vua Diệu Trang Vương với Quan Âm Diệu Thiện và trên hai trăm năm với truyện nôm Quan Âm Thị Kính của ta dưới triều nhà Nguyễn (1802---). Phật hiệu QUAN ÂM BỒ TÁT đã đi sâu vào lòng quần chúng nhân dân, đã ăn sâu vào tâm khảm của muôn vạn tín đồ Phật tử, thì tại sao lại phải vì một lý do nào đó mà thêm vào "Dấu Sắc" cho trúc trắc khó đọc và nghe không êm ái chút nào cả !

 

                Xin được lạm bàn về Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Như các Từ điển nêu trên...


       QUAN 觀 là Quan sát, là Xem xét. THẾ 世 là Thế giới, là Cuộc đời nầy. ÂM 音 là Âm tín, Âm hao. Vậy thì...
      QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT 觀世音菩薩 là vị Bồ Tát quan sát xem xét hết những âm tín âm hao của cuộc đời nầy, của cả thế giới nầy, để cứu khổ cứu nạn với tấm lòng đại từ đại bi của mình cho tất cả chúng sinh. Vì thế mà ta thường nghe mọi người niệm câu " Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát " với một tấm lòng thuần thành và lắng lòng với Mẹ Hiền QUAN ÂM nhẹ nhàng êm ái. Nhưng nếu đọc là QUÁN ÂM thì vừa khó nghe, vừa chói tai lại vừa có vẻ
Bá Đạo nữa, vì ...

 

      Âm QUÁN dễ làm cho người ta liên tưởng và hiểu lầm thành...


    * QUÁN 冠 : là Bao trùm, Phủ trùm, như từ Quán Quân 冠軍 là Bao trùm cả Tam quân, là Hạng Nhất. Ngày xưa chỉ có những cuộc thi đua so tài trong quân đội, nên từ Quán Quân là Hạng Nhất được sử dụng thông dụng cho đến hiện nay. Nếu hiểu nhầm QUÁN THẾ ÂM là chữ QUÁN 冠 nầy, thì QUÁN THẾ 冠世 có nghĩa là Bao trùm cả thế giới, là Hạng Nhất ở trên đời nầy ! Nên tôi nói có vẻ Bá Đạo là thế, không thích hợp với Mẹ Hiền Quan Âm chút nào cả ! Còn như hiểu nghĩa... 

 

    * QUÁN 貫 là Quán Triệt 貫徹, Quán Xuyến 貫穿, là Xuyên suốt, thì QUÁN THẾ 貫世 là Xuyên suốt lo toan cho cả thế giới, nên có vẻ ôm đồm hết mọi việc của người đời. Mẹ Hiền Quan Âm chỉ Cứu khổ cứu nạn để giúp cho con người thoát khỏi bể khổ bến mê, chớ không phải ôm đồm làm hết mọi việc cho người đời. Còn nếu phát âm theo dân Nam Kỳ Lục Tỉnh chúng tôi không phân bịêt có "g" hay không "g" mà đọc là QUÁNG  (là Đui mù bóng QUÁNG) thành QUÁNG ÂM thì lại càng tội lỗi hơn ! Cho nên...

 

      Thiết nghĩ, QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT là tên gọi của Phật Bà Quan Âm đã hơn ngàn năm nay, đã thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là thói quen của tiếng nói, đã ăn sâu vào tâm thức của mọi người kể cả những người không phải là tín đồ Phật Giáo thuần túy như tôi, nhưng trong đời sống ở làng quê thôn xóm với ngôi chùa ở đầu thôn hay cuối làng, mọi người đã quen rồi với từ Quan Âm Bồ Tát, nay bỗng dưng lại đổi thành Quán Âm Bồ Tát; Mẹ Hiền Quan Âm thành Mẹ Hiền Quán Âm, nghe chua xót và ngỡ ngàng làm sao ấy ! Đã là thói quen của TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, sao ta không duy trì giữ nguyên mà lại thay đổi một cách không cần thiết như thế ? Vì mọi người, mọi tín đồ bình dân đâu cần biết đến cái phép tu tập, cái lối tu tập hay cái con đường tu tập của các bậc cao tăng chính giác mà chi, họ chỉ biết Quan Âm Bồ Tát là Mẹ Hiền Quan Âm cứu khổ cứu nạn mà thôi !    

   Nhớ...
       Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn (Vốn là Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũ), nội dung bài báo đề cập đến việc nên dùng từ "CHÚNG CƯ 眾居" thay thế cho từ " CHUNG CƯ " với lý do CHUNG CƯ là từ kép được thành lập theo văn phạm Hán Việt, vì Tính Từ đứng trước Danh Từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ CHUNG 終 Hán việt không có nghĩa là Chung chạ mà có nghĩa là Cuối cùng. Nên CHUNG CƯ 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở Cuối Cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ CHUNG CƯ 終居 thành CHÚNG CƯ 衆居 thì mới ổn.
 Vì CHÚNG 衆 là Quần Chúng 群眾, nên CHÚNG CƯ 衆居 mới là nơi Nhiều người cùng ở chung. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ
CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn 20 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ ! Tại sao ? Vì CHUNG CƯ là từ viết tắt của nhóm từ 4 chữ "CÙNG CHUNG CƯ NGỤ", hơn nữa từ CHÚNG CƯ nghe nó chỏi cái lổ tai làm sao ấy !. Nên, trước mắt tất cả báo đài đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, chớ không phải CHÚNG CƯ nữa, như CHUNG CƯ CAO CẤP Phú Mỹ Hưng chẳng hạn !  

 

                Trở lại với Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, thiết nghĩ giới Phật tử quần chúng bình dân đã quen miệng với các cách gọi thân thương là :


    - Quan Âm Bồt Tát,
  - Phật Bà Quan Âm,
  - Mẹ Hiền Quan Âm....


đã thành một Tập Quán Ngôn Ngữ rồi, nếu bây giờ phải gọi Bà Quan Âm là Bà QUÁN Âm thì nghe rất chướng tai và... không giống ai cả ! Nên, theo thiển ý thì...


     Khi tu tập hay khi nghiên cứu về giáo lý cao siêu của Phật Giáo thông qua các phép, các cách hay các con đường tu tập thì qúy Tỳ Kheo Đại Đức Thượng Tọa hay Hòa Thượng ... muốn gọi sao thì gọi, nhưng khi thuyết giảng giáo pháp trước quần chúng nhân dân thì nên giữ theo lối gọi truyền thống trước đây là QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, chứ đừng cho máy phóng thanh cứ oang oang là " QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT" như chọc vào tai của muôn vạn người nghe một cách bá đạo và khó chịu vô cùng !

       Trên đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân của người viết thông qua những phản ánh của bạn bè thân hữu chung quanh, xin chân thành gởi đến các vị chức sắc trong Giáo Hội Phật Giáo và quảng đại thiện nam tín nữ trong và ngoài nước để cùng nhau trao đổi và góp ý về tên gọi của một vị Bồ Tát rất gần gũi thân thương với tất cả chúng sinh còn chìm đắm trong biển khổ !

         Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát Ma Ha Tát !

 

                                                                                                                                                                           杜紹德
      Đỗ Chiêu Đức

___________________

 Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ 天有四時春在首, là "Trời có bốn mùa, XUÂN là mùa đứng đầu". XUÂN là chữ Hội Ý trong Lục Thư là một trong 6 cách hình thành chữ Nho, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

 

 

 

 

                

                     

Ta thấy :

            Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của bộ Thảo 艸 là Cỏ ở phía trên và chữ Đồn 屯 bên dưới tượng trưng cho các mầm non của cây cỏ nức đất vươn lên, bên cạnh là  hình tượng của chữ Nhật ㄖ là mặt trời là ánh nắng của mùa xuân giúp cho cỏ cây phát triển sau những ngày đông tháng giá; nên XUÂN 春 là mùa Xuân, mùa đầu tiên trong năm khi tiết trời trở lại ấm áp. Chưa có chữ NHO nào có diễn tiến phức tạp và thay đổi kiểu viết nhiều như chữ Xuân vậy. Có thể là do những ngày đông rét mướt vạn vật cỏ cây đều héo úa tàn tạ, vào xuân lại được dịp tái sinh, nên các mầm sống thi nhau phát triển, vì thế mà chữ viết cũng phát triển đa dạng theo như vạn vật đang hồi sinh chăng  ?! Mời xem diễn tiến chữ viết của chữ XUÂN qua các hình thức sau đây :

            

     

       

 

 

 

 

XUÂN là mùa đầu tiên trong năm, nên những ngày Lễ Hội đầu năm được gọi là XUÂN TIẾT  春節, là những ngày Lễ Tết của buổi đầu xuân, nên ta còn gọi "Ba ngày Tết" là "Ba ngày Xuân".  Đón Xuân là đón Tết, và "Ăn Tết" là để "Mừng Xuân". Tất cả những hoạt động của ngày Tết thường đều có chữ Xuân chen vào, như chợ bán hoa ngày Tết thì gọi là "Hội Hoa Xuân", đi dự hội ngày Tết thì gọi là "trẩy hội Xuân", đi lễ chùa ngày Tết thì gọi là đi "Lễ Xuân" như trong bản nhạc "Câu Chuyện Đầu Năm" của nhạc sĩ Hoài An :

 

                               Trên đường đi Lễ Xuân đầu năm ...

 

         Nói theo chiết tự thì chữ XUÂN được viết theo thứ tự : Chữ Nhất 一, chữ Nhị 二 rồi chữ Tam 三, xong chồng bộ Nhân 人 lên trên và phía dưới cùng là chữ Nhật 日.  Ghép tất cả các phần trên lại ta có chữ XUÂN 春. NHẤT là Thiên là Trời; NHỊ là Địa là Đất; TAM là NHÂN là Người, nói theo sách TAM TỰ KINH 三字經 là "TAM TÀI giả : Thiên Địa Nhân 三才者,天地人". Con Người là một thành viên hợp với Trời Đất tạo nên cái vũ trụ hỗn mang nầy, và khi mặt trời (NHẬT 日) bắt đầu ló dạng là vạn vật cũng bắt đầu phục sinh cho cuộc sống mới theo quy luật Âm Tiêu thì Dương Trưởng; đêm sẽ dần ngắn lại và ngày sẽ càng dài thêm ra; cây cỏ lá hoa đâm chồi nẩy lộc cho cuộc sống mới bắt đầu bằng màu hồng của những tia nắng xuân đầu tiên ấm áp để "Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng". 

               

         Nên từ đầu tiên ta có về mùa xuân là XUÂN QUANG 春光 là Ánh sáng  ấm áp của mùa xuân mang đến vẻ đẹp đẽ rực rỡ của cỏ cây hoa lá tươi hồng, nên để chỉ mùa xuân đẹp đẽ, ta có từ XUÂN HỒNG 春紅 như trong 4 câu thơ bất hủ mở đầu bài thơ "Tình Sầu" của thi nhân Huyền Kiêu thời Tiền Chiến :

 

                              XUÂN HỒNG có chàng tới hỏi

                              Em thơ, chị đẹp em đâu?

                              Chị tôi tóc xoã ngang đầu

                              Đi hái hoa tươi ngoài nội

 

          XUÂN HỒNG còn là sức sống và sự yêu đời như trong bài thơ nổi tiếng "Giây Phút Chạnh Lòng" của Thế Lữ :

 

                            Ta thấy XUÂN HỒNG thắm khắp nơi,

                            Trên đường rộn rã tiếng đua cười,

                            Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.

                            Cùng ngắm xuân về trên khóm mai...

                              

         Song song với XUÂN QUANG 春光 ta còn có từ XUÂN HUY 春暉 cũng chỉ ánh nắng ấm áp của mùa xuân mang lại sức sống cho cỏ cây, được ví như là công ơn của từ mẫu như trong bài thơ Du Tử Ngâm 遊子吟  của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường :

 

                         慈母手中线    Từ mẫu thủ trung tuyến              

                         遊子身上衣    Du tử thân thượng y                             

                         临行密密缝    Lâm hành mật mật phùng                       

                         意恐遲遲歸    Ý khủng trì trì quy             

                         誰言寸草心    Thùy ngôn thốn thảo tâm                

                         報得三春暉    Báo đắc tam XUÂN HUY

 

     

   Có nghĩa :

                        Kim chỉ trên tay từ mẫu,

                        Khâu nên áo lãng du nhân.

                        Khi đi chắc chiu từng mũi,

                        Sợ ngày về lắm lần khần.

                        Ai bảo nỗi lòng tấc cỏ,

                        Báo đền được nắng ba xuân ?!

 

          Khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha, cụ Nguyễn Du cũng đã cho Thúy Kiều cân nhắc thân phận của mình rồi mới quyết định :

 

                               Hạt mưa xá nghĩ phận hèn,

                          Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân !

 

          Xuân Quang, Xuân Huy, Xuân Hồng tạo nên XUÂN SẮC 春色 là Cảnh sắc đẹp đẽ của mùa xuân với thành ngữ XUÂN SẮC MÃN NHÂN GIAN 春色滿人間 là Cảnh sắc đẹp đẽ của mùa xuân đầy rẫy cả nhân gian. Mùa xuân đẹp đẽ không là của riêng ai, nhưng khi thấy ong bướm bay qua nhà hàng xóm thì lại đâm ra nghi ngờ, như hai câu cuối trong bài Vũ Tình 雨晴 của Vương Giá 王駕 đời Vãn Đường :                                 

 

                           蜂蝶紛紛過牆去,  Phong điệp phân phân qúa tường khứ,

                           卻疑春色在鄰家。  Khước nghi xuân sắc tại lân gia.

 

          Hai câu thơ nầy đã được nhà thơ Tiền Chiến Jean Leiba mượn ý diễn Nôm thật hay trong bài Mai Rụng như sau : 

 

                                Tơi bời ong bướm bay qua ngõ,

                            Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.

 

                   

 

          XUÂN SẮC phải là cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên bao la rộng lớn khi trời đã vào xuân, chớ không phải gò bó đóng khung trong một phạm vi đẹp đẽ nhỏ hẹp nào đó, vì Xuân Sắc là Sắc  đẹp của mùa xuân sẽ bức phá khỏi những phạm vi hạn hẹp như cành hoa Hồng Hạnh trong bài Du Viên Bất Trực 遊園不值 của Diệp Thiệu Ông 葉紹翁 đời Nam Tống :

 

                        春色滿園關不住,     XUÂN SẮC mãn viên quan bất trụ,

                        一枝紅杏出牆來。     Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.

    Có nghĩa :

                        XUÂN SẮC đầy vườn không giữ nổi,

                        Một cành hồng hạnh vượt tường ra !

 

          Vì 2 câu thơ nầy mà hình thành một thành ngữ XUẤT TƯỜNG HỒNG HẠNH 出牆紅杏 là "Hồng Hạnh Vượt Tường" để chỉ những nàng cô phụ không giữ nổi nỗi cô đơn mà "vượt tường" đi tìm tình yêu của lòng mình đang khao khát. 

                                         

          

          

       - XUÂN THIÊN 春天 là Trời đã vào Xuân, nên có nghĩa là MÙA XUÂN. Còn...

       - XUÂN NHẬT 春日 là Ngày xuân, là những ngày của mùa xuân. 

       - XUÂN TIÊU 春宵 là đêm xuân, là những đêm của mùa xuân. XUÂN TIÊU lại là tựa của một bài thơ nổi tiếng của Tô Đông Pha 蘇東坡, một trong Đường Tống Bát Đại Gia 唐宋八大家 với 2 câu thơ mở đầu bất hủ là :

 

                 春宵一刻值千金,   XUÂN TIÊU nhất khắc trị thiên kim,

                 花有清香月有陰.   Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm...

Có nghĩa :

                 Đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng,

                 Hoa thoảng hương thơm trăng mơ màng...

 

       Vốn dĩ Tô Đông Pha muốn nói rằng đêm xuân mát mẻ êm ả lại thoang thoảng mùi hương của hoa và lấp loáng mơ màng của bóng trăng chênh chếch. Đêm xuân đẹp là thế, êm đềm là thế, nên không nở đi ngủ, vì một khắc êm đẹp thoải mái của đêm xuân có giá trị đáng ngàn vàng ! Nhưng suốt cả ngàn năm nay người ta chỉ hiểu nghĩa của câu thơ với một ý khác. Cứ nghĩ đến tình yêu nồng thắm say đắm của nam nữ, của đôi vợ chồng son, của những người đang yêu nhau, của cô dâu và chú rể trong đêm tân hôn...thì "Đêm Xuân Một Khắc Giá Đáng Ngàn Vàng!" để trân trọng cái thời khắc của đêm xuân khi đôi lứa được ở bên nhau.

 

                           

       - XUÂN TỬU 春酒 là Rượu uống vàp dịp Tết để mừng Xuân. Khác với...

       - XUÂN DƯỢU 春藥 là Thuốc uống để khơi dậy lòng xuân, là thuốc kích dâm. 

       - XUÂN TÌNH 春情 là Tình cảm nảy nở trong mùa xuân, là tình yêu đối với mùa xuân, mà cũng làtình yêu trai gái nữa ; XUÂN TÌNH còn là tên một điệu hát cổ nhạc rất mượt mà ươt át;  nếu đổi chữ TÌNH có bộ NHẬT 日 là Mặt Trời thì XUÂN TÌNH 春晴 là Mùa xuân nắng ráo, là Nắng đẹp mùa xuân. Trong bài thơ tứ tuyệt Trúc Chi Từ 竹枝詞 của Lưu Vũ Tích 劉禹錫 đời Đường có nhắc đến 2 chữ TÌNH nêu trên một cách thật lý thú như sau :

 

                    竹枝詞                      TRÚC CHI TỪ 

               楊柳青青江水平, Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,

               聞郎江上唱歌聲。 Văn lang giang thượng xướng ca thinh.

               東邊日出西邊雨, Đông biên nhật xuất tây biên vũ,

               道是無晴卻有晴。 Đạo thị vô tình khước hữu tình !

 

   * Tình 晴 : Tình nầy là NẮNG RÁO, vì có bộ NHẬT 日 là Mặt Trời bên trái. Chữ nầy ĐỒNG ÂM với chữ Tình 情 là TÌNH CẢM, TÌNH Ý, có bộ TÂM 忄là Lòng Dạ cũng ở bên trái. Nên, HỮU TÌNH 有晴 là CÓ NẮNG, đồng âm với HỮU TÌNH 有情 là Có Tình Ý.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

      Dương liễu xanh xanh soi mình trên dòng nước phẳng lặng, ta nghe tiếng của chàng cất giọng hát trên sông. Mặt trời đang ló dạng ở phía đông với những tia nắng đầu ngày, nhưng phía bên trời tây lại đổ mưa rào, cho nên, bảo là không có nắng, nhưng lại có nắng, nói là không có tình, nhưng lại có tình ý thật thiết tha !

 

DIỄN NÔM :

                    Xanh xanh dương liễu soi dòng nước,

                    Vẳng tiếng chàng ca sóng lặng thinh.

                    Tây đổ mưa rào đông lại nắng,

                    Hữu tình người lại ngỡ vô tình !

      Lục bát :

                    Liễu xanh xanh nước mênh mang,

                    Trên sông nghe vẳng tiếng chàng hát ca.

                    Đông nắng Tây lại mưa sa,

                    Bảo là vô ý thì ra hữu tình !

 

            

 

       - XUÂN THỦY 春水 là Nước mùa xuân. Nước xuân trong vắt tựa ánh mắt của các cô thôn nữ mộc mạc ngây thơ như lời thơ của Thôi Ngọc trong Đường Thi :

 

              两臉夭桃從镜發, Lưỡng kiểm yêu đào tòng kính phát,

              一眸春水照人寒。 Nhất mâu XUÂN THỦY chiếu nhân hàn.

Có nghĩa:

                       Má đào ửng đỏ trong gương

             Một làn XUÂN THỦY vấn vương lòng người.

 

     XUÂN THỦY là ánh mắt xuân của các cô gái ngây thơ trong trắng, khác với THU THỦY 秋水 là ánh mắt gợn buồn đa sầu đa cảm của các giai nhân tài hoa bạc mệnh như Thúy Kiều :

 

                         Làn THU THỦY, nét XUÂN SƠN,

                  Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh!

 

     Làn THU THỦY 秋水 là làn nước mùa thu, trong veo, lạnh lùng mà se sắt dễ làm rung động và cũng dễ làm tê tái lòng người. Còn nét...

 

   - XUÂN SƠN 春山 là Núi của mùa xuân, xanh biếc và rạng rỡ tràn đầy sức sống và gợi cảm như đôi mày liễu của giai nhân, như cụ Nguyễn Du đã tả về nhan sắc của Thúy Kiều là "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh !". XUÂN SƠN tự ngàn xưa đã được ví như là đôi mày liễu xanh mơn mởn của các giai nhân với câu nói :

 

                眼如秋水,眉似春山。Nhỡn như thu thủy, My tự xuân sơn.

Có nghĩa :

         - Mắt long lanh như nước mùa thu, Mày xanh tươi như núi mùa xuân.

 

      

 

   - XUÂN TÂM 春心 là Lòng xuân, là tấm lòng tươi trẻ yêu đời và tràn đầy nhựa sống như mùa xuân của các cô XUÂN NỮ 春女 là các cô gái trẻ như lời bài hát Gái Xuân của Từ Vũ và Nguyễn Bính :

 

                          Em như cô gái hãy còn xuân,

                     Trong trắng thân chưa lấm bụi trần...

 

     Theo kinh Lễ Nhạc thì vào đời nhà Chu cứ đến tháng hai là tháng Trọng Xuân 仲春 thì cho phép cưới gả, nên các cô gái với tình xuân phơi phới cứ mong chờ cho đến tháng hai để được người mai mối đến dạm hỏi, nên gọi các cô là HOÀI XUÂN THIẾU NỮ 懷春少女, là những cô gái Hoài Xuân đang khao khát tình yêu, là những cô gái đang muốn chồng ! Trong Kinh Thi đời Tiên Tần chương Chiêu Nam 召南 có câu :

 

                   有女懷春,    Hữu nữ HOÀI XUÂN,

                   吉士誘之.    Cát sĩ dụ chi !

 Có nghĩa :

                     Có cô con gái HOÀI XUÂN,

                Các chàng xúm xít tỏ lòng ước ao !

 

        Mùa Xuân mang lại sự sống và sức sống cho muôn loài muôn vật sau những tháng rụi tàn vì đông hàn buốt giá, nên sức sống hồi phục trở lại gọi là HỒI XUÂN  回春 để chỉ cái gì đó tưởng đã chết đi nhưng rồi sống lại đều được gọi là HỒI XUÂN kể cả tình cảm tình yêu và thể chất thể xác của con người, nên ta mới có thành ngữ Lão Giả Hồi Xuân 老者回春 để chỉ những người đã già nhưng sức sống còn mạnh mẽ như lứa tuổi thanh niên. Ta có nhóm từ "Lứa Tuổi Hồi Xuân" vừa có ý tốt vừa có ý mĩa mai để chỉ những người đã đứng tuổi nhưng còn ham muốn dục vọng và sống như lứa tuổi thanh niên...

       Nhưng những ông thầy thuốc "mát tay", thầy thuốc giỏi có thể cải tử hồi sinh, cứu được người chết đi sống lại thì được xưng tụng là DIỆU THỦ HỒI XUÂN 妙手回春 là bàn tay khéo léo có thể làm cho người tưởng đã chết đi lại được sống trở lại, như Hoa Đà, Biển Thước và như Hải Thượng Lãn Ông của ta vậy.

      Ngày xưa các thư sinh sau mười năm đèn sách thì chỉ còn đợi những khoa XUÂN THÍ 春試 là những khoa thi được hai triều đại Minh và Thanh mở ra cho sĩ tử ứng thí vào các mùa xuân, như Kim Trọng và Vương Quan đã cùng thi đỗ trong một khoa XUÂN THÍ, nên trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã viết là :

 

                                    Chế khoa gặp hội tràng văn.

                         Vương, Kim cùng chiếm BẢNG XUÂN một ngày.

 

      Vì khoa thi được mở vào mùa xuân, nên bảng vàng đề tên các sĩ tử thi đỗ cũng được gọi là BẢNG XUÂN chữ Nho là XUÂN BẢNG 春榜, tức là LONG HỔ BẢNG 龍虎榜đó.      

    

            

  

      Ngày xưa thi đậu gọi là Bình Bộ Thanh Vân 平步青雲, ta gọi là Nhẹ Bước Thang Mây, cụ Nguyễn Công Trứ thì tỏ ra rất đắc ý với "Đường mây rộng thênh thang cử bộ"; còn Mạnh Giao đời Đường thì gọi là XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春風得意 trong bài thơ Đăng Khoa Hậu 登科后 là "Sau khi Đăng Khoa" với 2 câu cuối như sau :

 

                 春風得意馬蹄疾,   XUÂN PHONG ĐẮC Ý mã đề tật,

                 一日看盡長安花。  Nhất nhật khán tận Trường an hoa.

   Có nghĩa :

                      Gió xuân đắc ý ngựa phi mau,

                      Xem hết Trường an hoa đủ màu.

 

              

 

       Hai câu thơ trên còn để lại 2 thành ngữ cho đến hiện nay là XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春風得意 để chỉ sự vui vẻ đắc ý vì một thành đạt nào đó, và TẨU MÃ KHÁN HOA 走馬看花 mà ta gọi là CỞI NGỰA XEM HOA để chỉ việc gì đó chỉ làm lấy có, làm hoa loa cho xong việc mà thôi.

 

       Đón xuân, mừng xuân, chúc cho tất cả mọi người đều XUÂN PHONG ĐẮC Ý 春風得意 và cả năm luôn luôn được MÃN DIỆN XUÂN PHONG 滿面春風 là mặt mày luôn luôn tươi vui như đang chào đón gió xuân vậy.  

 

    杜紹德

  Đỗ Chiêu Đức  

DCD_ChuXuan4.JPG
dcd_Thien.jpg

Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn, Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy 人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。( TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy !

Nên ...

Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事  ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự  ) thành chữ ĐẠI 大 ,  theo diễn tiến của chữ viết sau đây :

                                                Ta thấy :

          Theo như Giáp cốt văn và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地 " như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :


                               ĐỘI TRỜI đạp đất ở đời,
                       Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
Nên ...
         Chữ Thiên 天 chỉ phần cao nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đĩnh đầu cao vòi vọi, đó là Trời.

 

          Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời, lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天 mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

 

         Nên ...             

         PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ, hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành người hôn phối của mình, nên ...
        PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng 夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để  lên đường lập nghiệp ....


                                   Nửa năm hương lửa đang nồng,
                        TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương.

 

         Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ....
... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là :

 

                               Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc,
                               Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!

 

         Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú và lí lắt như sau :

         Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
        Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :

 

                              Duyên trời nào thấy đâu run rủi,
                              Phận gái sao đà đã có con ?

 

        Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng Vàm Xán Phong Điền... quê tôi, lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng :


                               Không chồng có chửa mới ngoan,
                           Có chồng có chửa thế gian sự thường !

 

        Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy" ?!

 

        Thiên 天 là Trời, chữ đầu tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :

 

        天 Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn, 子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà, 國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...

                    
       
Thiên 天 là Trời, là phần không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích Đạo, thì Trời là thế giới của cỏi trên, có đủ các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu :

                      - Vui qúa Trời !

                      - Buồn qúa Trời !

                      - Sướng qúa Trời !

                      - Khổ qúa Trời !....

          Vui buồn sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa Trời ! Nhỏng nhẻo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi !... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc  ...  qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều, khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên :

 

                                  Trời làm chi cực bấy Trời,

                            Này ai vu thác cho người hợp tan !?

 

hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :

                    

                                 Vương Bà nghe bấy nhiêu lời, 
                            Nỗi oan đã muốn vạch Trời kêu lên.

  

hay khi bị Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã kêu trời :

 

                             Nàng rằng : Trời nhé có hay !

                             Quyến anh rủ yến sự này tại ai ?

                             Đem người đẩy xuống giếng khơi,

                             Nói lời rồi lại ăn lời được ngay !

                                         

        Thiên 天 là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : "Coi chừng tao cú cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành "cứng đầu cứng cổ"!.

 

               

 

       

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang Tử Thử Vợ", thì  Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái đầu với nội dung  câu truyện như sau :

 

         Trang Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô ! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng : " Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫 ". Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn.. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :

 

           從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
          你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
          若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
          怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.
Có nghĩa :
             Từ nay đã hết nợ oan gia,
             Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
             Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
             Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

 

        Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.

 

         "Phủ phách Thiên Linh Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện "Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ", của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế !?

 

        Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN 天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理 là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ như :  

     - Thiên Lương 天良: là Tấm lòng lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu Trời " để nói thác :


             Trời rằng : " Không phải là Trời đày,
             Trời định sai con một việc này
             Là việc "thiên lương" của nhân loại,
             Cho con xuống thuật cùng đời hay"... 


   - Thiên Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có 2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ, một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.       

                                

     Biểu tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời !

 

   - Thiên Võng 天網: là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu nói sau đây :


              Chủng qua đắc qua,     種瓜得瓜,
              Chủng đậu đắc đậu.     種豆得豆,
              Thiên võng khôi khôi,   天網恢恢,
              Sơ nhi bất lậu !            疏而不漏。

Có nghĩa :
              Trồng dưa thì được dưa,
              Trồng đậu thì được đậu.
              Lưới trời lồng lộng,
              Tuy thưa nhưng không lọt !
     Ý muốn nói, gieo nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà thôi !

 

 

      Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :


            Nhân hữu thiện nguyện,   人有善願,
            Thiên tất hựu chi !            天必祐之!
Có nghĩa :
            Người mà có những ước nguyện tốt lành, thì...
            Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !

 

    - Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...

 

   - Thiên Bẩm 天禀, Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người nào đó mà người khác không thể có được. Như cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :


                    Thông minh vốn sẵn Tư Trời,
                Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.


           Tư Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !

 

      Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho Trời, và được gọi là  Thiên Nhiên 天然, ví dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc, đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :


          Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ,       天有四時春在首,
          Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên.  人生百行孝為先。
Có nghĩa :
          Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu, còn...
          Người thì có cả trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.

 

           Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói :


                Trời kia đã bắt làm người có thân,
                Bắt phong trần phải phong trần,
                Cho thanh cao mới được phần thanh cao


      Bỉ sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước, rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :


              Trời còn để có hôm nay,
              Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
              Hoa tàn mà lại thêm tươi,
              Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !


        Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !

 

        Còn giới bình dân thì không khách sáo gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :
           - Trời sanh trời nuôi.
           - Trời sanh voi sanh cỏ !
     Tội nghiệp cho ông trời, cứ đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng... nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả giàu có nữa là đằng khác ! Các Thầy Đồ ta ngày xưa thường nói :


                Hữu nhi bần bất cửu,      有兒貧不久,
                Vô tử phú bất trường.     無子富不長。
Có nghĩa :
             Có con thì nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải.. Còn ...    Không có con thì giàu không bền, vì không có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ thả giàn !

      

      Thiên 天 là Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mở của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下, có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ sau đây : 

 

                  Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。Có nghĩa :


   " Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...
     Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến vòng chung kết vậy ! Nên...   
     Thiên Hạ là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mở với dân cư đông đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !

 

       Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng Đại Quần Chúng...như :
     - "Thiên hạ" đồn rằng...
      - Đó là chuyện của "thiên hạ", đâu phải chuyện của mình.
      - Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...

      Ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc" cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng :
                    Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba,
                    Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
                    Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
                    Việc gì mà thức một mình ta ?!

 

       Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cỏi Ta-Bà, là bể khổ trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu : Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊, có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我, là Pháp Thân 法身 thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy ! Chính cái Phật Tánh đó là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ.

 

     Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ, nhưng lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của bà ta răm rắp .  

 

       Còn Thiên Hạ của Đạo Giáo 道教 (Lão Giáo) là Cỏi Hồng Trần 紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc là :
                     Cái quay búng sẵn trên trời,
                Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !
nên con người phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống thực ở trên trời, tức là thành Tiên để về nơi Thượng Giới !

 

       Thiên Hạ của ngày nay là Năm Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng Ấu :

 

               ... Người bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
                  Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
                  Đi cho biết đó biết đây,
                  Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!

 

       Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày, nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜 là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai...  

        Thiên còn có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨 là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天 là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :
                   Tứ thời vô xuân hạ,         四時無春夏,
                   Nhất vũ tiện thành thu.   一雨便成秋。
Có nghĩa :
            Bốn mùa không có xuân hạ gì cả, hễ...
            Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !

 

        Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天. Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."

 

   

 

 

 

 

                             


       Ý nói : Vua thì coi dân là cần thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先, có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN 天 là Trời, là Cao nhất, là Cần thiết nhất.  

 

       Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới 18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa !   

      Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天, ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn Dũ đời Đường :
            Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên,   一封朝奏九重天,
            Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên.        夕貶潮陽路八千 .
Có nghĩa :
            Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
            Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.

 

            Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua, còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :


               Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
               Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
               CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
               Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

 

       Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào đó, như Thúy Vân đã phân bua :


                       Cơ Trời dâu bễ đa đoan,
               Một nhà để chị riêng oan một mình !


       Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa 天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa : Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp của con người. Ví dụ như :    

        Fifa World-cup 2018 kỳ rồi tổ chức ở Russia, nên đội bóng Nga có lợi thế về THIÊN THỜI là đã quen với thời tiết giá lạnh của xứ mình; ĐỊA LỢI vì được đá ở sân nhà; NHÂN HÒA vì có cổ động viên đông nhất so với các đội bóng khác. Nên đội Nga đã thắng đậm ngay trận đầu 5-0 trước Saudi Arabia và đi một lèo đến Tứ Kết, trở thành 8 đội bóng mạnh nhất hành tinh ! 

 

          Thiên thời 天時, Địa lợi 地利, Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường 天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :
     * Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là Thiên Thời đó.
     * Địa Nghi 地宜 : là cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó. 
     * Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được suông sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là Nhân Hòa đó.

 

       Nhưng đối với bà con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :

 

                     " Thiên tường tác biệt hựu thu sương ".

Có nghĩa là :  " Thương tiền, Tiếc bạc lại Thương xu ".

 

        Có một câu chuyện vui kể rằng : Có ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà tiện tới mặt không !".

   

       Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên Lý  đã được đề cập ở phần đầu bài viết nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời, như câu : 


                     Tử sinh hữu mệnh,   死生有命,
                     Phú quý tại thiên.     富貴在天.
Có nghĩa :
                Chết sống đều có số mạng,
                Giàu sang là do trời ban.
  ... và không phải ai cũng được trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được, như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng là :  


               Mưu sự tại nhân,                       謀事在人,
               Thành sự tại thiên.                    成事在天,
               Nhân nguyện như thử như thử,  人願如此,如此,
               Thiên lý vị nhiên vị nhiên !         天理未然,未然!

Có nghĩa :
              Mưu tính công việc là ở người, còn...
              Thành công hay thất bại là do trời,
              Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây, nhưng...
              Cái lẽ trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được ! 

 

                    Gia Cát Khổng Minh là người giỏi cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại, cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã nêu trên.

 

       Con người khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc sống thì gọi là BiThiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年, là những ngày tháng của Trời ban cho.


     Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được vui  hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời trong cuộc sống !

 

                                                                                                杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

DCD_Thien4.JPG
DCD_THo.JPG

THỔ 土 là ĐẤT, đất là ĐỊA 地, trong chữ Địa có Bộ Thổ, nên Địa cũng là Đất. Ta có từ kép Thổ Địa 土地 là Đất Đai. Thổ cũng thuộc một trong 214 bộ của CHỮ NHO... DỄ HỌC, theo diễn tiến của chữ viết như sau :


         

 

 

 

 

 

 

 

 

Ta thấy :
        Từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Triện đều là hình tượng của một mô đất trên mặt đất, nên Thổ vừa là chữ Tượng Hình vừa là chữ Chỉ Sự, chỉ một đống đất trên mặt đất, đến Tiểu Triện thì các nét mới được kéo thẳng ra thành biểu tượng của chữ viết, cho đến Chữ Lệ thì mới hoàn chỉnh như chữ viết hiện nay THỔ 土 là ĐẤT.

 

         Có tất cả 463 chữ được ghép bởi bộ Thổ nầy để chỉ những gì có liên quan đến Thổ là Đất. Ta có các từ về Thổ là Đất rất lý thú và cũng không kém phần rắc rối như sau :


  - Thổ Địa 土地 : là Đất Đai, chỉ tất cả các loại đất trên đời nầy.
  - Thổ Nhưỡng 土壤 : cũng là Đất Đai, chỉ tất cả các loại đất dùng để trồng trọt.
  - Thổ Cư 土居 : chỉ tất cả các loại đất dùng để ở.
  - Thổ Canh 土耕 : là tất cả các loại Đất dùng để canh tác, làm ruộng.
  - Thổ Trạch 土宅 : là tất cả các loại Đất dùng để cất nhà ở, biệt thự.
  - Thổ Mộ 土墓 : là tất cả các loại Đất dùng để chôn cất người trong gia tộc, còn gọi là Đất Hương Hỏa, là đất dùng để lo nhang đèn hương khói cho người thân đã chết.   

 

          Theo Tử Vi đẩu số ta còn có 6 loại đất sau đây :


  * Lộ Bàng Thổ 路旁土 : Đất bên đường.
  * Thành Đầu Thổ 城頭土 : Đất đầu thành.
  * Ốc Thượng Thổ 屋上土 : Đất trên mái nhà.
  * Bích Thượng Thổ 壁上土 : Đất trên vách.
  * Đại Trạch Thổ 大澤 土 : Đất trong đầm lầy lớn.
  * Sa Trung Thổ 沙中土 : Đất trong cát.
  và...
          Mặc dù Mộc khắc Thổ, cây cối mọc lên hút hết chất bổ của đất làm cho đất trở nên cằn cỗi, và cây gỗ để ở dưới đất lâu ngày sẽ bị đất làm cho mục nát hết. Cái nầy kêu bằng tương khắc với nhau, nhưng...
          Lộ Bàng Thổ (đất ven đường), Đại Trạch Thổ (Đất trong đầm lầy lớn) và Sa Trung Thổ (Đất pha cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường cái quan hay trên bãi cát, đầm lầy. Cả ba hành Thổ này nếu gặp Mộc không khắc dù Mộc khắc Thổ, trái lại còn có đường công danh, tài lộc thăng tiến không ngừng.

          Thành Đầu Thổ (Đất đầu thành), Bích Thượng Thổ (Đất trên vách) và Ốc Thượng Thổ (Đất mái nhà) đều sợ Mộc, nhất là Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc, như thân tự chôn xuống mộ. Ba hành Thổ này tuy không sợ Bình Địa Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bách Mộc nhưng không bền vững vì hình kỵ.

 

                     

          

         

 

 

 

 

 

   Thổ là Đất, giá trị của đất tăng theo tỉ lệ thuận với số lượng của đất, chưa có một vật chất nào có giá trị từ số không, rồi sau đó cứ tăng dần đến vô tận như đất cả ! Hốt một nắm đất cho không, không ai thèm lấy cả, mặc dù họ không có đất để cắm dùi, nhưng nếu cho một vuông đất để che chòi ở, để cất nhà, thì không ai nở... từ chối cả ! Và cứ thế tăng dần, một công đất để trồng rẩy, một mẫu đất để cày ruộng... cho đến một xã, một làng, một huyện, một tỉnh, một nước... giá trị của đất cứ tăng mãi đến vô cực là... Trái Đất, là cả Quả Địa Cầu nầy !  

 

        Ông bà ta nói:
                  Tiền tài như phân thổ,        錢財如糞土,
                  Nhân nghĩa trị thiên kim.    仁義值千金。
Có nghĩa :
           Tiền của tài sản như phân như đất,
           Nhân nghĩa mới đáng giá ngàn vàng.
là ý ông bà muốn đề cao nhân nghĩa mà xem nhẹ tiền tài, tiền tài chỉ như phân như đất mà thôi, cũng như lời cô Kiều đã nói với Kim Trọng khi biết Kim đã nhặt được chiếc kim thoa của mình :


                        Chiếc thoa là của mấy mươi,
                 Mà lòng trượng nghĩa khinh tài xiết bao !

 

         Nhưng người đời thường xem trọng kim tiền hơn nhơn nghĩa, nên câu nói trên còn được bà con bình dân  sửa lại một cách mĩa mai như sau :


                     Tiền tài như.... ông tiên tổ,
                     Nhơn nghĩa tợ... cục cứt khô !


        Ông bà ta lại dạy rằng : "Tấc đất là tấc vàng" để con cháu biết quý trọng cái cuộc đất mà ta đang sở hữu, nếu biết sử dụng đất một cách thích đáng, biết bỏ công sức lao động canh tác trồng trọt, thì "tấc đất sẽ cho một tấc vàng" như chơi mà thôi !


       Nhớ khi xưa cái miếu Thổ Địa ở đầu làng quê tôi có đôi câu đối như sau :

 

                     THỔ năng sanh bạch ngọc,       土能生白玉,
                    ĐỊA khả xuất hoàng kim.          地可出黃金。
Có nghĩa :
              Đất có thể sanh ra ngọc trắng, và
              Đất cũng có thể cho ra vàng ròng !


      Hạt ngọc trắng ở đây chính là hạt gạo trắng ngần đã nuôi sống chúng ta hàng ngày, còn vàng ròng sẽ có được nếu chúng ta chịu cày sâu cuốc bẫm. Đất chẳng những cho ta chỗ ở, cho ta việc làm, còn cho ta cái ăn cái mặc nữa, nên ông bà ta rất coi trọng đất và luôn quan niệm rằng : " Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá ". Thổ Công là ông thần đất, còn được gọi là Thổ Thần, nên khắp cả các thôn làng, nơi nào cũng có Thổ Công của nơi đó, và ông thần đất nầy cũng luôn luôn được cúng tế đầy đủ ở bất cứ lễ lạc nào. Trong Truyện Kiều tả lúc Bạc Hạnh thành thân với cô Kiều, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :    

               
                               Bạc sinh qùy xuống vội vàng,
                     Qúa lời nguyện hết Thành Hoàng Thổ Công.


     Câu đối thường thấy nhất của các miếu Thổ Thần ở vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh quê tôi là :


                      土旺人從旺,     Thổ vượng nhân tòng vượng,
                      神安宅自安。     Thần an trạch tự an.
Có nghĩa :
            Đất có vượng thì người cũng sẽ vượng theo, và...
            Thần có được yên ổn, thì nhà cũng sẽ tự nhiên được yên ổn mà thôi !

 

       Thổ ngoài nghĩa là Đất ra, còn có nghĩa là : Cái gì đó thuộc về bản xứ, bản địa. Ta quen miệng gọi là đồ lô-can (local). Bây giờ thì Thổ được sử dụng như là một Hình Dung Từ (Tính Từ), như :


  - Thổ Dân 土民 : Dân cố hữu của một địa phương hay của một vùng nào đó. Ví dụ : Thổ Dân của Châu Mỹ là những Bộ tộc mọi Da Đỏ chẳng hạn...
  - Thổ Sản 土產 : là Đặc sản riêng của một vùng nào đó , Như Thổ Sản của Lái Thiêu là Sầu Riêng chẳng hạn...

  - Thổ Cẩm 土錦 : là Gấm được dệt ở địa phương, là Gấm nội hóa.
  - Thổ Âm 土音 : là Tiếng nói và Âm sắc riêng của địa phương nào đó. Như Giọng Bắc, Giọng Huế, Giọng Nam của ta vậy...
  - Thổ Hào 土豪 : là Cường hào ác bá ở địa phương.
  - Thổ Phỉ 土匪 : là các phe nhóm băng đảng cướp bóc ở địa phương.
  - Thổ Công 土公 : là Ông Thần Đất của địa phương nào đó như ta đã nói ở trên...

  - Thổ Quan 土官 : là Ông quan ở địa phương, như Trưởng thôn, Trưởng Làng, hay cao hơn là Tri Châu, Tri Huyện... Như trong Truyện Kiều, Hồ Tôn Hiến sau khi ngủ với Thúy Kiều một đêm rồi sợ mang tiếng " Quan trên ngó xuống người ta trông vào ", nên sáng ngày mới ép nàng lấy Thổ Quan : 


                            Lệnh quan ai dám cãi lời,
                     Ép tình mới gán cho người Thổ Quan.

 

        Thổ còn là cái Phong Thổ 風土, là phong thủy thổ nhưỡng, phong tục tập quán, là nếp sống của một địa phương nào đó, mà người ta thường gọi là Phong Thổ Nhân Tình 風土人情, Đi đến đâu, ta cũng phải tìm hiểu cái phong thổ nhân tình của nơi đó để dễ dàng hòa nhập vào nếp sống của địa phương đó.

       Ngoài Phong Thổ, ta còn có Thủy Thổ 水土, là Nước và Đất của một nơi nào đó kể cả khí hậu thời tiết nắng mưa của nơi đó luôn. Nếu không hợp với Thủy Thổ của nơi đó sẽ làm cho con người sanh ra bệnh hoạn, súc vật thì gầy còm, cây cỏ thì èo ọt... như câu chuyện ứng đối lý thú của Tướng quốc nước Tề với vua nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc như sau :

      
      Yến Anh 晏嬰, còn được gọi là Án Anh, người đời sau tôn trọng ông, nên còn gọi là Án Tử, ông sinh năm 578 TCN ở Sơn Đông, mất năm 501 TCN ở Truy Bác, tự Bình Trọng là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, sống và làm quan ở hai triều vua Tề Trang Công và Tề Cảnh Công thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông có dáng thấp nhỏ như đứa bé, nhưng có trí tuệ thông minh và là một vị quan có tài ứng đối giỏi của nước Tề.

       Một lần Án Tử vâng lệnh vua Tề đi sứ sang nước Sở. Vua Sở định làm nhục để thử tài của Án Tử, nên sau khi ban rượu, thì cho lính dẫn một người bị trói đi ngang qua. Vua Sở mới hỏi là người đó phạm tội gì ? Lính đáp, đó là một người ở nước Tề, phạm tội ăn trộm ngựa. Vua Sở bèn cười mà quay sang hỏi Án Tử là : "Người nước Tề hay ăn trộm lắm hay sao ?". Án Tử mới đứng dậy chắp tay thưa rằng : "Thần nghe nói, cây quít trồng ở phương bắc thì cho trái to và ngọt, nhưng khi đem trồng ở phương nam thì lại cho trái nhỏ và chua, là bởi vì đâu ? Đó là đều do Thủy Thổ mà ra cả ! Nay người nước Tề ở nước Tề thì không trộm cắp, sang qua ở nước Sở lại sinh ra trộm cắp, thần nghĩ chắc cũng do cái Thuỷ Thổ bất đồng mà sinh ra như thế chăng ?! ". Vua Sở cười rằng : " Ta vì muốn nói chơi mà bị nhục ! ". Thế mới biết kẻ cả không nên nói chơi bao giờ !

 

           Thổ là Đất, mà đất còn là quê hương đất nước. Cố Thổ 故土 là Cố Hương 故鄉, là quê cũ, quê xưa, quê nhà , là Cố Quốc 故國, là nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi mà ta được sinh ra và lớn lên, như trong bài Độ Long Vĩ Giang 渡龍尾江 của cụ Nguyễn Du :


                   故國回頭淚,   Cố quốc hồi đầu lệ,
                   西風一路塵。   Tây phong nhất lộ trần.
Có nghĩa :
                       Ngoảnh đầu quê cũ lệ rơi,
                  Dọc đường cát bụi tơi bời gió tây.


        Ngoảnh đầu trông lại quê hương mà khôn ngăn hai hàng lệ nhỏ. Lại thêm gió tây thổi suốt dọc đường gió bụi. Vừa qua khỏi sông Long Vĩ thì thân ta đã là người tha hương rồi... Trong Truyện Kiều, tả lúc Hoạn Thư bắt Kiều về làm nô tì, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :

 

                        Lâm truy chút nghĩa đèo bòng,
                       Nước non để chữ tương phùng kiếp sau.
                       Bốn phương mây trắng một màu,
                       Trông vời CỐ QUỐC biết đâu là nhà.


... và như lời than của một cung nhân đời Đường qua lời thơ của Trương Hỗ 張祜 là :


                  CỐ QUỐC tam thiên lý,          故國三千里,
                  Thâm cung nhị thập niên.    深宮二十年.
Có nghĩa :
                  QUÊ CŨ ba ngàn dặm,
                  Thâm cung hai mươi năm !


       Cách xa quê hương ba ngàn dặm và bị nhốt trong cung hai mươi năm thì còn gì là tuổi xuân nữa ! Trông người lại ngẫm đến ta, chúng ta đã lưu vong ở Mỹ trên bốn mươi năm và cách xa quê hương trên hai mươi ngàn dặm, chỉ còn đợi gởi nắm xương tàn nơi " Ngoại Thổ 外土" mà thôi !

 

        Theo Ngũ hành Sinh khắc thì Thổ khắc Thủy, có nghĩa là Đất khắc chế được Nước. Nói theo binh pháp ngày xưa là Binh đến thì Tướng ngăn, Nước đến thì Đất ngăn như cụ Đào Duy Từ  đã khuyên Chúa Sãi không nhận sắc phong của vua Lê do Chúa Trịnh áp đặt, với diễn tiến câu chuyện như sau :

 

      Năm 1627, chúa Trịnh Tráng muốn lấn vào Nam bèn sai Nguyễn Khắc Minh đi sứ, mang tiếng là phong tước cho chúa Nguyễn nhưng đồng thời cũng để dò xét tình hình đàng trong. Lúc bấy giờ Đào Duy Từ là Tham Tán bèn khuyên chúa Nguyễn che giấu lực lượng và tạm nhận phong để hòa hoãn với chúa Trịnh. Chúa Trịnh cũng đồng thời đòi chúa Nguyễn cho con ra Bắc chầu, nộp 30 voi đực và 30 chiến thuyền để đi cống nhà Minh bên Trung Quốc, Duy Từ khuyên là không  thực hiện rồi bày kế cho chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục để phòng thủ, với ý là Binh đến thì Tướng ngăn, Nước đến thì Đất ngăn . Chúa Nguyễn nghe theo và thực hiện ngay.

       Về việc sắc phong, vào năm 1630 Duy Từ cho người làm một cái mâm đồng hai đáy bên trong đựng sắc của chúa Trịnh, trên phủ lụa vàng rồi sai Trần Văn Khuông đi sứ. Trần Văn Khuông theo lời Duy Từ dặn dò, đối đáp, dâng mâm cho chúa Trịnh, rồi kiếm cớ trốn về. Chúa Trịnh thấy sứ đoàn vội vã đi về, sinh nghi, bèn cho lục mâm đồng thì thấy tờ sắc của mình trước đó còn có kèm theo một bài thơ như sau :

                  Mâu nhi vô dịch,          矛而無剔,

                  Mịch phi kiến tích.        覔非見迹.

                  Ái lạc tâm trường,        愛落心腸,

                  Lực lai tương địch!        力來相敵 !

Có nghĩa :

                Cây mâu mà không đâm, không khều.

                Tìm mãi mà không thấy tung tích gì cả.

                Thương đến nỗi rớt cả lòng dạ ruột gan.

                Nếu dùng sức mạnh đến đây, thì sẽ đối địch với nhau mà thôi !


        Cả triều không ai hiểu là ý muốn nói gì ?!. Giai thoại kể rằng :

         Chúa Trịnh cho mời Phùng Khắc Khoan (1528 -1613, trong khi sự kiện này xảy ra năm 1630 nên không chính xác) đến hỏi thì mới vỡ lẽ, trong chữ Hán cổ, chữ MÂU 矛 viết không có dấu phết thì thành chữ DƯ 予, nghĩa là ta; Chữ MỊCH 覔 mà bỏ chữ KIẾN 見 chỉ còn lại chữ BẤT 不 nghĩa là không. Chữ ÁI 愛  nếu viết thiếu chữ TÂM 心 thì ra chữ THỤ 受 nghĩa là nhận.  Chữ LỰC  力 ghép với chữ LAI 來 sẽ thành chữ SẮC 勑  là sắc phong. Ghép 4 chữ của bốn câu trên lại ta có câu :

      Dư Bất Thụ Sắc 予 不 受 勑 ( Có nghĩa là : Ta không nhận sắc phong ). Chúa Trịnh hiểu ý là Chúa Nguyễn trả lại sắc phong, nổi giận, cho người đuổi theo sứ đoàn của Chúa Nguyễn, thì cả sứ đoàn của Trần Văn Khuông đã đi xa rồi !

      Chuá Trịnh cả giận cử binh hỏi tội, nhưng đụng phải lũy Trường Dục của Đào Duy Từ, nên bị Chúa Nguyễn đánh cho thua chạy tơi bời ! 

                  

 

         Đào Duy Từ được tiếng là nhà chính trị quân sự, vừa là thầy giáo, vừa là bậc khai quốc công thần lớn nhất của 9 đời Chúa Nguyễn và 13 đời vua nhà Nguyễn, trong khi Gia Cát Lượng chỉ phò trợ có 2 đời Thục Hán mà thôi !

 

         Thổ là Đất, mà Đất còn là Nước, ta có từ kép Đất Nước để chỉ Lãnh thổ 領土 của một quốc gia, còn được gọi là Quốc Thổ 國土, Cương Thổ 疆土 là phần đất ở sát biên cương với nước láng giềng mà ta có được, nói theo lịch sử của thời phong kiến, thì đó là Hoàng Triều Cương Thổ 皇朝疆土 là đất của vua , đất của triều đình. Hoàng Triều Cương Thổ lớn nhất, mở mang nhất nước ta là dưới thời vua Minh Mạng, tiêu diệt và đồng hóa Chàm (Champa), lấn chiếm Chân Lạp (Campuchia), sát nhập đất Phù Nam (Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau) để có được bản đồ hình cong chữ S như hiện nay. Nên, không có Đất là không có Nước, dân không có đất là dân vong quốc, chính quyền không có đất là chính quyền lưu vong, sẽ không làm nên trò trống gì cả ! Từ đó cho thấy ĐẤT quan trọng biết chừng nào ! Nhưng, nếu chính quyền lưu vong mà lập quốc được như dân Do Thái, thì chữ Nho gọi là "Quyển thổ trùng lai 卷土重來" Có nghĩa là : Cuốn đất mà trở lại, theo như ý của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt "Đề Ô Giang Đình 題烏江亭" của Đỗ Mục 杜牧 khi đến bến Ô Giang nơi mà Hạng Võ Sở Bá Vương đã tự sát :


             勝敗兵家事不期,     Thắng bại binh gia sự bấtkỳ
             包羞忍恥是男兒.       Bao tu nhẫn sĩ thị nam nhi
           江東子弟多才俊,     Giang Đông tử đệ đa tài tuấn
             捲土重來未可知。     Quyển thổ trùng lai vị khả tri !

Có nghĩa :
                  Thắng bại chuyện binh ai biết trước ,
                  Làm trai nhịn nhục cứ dửng dưng.
                  Giang Đông tuấn kiệt còn đầy rẫy,
                  Cuốn đất làm nên chửa biết chừng !


       Ý của Đỗ Mục là : Nếu như Hạng Võ cố chịu nhục mà về Giang Đông chiêu mộ thêm anh tài còn đầy rẫy nơi đó mà phất cờ đánh lại Lưu Bang, thì chưa biết chừng đã làm nên cơ nghiệp lớn ! Cũng như Nhà nước Israel hiện đại đã được hoàn thành năm 1948 sau hơn 60 năm nỗ lực của các nhà lãnh đạo phái Zion (Chủ nghĩa lập quốc Do Thái) nhằm thiết lập chủ quyền và quyền tự quyết trên một Tổ quốc Quốc gia Do Thái vậy.

                

              Thổ là Đất, Nhất Phầu Hoàng Thổ 一抔黃土 là Một nấm đất vàng, thường dùng để chỉ một nấm mộ, nhất là những nấm mộ hoang như của Đạm Tiên :


                             Xè xè nấm đất bên đường,
                      Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.


         Còn sống thì phong lưu tiêu sái, hương trời sắc nước, nguyệt thẹn hoa nhường hay sự nghiệp lẫy lừng, danh vang bốn bể, anh hùng cái thế ... Nhưng khi chết đi rồi thì tất cả cũng đều vùi chôn dưới một nấm đất vàng ô trọc mà thôi ! Nên chi, Tào Tuyết Cần mới cho người đẹp u sầu muôn thuở Lâm Đại Ngọc chôn xác hoa rơi với "Nhất Phầu Tịnh Thổ 一抔淨土" là một nấm đất tinh khiết không ô nhiễm bụi trần :

          Người đẹp Lâm Đại Ngọc 林黛玉 trong Hồng Lâu Mộng 紅樓夢 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹, là người đẹp đa sầu đa cảm đa tài, rất giỏi về văn thơ đã thương khóc cho những cánh hoa rơi như thương cho thân phận của chính mình, rồi chôn hoa, rồi ngâm thơ điếu hoa hẵn hoi với bài TÁNG HOA NGÂM 葬花吟 với những lời thơ thật đẹp như sau :


             ... 願儂此日生雙翼﹐      Nguyện nông thử nhật sanh song dực,
                 隨花飛到天盡頭         Tùy hoa phi đáo thiên tận đầu.
                 天盡頭!何處有香丘﹖Thiên tận đầu ! Hà xứ hữu hương khâu ?
                 未若錦囊收艷骨         Vị nhược cẩm nang thu diễm cốt,
                 一抔淨土掩風流﹐      Nhất phầu tịnh thổ yễm phong lưu !...

Có nghĩa :
       Ước gì hôm nay ta chắp được đôi cánh, để cùng với các cánh hoa rơi bay đến tận cuối chân trời. Ở nơi cuối chân trời kia, không biết là nơi đâu có mồ hoa thơm đẹp. Ta chưa kịp may túi gấm để thâu táng thân xác đẹp đẽ của hoa, thôi thì đành mượn một nắm tịnh thổ để vùi chôn một kiếp phong lưu diễm lệ !....
      Lục bát :
                  .... Theo hoa bay đến cuối trời,
                 Chắp đôi cánh đẹp rạng ngời như hoa.
                       Cuối trời xa, cuối trời xa !...
                  Tìm hương mộ đẹp la đà xác thơm.
                       Chưa may túi gấm chiều hôm,
                  Vùi nông một nắm tủi hờn phong lưu !....
             

                   

             Người xưa để lại một câu nói ý vị sâu xa để khuyên răn người đời là :


                       Đản tồn phương thốn thổ,      但存方寸土,
                       Lưu dữ tử tôn canh.               留與子孫耕。
Có nghĩa :
          Làm sao cũng phải chừa lại một tấc đất nào đó, để cho con cháu sau nầy có đất mà canh tác.


      Một tấc Ta ngày xưa chưa bằng được ba phân Tây bây giờ, thế thì một tấc đất làm sao mà canh tác ?! À, thì ra câu nói còn có " ý tại ngôn ngoại ". Đất là một thực thể chứng minh cho sự sở hữu ngày xưa, ai chiếm hữu đất nhiều thì người đó sẽ giàu có, sẽ là chủ đất đầy quyền uy. Nên đất được mượn để chỉ mọi vật chất qúy giá và khi dùng rộng ra thì chỉ cả những giá trị tinh thần nữa. Như câu "Quảng chủng phước điền 廣種福田" có nghĩa : Trồng cho rộng ra mảnh ruộng phước đức. Ruộng Phước đức không phải là mảnh ruộng có thật, mà là muốn khuyên ta nên làm nhiều chuyện phước để "để đức" lại cho con cháu. Nên câu nói " Đản tồn phương thốn thổ, lưu dữ tử tôn canh " có ý khuyên ta :


  - Làm việc gì đó, đừng qúa cạn tàu ráo máng, đừng qúa tuyệt tình, hãy chừa một chút gì đó để lại cho con cháu về sau. Như đừng qúa cậy thế hiếp người, đừng ví người khác vào bước đường cùng, hãy chừa cho người ta một con đường sống, biết đâu sau nầy cũng vì thế mà con cháu ta cũng được người khác niệm tình mà tha cho con đường sống như thế.

 

   - Đừng sử dụng hết những uy tín, tín dụng mà mình có được, phải biết chừa lại cho con cháu. Ví dụ như : Ta dùng uy tín và sự tín dụng của mình để lừa hết người nầy đến người khác để thủ lợi, thì con cháu sau nầy sẽ bị mang tiếng là "Con cháu của tên lừa đão", chẳng những mọi người không chịu kết giao giúp đỡ, mà còn không tin tưởng để giao phó công việc nữa. Con cháu sẽ không còn "chút đất nào để cày bừa" nữa cả !


    Nói theo trào lưu trước mắt là :
  - Phải biết yêu qúi và bảo vệ môi trường sống trước mắt, đừng quá phung phí không khí trong lành mà phải biết tiết chế để chừa lại phần nào môi trường và không khí trong sạch cho con cháu sau nầy !

     Nói theo bình dân mà ông bà ta thường nhắn nhủ : "Làm việc gì đó phải cho có hậu". Đừng làm việc đoản hậu, mà phải biết chừa cái hậu cho con cháu về sau. Đó là tất cả những gì mà cổ nhân đã gói ghém trong câu : " Đản tồn phương thốn thổ, lưu dữ tử tôn canh " là thế !

 

        Bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long thường hay nói chơi với nhau rằng : "Làm cho lắm tắm cũng ở truồng !". Ý muốn nói dù cho thị phi thành bại gì hễ nhắm mắt buông xuôi thì đều "Nhập thổ vi an 入土為安" mà không thể mang theo thứ gì cả, như "tắm" thì làm sao mà "mặc đồ" cho được ! Bôn ba vất vả một đời, cuối cùng thì cũng đành chịu vùi sâu dưới ba tấc đất. Con người sống nhờ đất, chết lại về với đất, và cứ thế mà luân hồi mãi như Nguyễn Gia Thiều đã nói trong Cung Oán Ngâm Khúc :

 

                           Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
                           Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.

                           Trăm năm còn có gì đâu,
                          Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì !

 

                             Xin được kết thúc bài phiếm luận "Thổ là Đất" ở nơi đây, và để thực hiện câu :


                          Đản tồn phương thốn thổ,     但存方寸土,
                          Lưu dữ tử tôn canh.              留與子孫耕。

    
         ... xin mọi người hãy hỏa thiêu thân xác sau khi chết, để chừa lại tấc đất và môi trường sạch cho con cháu sau nầy !


             Mong lắm thay !

 

                                                                                   杜紹德
                                                                              Đỗ Chiêu Đức      

_______________________________________________________________

Góc Đường Thi :  

 

                         Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (2)

Năm Thiên Bảo thứ ba đời Đường Huyền Tông (744), Lý Bạch vì hạ câu "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang 可憐飛燕倚新妝" trong bài thứ 2 của 3 bài Thanh Bình Điệu, nên bị Thái Úy Cao Lực Sĩ dèm pha là Lý đã miệt thị Dương Qúy Phi. Cuối cùng Lý đành phải từ quan đi ngao du tứ hải. Trên bước đường phiêu du khắp các vùng giang nam giang bắc để uống hết rượu ngon trong thiên hạ, đôi lúc Lý cũng chạnh lòng nhớ lại thuở vàng son và cuộc sống xa hoa lãng mạn một thời ở đất Trường an mà viết nên những dòng thơ đượm tình ướt át sau đây; Chúng ta cùng đọc lại 3 bài thơ cổ phong "Trường Tương Tư" của Thi Tiên sáng tác trong khoảng thời gian nầy nhé !

 

                

 

 長相思 (其一)         TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ I)

 

長相思,在長安。     Trường tương tư, Tại Trường an.

絡緯秋啼金井闌,     Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan.   

微霜悽悽簟色寒。     Vi sương thê thê điệm sắc hàn.

孤燈不明思欲絕,     Cô đăng bất minh tư dục tuyệt,

卷帷望月空長嘆。     Quyển vi vọng nguyệt không trường thán.

美人如花隔雲端。     Mỹ nhân như hoa cách vân đoan.

上有青冥之高天,     Thượng hữu thanh minh chi cao thiên,

下有淥水之波瀾。     Hạ hữu lục thủy chi ba lan.

天長路遠魂飛苦,     Thiên trường địa viễn hồn phi khổ,

夢魂不到關山難。     Mộng hồn bất đáo quan san nan.

長相思,摧心肝。     Trường tương tư, thôi tâm can !

                 李白                                      Lý Bạch

 

 

 

* Chú thích :

    - Trường Tương Tư 長相思 : có nghĩa là "Nhớ thương nhau dai dẳng", nhớ cả ngày lẫn đêm không lúc nào nguôi.

    - Lạc Vĩ 絡緯 : Con Bù cào, châu chấu. Chỉ Côn trùng kêu trong đêm thu.

    - Đề 啼 : là Khóc, là Gáy, là Kêu.

    - Kim Tỉnh Lan 金井闌 : là Cái khung miệng giếng nước đẹp đẽ.

    - Thê Thê 悽悽 : là Thê lương lạnh lẽo; là lạnh lùng hiu hắt.

    - Điệm 簟 : là chiếc chiếu được đan bằng tre cói.

    - Bất Minh 不明 là Không sáng; có dị bản là "Bất Miên 不眠" là Không ngủ.

    - Thanh Minh 青冥 : Chỉ Bầu trời xanh thẳm.

    - Cao Thiên 高天 : là Trời cao, dị bản là "Trường Thiên 長天"là Trời dài rộng.

    - Lục 淥 : Nước trong vắt.

    - Quan San Nan 關山難 : Quan ải và núi non cách trở khó vượt qua.

    - Thôi 摧 : có bộ Thủ 扌bên trái nên có nghĩa là xô, là Đẩy. THÔI TÂM CAN 摧心肝 là Gan tim bị xô đẩy; ý nói Trong lòng như bị dày xéo nát tan; Lòng đau như bị ai xéo ai dần.

 

* Nghĩa bài thơ :

                             Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài I)

       Ngày đêm nhớ thương nhau dai dẳng, nhớ thương người ở tại đất Trường An, côn trùng kêu thu ra rả bên bờ giếng đẹp. Sương thu lành lạnh nhe rơi làm cho đệm chiếu cũng tỏa hơi lạnh lẽo. Dưới ngọn đèn cô lẻ chập chờn càng làm tăng thêm nỗi niềm thương nhớ, cuốn rèm lên để nhìn thấy ánh trăng sáng bên song cửa mà buông tiếng thở dài. Người đẹp như hoa đang cách trở bởi những tầng mây bạc, trên thì trời cao lồng lộng mênh mông, dưới thì có làn nước trong đang chập chờn gợn sóng. Trời cao đất rộng nỗi lòng khó thể bay xa; Mộng hồn cũng khó bề vượt qua muôn ngàn quan san cách trở. Trường tương tư, thương nhớ ngày đêm khiến cho lòng đau như cắt.   

 

* Diễn Nôm :

                    TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

               

                

 

                 Đêm ngày tưởng nhớ đến ai,

                 Nhớ người yêu dấu bên trời Trường an.

                 Côn trùng ri rỉ giếng vàng,

                 Hơi thu sương lạnh lạnh tràn chiếu chăn.

                 Đèn côi thương nhớ khôn ngăn,

                 Cuốn rèm để lọt ánh trăng thở dài.

                 Như hoa người đẹp bên trời,

                 Trời xanh thăm thẳm bồi hồi trên cao.

                 Dưới dòng nước cuốn ba đào,  

                 Trời cao đất rộng lối nào tìm nhau.

                 Quan san cách trở lòng đau,

                 Nhớ thương thương nhớ dạt dào khôn nguôi.

                 Ruột gan đà héo cả rồi !

                                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

 

 長相思 (其二)       TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)

 

日色慾盡花含煙,      Nhật sắc dục tận hoa hàm yên,

月明如素愁不眠。     Nguyệt minh như tố sầu bất miên.

趙瑟初停鳳凰柱,     Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ,

蜀琴欲奏鴛鴦弦。     Thục cầm dục tấu uyên ương huyền.

此曲有意無人傳,     Thử khúc hữu ý vô nhân truyền,

願隨春風寄燕然。     Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên.

憶君迢迢隔青天。     Ức quân điều điều cách thanh thiên.

昔時橫波目,          Tích thời hoành ba mục,

今作流淚泉。          Kim tác lưu lệ tuyền.

不信妾腸斷,          Bất tín thiếp trường đoạn,

歸來看取明鏡前。    Quy lai khán thủ minh kính tiền.

                李白                                         Lý Bạch  

 

         

 

* Chú thích :

    - Như Tố 如素 : TỐ là màu trắng tinh khiết của lụa; Dị bản là Dục Tố 欲素 đều cùng có nghĩa là : Trắng tinh như lụa bạch.

    - Triệu Sắt 趙瑟 : Một loại đàn xưa mà người nước Triệu thường đàn.

    - Thục Cầm 蜀琴 : Một loại đàn cầm tôn qúy của nước Thục ngày xưa.

    - Yên Nhiên 燕然 : Tên của ngọn núi Hàng Ái Sơn nằm trong nước Cộng Hòa Mông Cổ hiện nay; Ở đây dùng để chỉ vùng biên tái xa xôi ở phía bắc Trung Hoa.

    - Hoành Ba 橫波 : HOÀNH là ngang; BA là Sóng. HOÀNH BA đi liền nhau để chỉ "Sóng mắt liếc ngang liếc xéo". Vì lễ giáo các cô gái ngày xưa ít khi dám nhìn thẳng ai mà chỉ liếc trộm nhìn trộm mà thôi.

    - Lưu Lệ Tuyền 流淚泉 : LỆ TUYỀN là Suối lệ; LƯU LỆ TUYỀN là Suối lệ tuôn chảy, chỉ sầu thương buồn khổ đến nỗi khóc mãi không thôi.

 

* Nghĩa bài thơ :

                             Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài II) 

       Ánh nắng yếu ớt làm cho những cánh hoa như đang ngậm sương khói mơ màng. Ánh trăng sáng trắng tinh khiết như những giải lụa bạch, lòng sầu nên không ngủ được. Mới vừa dứt trục phụng hoàng trên cây đờn của nước Triệu, lại bấm dây uyên ương của cây đàn cầm trên đất Thục. Tiếc thay các khúc điệu tuy có ý nhưng lại không có người để truyền đạt. Những mong nó sẽ theo gió xuân mà bay đến vùng Yên Nhiên ngoài tái bắc. Nhớ thương người xa diệu vợi ở tận phía trời xanh. Đôi mắt liếc long lanh của ngày xưa giờ đã trở thành nguồn suối lệ chảy mãi không thôi; Nếu như còn nghi ngờ về nỗi nhớ thương đến đoạn trường của thiếp, thì hãy về đây mà ngắm dung nhan tiều tụy võ vàng của thiếp trong đài gương kia kìa !     

 

* Diễn Nôm :

                        TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)

 

            

 

                  Nắng chiều hoa nhạt khói sương,

                  Sáng trăng khó ngủ sầu thương vô chừng.

                  Phụng hoàng Triệu sắt vừa ngưng,

                  Thục cầm đã tấu dây chùn uyên ương.

                  Khúc xa khó đến người thương,

                  Thoảng bay theo gió đến miền Yên nhiên.

                  Nhớ người diệu vợi sơn xuyên,

                  Khi xưa mắt biếc đưa duyên thẹn thùa.

                  Nay thành suối lệ như mưa,

                  Lòng sầu ruột thắt người xưa tỏ tường ?

                  Má hồng đã nhạt đài gương.

                  Chàng về sẽ thấy xót thương dáng gầy !

                                                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

 長相思 (其三)         TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)

 

美人在時花滿堂,     Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường,

美人去後空餘牀。     Mỹ nhân khứ hậu không dư sàng.

牀中繡被卷不寢,     Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,

至今三載聞餘香。     Chí kim tam tải văn dư hương.

香亦竟不滅,           Hương diệc cánh bất diệt,

人亦竟不來。           Nhân diệc cánh bất lai.

相思黃葉落,           Tương tư hoàng diệp lạc,

白露點青苔。           Bạch lộ điểm thanh đài !

          李白                                         Lý Bạch  

 

   

 

* Chú thích :

    - Tú Bị 繡被 : Tấm chăn đắp có thêu hoa đẹp đẽ.

    - Quyển Bất Tẩm 卷不寢 : Cuốn để đó không ngủ; dị bản là CÁNH BẤT TẨM 更不卷 nhấn mạnh hơn là "Không có ai ngủ cả".

    - Văn 聞 : là chữ Hội Ý gồm có bộ MÔN 門 là Cửa, ở giữa có bộ NHĨ 耳 là Lổ tai, có nghĩa "Đưa lổ tai ra cửa " để NGHE ngóng; nên VĂN 聞 nghĩa gốc là NGHE; nghĩa phát sinh là NGỬI. Vì thế VĂN DƯ HƯƠNG 聞餘香 là "Ngửi được mùi thơm còn rơi rớt lại". Dị bản là DO VĂN HƯƠNG 猶聞香 là Còn ngửi thấy mùi thơm.

    - Lạc 落 : là Rớt, Rơi, Rụng; HOÀNG DIỆP LẠC 黃葉落 là Lá vàng rơi; dị bản là HOÀNG DIỆP TẬN 黃葉盡 là "Lá vàng rơi đến hết, đến tận cùng".

    - Điểm 點 : là Chấm, là Chấm phá. dị bản là THẤP 濕 là Ướt, làm cho ướt.

 

* Nghĩa bài thơ :

                               Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài III) 

       Khi người đẹp còn ở nơi đây thì như có hoa tươi thơm tho đầy cả phòng; Khi người đẹp đi rồi thì chỉ còn trơ lại chiếc giường không lạnh lẽo. Trên giường chiếc chăn thêu hoa đẹp đẽ cuốn để đó không ai đắp cả, nhưng đến nay đã ba năm vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi thơm. Mùi thơm lâu ngày vẫn còn đó không phai; Người đi lâu ngày vẫn còn vắng bóng chưa về. Nhớ thương nhau dai dẵng như lá vàng rụng suốt mùa thu và nên thơ như những hạt sương trắng chấm phá trên thảm rêu xanh. 

       

* Diễn Nôm :

                      TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)

 

                     

 

                     Mỹ nhân còn đó ngát hoa hương,

                     Mỹ nhân đi rồi trống vắng giường.

                     Trên giường chăn bông chẳng ai đắp,

                     Chốc đã ba năm còn thoảng hương.

                     Hương mãi mai không dứt,

                     Người biền biệt chẳng về.

                     Tương tư lá vàng rụng ,

                     Sương trắng rêu xanh dạ ủ ê !

         Lục bát :

                     Người còn phòng ngát hương hoa,

                     Người đi phòng vắng giường ngà trống không.

                     Chăn thêu cuốn chẳng ai nằm,

                     Đã ba năm lẻ vẫn còn thoảng hương.

                     Mùi hương chẳng dứt mãi còn,

                     Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.

                     Tương tư lá rụng đầy sân,

                     Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh !

                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

              

 

          Hẹn bài viết tới :

                                   Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ  (3)

                               

                                                                           杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

DCD_TruongTuongTu_1.JPG

 TƯƠNG TƯ 相思 là NHỚ NHAU, mà đã nói là NHỚ NHAU thì phải là hai người chớ không thể nào là một người được; Nên, Bệnh Tương Tư là bệnh của những người yêu nhau, của những cặp đôi, của những cặp vợ chồng ... vì lý do nào đó mà phải xa cách nhau, rồi nhớ thương nhau mà ... thành bệnh. Từ ngàn xưa đến nay có biết bao nhiêu lứa đôi phải đau khổ day dứt và nhớ thương nhau thắm thiết vì...hai đứa hai nơi và vì chỉ có một bên có dịp bày tỏ, nên hễ buồn đau sầu khổ vì nhớ người yêu đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, thì đều gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ cả; Mặc dù chỉ có "một bên" bày tỏ nỗi lòng mà thôi ! Ta hãy cùng đọc lại những vần thơ Tương Tư, Trường Tương Tư... của thời đại hoàng kim của thi ca ngày xưa để xem các "ông bà" lúc đó đã yêu nhau và nhớ nhau như thế nào nhé ! Nào, ta hãy bắt đầu bằng những vần thơ Trường Tương Tư của Thi Bá Bạch Cư Dị nhé !

 

1. Bài từ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 của Bạch Cư Dị :

 

長相思                 TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

 

汴水流,                 Biện thủy lưu,

泗水流,                 Tứ thủy lưu,

流到瓜州古渡頭。      Lưu đáo Qua Châu cổ độ đầu.

吳山點點愁。           Ngô sơn điểm điểm sầu !

 

思悠悠,                 Tư du du,  

恨悠悠,                 Hận du du,

恨到歸時方始休。     Hận đáo quy thì phương thủy hưu.

月明人倚樓。           Nguyệt minh nhân ỷ lâu !

         白居易                                       Bạch Cư Dị

 


Bạch Cư Dị và bài từ Trường Tương Tư được phổ nhạc

 

* Chú thích :

    - TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 : Đây là Tên của một Từ Khúc, từ điệu lấy từ Nhạc phủ của Nam Triều thời Nam Bắc Triều, với câu trên là TRƯỜNG TƯƠNG TƯ và câu dưới là CỬU LY BIỆT 久離別 thường dùng phổ vào các khúc hát nói lên sự tưởng nhớ của nam nữ đang yêu nhau nhớ nhau.

    - Biện Thủy 汴水 : Tên sông, là một nhánh của con sông Hoài, bắt nguồn từ tỉnh Hà Nam, chảy vào Túc Huyện, Tứ Huyện của tỉnh An Huy rồi đổ vào sông Hoài Hà.

    - Tứ Thủy 泗水 : Cũng là một nhánh của con sông Hoài. Bắt nguồn từ huyện Khúc Phụ của tỉnh Sơn Đông chảy xuôi về Nam qua Từ Châu của tỉnh Giang Tô ngang qua huyện Hoài An rồi cũng đổ vào con sông Hoài Hà.

    - Qua Châu Cổ Độ 瓜洲古渡 : Bến đò cổ ở Qua Châu, thuộc bắc Trường Giang nằm trong Dương Châu của tỉnh Giang Tô.

    - Ngô Sơn 吳山 : Núi Ngô, là ranh giới của nước Ngô thời Chiến Quốc mà thành tên; Ngô Sơn còn chỉ chung các núi non ít ỏi của vùng Giang Nam thuộc Hàng Châu tỉnh Chiết Giang.

    - Du Du 悠悠 : là Dằng dặc, là Đằng đẵng, là day dứt mãi.

    - Hưu 休 : là Ngưng , nghỉ, là Thôi. 

 

* Nghĩa bài từ :

                        TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

      Nước sông Biện chảy, nưóc sông Tứ cũng chảy. Chảy mãi cho đến bến đò cổ của xứ Qua Châu để thấy cảnh núi non xinh đẹp của đất Giang nam mà lòng càng thêm sầu muộn (Vì Tô Châu Hàng Châu là nơi nổi tiếng cảnh đẹp người đẹp và thức ăn ngon, mà chàng đang lãng du nơi đó). Cho nên...

      Lòng nhớ thương cứ đằng đẵng mãi mà nỗi sầu hận cũng cứ day dứt mãi cho đến khi nào chàng trở lại thì mới thôi không còn day dứt nữa. Vì lúc đó thì ta sẽ cùng đứng tựa vào nhau mà ngắm trăng trên lầu vắng nầy.

 

* Diễn Nôm :

                   TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

 

                  Sông Biện chảy,

                  Sông Tứ chảy,

                  Chảy đến Qua Châu cổ độ đầu,

                  Núi Ngô chấm phá khiến lòng sầu !

 

                  Nhớ mênh mang,

                  Hận mênh mang,

                  Hận đến người về hận mới tan,

                  Lầu cao cùng tựa ngắm trăng vàng !

       Lục bát :

                  Sông Biện nước chảy xuôi dòng,

                  Sông Tứ nước cũng thuận dòng chảy theo.

                  Qua Châu bến đổ đáng yêu,

                  Núi Ngô chấm phá gợi nhiều nhớ nhung !

 

                  Nhớ ai lòng mãi mông lung,

                  Hận ai lòng cũng nấu nung đêm ngày.

                  Người về hận mới nguôi ngoai,

                  Tưa nhau lầu vắng ngắm hoài bóng trăng !

                                                              Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

     Bấm vào link sau đây để nghe bài từ Trường Tương Tư của Bạch Cư Dị được phổ nhạc :

 

          长相思 汴水流泗水流 白居易(唐) (完整版)

 

长相思 汴水流泗水流 白居易(唐) (完整版)

 

长相思 汴水流泗水流 白居易(唐) (完整版)         

 

2. Bài thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ 長相思 của Bạch Cư Dị :

 

 長相思            TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

九月西風興,    Cửu nguyệt tây phong hứng,

月冷霜華凝。    Nguyệt lãnh sương hoa ngưng.

思君秋夜長,    Tư quân thu dạ trường,

一夜魂九升。    Nhất dạ hồn cửu thăng.

二月東風來,    Nhị nguyệt đông phong lai,

草坼花心開。    Thảo sách hoa tâm khai.

思君春日遲,    Tứ quân xuân nhật trì,

一日腸九回。    Nhất nhật trường cửu hồi.

妾住洛橋北,    Thiếp trú Lạc kiều bắc,

君住洛橋南。    Quân trú Lạc kiều nam.

十五即相識,    Thập ngũ tức tương thức,

今年二十三。    Kim niên nhị thập tam.

有如女蘿草,    Hữu như nữ la thảo,

生在松之側。    Sanh tại tùng chi trắc.

蔓短枝苦高,    Mạn đoản chi khổ cao,

縈迴上不得。    Oanh hồi thướng bất đắc.

人言人有願,    Nhân ngôn nhân hữu nguyện,

願至天必成。    Nguyện chí thiên tất thành.

願作遠方獸,    Nguyện tác viễn phương thú,

步步比肩行。    Bộ bộ tỉ kiên hành.

願作深山木,    Nguyện tác thâm sơn mộc,

枝枝連理生。    Chi chi liên lý sanh.

         白居易                   Bạch Cư Dị

 

     * Chú thích :

    - Trường Tương Tư 長相思 : là "Nhớ nhau dai dẳng", đó là tên của một trong 25 khúc hát "Cổ oán tư 古怨思" thuộc Tạp khúc ca từ trong Nhạc Phủ xưa.

    - Hứng 興 : là Nổi dậy; Tây Phong Hứng 西風興 là gió Tây nổi dậy, là trời trở gió Tây là gió của mùa thu. Ca dao Nam bộ của ta có câu :

                      Anh về để áo lại đây,

                 Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng.

    - Ngưng 凝 : là Đọng lại, ta có từ kép Ngưng đọng.

    - Hồn Cửu Thăng 魂九升 : là Thần hồn lên chín lần; ý chỉ tâm thần dao động không yên, lấy ý ở bài "Quả Phụ Phú 寡婦賦" của Phan Nhạc đời Tây Tấn có câu : Ý hốt hoảng dĩ thuyên việt hề, thần nhất tịch nhi cửu thăng 意忽怳以遷越兮,神一夕而九升. Có nghĩa : Tâm ý luôn thấp thỏm hoảng hốt không yên; Thần hồn trong một ngày đêm dao động lên xuống chín lần". Số 9 là con số lẻ cao nhất thường dùng để chỉ số nhiều thật nhiều.

    - Thảo Sách 草坼 : là những cọng cỏ nẩy mầm vươn ra khỏi mặt đất.

    - Trường Cửu Hồi 腸九回 : HỒI là Hồi Chuyển 回轉 là Trở đi trở lại, là lộn lạo; nên CỬU HỒI TRƯỜNG là chỉ Gan ruột lộn lạo co thắt chín lần; ý chỉ rất đau xót. Ca dao Nam bộ của ta cũng có câu :

                     Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

              Trông về quê mẹ RUỘT ĐAU CHÍN CHIỀU.

    - Lạc Kiều 洛橋 : Chỉ cây cầu Thiên Tân bắt ngang dòng Lạc Thủy của đất Lạc Dương, nơi thường xảy ra các cuộc tiễn đưa người đi kẻ ở như lời thơ của Tống Chi Vấn một thi sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường :

                  可憐江浦望,  Khả lân giang phố vọng,

                  不見洛橋人。  Bất liến LẠC KIỀU nhân.

       Có nghĩa :

                     Thương thay trên bến vời trông,

                Lạc Kiều mất hút cầu không thấy người !

    - Nữ La Thảo 女蘿草 : Cỏ Nữ La, là một loại dây leo hay bò quấn quanh cây tùng cây bá; thường dùng để ví với các cô gái đào tơ liễu yếu phải sống nương tựa vào các đấng phu quân mạnh mẽ cao lớn để nương nhờ sự che chở.

    - Mạn Đoản 蔓短 : Mạn là Mạn đà la cũng là một loại dây leo; ĐOẢN là ngắn. Câu nầy ý chỉ không môn đang hộ đối, như dây leo ngắn không thể leo lên cây có cành lá qúa cao vậy.

    - Oanh Hồi 縈迴 : là vòng vo, quấn quanh.

    - Viễn Phương Thú 遠方獸 : Theo sách "Nhĩ Nhã. Thích Địa 爾雅·釋地" thiên thứ 9 có nhắc đến loại "Tỉ Kiên Thú 比肩獸" (Là loại thú kề vai nhau). Tương truyền loại thú nầy, một con gọi là Quyết 蟨 có chân trước ngắn như chuột và chân sau dài như chân thỏ, đầu thấp đuôi cao, chuyên tìm thức ăn dưới đất không đi đứng được; còn một con gọi là Cùng Cùng 邛邛 thì chân trước như chân nai, còn chân sau thì như chân thỏ, nên đầu cao đuôi thấp, đi đứng được nhưng không thể tìm thức ăn dưới đất; vì thế hai con thú nầy phải cùng kề vai sát cánh nương tựa nhau để đi đứng và tìm thức ăn, không thể sống tách rời ra được. Sau dùng để chỉ vợ chồng thương yêu gắng bó với như hình với bóng không thểrời xa nhau được.

    - Liên Lý Sanh 連理生 : là Cành nhánh như mọc liền vào nhau giữa hai cây khác nhau; thường dùng để chỉ sự ân ái thương yêu nhau đến tột cùng của tình nghĩa vợ chồng. Theo bài thơ trường thiên "Khổng Tước Đông Nam Phi 孔雀東南飛trong Hán Nhạc phủ có đoạn thơ như sau :

              ...兩家求合葬,   Lưỡng gia cầu hợp táng,

                 合葬華山傍。   Hợp táng Hoa sơn bàng.

                 東西植松柏,   Đông tây thực tòng bá,

                 左右種梧桐。   Tả hữu chủng ngô đồng.

                 枝枝相覆蓋,   Chi chi tương phúc cái,

                 葉葉相交通。   Diệp diệp tương gioa thông.

      Có nghĩa :

                 Hai nhà xin hợp táng chung,

                 Hoa Sơn bên núi vợ chồng cùng yên.

                 Đông tây tòng bá hai bên,

                 Ngô đồng phải trái trồng liền hai nơi.

                 Cành cành liền nhánh tốt tươi,

                 Lá xanh lá biếc khắp nơi giao hòa.

      Còn theo Sưu Thần Ký 搜神記 của Cán Bửu đời Đông Tấn thì : Vào thời Chiến Quốc, xá nhân của Tống Khang Vương là Hàn Bằng, văn hay chữ tốt, có vợ là Hà Thị, một yểu điệu thục nữ. Khang Vương mê sắc, đoạt vợ của Hàn Bằng rồi bắt Hàn Bằng đày đi xây trường thành. Bằng tự sát chết, Hà Thị cũng tự sát chết theo. Người trong làng thương tình chôn hai vợ chồng ở hai bên đường, nhưng chỉ cách có một đêm hai bên đầu mộ đều cùng mọc lên hai cây đại Tân mộc, chỉ mươi ngày sau thì thân cây đã to bằng người ôm, cành nhánh mọc liền vào nhau cả rể cây bên dưới cũng chằng chịt quấn lấy nhau, lại có một đôi uyên ương ngày đêm quấn quít trên cành kêu lên những tiếng bi thương làm xúc động lòng người.

 

* Nghĩa bài thơ :

                                TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

       Những trận gió tây của tháng chín đã nổi lên, ánh trăng lạnh lẽo và những giọt sương đã ngưng đọng lại. Nhớ đến chàng nên cảm thấy đêm thu như dài thêm ra, mộng hồn ngơ ngẩn trăn trở suốt đêm (cửu thăng). Kịp đến khi gió xuân của tháng hai thổi đến làm cho cỏ nẩy mầm xanh và hoa đều nở đẹp, thì thiếp lại nhớ chàng mà cảm thấy ngày xuân qua sao mà chậm chạp thế, trong một ngày mà ruột đã thắt chín chiều. Thiếp thì ở bên phía bắc của Lạc kiều, còn chàng thì ở phía nam của Lạc Kiều; Mười lăm tuổi thì đã quen biết với chàng, đến hôm nay thiếp cũng đã hai mươi ba tuổi rồi. Thân thiếp như dây Nữ la thảo sống chùm gởi vào cây tùng cây bá, nhưng tùng bá lại qúa cao mà dây leo thì quá ngắn nên không thể uốn quanh mà bò lên cao được. Người đời thường nói là nếu người nào đó có ước nguyện chí thành khi thấu đến trời thì trời sẽ cho tròn ước nguyện. Thiếp cam tâm biến thành con "thú viễn phương" để được cùng chàng kề vai sát cánh trên từng bước chân, và cũng cam tâm làm những loài cây mọc trong núi rừng sâu thẵm mà cành nhánh đều được liền nhau.

 

* Diễn Nôm :

 

            TRƯỜNG TƯƠNG TƯ  

                                

Gió tây tháng chín hắt hiu,

Sương rơi trăng lạnh cho nhiều nhớ nhung.

Nhớ người đêm tối mông lung,

Một đêm chín lượt chờ mong não nề !

 

       Gió xuân tháng hai thổi về,

       Cỏ cây hoa lá tư bề lao xao.

       Nhớ người xuân cũng qua mau,

       Một ngày mong mõi ruột đau chín chiều.

 

Lạc Dương nam bắc hai chiều,

Thiếp nơi cầu bắc nhớ nhiều cầu nam.

Mười lăm đem dạ yêu chàng,

Hăm ba tình đã nồng nàn lắm thay !

 

       Thiếp như hoa nữ cỏ may,

       Leo quanh tòng bách tháng ngày nương thân.

       Thấp hèn cũng cố uốn quanh,

       Vươn theo cho kịp lá cành trên cao. 

 

Ý thành lòng những ước ao.

Thành tâm khấn nguyện trời nào phụ ta.

Có làm muông thú nơi xa,

Cũng nguyền sánh bước lọ là kề vai !

 

      Nguyện như cây núi vươn dài,

Nối liền cành nhánh thương hoài ngàn năm !

                                             Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

Hẹn bài viết tới :

                        TRƯỜNG TƯƠNG TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH

 

                                                                                                 杜紹德

                                                                                             Đỗ Chiêu Đức

DCD_ChumthoTrungThu.JPG

Tết TRUNG THU là ngày rằm Tháng tám Âm lịch, chữ Nho gọi là TRUNG THU TIẾT 中秋節; là ngày lễ truyền thống của các nước vùng Đông Nam Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Người Hoa thường ví hình tượng trăng tròn rồi trăng khuyết, khuyết rồi lại tròn với sự đoàn viên và bi hoan ly hợp của con người; và thông qua hình tượng mặt trăng để gởi gắm tâm sự, tình cảm, nhớ nhung của mình với thân nhân, với người yêu, với gia đình, với quê hương... xuyên suốt mấy ngàn năm nay đã để lại rất nhiều bài thơ về Trăng Trung Thu. Kính mời các bạn hãy đọc thử xem những bài thơ sau đây, bài nào đã đánh động tâm lý tình cảm của mình nhất ?!

 

1. Bài Thơ MINH NGUYỆT HÀ KIỂU KIỂU :

 

         Bài thơ tả về Trăng Trung Thu đầu tiên trong thi ca cổ phải kể đến bài "Minh Nguyệt Hà Kiểu Kiểu 明月何皎皎" làm theo thể cổ phong có từ thời Kiến An của đời Đông Hán. Mời tất cả cùng đọc sau đây :

 

明月何皎皎,    Minh nguyệt hà kiểu kiểu,

照我羅牀幃。    Chiếu ngã la sàng vi.

憂愁不能寐,    Ưu sầu bất năng mị,

攬衣起徘徊。    Lãm y khởi bồi hồi.

客行雖云樂,    Khách hành tuy vân lạc,

不如早旋歸。    Bất như tảo tuyền quy.

出戶獨彷徨,    Xuất hộ độc bàng hoàng,

愁思當告誰?     Sầu tư đương cáo thùy?

引領還入房,    Dẫn lãnh hoàn nhập phòng,

淚下沾裳衣!     Lệ há triêm thường y !

           佚名                      Dật Danh

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

* Chú thích :

    - Dật Danh 佚名 hay Vô Danh Thị 無名氏 đều có nghĩa là bài thơ không biết tên tác giả là ai. Vì là một trong "Cổ Thi Thập Cửu Thủ 古詩十九首" (19 bài thơ cổ) khi luật thơ chưa hình thành và không biết tên tác giả nên đều lấy câu đầu làm tựa cho bài thơ. Về chủ đề của bài thơ có hai cách lý giải như sau : Một cho là bài thơ khắc họa hình ảnh của một người khuê phụ vọng phu, mong ngóng đợi chồng về trong đêm trung thu; Một cho đây là hình tượng của người du tử xa quê lâu ngày muốn được về quê ngay trong đêm trăng sáng. Nhung khách yêu thơ thường thiên về ý đầu hơn là ý sau.    

   - La Sàng Vi 羅牀幃 :Cái màn phủ quanh giường ngủ bằng vải là (lụa là).

   - Mị 寐 :Ngủ; BẤT NĂNG MỊ 不能寐 là không thể ngủ được.

   - Lạm Y 攬衣 :Lấy áo choàng lên người, là khoát áo.

   - Tuyền Quy 旋歸 : TUYỀN là xoay vòng, nên TUYỀN QUY là Quay ngược trở lại, là Quay về nhà, về quê.

   - Dẫn Lãnh 引領 :là Đưa bâu áo lên, có nghĩa là rướng Ngóng nhìn

   - Thường Y 裳衣 hay Y Thường : THƯỜNG để che thân dưới, là Quần; Y để che thân trên là Áo; nên THƯỜNG Y như ta thường nói là QUẦN ÁO.

 

* Nghĩa bài thơ :

                              MINH NGUYỆT HÀ KIỂU KIỂU

  1. Người Lãng Tử nhớ quê :

       Ánh trăng sáng sao mà vằng vặc lung linh, chiếu cả vào màn là trên giường, làm cho ta cảm thấy ưu sầu không thể nào ngủ được. Khoát áo dậy mà cứ đi lửng thửng bồi hồi trước sân. Lữ hành nơi đất khách tuy nói là có nhiều niềm vui, nhưng sao ta lại chẳng quay trở về nhà sớm hơn ?. Một mình thẩn thơ trước cửa mà lòng bàng hoàng mối sầu tư trong lòng không biết phải tỏ cùng ai đây ?. Ngóng cổ trông mãi về quê rồi cũng phải về lại phòng mà nước mắt cứ tuôn trào ướt cả áo xiêm.

 

                             

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2. Người Khuê Phụ Trông Chồng : 

       Ánh trăng sáng sao mà vằng vặc lung linh, chiếu cả vào màn là trên giường của thiếp, làm cho thiếp cảm thấy ưu sầu không thể nào ngủ được. Khoát áo dậy mà cứ bồi hồi ngơ ngẩn nghĩ rằng : Lữ hành nơi đất khách tuy nói là có nhiều niềm vui, nhưng sao lại chẳng quay trở về nhà sớm hơn ?. Thiếp một mình thẩn thơ trước cửa mà lòng bàng hoàng mối sầu tư trong lòng không biết phải tỏ cùng ai đây ?. Ngóng cổ trông mong mãi rồi cũng phải về lại phòng khuê mà nước mắt cứ tuôn trào ướt cả xiêm y.

       Qủa là :

                          Nỗi lòng biết tỏ cùng ai,

              Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây !

                                                      (Chinh Phụ Ngâm Khúc)

 

                   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

* Diễn Nôm :

 

                  Trăng sáng sao vằng vặc,

                  Chiếu cả lên giường là .

                  Lòng sầu không ngủ được,

                  Khoát áo dậy lân la,

                  Đất khách tuy vui đó,

                  Sao không sớm về nhà ?

                  Một mình thơ thẩn mãi,

                  Sầu nầy ai hiểu ta ?

                  Kéo bâu về phòng lạnh,

                  Lệ rơi ướt áo là !

Lục bát :

                  Vầng trăng vằng vặc như sương,

                  Ánh vàng chiếu cả lên giường phòng the .

                  Sầu tư không ngủ e dè,

                  Thẩn thờ khoát áo lòng nghe bồi hồi.

                  Lãng du tuy lắm niềm vui,

                  Sao không sớm vội trở lui về nhà ?

                  Bàng hoàng trước cửa riêng ta,

                  Sầu tư trăm mối ai là tri âm ? 

                  Ngóng thôi trở gót về phòng,

                  Lệ rơi ướt áo não lòng đêm thu !

                                                  Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

          Hẹn bài viết tiếp theo :

 

              Bài thơ BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT DẠ BỒN ĐÌNH VỌNG NGUYỆT 

                                  của nhà thơ Bạch Cư Dị 

 

                                                                                                 杜紹德

                                                                                             Đỗ Chiêu Đức

DCD_Nguyetha.JPG
DCD_MinhNguyet.JPG
DCD_nguoithieuphu.JPG

 LỄ MẸ - DU TỬ NGÂM (遊子吟)

DCD_DuTungam.jpg

Đỗ Chiêu Đức

Chúa Nhật thứ hai của tháng 5 hằng năm là ngày LỄ MẸ ( Mothers'day ) ở Mỹ. LỄ MẸ năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 8 tháng 5 tới đây. VN ta không có ngày Lễ Mẹ chính thức, mọi người lấy ngày Lễ Vu Lan Bồn là ngày rằm tháng 7 Âm lịch làm ngày tưởng nhớ đến Mẹ Hiền. Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, nhà sư Nhất Hạnh lấy ngày Rằm tháng 7 này làm ngày Bông Hồng Cài Áo. Ai còn Mẹ thì được cài một bông hồng màu ĐỎ, người nào chẳng may đã mất Mẹ rồi thì cài một bông hồng màu TRẮNG lên áo để tưởng nhớ đến Mẹ Hiền....
Nay, nhân ngày Lễ Mẹ ở xứ người, lại nhớ đến ngày Lễ Vu Lan ở xứ ta, xin chân thành gởi đến tất cả mọi người một Bông Hồng...Thơ, để tưởng nhớ đến Mẹ Hiền qua tâm tình của một Du Tử phiêu bạt phương trời : Bài thơ " DU TỬ NGÂM " của Mạnh Giao đời Đường...

遊 子 吟 DU TỬ NGÂM

慈 母 手 中 线 Từ mẫu thủ trung tuyến
遊 子 身 上 衣 Du tử thân thượng y

临 行 密 密 缝 Lâm hành mật mật phùng

意 恐 遲 遲 歸 Ý khủng trì trì quy

誰 言 寸 草 心 Thùy ngôn thốn thảo tâm

報 得 三 春 暉 Báo đắc tam xuân huy

孟 郊 MẠNH GIAO

Bài thơ có tựa là KHÚC NGÂM của NGƯỜI DU TỬ, người lãng du phiêu bạt giang hồ nhớ về Mẹ như sau :

Sợi chỉ trong tay bà mẹ hiền, khâu nên chiếc áo ở trên mình người du tử. Lúc ra đi, mẹ đã từng mũi từng mũi một khâu thật chắc, ý sợ rằng con mình mê mãi thú giang hồ mà nấn ná dần dà trễ tràng trở về quê cũ. Ai bảo rằng tất lòng của cọng cỏ non kia, có thể báo đáp được ánh nắng ấm áp của ba tháng mùa xuân.( Trong mùa đông, cỏ chết rụi cả, chỉ sống lại nhờ ánh sáng của ba tháng mùa xuân mà thôi ! ).

Ôi, nỗi lòng thương con của bà mẹ thật tỉ mỉ, chi li, nhưng lại bao la sâu rộng vô cùng. Bà không trách con đi lâu, cũng không buộc con phải về sớm, vì bà biết tánh lãng tử của con mình. Bà chỉ âm thâm chắc chiu từng mũi kim cho thật chặc, chỉnh e khi ở xứ lạ quê người, áo của con bị sứt chỉ đường tà sẽ không có ai khâu hộ. Việc tuy nhỏ nhặt, nhưng lại hàm chứa biết bao nỗi thương yêu lo lắng của Mẹ Hiền. Tác giả đã kết bằng cách mượn nỗi lòng của một tấc cỏ nhỏ nhoi, thì làm thế nào có thể báo đáp cho được ánh nắng ấm áp của 3 tháng mùa xuân đã mang sức sống và xanh tươi đến cho cây cỏ và vạn vật muôn loài cho được !

Khi diễn tả cô Kiều cân nhắc giữa tình và hiếu, rồi quyết định bán mình chuộc tội cho cha. Hành động bán mình là việc làm cao cả, vĩ đại, nhưng đối với công lao trời biển, sanh thành dưỡng dục của cha mẹ thì Nguyễn Du vẫn cho là chưa đủ, cho nên ông đã dùng chữ " Liều " một cách rất tài tình :

Hạt mưa xá nghĩ phận hèn
LIỀU đem TẤC CỎ quyết đền BA XUÂN !

Sự thật, bán mình chuộc cha thì cô Kiều có thể nói đã hoàn toàn trả được chữ hiếu rồi !( hết đời rồi , còn gì nữa ! ) : " Bán mình là hiếu, cứu người là nhân " mà, và như Sư Tam Hợp đã nói : " Bán mình đã động hiếu tâm đến trời ". Nỗi lòng " tấc cỏ " của cô Kiều khả dĩ nói là đã đáp đền được " ánh nắng của ba xuân " rồi hay chưa ?!

DIỄN NÔM :

Kim chỉ trên tay từ mẫu,
Khâu nên áo lãng du nhân.
Khi đi chắc chiu từng mũi,
Sợ ngày về lắm lần khần.

Ai bảo nỗi lòng tấc cỏ,
Báo đền được nắng ba xuân ?!
LỤC BÁT :
Đường kim mũi chỉ mẹ hiền,
Khâu nên chiếc áo trên mình lãng du,
Chắc chiu từng mũi từng khâu,
Sợ e con trẻ đi lâu chửa về
Ai rằng tấc cỏ bên lề,
Báo đền được ánh nắng về ba xuân ?!

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :
MẠNH GIAO 孟郊 ( 751- 814 )
Mạnh Giao tự là Đông Dã, người đất Võ Khang. Lúc nhỏ ở ẩn trong núi Tung Sơn, tánh tình thầm lặng, làm thơ hay thiên về lý trí, lại chắt lọc từng chữ một. Hàn Dũ rất mến tài ông mà kết thành bạn vong niên. Mãi đến năm 50 tuổi ông mới đậu Tiến Sĩ ở niên hiệu Trinh Nguyên đời nhà Đường.
Ngoài bài Du Tử Ngâm được nhiều người biết đến, Mạnh Giao còn nổi tiếng với bài Liệt Nữ Tháo. Cả hai bài đều làm theo thể Ngũ ngôn Cổ phong.( Mỗi câu năm chữ, có thể gieo cả vần Bằng lẫn vần Trắc và không hạn định số câu của một bài.).

Xin cầu chúc tất cả mọi người đều có một ngày Lễ Mẹ tuyệt vời !

Đỗ Chiêu Đức

_________________________

dcd_HanhHangHang.jpg

                                               Chim chít mà đậu cành tre...

Đó là một vế trong CHỮ NHO...DỄ HỌC nói về bộ Xích, theo thứ tự trong 214 Bộ Thủ của chữ Nho như sau :

XÍCH 彳: là Bước Chân Trái. Cũng có nghĩa là Bước Chậm rãi. XÍCH vừa là Bộ vừa là Chữ. Khi là Bộ, thường đứng bên trái và được gọi là "Song Nhân Bàng 雙人旁". Có nghĩa là Bộ gồm có 2 chữ Nhân 人 chồng lên nhau 彳. Những chữ được ghép bởi Bộ XÍCH thường chỉ về Đi Đứng, Đường xá, Hành vi của con người. Ta còn có một biến dạng của bộ XÍCH là chữ SÁCH 亍 (còn đọc là XÚC) là Bước chân phải, nên XÍCH SÁCH 彳亍 : Bước chân trái một cái, bước chân phải một cái là đi Tản bộ, là đi Bách bộ, đi chầm chậm, như trong bai câu thơ của Lý Chí đời Minh :

<!>

 

踟蹰横渡口, Trì trù hoành độ khẩu,

彳亍上灘舟。 XÍCH SÁCH thướng than chu.

Có nghĩa :

Chần chừ trước bến đò ngang,

NGẦN NGỪ bước xuống thuyền sang bến bờ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chim chít mà đậu cành tre...

 

Ghép XÍCH 彳(bước chân trái) với SÁCH 亍 (bước chân phải) lại với nhau, ta có chữ HÀNH 行 là ĐI, như Hành Tẩu Giang Hồ 行走江湖 (là Đi Lại trên chốn giang hồ). Nghĩa phát sinh của HÀNH là LÀM, như Hành Động 行動; Đi đứng, ăn nói, cử chỉ là HÀNH VI 行為, mà Hành Vi là cái thể hiện phẩm chất đạo đức của con người, nên HÀNH còn được đọc là...

 

HẠNH 行 là PHẨM HẠNH 品行 như câu nói của ông bà thường dạy : Nhân sanh bách HẠNH hiếu vi tiên 人生百行孝為先. Có nghĩa : Đời sống con người có cả trăm phẩm hạnh, hiếu là Phẩm hạnh đầu tiên nhất. Cũng chữ HÀNH khi đọc là...

 

HẢNG 行 thì có nghĩa là Nơi sản xuất, là cửa hàng; như TỬU HẢNG 酒行 là Hảng rượu (Nơi chế biến và bán rượu). Nhớ trước năm 1975, các báo tiếng Hoa trong Chợ Lớn có đăng quảng cáo cho một Công ty xuất nhập khẩu ở Hồng Kông có tên là 行行行 thu hút không ít khách hàng muốn tìm hiểu xem Công Ty nầy kinh doanh cái gì và tên của công ty phải đọc như thế nào, làm cho business của công ty cũng trở nên vô cùng bận rộn và phát triển .... Thì ra công ty đó đang chơi trò Giả Tá, 3 chữ 行 行 行 đọc là : HẠNH HÀNH HẢNG, tức là cái Hảng có tên là Hạnh Hành , thế thôi ! Vì HẢNG cũng là cửa hàng, nên chữ HÀNH còn được đọc là...

 

HÀNG như NGÂN HÀNG 銀行 là Cửa hàng chuyên môn kinh doanh về tiền bạc.

HÀNG còn là HÀNG NGŨ 行伍 như 2 câu đầu trong bài Tuyệt Cú 絕句 của Thi Thánh Đỗ Phủ 杜甫 là :

兩個黃鸝鳴翠柳, Lưỡng cá hoàng li minh thúy liễu,

一行白鷺上青天。 NHẤT HÀNG bạch lộ thướng thanh thiên.

Có nghĩa :

Hai cái oanh vàng ca liễu biếc,

MỘT HÀNG cò trắng vút trời xanh.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

HÀNG còn có nghĩa là Ngành Nghề. Như "Cải HÀNG 改行" là Đổi Nghề. Ta có thành ngữ : HÀNG HÀNG XUẤT TRẠNG NGUYÊN 行行出狀元 : Có nghĩa là Bất cứ ngành nghề nào cũng đều có Trạng Nguyên của ngành nghề đó cả. Ý muốn nói : Bất cứ nghề nào cũng có thể phát triển đến đỉnh điểm và làm giàu lớn được cả !

HÀNH 行 : còn là một thể loại Văn Học chỉ tất cả các bài thơ có thể phổ nhạc và hát được kể cả thơ trường thiên, như : TÌ BÀ HÀNH 琵琶行 của Bạch Cư Dị, TÒNG QUÂN HÀNH 從軍行 của LÝ Cần, LỆ NHÂN HÀNH 麗人行 của Đỗ Phủ....

 

HÀNH 行 là chữ tiêu biểu cho câu nói của ông bà ta xưa kia thường nhắn nhủ là : Nhất tự lục nghì 一字六義 (Một chữ mà có tới 6 nghĩa !).

 

Trở lại với câu thiệu mở đầu bài viết nầy với đầy đủ cặp Lục Bát như sau :

 

Chim chích mà đậu cành tre,

Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm !

 

"Chim chích mà đậu cành tre" là bộ XÍCH ㄔ mà chúng ta đã biết ở trên. Câu tám "THẬP 十 trên TỨ 四 dưới NHẤT 一 đè chữ TÂM 心" là chỉ nói theo tự dạng mà thôi; Lẽ ra phải là "THẬP 十 trên MỤC 目 dưới NHẤT 一 đè chữ TÂM 心" mới đúng. Vì đó là chiết tự của chữ ĐỨC 德 với nghĩa Hội Ý của 5 bộ lại như sau :

 

Bộ XÍCH ㄔ bên trái chỉ Bước chân với ý hiểu rộng ra là ĐI ĐỨNG, THẬP MỤC 十目 (chữ MỤC được đặt nằm ngang) là Mười con mắt, Ý chỉ THẤY NHIỀU. NHẤT TÂM 一心 là Một Tấm Lòng. Vậy ĐỨC 德 là gì ?! Xin thưa theo phép Hội Ý là :

 

"ĐI NHIỀU, THẤY NHIỀU, mà làm việc gì hay xét đoán điều gì đó biết thông qua MỘT TẤM LÒNG để xét nét rồi mới nói mới làm, thì đó chính là lời nói và hành động có ĐỨC đó !"

 

Một hình thức khác nữa của chữ Đức 德 là Đức 惪 (hay 悳 Đức) nầy đây. Bỏ hẵn bộ XÍCH 彳bên trái, và bộ Mục 目 được viết thẳng đứng hẵn hoi, hợp với chữ Thập 十 thành chữ TRỰC 直 là Ngay thẳng. Chiết tự chữ ĐỨC 惪 nầy gồm có TRỰC 直 trên, TÂM 心 dưới. Có nghĩa : Một tấm lòng ngay thẳng ! Vâng, MỘT TẤM LÒNG NGAY THẲNG đã là ĐỨC rồi !

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Diễn tiến và hình thành của chữ ĐỨC 德

 

Ông bà ta thường nói "Có ĐỨC mặc sức mà ăn" cho thấy "Cái ĐỨC" của con người nó quan trọng biết chừng nào ! Không dám lạm bàn, chỉ nói theo "chiết tự" của chữ viết : ĐỨC là lời nói và việc làm ngay thẳng đúng với lương tâm của con người đang sống trong một xã hội nào đo !

 

Còn một chữ nữa cũng khá thú vị đối với các thư sinh học chữ Nho ngày xưa, đó là chữ NHIÊN 然 : là Nấu, là Đốt... theo câu thiệu chiết tự của các Cụ Đồ Nho ngày xưa như sau :

 

Canh khuya NGUYỆT xế tà tà,

Bỗng nghe CHÓ cắn canh đà điểm TƯ !

Ta thấy :

Chữ NHIÊN 然 phần trên bên trái có chữ NGUYỆT 月 được viết xiên xiên tà tà, bên phải là chữ KHUYỂN 犬 là con chó đang Sủa (cắn) trăng, và tận cùng phía dưới là bộ HOẢ 火 biến thể bằng 4 chấm 灬 (canh đà điểm tư !). Chữ NGUYỆT 月 còn là một hình thức biến dạng của bộ NHỤC 肉, mà NHỤC 月 với KHUYỂN 犬 ghép lại cũng là chữ NHIÊN 肰 có nghĩa là THịT CHÓ. Nên hai câu thiệu bằng Lục Bát nói trên có thể lý giải theo phép Hội Ý lý thú như sau :

 

... Đêm trăng thanh gió mát, cùng tụ tập dưới ánh trăng nghiêng nghiêng, ngâm thơ uống rượu và "nhâm nhi" với thịt chó đang bốc khói trên lò lửa, thì còn gì khoái trá cho bằng ?! Nên ...

 

NHIÊN 然 là Động từ có nghĩa gốc là Đốt, là nấu, nhưng thường được sử dụng làm Trợ từ có nghĩa là : Đúng vậy ! là Hiển Nhiên là thế ! là Tự Nhiên ! là Naturellement ! là Naturally ! Khi dùng để chuyển tiếp thì có nghĩa là : Rồi Sau Đó .... là Nhiên Hậu 然後... Còn...

 

 

 

 

 

 

 

 

NHIÊN (Chung Đĩnh văn) Kim văn Tiểu Triện Khải Thư

 

Chữ NHIÊN 然 bây giờ chỉ có nghĩa là NẤU, là ĐỐT khi được gia thêm một bộ HỎA 火 ở bên trái nữa như sau 燃, như trong từ NHIÊN LIỆU 燃料 là Chất Đốt vậy ....

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

- NHIÊN PHÁO HOA 燃炮花 là Đốt pháo bông, là bắn pháo hoa.

- NHIÊN ĐĂNG 燃燈 là Đốt đèn, là thắp đèn lên.

- NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT 燃燈古佛 là một vị Phật (tiếng Phạn là Dipankara hay Dipanikara) là vị Phật thứ tư trong danh sách 28 vị Phật. Nhiên nghĩa là đốt cháy, Đăng là cây đèn. Nhiên Đăng Cổ Phật cũng có khi được gọi là Nhiên Đăng Phật (燃燈仏), Đính Quang Phật 錠光佛, "Đính 錠" là cái chân đèn.

Trong Đại trí độ luận, đức Nhiên Đăng Cổ Phật khi đản sinh, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên gọi là Nhiên Đăng Thái tử. Khi thành Phật cũng gọi là Nhiên Đăng, xưa gọi tên là Đính Quang Phật. Ở các chùa Việt Nam và Trung Quốc, Nhiên Đăng Cổ Phật thường được thờ chung với Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Di-lặc trong bộ tượng Tam thế Phật, nghĩa là các vị Phật thời quá khứ, hiện tại và vị lai (trong đó Phật Nhiên Đăng đại diện cho chư Phật trong quá khứ, Phật Thích-ca là vị Phật thời hiện tại và Phật Di-lặc tượng trưng cho chư Phật thời vị lai).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hẹn bài viết tới !

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

dcd_chimchichcanhtre.JPG
dcd_1hangcotrang.JPG
dcd_chuDuc.JPG
dcd_nhien.JPG
dcd_newDuc.JPG
dcd_Thichca.JPG
dcd_tungu_4.JPG

Gần Tết, ta hay nghe những lời chúc tụng lẫn nhau, chúc khỏe mạnh, chúc giàu sang, chúc sống lâu, chúc mua may bán đắt , chúc mọi điều như ý... Vậy, CHÚC 祝 là gì ? Ta sẽ truy nguyên để tìm hiểu nghĩa gốc của chữ CHÚC nầy nhé !

 

      Theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" thì CHÚC thuộc dạng chữ tổng hợp của Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có diễn tiến chữ viết như sau :

dcd_Chuc.JPG

Ta thấy :

            Từ Giáp Cốt Văn, Đại Triện đến Tiểu Triện : Bên trái có một gạch ngang ba gạch xuôi là cái bàn thờ ông Thiên, phía trên có một gạch ngắn như cái dĩa đựng đồ cúng là bộ THỊ 示, có nghĩa là Bày Tỏ. Bên phải là hình tượng của một người quỳ trước bàn thờ, phần trên là chữ KHẨU口 là Cái Miệng, phần dưới là chữ NHÂN 儿(人) là Người; Cái Miệng của Người muốn bày tỏ khi cúng tế, tức là VAN VÁI. Nên CHÚC 祝 là Những lời Van Vái khi cúng tế, thường thì đều là những lời tốt đẹp, đâu có ai vái những điều xấu xa bao giờ, nên nghĩa gốc của Chúc là "Những lời van vái". Sau nầy dùng rộng ra, hễ "Nói Những lời Tốt Đẹp Cho Người Khác " thì cũng gọi là CHÚC. Như :

      - Tôi CHÚC cho anh được bình an trong mùa Cô-vít. Tức là...

      - Tôi VAN VÁI cho anh được bình an trong mùa Cô-vít đó !

 

     CHÚC 祝 khi là Danh từ còn có nghĩa là "Phù Thủy Nam", ta gọi là Thầy Pháp, Thầy Cúng, người chuyên cúng tế ở các đình chùa miếu mạo, bây giờ là Ông Từ, gọi theo chữ NHO là Miếu Chúc 廟祝. và Ông Từ ngày nay thì chỉ ở để giữ chùa và ăn ké cơm của chùa mà thôi ! Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" có câu :

 

                Quan thanh thư lại sấu,         官清書吏廋,

                Thần linh MIẾU CHÚC phì.    神靈廟祝肥。

Có nghĩa :

             - Ông quan thanh liêm thì người thư ký ốm (vì phải làm việc nhiều và không có tiền... hối lộ !). Còn...

            - Ông thần mà linh thiêng thì ÔNG TỪ (người giữ chùa) sẽ mập ra (Vì có nhiều người đến cúng tế cho mà ăn !).

     Những từ được thành lập bởi chữ CHÚC rất nhiểu, nhất là vào dịp Tết Âm Lịch như hiện nay, Ta thường gặp các từ như ...

 

        - Chúc Xuân, Chúc Tết,

        - Chúc Phúc, Chúc Thọ.

        - Chúc may mắn, Chúc giàu sang, Chúc mua may bán đắc, Chúc an khang thịnh vượng, Chúc vạn sự như ý ....

 

       Chữ CHÚC đã được Việt hóa thành chữ Nôm và mất đi Ý nghĩa lúc ban đầu là Lời VAN VÁI.

 

                 

       Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" lại có câu :

 

                   是非終日有,   THỊ PHI chung nhật hữu,

                   不聽自然無。   Bất thính tự nhiên vô.

Có nghĩa :

           - Chuyện THỊ PHI có suốt ngày, nếu...

           - Không nghe thì tự nhiên sẽ như không có chuyện gì xảy ra cả !

 

      Vậy chuyện THỊ PHI 是非 là chuyện gì ? Ta tìm hiểu nghĩa "đen thùi" của nó nhé !

      THỊ 是 là ĐÚNG, PHI 非 là SAI; THỊ là PHẢI, PHI là TRÁI; THỊ là TỐT, PHI là XẤU... Nên CHUYỆN THỊ PHI là "Chuyện Đúng Sai, Phải Trái, Tốt Xấu của tất cả mọi người, của tất cả mọi chuyện ở trên đời nầy". Nên, chuyện Thị Phi là... chuyện của các người hay ngồi lê đôi mách, chuyện của các "ông bà Tám" ăn không ngồi rồi, chuyện của những người "ăn cơm nhà lo chuyện thiên hạ"... Nên tiếp đó "Tăng Quảng Hiền Văn" lại có câu :       

            

                   來說是非者,   Lai thuyết THỊ PHI giả,

                   便是是非人。   Tiện thị THỊ PHI nhân.

Có nghĩa là :

           - Những người đến nói chuyện THI PHI, thì...

           - Chính những người đó là những CON NGƯỜI THỊ PHI đó !

 

     Nói chuyện THỊ PHI, còn có nghĩa nói tốt cho người nầy, nói xấu cho người kia; Tệ hại hơn nữa là đặt điều nói xấu người khác hay vẽ chuyện để nịnh bợ kẻ bề trên... Vì THỊ cũng có nghĩa là CÓ, PHI là KHÔNG, Nên Chuyện THỊ PHI cũng là "Chuyện có nói không , chuyện không nói có". Nên ích lợi thì không thấy mà tác hại thì vô cùng ! "Tăng Quảng Hiền Văn" lại khuyên răn :

 

                  莫待是非來入耳,   Mạc đãi THỊ PHI lai nhập nhĩ,

                  從前恩愛反為仇。   Tòng tiền ân ái phản vi cừu.

Có nghĩa :

        - Đừng nên để cho chuyện THỊ PHI lọt vào tai, để nên nổi...

        - Trước đây từng yêu thương ân ái với nhau bây giờ lại hóa ra thù hận.

 

      Trong Truyện Kiều, khi có người muốn tâng công, đến mách với Hoạn Thư là Thúc Sinh có vợ lẻ bên ngoài; Hoạn Thư đã ra lệnh thị uy "đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng" và bảo cho chúng biết rằng :

 

                                Chồng tao nào phải như ai,

                     Điều này hẳn miệng những người THỊ PHI!

            

         Ngoài miệng thì nói thế, chớ trong lòng Hoạn Thư thì lại ấm ức vô cùng "Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho" và quyết lòng "Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên". Ngoài miệng nói khác, còn trong lòng thì nghĩ khác, người ta gọi như thế là "Khẩu THỊ tâm PHI 口是心非", là miệng thì nói phải mà lòng thì nghĩ trái lại :

 

                             Bề ngoài thơn thớt nói cười,

                   Mà trong nham hiểm giết người không dao !

 

                 

     Ta hay nghe người đời nhắc tới TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN, vậy Tăng Quảng Hiền Văn là gì ?

 

                       TĂNG QUẢNG 增 廣 là làm cho Gia tăng và Mở rộng.

                       HIỀN VĂN 賢 文 là Áng văn hay, áng văn dạy những điều tốt lành.

Nên...

      TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 增 廣 賢 文 là Áng văn hay, dạy cho ta những điều tốt điều lành, làm cho ta gia tăng và mở rộng thêm kiến thức về mọi mặt của cuộc sống. Thường thì khi nhắc đến từ HIỀN là người ta nghĩ ngay đến LÀNH, nên ta có từ kép là HIỀN LÀNH để đối xứng với từ kép HUNG DỮ. HIỀN là ngoan ngoản tuân phục không chống đối, nên ta cũng có từ kép NGOAN HIỀN. HIỀN là có lòng nhân hậu từ ái, dịu dàng, hòa nhã, nên ta lại có các từ kép HIỀN HẬU, HIỀN TỪ, HIỀN HÒA, HIỀN DỊU... như một nữ tu dễ thương, vì thế mà ta thường nghe câu "Em hiền như Ma-Sơ"... 

      Ngoài nghĩa HIỀN là... Hiền ra, HIỀN còn có nghĩa là GIỎI GIANG, TÀI BA, THÁNH THIỆN, như ta thường nghe :

    - THÁNH HIỀN 聖賢 : Người được xem là có đạo đức rất cao và tài năng rất giỏi trong xã hội phong kiến ngày xưa mà cho đến ngày nay vẫn còn được mọi người tôn sùng kính trọng.

    - HIỀN THẦN 賢臣 : Bề tôi giỏi giang về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... có tài giúp vua dựng nước và giữ nước. 

    - HIỀN TÀI 賢才 : Người có tài cao, học rộng và có đạo đức tốt, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc. HIỀN TÀI còn là cái Phẩm đầu tiên trong Ban Thế Đạo của Cao Đài Giáo, là người có tài đức, có trí thức vượt trôi trong hàng đạo hữu bình thường.

    - HIỀN NHÂN QUÂN TỬ 賢人君子 : Đây là hình tượng mẫu người lý tưởng của Nho Giáo ngày xưa : là người đàn ông có phẩm hạnh đạo đức tốt (quân tử) lại có tài kinh luân thao lược (hiền nhân) là mẫu người đàn ông lý tưởng của các bà các cô ngày xưa.

     Nên...

          * HIỀN MẪU 賢母 : Chẳng những là "Bà mẹ hiền" mà còn là "Bà mẹ giỏi giang" nữa ! Tương tự, ta có :

          * HIỀN THÊ 賢妻 : là người vợ hiền lành giỏi giang.

          * HIỀN PHỤ 賢婦 : là người phụ nữ hiền hòa từ ái, đãm đang và quán xuyến trong ngoài.                                            

              

      Trong cuộc sống lứa đôi, người ta thường nhắc đến hai chữ CHUNG THỦY để chỉ tình nghĩa vợ chồng luôn gắn bó với nhau mà không có kẻ thứ ba nào chen vào. Nếu "Ông ăn chả" hoặc "Bà ăn nem" thì gọi là "KHÔNG CHUNG THỦY", là không một lòng một dạ với người hôn phối hoặc người yêu của mình. Vậy CHUNG THỦY nghĩa gốc là gì, ta sẽ lần lược tìm hiểu sau đây : 

      

     CHUNG THỦY 終始, đúng ra phải nói là THỦY CHUNG 始終. Tại sao ? Thưa, vì...

 

     - THỦY 始 : Còn đọc là THỈ theo diễn tiến của chữ viết như sau :

dcd_Thuy.JPG

Ta thấy :

       Chung Đỉnh Văn và Tiểu Triện là hai hình tượng ngược lại với nhau nhưng cùng diễn một ý. Tiểu Triện bên trái là chữ NỮ 女 () là Cô gái, bên phải phần trên là hình tượng của một đứa bé mới sinh đầu lật ngược trở xuống (), phần dưới là cái chậu đựng nước () dùng để hứng lấy đứa bé. Nên THỦY 始 là hình tượng của cô gái sinh con với Hội Ý là "Cuộc sống mới bắt đầu"; Cho nên THỦY có nghĩa là BẮT ĐẦU, MỞ ĐẦU, như :

     - Khởi Thủy 起始 : là Vừa mới bắt đầu, Bắt đầu ...

     - Nguyên Thủy 原始 : là Lúc bắt đầu, lúc ban đầu.

     - Thủy Tổ 始祖 : là Ông Tổ đầu tiên khai sáng ra... cái gì đó.

Còn...

     - CHUNG 終 : là Hết, là dạng chữ Hình Thanh, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

dcd_chung.JPG

Ta thấy :

           Giáp Cốt Văn là hình tượng của 2 đầu kén của con tằm đã được kéo thành tơ, đến Kim Văn thì cuộn tơ đã thành hình được treo lên cho rũ hai đầu xuống hai bên, đến Tiểu Triện thì bên trái lại thêm bộ MỊCH 糸() là cuộn tơ đã được đưa lên máy dệt là đã hoàn thành giai đoạn kéo tơ dệt vải. Bên phải là chữ ĐÔNG 冬 để lấy Âm (dong). Nên CHUNG có nghĩa là : Hoàn thành, Chấm dứt, là Hết, là Kết cuộc, là Xuyên suốt ... như :

         - Chung Kết 終結 : là Chấm hết, là Cuối cùng

         - Chung Cục 終局 : là Kết cuộc, là đến nước sau cùng . 

         - Chung Thân 終身 : là Xuyên suốt cả cuộc đời, là suốt đời.

Nên :

         THỦY là Mở đầu, CHUNG là Kết cuộc. Cái gì có mở đầu mà có kết cuộc  thì gọi là "CÓ THỦY CÓ CHUNG"; còn có mở đầu mà không có kết cuộc thì gọi là "Hữu thủy vô chung 有始無終". Thương ai đó nửa chừng rồi bỏ, thì nói là "Có Thủy mà không có Chung", nói cho gọn là "không chung thủy". Không phải chỉ trong tình yêu mà thôi, hễ làm việc gì đó mà bỏ dở giữa chừng thì cũng bị gọi là người "làm viêc không có chung thủy", là làm việc có đầu không có đuôi . CHUNG THỦY là Đầu Đuôi, là Trước  làm sao thi sau cũng làm vậy, là "Trước sau như một" chữ Nho gọi là THỦY CHUNG NHƯ NHẤT 始終如一  !

         Nên "Con Người CHUNG THỦY" là con người bền lòng chặc dạ, trước sau như một, kể cả trong tình yêu và việc làm trong cuộc sống hằng ngày.

 

         CHUNG là hết, là cuối, là kết thúc... Nên cuối các quyển thơ, truyện ngày xưa hay có chữ "CHUNG" thật lớn. Các từ có chữ CHUNG mà ta  thường gặp như :

        - Lâm Chung 臨終 : là lúc sắp hết cuộc đời, là lúc sắp chết.  

        - Thọ Chung 壽終 : là Tuổi thọ đà hết, là chết già, chết thọ. Còn...            

        - Chung Nhật 終日 : là hết ngày, là suốt ngày, như câu ta vừa đề cập ở trên là :

                    是非終日有 Thị phi CHUNG NHẬT hữu  (là chuyện thị phi có SUỐT CẢ NGÀY).

       - Chung Niên 終年 : là suốt cả năm, là quanh năm. Nhưng ...

       - Niên Chung 年終 : là Năm hết Tết đến. Còn THỦY thì ta có thành ngữ "Nhất Nguyên phục THỦY 一 元 復 始" mà ta thường hay thấy làm vế đầu của câu đối Tết treo trước cổng ra vào như sau :

 

                         Nhất Nguyên phục THỦY,    一 元 復 始,

                         Vạn tượng canh tân.           萬 象 更 新!

Có nghĩa :

            -  Cái nguyên khí của trời đất trở lại lúc ban đầu, làm cho...

            -  Vạn vật muôn loài đều đổi mới !

dcd_tapghi_4.JPG

Mong rằng trong mùa XUÂN mới nầy, cùng với vạn vật đón xuân vươn mình đổi mới thì con người chúng ta cũng sẽ quật cường đổi mới vươn lên sống hòa mình với cơn dịch thế kỷ đã gần

đến hồi CÁO CHUNG nầy. Mong lắm thay !

 

       Cầu CHÚC cho tất cả mọi người, mọi nhà trên thế gian nầy đều có được một MÙA XUÂN NHƯ Ý,  AN KHANG THỊNH VƯỢNG !

* Mời nghe Như Quỳnh hát nhạc xuân :

 

   Như Quỳnh - Tâm sự ngày xuân (Hoài An)

  杜紹德

  Đỗ Chiêu Đức

DCD_Tu ngu ly thu 5.JPG

 Đó là đôi câu đối của Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến viết cho vợ chồng ông hàng thịt khi cận Tết; Vợ chồng nầy đã mang tặng cho cụ Nguyễn Khuyến một bát tiết canh và một đôi bồ dục (qủa Thận, miền Nam gọi là Cật heo). Cụ đã xúc cảnh sinh tình viết đôi câu đối trên để tặng lại cho hai vợ chồng ông hàng thịt về treo trước của để mừng xuân đón Tết :

 

                   四時八節更終始, TỨ THỜI BÁT TIẾT canh chung thủy,

                   岸柳堆蒲欲點妝。 Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang. 

Chú thích :

  - Tứ Thời Bát Tiết 四時八節 : TỨ THỜI là bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông; BÁT TIẾT là Tám cái thời tiết chính trong năm, là : Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân và Đông Chí.

  - Canh Chung Thủy 更終始 : CANH là Thay đổi (như CANH TÂN là đổi mới). CHUNG là Cuối cùng là hết; THỦY là Bắt đầu. Nên CANH CHUNG THỦY là Sự thay đổi vận hành về thời tiết của trời đất hết một vòng rồi bắt đầu trở lại. 

  - Ngạn Liễu Đôi Bồ 岸柳堆蒲 : NGẠN LIỄU là Hàng liễu mọc dọc theo ven sông; ĐÔI BỒ là Hoa Bồ Công Anh là rau bồ cóc, diếp hoang, diếp dại thuộc họ hoa cúc, nở hoa màu vàng nhỏ mọc lẫn lộn trong cỏ dại. Nên NGẠN LIỄU ĐÔI BỒ là bờ liễu xanh có những khóm hoa vàng lấm tấm mọc trong cỏ dại.

  - Dục Điểm Trang 欲點妝 : DỤC là muốn; ĐIỂM TRANG là động từ chỉ sự thoa thoa chấm chấm để làm đẹp của các bà các cô. Nên DỤC ĐIỂM TRANG ở đây chỉ : Liễu bên bờ sông xanh hơn và hoa bồ nở lấm tấm như muốn chấm phá trang điểm cho mùa xuân đẹp hơn lên.

     Nên, câu đối trên có nghĩa :

        

                  Bốn mùa tám tiết chung rồi thủy,

                  Liễu biếc hoa vàng điểm lại trang !

 

                

 

    Câu đối rất bác học, rất nên thơ, vừa trí thức, vừa bình dân, vừa văn hoa vừa thực tế. Bác học vì nói lên sự vận hành của trời đất theo âm dương dịch lý; nên thơ vì gợi được cảnh sắc của buổi đầu xuân; Trí thức vì là câu đối chữ thâm thúy, bình dân vì có ẩn chữ Nôm thường dùng trong đó : Nếu tinh ý, ta sẽ thấy vế đầu của câu đối "Tứ thời Bát Tiết Canh chung thủy", có 3 chữ giữa là "Bát Tiết Canh"trong đó; và vế sau "Ngạn liễu Đôi Bồ Dục điểm trang" có 3 chữ giữa là "Đôi Bồ Dục" ẩn trong đó. Vừa văn hoa theo câu đối Tết lại vừa thực tế để cám ơn người đã tặng cho mình "Bát tiết canh và Đôi bồ dục". 

    Đó là chuyện văn chương lý thú của Tam Nguyên Yên Đỗ, còn ở đây ta chỉ chú trọng đến từ TIẾT trong Tứ Thời Bát Tiết mà thôi.

 

    Bỏ qua nghĩa gốc TIẾT là các mắt, các lóng của thảo mộc cỏ hoa, như Các mắt của cây tre, các lóng của cây mía, hay là Khí Tiết của người quân tử ... Ta chỉ xét ý nghĩa của chữ TIẾT ở 2 mặt :

THỜI TIẾT 時節 và LỄ TIẾT 禮節.

 

  * THỜI TIẾT 時節 : THỜI là Thời Vụ 時務 là Mùa màng; TIẾT là Khí Tiết 氣節 là Khí hậu. Nên THỜI TIẾT là chỉ Khí hậu mùa màng trong chu kỳ một năm tính theo Âm lịch như sau :

    Một năm có 4 mùa là Xuân Hạ Thu và Đông; Mỗi mùa có 3 tháng; Mỗi tháng có 2 tiết; Mỗi mùa có 6 tiết; Một năm có 4 mùa, vị chi là 24 tiết, có tên như sau :

     1. Mùa Xuân :

        Tháng giêng có 2 tiết : Lập xuân, Vũ thủy 立春、雨水、

        Tháng hai có 2 tiết : Kinh trập, Xuân phân 驚蟄、春分、

        Tháng ba có 2 tiết : Thanh minh, Cốc vũ 清明、穀雨、

     2. Mùa Hạ :

        Tháng tư có 2 tiết : Lập Hạ, Tiểu mãn 立夏、小滿、

        Tháng năm có 2 tiết : Mang chủng , Hạ chí 芒種、夏至、

        Tháng sáu có 2 tiết : Tiểu thử, Đại thử  小暑、大暑、

     3. Mùa Thu :

        Tháng bảy có 2 tiết : Lập thu, Xử thử 立秋、處暑、

        Tháng tám có 2 tiết : Bạch lộ, Thu phân 白露、秋分、

        Tháng chín có 2 tiết : Hàn lộ, Sương giáng 寒露、霜降、

     4. Mùa Đông :

        Tháng mười có 2 tiết : Lập Đông, Tiểu Tuyết  立冬、小雪、

        Tháng mười một có 2 tiết : Đại tuyết, Đông chí 大雪、冬至、

        Tháng mười hai có 2 tiết : Tiểu hàn, Đại Hàn 小寒、大寒。

    

     Đó là 24 tiết tính theo thời vụ mùa màng của nông dân căn cứ vào KHÍ TIẾT của THỜI TIẾT mà canh tác trồng trọt. Còn...   

 

     * LỄ TIẾT 禮節 là các ngày nghỉ lễ rổi rảnh ăn mừng cho một giai đoạn canh tác, một thời điểm giao mùa chuyển từ thời vụ nầy qua thời vụ khác hay là giai đoạn thích hợp cho các phong tục tập quán nhân lúc nông nhàn rảnh rổi. Vì thế BÁT TIẾT 八節 ngoài nghĩa được hiểu là 8 trong 24 Thời Tiết trong năm ra, còn được hiểu là những ngày Lễ Hội trong năm như sau :

    

     1. Thượng Nguyên Tiết 上元節 : Còn được gọi là Tiết Nguyên Tiêu 元宵節, là ngày Rằm tháng giêng hay Rằm Thượng Nguyên (ngày 15 tháng 1 Âm lịch), ngày trăng tròn của tháng đầu tiên nên cũng là ngày hội hoa đăng đầu tiên trong năm, nên còn gọi là Đăng Tiết 燈節 (Lễ Đèn). Ngày này ta thường gọi là ngày "Rằm Thượng Ngươn" hay "Tết Nguyên Tiêu".

    2. Hoa Triêu Tiết 花朝節 : Ngày 12 hoặc 15 của tháng 2 Âm lịch là ngày Lễ Hội mừng Sinh Nhật của các loài hoa khi trăm hoa đang nở rộ (Ta không có lễ hội nầy).

     3. Thanh Minh Tiết 清明節 : Thường ở vào các ngày đầu tháng 3 Âm lịch, tiết trời trong sáng và "Cỏ non xanh tận chân trời", nên lại là ngày "Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh" như cụ Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều. Đây là ngày quét tước mồ mả cúng tế ông bà vừa để tưởng nhớ công ơn vừa để trình cho biết về hoạt động cho vụ mùa sắp tới. Giới bình dân thường gọi ngày này là "Tết Thanh Minh".

     4. Lập Hạ Tiết 立夏節 : HẠ là Hoa Hạ, Hạ còn có nghĩa là lớn, Lập Hạ là Lễ mừng cây ươm trồng ở mùa xuân đã lớn. Nghinh Hạ ở nam giao, tế Xích đế Chúc Dung (thần lửa). Ta không có ngày mừng lễ tết nầy.

     5. Đoan Ngọ Tiết 端午節 : Ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch. Theo Kinh Dịch số 5 thuộc dương, nên còn gọi là Tiết Đoan Dương 端陽節. Ngày này có lệ rải vôi quanh nhà và tưới rượu hùng hoàng để ngừa rắn rết vào nhà. Cúng tế Ôn Thần và Tống trừ Ôn dịch. Ta gọi là Tết Đoan Ngọ hay Tết giữa Năm. Trong ca dao dân gian của ta theo Quốc văn Giáo Khoa Thư (1943) và trong Thi Viên net. cũng có câu :

                                   Tháng tư đong đậu nấu chè

                            Ăn TẾT ĐOAN NGỌ trở về tháng năm.

     6. Trung Nguyên Tiết 中元節 : là ngày Rằm tháng bảy, nông phẩm hằng năm đã bắt đầu thu hoạch. Nông dân làm lễ cúng tạ đất đai. Nhưng theo Đạo giáo là ngày lễ Điạ Quan xá tội; sau do ảnh hưởng của Phật giáo, rằm tháng bảy là ngày Xá Tội Vong Nhân, là Tiết Vu Lan Bồn 盂蘭盆節. Ta gọi là Lễ Vu Lan. Trong bài ca dao dân gian nêu trên cũng có câu :

                                Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,

                           Tháng bảy ngày rằm Xá Tội Vong Nhân.

 

                               7. Trung Thu Tiết 中秋節 : là ngày rằm tháng tám, là ngày trăng tròn và sáng nhất trong năm, nên còn gọi là ngày Lễ Mặt Trăng, có tục lệ cúng trăng; Trăng tròn tượng trưng cho sự đoàn viên  ( ĐOÀN 團 là một khối tròn, VIÊN 圓 là Tròn trịa đầy đặn; nên ĐOÀN VIÊN là Một khối tròn trịa  đầy đặn không bị sứt mẻ) Nên Tiết Trung Thu còn được gọi là Tiết Đoàn Viên 團圓節 cho những người ở nơi xa tìm về đoàn tụ với gia đình. Ta gọi là ngày Tết Trung Thu và là ngày Tết Nhi Đồng của Việt Nam ta.  Đúng như câu :" Tháng tám chơi đèn kéo quân"...

     8. Trùng Dương Tiết 重陽節 : Ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch, nên còn gọi là Tiết Trùng Cửu 重九節. Vì mùa màng đều đã thu hoạch xong cả rồi nên con cháu thường chọn những món ngon vật lạ dâng lên cho ông bà, nên còn gọi là Lão Nhân Tiết 老人節 (Lễ Tết của Người Già), là Lễ tiết cuối cùng trong năm, vì sau đó thời tiết sẽ chuyển lạnh, nên lại có tục đăng cao để tạ ơn và tế lễ mồ mả ông bà. Ngắm hoa cúc và uống rượu cúc "Thu ẩm hoàng hoa tửu 秋飲黃花酒" chính là lúc nầy đây. Ta thường gọi là Tết Trùng Cửu.

     Ngoài ra, vượt lên trên tất cả các lễ tiết, ta còn có Nguyên Đán Tiết 元旦節, ta gọi là Tết Nguyên Đán để cùng mừng đón năm mới tuổi mới vì đó là ngày đầu tiên trong năm với rất nhiều tục lệ và lễ hội vui chơi tùy theo từng vùng từng địa phương "ĂN TẾT" như thế nào. Gần đây, người Trung Quốc phân biệt gọi Tết Dương Lịch là "Nguyên Đán Tiết", còn Tết Âm lịch thì được gọi là XUÂN TIẾT 春節. Như ta thường gọi Tết Nguyên Đán là "Ba Ngày Xuân" vậy.

 

     Sỡ dĩ phải kể lể dài dòng văn tự như trên để cho thấy là chữ TẾT trong tiếng Nôm ta có nguồn gốc từ chữ TIẾT mà ra, để khỏi phải mắc công nhiêu khê đi tìm nguồn gốc của chữ TẾT, trong khi NÓ đã rành rành hiển nhiên trong cuộc sống từ mấy ngàn năm qua cho đến hiện nay, như Tết Nguyên Tiêu, Tết Thanh Minh, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu, Tết Trùng Cửu... Cụ thể nhất là trong Từ Điển Hán Nôm trên mạng của ta cũng phiên âm chữ TIẾT 節 là TẾT, và từ LỄ TIẾT 禮節 được đọc thành LỄ TẾT.

 

          

     

      Nói đến LỄ TẾT thì không thể không nhắc đến ông bà Tổ tiên, nên ngày 30 cuối cùng của tháng Chạp, được gọi là "NGÀY 30 TẾT" thì tất con cháu đều làm lễ "Rước Ông Bà" về để cùng "Ăn Tết". Miền Bắc thì có bàn thờ "Gia Tiên", miền Nam thì có bàn thờ "Cửu Huyền Thất Tổ".

 

      GIA TIÊN 家先 là nói gọn lại của nhóm từ GIA TỘC TIÊN TỔ 家族先祖. GIA TỘC là những người cùng chung một dòng họ trong gia đình; TIÊN TỔ là Ông tổ của những đời trước bắt đầu từ ông nội trở lên. Nên "Bàn Thờ Gia Tiên" là Bàn thờ thờ phượng những bậc cha ông tiền bối trước đó của gia đình họ tộc. Nói chung cho dễ hểu là "BÀN THỜ ÔNG BÀ TIÊN TỔ". Tương tự...

 

      CỬU HUYỀN THẤT TỔ 九玄七祖 : là nhóm từ chỉ chung tất cả dòng họ tổ tiên theo hệ thống Phụ Hệ, sẽ được siêu độ từ cao nhất xuống thấp nhất. Theo các ĐẠO KINH 道經 của Đạo Giáo : Nếu như một người đắc đạo thì cả Cửu Huyền Thất Tổ của người đó đều được siêu thăng !  道教經典《道經》認為,如果一人能得道,他的九玄七祖都能獲得超升。 Vậy "CỬU HUYỀN THẤT TỔ" là những ai ? Đó chính là 7 đời cha ông về trước và 9 đời con cháu về sau 九玄是指之後的九代子孫,七祖是指之前的七代祖先. Cụ thể như sau :

 

    * THẤT TỔ 七祖 gồm có :

          1. PHỤ 父 (cha),                PHỤ THÂN 父親.

          2. TỔ 祖 (Ông Nội),           TỔ PHỤ   祖父.

          3. TẰNG 曾 (Ông Cố),        TẰNG TỔ  曾祖.

          4. CAO 高 (Ông Sơ),          CAO TỔ   高祖.

          5. THÁI 太 (ông Cố Sơ),     THÁI TỔ  太祖.

          6. HUYỀN 玄 (ông Cố cố),  HUYỀN TỔ 玄祖.

          7. HIỂN 顯 (Ông Sơ Sơ).    HIỂN TỔ  顯祖.

 

      Gom lại cho gọn cho dễ nhớ, THẤT TỔ là : PHỤ, TỔ, TẰNG, CAO, THÁI, HUYỀN, HIỂN.

Còn...

   * CỬU HUYỀN 九玄 thì gồm có :

          1. TỬ 子 (Con)                   NHI TỬ 兒子.

          2. TÔN 孫 (Cháu)               TÔN TỬ 孫子.

          3. TẰNG 曾 (Chắt)              TẰNG TÔN 曾孫.

          4. HUYỀN 玄 (Chút)            HUYỀN TÔN 玄孫.

          5. LAI 來 (Chít)                  LAI TÔN 來孫.

          6. CÔN 昆 (Chắt Chắt)        CÔN TÔN 昆孫.

          7. NHƯNG 仍 (Chút Chút)   NHƯNG TÔN 仍孫.

          8. VÂN 雲 (Chít Chít)          VÂN TÔN 雲孫.

          9. NHĨ 耳 (Cháu 8 đời)       NHĨ TÔN 耳孫.

 

    Nói gọn lại CỬU HUYỀN là : TỬ, TÔN, TẰNG, HUYỀN, LAI, CÔN, NHƯNG, VÂN, NHĨ.

 

         

 

 

 

 

 

 

     Trên đây là những tài liệu căn cứ vào các Đạo Kinh của Đạo Giáo được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Hoa.

 

     Hiện nhóm từ "CỬU HUYỀN THẤT TỔ" còn đang tranh cải trong tập quán thờ cúng của miền Nam, người miền Bắc và người Việt gốc Hoa không có bàn thờ CỬU HUYỀN THẤT TỔ. Chỉ có bàn thờ GIA TIÊN, tức bàn THỜ ÔNG BÀ. Có thể do ảnh hưởng của các pháp sư, thầy bùa, thầy pháp (các hình thức biến thể của Đạo Giáo) của dân gian trong việc cúng tế, nên người miền Nam mới có bàn thờ CỬU HUYỀN THẤT TỔ (Nhưng không phải nhà nào cũng có). Cũng có thể do từ CỬU HUYỀN còn có nghĩa là CỬU THIÊN 九天 mà ra chăng ?!...

 

     Để kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đọc một câu đối rất hay và rất phổ biến trong những nhà có bàn thờ CỬU HUYỀN THẤT TỔ như sau :

 

              Kính thất tổ thiên niên bất tận,                   敬七祖千年不盡,

              Trọng cửu huyền nội ngoại tương đồng.   重九玄內外相同。

Có nghĩa :

              Lòng kính trọng Thất Tổ ngàn năm cũng không dứt,

              Tôn trọng Cửu Huyền của 2 bên nội ngoại ngang bằng như nhau.

 

     Trở lại với câu nói trong ĐẠO KINH : "Nếu như một người đắc đạo thì cả Cửu Huyền Thất Tổ của người đó đều được siêu thăng ! 道教經典《道經》認為,如果一人能得道,他的九玄七祖都能獲得超升。"

 

     Hẹn bài viết tới !

 

         杜紹德

        Đỗ Chiêu Đức

                     

DCD_Ban tho gia tien_Cuu huyen that to.JPG
dcd_Thuy.JPG

Giai Thoại Văn Chương:

 

                          NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ  (8)

                                        Liễn Xuân

DCD_Nhungcaudoithuvi.JPG

                                                                                       Mỗi năm gom giấy bút,

                                                                                       Tạo dáng ông đồ già.

                                                                                       Nhưng lòng người không cũ,

                                                                                       Dửng dưng lại đi qua!

 

      Để mở đầu cho câu đối đón Tết trong mùa đại dịch đang chìm trong biến thể Omicron kỳ nầy, xin kính chúc mọi người đều được như câu đối mừng xuân dưới đây :

 

                 日日日日平安日,   Nhựt nhựt nhựt nhựt bình an mhựt,

                 春春春春如意春。   Xuân xuân xuân xuân như ý xuân !                      
                                                            

     - NHỰT 日 : là Ngày; 4 chữ NHỰT đi liền nhau có nghĩa là : Hết ngày này qua ngày khác, hết ngày nọ đến ngày kia. Tương tự...

     - XUÂN 春 : là Mùa Xuân; 4 chữ XUÂN đi liền nhau có nghĩa là : Hết xuân nầy qua xuân khác, hết xuân nọ đến xuân kia. Nên, câu đối trên có nghĩa :

 

        - Hết ngày này qua ngày khác đều là những ngày bình an,

        - Hết xuân nọ đến xuân kia đều là những mùa xuân như ý !

     

      Cầu mong cho mọi người đều có được một cái Tết, một mùa Xuân bình an như ý !

     Chuyện kể, có một ông họ Vương nọ, ngày thường tiêu pha hoang phí vô độ, nên đến Tết đâm ra túng quẩn. Đêm ba mươi Tết, để "ăn năn" cho sự hoang phí của mình ông ta đã viết đôi liễn Tết như sau để dán lên trước cổng :

 

                  行節儉劃,  Hành tiết kiệm hoạch,

                  過淡泊年。  Qúa đạm bạc niên.    

Chú thích :

           Ta gọi là ĂN TẾT, còn người Hoa gọi là QUÁ NIÊN. Ví dụ : Ta nói "Năm nay anh ĂN TẾT ở đâu?", thì người Hoa nói "Năm nay anh QUÁ NIÊN ở đâu?". Nên câu đối trên...

Có nghĩa :

               Thực hành kế hoạch tiết kiệm, 

               Ăn Tết một cách đạm bạc thôi !

 

         Qủa là nước tới trôn mới nhảy, lối xóm có người "cắc cớ" thêm cho mỗi câu một chữ. Sáng mồng một vừa mở cửa ra ông ta đã đọc thấy :

 

                  早行節儉劃,  TẢO hành tiết kiệm hoạch,

                  不過淡泊年。  BẤT qúa đạm bạc niên.

  Có nghĩa :

                  Nếu sớm biết thực hành kế hoạch tiết kiệm, thì...

                  Không phải ăn Tết một cách đạm bạc (như năm nay!)   

                                            

         

        Lại nói về GIẢI TẤN 解缙, người ở Trấn Văn Phong, huyện Cát Thủy, tỉnh Giang Tây, là một văn tài đời nhà Minh. Tương truyền, trước khi đậu Tiến sĩ, ông còn là một bạch diện thư sinh, nhà ở đối diện với một khu vườn trúc (Trúc 竹 là từ Hán Việt, có nghĩa là cây Tre). Vì là một thư sinh áo vải nhà nghèo, nên chiều ba mươi Tết, ông chỉ viết một đôi liễn dán lên trước cổng để đón giao thừa mà thôi, đôi liễn như thế nầy : 

                  

                  Môn đối thiên can trúc,         門對千竿竹,

                  Gia tàng vạn quyển thư.       家藏萬卷書。

Có nghĩa :

         - Đối diện trước cửa nhà là ngàn cây trúc, còn ...

         - Trong nhà thì cất giữ hàng vạn quyển sách.

 

        Ý của ông là muốn tỏ rõ cho mọi người biết mình là một thư sinh quân tử thanh cao như là vườn Trúc trước nhà, và là một thư sinh hiếu học với cả vạn quyển sách chứa trong nhà.

 

       Ngày xưa, Trúc được xem như là biểu tượng của người quân tử, được phong tặng là "Tiết trực tâm hư 節直心虛". TIẾT là các mắt, các lóng tre, TRỰC là thẳng, TÂM là cái Ruột tre, HƯ là trống không. Nên TIẾT TRỰC TÂM HƯ có nghĩa là : Các mắt tre thì thẳng tuột mà ruột tre thì bọng không, như biểu tượng cho khí tiết của người quân tử : Thẳng thắn mà không vụ lợi. Nhất là khi đã xuất sĩ để làm quan. Ta nhớ lại, lúc về Việt Nam chấp chánh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã dùng cả một bụi tre để làm biểu tượng cho chính quyền của mình, tất cả những con dấu từ Trung Ương đến Địa phương đều có hình bụi tre ở giữa với ý nghĩa Chính trực thanh liêm và  không vụ lợi !  

 

                                  

      Trở lại với...

      Câu đối của Giải Tấn. Sáng mùng một Tết, tên địa chủ của vườn trúc thấy đôi câu đối của ông, bèn nổi giận nghĩ rằng : Vườn trúc của ta để cho nó  tự ví mình là người thanh cao học rộng, thật đáng ghét ! Bèn cho gia nhân đốn hết vườn trúc xuống, xem mi còn viết được liễn hay không ?! Đến chiều khi Giải Tấn ra cửa, thấy trúc đã bị đốn ngang, nhưng còn khúc gốc ngăn ngắn, ông chỉ mĩm cười chẳng nói chẳng rằng. Đêm đó, ông viết thêm mỗi bên một chữ nối vào đôi liễn trên như sau :

                

                Môn đối thiên can trúc ĐOẢN,          門對千竿竹短,

               Gia tàng vạn quyển thư TRƯỜNG.     家藏萬卷書長。

Có nghĩa :

            - Cửa đối ngàn cây trúc NGẮN,

            - Nhà còn muôn quyển sách DÀI.

 

      Ý càng mĩa mai hơn, Trúc của ông đã ngắn rồi, nhưng sách của nhà ta thì lại cứ dài thêm ra (nhiều thêm ra!). 

      Sáng mùng 2 Tết, tên địa chủ nhìn thấy 2 chữ mới thêm vào của Giải Tấn càng sôi máu hơn, ông ta ra lệnh cho đám gia nhân đào hết cả các gốc tre lên, thử xem "mầy" có gở đôi liễn xuống không cho biết ! Giải Tấn trông thấy việc làm của ông ta, chỉ cười thầm. Tối đêm đó, ông lại thêm vào mỗi bên một chữ nữa như sau :

              Môn đối thiên can trúc đoản VÔ,          門對千竿竹短無,

              Gia tàng vạn quyển thư trường HỮU.    家藏萬卷書長有。

Có nghĩa :

         - Cửa đối ngàn cây trúc tạm không (đoản vô : chỉ một thời gian ngắn không có, có nghĩa Tạm thời không có, trúc sẽ mọc lại mà thôi !)

         - Nhà giữ muôn quyển sách dài dài (trường hữu : Có một cách lâu dài trường cữu, là Có dài dài thêm !).

 

      Ý muốn nói, Tre của ông có thể không có, chớ sách của ta thì luôn có dài dài ở trong nhà !

      Sáng sớm mùng 3 Tết, tên địa chủ đọc được 2 chữ mới thêm vào của Giải Tấn, tức muốn ói máu, nhưng lại không làm gì được anh ta, mà vườn trúc nhà mình thì đã bị mình ra lệnh cho đốn sạch và moi cả gốc rể lên rồi !.....

        Chữ nghĩa văn chương lắm lúc cũng mạnh mẽ, hay ho, lý thú là thế ! Nên ngày xưa, người ta có lệ dán liễn từ ngoài cổng cho đến... cầu tiêu sau hè ! 

               

       Ngày xưa không có Toilet hay restroom vừa khang trang, vừa vệ sinh, vừa thơm phức như bây giờ. Giới bình dân nghèo khó cứ đi ra đồng tìm một chỗ nào vắng vẻ là... xề xuống "giải quyết vấn đề" một cách thoải mái. Còn ở các thị tứ thì Nhà Xí được cất ở phía sau khá xa khu nhà ở để tránh mùi hôi thối. Đối với những gia đình giàu sang khá giả thì cũng được lợp mái và có cửa nẻo hẵn hoi và ... dĩ nhiên cũng được dán đôi liễn như những nơi khác. Sau đây là một đôi liễn độc đáo nhất được dán ở ... Cầu Tiêu Công Cộng :

 

                  Lai thời thập phân cấp,       來時十分急,

                  Khứ hậu nhất thân khinh.   去後一身輕。

Có nghĩa :

         - Khi đến vội vả mười phần, (lính qua lính quính).

         - Lúc đi nhẹ nhỏm một thân. (đã trút được bầu tâm sự).

 

                                                                                  

     Tin rằng trong đời chắc ai cũng có một lần lính qua lính quính quính quáng tìm chỗ để giải quyết vấn đề... sinh lý nầy !

 

      Câu đối trên tuy rất thưc tế, tả chân, nhưng còn thiếu tính chất... văn chương. Sau đây, xin mời tất cả cùng đọc một câu đối dán trước nhà xí của người đứng đầu trong Giang Nam Tứ Đại Tài Tử 江南四大才子 là Đường Bá Hổ 唐伯虎 như sau :

 

                           且 看 来 客 多 情, 甘 解 衣 帶 終 不 悔;

               Thả khan lai khách đa tình, Cam giải y đái chung bất hối;

                           莫 道 此 物 無 用, 化 作 春 泥 更 護 花。

               Mạc đạo thử vật vô tình, Hoá tác xuân nê cánh hộ hoa !

Có nghĩa :

       - Hãy xem khách đến rất đa tình, cởi bỏ xiêm y không hối hận;

       - Đừng bảo vật thải nầy vô dụng, hoá thành phân đất vẫn ươm hoa !

 

     Với giọng điệu của một Giang Nam phong lưu tài tử ra vào kỹ viện hằng ngày, Đường Bá Hổ đã thi vị hóa việc đi nhà xí như khách đa tình đi vào kỹ viện, sẵn sàng tháo thắt lưng để cởi xiêm y ra mà không hề hối hận chút nào, và đừng bảo là những vật thải ra là vô dụng khi nó đã trở thành những thứ đất của mùa xuân thì cũng sẽ sẵn sàng ươm và giữ cho hoa được tươi thắm hơn và đẹp đẽ hơn mãi mãi !

       Thi vị hóa cho việc đi nhà xí đến thế là cùng !

             

 

       Lại kể, cũng đất Giang Nam ngày xưa có một gia đình, người cha xuất thân là một Tiến Sĩ, gia đình rất có học thức, nhưng nhân phẩm thì lại tệ hại vô cùng. Thường ỷ lại vào gia đình khoa bảng mà chèn ép, khinh thường và ức hiếp lối xóm hương thân. Nên mọi người đều dám giận mà không dám nói. Trời xui đất rủi làm sao mà năm đó thằng con trai lớn lại thi đậu Tiến Sĩ nữa, nên Tết năm đó ông cha hớn hở viết đôi liễn treo lên như sau :

 

                     父 進 士, 子 進 士, 父 子 皆 進 士;

               Phụ Tiến Sĩ, Tử Tiến Sĩ, Phụ tử giai Tiến Sĩ;

                      婆 夫 人, 媳 夫 人, 婆 媳 均 夫 人。

              Bà phu nhân, Tức phu nhân, Bà Tức quân phu nhân.

Có nghĩa :

            - Cha Tiến sĩ, Con Tiến sĩ, Cha con đều là Tiến sĩ;

            - Mẹ chồng phu nhân, Nàng dâu phu nhân, Mẹ chồng nàng dâu đều là phu nhân.

 

            * BÀ là BÀ BÀ 婆婆 : là Mẹ chồng, là Bà già chồng.

            * TỨC là TỨC PHỤ 媳婦 : là Nàng dâu, là Con dâu.

 

      Hàng xóm trông thấy khoe khoang thân phận một cách lộ liễu, hống hách. Giận lắm nhưng không làm gì được ông ta. Tình cờ Đường Bá Hổ đi ngang qua xóm, nghe lóm được bà con oán thán về gia đình ông Tiến Sĩ hống hách kia. Đêm đó đợi khi mọi người ngủ cả mới đến trước cửa của cha con nhà Tiến sĩ thêm vài nét bút vào. Sáng hôm sau mùng một Tết, khi vừa mở cửa nhà ra, ông Tiến sĩ đã thấy lô nhô những người xì xào chỉ trỏ vào cửa nhà mình cười nói xôn xao. Quá ngạc nhiên, ông mới bước ra xem thì thấy đôi liễn Tết nhà mình đã bị ai đó thêm vào mấy nét; Chữ SĨ 士 bị kéo dài nét dưới ra thành chữ THỔ 土 là Đất; mà Tiến Thổ là tiến vào đất , là chết, là Nhập Thổ. Còn chữ PHU 夫 bị thêm một dấu phẩy bên trái thành chữ THẤT 失 là Mất; Chữ NHÂN 人 thêm vào hai nét ngang thành chữ PHU 夫 là Chồng. THẤT PHU là Mất chồng. Câu liễn Tết thành ra :

 

                         父 進 土, 子 進 土, 父 子 皆 進 土;

              Phụ Tiến THỔ, Tử Tiến THỔ, Phụ tử giai Tiến THỔ;

                         婆 失 夫, 媳 失 夫, 婆 媳 均 失 夫。

               Bà THẤT PHU, Tức THẤT PHU, Bà Tức quân THẤT PHU.

Có nghĩa :

       - Cha nhập thổ, con nhập thổ, cha con đều nhập thổ (chết hết!);

       - Mẹ chồng mất chồng, con dâu mất chồng, Mẹ chồng và con dâu đều mất chồng (Mẹ chồng và con dâu đều trở thành góa bụa !).

 

      Chỉ cần thêm có vài nét, câu đối huênh hoang tự hào của một gia đình khoa bảng liền trở thành câu đối buồn thảm tang tóc cho cả gia đình. Thế mới biết ngòi bút của văn nhân thi sĩ lợi hại biết chừng nào !

       

      Để kết thúc cho bài viết này, kính mời tất cả cùng đọc một câu đối Tết thay lời "CHÚC XUÂN" sau đây :

 

                 有地有天皆麗日,  Hữu địa hữu thiên giai lệ nhật,

                 無人無處不春風。  Vô nhân cô xứ bất xuân phong !

   Có nghĩa :

            - Hễ nơi nào có đất có trời là nơi đó có nắng đẹp (của mùa xuân),

            - Không có người nào, không có nơi nào là không được gió xuân thổi đến (có nghĩa : Mọi người mọi nơi đều được hưởng cái ấm áp tràn đầy sinh lực của gió xuân !).

 

                    

     Cầu chúc cho tất cả mọi người, mọi nơi trên thế giới nầy đều có được một mùa xuân NHƯ Ý và đều VUI VẺ KHỎE MẠNH để vượt qua cơn dịch thế kỷ đang biến chứng thành Omicron nầy !

 

     Hẹn bài viết tới !

 

                                                                   杜紹德

                                                              Đỗ Chiêu Đức

dcd_thoXuanvuaThanhThai.JPG

Tập thơ "Canh Tý Thi Tập" của vua Thành Thái, hiện chỉ tìm thấy một bản sao chép tay không ghi tên người và thời gian chép, do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm và giới thiệu lần đầu trên Tạp chí Hán Nôm số 1(18) năm 1994. Dưới đây là bài thơ NGUYÊN ĐÁN, một trong 17 bài thơ “Kim thể thập thất thủ” (17 bài làm theo thể thơ Đường) trong "Canh Tý Thi Tập" nói trên :

 

      元旦                         NGUYÊN ĐÁN

元正佳節值晴曛,    Nguyên chinh giai tiết trực tình huân,

旭日暉煌景色新。    Húc nhật huy hoàng cảnh sắc tân.

滿殿調風冠帶集,    Mãn điện điều phong quan đái tập,

盈庭瑞氣羽旄陳。    Doanh đình thoại khí vũ mao trần.

年豐海靜期天況,    Niên phong hải tịnh kỳ thiên huống,

內治外寧仰帝恩。    Nội trị ngoại ninh ngưỡng đế ân.

首是溫和人物遂,    Thủ thị ôn hòa nhân vật toại,

含沾雨露萬方春。    Hàm triêm vũ lộ vạn phương xuân !

               成泰                                         Thành Thái 

       

* Chú thích :

    - NGUYÊN ĐÁN 元旦 : NGUYÊN là Đầu; ĐÁN là Ngày. Nên NGUÊN ĐÁN là Ngày đầu tiên của một năm. Ta ăn Tết Nguyên Đán, chính là đang mừng đón ngày đầu của một năm đó.

    - Trực 值 : là Nhằm lúc, đúng lúc. Đọc là TRỊ thì có nghĩa là Đáng giá, là Giá Trị, như "Xuân tiêu nhất khắc TRỊ thiên kim 春宵一刻值千金". Có nghĩa : Đêm xuân một khắc giá đáng ngàn vàng.

    - Tình Huân 晴曛 : là trời nắng ráo trong sáng.

    - Húc nhật 旭日 : là Mặt trời mới mọc , là buổi sáng.

    - Quan Đái 冠帶 : QUAN là mũ mão; ĐÁI là dây thắt lưng, dây đai; Nên QUAN ĐÁI là Áo mão cân đai.

    - Vũ Mao 羽旄 : VŨ là Lông vũ, MAO là Cờ mao, cờ có cắm lông đuôi bò tót dùng trong quân đội khi xưa; nên VŨ MAO chỉ Các loại cờ xí tàn lộng trong lúc tiến hành nhạc lễ tế bái ngày xưa.

    - Niên Phong Hải Tĩnh 年豐海靜 : NIÊN PHONG là Năm được mùa; HẢI TĨNH là Biển lặng. Nên NIÊN PHONG HẢI TĨNH là Nông dân được mùa còn dân biển cũng đánh bắt được nhiều cà vì biển lặng; Ý chỉ dân chúng được an cư lạc nghiệp.

    - Nội Trị Ngoại Ninh 內治外寧 : NỘI TRỊ là bên trong nước chính trị ổn định, NGOẠI NINH là đối ngoại cũng được an ninh bình ổn.

    - Hàm Triêm Vũ Lộ 含沾雨露 : HÀM là Ngậm; TRIÊM là Thấm; HÀM TRIÊM là thấm nhuần. VŨ là Mưa; LỘ là hạt sương hạt móc. MƯA và MÓC là những giọt nước nuôi sống cây cỏ lá hoa; không có Mưa và Móc thì cỏ cây hoa lá sẽ chết hết. Nên người dân ví những chính sách nhân đạo của chế độ phong kiến của nhà vua ngày xưa là ƠN MƯA MÓC.

 

* Nghĩa bài thơ :

                                   Tết Nguyên Đán        

       Chính ngay cái ngày Tết đầu năm lại nhằm lúc trời quang mây tạnh. Ánh nắng ban mai rực rỡ làm cho cảnh sắc như mới hơn ra. Cả cung điện như có làn gió điều hòa khi các quan với áo mão cân đai đang tập hợp lại, và đầy cả sân đình như đang phủ một làn khí lành khi cờ xí tàn lộng được bày ra (để tế cáo trời đất trong ngày đầu năm). Cầu mong cho trời sẽ ban cho một năm sóng yên bễ lặng và được mùa; cũng ngữa mong Thượng đế ban ơn cho trong ngoài đều trị an bình ổn. Điều đầu tiên là người vật đều được toại nguyện trong sự ôn nhu hòa ái. Tất cả đều được hưởng ơn mưa móc của trời ban cho muôn nơi đều được tươi đẹp như mùa xuân (đang tràn ngập cả đất trời !) 

 

      Tội nghiệp, không có thực quyền trong tay, nhưng trong ngày Tết nhà vua vẫn cầu nguyện cho phong điều vũ thuận, mưa thuận gió hòa , quốc thái dân an để cho dân chúng được an cư lạc nghiệp để cùng đón xuân về !

 

* Diễn Nôm :

                           NGUYÊN ĐÁN 

                    

                   Nguyên Đán ngày xuân nắng ấm thay, 

                   Huy hoàng cảnh sắc lúc ban mai.

                   Cung đình áo mão cân đai rợp,

                   Sân điện quạt cờ tàn lộng bay.

                   Mùa được biển yên mong đấng cả...

                   Ngoài êm trong ấm tạ cao dày...

                   Ôn hòa người vật đều thanh thản,

                   Mưa móc hàm ơn khắp chốn này !

       Lục bát :

                   Tiết lành nhằm lúc trời quang,

                   Đẹp thay cảnh mới huy hoàng nắng mai.

                   Điện vàng áo mão cân đai,

                   Sân đình cờ quạt như thay điềm lành.

                   Được mùa biển lặng trời xanh,

                   Ngoài yên trong ấm lòng thành tạ ơn.

                   Sao cho người vật không hờn,

                   Hưởng ơn mưa móc gì hơn xuân hồng !

                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm   

       

         Cũng cùng tâm tình của một ông vua trẻ yêu nước thương dân nhưng lại không có thực quyền, nên đành phải vui với niềm vui trước mắt và luôn ước mơ ngày Tết mở ra vận hội mới cho dân chúng luôn được mùa phú túc an vui. Tâm tình của nhà vua được dàn trãi qua bài thơ "Tân Thiều Thí Bút" sau đây :

 

    新韶試筆                   TÂN THIỀU THÍ BÚT

新韶淑氣滿春城,    Tân thiều thục khí mãn xuân thành,

運啟三陽好景呈。    Vận khải tam dương hảo cảnh lai.

拂拂調風來寶殿,    Phất phất điều phong lai bảo điện,

煌煌瑞日照珠營。    Hoàng hoàng thụy nhật chiếu châu doanh.

恬熙富庶千方樂,    Điềm hi phú thứ thiên phương lạc,

駘蕩溫和萬象明。    Đãi đãng ôn hòa vạn tượng minh.

嗟首欣看時節順,    Ta thủ hân khan thời tiết thuận,

今收定必獲豐盈。    Kim thu định tất hoạch phong doanh.

     

* Chú thích :

   - TÂN THIỀU THÍ BÚT 新韶試筆 : THIỀU là THIỀU QUANG 韶光 là bóng mặt trời mùa xuân, cảnh sắc đẹp của mùa xuân. THÍ BÚT 試筆 là Thử bút. Nên TÂN THIỀU THÍ BÚT là Thử bút trong cảnh đẹp của mùa xuân.Ta thường nói là ĐẦU XUÂN KHAI BÚT.

   - Thục khí 淑氣 : là Khí linh thiêng của trời đất, là làn khí ôn hòa.

   - Tam Dương 三陽 : Theo sách Chu Dịch. Sau tiết Đông Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các Thầy Bói gọi là Âm Tiêu Dương Trưởng, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng Tý, thuộc quẻ Phục 復 là Nhất Dương Sanh, Tháng Mười Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là Nhị Dương Sanh, và Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ Thái 泰 là Tam Dương Sanh. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng câu Tam Dương Khai Thái 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ Thái là Lớn, là Thông, như trong tiếng Việt ta thường nói "Hết vận Bỉ rồi thời lại Thái", hoặc "Bỉ cực thì Thái lai" và "Hết cơn Bỉ Cực, đến hồi Thái lai". Có nghĩa: Hết lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả !

   - Điều Phong 調風 : hay Phong Điều là Gió máy điều hòa, không gây bão tố.

   - Thụy Nhật 瑞日 : là Mặt trời lành, có nghĩa là Ánh nắng đẹp.

   - Điềm Hi 恬熙 : ĐIỀM là Đầm thấm; HI là Sáng sủa; nên ĐIỀM HI là an nhàn vui vẻ.

   - Đãi Đãng 駘蕩 : là Thong dong thoải mái.

   - Hoạch Phong Doanh 獲豐盈 : HOẠCH la Thu hoạch; PHONG là Đầy đặn sung túc; DOANH còn đọc là DINH là Đầy đủ; nên HOẠCH PHONG DINH là Thu hoạch sung túc đầy đủ. Trước 1975, Thành phố Cần Thơ hiện nay là Tây Đô nằm trong Tỉnh PHONG DINH, tức là 2 chữ PHONG DINH 豐盈 nầy với ý nghĩa là một tỉnh luôn SUNG TÚC ĐẦY ĐỦ.

 

* Nghĩa bài thơ :

                           Đầu Xuân Thử Bút 

      Trong ánh nắng mới, khí thiêng của trời đất tràn đầy cả thành xuân. Tam Dương chuyển vận mở ra cảnh đẹp trước mắt. Gió xuân hây hẩy điều hòa thổi đến cung điện, ánh nắng lành rực rỡ chiếu vào doanh trại. An nhàn giàu có ngàn nơi đều vui vẻ, Thong dong thoải mái vạn vật như sáng sủa thêm ra. Gật gù vui thấy thời tiết mưa thuận gió hòa; Mùa thu hoạch năm nay chắc chắn sẽ sung túc đầy đủ vì được mùa.

 

* Diễn Nôm :

                           TÂN THIỀU THÍ BÚT 

                      

                   Hơi xuân linh khí phủ đầy thành,

                   Vận chuyển tam dương cảnh sắc thanh.

                   Phe phẩy gió hòa lay điện báu,

                   Vàng ươm nắng rực chiếu cơ doanh.

                   Thong dong phú túc ngàn nơi lạc,

                   Thoải mái ôn hòa vạn vật xanh.

                   Mừng đón xuân nay thời tiết thuận,

                   Mùa màng ắt sẽ được phong dinh !

      Lục bát :

                   Khí lành xuân mới khắp thành,

                   Tam dương chuyển vận cảnh xanh rõ ràng.

                   Hây hây gió thổi điện vàng,

                   Nắng mai rực rỡ chiếu vàng doanh cơ.

                   Ngàn nơi vui vẻ thẩn thơ,

                   Ôn hòa vạn vật cũng thơ thới lòng.

                   Những mừng thời tiết xanh trong,

                   Năm nay ắt sẽ thong dong được mùa !

                                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 

        Hẹn bài viết tới !

 

  杜紹德

  Đỗ Chiêu Đức

DCD_PhiemLuan1_TuoiDan.JPG

Tý Sửu Dần... DẦN 寅 là ngôi thứ 3 của Thập nhị Địa Chi là... Ông Cọp, như 2 câu ca dao Nam bộ trong bài vè về 12 con giáp nêu trên. Ngoài việc được gọi là ÔNG CỌP, cọp còn được giới bình dân xưa gọi là Ông Hổ, Ông Hùm, hay Ông Ba Mươi nữa. CỌP chữ Nho là HỔ 虎, theo "Chữ Nho Dễ Học" Hổ thuộc dạng chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :

DCD_Cop.JPG

Ta thấy :

            Giáp Cốt Văn là hình tượng của một con cọp được vẽ đầy đủ từ đầu cho đến đuôi, Kim Văn (còn gọi là Chung Đĩnh Văn) và Đại Triện thì được đơn giản hóa, chỉ giữ lại các nét tiêu biểu,  đến Tiểu Triện thì các nét vẽ được kéo thẳng hay uốn cong theo như hình chữ viết và đến Chữ Lệ  đời nhà Tần thì chữ viết đã hình thành hoàn chỉnh như chữ viết hiện nay. 虎 HỔ là Cọp.

           

         Năm 2022 là năm NHÂM DẦN 壬寅. NHÂM là ngôi thứ 9 của Thập Vị Thiên Can. Nhâm Qúy thuộc Thủy, hướng bắc, thuộc màu ĐEN, còn DẦN là ngôi thứ 3 của Thập Nhị Địa Chi, hướng đông, cầm tinh con CỌP. Nên năm NHÂM DẦN là năm của con CỌP ĐEN, chữ Nho gọi là HẮC HỔ 黑虎. Tương truyền mỗi khi cọp xuất hiện thì sẽ có một làn gió...cọp thổi đến, theo như câu nói dân gian là "Vân tòng long, Phong tòng hổ 雲從龍,風從虎". Có nghĩa : Mây theo rồng, gió theo cọp, và dĩ nhiên, cọp đen thì sẽ có làn gió đen xoáy đến trước gọi là HẮC TUYỀN PHONG 黑旋風, và đây cũng là ngoại hiệu của Lý Qùy 李逵, người được xếp thứ 22 trong 108 anh hùng trên Lương Sơn Bạc. Ngoài Lý Qùy ra, còn một nhân vật nổi tiếng hơn mà Lý Qùy nghe đến tên là sợ, đụng mặt là lảng tránh, đó chính là người được xếp hàng thứ 14 trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc là Võ Tòng Đả Hổ 武松打虎. Ngoài nổi tiếng với việc đánh cọp ra, Võ Tòng còn nổi tiếng với các tuồng trong Kinh kịch và trong hát bộ, cải lương... của ta với vở VÕ TÒNG SÁT TẨU 武松殺嫂 (Võ Tòng giết chị dâu), tức là giết Phan Kim Liên và Tây Môn Khánh như trong tiểu thuyết hiện thực Kim Bình Mai 金瓶梅 nổi tiếng là một dâm thư của Trung Hoa thời Minh Thanh. 

 

             

     "Nam NHÂM Nữ QÚY", nên năm 2022 là năm NHÂM DẦN tốt cho việc sanh con trai. Những cặp đôi nào muốn có qúy tử thì hãy chuẩn bị ngay từ đầu năm là vừa, bảo đãm sẽ cho ra "Nguyên con cọp con", có trở thành "Hổ Tướng" hay không còn chưa biết, chớ chắc chắn sẽ là một đứa con trai may mắn khỏe mạnh được sanh ra sau mùa dịch thế kỷ "Covid-19". DẦN tuy là ngôi thứ 3 trong Địa Chi nhưng lại là Tháng Giêng trong Âm lịch. Ngày Dần đứng sau ngày Sửu và đứng trước ngày Mão. Giờ Dần là từ 3 - 5 giờ sáng, giờ nầy thì ngôi chùa ở đầu làng đã bắt đầu công phu và tất cả những con gà trong xóm đều đã gáy rộ, nên tất cả những sinh hoạt ngày xưa đều bắt đầu từ giờ Dần : Nông dân thức dậy chuẩn bị ra đồng ruộng cày bừa trồng trọt; học trò thức dậy chuẩn bị đến trường để học hành; thợ thầy thức giấc chuẩn bị công việc làm cho ngày mới; giới thương buôn, mua gánh bán bưng thì chuẩn bị cho việc làm ăn buôn bán trong ngày. Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" có dạy :

 

                 一 年 之 計 在 於 春,   Nhất niên chi kế tại ư xuân,

                 一 日 之 計 在 於 寅,   Nhất nhật chi kế tại ư DẦN,               

                 一 家 之 計 在 於 和,   Nhất gia chi kế tại ư hòa,

                 一 生 之 計 在 於 勤.   Nhất sinh chi kế tại ư cần. 

                 

    * KẾ 計 : là Tính toán như KẾ TOÁN; là Mưu Lược như TAM THẬP LỤC KẾ; là Hoạch Định, Chương Trình như KẾ HOẠCH, KẾ SÁCH, và Đây chính là nghĩa của chữ KẾ trong các câu nói trên :

    - Những chương trình hoạch định cho một năm phải bắt đầu từ mùa XUÂN.

    - Những tính toán dự định trong một ngày phải bắt đầu từ giờ DẦN (từ 3 đến 5 giờ sáng).

    - Những kế hoạch để xây dựng gia đình cho êm ấm là chỉ ở một chữ HÒA (trên thuận dưới hòa). 

    - Những hoạch định tính toán phấn đấu cho cả một đời người là chỉ ở một chữ CẦN mà thôi ! (Nếu chịu khó siêng năng cần cù, thì trong cuộc đời dù không thành công lớn, cũng thành công nhỏ và có tệ nhất thì cũng... đủ ăn đủ mặc, không đến nỗi đói rách lang thang.).

      "Thiên hữu tứ thời XUÂN tại thủ " 天有四時春在首. Trời có 4 mùa thì mùa XUÂN là mùa đầu tiên, tiết trời đã ấm áp trở lại sau mùa đông giá rét , cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, vạn vật đều tái sinh, khí thế đang lên, nên các kế sách dự định trong năm cũng nên bắt đầu ở thời điểm nầy... hơn nữa, nếu có gì trục trặc thì cũng có đủ thời gian để... điều chỉnh lại ! Kế hoạch trong năm bắt đầu ngay được từ mùa Xuân, thì xem như đã thành công một nửa rồi !

     "Thiên quang DẦN, nhật xuất MÃO " 天光寅,日出卯 . Trời sáng ở giờ Dần, mặt trời mọc ở giờ Mão, nên công việc dự định trong ngày nên bắt đầu ngay từ giờ DẦN, Nông dân làm ruộng cũng thế, muốn gieo mạ, cấy lúa, gặt lúa...đều phải thức giấc lúc giờ Dần để bắt đầu cho công việc đồng áng. 

     "HÒA khí sanh tài " 和氣生財 . Có Hòa Thuận để làm ăn thì mới phát sinh tài lộc được, gia đình xào xáo, mỗi người một ý , thì làm ăn làm sao lên cho được ! Ông bà cũng đã dạy "Gia HÒA thì Vạn sự Hanh 亨". Có nghĩa : Gia đình Hòa Thuận thì muôn việc đều suông sẻ.(Hanh thông 亨通 là Suông sẻ). Câu nầy thường bị đọc lệch đi là "Gia Hòa vạn sự HƯNG 興 (Hưng là Hưng Vượng 興旺), ý nghĩa cũng tương tự mà thôi.

     Cuối quyển Tam Tự Kinh có câu : "CẦN hữu công, Hí vô ích 勤有功,戲無益". Nghĩa đã rõ : Chơi bời lêu lỏng không đem lại lợi ích gì cả, còn Siêng Năng cần cù thì sẽ gặt hái được thành công trong mọi mặt. Nên trong cuộc đời của một người, yếu tố "CẦN" không thể thiếu trong việc tạo dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho gia đình được !

                    

       Ngay cả những người lữ hành cũng phải dậy sớm để xem thời tiết và chuẩn bị lên đường, vì  ngày xưa, phương tiện giao thông khó khăn, nên định đi đâu để làm gì thì cũng phải thức giấc lúc giờ DẦN như hai câu thơ trong bài thơ  "Thương Sơn tảo hành 商山早行" của Ôn Đình Quân 温庭筠 đời Đường là :

 

                       雞聲茅店月,    Kê thanh mao điếm nguyệt,

                       人跡板橋霜.    Nhân tích bản kiều sương.

 

   ...mà cụ Nguyễn Du đã gom lại thành một câu rất hay khi tả Thúy Kiều vượt tường lìa khỏi Quan Âm Các của nhà Hoạn Thư là :

 

                              Mịt mù dặm cát đồi cây

                TIẾNG GÀ ĐIẾM NGUYỆT, DẤU GIÀY CẦU SƯƠNG.

 

                

     Theo Tử Vi Đẩu Số thì "Dần, Ngọ, Tuất" Tam Hạp. Nhưng trong thực tế thì Ngọ là Ngựa mà gặp Dần là Cọp thì sẽ cất vó phóng nhanh chạy thục mạng, và Tuất là Chó thì ôi thôi, khi gặp chúa sơn lâm gầm cho một tiếng thì đứng còn không vững nữa là nói chi đến chạy ! Nên hạp sao nỗi mà hạp ! Cọp là chúa muôn thú, cao ngạo một mình một cỏi, đến nỗi thành ngữ cũng có câu "Nhứt lâm vô nhị hổ 一林無二虎" Một rừng không thể có 2 cọp được. Chúa tể của núi rừng thì làm sao mà họp với ai cho được ! Nhưng nói thì nói thế chứ ông bà xưa cũng có câu :

 

                       Long du thiển thủy tao hà hí,          龍游淺水遭蝦戲,

                       Hổ lạc bình dương bị khuyển khi !   虎落平陽被犬欺 !

      Có nghĩa :

                      Rồng bơi nước cạn tép tôm giởn mặt,

                      Cọp xuống đồng bằng chó cũng dễ ngươi !

 

              

     Trong Truyện Kiều khi tả Từ Hải sa cơ thất thế mắc mưu của Hồ Tôn Hiến, cụ Nguyễn Du cũng đã cảm thán cho Từ Hải là :

 

                        Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn !

     

      HÙM là HỔ, HỔ là HÙM, nên ta lại có từ "Hùm Hổ" và thành ngữ "Làm hùm làm hổ" để chỉ những người hay làm ra vẻ dữ tợn, bậm trợn để uy hiếp hay hù dọa người khác. Vì là chúa tể rừng xanh, nên dáng vẻ oai hùng uy nghi, gầm lên một tiếng là muôn thú đều im hơi, nên ta lại có thành ngữ "Khiếu chấn sơn hà 嘯震山河" là "Tiếng gầm làm chấn động cả núi sông !". Tướng giỏi có sức địch muôn người thì gọi là Hổ Tướng. Tướng mạo uy nghi đường bệ oai phong thì được ví là "Hùng yêu hổ bối 熊腰虎背" là "Lưng Hùm Vai Gấu". Mặt mũi uy vũ oai hùng thì gọi là "Hổ đầu yến hàm 虎頭燕頷" Ta nói là "Râu Hùm Hàm Én" như hình dáng của anh hùng Từ Hải được cụ Nguyễn Du diễn tả là :

 

                        Râu Hùm Hàm Én mày ngài,

                  Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.

 

      Nói đến HÙM ta không thể không nhắc đến "Hùm Thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám 黃花探", tức Đề Thám người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống thực dân Pháp xuyên suốt gần 30 năm trường (1885 – 1913) làm cho quân Pháp phải xất bất xang bang suốt khoảng thời gian nầy với con cọp xám đất Yên Thế ở chiến khu và địa bàn kháng chiến quanh vùng Bắc Giang–Thái Nguyên–Hưng Hóa :

 

                          Ba mươi năm khắp núi rừng

                   Danh ông Đề Thám vang lừng núi sông.

 

      Nơi của các "Hổ Tướng" ngồi làm việc, được gọi là "Hổ Trướng 虎帳", vì bức màn trướng phía sau chỗ ngồi thường có vẽ hình con hổ cho oai phong, ta gọi là TRƯỚNG HÙM, như cụ Nguyễn Du đã tả chỗ ngồi xử án của Thúy Kiều khi nàng báo ân báo oán :

 

                      TRƯỚNG HÙM mở giữa trung quân,

                    Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.

       

     HÙM chẳng những chỉ sự uy phong oai vệ, mà còn chỉ sự nguy hiễm với chết sống cận kề, như "Miệng HÙM Nọc Rắn" qua lời của Thúy Kiều so sánh thân mình khi ở Quan Âm Các trong vườn nhà Hoạn Thư :

 

                             Thân ta, ta phải lo âu,

                   MIỆNG HÙM NỌC RẮN ở đâu chốn này.

                          Ví chăng chắp cánh cao bay,

                       Rào cây lâu ắt có ngày bẻ hoa !

 

     Hay như lời của Tam Hợp Đạo Cô suy đoán về vận mạng của Thúy Kiều trong tương lai, khi Từ Hải đã tử trận còn Thúy Kiều thì lọt vào tay Hồ Tôn Hiến :

 

                      Trong vòng giáo dựng gươm trần,

                     Kề lưng HÙM SÓI gửi thân tôi đòi.

                       Giữa dòng nước dập sóng dồi,

                   Trước hàm rồng cá, gieo mồi vắng tanh.

 

     "Tựa Hùm Như Sói" có gốc chữ Nho là "Như Lang Tự Hổ 如狼似虎" để chỉ hành động hoặc thái độ hung ác dữ tợn muốn ăn tươi nuốt sống người khác của ai đó như thành ngữ "Làm Hùm Làm Hổ" mà ta đã nói ở trên. Vì Hùm hung dữ như thế, nên đâu có ai dám "Vuốt Râu Hùm". Nhưng có người chỉ nói bằng cái miệng cho giỏi, cho mạnh bạo tưởng như gan dạ lắm, nhưng khi đụng chuyện thì lại cụp đuôi thụt lại phía sau hay trốn biệt... thì ta gọi là "Miệng Hùm Gan Sứa", chữ Nho gọi là "Hổ Đầu Xà Vĩ 虎頭蛇尾" như ta nói là "Đầu voi đuôi chuột". Điệu bộ dáng vẻ hung dữ mà không làm gì được ai cả, còn bị gọi là "Chỉ Lão Hổ 紙老虎" là "Con Cọp Giấy"; còn mượn oai của ai đó để hù dọa người khác thì gọi là "Hồ Giả Hổ Uy 狐假虎威", ta nói là "Cáo Mượn Oai Hùm". Vì có bộ da dầy lông đẹp, nên bộ da hùm còn được dùng làm vật trang trí phòng khách hay làm thành những đồ trang sức như giày dép, y phục, bóp xách tay... vì thế, ta lại có câu thành ngữ "Hùm Chết Để Da, Người Ta Chết Để Tiếng". Có thể vì thế mà Thúy Kiều mới vựa vào ý đó để khuyên Từ Hải quy hàng triều đình, ta hãy nghe cô nói :

 

                        Làm chi ĐỂ TIẾNG VỀ SAU,

                   Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào ?

                       Chi bằng lộc trọng quyền cao,

                    Công danh ai dứt lối nào cho qua ?!

 

             

      Hết HÙM tới HỔ. Ngày xưa các thư sinh yếu đuối trói gà không chặc, thế mà một khi thi đậu thì tên được treo trên Bảng Hổ, gọi là "Bảng Hổ Đề Danh 虎榜題名" và từ đó về sau được làm quan uy quyền tột đĩnh, "hét ra lửa" chớ không còn yếu đuối nữa ! Bảng Hổ còn được gọi là "Bảng Vàng", là "Kim Bảng 金榜", một trong "Tứ Khoái" của các cụ ngày xưa là "Kim Bảng Tánh Danh Đề 金榜姓名題" (Tên họ được ghi lên Bảng Vàng) hay gọi cho đủ bộ là "LONG HỔ BẢNG 龍虎榜" như trong Tăng Quảng Hiền Văn có câu :

 

                一 舉 首 登 龍 虎 榜, Nhất cử thủ đăng LONG HỔ BẢNG,   

                十 年 身 到 鳳 凰 池.  Thập niên thân đáo Phụng Hoàng Trì. 

Nghĩa câu :

    - Long Hổ Bảng : là Bảng có vẽ hình Rồng và Cọp 2 bên, để dán danh sách những người thi đậu Tiến Sĩ ngày xưa. Người đậu đầu là Trạng Nguyên, người đậu nhì là Bảng Nhãn, và người đậu hạng ba là Thám Hoa.  

    - Phụng Hoàng Trì : là Ao Phụng Hoàng. Đời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, chức Trung Thư Tỉnh được ở trong cấm cung Ngự Uyển, gần gũi Hoàng Đế, chưởng quản những điều cơ mật, nên chức Trung Thư Tỉnh được gọi là " Phụng Hoàng Trì ".   

    Có Nghĩa  :    

          Hễ thi đậu một cái là tên được đăng lên trên Bảng Long Hổ, và làm quan mười năm (cho tốt) thì sẽ được vào làm việc trong Ao Phượng Hoàng kề cận nhà vua.

 

                     

    Có những người thâm trầm và nham hiễm như Hoan Thư chẳng hạn :"Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiễm giết người không dao" thì được gọi là "Tiếu Diện Hổ 笑面虎" là "Cọp Mặt Cười", nhưng đối với Hoạn Thư thì phải gọi là "Mẫu Lão Hổ 母老虎" là "Con Cọp Cái", rất dữ, nhất là những con cọp cái đang đẻ con. Nên những người không ngại nguy hiễm dấn thân vào những nơi đầy cạm bẫy chết chóc để làm việc gì hoặc để thực hiện nhiệm vụ nào đó thì tự khuyến khích là "Không Vào Hang Cọp, Sao Bắt Được Cọp Con", chữ Nho nói là "Bất nhập hổ huyệt, yên đắc hổ tử 不入虎穴,焉得虎子". Cho nên, muốn bắt được cọp con một cách an toàn thì phải biết cách "dụ" con cọp mẹ đi nơi khác, gọi là "Điệu Hổ Ly Sơn 調虎離山", là kế dụ cọp ra khỏi núi là nơi đắc địa nhất của chúa sơn lâm để dễ bề hành động theo ý mình. Đây là kế sách thứ 15 trong 36 kế mà chữ Nho gọi là "Tam Thập Lục Chước 三十六着". Cái "chước" cuối cùng trong "36 chước" là "Tẩu vi thượng sách 走為上策" là trốn, là bỏ chạy. Nên khi đã "dụ" được Thuý Kiều rồi thì gả Sở Khanh mới trổ mòi rủ Kiều lén bỏ trốn :

 

                              Thừa cơ lẻn bước ra đi,

                     Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn !?

 

      Hình tượng oai hùng của chúa sơn lâm không phải ai cũng khắc họa được, các thợ vẽ "dõm" vẽ cọp không giống cọp lại trông giống như con chó có vằn, trông "không giống ai" cả, nên mới có câu "Họa Hổ Bất Thành Phản Loại Khuyển 畫虎不成反類犬" để chỉ những người làm việc vụng về hoặc tính toán không khéo, không chu đáo làm cho sự việc trở nên trơ trẻn, không đâu ra đâu cả. Như khi Lục Vân Tiên muốn đánh cướp Phong Lai để cứu Kiều Nguyệt Nga thì dân chúng thấy dáng vẻ thư sinh của Lục Vân Tiên nên đã lo lắng khuyên rằng :

                              

                              Dân rằng: lũ nó còn đây,

                      Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.

                              E khi HỌA HỔ BẤT THÀNH,

                     Khi không mình lại xô mình xuống hang                 

 

      Hổ đã khó vẽ rồi, nhưng hình dáng bên ngoài vẫn còn vẽ ra được, chớ những phần xương cốt bên trong thì làm sao mà vẽ cho ra. Cũng như con người vậy, ta chỉ biết được mặt mũi bên ngoài chớ làm sao biết được lòng dạ bên trong của người đối diện cho được. Vì thế mà trong "Minh Tâm Bửu Giám" lại có câu :

 

                      畫虎畫皮難畫骨,  Họa hổ hoạ bì nan họa cốt,

                      知人知面不知心.   Tri nhân tri diện bất tri tâm.

     Có nghĩa :

                      Vẽ cọp vẽ da khôn vẽ cốt ?

                      Biết người biết mặt biết lòng ru ?!          

     

      Ông bà ta nói "Nuôi ong tay áo, Nuôi khỉ dòm nhà", còn trong chữ Nho thì bảo là "DƯỠNG HỔ DI HOẠN 養虎遺患" là "Nuôi Cọp để lại hậu hoạn về sau" hay "Túng Hổ Quy Sơn 縱虎歸山" là "Thả Cọp Về Rừng" sẽ để lại hậu hoạn khó mà lường trước được. Theo "Sử Ký. Hạng Vũ Bổn Kỷ 史記·項羽本紀" ghi lại tích sau đây  :

 

      Cuối đời Tần, chính trị hà khắc, dân chúng khắp nơi đứng lên phản kháng. Hai cánh nghĩa quân mạnh nhất lúc bấy giờ là do Lưu Bang và Hạng Võ cầm đầu. Lưu Bang nhanh chân hơn đánh chiếm Hàm Đan là thủ đô của nước Tần trước. Hạng Võ không phục quyết định khởi binh đánh Lưu Bang. Vì binh lực của Hạng Võ lúc bấy giờ qúa mạnh, nên Lưu Bang không dám ứng chiến, lui về Hán Trung để cố thủ và củng cố lại thế lực. Trong khi lực lượng của Lưu Bang ngày một lớn mạnh thì Hạng Võ lại ngày một yếu dần. Nhưng Lưu Bang không có ý tấn công Hạng Võ mà lại cho sứ giả đến thương lượng lấy Hồng Câu làm giới tuyến, mỗi người chiếm lĩnh một bên. Sau khi ký hiệp ước thì Hạng Võ đem binh về đông. Lưu Bang rất vừa ý định rút binh về tây, nhưng mưu thần Trương Lương lại bàn rằng :"Nay thế lực chúa công đã lớn mạnh, chư hầu phần lớn lại theo về, còn binh lực của Hạng Võ trước mắt không chịu nổi một trận tấn công của ta. Sao ta không nhân dịp nầy mà tiêu diệt Hạng Võ ? Để cho ông ta về đông như thả hổ về rừng, Dưỡng Hổ Di Hoạn, nuôi cọp lâu ngày họa hoạn sẽ khó mà lường trước được !". Lưu Bang thấy Trương Lương nói có lý bèn nghe theo, cất binh đuổi theo tiêu diệt Hạng Võ. Hạng Võ thua chạy, cuối cùng phải tự sát trên bến Ô Giang và Lưu Bang lên ngôi lập nên nhà Tây Hán.

     

                           

      Nói đến chính trị hà khắc làm ta lại nhớ đến câu nói của Khổng Tử là "Hà Chính Mãnh Ư Hổ 苛政猛于虎". Theo chương Đàn Cung Hạ, sách Lễ Ký 《禮記·檀弓下》có ghi lại tích sau đây :

 

      Khổng Tử khi đi ngang qua dưới chân núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết trước một nắm mộ mới, bèn cho Tử Lộ đến hỏi thăm. Tử Lộ đến hỏi rằng :"Người nhà nào mất mà bà lại khóc lóc thảm thiết thế nầy?". Người đàn bà đáp rằng :"Trước đây cha chồng tôi bị cọp vật chết, rồi sau đó chồng tôi cũng bị cọp cắn chết, bây giờ đến lượt thằng con tôi cũng bị cọp vật chết nữa !". Khổng Tử nghe thế bèn hỏi rằng :"Thế sao gia đình bà không dọn đi chỗ khác ở ?". Người đàn bà đáp rằng :" Nơi đây không có chính sách tàn bạo hà khắc của quan quyền !". Khổng Tử bèn quay sang nói với các đệ tử rằng :"Các cậu trẻ hãy nghe đó : Chính sách hà khắc của quan quyền còn hung ác hơn là cọp dữ nữa đó !"

 

                    

      Đọc chuyện nầy làm cho ta liên tưởng đến tình hình chính trị của miền Nam Việt Nam ta sau năm 1975 và tình hình chính trị trước mắt của Afghanistan do nhóm Taliban thống trị. Thế mới biết : Chính trị hà khắc nên dân chúng tranh nhau bỏ nước ra đi là một lý do không còn tranh cải được nữa ! "Hà Chính Mãnh Vu Hổ 苛政猛于虎" là thế đấy!

        

       Còn làm tay sai cho giặc hay giúp cho kẻ ác làm việc xấu để hại người thì gọi là "VỊ HỔ TÁC TRÀNH 為虎做倀". Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Quyển 430 của sách Thái Bình Quảng Ký đời Đường《太平廣記》卷四百三十. Có nghĩa : Vì cọp mà làm con ma Trành. Theo truyền thuyết thì TRÀNH 倀 là hồn ma của người bị cọp ăn thịt không thể siêu sinh phải vấn vít mãi quanh mình cọp và phải dẫn dụ người khác cho cọp ăn thịt để thay thế cho mình làm con ma TRÀNH thì mới giải thoát và siêu sinh được, và mãi cho đến khi con cọp đó chết thì những con ma TRÀNH mới được giải thoát hoàn toàn. Nên, con ma Trành hại người là để giải thoát cho mình, nhưng thành ngữ "VỊ HỔ TÁC TRÀNH 為虎做倀" đi vào văn học với ý nghĩa: Giúp cho kẻ ác làm ác, giúp cho kẻ xấu hại người; là làm tay sai để nối giáo cho giặc, là những tên Việt gian hại dân hại nước !

 

                     
 

      Mặc dù không phải là thú nuôi trong nhà như "Lục súc" (ngựa, dê, trâu, chó, heo, gà), nhưng con CỌP cũng đi song song vào đời sống dân chúng trong dân gian qua những thành ngữ tục ngữ ca dao trong tất cả những sinh hoạt hằng ngày. Như ta thường nói "Con giống cha là nhà có phúc", nhưng nói theo...cọp thì là "Hổ Phụ Sanh Hổ Tử" nghe nó oai phong hơn là "Hổ Phụ Sanh Khuyển Tử". Người nào ở đâu thì rành địa bàn nơi đó, gọi là "Rừng nào thì cọp nấy". Mấy ông uống vô ba hột rượu thì cứ oang oang "Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm". Ráng làm đầu tắt mặt tối để dành được một ít, bị "giựt hụi" một cái hết trơn, thì nói là "Ký ca ký cóp làm cho cọp nó ăn". Con trai đang sức lớn ăn nhiều thì nói là "Nam thực như hổ, nữ thực như miêu". Viết tới đây lại nhớ khi xưa, trong xóm tôi ở có một cô ở độ tuổi "Mười bảy bẻ gảy sừng trâu" một lần có thể ăn hết 2 ký bún chan nước mắm ớt. Ông Sáu trong xóm hay nói Nho, nói là :"người ta nói "Nam thực như hổ", còn con nhỏ nầy thì phải nói là "Nữ thực như...Mồ Tổ nam" mới đúng !". Cọp tuy hung dữ, nhưng vẫn chắt chiu thương yêu nuôi nấng cọp con, có đói lắm cũng không ăn thịt con mình, nên ta lại có câu "Hùm dữ cũng không nở ăn thịt con". Cọp tuy dũng mãnh, nhưng nếu chỉ có một thân một mình thì cũng khó mà chống chọi với một bầy lang sói, như câu "Mãnh hổ nan địch quần hồ 猛虎難敵群狐" vậy ! Hình ảnh con hổ còn được ví von với những người có tướng mạo hung dữ ngang ngược, như câu :"Trên rừng thì hổ lang, dưới làng thì mặt rổ". Nói thế, có bất công với "người mặt rổ" lắm hay không ?!

                       

     Còn trong ca dao thì hình tượng con cọp vẫn luôn tượng trưng cho uy quyền và hung ác, như trong câu :

 

                          Mèo tha thịt mỡ thì la,

                     Cọp tha con lợn cả nhà im hơi !

 

     Hay như câu :

                         Con gái lấy phải chồng già,

                    Cầm bằng con lợn cọp tha vào rừng !

 

     Hay lộ liễu thẳng thừng hơn :

                          Con gái lấy phải chồng quan,

                     Nhược bằng để hổ nó mang lên rừng !

 

   ...xót xa và cay đắng hơn :

                                Con gái mà lấy chồng xa,

                          Cũng như heo nái cọp tha về rừng !

        

              

      Các cô gái Nam Bộ còn mượn câu nói Nho về con hổ để ví von chuyện thực tế :

 

                         Họa hổ họa bì nan họa cốt,

                         Tri nhân tri diện bất tri tâm.

                         May không thôi chút nữa em lầm,

                Củ khoai lang mà em cứ ngỡ là nhân sâm bên Tàu !

 

     Để kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đọc lại giai thoại giữa nữ sĩ Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ với hai bài thơ đối đáp ví von mà ví dỏm sau đây. Không biết là cái anh chàng Chiêu Hổ này "mò mày mó máy" làm sao đó mà nữ sĩ phải lên tiếng "stop" lại bằng :

 

                      Anh đồ tỉnh, anh đồ say,

                      Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?

                      Này này chị bảo cho mà biết.

                      Chốn ấy hang hùm chớ mó tay !

            

     Lém lỉnh không vừa, Chiêu Hổ đã đáp lại rằng :

 

                      Này ông tỉnh! Này ông say!

                      Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!

                      Hang hùm ví bẵng không ai mó,

                      Sao có hùm con bỗng trốc tay ?

 

     Dẫu biết đó là "Hang Hùm", nhưng hễ là đàn ông thì không ai dám nói là không thích mó cả ! "Hùm thì Hùm" mà "Mó thì cứ Mó", như Chiêu Hổ đã nói :"Không mó thì làm sao mà có được Hùm con !?" Mong rằng trong năm NHÂM DẦN nầy sẽ có rất nhiều con "Hùm Con" ra đời để được hưởng cái tốt của "Nam NHÂM" quý tử !

 

    Cầu chúc cho mọi người, mọi nhà đều được VUI VẺ, MẠNH KHOẺ vượt qua "Cơn dịch thế kỷ" trong năm con CỌP 2022 nầy. Mong lắm thay !

 

                                                                                         杜紹德

                                                                                     Đỗ Chiêu Đức

 

2. Câu Đối cho năm NHÂM DẦN :

 

        -  NHÂM nhi chén rượu mừng xuân, vui vẻ đồng hương cùng đón TẾT;

        -  DẦN dà vát-xin ngăn dịch, bình an thế giới thảy vui XUÂN !

DCD_doi tet Eng.JPG

Mừng năm mới, vui Xuân đón Tết, tất cả mọi người đều chúc nhau NĂM MỚI VUI VẺ; chữ Nho là TÂN NIÊN KHOÁI LẠC 新年快樂 ! Âm Quan Thoại là "XIN-NIÁN KUÀI-LÈ", ngày xưa Chợ Lớn là thế giới của người Quảng Đông nên Tết đến là khắp nơi đều nghe tiếng chúc nhau "Cống-hỉ fat-xồi !" là CUNG HỈ PHÁT TÀI 恭喜發財! là lời chúc của giới thương buôn luôn luôn lấy lợi nhuận làm đầu, nên họ rất thực tế, mừng năm mới thì cứ "Chúc nhau Phát tài!". Còn bây giờ ở xứ Huê-Kỳ nầy thì cái gì cũng HAPPY : Hết Happy Hallowing, rồi Happy Thanksgiving, bây giờ thì tới HAPPY NEW YEAR ! 

 

     Người Mỹ chỉ ăn Tết rầm rộ ở phố Times Square với quả cầu khổng lồ mà cả thế giới đều theo dõi, nhưng họ chỉ nghỉ vỏn vẹn có ngày MỘT TÂY để ăn Tết Tây mà thôi; Hai Tây thì lại đi làm bình thường rồi. Chỉ những khu phố có người Hoa, người Việt... nói chung là người Châu Á là còn ĂN TẾT ì sèo cho đến hết tháng Giêng là tháng ăn chơi theo Âm Lịch. Một số cộng đồng người Mỹ ở gần người Hoa cũng bị ảnh hưởng theo các phong tục và cách ăn Tết. Ở đây ta chỉ nói về phong tục dán câu đối đỏ để mừng xuân đón Tết mà thôi !

 

     Câu đối tết "truyền thống" thường thấy nhất của người Mỹ là :

                Eat well sleep well have fun day by day,

                 Study hard work hard make money more and more.

Có nghĩa :

              Ăn ngon, ngủ ngon, vui ngày qua ngày,

              Học lắm, làm lắm, tiền nhiều thêm nhiều.

Chữ Nho là :

               食好睡好,日日快樂;  Thực hảo thụy hảo, nhựt nhựt khoái lạc;

               學勤習勤,多多賺前!  Học cần tập cần, đa đa trám tiền !

 

    Câu đối nầy thường thấy các du học sinh Mỹ treo hoặc dán trước cửa phòng  Apartment trong những ngày Tết Âm lịch. Bức hoành phía trên ở giữ hai câu đối là : GILIVABLE có nghĩa là HÒA HỢP, và ở chính giữa bên dưới là chữ LUCK là MAY MẮN. Tất cả đều theo bài bản bộ liễn Tết truyền thống của Trung Hoa, như hình minh họa dưới đây :

 

 

 

 

 

 

              

 

 

 

       Theo đà giao lưu văn hóa giữa Âu-Á ngày một gia tăng, những câu đối mang phong cách "Chinglish" (Chinese English) ngày một nhiều hơn và đa dạng hơn. Một con buôn đến từ Bắc Kinh cho biết, mỗi năm Tết đến ông đều bán ra khoảng 600 đôi liễn bằng tiếng Anh theo đủ các dạng và các loại hình. Viết tiếng Anh theo kiểu "Chinglish" đôi khi không cần phải đúng với văn phạm tiếng Anh, như :

 

               好好學習,天天向上. Hảo hảo học tập, Thiên thiên hướng thượng.

Có nghĩa :

            Học tập cho thật tốt; Mỗi ngày đều đi lên ! thì...

viết thành tiếng Anh là :

                         Good good study, day day up !

                                                                        ... rõ "bồi" !

 

      Nhưng câu đối Tết thì hay hơn vì cũng ăn vận đàng hoàng, như :

 

         Vế ra : Happy NewYear !   (新年好 Tân niên hảo)

         Vế đối :Money Runs Here !(錢來到 Tiền lai đáo)

 

     Lại còn vừa ăn vận vừa đối xứng nữa chớ, xem câu sau đây :

        Vế ra :  Daily progress climbing upward,  (天天進步天天上)

        Vế đối : Yearly success flying forward.      (歲歲成功歲歲高)

Chữ Nho là :

              Thiên thiên tiến bộ thiên thiên thượng,

              Tuế tuế thành công tuế tuế cao !

Có nghĩa : 

              Mỗi ngày một tiến bộ, mỗi ngày một lên cao,

              Mỗi năm một thành công, mỗi năm đều bay vút !

 

      Một câu đối nữa cũng rất "ăn khách" cho các năm từ Y2K (2000) đế 2010, các năm đầu của Thiên Niên Kỷ mới là :

                New year new joys and new century,

                Great peace great wealth and great luckily.

Chữ Nho là :

               新喜新年新世紀,   Tân hỉ tân niên tân thế kỷ,

               多和多祿吉祥多.   Đa hòa đa lộc các tường đa !

Có nghĩa :

              Niềm vui mới trong năm mới mừng thế kỷ mới, sẽ có...

              Nhiều hòa bình nhiều phước lộc và nhiều may mắn đến ! 

 

     Nhưng thông dụng nhất vẫn là câu sau đây :

 

               Spring comes luck comes fortune comes,

               Family well people well everything well.

Chữ Nho là :

               春到福來千運到,   Xuân đáo phước lai thiên vận đáo,

               家和人旺萬事亨.   Gia hòa nhân vượng vạn sự hanh. 

Có nghĩa :

              Xuân về phúc đến vận may về;

              Nhà tốt người yên mọi sự thông.                  

 

       Còn những câu chúc Tết 4 chữ bình thường của ta thì khi viết bằng tiếng Anh sẽ thành một câu nói dài... thòn, với nghĩa chung chung của 2,3 câu như :

 

              Cung Chúc Tân Xuân, Chúc Mừng Năm mới... sẽ...

Viết thành :

                   Best wishes for the year to come.

Hay như câu :

              Năm Mới May Mắn, Năm Mới Vận Hội Mới... thì...

Viết thành :

                   Good luck in the year ahead.

Thông thường như câu :

                       "Tống Cựu Nghinh Tân" thì...

dịch là...

               Ring out the old, ring in the new.

Còn câu :                     

              "Vạn Sự Như Ý"   thì lại được...

dịch là : 

              Everything goes well.

 

            Theo tôi thì nên dịch là :

                                  "Everything comes true" sẽ hay hơn.

 

      Nhớ những năm Ăn Tết ở Trung Tâm Việt Mỹ Houston TX hồi trước khi đại dịch xảy ra; Năm nào ông giám đốc TTVM cũng mời bà dân biểu tiểu bang Sheila Jackson Lee đến dự, và năm nào tôi cũng phải viết 3 chữ PHƯỚC LỘC THỌ 福祿壽 có kèm tiếng Anh để tặng cho bà :

 

            PHƯỚC : Blessings,  LỘC : Wealthy,  THỌ : Longevity.

 

     Theo như hình minh họa dưới đây :

 

                

 

 

 

 

 

 

 

   

Để kết thúc bài viết hôm nay, xin được góp vui với câu đối Tết truyền thống của Việt Nam được dịch ra tiếng Anh như sau :

 

                 Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ;

                 Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

  ... là :

                 Fatty meat, Onion pickle, Red couplet;

                 Lunar New Year pole, Fire crackers, Green rice pie.

 

...mà trong bài viết "Liễn Tết" tôi đã dịch ra chữ Nho như sau :

 

                Phì nhục, toan thông, hồng đối liễn    肥肉,酸葱,红對联,

                Đào phù, bộc trúc, lục phương tung.    桃符,爆竹,绿方粽.

 

     Vậy là ta đã có đủ cả câu đối Hoa, Việt và Anh tha hồ mà ĂN TẾT đề huề nhé !

 

                  

     Chúc cho tất cả mọi người đều có được một cái Tết ÔNG CỌP 2022 Vui Vẻ, Mạnh Khỏe, AN KHANG THỊNH VƯỢNG !

 

                      杜紹德

                      Đỗ Chiêu Đức

dcd_chucmungnammoiAnhViet.JPG
dcd_luck.JPG
DCD_Thu phap chuc xuan.JPG
DCD_PhuocLocTho.JPG
dcd_phongdieuvuthuan.JPG
dcd_MungXuanNhamDan.JPG
dcd_caudoichonamNhamDan.JPG
dcd_LyBach.JPG

Giai Thoại Văn Chương :  

 

                                   THI TIÊN LÝ BẠCH 

                                            (701-762)

Truyện kể, vào triều đại của Huyền Tôn hoàng đế đời Đường, có một tài tử họ Lý 李, tên Bạch 白, tự là Thái Bạch 太白, người đất Cẩm Châu (Tứ Xuyên), vốn là cháu 9 đời của Tây Lương Võ Chiêu Hưng Thánh Hoàng Đế Lý Hạo. Bà mẹ của Lý nằm mơ thấy sao Trường Canh rơi vào bụng mà sanh ra Lý; vì sao Trường Canh là Thái Bạch Kim Tinh, nên mới lấy tên Bạch và tự là Thái Bạch để đặt cho Lý. Lý sinh ra vốn đã mi thanh mục tú, cốt cách phi phàm; Mười tuổi đã làu thông kinh sử, xuất khẩu thành thơ, mọi người đều ca ngợi và xưng tụng là thần tiên giáng thế, nên mới đặt cho cái ngoại hiệu là Lý Trích Tiên 李謫仙 (Là tiên trên trời được trích giáng xuống trần gian). Có thơ của Thi Thánh Đỗ Phủ chứng thực :

 

             昔年有狂客,  Tích niên hữu cuồng khách,

                    號爾謫仙人。  Hiệu nhĩ trích tiên nhân.

               筆落驚風雨,  Bút lạc kinh phong vũ,

                    詩成泣鬼神!  Thi thành khấp qủi thần !

   Có nghĩa :

                 Năm xưa có khách ngông cuồng,

                 Xưng là trời giáng xuống trần Trích Tiên.

                 Hưu bút mưa gió kinh thiên,

                 Thơ thành thần thánh qủi tiên cũng gờm !

 

     Lý Bạch lại tự xưng mình là Thanh Liên Cư Sĩ 青蓮居士 (Cư sĩ hoa sen xanh) để tỏ rõ cho sự thanh cao của mình, không cầu danh lợi, ngao du khắp bầu trời để uống hết rượu ngon của thiên hạ. Nghe đồn Ô Trình Tửu của Hồ Châu rất ngon, Lý bèn tìm đến Hồ Châu để uống cho thỏa thích. Đang lúc cao hứng ngâm thơ vang vang , chợt có Ca Diếp Tư Mã đi ngang qua quán rượu bèn cho tùy tùng vào hỏi xem là ai. Lý nghe hỏi bèn thuận miệng đọc luôn bốn câu thơ :

 

                  青蓮居士謫仙人,  Thanh Liên Cư Sĩ trích tiên nhân,

                  酒肆逃名三十春。  Tửu tứ đào danh tam thập xuân.

                  湖州司馬何須問,  Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn,

                  金粟如來是後身。  Kim túc Như Lai thị hậu thân !

      Có nghĩa :

                  Thanh Liên Cư Sĩ trích tiên đây,

                  Quán rượu ẩn danh chục năm nay.

                  Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,

                  Như Lai kim túc hậu thân nầy !

 

                  

 

       Lý đùa với Tư Mã Hồ Châu rằng : Ngài là Ca Diếp là hậu thân của Phật Thích ca, còn ta chính là Như Lai đây ! Ca Diếp Tư Mã nghe xong thất kinh hỏi :"Chả lẽ đây là Lý Trích Tiên của đất Thục mà ta đã nghe danh bấy lâu nay ?!" Bèn mời Lý về nha môn cùng uống rượu với nhau trên mười hôm. Ca Diếp Tư Mã khuyên Lý đi về hướng Trường an để có dịp tiến thân. Lý đáp là triều chính hỗn lọạn, quan trường nhũng nhiễu tham ô, khó lòng mà tiến thân ngay thẳng cho được. Nhưng Ca Diếp vẫn khuyên là :"Với tài năng của các hạ, lo gì đất Trường an không có người tiến cử !" Lý Bạch nghe theo, bèn lần mò về hướng Trường an.

 

      Năm Thiên Bảo nguyên niên đời Đường (742). Một hôm, đang dạo chơi ở Tử Cực cung thì gặp phải Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương. Sau khi cùng trao đổi tên họ, cùng ngưỡng mộ nhau. Hạ Tri Chương đã cởi túi kim điêu của vua ban mà đổi rượu để cùng uống với nhau đến khuya, rồi lại cùng nhau kết nghĩa kim lan, mặc dù Hạ lớn hơn Lý đến 40 tuổi. Từ đó, mỗi ngày đều cùng nhau uống rượu ngâm thơ. 

      Thời gian thấm thoát đã đến kỳ khảo thí. Hạ Tri Chương bèn viết một phong thư đưa cho Lý Bạch giới thiệu Lý với quan chánh phó chủ khảo năm đó là Thái Sư Dương Quốc Trung và Thái Úy Cao Lực Sĩ. Chẳng ngờ hai tên tham quan nầy cứ ngỡ là Hạ đã ăn tiền hối lộ của Lý rồi gởi gắm cho mình, nên cùng nổi giận và cùng hẹn nhau, nếu gặp tên Lý Bạch thì đánh rớt ngay chớ chẵng cần biết văn chương hay dở gì cả ! Đến kỳ thi, khi giở đến bài của Lý Bạch thì Dương Quốc Trung đã gọi đến phê rằng :"Tài học như thế nầy, chỉ đáng mài mực cho ta mà thôi !", bèn chuyển bài qua cho Cao Lực Sĩ. Sĩ lại khinh bạc hơn nữa phê rằng :"Mài mực còn chưa đáng, chỉ xứng đáng để tháo giày cho ta mà thôi !". Đoạn ra lệnh cho lính gát tống cổ Lý Bạch ra khỏi phòng thi. Lý Bạch ôm hận thề rằng :"Sau nầy nếu ta được đắc ý, thì sẽ bắt hai tên nầy mài mực và tháo giày cho ta thì mới nguôi cái hận trong lòng nầy ! Hạ Tri Chương biết chuyện, bèn an ủi bạn rằng :"Thôi thì hiền đệ cứ ở đây ẩn nhẫn đợi khoa thi của 3 năm sau, biết đâu chừng đó sẽ gặp được các quan chủ khảo tốt hơn".  

 

      Ngày tháng thoi đưa, bỗng một hôm có sứ thần của Phiên bang mang quốc thư đến. Khi lâm triều mở quốc thư ra tuyên độc, cả triều đều ngẩn ngơ vì không đọc được chữ nào cả. Quan Hàn Lâm qùi xuống tâu rằng :"Đây là chữ của Phiên bang, chúng thần học thức thiển cận, không thể đọc được !" Nhà vua bèn lệnh cho các quan chủ khảo năm đó đọc thư. Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ đều có mắt như mù, miệng câm như hến, không đọc được chữ nào cả. Huyền Tôn bèn quở rằng :"Uổng công các khanh là những bậc hiền tài, mũ cao áo rộng. Không đọc được thư nầy thì làm sao mà xử lý phát lạc sứ thần cho được đây? Nay trẫm hạn trong vòng 3 ngày không ai đọc được thư nầy thì đều phải ngưng bổng lộc, 6 ngày thì ngưng chức, 9 ngày thì đều đưa hình ty hỏi tội. Trẫm sẽ chọn nhân tài khác mà khuông phò xã tắc !" Thánh chỉ ban xuống, các quan đều lặng thinh chẳng dám dị nghị gì cả. Nhà vua lại càng tỏ vẻ lo âu hơn nữa.

                                                             

     Tan chầu, về lại nhà Hạ Tri Chương kể lại mọi chuyện cho Lý Bạch nghe. Nghe xong, Bạch cả cười bảo rằng :"Rất tiếc là khoa rồi đệ không được chấm đậu để cùng phân ưu với thiên tử !" Hạ Tri Chương nghe xong thất kinh hỏi lại :" Hiền đệ học cao hiểu rộng, đọc được Phiên thư sao ? Ngày mai ta sẽ bảo tấu với bệ hạ". Hôm sau vào triều tâu lên vua rằng :"Nhà thần có một tú tài họ Lý tên Bạch, học cao hiểu rộng, có thể đọc hiểu được Phiên thư". Vua bèn cử sứ giả đến phủ của Hạ Tri Chương mời Lý Bạch vào chầu. Bạch nói với thiên sứ rằng :"Thần là người áo vải phương xa, không quan không tước, vào chầu vua e sẽ làm mất thể diện của các quan đại thần học rộng hiểu nhiều ở trong triều chăng ?". Sứ về tâu lại, nhà vua bèn hỏi Hạ Tri Chương là chuyện như thế nào ? Hạ tâu rằng :"Lý Bạch văn chương cái thế, học vấn uyên thâm, chỉ vì khoa thi vừa qua bị khảo quan sỉ nhục, đuổi khỏi trường thi. Nay áo vải vào chầu, trong lòng cảm thấy hổ thẹn, mong bệ hạ hãy ban ân điển." Nhà vua bèn y tấu, phong cho Lý Bạch là Tiến Sĩ cập đệ, áo tía đai vàng, mão ô sa hốt ngà voi và cử Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương cùng đi rước Lý Bạch vào chầu.                   

       Sau khi tung hô vạn tuế để tạ ơn, nhà vua thấy Lý Bạch tướng mạo phi phàm như thần tiên giáng thế, trong lòng rất vui phán rằng :"Nay có Phiên bang mang quốc thư đến, nhưng không có người biết đọc. Trẫm triệu khanh đến để cùng phân ưu ". Bèn truyền thị thần mang Phiên thư đến. Lý Bạch đọc qua một lượt, xong mới mĩm cười hướng về nhà vua mà dịch lớn lên cho mọi người cùng nghe là :

       "Đại Khả Độc của nước Bột Hải thư đến cho Quan Gia triều Đường : Từ lúc ông chiếm Cao Ly, sát cạnh biên giới nước tôi, nên lính biên khu thường xuyên xâm lấn bờ cỏi nước tôi, tôi nghĩ đó là do ý của ông mà ra. Nay tôi không đừng được nữa, phái sứ đến để giảng hòa, xin ông cắt 176 thành của nước Cao Ly mà nhường cho nước tôi. Tôi sẽ tặng cho ông những vật trân quí sau đây : Thỏ của núi Thái bạch, Vải côn bố của Hải Nam, Trống của San Thành, Lộc của Phù Dư, Heo của Mạc Hiệt, Ngựa của Suất Tân, Cừu của Ốc Châu, Cá chép của sông My Đà, Mân của Cửu Đô và Lê của xứ Lạc Du, ông đều có cả ! Nếu ông vẫn không đồng ý, thì tôi sẽ khởi binh tới đánh nhau, chừng đó thắng thua sẽ quyết !" 

       Vua và các quan nghe xong đều kinh hãi trong lòng, im lặng nhìn nhau mà không biết phải nói gì. Riêng nhà vua thì lo lắng ra mặt, trầm ngâm giây lát bèn hỏi các quan về kế sách để đối phó lại. Văn võ hai hàng đều im thinh thích. Hạ Tri Chương quỳ xuống tâu rằng :"Sao bệ hạ không hỏi xem Lý Bạch có kế sách chi để đối phó hay không ?" Vua bèn hỏi ý Bạch. Bạch tâu rằng :"Bệ hạ không phải lo lắng, ngày mai cứ triệu Phiên sứ vào chầu, thần sẽ đáp trả Phiên thư bằng chính ngôn ngữ của Phiên bang, quở trách Khả Độc của Phiên Quốc, bắt ông ta phải sai sứ đến cống nạp và xin hàng". Nhà vua bèn hỏi :"Khả Độc là người nào?" Lý Bạch đáp rằng :" Người Bột Hải gọi vua là Khả Độc, người Hồi Hột gọi vua là Khả Hãn, người Thổ Phồn gọi vua là Tán Phổ, người Lục Chiếu xưng vua là Chiếu, người Ha Lăng xưng vua là Tất Mạc Uy. Mỗi bộ tộc đều theo phong tục của mình mà gọi tên vua ". Nhà vua nghe Bạch ứng đối lưu loát, học cao hiểu rộng  trong lòng rất đẹp, bèn phong ngay cho Lý Bạch chức Hàm Lâm Học Sĩ, thết tiệc tại kim loan điện có cung tần thể nữ ca múa hầu hạ chuốc rượu. Bạch uống đến say mèm, vua bèn cho nội thị đở vào bên trong trắc điện để nghỉ ngơi.  

      Canh năm hôm sau, khi trống canh năm vừa dứt thì hai bên văn võ bá quan đã chỉnh tề nghênh tiếp nhà vua thăng điện. Vua cho triệu Lý Bạch thì Lý hãy còn kèm nhèm chưa tỉnh rượu hẵn. Khi nội thị bưng canh giải rượu lên, thấy còn quá nóng, nhà vua lại đích thân cầm thìa khuấy cho mau nguội, rồi mới ban cho Lý uống. Các quan trông thấy nhà vua ưu ái Lý Bạch làm vậy đều nửa mừng nửa lo; mừng vì nhà vua biết chiêu hiền đãi sĩ, lo vì không biết Lý Bạch có làm nên cơm cháo gì không. Khi Bạch đã yên vị, nhà vua cho triệu sứ thần vào. Sau khi triều bái tung hô xong, Lý Bạch bèn đứng lên đi đến trước ngai vàng với áo tía mũ đen đứng trên trông xuống, phiêu nhiên như thần tiên giáng thế, tay cầm Phiên thư mở ra đọc to từng chữ một. Phiên sứ thất kinh đến há hốc cả mồm. Lý Bạch thay vua lớn tiếng quở rằng :"Tiểu bang sao dám thất lễ, nay thánh thượng độ lượng với hồng phước như trời, tha không chấp nhất, hãy nghe đáp chiếu của ta đây !" Phiên sứ nghe quở, run rẩy quỳ dưới bệ không dám ngẩn lên.       

       Nhà vua sai bày giường thất bảo bên cạnh ngai vàng, dùng nghiên mực bằng bạch ngọc, quản bút bằng ngà voi và thỏi mực bằng độc long hương thảo và giấy hoa tiên kim hoa ngũ sắc. Bày biện chỉnh trang xong đâu đó bèn ban cẩm đôn cho Lý Bạch ngồi cạnh ngai vàng để thảo chiếu thư. Bấy giờ Bạch mới tâu rằng :"Giày của thần không được sạch, e làm bẩn ngự sàng". Vua bèn sai nội thị đến cởi giày cho Lý. Lý được dịp lại tâu rằng :"Thần còn có một thỉnh cầu, dám xin bệ hạ tha cho tội ngông cuồng thì thần mới dám tâu lên". Vua phán :"Khanh cứ nói, có thất thố trẫm cũng không bắt tội". Lý tâu rằng:"Trong kỳ xuân thí vừa qua thần bị hai quan chánh phó chủ khảo đánh rớt và nhục mạ rồi đuổi khỏi phòng thi; nay hai người đó đứng đây thần không sao thi thố văn tài được nữa, dám xin bệ hạ lệnh cho Thái sư Dương Quốc Trung nâng nghiên mài mực và Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày cho thần, để thần lấy lại lòng tự hào của kẻ sĩ mà thay mặt bệ hạ thảo chiếu thư trấn áp Phiên bang, mong bệ hạ ân chuẩn để thần không làm nhục mệnh vua !". Đến nước nầy nhà vua đành phải chìu theo ý của Lý, truyền chỉ "Thái sư Dương Quốc Trung mài mực, Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày" để cho Lý Bạch thảo hách man thư. Lý bạch vô cùng đắc ý vì đã trả được cái hận trước đây, tay trái vuốt râu, tay phải hưu bút, chỉ trong một loáng đã thảo xong chiếu chỉ cho Phiên quốc. Trình lên nhà vua, vua trông thấy cũng giật mình, vì những nét chữ bay bướm cong queo giống y như thư của Phiên bang gởi đến, trong lòng rất vui, nghĩ rằng :"Với tài hoa nầy, cho Thái Sư mài mực, Thái Úy tháo giày cũng xứng đáng". Bèn truyền cho Lý Bạch đứng trước ngai vàng đọc lớn chiếu thư cho sứ thần và mọi người cùng nghe :

     "Đại Đường Khai Nguyên Hoàng đế chiếu dụ đến Khả Độc nước Bột Hải : Từ xưa đến nay, trứng vốn không chọi đá , xà không thể đấu với long. Bổn triều ứng thiên khai vận, ban ân tứ hải, binh cường tướng mạnh, giáp cứng giáo dài. Vua Hiệt Lợi bội ước mà bị bắt, Tây Hạ Lộng Tán đúc ngổng mà thề nguyền, nước Tân La dệt gấm mà ca tụng, Thiên Trúc cống chim muông biết nói, Ba Tư nộp rắn biết bắt chuột, Phất Ma tấn cống chó biết chăn ngựa, Lâm Ấp cống ngọc dạ quang, Cốt Lợi Cán nộp Ngựa qúy, Nê Bà La hiến rượu ngon. Chẳng qua cũng chỉ là mến đức sợ uy nước lớn, muốn hòa bình cầu an. Cao Ly vì chống lại thiên triều nên lập quốc 9 trăm năm bị tiêu diệt trong một buổi, đó cũng vì không biết thời cơ mà chịu họa vong quốc. Nay nước Bột Hải của các ngươi, vốn là thuộc quốc của nước Cao Ly, chẳng qua cũng chỉ bằng một quận nhỏ của nước ta mà thôi, lại dám ngang nhiên thách thức. Phải biết là khi quân thiên triều ập đến thì ngàn dâm máu đổ thịt rơi, vua Khả Độc sẽ bị bắt, nước cũng sẽ mất như Cao Ly. Nay thánh chúa khoan dung độ lượng không chấp nê cho sự ngông cuồng lần nầy. Phải biết hối lỗi mà sớm ngày nộp cống xưng thần, cho bốn bể được thanh bình, nhân dân thôi đồ thán. Hãy tam tư suy nghĩ cho cẩn thận để đừng làm trò cười cho các lân bang. Nay ban chỉ dụ. khâm thử !"

 

                                                    

 

      Sứ thần Bột Hải quỳ nghe chỉ dụ mà mặt như chàm đổ, cúi đầu nhận chiếu chỉ rồi tung hô vạn tuế mà lui ra. Khi ra đến cửa môn bèn hỏi nhỏ quan Nội Hàn rằng :"Người thảo và đọc chiếu chỉ khi nảy là ai, mà Thái sư phải mài mực và Thái Úy phải cởi giày vậy?" Quan Nội Hàn đáp rằng :"Đó là Hàn Lâm Học Sĩ Trích tiên Lý Thái Bạch. Lý học sĩ là thần tiên trên trời trích giáng xuống, còn Thái Sư và Thái Úy chỉ là quan chức của phàm trần, làm sao mà so bì với Trích tiên cho được !" Phiên sứ nghe thế về nước báo lại với vua Khả Độc là thiên triều có thần tiên xuống giúp. Khả Độc xem chiếu thất kinh, bàn bạc với trăm quan thảo hàng biểu xưng thần và hàng năm nộp cống, không dám dấy động can qua nữa.

 

     Từ đó, nhà vua rất kính trọng và yêu mến Lý Bạch, định phong cho quan chức trọng hậu, nhưng Lý chỉ muốn tiêu dao tự tại, nên chỉ xin được có rượu uống hằng ngày là mãn nguyện rồi. Nhà vua biết Lý là người thanh cao, không màng vinh hoa phú qúy, nên hằng ngày ban yến tiệc trong cung và lưu lại trong kim loan điện để nghị chính, ân sủng ngày một gia tăng. Một hôm đang lang thang trên đường phố Trường an bỗng nghe thấy tiếng phèng la vang dậy, một đoàn đao phủ thủ áp giải một tù nhân đem ra pháp trường hành quyết. Trong tù xa là một võ tướng mi thanh mục tú, tướng mạo hiên ngang. Hỏi ra mới biết đó là Quách Tử Nghi, một võ tướng thất cơ từ Tinh Châu giải về Trường an để trảm quyết. Lý Bạch thấy Quách Tử Nghi tướng mạo phi phàm bèn chặn tù xa lại, bảo rằng mình sẽ vào cung bảo tấu với thiên tử. Toán đao phủ nhận biết đây là Lý học sĩ người thảo Hách Mang Thư hiện đang ở trong cung vua, nên bằng lòng chờ đợi. Lý bay ngựa về cung yết kiến thiên tử, vì là tội nhẹ nên vua ban ngay một đạo ân xá. Lý lại bay ngựa ra pháp trường tha cho Quách Tử Nghi, khuyên nhủ là hãy cố gắng lập công chuộc tội để kiến công lập nghiệp. Quách Tử Nghi bái tạ ra đi và hứa sẽ kết cỏ ngậm vành để báo đáp.

     Lúc bấy giờ hoa Mộc Thược Dược cuả xứ Dương Châu cống nạp vào trong cung đã nở rộ; trong cung gọi tên là hoa Mẫu đơn với bốn màu rực rỡ là trắng, hường, đỏ, tía. Thiên tử di giá đến đình Trầm hương cùng Dương Quý Phi thưởng ngoạn với một đám Lê viên tử đệ cùng múa ca hát xướng. Nhà vua cảm khái bảo rằng :" Trước phi tử đẹp như hoa và trước hoa đẹp như tranh thế nầy, sao ta lại cứ hát những bài nhạc cũ thế kia. Hãy mau truyền Lý học sĩ đến để viết nên những ca khúc mới cho hợp người hợp cảnh !" Trưởng nhóm nhạc của Lê Viên là Lý Qui Niên tuân chỉ đi tìm, nội thị cho biết là Lý Học sĩ đã ra phố Trường an để uống rượu rồi. Lý Qui Niện vội vả dắt theo một đoàn tùy tùng đi tìm Lý Bạch, khi đi ngang qua một tửu lâu cao lớn nghe có tiếng người ngâm rằng :

 

                 三杯通大道,    Tam bôi thông đại đạo,

                 一斗合自然。    Nhất đấu hợp tự nhiên.

                 但得酒中趣,    Đản đắc tửu trung thú,

                 勿為醒者傳。    Vật vi tỉnh giả truyền !

      Có nghĩa :

                 Ba ly thông qua đạo lớn,

                 Một đấu hợp với tự nhiên.

                 Chỉ cần được vui trong rượu,

                 Mặc cho kẻ tỉnh tuyên truyền !

 

                   

      Giọng điệu nầy không phải của Lý Học Sĩ thì còn là ai nữa ! Bèn đi thẳng lên lầu truyền lệnh vua triệu hồi về cung. Mọi người nghe có chiếu chỉ của vua đều vô cùng kinh hãi, riêng Lý Bạch đã "xỉn" quá rồi, giương đôi mắt thất thần nhìn Lý Qui Niên rồi đọc một câu thơ của Đào Uyên Minh :" Ngã túy dục miên quân thả khứ 我醉欲眠君且去!(Có nghĩa : Ta say muốn ngủ người đi đi !) rồi nhắm mắt ngủ ngay. Lý Qui Niên lắc đầu chào thua, đưa tay xuống lầu ngoắc một cái, cả toán thị vệ bèn đổ lên lầu kè Lý Học Sĩ xuống đưa lên ngựa ngũ hoa thông trực chỉ về cung. Vì Lý Bạch còn quá say nên nhà vua cho cởi ngựa vào thẳng Ngũ Phụng lâu trực chỉ vào cung cấm. Lý Qui Niên phải đi theo đở Lý Bạch đi vào hậu cung ngang qua Hưng Khánh trì đến bên Trầm Hương Đình là nơi nhà vua và quý phi đang ngắm hoa mẫu đơn. Thấy Lý Bạch còn qúa say vua cho đặt tạm ngự sàng bên điện để Lý nằm, thấy Lý chảy nước dãi vua còn đưa tay áo long bào ra lau; Qúy phi tâu rằng :"Thiếp nghe nói phun nước lạnh vào mặt có thể làm cho tỉnh rượu". Vua bèn cho cung nữ ngậm nước lạnh phun vào mặt Lý Bạch. Lý thấm lạnh giật mình tỉnh ra, nhìn thấy vua và phi tần chung quanh, thất kinh quỳ xuống thỉnh tội. Vua đỡ dậy phán rằng :"Nay trẫm cùng phi tử cao hứng ngắm hoa, không thể không có lời hát mới, phiền khanh soạn cho ba khúc Thanh Bình Điệu để cho Lê Viên tử đệ phổ nhạc mừng hoa Mẫu đơn vừa mới nở." Lý Bạch thấy khung cảnh Trầm Hương Đình rất nên thơ với phi tần giai lệ, với danh hoa khuynh quốc, nên mặc dù còn ngây ngất men say cũng cất bút viết ngay ba bài Thanh Bình Điệu nổi tiếng sau đây :

 

             清平調 (其一):    THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 1):

 

        雲想衣裳花想容,    Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,

               春風拂檻露華濃。    Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.

        若非群玉山頭見,    Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,

               會向瑤台月下逢。    Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng !

Có nghĩa :

                  Mây ngỡ xiêm y hoa ngỡ mày,

                  Gió xuân phe phẩy má hồng say.

                  Không là Quần Ngọc non tiên thấy,

                  Cũng chốn Dao Đài gặo gỡ ai !

            

            清平調 (其二):    THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 2):

 

        一枝紅豔露凝香,   Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,

               雲雨巫山枉斷腸。   Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.

        借問漢宮誰得似?   Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?

                可憐飛燕倚新妝。   Khả lân Phi Yến ỷ tân trang !

Có nghĩa :

                Một cành hoa đẹp ngậm sương thơm,

                Mưa móc Vu Sơn cũng dỗi hờn.

                Dám hỏi Hán cung ai dám sánh,

                Thương nàng Phi Yến mới soi gương.

 

               

 

             清平調 (其三):   THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 3):

 

        名花傾國兩相歡,   Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,

               長得君王帶笑看。   Trường đắc quân vương đái tiếu khan.

        解釋春風無限恨,   Giải thích xuân phong vô hạn hận,

               沉香亭北倚欄杆。   Trầm hương đình bắc ỷ lan can !

Có nghĩa :

                Người xinh hoa đẹp vẹn đôi đàng,

                Thỏa ý quân vương ngắm chẳng màng.

                Giải hết gió xuân không hận oán,

                Đình Trầm Hương bắc tựa lan can !

 

                

       Ý mới lời thanh hợp tình hợp cảnh, nhà vua đọc xong khen không ngớt lời, bèn truyền cho Lý Qui Niên cùng chúng Lê Viên đệ tử phổ từ vào nhạc. Tiếng tơ tiếng trúc, tiếng đàn sáo tiêu thiều dìu dặt vang vang, mọi người đều hân hoan thưởng thức. Tiếng ngọc địch cuối cùng vừa dứt thì Qúy Phi đến cúi mình đáp tạ ơn vua. Nhà vua cười phán rằng :"Chớ tạ trẫm, hãy qua bên kia mà tạ Lý Học Sĩ kìa !" Qúy Phi bèn dùng ly thất bảo, đích thân rót rượu bồ đào của Tây Lương cống nạp, rồi truyền cung nữ ban tặng cho Lý Bạch. Từ đó về sau mỗi lần trong cung có nội yến đều có mặt Lý Bạch, nên mối tình tài tử giai nhân dần dà nảy sinh, Qúy Phi thường liếc mắt đưa tình, nhưng Lý Học Sĩ thì cứ làm ngơ, chỉ biết suốt ngày chìm đắm trong men rượu. 

     Lại nói về Thái Úy Cao Lực Sĩ lòng luôn ôm hận vì phải cởi giày cho Lý Thái Bạch trước mặt triều thần, nên luôn tìm dịp để trả thù rửa hận. Một hôm, nghe Dương Quý Phi ngâm nga ba bài Thanh Bình Điệu của Lý Bạch, mới thừa dịp nói rằng :"Thần cứ tưởng là nương nương phải căm hận lắm mới phải, sao lại cứ tán thưởng ngâm nga !?" Quý Phi hỏi tại sao, thì Cao Lực Sĩ đáp rằng :" Câu thơ "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang" rõ ràng là đang ví nương nương với Triệu Phi Yến một cách mĩa mai. Nương nương không cảm nhận được hay sao ?" Thì ra Triệu Phi Yến là người đẹp eo thon nhỏ nhắn, thân hình mảnh khảnh đến nổi có thể nhảy múa trên lòng bàn tay của lực sĩ được; còn Dương Quý Phi là ngườì đẹp khoẻ mạnh có da có thịt chớ không ẻo lả chút nào cả. Đem hai người so sánh nhau thì có vẻ mĩa mai hài hước thật sự (Thực ra, Lý Bạch chỉ so sánh cái vẻ đẹp của khuôn mặt chớ không so sánh cả thân hình. Câu "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang 可憐飛燕倚新妝" ý là : Nàng triệu Phi Yến mới trang điểm xong cũng phải chào thua !) Thêm một ẩn ý khác quan trọng hơn là Triệu Phi Yến lén Hán Thành Đế để tư thông với Yến Xích Phụng là một hầu dịch đẹp trai khỏe mạnh, còn trước mắt thì Dương Qúy Phi lại đang tư thông với con nuôi là tướng An Lộc Sơn. Dương Qúy Phi nghe Cao Thái Úy gợi ý nhắc nhở nên thấm đòn đâm ra oán ghét và xa lánh Lý Bạch, nên trước mặt Huyền Tôn thường chê trách hành vi phóng túng buông thả của Lý làm rối loạn nề nếp trong cung. Nhà vua thấy Quý Phi không thích, nên không thường xuyên triệu Lý vào cung nữa. Lý Bạch lang thang ở Trường An cùng các bạn rượu là Hạ Tri Chương 賀知章, Trương Húc 张旭, Lý Thích Chi 李适之, Tiêu Toại 焦遂, Lý Tấn 李琎, Thôi Tông Chi 崔宗之 và Tô Tấn 苏晋, xưng là "Trường An ẨM TRUNG BÁT TIÊN 飲中八仙" (Tám ông tiên trong rượu ở đất Trường An).

                           

 

     Dần dà rồi cũng nhớ nhà, Lý Bạch xin với vua cho mình về quê. Huyền Tôn phán rằng :"Khanh ý chí cao nhã, tạm thời về quê, nếu có việc cần trẫm sẽ cho triệu hồi. Nhưng khanh đã có công với trẫm, đâu thể nào tay trắng hoàn hương, nếu khanh có thỉnh cầu chi cứ tâu trình cho trẫm biết". Bạch tâu rằng :"Thần chẳng có thỉnh cầu chi cả, chỉ mong mỗi ngày đều có rượu để uống cho say là đủ rồi !" Huyền Tôn bèn tặng cho Lý bạch một miếng kim bài, trên có ngự thư viết rằng : Sắc phong Lý Bạch là THIÊN HẠ VÔ ƯU HỌC SĨ, tiêu dao lạc phách TÚ TÀI. Hễ gặp phường quán thì được uống rượu, gặp ngân khố thì được chi tiền. Phủ cấp ngàn quan, huyện cấp năm trăm. Văn võ quân dân nếu ai thất kính thì đều phạm tội vi chiếu". Lại ban tặng ngàn lượng vàng ròng, cẫm bào ngọc đái, long mã yên vàng và tùy tùng hai mươi người. Lý Bạch khấu đầu tạ ơn, nhà vua lại tặng hai đóa kim hoa, ba ly ngự tửu và cho lên ngựa trước cửa Kim loan điện  để lên đường, bá quan văn võ đều được miễn chầu để đặt tiệc tiễn hành suốt mười dặm trường đình, chỉ có Dương Thái Sư và Cao Thái Úy không ra đưa tiễn mà thôi, còn bảy người bạn trong "Trường An Ẩm Trung Bát Tiên" thì đưa tiễn đến ngoài trăm dặm và cùng nhau uống rượu tiễn biệt đến ba ngày trời mới chịu chia tay. Lý Bạch đã làm bài thơ " 還山別金門知己詩" để ghi lại sự việc nầy như sau :   

            恭承丹鳳詔,    Cung thừa Đan Phụng chiếu,

                   欻起煙蘿中。    Hốt khởi yên la trung.

            一朝去金馬,    Nhất triêu khứ kim mã,

                   飄落成飛蓬。    Phiêu lạc thành phiêu bồng.

            閑來東武吟,    Nhàn lai Đông Võ Ngâm,

                   曲盡情未終。    Khúc tận tình vị chung,

            書此謝知己,    Thư thử tạ tri kỷ,

                   吾尋黄綺翁。    Ngô tầm Hoàng Ỷ Ông.

    Có nghĩa :

                   Lãnh chiếu từ Đan Phụng cung,

                   Bỗng không lại muốn về cùng núi xanh.

                   Ngựa vàng một sớm phi nhanh,

                   Tấm thân phiêu bạc như tranh cỏ bồng.

                   Khi nhàn về Đông Võ ngâm,

                   Khúc ca tuy dứt tình không dứt nào.

                   Tạ lòng tri kỷ biết bao,

                   Ta về vui với hoàng bào Ỷ Ông !

 

                                     

      Lý Bạch lên đường với mão ô sa áo gấm, trên đường mọi người đều xưng tụng là Cẩm Y Công Tử. Quả nhiên hễ cứ gặp tửu phường uống rượu thì ngân khố nơi đó lại xuất quỹ công mà trả. Một hôm về đến Cẩm Châu cùng với Hứa phu nhân tương ngộ. Phủ huyện nghe Lý Học Sĩ vinh quy đều đến chúc mừng, không ngày nào là không yến tiệc. Thắm thoát nửa năm đã trôi qua...

     Một hôm, chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, Lý Bạch nói với Hứa phu nhân là mình muốn đi du sơn ngoạn thủy. Bèn ăn mặc như là một Tú Tài, dắt theo một tiểu đồng rồi cưởi lừa lên đường, và cũng không quên giắt theo bên mình cái kim bài ngự ban của nhà vua. Các phủ huyện đều cung ứng chi đủ tiền rượu cho Lý Bạch suốt trên đường đi. Hôm nọ, khi đi ngang qua địa phận đất Hoa Âm, nghe dân chúng than rằng quan huyện ở đây rất tham ô và hay nhũng nhiễu dân lành. Lý Bạch bèn cho tiểu đồng lui ra, một mình cưởi lừa ngược đến trước huyện đường gióng ba hồi trống kêu oan. Quan huyện đang thăng đường, nghe tiếng trống biết là có người định quấy rối, nên cho lính bắt vào hỏi tội. Quan huyện thấy là một tú tài say rượu kèm nhèm, bèn lệnh bắt nhốt vào nhà lao đợi khi tỉnh rượu hãy hỏi tội. Lý Bạch bèn cả cười bảo mình không say. Huyện quan càng giận bắt phải làm tờ cung khai xem ai đã xúi giục đến để quấy rối nha môn. Lý Bạch đòi giấy bút rồi viết một lèo như sau :

 

      "Người cung khai ở đất Cẩm Châu, họ Lý tên chỉ một chữ Bạch. Tuổi trẻ đã thích văn chương, người đời gọi là Trích Tiên, hươu bút lên thì quỷ thần cũng kinh sợ, là Ẫm Trung Bát Tiên của đất Trường An, đã từng Hách Man Thư, người người đều biết tiếng, say nằm trong tẫm cung của vua, rỏ dãi áo vua lau, canh nóng tay vua khuấy, Cao Thái Úy cởi giày, Dương Thái Sư mài mực. Trong Kim Loan điện còn cho ta cởi ngựa, nơi Huyện Hoa Âm nhỏ bé nầy sao lại không cho ta cởi lừa !?"

 

                          

     Khai xong rút kim bài vua ban dằn lên trên bàn cái "cộp". Huyện quan trông thấy kim bài, đọc lời khai xong, cả kinh thất sắc; vội vàng đỡ Lý Bạch ngồi lên rồi phủ phục dập đầu lạy xuống đất bẩm rằng :"Tiểu quan có mắt như mù, không trông thấy núi Thái sơn, cúi xin Đại Học Sĩ lão gia khoan thứ cho tội đã mạo phạm". Các quan lớn nhỏ ở địa phương nghe tin đồng kéo đến để ra mắt Lý Học Sĩ.  Lý Bạch thừa dịp các quan họp mặt đông đủ, lên giọng huấn thị rằng :"Chúng quan viên là "Dân chi phụ mẫu", thọ lãnh bổng lộc của vua thì phải biết làm hết chức trách của mình, sao lại còn có tư tâm tham tài hại dân, nhũng nhiễu quần chúng. Nay ta chỉ cảnh cáo răn đe để các vị sửa chửa lỗi lầm cũ. Nếu còn để cho dân tình ta thán thì lần sau ta sẽ luận tội không tha !" Các quan đều giật mình kinh hãi đồng thanh vâng dạ. Quả nhiên sau lần đó các quan đều trở nên cần mẫn thanh liêm. Các quan viên của các địa phương kế cận cũng kháo với nhau là nhà vua ngầm cho Lý Học sĩ đi thị sát quan tình, nên đều giữ kẻ không dám hà hiếp sách nhiễu bá tánh như xưa nữa.

 

    Lý Bạch ngao du hết thiên hạ từ đất Triệu qua Ngụy, Yên, Tấn, Tề, Lương, Ngô, Sở... Uống hết rượu ngon của thiên hạ, ngắm hết cảnh đẹp của non sông. Khi An Lộc Sơn làm loạn, Lý đang ẩn cư ở Lư Sơn. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn làm phản (755) Đường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục. Vĩnh Vương Lý Lân là Tiết Độ Sứ Đông nam muốn thừa cơ làm phản, nghe danh Lý Bạch có văn tài võ lược, bèn ép Lý theo mình, Lý không ưng nhưng vẫn được phong chức và ghép vào dưới trướng. Không bao lâu sau, khi loạn An Lộc Sơn đã yên, Đường Túc Tôn lên ngôi (756), phong Quách Tử Nghi làm Thiên hạ Binh mã Đại Nguyên Soái thu phục 2 kinh, Vĩnh Vương Lân cũng thua chạy, Lý Bạch thừa cơ trốn thoát, khi chạy đến giang đầu của bến Tầm Dương thì bị lính của triều đình bắt lại ghép vào loạn đảng. Khi giải về trung dinh cho Quách Nguyên Soái. Tử Nghi thấy là Lý Học Sĩ bèn thét quân cởi trói, mời lên ghế ngồi rồi cúi đầu lạy tạ rằng :"Xưa ở Đông thị Trường An nếu không nhờ ân nhân giải cứu, thì Quách Tử Nghi sao có được ngày hôm nay !" Bèn đặt tiệc thết đãi, rồi viết sớ dâng biểu về triều đình giải oan cho Lý Bạch, lại nhắc đến công lao Hách Man Thư ngày trước mà tiến cử cho nhà vua trọng dụng. Túc Tôn hoàng đế cũng mến tài Lý Bạch mà phong cho chức Tả Thập Di.  

                                                              
   

    Lý Bạch đã ngán ngẫm với cảnh quan trường chìm nổi, áo xiêm trói buộc không được tự do tự tại, nên bái tạ không nhận chức. Từ biệt Quách Tử Nghi thả một lá thuyền xuôi về Nhạc Dương dạo Động Đình Hồ, xuôi qua Kim Lăng thuyền cặp bến bên bờ sông Thái Thạch. Đêm đó vầng trăng sáng vằng vặc như ban ngày. Như có điềm báo trước, Lý Bạch vận quan phục chỉnh tề, ngồi trước đầu thuyền cất chén uống rượu cùng trăng. Đang cơn tửu hứng, thấy bóng trăng chập chờn trên sông nước như đang dang tay mời gọi, Lý nâng chén lên mời vầng trăng trên không rồi cuối xuống định chạm chén cùng vầng trăng dưới nước, trong cơn men rượu chếnh choáng Lý ngã xuống ôm lấy vầng trăng lắp loáng trên sông và cùng bóng trăng tan theo dòng nước chảy. Khi thuyền gia hay được thì đà đắm ngọc chìm châu mất rồi ! Bỏ lại Hứa phu nhân ngày đêm khoắc khoải vò võ mòn mõi đợi chồng về như hai câu thơ của Lý đã viết :

 

                          當君懷歸日,     Đương quân hoài quy nhật,

                          是妾斷腸時!     Thị thiếp đoạn trường thì !

        Có nghĩa :

                          Ngày chàng nhớ trở lại nhà,

                          Thiếp đà đứt ruột xót xa nhớ chàng !

 

     Theo truyền thuyết thì ngay lúc đó tiếng tiên nhạc và tiêu thiều từ trên không vẳng xuống, có 2 đồng tử tay cầm tinh kỳ hiện ra hô to :"Phụng lệnh Ngọc Đế thỉnh Tinh chủ hoàn vị !" Lòng sông chợt chuyển động, một cơn sóng to nổi lên giữa dòng, một con kình ngư chở Lý Bạch trên lưng lướt lên khỏi mặt nước bay thẳng lên không theo tiếng nhạc mất hút vào màn đêm thăm thẳm. Sáng hôm sau Huyện lệnh Lý Dương Băng dâng biểu tấu trình mọi việc. Vua bèn hạ chiếu cho địa phương lập miếu để thờ Lý Trích Tiên, hằng năm xuân thu nhị kỳ hương khói không dứt.

         

       Vì Lý Bạch say trăng tự trầm trên sông Thái Thạch, nên trên Thái Thạch Cơ, bờ đá bên dòng Thái Thạch có rất nhiều danh thắng để tưởng nhớ đến Thi Tiên, như Lý Bạch Mộ 李白墓, Trích Tiên Lâu 謫仙樓, Tróc Nguyệt Đình 捉月亭... Tất cả những văn nhân thi sĩ, sứ thần nước ngoài khi đi sứ ngang qua đây đều có làm thơ tưởng nhớ đến Lý Bạch. Cụ Nguyễn Trãi nhà ta trong thời gian ở Trung Hoa cũng có bài thơ Thái Thạch Hoài Cổ 采石懷古 để tưởng nhớ đến Thi Tiên :

               

           采石曾聞李謫仙,   Thái Thạch tằng văn Lý Trích Tiên,

           騎鯨飛去已多年。   Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.

           此江若變為春酒,   Thử giang nhược biến vi xuân tửu,

           只恐波心尚醉眠。   Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên.

Có nghĩa :

             Thái Thạch từng nghe Lý Bạch say,

             Cởi kình bay biết mấy năm nay.

             Sông này nếu biến thành xuân tửu,

             Lòng sóng e rằng vẫn ngủ say !

   Lục bát :

             Từng nghe Thái Thạch Trích Tiên,

             Cởi kình bay mất bao niên trước rồi.

             Nước sông biến rượu xuân trôi,

             Chỉnh e lòng sóng say vùi ngủ yên !

  

             

 

             Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

DCD_chữ Phận.JPG

TẠP GHI và PHIẾM LUẬN:  

 

                      Chữ PHẬN trong Truyện Kiều 

        PHẬN HỒNG NHAN có mong manh,

             Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

              

       Trong chữ Nho, chữ PHÂN 分 thuộc dạng chữ Hội Ý, vì được ghép bởi bộ BÁT 八 là số 8 ở trên và bên dưới là bộ ĐAO 刀 là Cây Dao; với Hội Ý là : Cái gì đó được xắt 8 dao là đã CHIA nhỏ ra rồi. Nên nghĩa đầu tiên của PHÂN là CHIA. Trong tiếng Nôm ta có từ kép PHÂN CHIA. Khi đã chia thì nó sẽ Thành từng Phần một, cụ thể là 8 phần như chữ Hội Ý ở trên, nên ta lại có từ kép THÀNH PHẦN 成分. Bây giờ thì Động từ PHÂN được đọc thành Danh từ PHẦN (dấu huyền) để chỉ một đơn vị đã được chia ra. Đó là trong đời sống vật chất thực tại thực tế trước mắt; còn về đời sống tinh thần, tâm linh, tôn giáo và tín ngưỡng dân gian thì Thượng Đế, tức ông Trời cũng chia đời sống con người ra nhiều Thành Phần kể cả tâm linh và vật chất như cụ Nguyễn Du đã lý luận trong Truyện Kiều :

 

                       Ngẫm hay muôn sự tại trời,

                     Trời kia đã bắt làm người có thân.

                       Bắt phong trần phải phong trần,

                    Cho thanh cao mới được PHẦN thanh cao.  

 

      Cái "PHẦN thanh cao" đó là cái số PHẬN của con người, trong chữ Nho gọi là DUYÊN PHẬN 緣分. Chữ PHÂN bây giờ lại được đọc là PHẬN (dấu nặng) chỉ sự đặt để xếp đặt sẵn của "ông Trơi" để dành riêng cho ai đó. Bây giờ thì ta hãy lần lượt tìm hiểu xem cái THÂN PHẬN 身分 và cái PHƯỚC PHẦN 福分 của những vai nữ trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du đã được cụ diễn dịch như thế nào trong xã hội phong kiến ngày xưa...

 

      Với thuyết "TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ 才命相妒", tức "Tài năng và bản mệnh ganh ghét lẫn nhau". Có nghĩa : Hễ có tài năng xuất chúng thì mệnh số sẽ long đong trắc trở và ngược lại ! Thuyết nầy đi song song với thuyết "HỒNG NHAN ĐA TRUÂN 紅顏多迍" để chỉ những bậc "Hồng phấn giai nhân cuộc đời luôn truân chiên trắc trở", chẳng những thế lắm khi còn phải trầm luân chìm đắm trong những chốn trăng hoa thanh lâu tử các cho càng thắm thía hơn với kiếp má hồng phận bạc, như con ma Đạm Tiên đã được Vương Quan kể lể chẳng hạn :

                 

                                   PHẬN HỒNG NHAN có mong manh,

                            Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

                    

      Từ hình ảnh của nàng Đạm Tiên và qua cơn báo mộng, Thúy Kiều cũng cảm thương cho thân phận của mình "Thấy người nằm đó biết sao thế nào ?!" mà lo lắng không yên :

 

                      Cứ trong mộng triệu mà suy,

                    PHẬN con thôi có ra gì mai sau!

 

  ... và thực tế thì tai nạn đã ập tới, khiến Thúy Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha, nàng đã an ủi Vương Ông xem như mình đã chết từ những ngày còn thơ đi :

 

                       PHẬN sao đành vậy cũng vầy,

                   Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh.

 

      Đối với mối tình duyên vừa gặp gỡ với Kim Trọng thì Thúy Kiều cũng đành thúc thủ trước cảnh nhà nguy biến :

 

                        PHẬN dầu, dầu vậy cũng dầu,

                     Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!

                        Công trình kể biết mấy mươi.

                     Vì ta khăng khít, cho người dở dang.

 

       Nàng đành nhờ em là Thúy Vân thay mình để trả "cái nghĩa tình" cho Kim Trọng và đau khổ oán trách cho số phần bạc bẽo của mình :

 

                         PHẬN sao PHẬN BẠC như vôi,

                      Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

                         Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang !

                      Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !

                  

       Đến khi biết mình đã lọt vào lầu xanh rồi, sau khi lạy thần mày trắng, Tú Bà đã :"Dạy rằng con lạy mẹ đây, Lạy rồi sang lại CẬU mày bên kia !". Thúy Kiều đã ngạc nhiên mà phản kháng :

 

                        Nàng rằng: Phải bước lưu ly,

                     PHẬN HÈN vâng đã cam bề tiểu tinh.

 

     "Phải bước lưu ly" nên phải "cam bề tiểu tinh" là làm vợ lẻ của Mã Giám Sinh. Sao lại bắt phải gọi bằng CẬU là cha, trong khi Mã đã ăn nằm với Thúy Kiều rồi. Quả là PHẬN HÈN mặc người muốn đặt để thế nào cũng được ! Đến khi bị Sở Khanh gạt và bị Tú Bà đuổi theo bắt về, thì cái PHẬN HÈN của Thúy Kiều lại được đem ra trả giá để đổi lại sự an toàn cho thân xác :

 

                            Nhưng tôi có sá chi tôi,

                   PHẬN tôi đành vậy, vốn người để đâu ?

 

      Qủa là :

                        Thương thay THÂN PHẬN lạc loài,

                     Dẫu sao cũng ở tay người biết sao ?

 

      Khi bị Thúc Ông thưa đến cửa quan, thì một lần nữa thân phận thấp hèn của một kỹ nữ lại bị dày dò hành hạ :

 

                        PHẬN HÈN nào dám kêu oan,

                    Đào hoen hoẹn má, liễu tan tác mày !...

 

      Cũng may là nhờ còn có tài văn thơ, nên Thúc Sinh mới có cớ để khoe với quan phủ về tài hoa của Thúy Kiều :

 

                       Sinh rằng: Chút PHẬN BỌT BÈO,

                   Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.

 

    ...và sau khi đọc thơ của Thúy Kiều, quan cũng phải khen rằng :"Thật là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?" nên đã kết hợp Thúy Kiều cho Thúc Sinh trước mặt Thúc Ông. Nhưng Thúy Kiều vẫn biết thân phận nhi nữ của mình như là cây liễu cây bồ, nên khi đã "Một nhà sum họp trúc mai" với Thúc Sinh rồi, vẫn không quên thân phận lẻ mọn của mình mà khuyên Thúc về thăm vợ cả là Hoạn Thư :

 

                        PHẬN BỒ vừa vẹn chữ tòng,

                    Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

                        Tin nhà ngày một vắng tin,

                    Mặn tình cát lũy nhạt tình tào khang !...

                    

      Nhưng chàng Thúc lại quá hời hợt, không nghe lời Thúy Kiều mà cứ một mực dấu quanh với Hoạn Thư cho đến nỗi Hoạn Thư phải ra lệnh cho Khuyển Ưng bắt Thúy Kiều về làm con ở cho Hoạn Bà :

 

                            PHẬN sao bạc chẳng vừa thôi,

                   Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.

 

     Rồi lại được chuyển về để hầu hạ Hoạn Thư, trong một chuyến Hoạn Thư về nhà thăm mẹ :"Tiểu thư dưới trướng thiếu người, Cho về bên ấy theo đòi lầu trang". Nên luôn phải biết thân biết phận của mình :

 

                        Sớm khuya khăn mặt lược đầu,

                     PHẬN con hầu giữ con hầu dám sai.

 

     Nhưng làm sao yên thân được với Hoạn Thư khi chàng Thúc :"Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê". Rồi thì :"Vợ chồng chén tạc chén thù, Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi". Và :"Bắt khoan bắt nhặt đến lời, Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay". Bắt đàn bắt hát hành hạ đủ điều... Cuối cùng thì đưa vào Quan Âm Các để Thúy Kiều xuất gia đi tu. Cho nên nàng quyết định trốn đi vì : 

 

                        PHẬN BÈO bao quản nước sa,

                    Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

 

     Lấy cắp chuông vàng khánh bạc, trốn khỏi Quan Âm Các, đến Chiêu Ẩn Am để tu với sư Giác Duyên, nhưng vẫn không yên thân, vì khi "Có người đàn việt lên chơi cửa Già", mới "Giở đồ chuông khánh xem qua, Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!". Và khi Giác Duyên tra hỏi thì Thúy Kiều đành nói thật về thân thế của mình và "liều mạng" :

 

                          Bây giờ sự đã dường này,

                    PHẬN HÈN dù rủi, dù may, tại người.

 

      Đến khi về với Từ Hải thì như cá gặp nước, như rồng lên mây, mặc sức mà tung hoành, báo ân báo oán, và cô tiểu thư Hoạn Thư hách dịch ngày nào bây giờ phải :"...hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca" :

      

                               Rằng: Tôi chút PHẬN ĐÀN BÀ,

                       Ghen tuông thì cũng người ta thường tình                    

 

      Thúy Kiều cũng đã rất phóng khoáng rộng rãi mà tha cho Hoạn Thư không trị tội :"Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen" với tấm lòng bao dung :"Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay". Tha cho người rồi đến lượt người khác cũng tha cho mình. Khi Từ Hải đã thất thế sa cơ "... thu linh trận tiền" thì lúc gặp Thúy Kiều, Hồ Tôn Hiến cũng đã nói :

 

                      Rằng: Nàng chút PHẬN HỒNG NHAN,

                  Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương !

 

      "PHẬN HỒNG NHAN" luôn là nhóm từ dùng để chỉ thân phận trắc trở hẫm hiu của những người đàn bà đẹp, trước đó cụ Nguyễn Du đã dùng để tả Đạm Tiên :"PHẬN HỒNG NHAN có mong manh, nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương !" Bây giờ thì dùng "CHÚT PHẬN HỒNG NHAN" để chỉ thân phận gian truân chìm nổi của Thúy Kiều. Bản thân Thúy Kiều thì lịch sự khiêm nhường với từ tự xưng là "chút phận lạc loài" khi Hồ Tôn Hiến ép gã nàng cho thổ quan :

 

                        Thưa rằng: Chút PHẬN LẠC LOÀI,

                    Trong mình nghĩ đã có người thác oan.

                         Còn chi nữa cánh hoa tàn,

                     Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân.

 

      Má hồng thì Phận bạc, BẠC 薄 là mỏng manh, là hời hợt , là không vững chắc. Nhưng ông bà ta cũng nói "Đức năng thắng số", số phận có mỏng manh nhưng biết tích đức, ăn ở cho phải đạo làm người thì cái phúc phần cũng sẽ đến mà thôi, như lời của Đạm Tiên khi báo mộng đã nói với Thúy Kiều :

 

                       Chị sao PHẬN MỎNG phúc dày,

                     Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!

 

      Cái PHẬN MỎNG nầy của Thúy Kiều còn được Vương Viên Ngoại nhắc lại khi chàng Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều :

 

                       Kiều nhi PHẬN MỎNG như tờ,

                      Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!

 

       Rồi vì quá đau xót cho cảnh ngộ của con gái, Vương Viên Ngoại lại buông lời oán trách thở than :

 

                              PHẬN sao BẠC bấy Kiều nhi!

                            Chàng Kim về đó con thì đi đâu?

 

                     

 

      Nhưng rồi cũng đành cam với số phận đã được an bày :

 

                           Bây giờ ván đã đóng thuyền,

                   Đã đành PHẬN BẠC khôn đền tình chung!

 

       Hết Phận Hèn, Phận Mỏng, Phận Bạc... rồi cuối cùng văn hoa và nhẹ nhàng hơn với CHÚT PHẬN HOA RƠI, như khi tìm gặp lại được Thúy Kiều đang tu cùng sư Giác Duyên ở thảo đường ven sông :

 

                       Nàng rằng: Chút PHẬN HOA RƠI,

                     Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.

 

      PHẬN còn chỉ cái PHƯỚC PHẦN trong duyên nợ, như khi nhờ Thúy Vân thay mình lấy Kim Trọng để trả nghĩa cho chàng, thì mặc dù trong bụng rất ưng ý vì cuộc sống rất hạnh phúc với Kim Trọng :"Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì", nhưng ngoài mặt thì Thúy Vân vẫn ỡm ờ như là miễn cưỡng làm ơn :

 

                       Gặp cơn bình địa ba đào,

                  Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.

                       Cũng là PHẬN CẢI DUYÊN KIM,

                  Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao !

 

      Tội nghiệp Thúy Kiều, luôn luôn biết thân biết phận của mình mà không dám "...đem trần cấu dự vào bố kinh" có nghĩa là không dám đem tấm thân "mười lăm năm lưu lạc trong lầu xanh" của mình để làm vợ làm chồng với Kim Trọng như những người bình thường.

 

                         Nàng rằng: PHẬN THIẾP đã đành,

                         Có còn chi nữa cái mình bỏ đi !                        

                         Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,

                   Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.

 

      Mặc dù đạo cô Tam Hợp đã nói là :"Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau", nhưng Thúy Kiều vẫn đề nghị với Kim Trọng là :"Chàng dù nghĩ đến tình xa, Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ" và vui với cuộc sống :"Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên"...

 

      Thế mới biết :

                           Ngẫm hay muôn sự tại trời,

                      Trời kia đã bắt làm người có thân.

                        Bắt phong trần phải phong trần,

                  Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

                        Có đâu thiên vị người nào, 

                    Chữ TÀI chữ MỆNH dồi dào cả hai ?!

 

      Cuối cùng cụ Nguyễn Du đã kết luận là :

 

                             Có TÀI mà cậy chi TÀI,

                      Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.

 

              

 

   

 

 

 

 

 

 

 Nên trót...

                      Đã mang lấy nghiệp vào thân,

                  Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

     ... vì : 

                       THIỆN CĂN ở tại lòng ta,

        nên :

                  Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI !

 

        Xin được kết thúc bài phiếm luận về chữ PHẬN trong Truyện Kiều ở nơi đây. 

 

        Hẹn bài viết tới !

 

         杜紹德

         Đỗ Chiêu Đức

dcd_tàitai.JPG
DCD_Cau dối 6.JPG

 Trong bài "Câu Đối Chiết Tự", ta đã biết về Trạng Nguyễn Hiền như sau :

 

      Vào thời nhà Trần, ở xứ Nam-định có NGUYỄN HIỀN đỗ Trạng lúc 12 tuổi. Vua chê còn nhỏ chưa thông lễ nghĩa, không phong quan tước mà cho về quê. Đến khi triều đình có việc mới cho sứ đi tìm. Tương truyền, khi sứ giả của Vua đến làng, thì thấy một đám thiếu niên đang chơi ở bên đường, trong đó có một đứa mặt mày sáng sủa, sứ nghi là Trạng, bèn đọc câu đối để thử rằng :

 

             Tự (字) là chữ, cất giàng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con ấy ?

 

       Chữ TỰ 字 bỏ đi phần đầu, còn lại phần dưới là chữ TỬ 子, có nghĩa là CON. Ý muốn hỏi : Mày là con của ai vậy ?. Trạng nghe câu hỏi vô lễ, bèn đáp rằng :

 

           Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?

 

       Chữ VU 于 nghĩa là CHƯNG (Vì Chưng, Bởi Chưng), bỏ đi nét ngang ở chính giữa còn lại là chữ ĐINH 丁, có nghĩa là ĐỨA (Gia Đinh là Đứa ở trong nhà). Ý rằng : Mày là đứa nào mà dám hỏi ta là con ai ?.

 

       

 

 

 

 

 

                 

 

     

 

   Đó là ông Trạng Thần Đồng của Việt Nam ta. Bây giờ thì ta nghe chuyện của Thần Đồng Dương Phổ (1379-1446), người đất Hồ Bắc, đậu Tiến sĩ và làm quan đến chức Lễ Bộ Thượng Thơ xuyên suốt 4 đời vua, từ Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông  đến Anh Tông triều nhà Minh Trung Hoa. Truyện kể...

     

     Dương Phổ lúc còn nhỏ, nhà nghèo nhưng rất hiếu học, nổi tiếng là thần đồng. Một hôm, huyện quan cho sai nha đến đòi cha của Dương Phổ đi làm lao dịch (như đào đất, khai hoang...). Vì thấy cha thường hay bệnh tật, cơ thể lại rất yếu, nên Dương Phổ đến xin với huyện quan cho cha mình miễn lao dịch kỳ nầy. Huyện quan trông thấy Dương Phổ bèn nói rằng :

   - Mọi người đều bảo ngươi là thần đồng, bây giờ ta sẽ ra cho người một vế đối, nếu đối hay, ta sẽ miễn lao dịch cho cha ngươi kỳ nầy. Dương Phổ ưng chịu, Huyện quan bèn đọc vế ra là :

 

                         四  口  同  圖, 內  口  皆  歸  外  口  管。

                Tứ khẩu đồng đồ, Nội khẩu giai quy ngoại khẩu quản.

Có nghĩa :

             - Bốn chữ Khẩu 口 trong một chữ Đồ 圖; các chữ Khẩu bên trong đều phụ thuộc vào chữ khẩu bên ngoài quản lý. Ý nói : 4 loại nhân khẩu (chỉ Sĩ Nông Công Thương) đều phụ thuộc vào sự cai quản của ta đây.

 

     Câu đối khá hóc búa, vì chữ ĐỒ 圖 do 3 chữ KHẨU 口 nhỏ bên trong và 1 chữ KHẨU lớn bên ngoài bao lại. Thấy Huyện quan có vẻ tự đắc tự hào và hơi lớn lối, nhưng vì đang cầu cạnh ông ta, nên Dương Phổ cũng đành chìu theo cho ông ta vui lòng, bèn cất tiếng đối lại rằng :

 

                          五  人  共  傘, 小  人  全  仗  大  人  遮。 

                Ngũ nhân cộng tản, Tiểu nhân toàn trượng đại nhân già. 

Có nghĩa :

             - Năm người cùng che dù; Các người nhỏ toàn nhờ vào người lớn che chắn cho ! Ta thấy chữ TẢN 傘 là Cây Dù (Miền bắc gọi là "Ô") gồm có một chữ NHÂN 人 lớn ở trên, phía dưới mỗi bên có 2 chữ NHÂN 人 nhỏ. Chữ NHÂN lớn là quan huyện, 4 chữ NHÂN nhỏ bên dưới là thứ dân. Với hàm ý : Người dân thấp cổ bé miệng bên dưới đều nhờ vào sự che chắn của quan huyện ở trên cao. 

 

                    

 

      Quan huyện nghe vế đối vừa chỉnh, vừa khéo, vừa hay, lại vừa tâng bốc mình là quan phụ mẫu che chở cho người dân thấp bé bên dưới, nên rất mát dạ ngợi khen Dương Phổ hết lời và miễn lao dịch cho cha của Dương Phổ ngay tức thì.

       

      Lại kể về một Trạng Nguyên Đời Tống, tên là Hứa Tướng 許將 (1045-1111) người đất Phúc Châu Phúc Kiến. Ông đậu Trạng nguyên năm Hỉ Hựu thứ 8 đời Tống Nhân Tông, làm quan đế chức Long Đồ Các Trực Học Sĩ, rồi Thượng Thư Tả Thừa, Hữu Thừa. Lúc nhỏ ông cũng nổi tiếng là một "Tiểu Thần Đồng". Truyện kể...

 

      Năm Hứa Tướng 9 tuổi. Một hôm sau khi cùng các bạn học dạo chơi Bạch Nham Sơn, trên đường về vì chỉ ăn lương khô nên cả bọn đều khát nước. Khi đi ngang qua khu vườn rau cải, bèn tắp vào xin nước uống. Ông lão trồng vườn nhìn biết thần đồng Hứa Tướng, nên ra điều kiện nếu đối được vế ra của ông lão, thì sẽ mời cả bọn vào đãi một cử trà. Hứa Tướng ưng chịu. Vế ra của ông lão như thế nầy :

 

                              一 籬 二 緯 三 樁 囿 菜 園,園 種 春 夏 秋 冬 菜。

               Nhất ly nhị vĩ tam thung hữu thái viên, Viên chủng xuân hạ thu đông thái.

Có nghĩa :

               Một rào hai vây ba cột rào vườn cải, trong vườn trồng cải của xuân hạ thu đông.

 

     Câu đối lắc léo ở các con số "1,2,3" và bốn mùa "xuân hạ thu đông". Mọi người đang lo lắng không biết phải đối ra sao vì thấy Hứa Tướng đang bóp trán suy nghĩ. Bỗng anh ta ngẩn đầu lên tươi cười mà đọc vế đối lại là :

 

                                 百 架 千 層 萬 卷 叠 書 館,館 藏 古 今 中 外 書。

               Bách giá thiên tằng vạn quyển điệp thư quán, Quán tàng cổ kim trung ngoại thư.

Có nghĩa :

               Trăm giàn ngàn lớp muôn quyển sách trong thư viện, Viện chứa đủ các sách xưa nay trong ngoài.

       "Trăm ngàn muôn" đối với "Một hai ba"; "Xưa nay trong ngoài" đối với "Xuân hạ thu đông". Chỉnh và hay quá, cả bọn vổ tay thán phục. Ông lão làm vườn mời tất cả vào trại pha trà thết đãi. Nhưng ông vẫn không cam tâm, vì cho rằng Hứa Tướng suốt ngày ở trong thư viện đọc sách đã có sẵn ý nầy rồi, nên khi mọi người nâng ly trà bóc khói thơm lên định uống, thì ông lão lại lên tiếng : "Khoan đã !" Lúc đó trời đã về chiều, mặt trời đà chen lặn, nên khi đưa ly trà lên miệng định uống, ông lão phát hiện bóng của vầng trăng thượng tuần in trong đáy chén trà, bèn đọc ra thêm một vế đối nữa :

 

                  茶飲客吞杯底月,  Trà ẩm khách thôn bôi để nguyệt,

Có nghĩa :

               - Uống trà khách uống luôn cái vầng trăng dưới đáy ly,

 

      Vế ra đơn giản mà hay quá, vừa hợp thực tế vừa rất nên thơ ! Ly trà sắp vào miệng lại phải ngưng lại. Mọi người lại lo lắng không biết là Hứa Tướng có đối được vế đối nầy không. Hứa Tướng cũng buông ly trà thơm xuống, ngắm nhìn chung quanh một vòng, chợt nhìn thấy cô con dâu của ông lão làm vườn đang lấy nước bên bờ giếng. Tức cảnh sinh... vế đối. Hứa Tướng bèn mĩm cười nhìn ông lão mà đọc rằng :

 

                 水抽人吊井中星。  Thủy trừu nhân điếu tỉnh trung tinh.

Có nghĩa :

              - Múc nước người múc luôn cả những vì sao trong giếng nước !

 

               

 

     Mọi người nghe xong đều vỗ tay tán thưởng. Bấy giờ ông lão mới tươi cười phục tài Hứa Tướng thật sự. Ông bèn mở hộp bỏ thêm hoa lài đã ướp vào trà cho thơm để đãi khách.

 

     Nghe chuyện trên, lại làm cho ta nhớ đến câu hát cuối cùng trong bài hát "Dòng An Giang " của nhạc sĩ Anh Việt Thu sáng tác khi ông chỉ mới 16 tuổi :

 

              ... Đây những người thôn nữ xinh 

                  Duyên dáng chuyền tay dắt nhau 

                  Múc mấy vầng trăng đổ đi...

 

     Hình ảnh vừa đẹp, vừa sống động và vừa nên thơ biết bao nhiêu !

 

                  

               

 

 

 

 

 

 

 

        Dòng An Giang (Anh Việt Thu) Ánh Tuyết - VCH

 

     Hẹn bài viết tới !

 

    杜紹德

    Đỗ Chiêu Đức

DCD_Trang NguyenHien.JPG
DCD_AnhVietThu.JPG

 

            

        

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài thơ CẨM SẮT nổi tiếng của Lý Thương Ẩn đời Đường như sau :

 

   錦瑟                  CẨM SẮT

 

錦瑟無端五十弦,      Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,

一弦一柱思華年.      Nhất huyền nhất trụ tư hoa niên.

莊生曉夢迷蝴蝶,      Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp

蜀帝春心托杜鵑.      Thục Đế xuân tâm thác đổ quyên.

滄海月明珠有淚,      Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,

藍田日暖玉生煙.      Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.

此情可待成追憶,      Thử tình khả đãi thành truy ức,

只是當時已惘然.      Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.

               李商隐                                   Lý Thương Ẩn         

 

           

 

CHÚ THÍCH :

  * Cẩm Sắt : Cẩm là Gấm, Sắt là Đàn, nên Cẩm Sắt là Cây Đàn Gấm. Ý chỉ Cây Đàn có hoa văn đẹp như gấm. Nói thêm về chữ SẮT 瑟: là cây đờn có 36 hoặc 50 dây được gỏ bằng 2 cây phím mà ta thường thấy trong các gánh hát Tiều hoặc hát Dù-Kê của Miên còn có tên là Tam thập Lục huyền cầm hay Ngũ thập huyền cầm. Trong bài thơ nầy là Ngũ Thập Huyền Cầm.

 * Vô Đoan : là Khi khổng khi không, là Bỗng dưng... chỉ những điều không ngờ được, không tính trước được. Trong bài thơ có nghĩa : Sao mà lại...

 * Huyền là Dây đàn; Trụ là Trục đàn.

 * Hoa Niên 華年 : Hoa là Tươi đẹp rực rỡ, nên Hoa Niên là Những năm tháng tươi đẹp rực rỡ, tức là chỉ Khoảng thời gian còn trẻ. Tuổi Hoa Niên là Tuổi lúc còn trẻ. (chớ không phải chữ Hoa 花 là Bông).

 * Trang Sinh là Trang Chu tức là Trang Tử trong Đạo giáo, đạo tu để thành Tiên đó.

 * Hiểu Mộng là Tỉnh Mộng, thức dậy sau một cơn mơ. Mê Hồ Điệp : là còn mơ màng tưởng mình là bướm.

 * Thục Đế là ông Vua nước Thục, còn được gọi là Vọng Đế. Người bị mất nước rồi hoá thành chim Đỗ Quyên là con chim Quốc (con Cuốc) của ta thường rống cổ kêu mãi suốt mùa hè rồi mửa máu mà chết.. Như bà huyện Thanh Quan đã tả :

 

                       Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

 

     ... hay cụ thể hơn như trong thơ của Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến :

 

                       Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,

                       Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ,

                       Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

                       Sáu khắc hồn tan bóng ngụyêt mờ.

                       Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

                       Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ ?

                       Ban đêm róng rả kêu ai đó ?

                       Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ !

 

 * Châu Hữu Lệ : là những hạt châu có những giọt lệ trong đó. Theo Thần Tiên Truyện, giao nhân (người cá) trong đêm trăng sáng ngước nhìn vào bờ mà rơi hai hàng lệ, và mỗi giọt nước mắt đều là những hạt châu rơi xuống biển xanh.

 * Ngọc Sanh Yên : Theo tích xưa ở hụyên Lam Điền chuyên nuôi trồng và sản xuất ngọc. Vì tránh sự tranh giành của sai nha và quan lại địa phương, thần tiên đã mách bảo cho dân nghèo là nơi nào có khói bốc hơi nhè nhẹ trong núi là nơi đó có thể trồng ngọc được.

 * Võng Nhiên : Không có để tâm đến, phớt lờ cho qua.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

                                    Đàn Gấm

        Cây đàn gấm sao khi không lại có  tới năm mươi dây. Mỗi một dây mỗi một trục đều làm cho người ta nhớ lại tuổi hoa niên. Như Trang Tử sau khi thức giấc cứ mơ màng hoài không biết là mình mơ được hóa bướm hay là bướm đã hóa ra mình. Cũng như Thục Đế lòng xuân chưa dứt nên hóa thành chim Đỗ Quyên kêu khóc suốt đêm thâu. Hay như Giao nhân ngắm trăng sáng mà rơi thành châu lệ, hay như Lam Điền nắng ấm nên ngọc mới bốc khói mờ. Trong tình huống, tình cảnh nầy đáng lẽ phải được người ta nhớ đến, tiếc thương đến, nhưng không biết vì sao trong lúc đó người ta lại phớt lờ và quên khuấy nó đi !

 

         Bài thơ nầy đã đươc Nguyễn Du mượn ý để tả lại tiếng đờn của Thúy Kiều đã đờn khi Kim Kiều tái hợp :

 

              ... Khúc đâu đầm ấm dương hòa,

                  Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh ?

                  Khúc đâu êm ái xuân tình,

                  Ấy hồn Thục Đế hay mình Đổ Quyên ?

                  Trong sao châu rỏ duềnh quyên,

                  Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đong ! 

 

                   

                                                         

DIỄN NÔM :

 

                                   CẨM SẮT

 

                   

                               

                   Năm chục dây đàn gấm tuyệt vời,

                   Mỗi dây mỗi trục nhớ xuân thời.

                   Trang Chu tỉnh mộng còn ngờ bướm,

                   Thục Đế lòng xuân cuốc gọi trời.

                   Trăng sáng biển xanh châu rướm lệ,

                   Lam Điền nắng ấm ngọc thành hơi.

                   Tình nầy ý ấy hoài ghi nhớ,

                   Sao lúc bấy giờ lại để lơi ?!

Lục bát :

                   Đàn gấm có năm mươi dây,

                   Mỗi dây mỗi trục chứa đầy tuổi xuân,

                   Trang Sinh ngỡ bướm hóa thân,

                   Cuốc kêu Thục Đế âm thầm xót xa.

                   Lệ rơi thương hải châu sa,

                   Lam Điền nắng ấm ngọc đà bay hơi.

                   Tình nầy dằng dặc khôn nguôi,

                   Chỉ vì lúc ấy không người cảm thông !

 

                                                                         杜紹德

                                                                     Đỗ Chiêu Đức

DCD_Camsat.JPG

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 81: 

                                                 

                           Ô, ÔM, ÔNG

DCD_Ô.jpg

    Chữ Ô 烏 trong câu thơ trên có nghĩa là con Quạ; vì con quạ màu đen nên chữ Ô còn có nghĩa là màu đen, như Ngựa Ô chẳng hạn. Ô từ miền Bắc có nghĩa là cây Dù che mưa của miền Nam, nên ta lại có từ "Ô DÙ", nghĩa bóng là có người che chở, nâng đỡ, đứng mũi chịu sào. Còn Ô của miền Nam là cái khai đựng trầu mà ta thường gọi là "Ô Trầu" thì miền Bắc gọi là "Cơi Trầu" với câu ca dao :

 

                              Đàn ông nông nổi giếng khơi,

                          Đàn bà sâu sắc như CƠI đựng trầu.

 

      Trở lại với chữ Ô là "con quạ" trong câu thơ "nguyệt lạc Ô ĐỀ sương mãn thiên 月落烏啼霜滿天" là câu đầu tiên trong bài Phong Kiều Dạ Bạc rất nổi tiếng của Trương Kế đời Đường. Cả bài như sau :

 

               月落烏啼霜滿天, Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,

               江楓漁火對愁眠。 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên. 

               姑蘇城外寒山寺, Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự, 

               夜半鐘聲到客船。 Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.

 

mà cụ Tản Đà nhà ta đã thoát dịch rất hay là :

 

                     Trăng tà tiếng QUẠ kêu sương,

                     Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ.

                     Thuyền ai đậu bến Cô Tô,

                     Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

 

      Ô còn là Ô THƯỚC 烏鵲 là Chim Khách cũng màu đen, loài chim này bị đánh đồng với loài quạ đen trong truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ, mà ta gọi là Ả Chức Chàng Ngưu mỗi năm gặp nhau một lần nhờ vào loại chim này bắt cầu ngang sông Ngân Hà mà người đời hay gọi là CẦU Ô hay CẦU Ô THƯỚC, có gốc chữ Nho là Ô KIỀU 烏橋. Như trong truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu :

 

                          Riêng than chút phận tơ điều,

                      Hán giang chưa gặp Ô KIỀU lại rơi.

DCD_Ô Kiều.png

 Hay như trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phạm Tải - Ngọc Hoa" của ta ở thế kỷ thứ 18 cũng có câu :

 

                           Đưa thơ tính đã nhiều lần,

                   CẦU Ô rắp bắc sông Ngân cùng nàng.

 

     Còn trong truyện "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" bằng thất ngôn luật thi (tức truyện Bạch Viên Tôn Các) thì gọi là CẦU THƯỚC :

 

                    CẦU THƯỚC phen này thênh dịp bước,

                    Tấc gang riêng giữ nghĩa chung tình.

 

     Trong truyện thơ Nôm "Quan Âm Thị Kính" thì lại gọi là Ô THƯỚC BẮC CẦU với các câu sau :

 

                           Thiệt công Ô THƯỚC BẮC CẦU,

                       Chàng Ngưu Ả Chức giã nhau từ rày !

DCD_Ô Thước.jpg

Sau Ô là ÔM, trong văn học cổ ta có tích ÔM CẦU, tức là "Ôm Cột Cầu" mà chữ Nho gọi là BẢO TRỤ 抱柱, xuất phát từ thành ngữ BẢO TRỤ CHI TÍN 抱柱之信 (là cái tín nghĩa trong việc ôm cột cầu) có tích trong "Trang Tử- Đạo Chích 莊子-盜跖" như sau :

 

     Trong thời Chiến Quốc có Vĩ Sinh 尾生 là người cùng quê với Đức Khổng Tử ở làng Khúc Phụ, người chính trực, tín nghĩa và hay giúp đỡ người khác, được mọi người kính yêu mến phục. Một hôm, có ông láng giềng hết giấm sang mượn, cũng vừa lúc nhà Vĩ Sinh hết giấm. Chàng bèn lén đi ngã sau để mượn ông hàng xóm khác một hủ giấm để về cho ông láng giềng ở nhà mượn. Khổng Tử biết chuyện, chê Vĩ Sinh thiếu thành thật và muốn làm ra vẻ có lòng tốt. Vĩ Sinh không để bụng, chỉ tâm niệm là mình có lòng thành giúp đỡ người khác là đủ rồi. 

     Sau Vĩ Sinh dời qua ở đất Lương (tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Ở đây Vĩ Sinh quen với một cô gái, hai người định tính chuyện trăm năm với nhau, nhưng gia đình cô gái chê Vĩ Sinh nghèo không chịu gả. Vĩ Sinh hẹn cùng cô gái gặp nhau dưới chân cầu ngoài Hàn Thành để cùng trốn về Khúc Phụ. Đêm ấy mưa to gió lớn, nước cuốn tràn ngập chân cầu, đợi mãi không thấy cô gái tới, Vĩ Sinh bèn ôm chặc chân cầu và chết đuối vì nước ngập. Phần cô gái vì bị cha mẹ phát giác ý định bỏ trốn nên khóa trái cửa phòng của cô lại, đến khi cô thoát được đến dưới chân cầu thì thấy Vĩ Sinh đã chết, nhưng hai tay vẫn còn ôm chặc lấy chân cầu. Đau lòng qúa mức cô đã khóc ngất lên rồi gieo mình xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy để quyên sinh, viết nên trang bi kịch đầu tiên của tình yêu trong văn học sử Trung Hoa cổ đại.

DCD_Bich câu.png

 Trong truyện thơ Nôm "Bích Câu Kỳ Ngộ 碧溝奇遇" của ta khi tả sự si tình của chàng Tú Uyên với Giáng Kiều cũng có câu :

 

                       Thôi đừng mộng mị trêu nhau,

                     Trần trần có thể ÔM CẦU mãi ru ?

 

     Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du gọi là ẤP CÂY, khi cho Kim Trọng bày tỏ nỗi lòng tương tư của mình :

 

                       Tháng tròn như Cuội cung mây,

                    Trần trần một phận ẤP CÂY đã liều !

 

     Sau ÔM là ÔNG, trong văn học cổ cái Ông được nhắc đến nhiều nhất là ÔNG TƠ, là "Ông già se tơ" dưới trăng, nên chữ Nho gọi là Nguyệt Lão 月老, tức "Nguyệt Hạ Lão Nhân 月下老人" là "Ông Già Dưới Trăng" (mời đọc lại "Điển Tích Văn Học 2 : CHỈ HỒNG) để biết chuyện thư sinh Vi Cố đi tìm người hôn phối gặp được Nguyệt Lão là ông lão chuyên se tơ kết tóc cho trai gái nên duyên chồng vợ như thế nào. Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã hai lần sử dụng đến "ÔNG TƠ" để ám chỉ tình duyên của đôi lứa. Khi hay tin Kim Trọng phải đi Liêu Dương hộ tang cho chú, Thúy Kiều đã than vản :

 

                                ÔNG TƠ gàn quải chi nhau,

                           Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.

DCD_Ông Tơ.png

 ...và sau khi bị ép phải hầu rượu cho Hồ Tôn Hiến, để rồi sáng hôm sau Hồ sợ "Quan trên ngắm xuống người ta trông vào" nên ép Thúy Kiều phải lấy Thổ Quan khiến cho nàng lại buông lời oán trách :

 

                             ÔNG TƠ thực nhẽ đa đoan !

                         Se tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên ?    

       

      Nói đến từ ÔNG thì không thể không nhắc đến thành ngữ "TÁI ÔNG THẤT Mà 塞翁失馬", tiếng Nôm ta chỉ dịch hai chữ phía sau là "TÁI ÔNG MẤT NGỰA". Theo sách Hoài Nam Tử, chương Nhân Gian Huấn 淮南子·人間訓 có ghi lại câu truyện như sau...                               

 

     TÁI ÔNG là Ông già ở vùng biên tái, mà cũng có thể là Ông già họ TÁI, rất chuyên về ngựa. Một hôm, con ngựa quí nhà ông bỗng nhiên chạy mất. Hàng xóm mọi người cùng đến chia buồn. Ông cười bảo : Đây chưa chắc là việc không vui. Mấy hôm sau, con ngựa của ông trở về, lại dẫn theo một con ngựa quí khác. Mọi người hay tin lại đến chúc mừng. Ông bảo, đây chưa chắc là việc đáng mừng. Quả nhiên vài hôm sau đó, con ông tập cưởi con ngựa đó, bị nó quăng cho té què chân. Mọi người lại cùng đến an ủi, chia buồn. Ông lại bảo : Đây vị tất đã là chuyện buồn. Năm sau, giặc đánh vào vùng biên tái, tất cả thanh niên đều phải lên đường nhập ngũ tòng chinh, chỉ có con trai ông vì bị què chân nên được ở lại, khỏi phải ra chiến trường. 

 

    Đây là câu truyện Ngụ ngôn trong sách Hoài Nam Tử, cho ta thấy chuyện đời may rủi vô chừng, họa phước khó mà lường trước được. Có lắm chuyện tưởng như rủi mà lại may, tưởng như phước mà lại là họa... cho nên ta phải để lòng rộng mở, khoáng đạt, bình tĩnh mà ứng phó những tình huống khôn lường trước được nầy. Trong văn thơ của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu :

 

                           Hàn Tín nên công chưa cả mặt,

                           TÁI ÔNG THẤT MÃ há cau mày !?

DCD_Tái Ông.png

 Hẹn bài viết tới !

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

                          Phiếm luận:  

 

                                          "Bán" dạ tam bôi tửu...

ĐCD_banda_1.JPG

 Đó là câu đầu tiên trong bài thơ dưỡng sinh thuần túy mang tính Đông Y của ông bà Việt Nam ta được lưu truyền trong dân gian bấy lâu nay. Cả bài như sau :

 

              半夜三杯酒, Bán dạ tam bôi tửu,

              平明一盞茶。 Bình minh nhất trản trà.

              七日淫一度, Thất nhật dâm nhất độ,

              良醫不到家。 Lương y bất đáo gia !

Có nghĩa :

              Nửa đêm ba ly rượu,

              Bình minh một cử trà.

              Bảy ngày dâm một bận,

              Thầy thuốc chẳng đến nhà !

 

Ý nghĩa của bài thơ là :

      Cứ nửa đêm là uống ba ly rượu và mỗi sáng sớm thì uống một cử trà, và cứ hễ bảy ngày thì "dâm" một lần, thì Thầy thuốc giỏi sẽ không phải tìm đến nhà để trị bệnh.

 

     Tương truyền bài thơ nầy là của Hải Thượng Lãn Ông LÊ HỮU TRÁC 海上懶翁 黎有晫 làm ra để khuyên răn người đời phải biết điều độ trong phép dưỡng sinh để tránh bệnh tật và để giữ cho cơ thể được luôn luôn khoẻ mạnh. Nhưng theo bài báo “Có phải bài thơ “Bán dạ tam bôi…” là của Lãn Ông?” của tác giả Đỗ Tiến Bảng (ở thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội) đã sưu tra qua các bộ sách “Y tông Tâm lĩnh 醫宗心領” (NXB Y học, 1993, bốn tập) của Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791) cùng những quyển có nhiều sáng tác “Thơ” như: “Y lý nhàn thâu 醫理閒偷”, “Vệ sinh yếu quyết 衛生要訣”, “Lĩnh Nam bản thảo 嶺南本草”, “Thượng kinh ký sự 上京記事”... đều không thấy có bài thơ nêu trên! 

     Lên mạng hỏi ông Google, cả tiếng Việt lẫn tiếng Hoa cũng không tìm thấy được xuất xứ của bài thơ nêu trên :

   - Về Trà chỉ thấy "Bài ca về 7 chén trà của Lư Đồng 盧仝 (Thất Uyển Trà Ca 七碗茶歌) và Trà Kinh của Lục Vũ 茶經:陸羽, đều là người ở đời Đường và đều không tìm thấy có những câu thơ tương tự như bài thơ trên.

   - Về Rượu thì ôi thôi, vô số câu về rượu, nhưng chỉ tìm thấy được các câu thơ trong bài "Nguyệt Hạ Độc Chước 月下獨酌" của Thi Tiên Lý Bạch là có đề cập đến Tam Bôi Tửu...  như sau :

 

                 三杯通大道,   Tam bôi thông đại đạo,

                 一斗合自然。   Nhất đấu hợp tự nhiên.

                 但得酒中趣,   Đản đắc tửu trung thú,

                 勿為醒者傳。   Vật vi tỉnh giả truyền !

     Có nghĩa :

                    Ba ly thông qua đạo lớn,

                    Một đấu hợp với tự nhiên.

                    Chỉ cần được vui trong rượu,

                    Mặc cho kẻ tỉnh tuyên truyền !

 

     Chỉ nói về cái tính "vui trong rượu" của mấy tay bợm nhậu, chớ không có liên quan gì đến phép dưỡng sinh cả !

    

     Trở lại với bài thơ trên, ta thấy đây là bài thơ truyền miệng dân gian của các y sư thầy thuốc ngày xưa của Việt Nam ta chớ không có liên quan gì đến danh y Hải Thượng Lãn Ông và văn thơ Trung Hoa cả. Có lẽ vì thế mà mỗi người hiểu một kiểu, mỗi lứa tuổi hiểu theo cái gốc độ nhìn của mình mà phát sinh ra nhiều "dị bản" chăng ?! Ta đọc lại bài thơ với hình trên chiếc dĩa đồ gốm sau đây nhé :

 

                       
 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đọc theo thứ tự : Từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Ta được 4 câu thơ sau đây :

 

                   平明數盞茶,  Bình minh sổ trản trà,

                   半夜三杯酒。  Bán dạ tam bôi tửu.

                   每日据如此,  Mỗi nhật cứ như thử,

                   良醫不到家。  Lương y bất đáo gia.

 

      Thứ tự của câu 1 và câu 2 bị đảo lộn : Vần TRÀ phải nằm ở cuối câu 2 để ăn với vần GIA ở cuối câu số 4. Nhưng có lẽ người viết lên cái dĩa đồ gốm nầy theo thứ tự của thời gian trong ngày : "Bìmh minh" (sáng sớm) trước, rồi mới tới "bán dạ" (nửa đêm) sau. Đó là về "Luật Thơ", còn "Ý Nghĩa" của bài thơ thì như sau :  

     * Chữ 數 khi đọc là SỐ là Danh từ, có nghĩa là chữ Số, con số. Khi đọc là SỔ thì có nghĩa là Mấy là Tính Từ chỉ số lượng. còn TRẢN 盞 là Chén nhỏ, chén chun. Nên SỔ TRẢN TRÀ là Mấy chén trà. Câu 1 có nghĩa :

       - Buổi sáng uống mấy chén trà.

       - Bán Dạ 半夜 là Nửa đêm, nên Câu 2 : Nửa đêm uống ba ly rượu. 

    * CỨ 据 là Căn Cứ 跟据 là Noi theo. NHƯ THỬ 如此 là Như thế, như thế ấy.

       - Mỗi ngày cứ noi theo như thế ấy (mà làm).

       - LƯƠNG Y 良醫 là Thầy thuốc giỏi BẤT ĐÁO GIA 不到家 là Không đến nhà. Câu cuối có nghĩa : Thầy thuốc giỏi sẽ không phải đến nhà.

 

     Ta thấy bài thơ dưỡng sinh nầy khuyên làm những việc làm rất vô lý : Buổi sáng uống mấy chun trà, nửa đêm uống ba ly rượu, cứ thế mà làm mỗi ngày thì thầy thuốc chẳng tới nhà, là sẽ rất khoẻ mạnh ?! Buổi sáng "uống trà" còn có thể chấp nhận được, vì tách trà nóng buổi sáng có thể làm cho con người ta tỉnh táo hơn, tinh thần sẽ sảng khoái hơn để bắt tay vào làm việc trong ngày mới, nhưng sáng sớm bụng trống uống trà vào ruột cũng sẽ dễ bị cồn cào hơn. Còn "nửa đêm mà uống ba ly rượu" ngoài việc ngủ ngon vì "say xỉn" ra, sáng hôm sau sẽ bị thức trễ hơn, chưa kể đầu óc còn xà quầng hoặc nhức đầu vì 3 ly rượu của nửa đêm. Hơn nữa sao đầu hôm không uống mà phải đợi đến nửa đêm mới uống, đang ngủ cũng phải thức dậy để uống 3 ly rượu sao ? Ngoài bợm nhậu ra ít có ai mỗi đêm giờ tý canh ba mà uống đến 3 ly rượu bao giờ, và uống rượu như thế thì có hợp với phép dưỡng sinh không ? Và mỗi ngày cứ uống rượu uống trà như thế thì rất khỏe mạnh đến nỗi thầy thuốc cũng không cần phải đến nhà sao ?!

 

            Có lẽ vì thấy chỉ trà và rượu không thì chưa đủ yếu tố để khuấy động đến đời sống sinh hoạt dưỡng sinh thường ngày, nên một cụ nào đó, như Trần Tế Xương chẳng hạn đã có bài thất ngôn tứ tuyệt như sau :

 

                    Một trà một rượu một đàn bà,

                    Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.

                    Chừa được thứ nào hay thứ nấy,

                    Có chăng chừa rượu với chừa trà !

 

     À, ra thế ! Có lẽ vì thế mà một "cụ lương y" nào đó đã đổi câu thứ 3 của bài ngũ ngôn tuyệt cú trên thành :

 

                 七日淫一度, Thất nhật dâm nhất độ, 

 

...để cho có yếu tố "đàn bà" chen vào. Thực ra, trong phép dưỡng sinh mà thiếu bóng dáng của người đàn bà thì cũng là một thiếu sót lớn. Cho nên câu thơ "bị" thay đổi nầy "được" chấp nhận ngay ! Và cũng lại gây tranh cải ngay vì cái tính cách đàn bà của nó. Vì câu thơ thay đổi trên chỉ thích hợp với lứa tuổi 50, 60 mà thôi. Tóp 30, 40 thì đổi thành :

 

                 三日淫一度, Tam nhật dâm nhất độ,

 

... còn tóp 20 trở xuống thì sung sức hơn nên cứ muốn :

 

                 一日淫一度, Nhất nhật dâm nhất độ,

 

...còn các cụ trên 70 thì cầu sao cho được :

 

                 半月淫一度, Bán nguyệt dâm nhất độ, 

 

... và các cụ trên 80 thì chỉ còn có nguyệt mà thôi :

 

                 一月淫一度, Nhất nguyệt dâm nhất độ, 

 

     Viết tới đây, tôi bỗng nhớ đến một anh bạn nhà báo đã nói với tôi :"Tình dục của con người cũng giống như là nghề làm báo của tụi tui vậy !" Tôi hỏi tại sao, thì được trả lời bằng cách so sánh như sau :

 

           - Mỗi ngày ra "một lần" là Nhựt Báo.

           - Nửa tuần ra một lần là Bán Tuần San.

           - Mỗi tuần ra một lần là Tuần San.

           - Nửa tháng ra một lần là Bán Nguyệt San.

           - Mỗi tháng ra một lần là Nguyệt San...

 

     Một ông bạn khác thì ví von hơn, anh ta ví :

 

           - Mỗi tuần một lần là như "Con chiên đi nhà thờ".

           - Nửa tháng một lần thì như "Phật tử đi chùa mùng 1 và ngày rằm".

 

      Riêng tôi đã ở tuổi "đi chùa", nhưng sao tôi thấy vẫn thích "đi nhà thờ" hơn. Chắc tại ở Mỹ nầy thực phẩm dinh dưỡng đầy đủ qúa đi chăng ?!

 

     Trở lại với bài thơ dưỡng sinh ngũ ngôn tứ tuyệt có nhiều "dị bản" còn gây tranh cải. Theo tôi thì muốn cho hợp tình hợp lý để mọi người cùng chấp nhận được, tôi đề nghị chỉ đổi MỘT chữ duy nhất của câu đầu mà thôi :

 

              到夜三杯酒, ĐÁO dạ tam bôi tửu,

              平明一盞茶。 Bình minh nhất trản trà.

              七日淫一度, Thất nhật dâm nhất độ,

              良醫不到家。 Lương y bất đáo gia !

Có nghĩa :

   - Cho đến đêm chỉ uống ba ly rượu, tức là trừ buổi sáng ra, khoảng thời gian ăn trưa, ăn chiều và ăn tối (nếu có), mỗi bửa ăn đều uống một ly rượu, nếu không có ăn tối thì cũng uống một ly rượu trước khi đi ngủ.

   - Sáng sớm dậy uống một ly trà nóng (sau khi uống cà-phê, ăn sáng).

   - Cứ 7 ngày là "dâm" một lần (cho lứa tuổi 40- 70).

   -(Nếu cứ điều độ được như ba câu trên) thì thầy thuốc giỏi sẽ không phải tìm tới nhà để mà trị bệnh (vì có bệnh gì đâu mà trị !).

 

     Diễn Nôm :

                   Đến tối ba ly rượu,

                   Bình minh một tách trà.

                   Bảy ngày "dâm" một bận,

                   Thầy thuốc chẳng đến nhà !

 

     Về vấn đề tuổi trẻ sung sức, cứ muốn "đêm bảy ngày ba" thì mặc tuổi trẻ, nhưng điều đó không hợp với phép dưỡng sinh chút nào cả. Người già có "đêm bảy ngày ba" của tuổi già theo như lời của Bác sĩ khuyên :

 

         "Đêm phải ngủ đủ 7 tiếng đồng hồ; ngày phải ăn đủ 3 cử"

 

... và phải ăn ít chất tinh bột, nhiều rau củ quả để tránh "3 cao 1 thấp". Ba cao là : Cao máu, cao mỡ, cao đường trong máu; còn một thấp là "Thấp khớp" nhức mõi !.

 

          Để kết thúc cho bài viết nầy, kính mời tất cả cùng đọc cho vui các bài thơ xướng họa về "TAM BÔI TỬU" của anh em chúng tôi trên vườn thơ Lãng Phong :

 

      https://lylang.blogspot.com/2021/06/tam-boi-tuu-tho-ho-cong-tam-va-tho-hoa.html     

ĐỖ CHIÊU ĐỨC

_____________________________________________________--

DCD_banda_2.JPG
DCD_Ngam.png

                                   Rằng hay thì thật là hay,

                      Nghe ra NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY thế nào!

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 78: 

 

                                                 NGẬM

 

                         

                                          Rằng hay thì thật là hay,

                                Nghe ra NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY thế nào!

 

         Đó là hai câu lục bát mà cụ Nguyễn Du đã cho Kim Trọng nhận xét khi nghe Thúy Kiều gảy đàn. NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY có gốc chữ Nho là HÀM TÂN CÔ KHỔ 含辛菇苦 :

              - HÀM 含 là NGẬM, là giữ ở trong miệng không nhả ra cũng không nuốt vào.

              - TÂN 辛 là Cay;  CÔ 菇 (động từ) là Ăn; KHỔ 苦 là Đắng. Nên 

 

        HÀM TÂN CÔ KHỔ 含辛菇苦 nghĩa đen thui là "Ngậm cay ăn đắng", nói theo tập quán ngôn ngữ của tiếng Nôm ta là NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY để chỉ vất vả, cực khổ hay đau khổ đến cùng cực, vì CAY và ĐẮNg là hai chất làm cho vị giác khó chịu, không ngon lành như là NGỌT với BÙI ! Nhưng, lắm lúc con người cũng thích cay thích đắng, thích ăn ớt, ăn khổ qua ... thích cả nghĩa  đen lẫn nghĩa bóng, vì lắm lúc CAY ĐẮNG cũng làm cho người ta thắm thía hơn với cái "thú đau thương"; như ta đã nghe lời nhận xét về tiếng đàn của Thúy Kiều được Kim Trọng diễn đạt ở hai câu thơ trong phần mở đầu :

 

                                   Rằng HAY thì THẬT LÀ HAY,

                           Nghe ra NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY thế nào !

 

         NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY mà HAY thì THẬT LÀ HAY ! Ngoài "Ngậm Đắng Nuốt Cay" ra, ta còn thường gặp "NGẬM THỞ NUỐT THAN" để chỉ sầu buồn than thở không thôi, nhưng lại không có người để tâm sự thổ lộ, như khi Thúy Kiều bị Hoạn Thư đưa vào Quan Âm Các xuất gia để tách nàng ra khỏi vòng tay của Thúc Sinh :

 

                                   Gác kinh viện sách đôi nơi,

                            Trong gang tấc lại gấp mười quan san.

                                Những là NGẬM THỞ NUỐT THAN,

                               Tiểu thư phải buổi vấn an lại nhà...

 

          Song song với "Ngậm Thở Nuốt Than", ta còn có  Ngậm Hờn, Ngậm Tủi, Ngậm Sầu, Ngậm Oán ... và ngoài những cái "Ngậm không được vui" kia, ta còn có những cái NGẬM trừu tượng hơn, nhưng vui vẻ hơn như NGẬM CƯỜI là trên gương mặt luôn giữ vẻ tươi cười chớ khôngcó "ngậm" gì trong miệng cả, do gốc chữ Nho là HÀM TIẾU 含笑 mà ra. Ta thường nghe nói "Hoa Hàm Tiếu" là Hoa ngậm cười, hoa vừa chớm nở, là hoa bắt đầu khoe sắc đẹp, nên nụ cười Hàm Tiếu là nụ cười tươi, nụ cười đẹp của các giai nhân. Vì thế mà NGẬM CƯỜI là chỉ gương mặt tươi cười đẹp đẽ và còn dùng để chỉ cái tâm lý được thỏa mãn, hài lòng, không còn vướng bận gì nữa, như khi Thúy Kiều bán mình chuộc tội cho cha đã trối lại với Thúy Vân rằng :

 

                                   Chị dầu thịt nát xương mòn,

                          NGẬM CƯỜI CHÍN SUỐI hãy còn thơm lây.

 

                     

        NGẬM CƯỜI CHÍN SUỐI cũng có gốc chữ Nho là "Hàm Tiếu Cửu Tuyền 含笑九泉", tương  đương với tiếng Nôm ta là "Có Chết cũng Vui Lòng", cũng rất an tâm mà chết. Theo truyền thuyết cổ xưa thì khi chết linh hồn con người ta sẽ đi qua 9 cái suối ở dưới đất để đến Âm Phủ. Nên CỬU TUYỀN là chín suối, là cỏi âm, là nơi người chết ở. Trái với "Ngậm Cười nơi Chín Suối" là "Ngậm Hờn nơi Chín Suối" chết mà lòng còn hờn oán khi oán hận còn chưa nguôi. Ngoài Hàm tiếu 含笑 là Mỉm cười ra, ta còn có Hàm Tu 含羞 là Thẹn thùng; Hàm Tình 含情 là Gợi tình một cách dễ thương; Hàm Ý 含意 là Ý nghĩa còn ẩn dấu bên trong... (Nói thêm : HÀM TU là Thẹn thùa Mắc cở; nên HÀM TU THẢO 含羞草 là Cây Mắc cở; HÀM TU HOA 含羞花 là Hoa Mắc  cở).

         

          Còn một cái "ngậm" nữa mà không ai thích cả, đó là "NGẬM BỒ HÒN LÀM NGỌT", nói gọn lại là NGẬM BỒ HÒN. Thành ngữ này hoàn toàn có xuất xứ trong đời sống của dân ta mà không phải vay mượn gì ở chữ Nho nữa cả ! BỒ HÒN có tên khoa học là Sapindus mukorossi Gaertn. Dân gian thường gọi với những tên khác nhau như Vô hoạn, trái Bòn hòn, quả Xà-phòng... được trồng nhiều ở khu vực miền Bắc của nước ta như Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Cạn... Trái Bồ Hòn có vị đắng, nên ai ngậm được nó là người rất giỏi chịu đựng. Câu nói "NGẬM BỒ HÒN LÀM NGỌT" thường dùng để chỉ sự nhẫn nhịn chịu đựng điều đắng cay mà bề ngoài vẫn phải tỏ ra vui vẻ. Như khi Hoạn Thư, vợ của Thúc Sinh bắt "Hoa Nô" Thúy Kiều phải đứng rót rượu mời cho hai vợ chồng cùng "chén tạc chén thù" lại buộc Thúy Kiều phải "quì tận mặt mời tận tay" và với điều kiện :"Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn" làm cho :

 

                           Sinh càng nát ruột tan hồn,

                   Chén mời phải NGẬM BỒ HÒN ráo ngay.

 

      Chàng Thúc đã "nát ruột tan hồn"rồi, lại phải làm ra vẻ vui vẻ uống hết những chén rượu mà Thúy Kiều đang đứt ruột dâng lên !                    

 

      Còn một cái "ngậm" rất đáng chê trách là NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI, nói theo chữ Nho là HÀM HUYẾT PHÚN NHÂN 含血噴人 : Ý chỉ ngụy tạo sự kiện để nói xấu, bôi nhọ và hãm hại người khác. Câu nói nầy có xuất xứ từ La Hồ Dã Lục của Hiểu Doanh đời Tống ( 宋•晓莹《罗湖野录》), nguyên văn như sau : "  含血噴人,先汙其口 Hàm huyết phún nhân, tiên ô kỳ khẩu ". Có nghĩa là : " Ngậm máu phun người thì dơ miệng mình trước ". Trong Minh Tâm Bửu Giám của ta ngày xưa cũng có câu nầy, nhưng lại nói khác đi một chữ dù ý nghĩa vẫn như nhau là : 含血噴人,先汙自口. Hàm huyết phún nhân, tiên ô TỰ khẩu. Ý là : Nói xấu hay đổ tội đổ lỗi cho người khác thì người ta cũng đánh giá mình không phải là người tốt.

        

      Có một chữ NGẬM rất nghệ thuật trong phối trí cảnh vật êm ắng khi đêm xuống cô quạnh lặng lẽ qua ngòi bút tả cảnh mang sắc thái điện ảnh rất tài tình của Nguyễn Du khi Thúy Kiều đang ở lầu Ngưng Bích :

 

                                 Chim hôm thoi thót về rừng,

                         Đóa trà mi đã NGẬM TRĂNG nửa vành.

 

                      

     Qua góc độ ngắm của nhà hội họa cho đóa trà mi lắp lửng che đi nửa vầng trăng như đang "NGẬM TRĂNG nửa vành" ! Ta thấy Nguyễn Du không những là thi sĩ mà còn là nhà hội họa, nhà điện ảnh đi trước thời đại nữa !

 

     Chữ NGẬM đi với chữ NGÙI còn là một kết hợp Từ Láy phụ âm đầu tuyệt vời để diễn tả tâm trạng vừa buồn thương vừa luyến nhớ lại mang một chút sầu thảm bồi hồi; có thể là Hình dung từ mà cũng có thể làm Trạng từ để diễn tả tâm trạng sầu thương một cách tuyệt vời như khi Thúy Kiều đang ở lầu Ngưng Bích :

 

                              NGẬM NGÙI rủ bước rèm châu,

                      (Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần...)

 

  ... hay như khi mới bắt đầu với cuộc sống ở lầu xanh :

 

                    Buồng riêng, riêng những sụt sùi,

                Nghĩ thân mà lại NGẬM NGÙI cho thân! 

 

    ... nhưng đôi lúc NGẬM NGÙI cũng là một niềm hạnh phúc có được sau những sầu thương chìm nổi của cuộc đời, như khi Kim Kiều tái hợp sau mười lăm năm lưu lạc :

 

                                Động phòng dìu dặt chén mồi,

                      Bâng khuâng duyên mới NGẬM NGÙI tình xưa.

 

     Cuối cùng, ta có thành ngữ điển tích KẾT CỎ NGẬM VÀNH mà chữ Nho gọi là KẾT THẢO HÀM HOÀN 結草銜環. Theo tích sau đây :

      

    * KẾT CỎ : Có xuất xứ từ Tả Truyện, Tuyên Công Thập Ngũ Niên《左傳.宣公十五年》Năm 594 trước Công Nguyên, Tần Hoàn Công 秦桓公 xuất binh phạt Tấn 晉. Tướng Tấn là Ngụy Khoả 魏顆 đem binh chống lại tướng Tần là Đỗ Hồi 杜回 ở đất Phụ Thị. Khi hai tướng đang đánh nhau quyết liệt chưa phân thắng bại thì Ngụy Khoả nhìn thấy một ông già dùng cỏ kết thành một sợi dây máng vào chân ngựa của Đỗ Hồi. Hồi ngã ngựa bị bắt sống. Ngụy Khoả đại thắng trong trận nầy.

     Đêm đó, Ngụy Khoả mơ thấy ông già đã kết cỏ lúc ban ngày để giúp cho mình chiến thắng. Chưa kịp tạ ơn thì ông già đã qùy xuống nói rằng :"Ta là cha của hầu thiếp của cha ngài, đến để cám ơn đại ân đại đức của ngài đã không chôn sống con ta theo cha ngài khi ông ấy lâm chung". Thì ra trước đây, cha của Ngụy Khoả là Ngụy Võ Tử 魏武子 có một người hầu thiếp trẻ đẹp không có con, từng nói với Ngụy Khoả rằng : Khi ta chết thì nhớ cho cô ấy đi tái giá. Nhưng khi Ngụy Võ Tử lâm bệnh, lúc gần chết lại nói là : Ta chết rồi thì nhớ chôn sống cô ấy theo để hầu hạ ta. Đến lúc Ngụy Võ Tử chết, Ngụy Khoả bèn cho người hầu thiếp trẻ đó về nhà để lấy chồng khác. Mọi người nêu thắc mắc sao không làm theo lời cha, thì Ngụy Khoả đáp rằng : Ta đã làm theo lời cha ta lúc người còn tỉnh táo minh mẫn, chớ không làm theo lúc ông đã bị bệnh mặng thần trí đã u mê rồi!".

 

    * NGẬM VÀNH : Đúng ra phải nói là NGẬM VÒNG, theo tích Dương Trấn Truyện trong Hậu Hán Thư 《後漢書·楊震傳》như sau đây :

      Cha của Dương Chấn là Dương Bảo 楊寶, lúc 9 tuổi thấy một con chim hoàng tước bị chim cắt mổ thương nằm dưới gốc cây ở phía bắc của núi Hoa âm, kiến lại bu chung quanh trông rất tội nghiệp. Ông bèn mang con hoàng tước về để trong rương chăm sóc và cho ăn hằng ngày bằng hoa vàng. Sau một trăm ngày, chim đã bình phục và mọc lại đủ lông đủ cánh bèn theo hướng tây mà bay đi. Đêm hôm đó Dương Bảo mơ thấy một đồng tử mặc áo màu vàng miệng ngậm bốn cái vòng ngọc trắng đến bái tạ và tặng vòng, còn nói rằng : Ta là sứ giả của Tây Vương Mẫu bị nạn giữa đường, cám ơn ông đã có lòng nhân từ cứu giúp. Nay xin gởi tặng ông bốn chiếc vòng ngọc nầy để giúp ông có được bốn đời vinh hiển phú qúy và trong sạch như vòng ngọc nầy vậy". Và...

     Đúng như lời đồng tử áo vàng đã nói, trong sách Hậu Hán Thư đã ghi chép : Dương Bảo 楊寶 con là Dương Chấn 楊震, cháu là Dương Bỉnh 楊秉, chắc là Dương Tứ 楊賜, chít là Dương Bưu 楊彪 4 đời đều làm quan đến chức Thái Úy và đều rất cương trực thanh liêm, được người đời truyền tụng cho đến hiện nay. Nên "KẾT CỎ" và "NGẬM VÀNH" hợp chung lại thành thành ngữ...

     

     KẾT CỎ NGẬM VÀNH để chỉ không quên được ân đức của người nào đó đã làm cho mình và nguyện báo đền cho đến chết cũng còn tìm phương báo đáp. Như lời của Thúy Kiều đã nói với Sở Khanh, khi Sở Khanh ngõ ý muốn cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh :

   

                          Dám nhờ cốt nhục tử sinh,

                   Còn nhiều KẾT CỎ NGẬM VÀNH về sau! 

 

      Xin được kết thúc Thành ngữ Điển tích có liên quan đến từ NGẬM ở đây. 

 

              Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                               杜紹德

                                                                                           Đỗ Chiêu Đức

                                                         LỄ MẸ : Du Tử Ngâm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chúa Nhật thứ hai của tháng 5 hằng năm là ngày LỄ MẸ (Mothers'day)  ở Mỹ. LỄ MẸ năm nay nhằm ngày Chúa Nhật 09 tháng 5 tới đây. Việt Nam ta không có ngày Lễ Mẹ chính thức, mọi người lấy ngày Lễ Vu Lan Bồn là ngày rằm tháng 7 Âm lịch làm ngày tưởng nhớ đến Mẹ Hiền. Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, nhà sư Nhất Hạnh lấy ngày Rằm tháng 7 này làm ngày Bông Hồng Cài Áo. Ai còn Mẹ thì được cài một bông hồng màu ĐỎ, người nào chẳng may đã mất Mẹ rồi thì cài một bông hồng màu TRẮNG lên áo để tưởng nhớ đến Mẹ Hiền....

 

       Nay, nhân ngày Lễ Mẹ ở xứ người, lại nhớ đến ngày Lễ Vu Lan ở xứ ta, xin chân thành gởi đến tất cả mọi người một Bông Hồng...Thơ, để tưởng nhớ đến Mẹ Hiền qua tâm tình của một Du Tử phiêu bạt phương trời : Bài thơ "DU TỬ NGÂM 遊子吟" của Mạnh Giao đời Đường... 

 

           DU TỬ NGÂM                          遊 子 吟

       Từ mẫu thủ trung tuyến         慈 母 手 中 线

       Du tử thân thượng y              遊 子 身 上 衣

       Lâm hành mật mật phùng      临 行 密 密 缝

       Ý khủng trì trì quy                 意 恐 遲 遲 歸

       Thùy ngôn thốn thảo tâm       誰 言 寸 草 心

       Báo đắc tam xuân huy           報 得 三 春 暉

                           MẠNH GIAO                         孟 郊

 

      Bài thơ có tựa là KHÚC NGÂM của NGƯỜI DU TỬ, người lãng du phiêu bạt giang hồ nhớ về Mẹ như sau :

      Sợi chỉ trong tay bà mẹ hiền, khâu nên chiếc áo ở trên mình người du tử. Lúc ra đi, mẹ đã từng mũi từng mũi một khâu thật chắc, ý sợ rằng con mình mê mãi thú giang hồ mà nấn ná dần dà trễ tràng trở về quê cũ. Ai bảo rằng tấc lòng của cọng cỏ non kia, có thể báo đáp được ánh nắng ấm áp của ba tháng mùa xuân. (Trong mùa đông, cỏ chết rụi cả, chỉ sống lại nhờ ánh sáng và hơi ấm của ba tháng mùa xuân mà thôi !).

      Ôi, nỗi lòng thương con của bà mẹ thật tỉ mỉ, chi li, nhưng lại bao la sâu rộng vô cùng. Bà không trách con đi lâu, cũng không buộc con phải về sớm, vì bà biết tánh lãng tử của con mình. Bà chỉ âm thâm chắc chiu từng mũi kim cho thật chặc thật chắc, chỉnh e khi ở nơi xứ lạ quê người, áo của con bị sứt chỉ đường tà sẽ không có ai khâu hộ. Việc làm tuy nhỏ nhặt, nhưng lại hàm chứa biết bao nỗi thương yêu lo lắng của Mẹ Hiền. Tác giả đã kết bằng cách mượn nỗi lòng của một tấc cỏ nhỏ nhoi, thì làm thế nào có thể báo đáp cho được ánh nắng ấm áp của 3 tháng mùa xuân đã mang sức sống và xanh tươi đến cho vạn vật muôn loài cho được !

 

       Khi diễn tả cô Kiều cân nhắc giữa tình và hiếu, rồi quyết định bán mình chuộc tội cho cha. Hành động bán mình là việc làm cao cả, vĩ đại, nhưng đối với công lao trời biển, sanh thành dưỡng dục của cha mẹ thì Nguyễn Du vẫn cho là chưa đủ, cho nên ông đã dùng chữ "Liều" một cách rất tài tình :

 

                       Hạt mưa xá nghĩ phận hèn

                  LIỀU đem TẤC CỎ quyết đền BA XUÂN !

 

       Sự thật, bán mình chuộc tội cho cha thì cô Kiều có thể nói đã hoàn toàn trả được chữ hiếu rồi !(hết đời rồi , còn gì nữa !) : " Bán mình là hiếu, cứu người là nhân " mà, và như Sư Tam Hợp đã nói : "Bán mình đã động hiếu tâm đến trời". Nỗi lòng "tấc cỏ" của cô Kiều khả dĩ nói là đã đáp đền được "ánh nắng của ba xuân" rồi hay  chưa ?!

 

                 

DIỄN NÔM :

                     Kim chỉ trên tay từ mẫu,

                     Khâu nên áo lãng du nhân.

                     Khi đi chắc chiu từng mũi,

                     Sợ ngày về lắm lần khần.

                     Ai bảo nỗi lòng tấc cỏ,

                     Báo đền được nắng ba xuân ?!

        Lục bát :

                     Đường kim mũi chỉ mẹ hiền,

                     Khâu nên chiếc áo trên mình lãng du,

                     Chắc chiu từng mũi từng khâu,

                     Sợ e con trẻ đi lâu chửa về

                     Ai rằng tấc cỏ bên lề,

                     Báo đền được ánh nắng về ba xuân ?!

                                                     Đỗ Chiêu Đức diễn nôm.

 

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :

               

 

 

 

 

 

 

 

MẠNH GIAO 孟郊 (  751- 814 )

    Mạnh Giao tự là Đông Dã, người đất Võ Khang. Lúc nhỏ ở ẩn trong núi Tung Sơn, tánh tình thầm lặng, làm thơ hay thiên về lý trí, lại chắt lọc từng chữ một. Hàn Dũ rất mến tài ông mà kết thành bạn vong niên. Mãi đến năm 50 tuổi ông mới đậu Tiến Sĩ ở niên hiệu Trinh Nguyên đời nhà Đường.

    Ngoài bài Du Tử Ngâm được nhiều người biết đến, Mạnh Giao còn nổi tiếng với bài Liệt Nữ Tháo. Cả hai bài đều làm theo thể Ngũ ngôn Cổ phong. (Mỗi câu năm chữ, có thể gieo cả vần Bằng lẫn vần Trắc và không hạn định số câu của một bài.).

 

      Xin cầu chúc tất cả mọi người đều có một ngày Lễ Mẹ tuyệt vời !                                                                                                                                                                

                                                                                               杜紹德

                                                                                          Đỗ Chiêu Đức

DCD_DuTuNgam_1.png
DCD_ManhGiao.png

Tạp Ghi và Phiếm Luận:  

 

                           Biên Khảo về THƠ ĐƯỜNG SÁU CHỮ

DCD_tho6chu_1.JPG

LỤC NGÔN THI, thơ 6 chữ, cũng là một thể loại thi ca từ thời cổ đại của Trung Hoa. Mỗi câu thơ đều có 6 chữ, toàn bài thường là 4 câu trở lên, tuy không được lưu hành rộng rãi như thơ Ngũ ngôn (5 chữ) và thất ngôn (7 chữ), nhưng cũng là một thể thơ "Lục Ngôn" có nét độc đáo riêng, như bài "Điền Viên Lạc 田園樂" của Thi Phật Vương Duy đời Đường sau đây :

 

                 桃紅複含宿雨,   Đào hồng phục hàm túc vũ,

                 柳綠更帶朝烟。   Liễu lục cánh đái triêu yên.

                 花落家僮未掃,   Hoa lạc gia đồng vị tảo,

                 鳥啼山客猶眠。   Điểu đề sơn khách do miên !

   Có nghĩa :

                    Hoa đào hồng vì mưa tối,

                    Sương sớm đưa cành liễu bay.

                    Hoa rụng gia đồng chưa quét,

                    Chim ca khách núi còn say !

      

      Về nguồn gốc của thơ 6 chữ thì có đến 3 nguồn như sau đây :

 

    1. Xuất xứ từ Kinh Thi :

       Theo Chấp Ngu đời Đông Tấn 東晋挚虞 thì Lục Ngôn Thi bắt nguồn từ những câu 6 chữ trong Kinh Thi, ví dụ như trong bài "Quyền Nhĩ chương Chu Nam của Kinh Thi《詩經·周南·卷耳》bài thứ hai như sau :

 

                     陟彼崔嵬、        Trắc bỉ tồi ngôi,

                     我馬虺隤。        Ngã mã khôi đồi,

                     我姑酌彼金罍、  Ngã cô chước bỉ kim lôi.     (6)

                     維以不永懷。     Duy dĩ bất vĩnh hồi (hoài).

          Có nghĩa :

                     Cởi ngựa lên núi đá đồi,

                     Ngựa ta mõi mệt, ta ngồi nghỉ ngơi.

                     Cốc rượu vàng, rót uống chơi,

                     Để phai nỗi nhớ bồi hồi lòng ta !

                  

      Trong bài "Vũ Vô Chính 雨無正" cũng trong Kinh Thi thời Tiên Tần có câu :

 

                        謂爾遷于王都,  Vị nhĩ thuyên vu vương đô,

                        曰予未有室家.   Viết dư vị hữu gia thất.

        Có nghĩa :

                        Gần đây ta chuyển về kinh,

                        Rằng ta chưa có gia đình.

 

    2. Có xuất xứ từ Cốc Vĩnh đời Tây Hán 西漢谷永 :

       Theo thuyết của Lương Nhậm Phưởng 南朝梁任昉 thời Nam Triều, trong "Văn Chương Duyên Khởi nói rằng : Thơ 6 chữ bắt đầu từ Đại Tư Nông Cốc Vĩnh đời Hán mà ra. Trong "Thương Lãng Thi Hoa" của Tống Nghiêm Vũ 宋嚴羽-滄浪詩花 cũng nói rằng :" Thơ ngũ ngôn bắt đầu từ Lý Lăng, Tô Vũ; Thơ thất ngôn bắt đầu từ " Bá Lương- Hán Vũ"; Thơ Tứ ngôn bắt đầu từ Vương Phó, Duy Mạnh đời Hán Sở; Thơ LỤC NGÔN bắt đầu từ Hán Tư Nông Cốc Vĩnh; Thơ tam ngôn bắt đầu từ Hạ Hầu Trạm đời Tấn và thơ cửu ngôn bắt đầu từ các hương thân cao qúy.

 

    3. Có xuất xứ từ Đông Phương Sóc đời Hán 漢朝-東方朔 : 

       Theo "Vịnh Sử Thi" của Tả Tư trong "Văn Tuyển" của Lý Thiện đời Đường cho là : Lục Ngôn Thi bắt đầu từ Đông Phương Sóc đời Tây Hán. Nhưng Lý Thiện chỉ dẫn chứng có 2 câu; Một câu ở quyển 21 của Vịnh Sử Thi trong Văn Tuyển Là :"Kế sách quyên khí bất thu 計策捐棄不收"(Kế sách cho đi không nhận); Một câu nữa trong "Thục Đô Phú, Tả Tư quyển 4 là : "Hiệp tôn xúc tịch tương ngu 合樽促席相娱"(Chai rượu cùng vui với tiệc).       

        

      Ba nguồn gốc của Lục Ngôn Thi nêu trên, chỉ có Kinh Thi là có cơ sở và đáng tin cậy nhất; hai thuyết còn lại đều còn nghi vấn. Một là Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc đều không thấy có thơ 6 chữ lưu truyền lại ở đời Tây Hán; Hai là theo "Hán Thư" của Ban Cố và "Sử Ký" của Tư Mã Thiên đều không có ghi lại Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc có tài làm thơ; Ba là trong "Văn Chương Lưu Biệt Luận" của Chấp Ngu đời Đông Tấn chỉ nói là trong Kinh Thi có những câu thơ 6 chữ, chứ không nói rõ ở đời nào, trong "Văn Tâm Điêu Long" của Lưu Hiệp đời Nam triều cũng không có nhắc đến những cống hiến gì của Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc về Lục Ngôn Thi cả.

      Nhưng trong Kinh Thi thơ Lục Ngôn cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ bằng những câu lẻ chen vào bài thơ như đã ví dụ ở trên; họa hoằn lắm mới có 2 câu 6 chữ đi liền nhau như trong bài "Bắc Môn- Bội Phong 邶風.北門" trong Kinh Thi :

 

                 王事適我、         Vương sự thích ngã

                 政事一埤益我。   Chính sự nhất tỳ ích ngã.     (6)

                 我入自外、         Ngã nhập tự ngoại,

                 室人交徧讁我。   Thất nhân giao biến trích ngã.(6)

      Có nghĩa :

                 Việc làng bận bịu chưa xong,

                 Việc quan hối thúc càng không thể ngồi.

                 Việc nhà lại rối bời bời,

                 Người nhà cửi nhửi bồi hồi lòng ta !

 

       Cho đến "Sở Từ 楚辭" của Khuất Nguyên nước Sở trong thiên "Ly Tao 離騷" đã có những câu 7, 6 chen nhau như :

 

                 駟玉虯以乘鷖兮,  Tứ ngọc cù dĩ thừa ế hề,

                 溘埃風余上征;     Kháp ai phong dư thượng chinh.

                 朝發軔於蒼梧兮,  Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề,

                 夕余至乎縣圃;     Tịch dư chi hồ Huyền Phố.

     Có nghĩa :

                 Quay ra đạp gió rẽ mây,

                 Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.

                 Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,

                 Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.

                                   (thơ dịch của Nhượng Tống)

      

       Đến bài từ "Cửu Biện 九辯" của Tống Ngọc 宋玉, cũng người nước Sở, thì mới có 4 câu 6 chữ liền nhau như một bài tứ tuyệt :

 

                 慷慨绝兮不得,  Khảng khái tuyệt hề bất đắc, 

                 中瞀乱兮迷惑。  Trung mậu loạn hề mê hoặc.

                 私自怜兮何极,  Tư tự lân hề hà cực,

                 心怦怦兮諒直。  Tâm phanh phanh hề lương trực !

      Có nghĩa :

                 Khảng khái cũng chẳng được chi,

                 Trong lòng rối rắm lại khi mơ hồ.

                 Tự thương xót đến bao giờ,

                 Lòng trung vằng vặc ai ngờ được sao !         

      Đến đời Đông Hán thì những bài phú trữ tình đã có những câu 6 chữ rất tề chỉnh, và đã bỏ được trợ từ "Hề 兮" ở giữa câu; nếu tách rời ra thì có thể thành một bài thơ "Lục Ngôn Tứ Tuyệt" như trong bài "Quy Điền Phú 歸田賦" của Trương Hành 張衡 có những câu :

  

                    游都邑以永久,   Du đô ấp dĩ vĩnh cửu,

                    無明略以佐時;   Vô minh lược dĩ tá thì;

                    徒临川以羡魚.     Đồ lâm xuyên dĩ tiện ngư,

                    俟河清乎未期。   Tự hà thanh hồ vị kỳ.

     Có nghĩa :                      

                         Trong kinh chẳng cống hiến gì,

                         Cũng không sách lược phò trì quân vương.

                         Bên sông thưởng thức cá ngon,

                         Hoàng Hà sông cạn đá mòn chưa trong !

          

       Đến thời kỳ Kiến An (cuối đời Đông Hán) lúc Tam Quốc Phân tranh thì Lục Ngôn Thi lần đầu tiên được Khổng Dung, một trong Kiến An Thất Tử 建安七子 (7 người tài tử trong thời Kiến An) sáng tác ba bài thơ Lục Ngôn hoàn chỉnh. Dưới đây là bài thứ nhất trong ba bài thơ đó :

 

                  漢家中葉道微,  Hán gia trung diệp đạo vi,

                  董卓作乱乘衰,  Đổng Trác tác loạn thừa suy,

                  僭上虐下專威,  Tiếm thượng ngược hạ chuyên uy,

                  萬官惶怖莫違,  Vạn quan hoàng bố mạc vi,

                  百姓惨惨心悲.    Bá tánh thảm thảm tâm bi !

    Có nghĩa :

                  Giữa thời nhà Hán suy vi,

                  Đổng trác làm loạn thị uy.

                  Ép vua hiếp cả triều nghị,

                  Muôn quan sợ chẳng nói chi,

                  Trăm họ thảm lòng sầu bi.

 

       Hai người nối tiếp và phát huy để ổn định cho thơ sáu chữ cũng là hai trong số Kiến An Thất Tử là Tào Phi 曹丕 và Tào Thực 曹植 (Tào Tử Kiến 曹子建), cả 2 đều là con trai của Tào Tháo 曹操(Bản thân Tháo cũng là một trong Kiến An Thất Tử). Tào Phi với bài Lê Dương Tác Thi 黎陽作詩 (Buổi sáng làm thơ) như sau :

 

                    奉辭罰罪遐征。   Phụng từ phạt tội hà chinh,

                    晨過黎山巉崢。   Thần qúa Lê Sơn sàm tranh.

                    東濟黃河金營。   Đông tế Hoàng Hà kim doanh,

                    北觀故宅頓傾。   Bắc quan cố trạch đôn khuynh.

                    中有高樓亭亭。   Trung hữu cao lâu đình đình,

                    荊棘繞蕃叢生。   Kính cức nhiểu phồn tùng sinh.

                    南望果園青青。   Nam vọng qủa viên thanh thanh,

                    霜露慘淒宵零。   Sương lộ thảm thê tiêu linh.

                    彼桑梓兮傷情。   Bỉ tang tân hề thương tình !

     Có nghĩa :                     

                       Phụng chỉ đi đánh giặc xa,

                       Lê sơn hiểm trở sáng qua,

                       Đóng trại phía đông Hoàng Hà,

                       Hướng bắc dinh thự của ta,

                       Trong có lầu các nguy nga,

                       Cỏ gai bao bọc quanh nhà.

                       Phía nam cây trái vườn hoa,

                       Lạnh lùng mù mịt sương sa,

                       Quê nhà đau xót lòng ta !

               

                         Sau đây là bài thơ 6 chữ được xếp trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂府詩集" sớm nhất :"Thiếp Bạc Mệnh 妾薄命" của Tào Tử Kiến :

 

                      携玉手喜同車,   Huề ngọc thủ hỉ đồng xa,

                      北上雲閣飛除。   Bắc thướng vân các phi trừ.

                      钓台蹇產清虚,   Điếu đài khiên sản thanh hư,

                      池塘觀沼可娱。   Trì đường quan chiểu khả ngu.

                      仰泛龍舟绿波,   Ngưỡng phiếm long chu lục ba,

                      俯擢神草枝柯。   Phủ trạc thần thảo chi kha.

                      想彼宓妃洛河,   Tưởng bỉ Mật Phi Lạc Hà,

                      退咏漢女湘娥。   Thoái vịnh Hán nữ Tương Nga.

       Có nghĩa :

                      Nắm tay người ngọc cùng xe,

                      Cùng lên lầu bắc mây che lưng trời.

                      Đài câu yên lặng thảnh thơi,

                      Ao hồ sông lạch vui chơi thỏa lòng.

                      Sóng xanh bao lấy thuyền rồng,

                      Cúi mình hái cọng cỏ thần linh chi.

                      Lạc Hà lại nhớ Mật Phi,

                      Tương Nga Hán nữ sầu bi đoạn trường !

          

        Sau Khổng Dung, Tào Phi, Tào Thực, những người có thành tựu trong Lục Ngôn Thi thì đời Ngụy có Kê Khang, Tây Tấn có Phó Huyền, Lục Cơ; Đông Tấn có Dưu thiền, Nam Triều có Tạ Hối, Lương Giản Văn Đế; Bắc Chu có Vương Bao, Dữu Tín... Đến đời Lương, Trần của Nam Bắc Triều thì Lục Ngôn Thi đã phát triển khá hoàn chỉnh với 6 câu 3 vần gián cách như bài "Mạo Tuyết Thi 貌雪詩"(thơ Tuyết) của Lương Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống 梁昭明太子蕭統 như sau :

 

                   既同摽梅英散,   Ký đồng phiếu mai anh tán,

                   複似太谷花飛。   Phục tự thái cốc hoa phi.

                   密如公超所起,   Mật như công siêu sở khởi,

                   皎如淵客所揮。   Giảo như uyên khách sở huy.

                   無羡昆岩列素,   Vô tiện côn nham liệt tố,

                   豈匹振鷺群歸。   Khỉ thất chấn lộ quần quy.

     Có nghĩa :

                     Trông như cánh mai rơi rụng,

                     lại tựa Thái cốc hoa bay.

                     Nhặt tựa muối rây khắp chốn,

                     Trắng như vực thẳm thác bày.

                     Côn nham chập chùng đá trắng,

                     Lối về cò trắng cùng bay !

            

                                              

       Kịp đến đời Đường thì Lục Ngôn Thi cùng với Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi cùng phát triển và hoàn chỉnh song song với nhau, nhưng quan trường cũng như quần chúng chỉ chú trong vào Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Thi mà thôi, nên Lục Ngôn Thi bị lép vế, nhưng không vì thế mà bị quên lãng, hầu hết những thi nhân nổi tiếng của buổi Thịnh Đường đều có Lục Ngôn Thi, như bài "Điền Viên Lạc" của Thi Phật Vương Duy ở đầu bài viết nầy. Bây giờ thì ta cùng đọc bốn bài Lục Ngôn Thi của Thi Tiên Lý Bạch tả cảnh của bốn mùa Xuạn, Hạ, Thu, Đông nhé!

 

                    《春景》           XUÂN CẢNH

                  門對鹤溪流水,  Môn đối hạc khê lưu thủy,

                  雲連雁宕仙家。  Vân liên nhạn đãng tiên gia.

                  誰解幽人幽意,  Thùy giải u nhân u ý,

                  惯看山鳥山花。  Quán khan sơn điểu sơn hoa.

                           李白                        Lý Bạch

      Có nghĩa :

                     Cửa đối suối trong khe hạc,

                     Mây liền đàn nhạn bay xa.

                     Ai biết người nhàn ý tản,

                     Ngắm quen chim núi cùng hoa.

                    

 

                   《夏景》               HẠ CẢNH

                  竹簟高人睡覺,   Trúc điệm cao nhân thụy giác,

                  水亭野客狂登。   Thủy đình dã khách cuồng đăng.

                  窗外熏風燕語,   Song ngoại huân phong yến ngữ,

                  庭前綠樹蟬鳴。   Đình tiền lục thọ thiền minh.

                          李白                            Lý Bạch

      Có nghĩa :

                     Đệm trúc cao nhân an giấc,

                     Nhà sàn khách lạ lăng xăng.

                     Ngoài song gió đưa én liệng,

                     Trước sân cây rậm ve ngâm.

 

                     

 

                     《秋景》            THU CẢNH

                   昨夜西風忽轉,   Tạc dạ tây phong hốt chuyển,

                   驚看雁度平林。   Kinh khan nhạn độ bình lâm.

                   詩興正當幽寂,   Thi hứng chánh đang u tịch,

                   推敲韵落寒帧。   Thôi xao vận lạc hàn tranh.

                           李白                           Lý Bạch

      Có nghĩa :

                     Đêm qua gió tây chợt nổi, 

                     Giật mình nhạn vượt bình lâm.

                     Thi hứng lúc đang hiu hắt,

                     Đẽo gọt vần rơi mất tăm !                 

 

                     《冬景》

                   凍笔新詩懒寫,   Đống bút tân thi lãn tả,

                   寒爐美酒時温。   Hàn lô mỹ tửu thời ôn.

                   醉看梅花月白,   Túy khán mai hoa nguyệt bạch,

                   恍疑雪落前村。   Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn !

                                 李白                                 Lý Bạch

      Có nghĩa :

                       Thơ xong bút se biếng tả,

                       Rượu ngon lò lạnh khó ôn.

                       Say nhìn hoa mai trăng tỏ,

                       Giật mình ngỡ tuyết ngoài thôn !

 

                    

       Ta thấy kỹ thuật làm thơ đã điêu luyện, bằng trắc phân minh, đối xứng nghiêm cẩn, ý thơ cao vút không thua gì ngũ ngôn và thất ngôn thi chút nào cả ! Ta hãy đọc thêm một bài "Lục Ngôn Luật Thi" 《Cách Hán Giang Ký Tử An 隔漢江寄子安》của Ngư Huyền Cơ 魚玄機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân đời Đường"  sau đây sẽ rõ : 

        

                    江南江北愁望,   Giang nam giang bắc sầu vọng,

                    相思相憶空吟。   Tương tư tương ức không ngâm.

                    鴛鴦暖卧沙浦,   Uyên ương noãn ngọa sa phố,

                    砠矦閑飛桔林。   Thư hầu nhàn phi cát lâm.

                    烟里歌聲隱隱,   Yên lý ca thanh ẩn ẩn,

                    渡頭月色沉沉。   Độ đầu nguyệt sắc trầm trầm.

                    含情咫尺千里,   Hàm tình chỉ xích thiên lý,

                    况聽家家遠砧。   Huống thính gia gia viễn châm.

      Có nghĩa :

                        Buồn trông giang bắc giang nam,

                        Thương nhau nhớ lắm âm thầm ngâm nga.

                        Uyên ương ấm áp noãn nà,

                        Côn trùng chấp chới bay ra sau vườn.

                        Tiếng ca văng vẳng khói sương,

                        Bóng trăng bến vắng vấn vương một mình.

                        Dặm ngàn gang tất hàm tình,

                        Lại nghe tiếng giặt xập xình xa xa. 

 

                     

 

       Bài thơ với đầy đủ "mạo, thực, luận, kết" bố cục của một bài Luật Thi, hai cặp Thực và Luận đối nhau chan chát, cách luật nghiêm cẩn, trắc bằng đúng phép không khác gì một bài ngũ ngôn hay thất ngôn luật thi cả. 

 

        Không phải chỉ riêng Ngư Huyền Cơ, Vương Duy và Lý Bạch, mà Vương Xương Linh,Đỗ Mục, Sầm Tham... đều có làm thơ 6 chữ cả ! Theo thống kê của quyển "Toàn Đường Thi 《全唐诗》" thì trong đó có tất cả 75 bài thơ 6 chữ và Lục Ngôn Thi thẳng tiến đến đời Tống, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Lục Du, Tần Quan... đều cũng có lục ngôn thi. Trong quyển "Thiên Thủ Tống Nhân Tuyệt cú 千首宋人绝句" thì có đến 98 bài là thơ 6 chữ (chiếm tỉ lệ 1/10 của thi tập). Xuyên suốt qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh và mãi cho đến hiện nay, Lục Ngôn Thi vẫn luôn luôn tồn tại một cách âm thầm nhưng tích cực bên cạnh các hào quang rực rỡ của Ngũ Ngôn và Thất ngôn Thi nhưng không hề tàn lụi bao giờ.

 

       Để kết thúc bài viết nầy, kính mời tất cả cùng đọc một bài lục ngôn dưới hình thức của một bài từ rất độc đáo "Thiên Tịnh Sa 天淨沙 Thu Tứ 秋思" của Mã Trí Viễn 馬致遠 đời nhà Nguyên :

                        

                  枯藤老樹昏鴉,    Khô đằng lão thọ hôn nha,

                  小橋流水人家,    Tiểu kiều lưu thủy nhân gia,

                  古道西風瘦馬。    Cổ đạo tây phong xú mã.

                  夕陽西下,          Tịch dương tây hạ,

                  斷腸人在天涯。    Đoạn trường nhân tại thiên nha !

      Có nghĩa :

                      Mây cằn cây cỗi qụa buồn,

                      Đìu hiu cầu nhỏ nước tuôn mấy nhà,

                      Đường xưa ngựa ốm gió qua,

                      Nắng chiều dần tắt...

                      Bên trời hiu hắt... người xa đoạn trường !

DCD_tho6chu_last.JPG

 Ta thấy, chẳng những "thi ca" có thơ 6 chữ mà cả "ca từ" cũng có những câu 6 chữ nữa !

 

      Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                     杜紹德

                                                                                 Đỗ Chiêu Đức

 

* PHỤ LỤC :

       Để cho mọi người rộng đường tham khảo, đính kèm theo đây là các "cách Luật" của thơ 6 chữ khi đã hoàn chỉnh ở đời Đường :

 

     六言詩的格律编辑 BIÊN TẬP VỀ CÁCH LUẬT CỦA LỤC NGÔN THI

 

* 平声韵 GIEO VẦN BẰNG :

 

《一》绝句押平声韵 Tuyệt cú gieo vần BẰNG :

   《A》六言绝句仄起首句不押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú không gieo vần ở câu đầu :

 

          T T B B T T, B B T T B B(Vần)(đối xứng) 

          仄仄平平仄仄,平平仄仄平平 (韵). (对仗)

          平平仄仄平仄,仄仄平平仄平 (韵). (Bốn câu Hai vần)

 

   《B》六言绝句仄起首句押韵格式 Lục ngôn tuyệt cú gieo vần ở câu đầu:

 

         T T B B T B(vần), B B T T B B(vần).

         仄仄平平仄平 (韵),平平仄仄平平 (韵)。

         平平仄仄平仄,     仄仄平平仄平 (韵)。(Bốn câu Ba vần)

     

         Trên đây là Lục Ngôn Tuyệt Cú bắt đầu bằng "thanh TRẮC". Tương tự, nếu bắt đầu câu một bằng "thanh BẰNG" thì sẽ như sau đây :

 

  《C》六言绝句平起首句不押韵格式:

 

         平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵)。(对仗)

         仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(韵)。(4 câu 2 vần)

 

  《D》六言绝句平起首句押韵格式:

 

         平平仄仄平平(韵),仄仄平平仄平(韵)。

         仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平(韵)。(4 câu 3 vần)

 

 

《二》律诗押平声韵 LUẬT THI GIEO VẦN BẰNG 

 

    《A》六言律诗平起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh BẰNG và gieo vần ở cuối câu 1 :

               B B T T B B(vần),T T B B T B(vần)

               平平仄仄平平(韵), 仄仄平平仄平 (韵).

               仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平 (韵).(对仗 đối xứng)

               平平仄仄平仄,    仄仄平平仄平 (韵).(对仗 đối xứng)

               仄仄平平仄仄,    平平仄仄平平 (韵).(8 câu 5 vần)

 

    《B》六言律诗仄起首句押韵格式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh TRẮC và gieo vần ở cuối câu 1 ::

               仄仄平平仄平(韵),平平仄仄平平(韵).

               平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵).(对仗)

               仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(韵).(对仗)

               平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵).(8 câu 5 vần)

 

* 仄声韵 GIEO VẦN TRẮC :

     Tất cả đều giống như trên, chỉ đổi thanh BẰNG thành thanh TRẮC mà thôi.

 

  《一》绝句押仄声韵 Lục Ngôn Tuyệt Cú gieo vần TRẮC :

 

      《A》六言绝句平起式:

               平平仄仄平仄(韵),仄仄平平仄仄(韵).

               仄仄平平仄平,平平仄仄平仄(韵).

      《B》六言绝句仄起式:

               仄仄平平仄仄(韵),平平仄仄平仄(韵).

               平平仄仄平平,仄仄平平仄仄(韵).

                                       (Tất cả đều cùng 4 câu 3 vần)

 《二》律诗押仄声韵 LUẬT THI VẦN TRẮC

     《A》六言律诗平起式:(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh BẰNG)

 

               B B T T B T(vần), T T B B T T(vần)

               平平仄仄平仄(韵),  仄仄平平仄仄(韵).

               仄仄平平仄平,     平平仄仄平仄(韵).(对仗 đối xứng)

               平平仄仄平平,     仄仄平平仄仄(韵).(对仗 đối xứng)

               仄仄平平仄平,     平平仄仄平仄(韵).(8 câu 5 vần TRẮC)

 

    《B》六言律诗仄起式 :(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh TRẮC)

 

               仄仄平平仄仄(韵),平平仄仄平仄(韵).

               平平仄仄平平,   仄仄平平仄仄(韵).(对仗)

               仄仄平平仄平,   平平仄仄平仄(韵).(对仗)

               平平仄仄平平,   仄仄平平仄仄(韵).

 

      Nhìn chung, tất cả Cách Luật của Lục Ngôn Thi đều giống như là Ngũ Ngôn và Thất Ngôn vậy !

                                                   Đỗ Chiêu Đức

_____________________________________________

 THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH:  

                                                   NĂM

DCD_Nam.png

                                              NĂM MÂY bỗng thấy chiếu trời,

                                                       Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.

 

         NĂM MÂY là mây ngũ sắc, Mây có 5 màu thật đẹp, còn gọi là Tường Vân 祥雲, là mây lành, chỉ xuất hiện khi có thần thánh tiên phật hiện ra mà thôi. Còn NĂM MÂY trong câu thơ trên là chỉ mây ngũ sắc vây quanh lấy hình con rồng đang bay lượn được in trên "chiếu trời" là chiếu chỉ của thiên tử, là con của trời, chính là  nhà vua ngày xưa, ban bố  xuống cho quần thần nhân dân. Như hai câu thơ trên đầu đề :

 

                                  NĂM MÂY bỗng thấy chiếu trời,

                              Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.

 

      Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, bài "Lại vịnh Hán Cao Tổ" của vua Lê Thánh Tông đã mở đầu bằng hai câu :

 

                               Một mình khi ẩn núi Mang, Đường,

                               NĂM THỨC MÂY CHE điềm đế vương.

 

      NĂM THỨC MÂY CHE là do tích bà Lã Trĩ (vợ của Lưu Bang) nói với chồng: "Sở dĩ thiếp tìm đến được chỗ đang ở của chàng vì thiếp thấy có mây ngũ sắc ở trên trời chiếu rọi che chỡ cho nơi đó".

DCD_namthucmay.png

Còn trong bài TƯ DUNG VÃN của cụ Đào Duy Từ thì lại gọi là NGŨ VÂN, như trong hai câu thơ sau đây :

 

                                Phật đình nào khác vương đình,

                          NGŨ VÂN tán lớn, cảnh tinh thoại tường.

 

          Nhắc đến số 5, thì không thể quên NĂM ĐẤU GẠO, còn nói đến năm đấu gạo thì không thể không nhắc đến "Ngũ Đấu Mễ Tiên Sinh" là Đào Tiềm.

          Đào Tiềm 陶潛 (365-427) tự là Uyên Minh 淵明, người đất Sài Tang, Tầm Dương, nay thuộc thành phố Cửu Giang. Ông là một ẩn sĩ cao nhã đời Đông Tấn, từng làm huyện lệnh huyện Bành Trạch, nên còn được gọi là Đào Lệnh hay Đào Bành Trạch. Vì không chịu mỗi kỳ phải vận áo mão chỉnh tề để lòn cúi nghênh tiếp viên Đốc Bưu, để mỗi tháng nhận lãnh 5 đấu gạo lương thực, nên ông từ quan về ở ẩn, vì thế người đời còn gọi ông là "Ngũ Đấu Mễ Tiên Sinh 五斗米先生"(Tiên sinh 5 đấu gạo). 

        Trong truyện thơ Nôm viết theo một câu truyện trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ là "Tứ Thức gặp Tiên" có câu :

 

                                        Vẻ chi NĂM ĐẤU GẠO vàng,

                                    Uốn lưng co gối cho càng tổn hơi.

 

                              

 

         Sau NĂM ĐẤU GẠO, ta có NĂM ĐỨC, tức là 5 đức tính tốt của người quân tử ngày xưa theo quan niệm của Nho gia, 5 đức tính đó còn gọi là Ngũ Thường 五常, tức là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí Tín 仁、義、禮、智、信 . Còn theo sách Hàn Thi Ngoại Truyện 韓詩外傳 của Hàn Anh 韓嬰 đời Hán có ghi chép lại như sau : Con gà trống gồm đủ NĂM ĐỨC : Văn, Võ, Dũng, Nhân, Tín. Này nhé, tướng mạo oai vệ của con gà trống trên đầu có Kê quan 雞冠 là cái Mào gà, Quan 冠 là cái mào đồng âm với Quan 官là quan quyền. Nên cái Mào gà tượng trưng cho cái Mão của quan VĂN. Dưới hai chân gà đều có hai cựa như là hai mũi thương dùng để chiến đấu, tượng trưng cho VÕ quan. Khi gặp đối thủ thì gà lại sẵn sàng xông tới chiến đấu đến cùng, tượng trưng cho tinh thần DŨNG cảm. Khi tìm được thức ăn, gà trống luôn luôn kêu gọi bầy đàn đến để cùng ăn, chớ không ăn một mình , đó là lòng NHÂN hậu. Cuối cùng, gà trống luôn luôn gáy báo thức đúng giờ, không sai hẹn bao giờ, đó là hữu TÍN. Trong tác phẩm thơ Nôm "Lục Súc Tranh Công" con gà cũng đã tự hào về NĂM ĐỨC tính tốt nầy của mình như sau :

 

                                Này này! gà ngũ đức thẳm sâu:

                                Nhân, dũng, tín, võ, văn, gồm đủ.

                                Trên đầu đội văn quan một mũ;

                                Dưới chân đeo hai cựa thần thương...

 

       Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập bài thơ vịnh "CON GÀ" của vua Lê Thánh Tông đã mở đầu bằg hai câu :

 

                                Họ Chu từ thuở dưỡng nên thân, 

                                NĂM ĐỨC gồm no : trí dũng nhân...

 

                                

 

           Như trên đã nhắc, Ngũ Thường 五常, tức là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín 仁、義、禮、智、信  trong sách Luận Ngữ của đạo Nho, trong tiếng Nôm còn được gọi là NĂM HẰNG. Theo phần giải thích trong《Thượng Thư. Thái Thệ Hạ 尚書·泰誓下》thì "Ngũ Thường còn gọi là Ngũ Điển 五典" với câu : Phụ nghĩa 父義、Mẫu từ 母慈、Huynh hữu 兄友、Đệ cung 弟恭、Tử hiếu 子孝。Có nghĩa : "Cha thì phải có cái nghĩa lớn, Mẹ thì phải có lòng từ ái, Anh thì phải có tình thân hữu đối với em, Em thì phải có lòng kính trọng đối với anh, và Con cái thì phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ". 

      Trong văn học cổ của ta gọi TAM CƯƠNG NGŨ THƯỜNG là NĂM HẰNG BA MỐI, như trong bài thơ TƯ DUNG VÃN  của cụ Đào Duy Từ có câu :

 

                                                NĂM HẰNG BA MỐI làm đầu,

                                         Cội tùng nhành bách mặc dầu đông tây.

 

              Còn trong Phật giáo thì có NĂM MANG, mà NĂM MANG tức  là Ngũ Uẩn 五蕴 trong đạo Phật, đó chính là : Sắc Uẩn 色蘊、Thụ Uẩn 受蘊、Tưởng Uẩn 想蘊、Hành Uẩn 行蘊 và Thức Uẩn 識蘊.  SẮC là Hình Tướng, THỤ là Thị Dục,  TƯỞNG là Ý Niệm, HÀNH là Nghiệp duyên và THỨC là Tâm Linh. Tất cả chúng sinh đều do Ngũ Uẩn tích tụ lại mà thành. Trong tác phẩm SÃI VÃI của cụ Nguyễn Cư Trinh  khi cho  ông Sãi luận về chữ tu gần cuối bài có câu :  

 

                                 ... Bờ giác ngạn dễ đà đặng lại,

                                     Bởi thất tình còn hỡi NĂM MANG.

                                     Việc cổ kim chi xiết luận bàn,

                                     Lời phẫn uất trút ra tiêu khiển !

DCD_Saivai.png

 Về mặt địa danh thì có NĂM HỒ, chữ Nho là NGŨ HỒ 五湖, là năm hồ nước lớn nhất của Trung Hoa, đó là Động Đình Hồ, Ba Dương Hồ, Thái Hồ, Sào Hồ, Hồng Trạch Hồ 洞庭湖、鄱阳湖、太湖、巢湖、洪泽湖. Nhưng trong văn học cổ, theo sách "Sử ký" ghi chép lại thì Ngũ Hồ ngày xưa là tên riêng của THÁI HỒ ở giữa hai tỉnh Giang Tô và Chiết Giang. Vào thời Xuân Thu thì Thái Hồ là ranh giới thiên nhiên giữa 2 nước Việt và Ngô; nơi mà sau khi đã hoàn thành Mỹ nhân kế, nước Ngô bị tiêu diệt, thì mưu thần Phạm Lãi đã đưa nàng Tây Thi xinh đẹp đến nơi đây để rong chơi rồi biệt tích luôn ở nơi nầy. Trong truyện Nôm HOA TIÊN KÝ của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện cũng có nhắc đến nơi đây :

 

                                   Buôn nan khói tỏa NĂM HỒ,

                             Lâm tâm bờ cỏ sông Ô khắp đường.

 

     Sau Năm Hồ ta có NĂM XE, chữ Nho là Ngũ Xa 五車, là do thành ngữ Học Phú Ngũ Xa 學富五車 (Học vấn giàu đến Năm Xe) nói gọn lại mà thành. Theo chương Thiên Hạ trong sách Trng Tử《莊子.天下》có câu :Huệ Thi đa phương, kỳ thư ngũ xa 惠施多方,其書五車。Có nghĩa : Huệ Thi (là một nhà tư tưởng thời Chiến Quốc) có nhiều phương pháp giải quyết công việc, sách của ông ta học có thể chứa đầy NĂM XE. Nên trong văn học cổ lấy NĂM XE để chỉ học vấn uyên bác, biết nhiều hiểu rộng, như trong bài "Hàn Vương Tôn Phú" của Đặng Trần Thường, một công thần ở đầu đời nhà Nguyễn, khi ở trong tù đã ví mình như là Hàn Tín ngày xưa. Trong bài phú trên, đoạn mở đầu có câu :

 

                           Kinh sử NĂM XE chứa chất, ngang trời dọc đất ấy kinh luân;

                           Tôn Ngô bảy quyển làu thông, đè sóng xông mây là chí khí.

           

                         
 

      NĂM XE là chỉ kiến thức ở trong lòng, còn cái gì đó đang ở trong lòng thì gọi là NĂM TRONG, chữ Nho là Ngũ Nội 五內, giới Đông y thì gọi là Ngũ Tạng 五臟, tức là Can Tâm Tì Phế Thận 肝、心、脾、肺、腎. Trong văn học cổ thì NĂM TRONG là chỉ lòng dạ, chỉ tấm lòng, như trong truyện Nôm Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

 

                                  Một lời để tạc NĂM TRONG,

                         Lan phòng nào biết văn phòng khát khao.  

 

      Về nghi thức để cưới vợ ở các nhà giàu có khi xưa thì có Lục Lễ. Theo sách LỄ KÝ và NGHI LỄ《禮記》和《儀禮》khi xưa. Đó chính là : Nạp thái, Vấn danh, Nạp các, Nạp trưng, Thỉnh kỳ và Nghinh thân 納采、問名、納吉、納徵、請期 和 迎親. NẠP THÁI là bà mai đại diện nhà trai đến dạm hỏi coi mắt cô dâu. VẤN DANH là trao đổi bát tự, ngày tháng năm sinh giữa hai bên . NẠP CÁT  là nhà trai tặng lễ vật để định ngày đám nói, đính hôn . NẠP TRƯNG còn gọi là Nạp Sính là ngày đám nói trao sính lễ . THỈNH KỲ là Ngày nhà trai mang lễ vật qua nhà gái để cho biết ngày Nghinh Thân rước dâu . NGHINH THÂN là ngày đám cưới rước dâu. Sau khi đã hoàn tất xong NĂM LỄ đầu thì chỉ còn lễ cuối là Nghinh Thân (Rước dâu) như trong truyện Nôm Quan Âm Thị Kính :

 

                                   Cá đi nhạn lại tin bay,

                           Đủ NĂM LỄ đã đến ngày thừa long.

 

       Cuối cùng ta có NĂM PHÚC, chữ Nho là NGŨ PHÚC 五福, là 5 cái PHƯỚC mà ai cũng mong mõi để có được. Vậy Ngũ Phúc là gì  ?...

       Xuất xứ từ chương Hồng Phạm của Kinh Thư《書經·洪範》là : "Nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang Ninh, tứ viết Du Hảo Đức, ngũ viết Khảo Chung Mệnh 一曰壽、二曰富、三曰康寧、四曰攸好德、五曰考終命。Có nghĩa : "Một là Sống Thọ, Hai là Giàu Sang, Ba là Mạnh Khỏe, Bốn là Có tiếng Tốt, Năm là Chết An Lành". Nói gọn lại NGŨ PHÚC là : Danh, Lợi, Thọ, Kiện, Thiện Chung 名、利、壽、健、善終。NĂM điều mà sống ở trên đời nầy ai ai cũng mong mõi để có được ! Hằng năm cứ vào dịp Tết Nguyên Đán là người xưa (và cả người nay nữa) thường viết câu NGŨ PHÚC LÂM MÔN 五福臨門 để treo ở trước cửa nhà để cầu mong cho NĂM PHÚC sẽ đến với gia đình. Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập cũng có câu :

 

                              Hội lành đã gặp gồm NĂM PHÚC,

                              Trỏ non Nam, chúc thánh quân.

DCD_NamPhuc.png

I'

 Hẹn bài viết tới!

 

                                                                                                 杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 72:  

 

                                             

DCD_Mua.JPG

Trong văn học cổ và trong dân gian ta ngày xưa, HẠT MƯA được ví như thân phận của người con gái mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, với các câu ca dao được truyền tụng rộng rãi trong dân gian như :

 

                                      Thân em như Hạt Mưa sa,

                                Hạt vào đài các, hạt ra ruộng đồng.

      hoặc như :

                                      Thân em như Hạt Mưa rào,

                               Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa.                              

 

       Cả hai câu ca dao trên đều nói lên thân phận của người con gái sướng hay khổ gì đều trông chờ vào sự rủi may, mà bản thân mình không thể chọn lựa được. "Hạt Mưa sá nghĩ phận hèn", đã là thân con gái như Hạt Mưa rồi, thì còn quản gì được đến sang hay hèn nữa, nên chi Thúy Kiều không thể tiếc nuối cuộc tình duyên của mình với Kim Trọng, khi gia đạo gặp cơn nguy biến, mà  đành lòng với số phận may rủi của mình, nên mới hạ quyết tâm "Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân" để bán mình chuộc tội cho cha.

 

       Còn nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì may mắn hơn với thân phận HẠT MƯA của mình :

 

                                HẠT MƯA đã lọt miền đài các,

                          Những mừng thầm cá nước duyên may.

 

      Trong Văn học cổ, ta còn thấy từ MƯA HOA, tức VŨ HOA 雨花 chỉ mưa xuống toàn là hoa, theo tích sau đây :

     Theo truyền thuyết, vào thời Nam Bắc Triều có Lương Võ Đế là chúa của Nam triều rất hâm mộ đạo phât. Có cao tăng hiệu là Vân Quang Pháp Sư thường xuyên thuyết giảng Phật pháp trên Thạch Tử Cương ở Nam Kinh, chúng tăng lữ trên 500 người ngồi tọa thiền nghe giảng 3 bửa không tan. Phật Tổ chứng cho lòng thành đã cho một rừng hoa Mạn-đà-la rơi xuống như mưa. Những mưa hoa rơi xuống đều biến thành đá ngũ sắc lóng lánh rất đẹp, gọi là Ngũ Thái Thạch 五彩石, người đời sau gọi là Vũ Hoa Thạch 雨花石, nơi giảng kinh tức là Vũ Hoa Đài 雨花臺, một thắng cảnh nổi tiếng của TP Nam Kinh 南京 thuộc tỉnh Giang Tô hiện nay.

 

      Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Quan Âm Thị Kính của ta có câu :

 

                            MƯA HOA rẩy khắp bên mình,

                       Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

 

     Ngoài MƯA HOA ta còn có MƯA MÓC, tức VŨ LỘ 雨露 chỉ hạt Mưa và hạt Móc (nhỏ hơn hạt mưa, rơi đọng lại trên hoa lá thành hạt Sương). Có xuất xứ từ sách Lễ Ký.Tế Nghĩa 《禮記.祭義》như sau :

     Hạt mưa và hạt móc đều rất cần thiết cho cây cỏ lá hoa sinh tồn và phát triển, nên thường dùng để ví với ân tình của kẻ bề trên ban cho người bên dưới; gọi là Ơn Vũ Lộ hay là Ơn Mưa Móc, như trong bài thơ "Tống Lý Thiếu Phủ biếm Hiệp trung Vương Thiếu Phủ biếm Trường sa" của Cao Thích đời Đường là :

 

                  聖代即今多雨露,  Thánh đại tức kim đa VŨ LỘ,

                  暫時分手莫躊躇。  Tạm thời phân thủ mạc trù trừ.

     Có nghĩa :

                     Thánh chúa đường thời nhiều MƯA MÓC,

                     Chia tay tạm biệt chớ chần chừ

Trong bài thơ "Tự Thuật bài 2 - Hội Gió Mây" của cụ Nguyễn Công Trứ - 阮公著 có hai câu Thực như sau :

 

                       Ðã từng tắm gội ơn MƯA MÓC,

                       Cũng đã xênh xang hội gió mây.

 

     Trong "Tụng Tây Hồ Phú" của Nguyễn Huy Lượng dưới thời Tây Sơn- Hậu Lê cũng có câu : 

 

                       Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, 

                       giọt VŨ LỘ tưới đôi hàng uyên lộ.

 

     Sau MƯA MÓC ta còn có MƯA MÂY, hay còn gọi là MÂY MƯA, chữ nho là VÂN VŨ 雲雨. Có mưa là có mây, không có mây thì không thể nào có mưa được. Có xuất xứ như sau :

 

     Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến cùng ân ái, khi chia tay còn nói là "Đản vi triêu vân, mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨" (Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều). Theo quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa : Mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến "Mây mưa ân ái giữa trai gái với nhau" mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ 高唐神女 là người ta nghĩ ngay đến một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến kéo MÂY làm MƯA, hay nói gọn thành MÂY MƯA, là người ta lại nghĩ ngay đến việc ái ân trai gái. Như cô Kiều đã ngăn Kim Trọng lại trong đêm gặp gỡ khi "Sóng tình dường đã xiêu xiêu",  mà kể lể rằng :

 

                            Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

                       Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.

                            MÂY MƯA đánh đổ đá vàng,

                     Quá chìu nên đã chán chường yến anh...     

 

                         


       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Còn trong Truyện Nôm Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì có câu :

 

                          Dương Đài rày sẵn MƯA MÂY,

                      Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.

 

       Không nói MƯA MÂY thì đôi khi nói thành MƯA GIÓ, như khi tả Thúy Kiều thất thân cùng Mã Giám Sinh, cụ Nguyễn Du đã viết rằng :

 

                            Một cơn MƯA GIÓ nặng nề,

                      Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương !

 

       Hoặc để nói cho đối xứng theo các biện pháp tu từ học của Trung Hoa là MƯA SỞ MÂY TẦN, như khi tả cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu xanh :

 

                             Mặc người MƯA SỞ MÂY TẦN,

                         Nhưng mình nào biết có xuân là gì !...

 

       Về nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì với sắc đẹp hấp dẫn, quyến rủ, gợi tình đến nỗi :

 

                               Bóng gương lấp ló trong mành,

                           Cỏ cây cũng muốn nổi tình MÂY MƯA !

       

    ... và khi đã được vua yêu rồi thì lại cảm thấy rất hạnh phúc và an phận :

 

                               MÂY MƯA mấy giọt chung tình,

                        Đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn.

 

                          

 

     

Nhưng ngày vui qua mau và chóng tàn, nàng cung nữ chỉ sống bằng hoài niệm và rầu rĩ khát khao mơ màng đến những phút giây ân ái khi xưa :     

 

                               Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục,

                           Chốn phòng không như giục MÂY MƯA.

                               Giấc chiêm bao những đêm xưa,

                           GIỌT MƯA cửu hạn còn mơ đến rày...

 

        Hẹn bài viết tới.

 

                                                                                              杜紹德

                                                                                         Đỗ Chiêu Đức

DCD_Cao đường thần nữ.JPG
DCD_Cung oán ngâm khúc.JPG

NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ TIỀN CHIẾN

DCD_hoa_thotienchien.JPG

                                                       Tôi muốn tắt nắng đi,

                                                       Cho màu đừng nhạt mất,

                                                       Tôi muốn buộc gió lại,

                                                       Cho hương đừng bay đi !

                                                                                     Xuân Diệu

 

        NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ TIỀN CHIẾN là chỉ nói cho "xôm tụ", cho vui thôi, chẳng lẽ đọc Thơ Đường mãi, thay đổi không khí, ta đọc thơ Thời Tiền Chiến nhé. Nhưng nói là đọc thơ Thời Tiền Chiến cho oai thôi, chớ chỉ điểm qua vài bài có vẻ Xuân và hoa Đào hoa Mai của Nguyễn Bính và Jean Leiba mà thôi !

 

       Nào, bạn đã thấy Xuân về như thế nào chưa ? Nếu chưa, hãy nghe Nguyễn Bính nói đây :

 

                              Đã thấy xuân về với gió đông,

                              Với trên màu má gái chưa chồng.

                              Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm,

                              Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong !

                        

       Gợi cảm và làm xao xuyến rạo rực lòng người biết bao với "Gió đông, với màu má gái chưa chồng, và với đôi mắt trong của nàng thiếu nữ !", Mùa xuân như hiển hiện ở màu má màu mắt của cô Xuân nữ tràn đầy nhựa sống của lứa tuổi hoa niên. Mùa xuân mang lại sức sống mới cho tuổi trẻ, mùa xuân cũng mang lại những kỷ niệm khó quên của tuổi xuân thì, khơi lại tình tự mộng mơ của quá khứ làm não nuột lòng người :

 

                                   Xuân đã đem mong nhớ trở về,

                                   Lòng cô lái ở bến sông kia.

                                   Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,

                                   Trên bến cùng ai đã hẹn thề !...

 

                                  Nhưng rồi ... Người khách tình quân ấy,

                                  Đi biệt chẳng về với nước sông,

                                  Đã mấy lần xuân trôi... trôi mãi ...

                                  Mấy lần cô lái mõi mòn trông !

                                                                 ( Cô Lái Đò )

            

       Não nùng thay, đáng thương thay cho tâm sự của "nàng xuân" trên bến nước ! Thơ Nguyễn Bính thường đi vào lòng ta bằng những hình ảnh thật nhẹ nhàng gợi cảm, tế nhị mà làm xao xuyến lòng người ! Ta hãy nghe ông ví von :

 

                                       Ai đi chắp lại cánh hoa rơi,

                                       Bắt bóng chim xa tận cuối trời.

                                       Có lẽ ngày mai đò ngược sớm,

                                       Thôi nàng ở lại để ... quên tôi !

                                                               ( Thôi Nàng Ở Lại )

 

       Rất nhẹ nhàng nhưng cũng có pha chút gì chua xót ! Chua xót như những cánh hoa đào rơi rụng :

 

                                      Hoa đào từng cánh rơi như tưới,

                                      Xuống mặt sân rêu những giọt buồn.

                                      Như mảnh tim tình tan vỡ ấy,

                                      Nhện già giăng mắc sợi tơ đơn !....

 

                      

      Cuối năm, đọc những câu thơ tình của Nguyễn Bính làm cho lòng ta  chùn xuống, xót cho từng cánh hoa đào rơi như những mảnh tim tình tan vỡ, khéo mà ví von làm thương cảm lòng người ! Sau này, khi lưu lạc vào Nam, lúc xuân về Tết đến, Nguyễn Bính vẫn khoắc khoải day dức băn khoăn tự nhủ : 

 

                                   Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ,
                                   Đào có hây hây ? Cúc có vàng ?
                                   Câu đối có còn ôm đỏ cột, 
                                   Nêu dài tiếng khánh có khua vang ?

 

  ... và não lòng người làm sao với :

 

                                  Em ra bến nước trông về Bắc
                                 Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng !

 

                            

                                     Chỉ thấy mây trôi chẳng thấy làng !

 

        Nguyễn Bính xưng " em " chắc có lẽ thi sĩ đang nhớ đến người chị mà tác giả thường hay nhắc trong thơ :

 

                         ... Cho đến một hôm em mới nhớ:
                            "Lòng người...." Chị Trúc nhớ hay quên?

                                                                   ( Khăn Hồng )

 

    ... Chị Trúc là chị TRÚC ĐƯỜNG, một người chị trong thơ, trong mơ, mà Nguyễn Bính không bao giờ với tới, cũng không dám với tới, chỉ nhớ, chỉ mơ rồi ... thơ thẩn, thế thôi ! Mà như thế lại nên thơ hơn, da diết hơn và gợi cảm mơ mộng hơn nhiều ! Và nhờ thế mà ta mới có được những vầng thơ tuyệt diệu của "Lỡ Bước Sang Ngang". Sau này khi lưu lạc giang hồ, trong "Xuân tha hương" và "Xuân vẫn tha hương", Nguyễn Bính đều gửi tâm sự về quê nhà, kể lể nỗi niềm cùng chị Trúc:

 

                                       Tết này chưa chắc em về được 
                                       Em gửi về đây một tấm lòng 
                                       Ôi chị một em, em một chị
                                      Trời làm xa cách mấy con sông ...

                 và ...

                                      Rượu say nhớ chị hồi con gái 
                                      Thương chị từ khi chị lấy chồng...

           Giờ đây thì ...

                                     Đêm ba mươi Tết quê người cũng 
                                     Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương 

                                       .................................


                                    Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ 
                                   Ôi nhà, ôi chị.. ôi quê hương !

 

        Khá thương thay tâm sự của kẻ tha hương và cũng ngạc nhiên thay, ngạc nhiên đến thú vị !... Ai đời nhớ quê hương, nhớ nhà lại đi kèm với "nhớ Chị", hẵn người Chị nầy phải vô cùng đặc biệt, đặc biệt đến trở thành ... tự nhiên trong thơ của Nguyễn Bính !

 

 

        Hoa Đào là biểu tượng cho hoa xuân ngoài Đất Bắc, còn hoa Mai là biểu tượng của hoa xuân Miền Nam. Ta thường nghe nói Đào Bắc Mai Nam, nhưng hoa mai lại thích ứng cả 2 miền Nam Bắc, ta đã từng biết qua  2 câu thơ của nhà sư Tề Kỷ ở cuối đời Đường đầu đời Tống là :

 

                            Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裡,

                            Tạc dạ sổ chi khai.            昨夜數枝開。

        Có nghĩa :

                            Đêm trước hôm qua trong tuyết lạnh,

                            Xóm trên lấm tấm mấy cành mai.

 

                  

 

      Bây giờ, thì ta hãy điểm qua bài thơ Mai Rụng của Jean Leiba thời Tiến Chiến nhé :

 

                              Nụ hồng rải lối, liễu tơ phai, 
                              Vườn cũ rêu lan, cỏ mọc dài, 
                              Bên gốc mai già, xuân vắng vẻ, 
                              Âu sầu thiếu nữ khóc hoa mai...

 

     " Thiếu nữ khóc hoa mai " như khóc cho thân phận của mình, khóc vì nuối tiếc cho ngày vui đã qua mau, nuối tiếc cho những ngày xuân mà tim hồng rộn rã, khi :

 

                              Tường đông, xuân ấy gặp tình lang, 
                              Chàng nhủ cùng em nỗi nhớ thương. 
                              Ngơ ngẩn em về, sầu chẳng mối: 
                              Ngây thơ, em mới biết yêu chàng.

 

       Ôi, đẹp biết bao khi lòng người xuân nữ vừa chớm hương yêu trong lứa tuổi xuân thì !... Nàng  e ngại thẹn thùng bắt đầu làm đẹp, làm dáng và thấy mùa xuân càng đẹp hơn lên khi con tim yêu đang lần đầu tiên rạo rực :

 

                             Yêu chàng, em cố chuốt hình dong, 
                             Tô cặp môi son, điểm má hồng. 
                             Em thấy xuân nay hoa nở đẹp, 
                             Cảm tình Thanh đế, tạ đông phong !

 

                     

      Hạnh phúc biết bao trong mùa xuân..." hoa nở đẹp ". Thực ra thì xuân nào mà hoa chẳng nở đẹp ?! Nhưng khi đang ngây ngất trong men yêu thì đâu có xuân nào đẹp hơn được nữa ! Nàng Cảm ơn Chúa Xuân, cảm ơn gió Xuân ( Cảm tình Thanh đế, tạ đông phong !), cảm ơn hết những gì mà mùa xuân mang đến ... Nhưng rồi, ngày vui qua mau, mùa xuân cũng chóng tàn, khi :

 

                             Hoa tặng vừa tàn bông thược dược, 
                            Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa...

 

   ... Và từ đó, cuối xuân sang hạ, hết thu lại đông, nàng sống trong âm thầm chờ đợi mõi mòn, mong ngóng bóng ai kia ở cuối nẽo chân trời ...  

 

                             Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu, 

                             Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau. 
                             Xuân tới cành đào hoa lại nở, 
                             Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu ?! 

 

       Ủ rủ não nề như người cô phụ trông chồng "Thẩn thờ trâm lệch lỏng vòng lưng eo" đến đổi không còn nhận ra mình trong gương nữa ...

 

                              Sầu đối gương loan, bóng lạ người, 
                              Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai? 
                              Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch, 
                              Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai !  

 

                            

 

      Qủa là thương cảm cho nàng thiếu nữ khi đã vuột khỏi tầm tay, đánh mất một tình yêu nồng thắm của tuổi xuân thì. Xuân chửa đi qua mà tình yêu đà biền biệt, nên mơ hồ nghi ngại là nàng xuân vẫn còn lẫn khuất đâu đây :

 

                             Xuân hết, đào phai, lý rụng rồi, 
                             Hoa đình tịch mịch vẻ xuân phai. 
                             Tơi bời ong bướm bay qua ngõ, 
                             Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.  

       

       Đọc những câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến 2 câu cuối trong bài XUÂN TÌNH của Vương Giá đời Đường :

 

                        蜂蝶紛紛過牆去,  Phong điệp phân phân qúa tường khứ,

                        卻疑春色在鄰家。  Khước nghi xuân sắc tại lân gia.

Có nghĩa :

                 Lũ lượt bướm ong bay hết qua tường hàng xóm, nên ...  

                 Ngờ rằng hương sắc của mùa xuân còn ở nhà kế bên !!!

 

                                 Vượt tường ong bướm xôn xao,

                             Ngờ rằng xuân sắc phía rào bên kia.

 

                        

                                    Tơi bời ong bướm bay qua ngõ, 
                                       Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.  

 

       Tình yêu bao giờ cũng là đề tài muôn thuở của nhân sinh, là đề tài không bao giờ cạn kiệt của văn nhân thi sĩ. Tình yêu mang lại sức sống yêu đời, tình yêu nhuộm hồng cuộc sống nhân sinh, mang lại sức sống vui tươi cho mọi lứa tuổi, mọi lứa đôi ... Nhưng tình yêu cũng mang lại sầu thương buồn thảm, đố kỵ ghét ghen, ưu phiền chán nản, làm nhục chí anh hùng, khiến cho bao người không còn thiết tha với cuộc sống, muốn buông xuôi tất cả như Jean Leiba lúc cuối đời, mặc dù ông chỉ mới có 29 tuổi đầu mà thôi :

 

                                Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá !

                                Lệ lòng mong cạn chốn am không.

                                Cửa thiền một đóng duyên trần dứt,

                                Quên hết người quen chốn bụi hồng !

 

       Xin được khép lại bài viết về mùa xuân nhưng không được vui như xuân nầy !

 

 

                                                                                                         Đỗ Chiêu Đức

____________________________

Phiếm luận:  

 

                           Tuổi Sửu Là Con Trâu Kềnh Kàng.

DCD_trau.png

                                       Tuổi Sửu là con trâu kềnh kàng,

                                             Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.

          

            Đó là hai câu trong bài vè nói về con trâu trong 12 con giáp của dân đồng bằng Nam Bộ quê tôi : Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền... Con trâu là cầm tinh của tuổi Sửu, ngôi thứ hai trong Thập Nhị Địa Chi. Trâu chữ Nho gọi là NGƯU 牛, mà Ngưu cũng là một trong 214 bộ của CHỮ NHO... DỄ HỌC, có diễn tiến chữ viết như sau:

DCD_trau_words.JPG

Ta thấy :

             Chữ NGƯU 牛 qua Giáp Cốt Văn là hình tượng của con trâu được vẽ từ mặt trước với cái đầu có 2 sừng, 2 tai và bộ mặt.  Đến Kim Văn, Đại Triên và Tiểu Triện thì hình tượng đầu trâu được thay thế bằng những nét tiêu biểu, cho đến Lệ Thư thì đã diễn biến thành như chữ viết hiện nay 牛 NGƯU là Trâu Bò nói chung. Vì Người Hoa còn phân biệt THỦY NGƯU 水牛 là con TRÂU (con trâu nước), nhưng HOÀNG NGƯU 黃牛 thì là con BÒ (con bò vàng).

 

           Năm 2021 là năm TÂN SỬU 辛丑. TÂN 辛 là ngôi thứ 8 trong Thập vị Thiên Can. Theo Dịch lý Ngũ hành Bát quái thì CANH TÂN ở hướng Tây, thuộc Kim là Vàng. SỬU 丑 là ngôi thứ 2 trong Thập nhị Địa chi, thuộc âm, cầm tinh con Trâu là Ngưu. Nên năm Tân Sửu là năm của con KIM NGƯU 金牛, là con Trâu bằng Vàng. Nhắc đến trâu vàng lại làm cho ta nhớ đến một câu chuyện thần thoại của Việt Nam ta trong thời nhà Lý. 

         KHÔNG LỘ thiền sư 空路禪師 (1016-1094) người phủ Hải Thanh, họ Dương, pháp hiệu là Minh Không, làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề đi tu, đắc đạo, có pháp thuật cao cường, có thể bay lên trên không, đi lướt trên mặt nước, bắt rồng cọp phải phủ phục...v.v... Đời Lý Thái Tông, năm Minh Đạo thứ nhất (1041), giúp nhà vua đánh Chiêm Thành. Năm Bính Thìn, đời Lý Nhân Tông, nhà vua bị bệnh hổ hoá. Lương y khắp nước chữa không khỏi. Sau cho sứ giả đến chùa mời nhà sư về và cuối cùng đã chữa khỏi bệnh cho nhà vua. Vua sắc phong làm Đại Pháp sư, kiêm Quốc Sư, cho lập đền thờ ở Thăng Long, gọi là đền Lý Quốc Sư.

DCD_Không lộ.JPG

Tương truyền sư Không Lộ chữa lành bệnh cho thái tử nhà Tống nên được yết kiến vua Tống. Vua Tống ban thưởng cho được vào kho để chọn lựa vàng hay đồng tùy thích, miễn là chỉ đựng đầy một túi vải. Khi vừa bước vào cửa, sư Không Lộ thấy một con trâu to lớn được đúc bằng vàng ròng đứng ngay trước cửa như để canh giữ kho châu báu. Sư bèn giở phép thần thông, lấy hơn phân nửa số đồng đen trong kho của vua Tống rồi ra bờ biển, thả chiếc nón tu xuống làm thuyền để chở về nước. Số đồng đen đó vừa đủ để đúc được một cái đại hồng chung to lớn.  

        Chuông đúc xong, được đặt trong chùa Trấn Võ. Sư Không Lộ bèn cầm chày dộng lên tiếng chuông đầu tiên. Tiếng chuông vang rất xa, rung động đến cả ngàn dặm sang tận đất Trung Hoa. Con trâu vàng ở kho tàng của vua Tống nghe tiếng chuông đồng, ngỡ là tiếng mẹ gọi, vì đồng đen là mẹ của vàng ròng, nên nó cất vó nghểnh sừng cong đuôi chạy miết về phía Nam để tìm mẹ. Tìm không gặp mẹ, cũng không nghe tiếng mẹ gọi, nó bực tức lồng lên, quần thảo cả một vùng khiến mặt đất sụt xuống, biến thành một hồ nước rộng lớn. Nhà sư Không Lộ bèn lăn chuông xuống hồ, chuông đồng rung vang một lần cuối cùng trước khi rơi xuống nước. Con trâu vàng theo đó cũng nhảy xuống hồ, biến mất theo chuông. Từ đó họ gọi hồ đó là hồ Kim Ngưu, cũng chính là hồ Tây ngày nay của ta đó.

        Sau khi sư Không Lộ thả chuông xuống hồ rồi thì còn có một huyền thoại nữa cho rằng: Từ rày về sau, trong dân chúng nếu ai sinh được 10 người con trai thì cha con lên hồ sẽ gọi được trâu vàng trở về. Một gia đình nọ sinh được 9 người con trai đã mừng thầm, lại gấp gáp nhận thêm một người con trai nuôi nữa cho đủ số mười người để kéo trâu vàng về nhà. Trâu vàng vừa lên khỏi mặt nước vào bờ thì dây thừng bị đứt, trâu vàng chui ngay vào hang ở gần đó. Nơi đó được nhân dân lập đền thờ gọi là đền Kim Ngưu.

DCD_đền kim ngưu.JPG

Đền KIM NGƯU bên bờ hồ KIM NGƯU (HỒ TÂY) là một biểu tượng tín ngưỡng thờ Trâu Vàng của nhân dân ta, có được một xuất xứ thần thoại nhưng lại rất đáng tự hào như thế. Cho nên trong bài thơ NƯỚC TÔi của Nguyễn Văn Cổn, một thi sĩ thời Tiền Chiến đã có một vế thơ như sau :

 

                           Mặt HỒ TÂY mông mênh mây nước,

                           Chuyện thần linh thuở trước đâu xa,

                           Chuông chùa Trấn Võ ngân nga,

                           Trâu vàng lìa đất Trung Hoa điên cuồng.

 

        Năm SỬU 丑 là năm con trâu, tháng SỬU là tháng Chạp (tháng 12 Âm lịch), ngày SỬU là ngày sau ngày Tý, giờ SỬU là từ 1:00 đến 3:00 Am(sáng), tức là vào khoảng Canh 4 tính theo giờ cổ điển. SỬU họp với TỴ, DẬU thành TỴ DẬU SỬU 巳酉丑 tam hạp. Khi con gà Dậu gáy sáng, thì con trâu Sửu phải thức dậy đi cày, hạp với nhau là đúng rồi. Hai con nầy đâu có "mắc mớ" gì tới con rắn TỴ ngoài lùm ngoài bụi đâu mà ông tổ Tử vi Trần Đoàn lại ghép vào "Tam Hạp". Có một thầy Tử vi giải thích là : "Con rắn TỴ nó khống chế và nuốt trọn con gà, lại có thể quấn chân con trâu không thể đi tới được, nên mới xếp nó đứng đầu". Lại càng vô lý hơn, vì như thế thì TỴ phải xung khắc với DẬU và SỬU mới đúng chớ ! Còn Tứ Hành Xung là THÌN TUẤT SỬU MÙI. Con trâu Sửu giành ăn cỏ với con dê Mùi, xung nhau là phải; Con chó Tuất tranh công với con trâu Sửu trong "Lục Súc Tranh Công", nên xung nhau cũng hiểu được, còn con rồng Thìn là con vật thần thoại bá vơ bay trên trời đâu có "ăn nhậu" gì tới con trâu Sửu đâu mà xung với khắc !? Chỉ lạm bàn những cái vô lý của khoa Tử Vi nghe chơi để bà con ta đừng có chết mê chết mệt vì Tử Vi nữa !

I'm a paragraph. Click here to add your own text and edit me. It's easy.

DCD_chăn trâu.JPG

 Nhân nhắc đến "Lục Súc Tranh Công", tác phẩm dân gian được học từ hồi Đệ Thất trong phần Cổ văn, ta hãy nghe anh cả trong Lục Súc, lớn xác nhất và cũng chiụ khó cày sâu cuốc bẫm nhất kể lể về công sức của mình đây :

 

                           Lóng canh gà vừa mới gáy tan,

                           Chủ đã gọi thằng chăn vội vã.

                            .......................

                           Chưa bao lâu thoắt đã rạng đông;

                           Vừa đến buổi cày bừa bua việc.

                            ........................

                           Trâu mệt đà thở dài, thở vắn,

                           Người còn hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.

                           Liệu vừa đứng bóng mới thôi,

                           Ðói hòa mệt, bước khôn dời bước.

 

                           Ai thong thả, trâu nào ben đặng ?

                           Trâu nhọc nhằn, ai dễ thế cho?

                           Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,

                           Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở.

 

                           Làm không kịp thở,

                           Ăn chẳng kịp nhai.

                           Tắm mưa, trải gió chi nài !

                           Ðạp tuyết, giày sương bao sá !

                  

          Thế mà khi chết thì người ta chẳng nhớ gì đến công ơn, lại còn ...

 

                          Người người đều bàn bạc với nhau:

                          Kẻ thì rằng : Tôi lãnh cái đầu,

                          Người lại nói : Phần tôi cái nọng.

 

         Chia thịt xong, lại còn lấy sừng làm lược, hoa tai, tù và, con cờ, cán dao, cán quạt ... Nên, nếu :

 

                           Trâu sống lại kiện nài với chủ :

                           Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ

                           Ơn Tề vương vô tội khiến tha

                           Tưởng chừng khi sức mọn tuổi già .....

                           

         Con trâu nhắc đến tích "Ơn Tề vương vô tội khiến tha" là : Tề Tuyên Vương thấy lính dắt trâu đi qua dưới thềm (đường hạ). Vương hỏi thì biết họ dắt trâu đi giết để lấy máu tô chuông mới đúc cho có tiếng vang xa, thấy con trâu có vẻ buồn bã, Vương bèn ra lệnh dùng máu dê để thay thế và tha cho trâu không giết.  Tích nầy ta còn gặp ở bài thơ "Vịnh Trâu Già" của Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến theo giai thoại lý thú  sau  đây :

 

      Năm 1902, vua Thành Thái ra Hà Nội khánh thành cầu Đu-Me ("Doumer":Cầu Long Biên hiện nay). Các bậc khoa bảng và các quan chức từ cấp tỉnh trở lên đều phải đến để bái yết. Nên cụ Nguyễn Khuyến cũng phải đến. Lần ấy đi cùng vua Thành Thái còn có cả vợ ông ta (hoàng hậu?) nữa. Bà này trước kia nếu không bị Nguyễn Hoan (con trai Nguyễn Khuyến) chê bỏ thì đã thành con dâu của Nguyễn Khuyến rồi. Sự thay bậc, đổi ngôi đã khiến Nguyễn Khuyến rất khó chịu. Lại thêm, chễm chệ bên Thành Thái còn có tên toàn quyền "Pôn Đu-Me"(Paul Doumer) nên cụ càng khó chịu hơn nữa. Bởi vậy, khi làm lễ ra mắt, Nguyễn Khuyến cứ lúng túng, chần chừ. Bị Thành Thái quở, Nguyễn Khuyến lấy lý do là mình già nua, tai nặng mắt mờ, nên cử chỉ chậm chạp để chống chế cho qua chuyện.

      Khi biết con người còm cõi, lụ khụ lù khù như con trâu già đang đứng trước mặt mình kia là Tam Nguyên Yên Đổ, một bậc khoa bảng đại khoa và là một nhà thơ lừng danh lúc bấy giờ, Thành Thái cũng đâm ra kính nể. Nhà vua bèn bắt ông ta phải làm một bài thơ với chủ đề “Vịnh Trâu Già” để tạ lỗi chểnh mảng. Đứng trầm ngâm suy nghĩ một lát cụ bèn đọc :

 

                     Một nắm xương khô, một nắm da, 

                     Bao nhiêu cái ách đã từng qua.

                     Đuôi cùn biếng vẫy, Điền Đan hoả,

                     Tai nặng buồn nghe Ninh Thích ca.

                     Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh,

                     Tối về chuồng quế thở nghi nga.

                     Có người toan giết tô chuông mới,

                     Ơn đức vua Tề lại được tha ! 

 

              

 

      Bài thơ qúa hay, lại sát đề. Tả con trâu già nhưng lại nói lên được hoàn cảnh của mình : ốm đau, còm cõi chỉ còn có "Một nắm xương khô, một nắm da" mà thôi, và đã từng qua biết bao nhiêu là "cái ách" nặng nề, đã chán nản hết mọi sự đời, từ việc binh cơ đến việc lắt léo trong quan trường đều không buồn nghe không buồn bàn tới nữa. Nên chi đã về quy ẩn rồi mà người ta còn toan giết " để tô chuông mới". Nhà vua có tha cho ta như vua Tề đã tha cho con trâu ngày xưa hay không ?

      Vua Thành Thái hiểu rõ dụng ý và rất tâm đắc với câu thơ cuối: “Ơn đức vua Tề lại được tha”. Ông ta đã ví mình "nhân đức như vua Tề" thì sao mình lại không tha cho ông ta được ? Chẳng những tha mà lại còn trọng thưởng nữa là đằng khác !

 

        Bài thơ trên còn có 2 điển tích nữa là ĐIỀN ĐAN HỎA 田單火 và NỊNH THÍCH CA 甯戚歌. Điền Đan Hỏa là Lửa của danh tướng Điền Đan, là 火牛陣 nổi tiếng thời Chiến Quốc của tướng Điền Đan nước Tề như sau :

        Theo Sử Ký Điền Đan Liệt Truyện : Đời Yên Chiêu Vương 燕昭王, thời Xuân Thu Chiến Quốc, tướng Yên là Nhạc Nghị 樂毅 đem binh đánh Tề. Tướng Tề là Điền Đan 田單 cố giữ thành Tức Mặc. Năm 279 trước Công Nguyên, Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan dùng kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp thay cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp không phòng bị, rồi đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu, đuôi trâu buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị nóng cắm đầu cắm cổ phóng về phía quân Yên, lại cho 5000 lính cảm tử, vẽ mặt vằn vện, ăn mặc màu mè viêm vúa như thiên thần, theo sau đoàn quân trâu xung phong giết tới. Quân Yên đại bại, Kỵ Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm lại hơn 70 thành đã bị mất. Nên câu " Đuôi cùn biếng vẫy, Điền Đan hoả". Ý của cụ Nguyễn Khuyến muốn nói là Mình đã già (như đuôi trâu đã cùn), nên không còn có thể động đến binh cơ mà lập nên công trận được nữa ! 

dcd_hỏa ngưu trận.JPG

Còn NINH THÍCH CA 甯戚歌 : Là bài "Bạch Thủy Ca 白水歌" của Ninh Thích nước Vệ. Theo sách Hoài Nam Tử, quyển 12, Đạo Ưng Huấn《淮南子》卷十二〈道應訓〉NINH THÍCH là người nước Vệ thời Xuân Thu Chiến Quốc rất có tài thao lược và kinh ban tế thế, ông làm nghề chăn trâu. Khi Tề Hoàn Công đi ngang qua, ông bèn gỏ vào sừng trâu mà ca bài ca thái bình đời nhà Thương là :"Hạo hạo bạch thủy, du du chi ngư, quân lai chiêu ngã, ngã tương an cư. Quốc gia vị lập, Tòng ngã yên như. 浩浩白水,鯈鯈之鱼。君来召我,我将安居. 國家未立, 從我焉如". Có nghĩa : 

                                    Cuồn cuộn nước sông,

                                    Cá lội xuôi dòng.

                                    Vua mà biết đến,

                                    Ta được an lòng.

                                    Nước nhà chưa ổn,

                                    Nên còn long đong !

 

      Tề Hoàn Công bèn cho Tướng quốc Quản Trọng đến hỏi chuyện và mời về. Năm 685 trước Công Nguyên, Ninh Thích được phong làm Đại Phu, ông đưa ra nhiều kế sách giúp Tề Hoàn Công ổn định nghiệp bá của mình. Sau "NINH THÍCH CA" dùng để chỉ những người tài chưa gặp thời muốn cầu lấy công danh. Nên câu "Tai nặng buồn nghe Ninh Thích ca". Ý của cụ Nguyễn Khuyến là mình đã già nua (như tai đã nặng đã lãng) nên không còn thiết đến hai chữ công danh nữa.

     

      Nhà thơ trào phúng HỌC LẠC (1842–1915) của xứ Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang ngày nay) cũng có bài thơ "Vịnh CON TRÂU" để châm biếm những người trí thức nửa mùa đương thời chạy theo làm trâu làm bò cho thực dân Pháp như sau :

 

                                Mài sừng cho lắm cũng là trâu,

                                Ngẫm lại mà coi thật lớn đầu.

                                Trong bụng lam nham ba lá sách.

                                Ngoài cằm lém đém một chòm râu.

                                Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,

                                Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu,

                                Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,

                                Năm dây đàn gẩy biết chi đâu.

 

      LÁ SÁCH "là Dạ Lá Sách", một trong bốn ngăn trong dạ dày của loài động vật nhai lại. Ở đây tác giả mượn để chỉ "Sách vở học thức", nên "Trong bụng lam nham ba lá sách" là chỉ "Học thức chẳng ra chi"; còn "Ngoài cằm lém đém một chòm râu"là chỉ râu ria lưa thưa không thành chòm, hàm ý "Tướng mạo cũng chẳng ra gì". Lại nhắc đến tích "Mắc mưu đốt đít" là "Hỏa ngưu trận" mà ta đã nhắc ở trên, cũng như "Làm lễ bôi chuông" là tích của vua Tề tha chết. Cuối cùng là mĩa mai với câu "Năm dây đàn gẩy biết chi đâu" phát xuất từ câu thành ngữ " ĐÀN GẢY TAI TRÂU, và câu thành ngữ nầy lại có xuất xứ từ câu chữ Nho là ĐỐI NGƯU ĐÀN CẦM 對牛彈琴, có nghĩa là "Gảy đàn trước mặt con trâu cho nó nghe" của Mâu Dung 牟融 một học giả đời Đông Hán 東漢 đã nói trong Lý Hoặc Luận《理惑論》để chỉ làm những việc vô ích, không cần thiết, không có tác dụng vì không đúng đối tượng. 

                                                                                           

        Trở lại câu thứ bảy của bài thơ trên "Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ". NGHÉ NGỌ là từ tượng thanh nhái tiếng kêu của con trâu, nhưng NGHÉ cũng là danh từ chỉ "Con trâu Con, con trâu còn nhỏ thì gọi là con NGHÉ". Đến đây, ta mới thấy sự phong phú và khó học của tiếng Việt Nam ta....

 

       Cũng cùng một chữ NGƯU 牛, tiếng Việt ta có tới 2 nghĩa, vừa là TRÂU, vừa là BÒ. Con TRÂU CON thì gọi là con NGHÉ; còn con BÒ CON thì gọi là con BÊ (Rắc rối nhỉ !). Trong khi chữ Nho chỉ có một từ duy nhất để gọi Tiểu Ngưu 小牛(trâu bò con) là ĐỘC 犢 mà thôi. Ta có thành ngữ LÃO NGƯU ĐỂ ĐỘC 老牛舐犢. Có nghĩa : Con TRÂU con BÒ già  liếm  con NGHÉ con BÊ con. Ý chỉ sự thương yêu âu yếm của cha mẹ đối với con cái. Thành ngữ nầy cũng có xuất xứ rất lý thú, cảm động và sâu sắc từ Hậu Hán Thư, Dương Bưu Truyện 後漢書·楊彪傳 như sau :

 

      Vào thời Tam Quốc, trong quân Tào Tháo 曹操 có môt mưu sĩ tên là Dương Tu 楊修 rất thông minh cơ trí. Tào Tháo cho giữ chức Chủ Bộ trong dinh. Có một lần Tào Tháo nhờ một nhóm thợ xây cho một vườn hoa. Khi đến để kiểm tra, Tháo không nói gì, chỉ lấy viết viết một chữ HOẠT 活 là SỐNG ở giữa khung cửa rồi bỏ đi. Nhóm thợ không hiểu là Thừa Tướng muốn nói gì. Thời may Dương Tu đi đến, thấy được, mới bảo với mọi người rằng : Thừa Tướng chê cửa vườn quá rộng, sửa hẹp lại một chút đi. Nhóm thợ nghe theo. Khi Tào Tháo đến, hỏi ai đã gợi ý, thì nhóm thợ thưa là mưu sĩ Dương Tu. Tháo lặng thinh không nói gì. Lại một lần, có người mang tặng Tào Tháo một hộp kẹo mạch nha sốp, Tháo cầm bút viết lên hộp hai chữ NHẤT HIỆP 一合, rồi để trên bàn ăn. Khi mọi người đến ăn cơm, thấy hộp kẹo để đó không biết ý gì, Dương Tu đến xem, mới bảo với mọi người rằng : Thừa Tướng ban cho mỗi người một miếng kẹo. Cả bọn liền lấy kẹo chia nhau để ăn. Khi Tào Tháo đến hỏi. Mọi người đều nói là quan Chủ Bộ bảo rằng Thừa Tướng đã ban cho mỗi người một miếng. Tào Tháo nghe xong, cũng chẳng nói gì nhưng trong bụng không vui. 

     Thì ra, chữ HOẠT 活 ghép với bộ MÔN 門 thì thành chữ KHOÁT 闊, có nghĩa  là RỘNG, nên Dương Tu mới bảo nhóm thợ sửa cửa cho hẹp lại. Còn 2 chữ NHẤT HIỆP 一合 chiết tự ra thì thành NHẤT NHÂN NHẤT KHẨU 一人一口, có nghĩa là : Mỗi người một khẩu phần (Từ NHẤT KHẨU khi là Lượng Từ còn có nghĩa là Một Miếng). Tào Tháo muốn khoe tài để làm oai trước mặt mọi người, muốn mọi người đều phải đến khẩn khoản để hỏi mình xem đó là ý gì. Không ngờ Dương Tu làm tài khôn hướt hết, nên đâm ra cụt hứng, vì thế mà trong bụng không vui.

     Lại một lần, Dương Tu theo Tào Tháo xuất chinh tiến đánh Hán Trung, lại gặp lúc trời mưa gió, khó thể công phá thành trì, bèn đóng quân lại để chờ thời cơ. Còn đang lo lắng, thì lại nhằm lúc Hạ Hầu Đôn đến để hỏi mật khẩu gát đêm tối nay. Đang ăn dở cái đùi gà, Tào Tháo bèn động lòng buột miệng nói :"KÊ CÂN! 雞肋!"(Gân Gà). Dương Tu đứng bên nghe thế, bèn đi nói với các tướng sĩ rằng :"Hãy chuẩn bị về thôi, Thừa Tướng sắp ban sư rồi !". Mọi người đang chán nản, nghe quan Chủ Bộ nói thế rất mừng, đều cùng lo thu xếp chuẩn bị hành trang. Đêm đó, Tào Tháo đi tuần, thấy các doanh trại quân lính đều chuẩn bị khăn gói gọn gàng, nên ngạc nhiên mới hỏi cho ra lẽ, mọi người đều nói là : Quan Chủ Bộ Dương Tu bảo rằng Thừa Tướng đang chuẩn bị ban sư, nên mọi người đều thu dọn để sẵn sàng lên đường". Tào Tháo nghe xong rất giận, cho là Dương Tu đã nhiễu loạn lòng quân trong lúc hành quân, nên lôi ra pháp trường xử trảm ! Thì ra, "KÊ CÂN! 雞肋!"là Gân gà. Thực chi vô vị, khí chi khả tích  食之無味,棄之可惜。Gậm trong miệng thì dai nhách, không có mùi vị gì cả, kéo ra nhìn thì như còn có thể ăn được. Bỏ đi thì uổng, mà nuốt thì nuốt không vô. Như tình hình hiện nay với thời tiết khắc nghiệt, đánh thì đánh không được, mà bỏ đi thì cũng mất mặt. Còn ở lại đóng quân trường kỳ thì cũng thất sách, chỉ còn có nước về mà thôi ! Nên Dương Tu mới đoán là "Thừa Tướng sắp ban sư là thế." Tào Tháo giận vì Dương Tu nhiễu loạn lòng quân thì ít, mà đố kỵ vì việc gì mình nghĩ ở trong lòng Dương Tu đều đoán biết cả thì nhiều! Nên chém Dương Tu cho hả giận là vì thế !

       Sau khi Dương Tu chết, cha là Dương Bưu 楊彪 vì thương nhớ con cho nên ngày càng tiều tụy võ vàng. Tào Tháo trông thấy bèn hỏi :"Sao độ rày trông ông ốm yếu gầy còm thế ?" Dương Bưu đáp rằng :"Tôi thẹn vì không khuyên bảo được con, và buồn vì LÃO NGƯU ĐỂ ĐỘC 老牛舐犢 (Trâu già thương nhớ nghé con!). Tào Tháo nghe xong, rất lấy làm cảm động và cũng rất hối hận vì trong một phút nóng giận đã giết đi một nhân tài trẻ tuổi ở dưới trướng của mình.

 

                          

 

      Đây cũng là một bài học cho những người trẻ tuổi thường hay vì sự thông minh và tài giỏi mà hợm mình. Ngựa non háu đá thì cũng dễ chuốc họa vào thân ! Còn...

 

        Đối với trâu bò thì ta có thành ngữ "Nghé Mới Sinh Không Sợ Hổ", có gốc chữ Nho là " SƠ SINH CHI ĐỘC BẤT PHẠ HỔ 初生之犢不怕虎". Thành ngữ này có xuất xứ từ chương Tri Bắc Du của Trang Tử 莊子·知北遊 với ý : Nghé con mới sinh chưa biết sự lợi hại của hổ nên không sợ hổ, đồng thời cũng hàm ý là tuổi trẻ với một bầu nhiệt huyết, nên thường tự tin vào khả năng hay tài năng của mình mà không biết kiêng nể ai cả ! Ý nầy được minh họa bằng câu chuyện "Quan Vân Trường trảm Bàng Đức 關雲長斬龐德" sau đây :

 

       Cuối đời Đông Hán, Lưu Bị chiếm được Hán Trung trong tay Tào Tháo, rồi xưng vương và lập nên nước Thục Hán. Bị lại lệnh cho Quan Vân Trường đem binh đánh lấy Tương Dương và tiến đánh Phàn Thành. Bộ tướng của Tào Tháo là Tào Nhân đại bại, giữ chặc lấy Phàn Thành. Tào Tháo phái đại tướng Vu Cấm đem quân nam chinh với tiên phong là mãnh tướng trẻ Bàng Đức đến Phàn Thành để cứu viện.       

      Bàng Đức cho quân khiêng sẵn một cái quan tài đến trước Phàn Thành, với lòng quyết tử chiến đến cùng; rồi diệu võ dương oai kêu đích danh Quan Vân Trường ra quyết chiến. Hai người đánh với nhau hơn trăm hiệp, bất phân thắng bại. Khi trở về doanh trại, Quan Vân Trường nói với Quan Bình rằng : "Bàng Đức đao pháp tinh thông, không hổ là một mãnh tướng trẻ của quân Tào". Quan Bình đáp lại rằng :"Bàng Đức là tướng trẻ, như con nghé con đang hăng máu, đâu có biết sợ cọp là gì, cứ liều mình đánh tới. Cha có đánh thắng được, thì chẳng qua cũng chỉ giết được một tên tướng trẻ vô danh mà thôi, còn như nếu lở thua thì sẽ làm hỏng hết sự nghiệp mà bá phụ đã phó thác, nên cha không thể khinh địch được". Quan Vân Trường thấy con nói có lý bèn nghe theo. 

       Lúc bấy giờ đang là mùa thu, mưa thu rả rít tràn ngập cả dòng Hán Thủy. Quân Ngụy lại đóng quân ở hạ lưu trong lòng thung lũng. Quan Vân Trường bèn cho xả đập trên thượng lưu dòng Hán Thủy. Nước lũ đổ xuống làm tràn ngập quân dinh của quân Ngụy. Vu Cấm và Bàng Đức đều bị bắt sống. Vu Cấm xin hàng, còn Bàng Đức thì vẫn quật cường đứng thẳng không qùy, lại còn mở miệng mắng lớn khi Quan Vân Trường khuyên nhủ đầu hàng. Qủa là "Nghé con không biết hổ là gì!". Quan Vân Trường khuyên hàng không xong bèn chém Bàng Đức thị uy.

 

                                                             

       Ta thấy, Tuổi trẻ thường tin tưởng vào khả năng và bầu nhiệt huyết của mình, nên không biết sợ trời cao đất dày gì cả ! Không biết cân nhắc khi nào nên co khi nào nên thẳng, lúc nào nên cương, lúc nào phải nhu, nên rất dễ làm lở vở công việc và bản thân dễ phải gánh chịu thiệt thòi, lắm khi còn làm mất cả mạng nữa là đằng khác. Tuổi trẻ vô tri, vì vô tri nên vô úy; vì không biết nên không sợ, và chính cái "Không Sợ" nầy dễ dẫn đến thất bại và họa sát thân.

       

     Về thành ngữ HOA-VIỆT có liên quan đến TRÂU, ngoài ĐÀN GẢY TAI TRÂU và NGHÉ CON KHÔNG SỢ HỔ ra ta còn có :

 

    * ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA có gốc chữ Nho là NGƯU ĐẦU MÃ DIỆN 牛頭馬面. Theo kinh Pháp Hoa Đầu Trâu vốn là Câu Hồn Sứ Giả chuyên đi bắt hồn người chết. Khi truyền sang Trung Hoa do phép trọng đối xứng của người Hoa nên mới có thêm một Mặt Ngưa nữa cho ... đủ cặp. Mặc dù theo Phật Giáo Mật Tông cũng có một Mã Diện Minh Vương, nhưng đó lại là một Bồ Tát, mà lại là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát nữa, khác xa với Mã Diện là câu hồn xứ giả dưới âm tào địa phủ. Trong tiếng Việt Nam ta, ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA được dùng để chỉ những tay sai hung ác của quan quyền hoặc ác bá cường hào địa phương, chuyên hà hiếp, xách nhiễu, bóc lột dân lành, như cụ Nguyễn Du đã miêu tả trong Truyện Kiều :

 

                          Người nách thước, kẻ tay đao,

                      ĐẦU TRÂU MẶT NGỰA ào ào như xôi.

dcd_đầu trâu mặt ngựa.JPG

 * GIẾT GÀ SAO PHẢI DÙNG ĐẾN DAO MỔ TRÂU. Đây là câu ngạn ngữ có gốc chữ Nho là "Sát Kê Yên Dụng Ngưu Đao 殺雞焉用牛刀". Chỉ làm việc gì đó chỉ nhỏ nhoi mà phải dùng đến một lực lượng lớn để thi hành. Câu ngạn ngữ nầy có xuất xứ từ chương Dương Hóa của sách Luận Ngữ 論語·陽貨 và theo sách Trọng Ni Đệ Tử Liệt Truyện 史記·仲尼弟子列傳 như sau : 

     Cuối đời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử là Tử Du làm Huyện Lệnh ở Võ Thành Huyện của nước Lổ. Có một lần, Khổng Tử đến Võ Thành, nghe được tiếng ca tiếng nhạc của dân chúng, bèn cười mà nói với Tử Du rằng :"Cai trị một huyện nhỏ nhoi như thế nầy, vốn không cần phải dùng tới lễ nhạc. Ví như giết gà thì sao phải dùng đến dao mổ trâu chứ ?!" Tử Du đáp rằng :"Trước kia thầy đã từng dạy là: Người quân tử học lễ nhạc thì dễ thân cận gần gũi hơn; còn kẻ tiểu nhân học lễ nhạc thì sẽ dễ khu sử sai bảo hơn. Con đã làm theo lời thầy đã dạy, sao nay thầy lại nói thế ?!". Khổng Tử đuối lý, bèn cười mà trớ rằng :" Lúc nảy ta chỉ nói chơi mà thôi !". Thế mới biết "Thánh nhân cũng có khi ngớ ngẩn chớ chẳng riêng gì người thường!" 

 

      Câu thành ngữ trên còn có thể mói gọn lại thành "MỔ GÀ DÙNG DAO TRÂU" hay "DÙNG DAO TRÂU MỔ GÀ" như các báo trong nước đưa tin : Mấy năm trước đây Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng đã đích thân đi càn quét xe quá tải ở Hà Tĩnh và Huế. Nhưng khi ông vào thị sát các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long thì lập tức xe quá tải rầm rộ lao ra đường ở Huế và Hà Tĩnh. Song, ông vừa quay ra Huế thì ở đồng bằng sông Cửu Long lại xuất hiện xe 70 tấn qua cầu 25 tấn... Nhiều người góp ý với bộ trưởng, chuyện dẹp xe quá tải là việc của mấy anh thanh tra giao thông, cùng lắm là mấy ông cấp vụ, cấp sở. Ai đời lại lấy DAO MỔ TRÂU ĐI GIẾT GÀ ! Tầm cở của Bộ trưởng là phải làm những việc lớn lao hơn là chuyện đi rình rập để  dẹp những xe quá tải chứ.

       Tương đương với câu thành ngữ trên còn có câu "NGƯU ĐỈNH PHANH KÊ 牛鼎烹雞", có nghĩa : Dùng cái vạc nấu trâu bò để luộc gà, cũng cùng một nghĩa với "Dùng dao trâu để mổ gà" để chỉ "Thân phận lớn mà làm việc nhỏ hay làm việc nhỏ mà giàng giá lớn không tương xứng.

                                                                 

       Ngoài ra, ta còn có một ngạn ngữ nữa của người Hoa mà gần đây mới du nhập vào văn học của ta qua đường tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là "NINH VI KÊ KHẨU, VÔ VI NGƯU HẬU 寧為雞口,無為牛后". Có nghĩa : "Thà làm mỏ gà chớ không làm đít trâu". Ý là : Mỏ gà tuy nhỏ nhưng sạch sẽ, đít trâu tuy lớn nhưng là nơi dơ dáy; Thà làm nhỏ mà đứng đầu, còn hơn làm lớn mà phải chiụ lép đứng sau lưng người khác. Thành ngữ nầy cũng có xuất xứ từ Chiến Quốc sách thời Xuân Thu như sau :

 

      Tô Tần là Tướng quốc của nước Sở đi du thuyết nước Hàn trình bày kế "Hợp Tung" để chống lại nước Tần. Thấy Hàn Chiêu Hầu còn do dự, Tô Tần bèn phân tích rằng : Nước Hàn đất rộng ngàn dặm, giáp binh mấy chục vạn, là nước sản xuất cung nỏ nhiều nhất hiện nay... Nếu nay không chịu hợp Tung với sáu nước khác để chống lại nước Tần, mà đi theo phò Tần, thì chẳng những bị thiên hạ cười chê mà còn bị nước Tần ức chế, nay đòi cái này, mai bắt phải cống cái khác... cam tâm làm nước phiên thuộc cho Tần mà không dám tự chủ việc gì cả. Thần nghe có câu tục ngữ "Thà làm mỏ gà chứ không thèm làm đít trâu" Nay vương hầu thần phục nước Tần thì khác nào bỏ đi cái mỏ gà sạch sẽ bén nhọn của mình mà cam tâm làm cái đít trâu to lớn nhưng lại xú uế vô cùng. Tôi thật lấy làm lo lắng cho vương hầu đó !". Hàn Chiêu Hầu nghe xong, vô cùng cảm khái, chống kiếm đứng lên ngước mặt lên trời nói to rằng :"Ta thề dù có chết cũng không bao giờ chịu quy phục nước Tần!". Chỉ một câu nói khéo, Tô Tần đã thuyết phục được thêm một đồng minh mạnh cho kế sách "Hợp Tung" của mình trong việc chống lại nước Tần hung hãn.

 

        Còn một con NGƯU nữa mà đồng bào Hoa Việt, bình dân hay trí thức gì đều biết đến cả, đó chính là NGƯU LANG 牛郎 và CHỨC NỮ 織女.         

        Ngưu Lang Chức Nữ 牛郎織女, còn có tên gọi khác trong tiếng Việt Nam ta là Ông Ngâu Bà Ngâu, là Vợ Chồng Ngâu, nước mắt hạnh phúc đoàn viên của họ khi khóc, rơi xuống trần gian thì gọi là Mưa Ngâu, đó là một câu chuyện tình trong cổ tích dân gian rất nổi tiếng, có xuất xứ từ thời Trung Hoa cổ đại. Theo chương Đại Đông, thiên Tiểu Nhã của Kinh Thi《詩經‧小雅‧大東》thì Ngưu Lang Chức Nữ là hai vì sao trên trời nằm ở hai bên Thiên Hà (Ngân Hà) với lời thơ dân gian như sau :

 

                維天有漢,監亦有光。 Duy thiên hữu hán, Giám diệc hữu quang.

                跂彼織女,終日七襄。 Kì bỉ Chức Nữ, Chung nhật thất tương.

                雖則七襄,不成報章。 Tuy tắc thất tương, Bất thành báo chương.

                睆彼牽牛,不以服箱。 Hoản bỉ khiên ngưu, Bất dĩ phục sương.

 Có nghĩa :

                       Sông Ngân lắp lánh trên cao,

                  Như gương soi sáng các sao trên trời.

                       Kìa sao Chức Nữ đổi dời,

                  Đêm ngày bảy bận không thôi di chuyền.

                       Bảy bận dời đổi liên miên,

                  Cũng không dệt được chút duyên thắm nồng.

                       Sao Ngưu tròn trịa bên sông,

                  Cũng chẳng ra đồng, cũng chẳng kéo xe ! 

 

                      

      Câu chuyện tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ được phổ biến từ thời nhà Hán qua lễ Thất Tịch, đêm mùng bảy tháng bảy âm lịch, và theo dòng chảy văn hóa câu chuyện này lan qua các nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam ta. Do sự phổ biến rộng rãi và có tính văn hóa cao, nên Ngưu Lang Chức Nữ trở thành một trong Tứ đại cổ tích dân gian theo truyền thuyết của Trung Hoa, bên cạnh Bạch Xà Truyện 白蛇傳 (còn gọi là Thanh Xa Bạch Xà), Mạnh Khương Nữ 孟姜女 (Người khóc đổ Trường Thành) và Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài 梁山伯 - 祝英台.

 

      Truyện cổ tích này có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang, còn gọi là Khiên Ngưu (Altair), hai sao nằm ở hai bờ đông tây của dải Ngân Hà (Galaxy) và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy âm lịch ở Việt Nam, ở Trung Quốc gọi là lễ Thất Tịch. Đêm Thất Tịch là đêm Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau, nên trai gái ngày xưa hay ước hẹn trong đêm nầy, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc :

 

                                Chữ đồng lấy đấy làm ghi,

                        Mượn điều THẤT TỊCH mà thề bách niên.

 

      Ướt át hơn là chuyện tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Qúy Phi mà nhà thơ Bạch Cư Dị đã viết trong Trường Hận Ca là :

 

                  七月七日長生殿,  Thất nguyệt thât nhật Trường Sinh Điện,

                  夜半無人私語時。  Dạ bán vô nhân tư ngữ thì.

                  在天願作比翼鳥,  Tại thiên nguyện tác tỉ dực điểu,

                  在地願爲連理枝。  Tại địa nguyện vi liên lý chi.

   Có nghĩa :

                  Mùng bảy tháng bảy điện Trùng Sinh,

                  Vắng người thỏ thẻ lúc đêm thanh.

                  Trên trời nguyện làm chim liền cánh,

                  Dưới đất cây cành nhánh liền nhau !

 

      Vì là chuyện tình yêu đã được truyền tụng lâu đời trong dân gian, chớ đôi lứa yêu nhau của thời buổi nầy, đâu có cặp đôi nào ước được như Ngưu Lang Chức Nữ đâu : Mỗi đứa ở mỗi bên của một bờ sông và chỉ gặp nhau mỗi năm có một lần.  Có mà điên mới ước ao được như thế !

 

                     

       Còn một điều rất lý thú là, có một câu thành ngữ toàn chữ Nho mà người Hoa không biết, chỉ có người Việt Nam ta mới thường sử dụng nó mà thôi. Đó là câu NGƯU TẦM NGƯU, MÃ TẦM MÃ 牛尋牛,馬尋馬。Có nghĩa : Trâu tìm trâu, Ngựa tìm ngựa; Ý nói : Người của tầng lớp giai cấp nào thì chạy theo tầng lớp giai cấp đó ! Người tốt thì theo về với người tốt, còn người xấu thì về hùa theo người xấu. Như những người "cuồng Trump" thì chạy theo để phò Trump, cho dù Trump có ngang ngược như "Ngưu Ma Vương" thì họ vẫn "Tầm Trump" để đội lên đầu như thường; còn những người bình thường thì vẫn cứ sống theo lẽ sống công bằng bình dị của người dân bình thường mà thôi ! 

 

       Nhân nhắc đến Ngưu Ma Vương lại nhớ đến những khẩu ngữ của dân Nam Bộ quê tui. Hễ đứa nào ăn nói mạnh bạo, cử chỉ ngang tàng, đến đi sồng sộc như... trâu, thì đều bị mắng là :"Đồ cái thằng Ngưu Ma Vương !". Anh nào vai u thịt bắp, sức vóc mạnh mẽ, thì được khen là "Thằng đó trông mạnh mẽ như con Trâu Cui". Anh nào chịu khó khắc khổ thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa làm việc bất kể giờ giấc gì cả, thì được gắn cho cái huy chương "Cực Như Trâu!". Những đứa bé ngoan cố, không nghe lời dạy bảo, thì bị mắng là "Thứ cái đồ Lổ Tai Trâu!", còn cứng đầu cứng cổ, đánh cũng không khóc, thì lại bị mắng là "Đồ Da Trâu!"... Vừa tốt vừa xấu, vừa ưu vừa khuyết, hình ảnh con trâu mấy ngàn năm qua đã rất gần gũi với nếp sống và sinh hoạt của nông dân nông thôn một cách thân thương như một thành viên không thể thiếu của đại gia đình nông nghiệp.

      Trở lại với đời sống dân gian của một xã hội nông nghiệp như Việt Nam ta từ ngàn xưa đến nay, thì cái hình ảnh tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất, lý tưởng nhất mà cũng hạnh phúc nhất không gì hơn :

 

                               Trên đồng cạn dưới đồng sâu,

                            Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

dcd_trên đồng cạn.JPG

  Hay là những lời ca dao thân thương giữa người và trâu như đôi bạn khắng khít không thể xa rời nhau trong đời sống lao động nông thôn :

 

                                   Trâu ơi ! Ta bảo trâu này !    

                            Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

                                  Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

                              Ta đây trâu đấy ai mà quản công !

 

       Sự cần mẫn của người nông dân còn được thể hiện qua những lời nhắn nhủ con trâu, nhưng cũng là để tự nhắn nhủ với mình :

 

                                  Trâu ơi ta bảo trâu này,

                           Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu.

                                  Ở đời khôn khéo chi đâu,

                          Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ CẦN.

 

      CẦN 勤 là siêng năng, cần mẫn. Ông bà ta dạy : Đại phú do thiên, Tiểu phú do cần  大富由天,小富由勤。Có nghĩa : Làm giàu lớn là do trời, còn làm giàu nhỏ là do ta biết cần kiệm. Con TRÂU là hình ảnh tiêu biểu cho sự siêng năng cần kiệm : Suốt ngày suốt buổi cứ nín thinh mà kéo cày, đói thì chỉ gặm ba cọng cỏ khô, thỉnh thoảng được thả ngoài đồng mới có cỏ non để gặm, thế mà còn bị người đời mai mĩa :"Trâu già thích gặm cỏ non !". 

      Thói thường thì "cỏ non" phải để dành cho mấy "con nghé" như câu ca dao :

 

                                    Em như ngọn cỏ phất phơ,

                            Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng.

 

      Nhưng những cỏ non mọc hoang dại của cánh đồng hàng xóm trông mơn mởn vẫn cứ hấp dẫn những con trâu già mon men tìm đến để đến nỗi bị cảnh báo :

 

                                   Trâu ta ăn cỏ đồng ta,

                           Tham chi cỏ lạ ăn qua đồng người !?

 

                 

      Người cũng như trâu, thay vì nói "ta về ta tắm ao ta", với con trâu thì cứ "Trâu ta ăn cỏ đồng ta" như lời khuyên nhủ :

 

                                   Trâu ta ăn cỏ đồng ta,

                      Tham non chuộng lạ dắt qua đồng người

                               Đồng người cỏ tốt nhưng hôi,

                        Đồng ta cỏ xấu nhưng ... bùi ... trâu ăn.

 

      Hình ảnh "Con trâu cày ruộng" còn được ví von như chuyện vợ chồng trai gái với nhau qua những câu ca dao lấp lửng :

 

                                Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa,

                         Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.

 

      Hay so sánh một cách thực tế trắng trợn và lộ liễu hơn :

 

                                Của chua ai thấy cũng thèm,

                          Em cho chị mượn chồng em vài ngày.

 

                             - Chồng em đâu phải trâu cày,

                           Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm !

 

                

     Nhớ khi xưa còn ở ấp Yên Thượng của xứ "Cái Răng, Ba Láng , Vàm Xáng, Phong Điền..." Một hôm, gặp ông Sáu Quản Lý ở đầu làng, ông vổ vai tôi hỏi thăm, vì biết tôi mới cưới vợ chẳng bao lâu :"Sao con ?! Vợ chồng cơm ngon canh ngọt chớ ? Ráng mà ăn ở cho khéo, không thôi ông già vợ mầy "lấy lại miếng ruộng" là sẽ "hết đất để cày" đó nghen con !"

    Mong rằng các bạn trẻ đều ráng cố gắng phấn đấu cho tốt để giữ cho được "miếng ruộng" của mình để mà ... cày. Mong lắm thay ! 

 

    Xin được kết thúc bài phiếm luận về "Tuổi Sửu là con trâu kềnh kàng" ở đây. Cầu mong cho tất cả mọi người đều được VUI VẺ MẠNH KHỎE, "Đi Cày" để tiếp tay vực dậy nền kinh tế đang suy trầm vì Covid -19  trong năm TÂN SỬU 2021 nầy ! 

 

 杜紹德

 Đỗ Chiêu Đức

______________________________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH:  

 

                               MÂY   

DCD_Mây.png

                                           Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

                                    MÂY thua nước tóc, tuyết nhường màu da.   

 

          MÂY thua nước tóc, có nghĩa là Mây cũng không mềm mại bồng bềnh và đẹp như tóc của Thúy Vân và Thúy Kiều. Mây bay ở trên trời với muôn hình vạn trạng, lã lướt bồng bềnh, trôi nổi mềm mại lan tỏa khắp bầu trời và đẹp như... MÂY ! Nên mái tóc đẹp của người đẹp thường được gọi là TÓC MÂY, như đêm Kim Trọng và Thúy Kiều cùng thề nguyền hẹn ước, cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                                      Tiên thề cùng thảo một chương,

                                   TÓC MÂY một món dao vàng chia đôi .

      

       Cái búi tóc trên đầu của các người đẹp, còn gọi là Vân Kế 雲髻, Vân Mấn 雲鬢, như trong Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị tả lúc Dương Qúy Phi tiếp sứ giả của Đường Minh Hoàng:             

 

                      雲髻半偏新睡覺,  Vân kế bán thiên tân thụy giác,             

                      花冠不整下堂來.    Hoa quan bất chỉnh hạ đường lai.

Có nghĩa:             

                TÓC MÂY nghiêng lệch vừa tan mộng,              

                Hoa miện nghiêng chao bước xuống giường.  

DCD_TocMay.png

 TÓC MÂY dã dượi cũng là một nét hấp dẫn của người đẹp !        

 

     Khi mới tấn cung, mới được nhà vua yêu dấu, thì Dương Quý Phi đã đủng đỉnh nũng nịu làm dáng với:         

                         雲鬢花顏金步搖      Vân Mấn hoa nhan kim bộ diêu

Có nghĩa: 

                                 Tóc mai mặt ngọc lắc lư gót hài ...  

     

              Tóc mai buông xõa như mây khi mới tắm xong với nét mặt  đẹp như hoa và cành trâm vàng "kim bộ diêu" lắc lư trên mái tóc.

 

        Trong văn học cổ, Mây Xanh là Thanh Vân 青雲. THANH VÂN ngày xưa vốn dùng để chỉ những người quân tử đức cao vọng trọng có chí hướng cao vút tận mây xanh !. Sau mới dùng để chỉ những người hiển đạt làm quan, và  vì thế mà người xưa ví với việc thi đậu Tiến sĩ, Trạng Nguyên là Nhẹ bước Thanh Vân, là lên tận mây xanh rồi đó. Nên ta lại có các thành ngữ như: Thanh Vân Đắc Chí 青雲得志, hay Bình Bộ Thanh Vân 平步青雲, mà trong tiếng Nôm ta gọi là Nhẹ Bước Thang Mây, hay nói như cụ Nguyễn Công Trứ trong bài Chí Làm Trai là:      

 

                          ĐƯỜNG MÂY rộng thênh thang cử bộ,                

                          Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo.

                            

     Hay như cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều khi viết tiếp “Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày” để diễn tả Kim Trọng và Vương Quan thi đậu cùng khoa là:             

 

                               Cửa trời rộng mở ĐƯỜNG MÂY,             

                        Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. 

 

Và cụ thể hơn là tâm trạng rất có hậu của Kim Trọng khi thi đậu là nhớ ngay đến nàng Kiều:          

 

                              Kim từ nhẹ bước THANH VÂN             

                       Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.

  

       THANH VÂN không chỉ chỉ thi đậu, mà còn chỉ chung cho tất cả bá quan văn võ khi đạt đến đỉnh hiển vinh, như khi cô Kiều khuyên Từ Hải quy hàng, vì : “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”, nếu Từ Hải chịu quy thuận triều đình vẫn hơn suốt đời làm một loạn tướng :          

 

                             Bằng nay chịu tiếng vương thần,            

                      Thênh thang đường cái THANH VÂN hẹp gì !

                         

       Hơn cả sự hiển vinh của các quan viên, vượt lên trên cao ngất ngưỡng là MÂY RỒNG, là Rồng Mây gặp hội. Như khi mới gặp Từ Hải, biết Từ là người anh hùng có chí lớn "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Thúy Kiều đã nói nịnh một câu rất đắc sách là :

 

                             Thưa rằng : Lượng cả bao dong,

                       Tấn Dương được thấy MÂY RỒNG có phen !

 

      Tấn Dương là nơi Đường Cao Tổ khởi binh dựng nên cơ nghiệp của nhà Đường. Ý Thúy Kiều muốn nói là có một ngày nào đó Từ Hải sẽ lập nên nghiệp đế như Đường Cao Tổ vậy, làm cho Từ Hải sướng quá chừng chừng, mới nói với Thúy Kiều là :"Một lời đã biết đến ta, muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau !".

 

         Trong ca dao dân gian Việt nam ta thì có những câu :

 

                                Trên trời có đám MÂY XANH,

                      Ở giữa MÂY TRẮNG chung quanh MÂY VÀNG...                       

 

        Mây Vàng là HOÀNG VÂN 黃雲 chỉ xuất hiện sau những cơn mưa lón hoặc tuyết lớn, lúc trời quang mây tạnh, do sự phản chiếu của ánh nắng mặt trời hắt ngược từ mặt đất trở lên, nên mây trên trời mang màu vàng cả một vùng rộng lớn như bài thơ Biệt Đổng Đại của Cao Thích đời Đường:

 

                 千里黃雲白日曛,  Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân,

                 北風吹雁雪紛紛。  Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.    

                 莫愁前路無知己,  Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,           

                 天下誰人不識君。  Thiên hạ hà nhân bất thức quân.

Có nghĩa :

                     Ngàn dặm MÂY VÀNG nắng úa hanh,               

                     Tuyết rơi gió cuốn nhạn bay nhanh               

                     Đừng sầu trước mặt không tri kỷ,               

                     Thiên hạ ai người chả biết anh !

DCD_Mayvang.png

Còn theo như câu nói trong Tống Thư-Phù Thoại Chí Thượng 《宋书.符瑞志上》:" Đế Nghiêu chi mẫu viết Khánh Đô, sinh vu Đẩu duy chi dã, thường hữu hoàng vân phúc hộ kỳ thượng 帝尧之母曰庆都,生于斗维之野,常有黄云覆护其上。Có nghĩa : "Bà mẹ của ông Đế Nghiêu là Khánh Đô, được sinh ra ở ngoại ô của đất Đẩu Duy, thường hay có đám mây vàng che phủ ở bên trên". Nên MÂY VÀNG còn có ý chỉ nhớ thương cha mẹ, như khi Thúc Sinh làm thơ ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Kiều khi cô đang tắm, thì Kiều đã đáp lại rằng :

 

                      ... Hay hèn lẽ cũng nối điêu,

                 Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.

                         Lòng còn gởi áng MÂY VÀNG,

                  Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.

                 

        MÂY VÀNG nhớ cha mẹ, MÂY TRẮNG cũng nhớ cha mẹ. Theo Toàn Ðường Thư: Ðịch Nhân Kiệt 狄仁傑 (630-700) đời Ðường khi bị biếm làm quan tham quận ở Tinh Châu, còn cha mẹ ông thì cư ngụ ở Hà-Dương. Một hôm, lên núi Thái Hàng ngắm nhìn mây trắng bay nơi chân trời, ông nói với thuộc hạ rằng: “nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng kia kìa !”. Từ đó văn học cổ lấy hình tượng mây trắng để nói lên nỗi nhớ thương cha mẹ, và nơi chôn nhau cắt rốn đã sản sinh ra mình. Như tâm trạng của Thúy Kiều, khi bị bắt làm Hoa Nô để hầu hạ cho Hoạn Thư :        

 

                               Bốn phương MÂY TRẮNG một màu,                

                               Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.

   

     Không gọi là Mây Trắng thì lại gọi là MÂY BẠC. Như khi Hoạn Thư khuyên Thúc Sinh về Lâm Chuy thăm Thúc Ông đã mở hơi rằng :

 

                               Cách năm MÂY BẠC xa xa,

                        Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn !...

 

     Không gọi là Mây Bạc  thì gọi là MÂY TẦN. Như khi Từ Hải lên đường đi lập nghiệp lớn, Thúy Kiều ở lại có một mình đã nhớ về cha mẹ như sau :

 

                               Đoái thương muôn dặm tử phần,

                            Hồn quê theo ngọn MÂY TẦN xa xa !... 

 

     MÂY TẦN là tích của Hàn Dũ (768-824), một văn học gia lớn của đời Đường. Sau khi “Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên, Mộ biếm Triêu Dương lộ bát thiên 一封朝奏九重天 夕貶潮陽路八千” (Một phong tấu sớ buổi sáng dâng lên vua, thì buổi chiều đã bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm  đường) vì can nhà vua đừng mê tín qúa tin vào đạo Phật. Khi đi đến Lam Quan thì trời đổ tuyết lớn, ngựa không đi được, nên ông lại viết thêm hai câu thơ bất hủ là :     

 

                        雲橫秦嶺家何在,  Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại ?             

                        雪擁藍關馬不前。  Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.

      Có nghĩa:                

                        Mây ngang Tần Lĩnh nhà đâu tá  ?                  

                        Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó đi !

 

                

                           Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại ?

 

        Mây vắt ngang Tần Lĩnh, gọi tắt là Mây Tần, như lòng của cô Kiều nhớ nhà sau mười mấy năm lưu lạc (Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa !).

        

       Có MÂY thì có MƯA và MƯA xuống là nhờ có MÂY, nên MÂY và MƯA không thể tách rời ra được. Cuối cùng ta có điển MÂY MƯA để chỉ sự ân ái giữa nam nữ với nhau do tích Vu Sơn Thần Nữ 巫山神女 như sau:

 

      Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến cùng ân ái, khi chia tay còn nói là “Đản vi triêu vân, mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨” (Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều). Theo quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa: Mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến “MÂY MƯA ân ái giữa trai gái với nhau” mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ là người ta nghĩ ngay đến một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến Kéo Mây Làm Mưa, hay nói gọn thành Mây Mưa, là người ta lại nghĩ ngay đến việc ái ân trai gái. Như cô Kiều đã ngăn Kim Trọng lại trong đêm gặp gỡ khi “Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chìu lả lơi”, mà kể lể rằng:   

 

                               Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,               

                           Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.                  

                               MÂY MƯA đánh đổ đá vàng,             

                        Quá chìu nên đã chán chường yến anh..                                                       

      Còn Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc tả nàng cung nữ chẳng những tài sắc vẹn toàn mà còn rất gợi tình nữa, đến nỗi cỏ cây cũng không chịu nổi trước sức hấp dẫn của nàng :

 

                             Bóng gương lấp ló trong mành,

                        Cỏ cây cũng muốn nổi tình MÂY MƯA !

 

     Trong bài Thanh Bình Điệu 清平調 thứ hai, khi tả về nhan sắc và sức quyến rũ gợi cảm của Dương Quý Phi, Lý Bạch cũng đã phải nhờ tới Vu Sơn Thần Nữ :     

 

                  一枝紅豔露凝香,   Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,          

                  雲雨巫山枉斷腸.   VÂN VŨ VU SƠN uổng đoạn trường.            

                  借問漢宮誰得似,   Tá vấn Hán cung thùy đắc tự,

                  可憐飛燕倚新妝.   Khả lân Phi Yến ỷ tân trang.

  Có nghĩa :              

                     Một cành hoa đẹp ngậm sương thơm,               

                     Mưa móc Vu Sơn cũng dỗi hờn.               

                     Dám hỏi Hán cung ai dám sánh,               

                     Thương nàng Phi Yến mới soi gương.

                                                   

       Dương Thái Chân đẹp đến nỗi Thần Nữ cũng phải hờn dỗi đoạn trường và Triệu Phi Yến trong cung nhà Hán ngày xưa mới soi gương để tân trang lại nhan sắc cũng phải chào thua !

 

      Xin được kết thúc bài MÂY ở đây. Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                  杜紹德

                                                                                             Đỗ Chiêu Đức

______________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH:  

 

                                                    MÀN 

DCD_Màn.png

                                           Êm đềm TRƯỚNG RỦ MÀN CHE,

                                    Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

  

       Đó là hai câu thơ trong phần đầu của Truyện Kiều, khi cụ Nguyễn Du giới thiệu về xuất thân và gia thế của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

       TRƯỚNG RỦ MÀN CHE chữ Nho là TRƯỚNG THÙY LIÊM BẾ 帳垂簾閉 để chỉ cuộc sống cao sang quyền qúy của các tiểu thơ khuê các ngày xưa, sống cách biệt hẳn với cuộc sống của quần chúng nhân dân bình thường; cuộc sống mang chút gì đó kiêu hãnh của giới qúy tộc tỏ ra vẻ chính chuyên với "Tường đông ong bướm đi về mặc ai!". 

       MÀN chữ Nho là MẠC 幕, có bộ CÂN 巾 là Khăn, là Vải ở bên dưới chữ, nên có nghĩa là "Miếng Vải dùng để che chắn". Các từ Hán Việt mà ta thường gặp trong văn học cổ cũng như trong đời sống bình thường hiện nay là :

    - LIÊM MẠC 簾幕 : Nói chung các loại rèm dùng để che chắn.

    - SONG MẠC 窗幕  : Rèm dùng để che cửa sổ         

    - KHAI MẠC 開幕 : là Mở Màn ra (để bắt đầu diễn tuồng diễn kịch), sau dùng rộng ra có nghĩa là : Bắt Đầu để làm một công việc nào đó. Như : Phiên họp đã KHAI MẠC; Buổi triển lãm sáng nay đã KHAI MẠC...

    - BẾ MẠC 閉幕 : là Đóng Màn lại (kết thúc vở diễn, là vãn tuồng), nghĩa phát sinh là : KẾT THÚC, như : Hội nghị đã BẾ MẠC; Đế chế Mông cổ đã đến hồi BẾ MẠC...

 

     Trong Văn học Cổ, MÀN còn có nghĩa là TRƯỚNG 帳 : là những tấm màn treo ở phòng khách, treo ở phòng ngủ... như trong Cung Oán Ngâm Khúc tả nàng cung nữ lúc đắc sủng bên cạnh nhà vua, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết :

 

                    Trên TRƯỚNG GẤM chí tôn vòi vọi, 

                    Những khi nào gần gũi quân vương...

 

     Hay như trong Truyện Kiều, tả lúc Thúy Kiều báo ân báo oán. Thúy Kiều và Từ Hải đã ngồi trước bức màn có vẽ hình con hổ dương nanh múa vuốt để xử án. Cụ Nguyễn Du cũng đã viết :

 

                            TRƯỚNG HÙM mở giữa trung quân,

                          Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.

DCD_truonghum.png

Trướng Hùm chữ Nho là HỔ TRƯỚNG 虎帳. Có xuất xứ từ Lục Du đời Tống 宋.陸游 trong sách Nam Đường Thư, truyện Từ Tri Ngạc《南唐書·徐知諤傳》:Vua nước Lương là Từ Tri Ngạc, một hôm đi chơi ở vùng núi Toán Sơn, đã dọn một mảnh đất trống làm sân bãi, kết da hổ làm màn trại, rồi cho tụ tập tướng sĩ lại nơi đó, gọi là Hổ Trướng. Sau dùng rộng ra để chỉ nơi doanh trại của các tướng lãnh. Còn cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn Tế Trương Công Định thì lại gọi HỔ TRƯỚNG là MÀN HÙM : 

 

                    Nào đã đặng mấy hồi nơi thích-lý, MÀN HÙM che mặt rằng xuê;

                   Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

 

     Tục ngữ có câu SÓI MƯỢN OAI HÙM, nên khi không có đủ da hùm thì mượn đỡ da của chó sói để dùng tạm. Chó sói chữ Nho là SÀI LANG 豺狼, nên thay vì dùng MÀN HÙM, bây giờ không có Màn Hùm nên dùng tạm MÀN LANG, cũng có cùng một nghĩa như Màn Hùm vậy. Như trong truyện thơ Nôm khuyết danh Phương Hoa Lưu Nữ Tướng :

 

                                  Xang vàng làm bạn am mây,

                             MÀN LANG tạm cuốn, lại vầy gối Ôn.                  

 

     Nhân nhắc đến GỐI ÔN, là Gối của Ôn Công. ÔN CÔNG tức là Tư Mã Quang 司馬光 là Tể tướng đời Bắc Tống. Lúc nhỏ hiếu học, ông lấy một khúc gỗ tròn kê đầu làm gối để ngủ, khi trở mình, khúc gỗ chuyển động lăn đi làm cho ông giật mình tỉnh giấc để thức dậy học tập trong đêm. Nên GỐI ÔN CÔNG chỉ các thư sinh cần mẫn xôi kinh nấu sử, chỉ học trò siêng năng học tập. Tích nầy thường đi song song với MÀN ĐỔNG TỬ...

     ĐỔNG TỬ tức ĐỔNG TRỌNG THƯ 董仲舒 (191-104 trước Công Nguyên). Ông người đất Quảng Xuyên, là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà văn học nổi tiếng đời Tây Hán. Vì học trò theo học qúa đông phòng học không chứa hết, ông phải tập họp tất cả ra sân lớn, ông ngồi trên bục cao buông màn mà giảng dạy. Học trò tứ xứ từ Tề Lỗ Yên Triệu... đều tụ tập về để nghe giảng. Việc nầy đã hình thành một thành ngữ HẠ DUY GIẢNG TỤNG 下帷講誦 là "Buông Màn Giảng Dạy". Trong văn học cổ của ta gọi là MÀN ĐỔNG TỬ, MÀN ĐỔNG XUYÊN để chỉ việc dốc chí dùi mài học tập, như trong truyện thơ Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (Bạch Viên Tôn Các) :

 

                                Đèn hạnh năm canh MÀN ĐỔNG TỬ,

                                Song mây mấy tấc GỐI ÔN CÔNG.

                           

                                      ĐỔNG TRỌNG THƯ 董仲舒    

 

      Đổng Trọng Thư cũng đã từng ra làm quan cho nhà Hán, nhưng sau bị giáng chức và bị bắt giam, rồi cáo lão về quê . Trong Lục Vân Tiên cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng nhắc đến:

                                  Thương thầy ĐỔNG TỬ cao xa,

                               Chí đà có chí, ngôi đà không ngôi !  


      Trong tác phẩm thơ Nôm khuyết danh Quan Âm Thị Kính cũng có câu :

 

                                   Thư trung đành có ngọc nhan,

                           Sách đèn còn bận buông MÀN ĐỔNG XUYÊN.

 

     Còn trong truyện thơ Nôm Lưu Bình Dương Lễ tả lúc nàng Châu Long giúp Lưu Bình học tập cũng có câu :

 

                                    Sân Trình cửa Khổng lân la,

                               Cùng nhau giao lại một nhà chi lan .

                                     Tình lê trạch nghĩa tha san,

                            Đặt giường Từ Tử, buông MÀN ĐỔNG CÔNG

 

      Ngoài ra, MÀN còn có nghĩa là cái Mùng để ngủ, như khi "Ngỏ lời nói với băng nhân, Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn" để chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh rồi thì Từ Hải cũng đã :

 

                            Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,

                        Đặt giường thất bảo, vây MÀN BÁT TIÊN.

DCD_battien_2.png

MÀN BÁT TIÊN là cái mùng cái màn có vẽ hoặc thêu hình của Bát Tiên Qúa Hải, không biết sao trong phòng ngủ của lứa đôi mà lại có hình của "Bát Tiên"? Chả lẽ lại bảo rằng chuyện vợ chồng hòa hợp thì "sướng như tiên" chăng ?! Sự vô lý khó hiểu nầy đã được giải tỏa qua MÀN PHÙ DUNG chữ Nho là PHÙ DUNG TRƯỚNG 芙蓉帳 là cái mùng cái màn có màu đỏ đẹp như hoa phù dung hay có thêu hoa phù dung đẹp đẽ trong phòng ngủ của đôi lứa thì có vẻ hợp lý hơn là để hình của "Bát Tiên", như Bạch Cư Dị đã viết trong bài thơ cổ phong Trường Hận Ca tả lại mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Qúy Phi như sau :

 

                 雲鬢花顏金步搖,   Vân mấn hoa nhan kim bộ diêu,

                 芙蓉帳暖度春宵。   PHÙ DUNG TRƯỚNG noãn độ xuân tiêu.

Có nghĩa :

                       Tóc mây lã lướt gót sen,

             MÀN PHÙ DUNG ấm đêm xuân mơ màng.

 

     Còn trong thơ Nôm "Truyện Tây Sương" của ta thì cũng có hai câu tả lại mối tình của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy như sau :

 

                  Chén quỳnh sóng sánh hồng nhan,

                Sẵn chăn phỉ thúy, sẵn MÀN PHÙ DUNG.

 

     Cuối cùng, ta có một bức MÀN đặc biệt sang trọng, đó lá bức sáo, bức rèm, bức mành treo để che chắn trước ngõ trước song được làm bằng loại tre trúc qúy, được gọi là MÀNH TƯƠNG, theo như tích sau đây...

 

      Tương truyền vào đời Nghiêu Thuấn (2294-Trước Công Nguyên) ở Cửu Nghi Sơn của tỉnh Hồ Nam có chín con ác long thường hay bay xuống sông Tương Giang để giỡn nước, gây nên lũ lụt tràn ngập cả ruộng đồng, nhấn chìm cả nhà cửa, ruộng nương thất bát, dân chúng kêu khổ liên miên... Đế Thuấn mới quyết định từ giả hai bà phi tử yêu dấu của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh để đi về miền nam diệt trừ chín con rồng dữ nầy cứu nguy cho bá tánh. Nhưng...

       Đế Thuấn đi suốt ba năm ròng rã mà vẫn không thấy trở về. Nga Hoàng và Nữ Anh nóng lòng nên quyết định đi về phương nam để tìm chồng. Đi mãi đi mãi dọc theo Đại Tử Kinh Hà rồi Tiểu Tử Kinh Hà, cuối cùng cũng đến được dưới chân núi Cửu Nghi Sơn. Vượt đèo qua suối mới đến được Tam Phong Thạch, nơi có ba ngọn núi cao sừng sửng dựng đứng bên bờ Tương Giang với một rừng trúc bạt ngàn. Trong rừng trúc là một ngôi mộ cao sừng sửng, được dân chúng cho biết đó là ngôi mộ của Đế Thuấn đã hi sinh tính mạng khi chiến đấu với chín con ác long hung dữ. Hai bà nghe chuyện quá thương cảm bèn ôm nhau mà khóc suốt chín ngày chín đêm, máu và nước mắt rơi vải chung quanh thấm cả vào những thân trúc trong rừng trúc, tạo nên những đóm màu đỏ màu nâu lốm đốm trên thân các cây trúc. Cuối cùng hai bà cùng gục chết bên mồ của Đế Thuấn. 

                     

      Tương truyền, từ đó về sau rừng trúc bên sông Tương Giang đều có những đốm hoặc đỏ hoặc nâu hoặc tía... trông rất đẹp mắt và nổi danh là trúc của Tương Giang và hai bà Phi, nên được gọi là Tương Phi Trúc 湘妃竹. Đây là loại trúc qúy của vùng Cửu Nghi Sơn tỉnh Hồ Nam, đem đi làm thành những bức rèm, bức mành để che chắn, nên mới có tên là MÀNH TƯƠNG. Như trong Truyện Kiều tả lúc Kim Trọng tương tư Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                                MÀNH TƯƠNG phân phất gió đàn,

                           Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.

                                  Ví chẳng duyên nợ ba sinh,

                         Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi !?

 

      Xin được kết thúc bài MÀN là TRƯỚNG, là RÈM, là MÀNH, là MÙNG... ở đây.

 

      Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                       杜紹德

                                                                                                   Đỗ Chiêu Đức

Tạp Ghi và Phiếm Luận: 

 

                      Chữ LÒNG trong Truyện KIỀU (3)

DCD_ChuLong_3_1.png

                                              Thệ sư kể hết mọi lời,

                                 LÒNG LÒNG cũng giận, người người chấp uy.(101)

          

       THỆ SƯ 誓師 : là Lễ tế cáo trời đất trước toàn quân khi xuất chinh; là Quân lính thề liều mình đánh giặc trước khi ra trận. Ở đây "THỆ SƯ kể hết mọi lời" là Từ Hải họp hết quân lính lại để nghe Thúy Kiều kể về tội lỗi của Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh... trước khi điều quân đi bắt hết những người kể trên về cho Thúy Kiều báo ân báo oán.

 

       Khi "Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi". Ta thấy Thúy Kiều là người rất trung hậu, ân oán phân minh "Báo ân rồi sẽ trả thù", nên người đầu tiên mà nàng nhớ đến phải trả ơn là chàng Thúc Sinh, người "nhân ngãi" cũ :

 

                         Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

                      Tại ai, há dám PHỤ LÒNG cố nhân ?(102)

                         Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

                      TẠ LÒNG dễ xứng, báo ân gọi là!(103)

 

       Khiến cho chàng Thúc :

 

                       LÒNG riêng mừng sợ khôn cầm,(104)

                       Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.

 

       Ta thấy, bản thân chữ LÒNG đã có hàm ý là "LÒNG TỐT" trong rất nhiều ngữ cảnh, như :"Tại ai, há dám PHỤ LÒNG cố nhân ?". "PHỤ LÒNG cố nhân" là "PHỤ LÒNG TỐT của cố nhân"; hay như câu :" TẠ LÒNG dễ xứng, báo ân gọi là". "TẠ LÒNG" là "Cảm tạ Lòng Tốt của ai đó". Ngày thường ta cũng hay nghe câu : "Cám ơn bác đã CÓ LÒNG đến thăm tôi"."CÓ LÒNG" ở đây là "CÓ LÒNG TỐT" đó.

 

                             

 

       

 

 

 

 

Trở lại với sự báo ân của Thúy Kiều : "Mụ già, sư trưởng thứ hai", MỤ GIÀ là chỉ "Mụ Quản Gia", còn SƯ TRƯỞNG là "Sư Giác Duyên", hai người đã có công giúp đỡ cứu vớt Thúy Kiều trong cơn hoạn nạn, nên "Dắt tay mở mặt cho nhìn: Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi", và cô kể lể :

 

                                Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,

                      Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.

                               Nghìn vàng gọi chút lễ thường,

                     Mà LÒNG PHIẾU MẪU mấy vàng cho cân ?(105)

 

       PHIẾU MẪU 漂母 là một bà già tầm thường giặt lụa ở bờ sông. Còn Hàn Tín 韓信(khoảng 231-196 trước Công Nguyên)người đất Hoài Âm, là một trong những khai quốc công thần của nhà Hán. Khi Hàn Tín còn chưa phát tích, lang thang phiêu bạc đó đây sống nhờ vào Nam Đình Đình Trưởng. Nhưng vợ Đình Trưởng là một người đàn bà hà khắc, thường ăn cơm sớm và không chừa phần cho Hàn Tín. Khi Tín đến thì cơm đã hết rồi. Buồn lòng Hàn Tín đi lang thang ra bờ sông thì gặp phải Phiếu Mẫu đang lúc ngưng giặt lụa để ăn cơm. Trông thấy điệu bộ đói khát của Tín, bèn chia cho phân nửa phần cơm của mình đang ăn. Hàn Tín rất cảm kích mà bảo rằng :" Sau này nếu ta phát tích sẽ đền ơn cho bà trọng hậu". Phiếu Mẫu nổi giận đáp rằng :"Ta thấy nhà người đói khát tội nghiệp nên chia cơm cho ngươi ăn, chớ đâu phải để mong sau này ngươi báo đáp cho ta đâu !". Sau khi giúp cho Lưu Bang chiến thắng Hạng Võ để lập nên nhà Hán, Hàn Tín được phong là Tề Vương, rồi Sở Vương. Khi vinh quy áo gấm về làng đã báo đáp cho Phiếu Mẫu một ngàn lượng vàng. Vì tích nầy mà ta có thành ngữ NHẤT PHẠN THIÊN KIM 一飯千金. Có nghĩa : Một bửa cơm giá đáng ngàn vàng, để cho người đời biết giá trị của "Một Miếng Khi Đói" nó qúy giá biết chừng nào ! 

       Thúy Kiều đã mượn tích nầy để so sánh sự giúp đỡ của "Mụ quản gia và Vãi Giác Duyên" như là Phiếu Mẫu đã giúp Hàn Tín vậy, nên nàng cũng đền ơn bằng :"NGHÌN VÀNG gọi chút lễ thường".

                                 

       Sau "báo ân" là "báo oán" ! Cái người gây ra sự oán hận nhất cho Thúy Kiều là ai ? Ta hãy nghe cụ Nguyễn Du viết :"Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư". Mặc dù "Hoạn Thư phách lạc hồn xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca", nhưng Hoạn Thư đã "kêu ca" một cách rất thông minh :

 

                                Rằng: Tôi chút phận đàn bà,

                       Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,

... xin bà hãy :

                               Nghĩ cho khi gác viết kinh,

                       Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. (để bắt bà lại!)

... vì tôi đối với bà :

                              LÒNG riêng riêng những kính yêu;(106)

                              Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.

... nhưng cũng đã :

                               Trót LÒNG gây việc chông gai,(107)

                          Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng ?

 

       Rất thông minh, rất tâm lý ! Khiến cho Thúy Kiều cũng phải "Khen cho: Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời", nên mới "Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen", và Kiều đã lên giọng kẻ cả mà quyết rằng :

 

                                Đã LÒNG TRI QÚA thì nên,(108)

                       Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay !

 

       TRI QÚA 知過 là Biết lỗi, biết sai. Nên LÒNG TRI QÚA là Có lòng biết mình đã làm sai điều gì đó. Câu "Đã LÒNG TRI QÚA thì nên" có nghĩa : Nàng đã biết mình sai là được rồi ! và đã "Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay !", và Hoạn Thư cũng đã :

 

                               TẠ LÒNG lạy trước sân mây,(109)

 

                             

 

 

 

 

 

 

 

       Sau khi đã "xử lý" theo thứ tự "Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh" rồi đến "Tú Bà cùng Mã Giám Sinh" với hình thức "Thề sao thì lại cứ sao gia hình", khiến cho "Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời". Cho nên :

 

                                Nàng từ ân oán rạch ròi,

                       Bể oan dường đã vơi vơi cạnh LÒNG.(110)

 

       Từ Hải còn lo lắng cho Thúy Kiều, vì "Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa", nên Từ muốn :

 

                                Sao cho muôn dặm một nhà,

                        Cho người thấy mặt là ta CAM LÒNG.(111)

                                 

       Từ đó Thúy Kiều và Từ Hải "Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà", và "Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam". Cả hai đã "Năm năm hùng cứ một phương hải tần". Triều đình đã phải cử Hồ Tôn Hiến đến dẹp loạn. Hồ đã "Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng" và "Lại riêng một lễ với nàng, Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân". Thúy Kiều đã nhẹ dạ nghe theo lời Hồ Tôn Hiến khuyên Từ Hải quy hàng; Từ Hải cũng đã nhẹ dạ nghe theo lời Thúy Kiều quy hàng, để đến nỗi trúng kế của Hồ Tôn Hiến phải chết đứng giữa sa trường. Thấy Thúy Kiều đau lòng trước cái chết của Từ Hải, Hồ đã an ủi nàng :

 

                                      Bây giờ sự đã vẹn tuyền,

                           MẶC LÒNG nghĩ lấy muốn xin bề nào?(112)

 

      Còn xin bề nào nữa ! Nên...

 

                                   Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,

                           Ngập ngừng mới gửi thấp cao SỰ LÒNG.(113)

 

      Thúy Kiều đã rất hối hận vì đã khuyên Từ Hải "Đem thân bách chiến làm tôi triều đình". "Ngỡ là phu qúy phụ vinh, Nào ngờ một phút tan tành thịt xương"và đau lòng vì "Xét mình công ít tội nhiều, Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!" nên chỉ "Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh" cho trọn tình trọn nghĩa mà thôi. Nàng đã nói thẳng vào mặt Hồ Tôn Hiến :

 

                                      Khéo khuyên kể lấy làm công,

                              Kể bao nhiêu lại ĐAU LÒNG bấy nhiêu!(114)

                                   

       Khi mở tiệc hạ công để ăn mừng chiến thắng, Hồ Tôn Hiến còn :"Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu", khiến cho họ Hồ "Nghe càng đắm ngắm càng say, Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình", mới "Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai ?". Thúy Kiều đã qúa não nề với nhân tình thế thái nên đáp rằng : 

 

                                          Còn chi nữa cánh hoa tàn,

                                   TƠ LÒNG đã đứt dây đàn Tiểu Lân.(115)

 

      DÂY ĐÀN TIỂU LÂN : là Dây đàn của nàng Phùng Tiểu Lân 馮小憐, ái phi của Bắc Tề Hậu Chúa thời Nam Bắc Triều. Được Hậu Chúa Cao Vi phong làm Thục Phi. Tiểu Lân thông minh lanh lợi, giỏi ca múa, đặc biệt là ngón đàn tì bà rất tuyệt diệu. Hậu Chúa rất sủng ái thường ăn cùng mâm, đi cùng xe.  Công nguyên 577, Bắc Tề mất vào tay Bắc Chu. Chúa Bắc Chu là Vũ Văn Ung thấy Hậu Chúa Cao Vi còn rất thương mến Phùng Tiểu Lân nên trả nàng lại cho Cao Vi. Nhưng sau khi Cao Vi mất, Vũ Văn Ung lại tặng nàng cho Đới Vương Vũ Văn Đạt. Đạt cũng rất sủng ái nàng, nhân trong bữa tiệc nàng gảy đàn tì bà giúp vui, bất ngờ dây đàn bị đứt. Phùng Tiểu Lân mới tức cảnh làm một bài thơ như sau :

 

                        雖蒙今日寵,       Tuy mông kim nhật sủng,

                        猶憶昔時憐。      Do ức tích thời lân.

                        欲知心斷絕,      Dục tri tâm đoạn tuyệt,

                        應看膝上弦。      Ưng khan tất thượng huyền.

Có nghĩa :

                        Hôm nay tuy được cưng chìu,

                   Nhớ xưa sủng ái đủ điều mến thương.

                        Lòng ta chi xiết đoạn trường,

                   Như dây đàn đứt vấn vương tơ tình !

 

                 

 

 

 

 

 

 

 

     Thúy Kiều đã rất tâm đắc khi mượn ý của bài thơ của Phùng Tiểu Lân để bày tỏ lòng mình với Hồ Tôn Hiến bằng câu :"Tơ lòng đã đứt DÂY ĐÀN TIỂU LÂN " rồi mới bày tỏ nguyện vọng của mình với Hồ là :"Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc Phần là may! Nhưng Hồ Tôn Hiến đã không đáp ứng cho nàng về quê để thấy "Gốc Phần", để thăm lại mẹ cha, cũng không nạp nàng làm thiếp, vì sợ "Quan trên ngó xuống người ta trông vào", mà lại "Ép tình mới gán cho người thổ quan" khiến cho nàng phải "Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang" để kết thúc cho cái thân "má hồng phận bạc" và "một đời tài sắc" của mình như lời bà Tam Hợp Đạo Cô đã nói :"Tu là cõi phúc, Tình là dây oan!". Trước khi nhảy xuống Trường Giang tự trầm, Thúy Kiều một lần nữa đã rất ân hận vì cái chết của Từ Hải là do mình gián tiếp gây ra :

 

                                      Rằng: Từ công hậu đãi ta,

                              Chút vì việc nước mà ra PHỤ LÒNG.(116)

                                     Giết chồng mà lại lấy chồng,

                                Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?

     Cho nên ...

                                       Thôi thì một thác cho rồi,

                            TẤM LÒNG phó mặc trên trời dưới sông!(117)

 

      Lại nói, khi từ giả Thúy Kiều, sư Giác Duyên đã "Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du", rồi "Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng". Được Đạo cô Tam Hợp cho biết về cuộc đời ba chìm bảy nổi của Thúy Kiều và kết luận :

 

                                       Sư rằng: Phúc họa đạo trời,

                             Cỗi nguồn cũng ở LÒNG NGƯỜI mà ra.(118)

 

      Đạo cô Tam Hợp cũng đã rất lạc quan về cuộc đời của Thúy Kiều sau nầy "Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau" và nhắc nhở "Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền Đường thả một bè lau rước người". Nên :

 

                            Giác Duyên nghe nói MỪNG LÒNG,(119)

                            Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường,

                         

      Sư Giác Duyên đã "chơi qúa xộp", bà đã dám "Thuê năm ngư phủ hai người, Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông". Chắc sư đã dùng "nghìn vàng" của Thúy Kiều báo ân, nên mới dám thuê hai ngư phủ "kết chài giăng sông" suốt từ năm này qua năm kia, chỉ một việc chờ để vớt Thúy Kiều khi nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn mà thôi ! Chuyện có vẻ hoang tưởng, nhưng :

 

                               Một LÒNG chẳng quản mấy công,(120)

                           Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!

 

     Cuối cùng thì cũng "Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!" Mặc dù "Trên mui lướt mướt áo là, Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương". Khi Thúy Kiều còn đang "Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa". Đạm Tiên đã nói với Kiều :

 

                              Rằng: Tôi đã CÓ LÒNG chờ,(121)

                          Mất công mười mấy năm thừa ở đây.

                              Chị sao phận mỏng phúc dày,

                         Kiếp xưa đã vậy LÒNG này dễ ai!(122)

          

       Sau khi Thúy Kiều tỉnh dậy, Giác Duyên đã "Gặp nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư", và từ đó :

 

                                 Một nhà chung chạ sớm trưa,

                        Gió trăng mát mặt muối dưa CHAY LÒNG.(123)

 

                         

 

 

 

 

 

 

       Thế là "Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này". Khi trở lại vườn Thúy để tìm Kiều, thì Kim Trọng chỉ thấy "Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời". Khi "Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình", "Hỏi ông, ông mắc tụng đình, Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà, nhà đã dời xa, Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi". Qủa là "Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!". Khi tìm đường vào đến tận nơi thăm viếng, thì Vương Viên Ngoại đã kể lại mọi điều "Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời. Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!" và ông kết luận :

 

                                  Mấy lời ký chú đinh ninh,

                           GHI LÒNG để dạ cất mình ra đi.(124)

                                   Phận sao bạc bấy Kiều nhi,

                             Chàng Kim về đó con thì đi đâu !?

 

      Nghe xong, chàng Kim đã "Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!" Chàng tức tối bảo "Rằng: Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo" và xác định với Vương Viên Ngoại :

 

                                  Chưa chăn gối cũng vợ chồng,

                           LÒNG nào mà nỡ dứt LÒNG cho đang?(125)

                                  Bao nhiêu của mấy ngày đàng,

                                Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!

 

      Lời nói đi đôi với hành động, chàng Kim đã "Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang", để chàng có dịp :

 

                                Thần hôn chăm chút lễ thường,

                        Dưỡng thân thay TẤM LÒNG nàng ngày xưa.(126)

                                Đinh ninh mài lệ chép thơ,

                           Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe...

                            

      Người ở Lâm Chuy, lại đi tìm ở Lâm Thanh (do Mã Giám Sinh khai gian chỗ ở) nên "Người một nơi hỏi một nơi, Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?", khiến cho Kim Trọng "Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son", đến đổi "Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao", khiến cho "Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay!". Cho nên "Vội vàng sắm sửa chọn ngày, Duyên Vân sớm vội se dây cho chàng". Nhưng mặc dù "Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì" chàng Kim vẫn luôn luôn nhớ về Thúy Kiều, "Có khi vắng vẻ thư phòng, Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa" và mường tượng mơ màng "Dường như bên nóc bên thềm, Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng". Chỉ vì :

 

                              Bởi LÒNG tạc đá ghi vàng,(127)

                         Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.

 

       Sau khi Kim Trọng cùng Vương Quan đều thi đậu và cùng đều làm quan, thì "Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương" và khi "Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng", nên "Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng, Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi","Nọ Lâm Thanh với Lâm Chuy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm". Cho nên "Thăng đường chàng mới hỏi tra", rồi được ông lại già họ Đô và Thúc Sinh kể lại hết đầu đuôi sự tích lưu lạc của Thúy Kiều, và cuối cùng kết luận là "Về sau chẳng biết vân mồng ra sao !". Cho nên :    

 

                                 Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,

                         LÒNG RIÊNG chàng luống lao đao thẫn thờ.(128)

 

       Thương xót cho Thúy Kiều như "...chiếc lá bơ vơ, Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?". Ví như :

 

                                 Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,

                         Xót thân chìm nỗi ĐAU LÒNG hợp tan!(129)

                         

       Khi Kim Trọng và Vương Quan cùng cải nhậm và cùng thuận đường phó quan, khi đến "Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành", "Rằng: Ngày hôm nọ giao binh, Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền", Còn "Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù". Cho nên "Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!. Cả nhà mới "Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông". Tình cờ Giác Duyên đến nơi cho biết Thúy Kiều còn sống và còn đang ở thảo am gần đây với mình, nên cả nhà mới "Bẻ lau vạch cỏ tìm đi", "Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường". Khi "Giác Duyên  lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra" thì cả nhà đều "Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!" và cả nhà cùng :    

 

                                    Quây nhau lạy trước Phật đài,

                              Tái sinh trần tạ LÒNG người từ bi.(130)

 

       Khi "Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi" để cùng nhau đoàn tụ, thì Thúy Kiều đã phân bua "Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay", cứ :

 

                                   Tính rằng mặt nước chân mây,

                            LÒNG nào còn tưởng có rày nữa không?(131)

                                    Được rày tái thế tương phùng.

                             Khát khao đã thỏa tấm LÒNG lâu nay!(132)

 

       Hơn nữa "Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa" vì "Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng" Vả lại :

 

                                   Sự đời đã tắt LỬA LÒNG,(83,133)

                             Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! 

                                      Dở dang nào có hay gì,

                                  Đã tu tu trót quá thì thì thôi!

       ... lại nữa :

                                 Trùng sinh ân nặng bể trời,

                           LÒNG nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?(134)

                               

       Vương Viên Ngoại đã phản bác lại:"Ông rằng: Bỉ thử nhất thì" Có nghĩa : Ở đời phải biết lúc vầy lúc khác, vì "Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?". Còn ơn nghĩa của sư Giác Duyên thì "Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung". Nghe Vương Ông lý luận quá hợp lý, cho nên :

 

                                 Nghe lời nàng cũng CHIỀU LÒNG,(135)

                                 Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.

 

       Khi "Một nhà về đến quan nha, Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy", và khi đã "Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai", nàng muốn kết hợp cho Thúy Kiều và Kim Trọng "Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì". Nhưng Thúy Kiều đã vội gạt đi với lý do "Một lời tuy có ước xưa, Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều. Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!". Nhưng Chàng Kim lại không chịu :

 

                                  Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,

                             Dẫu LÒNG kia vậy còn lời ấy sao?(136)

                                  Một lời đã trót thâm giao,

                              Dưới dày có đất trên cao có trời!

 

       Thúy Kiều đã viện dẫn :

 

                              Nàng rằng: Gia thất duyên hài,

                         Chút LÒNG ân ái ai ai cũng LÒNG.(137)

                                Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,

                         Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. 

                        

        Còn phận mình thì "... từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa" nên không "Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!". TRẦN CẤU 塵垢 là Bụi bặm dơ dáy; còn BỐ KINH  布荊 thì BỐ là Vải thô, KINH là Cỏ gai; nên BỐ KINH là chỉ nàng Mạnh Quang đời Tấn, là người vợ đãm đang cần mẫn, mặc quần áo bằng vải thô và cài trâm bằng cỏ gai. Ở đây, Thúy Kiều muốn nói thân mình đã "Bấy chầy gió táp mưa sa, Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn", nên không dám dự vào sự thanh cao của chồng vợ bình thường. Nhưng Chàng Kim đã cố thuyết phục rằng :"Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường" và "Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay?" và Kim cũng xác định cái nhìn của mình về Kiều là "Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa." Tuy nói có hơi "xạo", nhưng lại rất chân thành, cho nên đến sau cùng thì Thúy Kiều cũng đành chịu khuất phục :

 

                                      Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,

                           CHIỀU LÒNG gọi có xướng tùy mảy may.(138)

Chiều thì chiều thế, nhưng...

                                    Riêng LÒNG đã thẹn lắm thay,(139)

                                    Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!

 

        Nàng cũng không muốn cho người yêu phải "Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa", vì như thế thì "Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi" Chẳng thà "Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau". Chàng Kim cũng tỏ ra cao thượng không chút nhượng bộ "Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa ? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!". Nghe xong câu nói nầy của Kim Trọng, Thúy Kiều đã :

 

                                  Nghe lời, sửa áo cài trâm,

                         Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:

                                Thân tàn gạn đục khơi trong,

                         Là nhờ quân tử khác LÒNG người ta.(140)

                                Mấy lời tâm phúc ruột rà,

                         Tương tri dường ấy mới là tương tri!

 

       Sau khi đã cùng thỏa thuận với nhau là "Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ", rồi thì "Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa" :

 

                                 Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,

                           Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!

                                   Ăn năn thì sự đã rồi!

                       NỂ LÒNG người cũ vâng lời một phen.(141)

 

      .. và sau khi đã "Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao". Kim Trọng đã rất ngạc nhiên :

 

                               Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,

                          Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?

                              Tẻ vui bởi tại LÒNG này,(142)

                           Hay là khổ tận đến ngày cam lai?

 

       KHỔ TẬN CAM LAI 苦盡甘來 : KHỔ là Đắng, CAM là Ngọt; Cái Đắng đã tận cùng thì cái Ngọt sẽ đến. Hết lao nhọc cực khổ thì thảnh thơi sung sướng sẽ đến. Đây là nguyên lý của Đạo giáo : VẬT CỰC TẤT PHẢN 物極必反: Sự vật hay sự việc gì đó đến lúc cùng cực hết mức thì sẽ trở ngược trở lại; như Âm Cực Dương Hồi 陰極陽回, Bỉ Cực Thái Lai 啚極泰來, Bỉ Sắc Tư Phong  彼嗇斯豐, Hứng Tận Bi Lai 興盡悲來 và... KHỔ TẬN thì CAM LAI như trong câu thơ trên và cũng như trong cuộc đời của Thúy Kiều vậy !

 

       Chữ LÒNG cuối cùng cũng là chữ LÒNG trong bốn câu thơ cuối của Truyện Kiều mà hầu như mọi người  ai cũng biết :

 

                                 Thiện căn ở tại LÒNG ta,(143)

                             Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.

 

 

 

 

 

 

 

                      

         Xin được khép lại bài Phiếm luận trường thiên "Chữ LÒNG trong Truyện KIỀU" ở đây, với 141 câu có chữ LÒNG và 598 câu thơ minh họa đi kèm. Vị chi là ta đã học thuộc được 739 câu trong Truyện Kiều suốt từ  đầu đến cuối !

      

        Hẹn bài viết tới.

 

                                                                                                杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

_______________________

DCD_TKbaoan_.png
DCD_layta.png
DCD_Kieukhaydan_2.png
DCD_chaylong.png
DCD_chuTam.png

Tạp Ghi và Phiếm Luận: 

 

                      Chữ LÒNG trong Truyện KIỀU (2)

DCD_ChuLONGtrongtruyenKieu.png

                                                    Này con thuộc lấy NẰM LÒNG, (51)

                                             Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.         

         

        Thuộc NẰM LÒNG, làm cho ta nhớ đến những bài HỌC THUỘC LÒNG hồi nhỏ, mà mãi cho đến hiện nay đã bảy tám chục tuổi rồi ta vẫn còn nhớ rõ như in. Nên THUỘC NẰM LÒNG là ghi vào lòng, tạc vào dạ như thành ngữ "GHI LÒNG TẠC DẠ" xuất phát từ câu chữ Nho là "MINH TÂM KHẮC CỐT 銘心刻骨". MINH TÂM là "Tạc vào tim", KHẮC CỐT là "Chạm vào xương" mà cụ Nguyễn Du dịch là CHẠM XƯƠNG CHÉP DẠ để chỉ việc Thúy Kiều ghi lòng tạc dạ cái ơn của Từ Hải đã giúp nàng báo ân báo oán :

 

                                  CHẠM XƯƠNG CHÉP DẠ xiết chi,

                                 Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !

 

       Còn ở đây Tú Bà muốn Thúy Kiều phải ghi vào lòng, tạc vào dạ những kỹ xảo mánh khóe của một kỹ nữ, mà "Những nghe nói, đã thẹn thùng" làm cho cô phải ngỡ ngàng chua xót :

                                 Nghĩ mình cửa các, buồng khuê,

                       VỠ LÒNG, học lấy những nghề nghiệp hay.(52) 

                                 Khéo là mặt dạn, mày dày,

                           Kiếp người đã đến thế này thì thôi!                       

 

       VỠ LÒNG là bài học đầu tiên của chữ nghĩa hay của một ngành nghề nào đó, mà chữ Nho gọi là KHAI TÂM 開心. Nên "Nằm Lòng" hay "Vỡ Lòng" gì đều chỉ "Lòng Dạ", còn NỖI LÒNG là chỉ cái tình cảm vướng vít ở trong lòng như khi ở lầu xanh phải chịu cảnh "Dập dìu lá gió, cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh" và "Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Một mình, mình lại thương mình xót xa", nên chi :

 

                              NỖI LÒNG đòi đoạn xa gần,(53)

                         Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau !

 

      Cho đến khi gặp chàng "Thúc Sinh quen thói bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không" ăn chơi bạt mạng, nên chết mê chết mệt khi gặp Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, lại được dịp :

 

                               Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,

                          Đêm xuân ai dễ CẦM LÒNG được chăng ?(54)

                                    Lạ gì thanh khí lẽ hằng,

                             Một dây một buộc ai giằng cho ra.

 

      Thúy Kiều lại giở ngón "Vành ngoài bảy chữ..." ra để Thúc Sinh càng mê đắm. Nhân khi "Buồng the phải buổi thong dong, Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa", bày tấm thân "... trong ngọc trắng ngà" ra để cho Thúc Sinh làm thơ, và từ chối không họa vận :

 

                             Nàng rằng: Vâng biết LÒNG chàng,(55)

                           Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.

                                   Hay hèn lẽ cũng nối điêu,

                          Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.

        ... vì :

                            LÒNG còn gửi áng mây Vàng.(56)

                         Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay. 

 

                         

        MÂY VÀNG ở đây ý nói nhớ nhà, nhớ cha mẹ, theo như câu nói trong Tống Thư-Phù Thoại Chí Thượng 《宋书.符瑞志上》:" Đế Nghiêu chi mẫu viết Khánh Đô, sinh vu Đẩu duy chi dã, thường hữu hoàng vân phúc hộ kỳ thượng 帝尧之母曰庆都,生于斗维之野,常有黄云覆护其上。Có nghĩa : "Bà mẹ của ông Đế Nghiêu là Khánh Đô, được sinh ra ở ngoại ô của đất Đẩu Duy, thường hay có đám mây vàng che phủ ở bên trên". Cho nên mượn tích MÂY VÀNG để chỉ nơi cha mẹ ở. Thúy Kiều nói với Thúc Sinh là "Lòng còn gởi áng MÂY VÀNG" là ý muốn nói "Mình còn đang nhớ tới cha mẹ ở nhà". Rõ khéo làm dáng theo kiểu cách của một cô kỹ nữ : Cởi hết quần áo rồi tắm ở trong màn cho Thúc Sinh xem, để Thúc làm thơ ca ngợi, rồi lại bảo rằng "Tôi nhớ cha mẹ tôi quá nên không thể họa vần được"(!?)

 

     Khi biết là Thúc Sinh thật lòng có ý muốn chuộc mình ra khỏi lầu xanh, Thúy Kiều cũng đã rất cảm kích :

 

                              Nàng rằng: Muôn đội ơn LÒNG.(57)

                              Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.

 

     THÚ 娶 là Cưới, nên BÊN THÚ là bên cưới, chỉ Thúc Sinh; còn TÒNG 從 là Theo chồng, nên BÊN TÒNG là bên theo chồng, chỉ Thúy Kiều. Thúy Kiều cũng biết thân biết phận mình là kỹ nữ, Thúc Sinh có thể chỉ "Yêu hoa yêu được một màu điểm trang" nên sợ đến lúc :

 

                                   Rồi ra lạt phấn phai hương,

                       LÒNG kia giữ được thường thường mãi chăng ?(58)

 

     Vả lại Thúy Kiều cũng biết là Thúc Sinh đã có vợ ở nhà rồi, cưới thêm mình làm thiếp chỉnh e làm hại đến tình cảm vợ chồng của Thúc Sinh và Hoạn Thư :

 

                                  Bấy lâu khăng khít dải đồng,

                       Thêm người người cũng thêm LÒNG riêng tây.(59)

 

     Hơn nữa Thúc Sinh lại còn có cha là Thúc Ông nữa, không biết là ông có chấp nhận cho Thúc Sinh chuộc mình từ lầu xanh ra hay không ? :

 

           Ở trên còn có nhà thông,

Lượng trên trông xuống biết LÒNG có thương ?(60)

           Sá chi liễu ngõ hoa tường?

Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.

 

                          

 

     Nhưng rồi cô Kiều lại nói xuôi theo lòng mong muốn của chàng Thúc để cho chàng yên lòng :"Thương sao cho trọn thì thương. Tính sao cho vẹn mọi đường thì vâng", làm cho chàng Thúc nổi máu "anh hùng cứu mỹ nhân" vỗ ngực :

 

                               Sinh rằng: Hay nói dè chừng!

                     LÒNG đây lÒNG đấy chưa từng hay sao ?(61)

                               Đường xa chớ ngại Ngô Lào,

                          Trăm điều hãy cứ trông vào một ta!

     

       Nói thì "anh hùng" là thế, nhưng khi Thúc Ông về đến nơi với :

 

                                Phong lôi nổi trận bời bời,

                         NẶNG LÒNG e ấp tính bài phân chia.(62)

 

   ... và đưa ra phán quyết "Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh" làm cho chàng Thúc phải xuống nước nài nỉ van xin không được rồi hăm he đòi tự vẫn "Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi", đến nỗi Thúc Ông "Sốt gan ông mới cáo quì cửa công" và Quan Phủ đã bắt Thúy kiều và Thúc Sinh đến để tra hỏi, rồi đưa ra hai điều kiện "Một là cứ phép gia hình, Một là lại cứ lầu xanh phó về". Thúy Kiều đã rất cứng rắn và quyết định chịu gia hình chớ không chịu về lại lầu xanh, bị đánh đến đỗi "Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày". Làm cho Thúc Sinh đứng xa xa mà nhìn, đau lòng mà chẳng biết phải làm sao :

 

                                Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,

                           Nẻo xa trông thấy LÒNG càng xót xa.(63)

 

  ... chàng khóc và tự trách mình :

 

                              CẠN LÒNG chẳng biết nghĩ sâu.(64)

                               Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.

 

  ... khóc than đến nỗi :

                             Phủ đường nghe thoảng vào tai,

                       ĐỘNG LÒNG lại gạn đến lời riêng tây.(65)

 

       Thúc Sinh được dịp kể lể "Khi xưa nàng đã biết thân có rày. Tại tôi hứng lấy một tay, Để nàng cho đến nỗi này vì tôi", Thúc lại đề cao Thúy Kiều "Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên", nên sau khi thử tài thơ của Thúy Kiều, quan phủ đã đứng ra kết hợp cho hai người và khuyên Thúc Ông là "Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình cho xong". Thúy Kiều và Thúc Sinh lại được sum vầy đoàn tụ "Huệ lan sực nức một nhà, Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa". Thúy Kiều lại khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư để khỏi phải mang tiếng là "Mặn tình cát lũy nhạt tình tào khang", nên "Xin chàng kíp liệu lại nhà" thú thật với Hoạn Thư để "Trước người đẹp ý sau ta biết tình", nên : 

 

                               Nghe lời khuyên nhủ thong dong,

                        ĐÀNH LÒNG sinh mới quyết lòng hồi trang.(66) 

 

         ĐÀNH LÒNG là bằng lòng, là chịu nghe theo; còn ĐỘNG LÒNG là Xúc động trong lòng (như "ĐỘNG LÒNG lại gạn đến lời riêng tây"(65); còn CẠN LÒNG là chỉ lòng nông cạn, hời hợt (như "CẠN LÒNG chẳng biết nghĩ sâu"(64), và NẶNG LÒNG là Đặt nặng, là xem trọng vấn đề gì đó (như "NẶNG LÒNG e ấp tính bài phân chia"(62); Sau đây, ta lại có từ KHÓ LÒNG là Làm khó cho lòng mình, tức là làm những chuyện mà trong lòng phải lo lắng mãi mãi, như Cô Kiều đã khuyên chàng Thúc về tới nhà cứ nói thẳng, nói thật với vợ, chớ đừng khiếm cách dấu quanh :

 

                                      Dễ lòa yếm thắm trôn kim,

                              Làm chi bưng mắt bắt chim KHÓ LÒNG !(67)

                                      Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,

                              Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.

 

      Về phần Hoạn Thư ở nhà đã "Từ nghe vườn mới thêm hoa, Miệng người đã lắm tin nhà thì không", nên :

 

                                    Lửa tâm càng dập càng nồng,

                           Trách người đen bạc ra LÒNG trăng hoa.(68)

 

      Nên Hoạn Thư rắp tâm "Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay", nên chi :

 

                                  Nỗi LÒNG kín chẳng ai hay,(69)

                              Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

                                

      Nhưng "Tuần sau bỗng thấy hai người, Mách tin ý cũng liệu bài tâng công" đến mét với Hoạn Thư là Thúc Sinh có vợ bé bên ngoài, không ngờ :

 

                                  Tiểu thư nổi giận đùng đùng:

                           Gớm tay thêu dệt ra LÒNG trêu ngươi!(70)

 

      Bèn "Vội vàng xuống lệnh ra uy, Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng", thế nên "Trong ngoài kín mít như bưng. Nào ai còn dám nói năng một lời!", và Hoạn Thư thì cứ "phớt tỉnh Ăng-Lê" : "Buồng đào khuya sớm thảnh thơi, Ra vào một mực nói cười như không":

 

                             Đêm ngày LÒNG những dặn LÒNG,(71)         

                             Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.

 

      Thúc Sinh về đến nhà, Hoạn Thư tiếp đãi thật chu đáo nhiệt tình :

 

                               Tẩy trần vui chén thong dong,

                          Nỗi LÒNG ai ở trong LÒNG mà ra.(72)

   

      "Chàng về xem ý tứ nhà, Sự mình cũng rắp lân la tỏ bày", nhưng "Mấy phen cười nói tỉnh say, Tóc tơ chẳng động mảy may sự tình". Hoạn Thư phớt lờ xem Thúc Sinh có thú thật không, còn Thúc Sinh thấy êm re không có động tĩnh gì cả thì lại "trổ mòi" khôn vặt :"Nghĩ đà bưng kín miệng bình, Nào ai có khảo mà mình đã xưng?". Nên đến năm sau, Hoạn Thư lại khuyên chàng về thăm Thúc Ông "Cách năm mây bạc xa xa, Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn". Thúc Sinh mừng quýnh "Được lời như cởi tấc son, Vó câu dung ruổi nước non quê người". Chàng Thúc vừa đi khỏi thì "Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh" về nhà để "mét má" : "Thưa nhà huyên hết mọi tình, Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen."      

       

       Riêng phần Thúy Kiều, từ khi khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả thì cũng lo cho số kiếp lẻ mọn của mình "Sắn bìm chút phận cỏn con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?" nên mới :

 

       Nén hương đến trước Phật đài,

Nỗi LÒNG khấn chửa cạn lời vân vân.(73)

                 

 

 

... thì "Dưới hoa dậy lũ ác nhân, Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra", Khuyển Ưng của Hoạn Thư sai đến bắt Thúy Kiều về Vô Tích. Hoạn Bà đánh cho một trận rồi "Buồng the dạy ép vào phiên thị tì". May mà nhờ mụ quản gia thương tình "Khi chè chén khi thuốc thang, Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh" và nhắc nhở :".Ở đây tai vách mạch rừng, Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi" vì "Kẻo khi sấm sét bất kỳ, Con ong cái kiến kêu gì được oan?", nên :  

 

                                   Nàng càng giọt ngọc như chan,

                        Nỗi LÒNG luống những bàng hoàng niềm tây.(74)

 

      Đến khi Hoạn Bà giao nàng về cho Hoạn Thư với lý do "Tiểu thư dưới trướng thiếu người, Cho về bên ấy theo đòi lầu trang". Nàng vẫn chịu an phận khép mình "Sớm khuya khăn mặt lược đầu, Phận con hầu giữ con hầu dám sai". Nghe nói nàng đàn giỏi, Hoạn Thư cũng đã "Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày" :

 

                               Lĩnh lời nàng mới lựa dây,

                      Nỉ non thánh thót dễ say LÒNG người.(75)

                              Tiểu thư chừng cũng thương tài,

                       Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

Nàng cũng phải đành :

                              Cửa người đày đọa chút thân,

                        Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ LÒNG.(76)

 

     "Nước trôi hoa rụng đã yên, Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian", Thúy Kiều không biết tại sao người ta lại bắt mình làm con hầu ở đây, mãi đến khi Thúc Sinh về thăm nhà thì mới vỡ lẽ ra Hoạn Thư là vợ cả của Thúc Sinh và mới sợ cho cái kế sách ghen tuông của tiểu thư họ Hoạn :"Rõ ràng thật lứa đôi ta, Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi". Riêng chàng Thúc cũng "...phách lạc hồn siêu" và lại "Sợ quen dám hở ra lời, Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa". Hoạn Thư gỉa như không biết ngạc nhiên hỏi rằng : Vợ chồng lâu ngày gặp mặt sao chàng lại khóc ? :

 

                                   Sinh rằng hiếu phục vừa xong,

                          Suy LÒNG TRẮC DĨ đau LÒNG CHUNG THIÊN.(77)

DCD_hathucSinh.png
DCD_nenhuong.png
DCD_longtracdi.png

TRẮC DĨ 陟屺 là nói gọn lại hai câu thơ của chương Ngụy Phong  魏風, Trắc Hỗ 陟岵 trong Kinh Thi 詩經 là :"Trắc bỉ Dĩ hề, Chiêm vọng mẫu hề 陟彼屺兮,瞻望母兮". Có nghĩa : Trèo lên trên núi Dĩ để mong ngóng bóng của mẹ. Nên LÒNG TRẮC DĨ là Lòng tưởng nhớ đến me. Còn CHUNG THIÊN 終天 thì CHUNG là hết, THIÊN là Trời; CHUNG THIÊN là hết tuổi của trời cho, nên Chung Thiên có nghĩa là suốt đời.

       Câu "Suy LÒNG TRẮC DĨ, đau LÒNG CHUNG THIÊN": Ý của Thúc Sinh muốn nói là Nhớ đến mẹ đã chết nên đau buồn suốt đời, cho nên muốn khóc thì khóc (chớ không phải khóc vì thấy Thúy Kiều bị bắt làm Hoa Nô). Hoạn Thư đã khen :"Khen rằng: Hiếu tử đã nên! Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu", rồi bắt Thúy Kiều đứng hầu rượu cho hai người, lại bắt Thúy Kiều phải đàn cho vợ chồng cùng nghe, Thúy Kiều mới "Vâng lời ra trước bình the vặn đàn" :

 

                                  Bốn dây như khóc như than,

                          Khiến người trên tiệc cũng tan nát LÒNG.(78)

                                 Cũng chung một tiếng tơ đồng,

                        Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.   

 

                                  

        Hành hạ được Thúc Sinh và Thúy Kiều, Hoạn Thư cũng cảm thấy :

 

                               LÒNG riêng khấp khởi mừng thầm:(79)

                               Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay. 

 

      Về phần chàng Thúc thì :

 

                                    Sinh thì gan héo ruột đầy,

                         Nỗi lÒNG càng nghĩ càng cay đắng LÒNG.(80)

 

      Riêng phần Thúy Kiều thì "Một mình âm ỉ canh chầy, Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh". Hoạn Thư còn bắt Thúc Sinh phải tra hỏi Thúy Kiều xem tại sao lại buồn, Thúy Kiều phải "Thân cung nàng mới thảo qua một tờ" để Thúc Sinh "Diện tiền trình với Tiểu thơ". Sau khi xem xong tờ "thân cung" của Kiều, Hoạn Thư cũng bảo "Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương" và phán :

 

                                  Tiểu thư rằng: ý trong tờ,

                         Rắp đem mệnh bạc nương nhờ cửa Không.

                               Thôi thì thôi cũng chiều LÒNG,(81)

                          Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.

 

     "Sẵn Quan Âm Các vườn ta, Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. Có cổ thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh". Thế là Thúy Kiều lại "Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền". Ở Quan Âm Các Thúy Kiều cũng "Phật tiền thảm lấp sầu vùi, Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương" :

 

                               Cho hay giọt nước cành dương,

                      LỬA LÒNG tưới tắt mọi đường trần duyên.(82)

 

           Lửa Lòng chữ Nho là TÂM HỎA, là ngọn lửa dục vọng cứ âm ỉ đốt mãi trong lòng người ta để thôi thúc sự ham muốn... đủ thứ một cách mãnh liệt, mà trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết là : "Ngọn TÂM HỎA đốt dàu nét liễu, Giọt hồng băng thấm ráo làn son". Ta gặp lại từ LỬA LÒNG ở đoạn cuối Truyện Kiều, lúc Thúy Kiều phân bua với Vương Viên Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ :

 

                                 Sự đời đã tắt LỬA LÒNG,(83)

                           Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?! 

 

      Khi Thúc Sinh đến Quan Âm Các tìm Thúy Kiều lại giở giọng "chung tình dõm" bảo là cũng muốn sống chết với Thúy Kiều "Quản chi lên thác xuống ghềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong", nhưng vì chưa có con nối dõi nên đành phải :

 

                               Tông đường chút chửa CAM LÒNG,(84)

                               Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.

 

      Không làm gì được trước cô vợ qúa quắc, Thúc Sinh đành phải khuyên Kiều bỏ trốn "Liệu mà xa chạy cao bay, Ái ân ta có ngần này mà thôi!". Chàng đã nhận xét :

 

                              Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,

                     LÒNG NGƯỜI nham hiểm biết đâu mà lường.(85)

 

      "Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường" là nói theo câu chữ Nho "Thâm uyên chung hữu đễ, Nhân tâm bất khả trắc 深淵終有底, 人心不可測" Có nghĩa : Vực sâu còn có đáy, chớ lòng người thì không thể đo lường được".

 

      "Cất mình qua ngọn tường hoa, Lần đường theo bóng trăng tà về tây", trốn khỏi Quan Âm Các trong cảnh "Mịt mù dặm cát đồi cây, Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương", may mà gặp được Chiêu Ẩn Am và lại gặp được sư Giác Duyên :

 

                                  Thấy màu ăn mặc nâu sồng,

                     Giác Duyên sư trưởng LÀNH LÒNG liền thương.(86)

 

      Cũng may mà Thúy Kiều đã :

 

                                Kệ kinh câu cũ THUỘC LÒNG,(87)

                          Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.

 

                       

            Khi biết Thúy Kiều từ Quan Âm Các của nhà Hoạn Thư trốn ra, Giác Duyên đã :

 

                             Rỉ tai nàng, mới GIẢI LÒNG:(88)

                            Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;

                                 E chăng những sự bất kỳ,

                         Để nàng cho đến thế thì cũng thương!

 

      Cho nên Giác Duyên mới gởi nàng cho một nữ thí chủ là Bạc Bà, nào ngờ "Bạc bà học với Tú bà đồng môn!", cho nên "Thấy nàng mặt phấn môi son, Mừng thầm được mối bán buôn có lời", bèn ra sức ép nàng phải lấy cháu của bà ta là Bạc Hạnh để cùng về sống ở đất Châu Thai :

 

                                 Bấy giờ ai lại biết ai,

                     Dầu lÒNG BỂ rộng sông dài thênh thênh.(89)

                           Nàng như quyết chẳng thuận tình,

                          Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau !

 

      Trước lời hăm dọa đó Thúy Kiều đành phải nghe theo mà thôi, nhưng nàng vẫn còn ái ngại :

 

                              Cùng đường dù tính chữ tòng,

                      Biết người, biết mặt, biết LÒNG làm sao?(90)

                                Nữa khi muôn một thế nào,

                         Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?

 

      Câu "Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao ?" là diễn Nôm vế hai của câu ngạn ngữ "Họa hổ họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm 畫虎畫皮難畫骨 知人知面不知心." Có nghĩa : Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương ở bên trong, biết người biết mặt chẳng biết lòng dạ như thế nào !

 

      Khi biết Thúy Kiều đã ưng chịu, thì chàng Bạc Hạnh bèn "Một nhà dọn dẹp linh đình, Quét sân, đặt tráp, rửa bình, thắp nhang" và rất hoa loa hời hợt "Bạc Sinh quì xuống vội vàng, Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ công" : 

 

                             Trước sân LÒNG đã giãi LÒNG,(91)

                            Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. 

 

                    "Thành thân mới rước xuống thuyền, Thuận buồm một lá xuôi miền Châu Thai" và ở nơi đây, một lần nữa Thúy Kiều bị Bạc Hạnh bán vào lầu xanh. Khi "Đưa nàng vào lạy gia đường, Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!" cho nên "Thoắt trông nàng đã hay tình, Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao", khiến cho nàng không nén nổi phải văng tục "Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!" Cũng may là sau đó lại gặp được người hùng Từ Hải với "Râu hùm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao" từ biên đình sang :

 

                              Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,

                        Tấm LÒNG nhi nữ cùng xiêu anh hùng.(92)

 

      Sau khi đã chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để "Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng" rồi, thì khi :

 

                             Nửa năm hương lửa đương nồng,

                     Trượng phu thoắt đã ĐỘNG LÒNG bốn phương.(93)

 

      "Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng dong" Thúy Kiều cũng đã xin với Từ Hải :

 

                             Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,

                        Chàng đi thiếp cũng một LÒNG xin đi!(94)

 

                       

 

      Từ Hải đã âu yếm mắng yêu :"Từ rằng: Tâm phúc tương tri, Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?" và yên ủi khuyên nhủ Kiều :

 

                             Đành LÒNG chờ đó ít lâu,(95)

                         Chầy chăng là một năm sau vội gì?

 

      Ở lại có một mình, Thúy Kiều đã nhớ về gia đình cha mẹ :

 

                             Xót thay Huyên cỗi Xuân già,

                      Tấm LÒNG thương nhớ, biết là có nguôi.(96)

 

      HUYÊN 萱 là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người mẹ. Còn XUÂN 椿 thì theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình. Nên XUÂN HUYÊN là từ dùng để gọi chung CHA MẸ. Câu "Xót thay HUYÊN cỗi XUÂN già" là để chỉ cha mẹ đã già yếu. 

 

      Lại nhớ đến người yêu đầu tiên, chàng Kim Trọng của ngày xưa cũ :

 

                                Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

                          Dẫu lìa ngó ý còn vương TƠ LÒNG!(97,27)

 

      Rồi lại nhớ đến quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn :

 

                              TẤC LÒNG cố quốc tha hương,(98)

                           Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.

 

      Khi đã có trong tay "...mười vạn tinh binh", Từ Hải đã phái "Hai bên mười vị tướng quân, Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu. Cung nga, thể nữ nối sau, Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui" và "Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng", chưa hết, khi đến nơi thì còn "Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ Công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài" và Từ Hải đã cả cười nói với Thúy Kiều rằng : 

 

                                 Anh hùng mới biết anh hùng,

                          Rày xem phỏng đã CAM LÒNG ấy chưa?(99)

 

      Thúy Kiều cũng đã cười đáp lại rằng :

 

                                 Đến bây giờ mới thấy đây,

                        Mà LÒNG đã chắc những ngày một hai !(100)

 

                            

 

       Đâu phải "Đến bây giờ mới thấy đây", mà lòng thiếp đã chắc chắn là chàng sẽ thành danh trong ngày một ngày hai mà thôi ! Quả là một lời nói nịnh êm tai và dễ thương biết chừng nào !

 

       Mời đọc tiếp phần (3).

 

                                                                                                杜紹德

                                                                                           Đỗ Chiêu Đức

Tạp Ghi và Phiếm Luận: 

 

                    Chữ LÒNG trong Truyện KIỀU (1)

DCD_hai a to nga.png

                                                    Đầu LÒNG hai ả tố nga,

                                            Thuý Kiều là chị, em là Thúy Vân.

 

           Đó là hai câu thơ trong phần mở đầu của Truyện Kiều giới thiệu về hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. "Sanh đôi ?" Vì "đầu lòng" mà đến "hai ả tố nga" lận ! Về tuổi tác thì "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê".  Tuổi "cập kê 及笄" là tuổi cài trâm, là tuổi mười lăm, tuổi thành niên của các cô gái ngày xưa đã có thể xuất gía (lấy chồng) hợp pháp; nói theo tâm lý tình cảm, là tuổi đã biết rung động, biết yêu. Cho nên khi nghe Vương Quan kể về ca nhi Đạm Tiên, rồi kết luận là:

 

                                         Trải bao thỏ lặn ác tà,

                                   Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm! 

thì Thúy Kiều đã ...

                                         LÒNG đâu sẵn mối thương tâm,

                                    Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa .

 

          Chữ LÒNG trong ĐẦU LÒNG là chữ PHÚC 腹, là cái Bụng; còn chữ LÒNG trong câu thơ trên là chữ TÂM 心, là trái tim, là tấm lòng. Đến khi Đạm Tiên hiển linh cho xem thì Thúy Kiều lại :

 

                                         LÒNG THƠ lai láng bồi hồi,

                                      Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

 

          LÒNG THƠ ở đây là cái HỒN THƠ của Thúy Kiều. Kịp đến khi về lại nhà "Một mình lặng ngắm bóng nga", nhớ đến Đạm Tiên, nhớ đến Kim Trọng, nên chi ...

 

                                      Ngổn ngang trăm mối bên LÒNG,

 

          LÒNG nầy là LÒNG DẠ, là tâm sự, còn lời của Đạm Tiên nói với Kiều trong mơ là :

 

                                          Đã LÒNG HẠ CỐ đến nhau,

                                     Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

 

          LÒNG HẠ CỐ là chỉ cái BỤNG DẠ tốt của Thúy Kiều đã chiếu cố đến Đạm Tiên. 

Ta thấy : 

          Cũng cùng một chữ LÒNG, nhưng có rất nhiều nghĩa tùy theo cách dùng và ngữ cảnh ...  LÒNG là cái bụng, là trái tim, là lòng dạ, là tấm lòng, là cái hồn (thơ) ... Vì thế, chữ LÒNG đã được cụ Nguyễn Du sử dụng đến hơn 130 lần trong hơn 130 câu thơ khác nhau. Nếu điểm hết hơn 130 câu thơ nầy cùng những câu thơ đi kèm, thì ít nhất ta cũng thuộc được hơn 500 câu Kiều từ đầu cho đến cuối truyện. Bạn có muốn học thuộc Truyện Kiều bằng cách điểm những câu thơ có chữ LÒNG nầy với tôi không ? Nào, bây giờ thì ta bắt đầu nhé !...

DCD_truyenKieu.png

Trong bốn câu thơ mở đầu của Truyện Kiều, sau khi đưa ra thuyết "Tài Mệnh Tương Đố" là " Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau" xong, cụ Nguyễn Du đã cảm khái rằng :

 

                                           Trải qua một cuộc bể dâu,

                                  Những điều trông thấy mà đau đớn LÒNG.

 

         Qua 5 chữ LÒNG giáo đầu ở phần trên , đây là chữ LÒNG thứ 6. Chữ LÒNG thứ 7 là sau khi gặp người đẹp ở hội Đạp Thanh, thì ...

 

                                            Chàng Kim từ lại thư song,

                                   Nỗi nàng canh cánh bên LÒNG biếng khuây. 

... và suốt ngày cứ ...

                                    Mặt mơ tưởng mặt LÒNG khao khát LÒNG.(8)

 

... đến khi "canh me" nhặt được kim thoa của Thúy Kiều trên cành đào, rồi lại đánh tiếng :"Thoa nầy bắt được hư không, biết đâu Hợp Phố mà mong châu về ?!" Để cô Kiều phải lên tiếng năn nỉ :

 

                                ... Ơn LÒNG quân Tử xá gì của rơi,(9)

                                       Chiếc thoa là của mấy mươi,

                                 Mà LÒNG trượng nghĩa khinh tài xiết bao !(10)

 

       Kim Trọng lại có dịp tâng bốc người đẹp và bày tỏ nỗi lòng tưởng nhớ của mình :

 

                                     Được rày nhờ chút thơm rơi,

                             Kể đà thiểu não LÒNG người bấy nay!(11)

 

      Còn Thúy Kiều thì "Tình trong như đã", nhưng "mặt ngoài còn e" làm ra vẻ chính chuyên "ngây thơ...mụ" :

                                     Dù khi lá thắm chỉ hồng,

                            Nên chăng thì cũng tại LÒNG mẹ cha.(12)

                                    Nặng LÒNG xót liễu vì hoa,(13)

                                Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa ?

  

       "Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa ?" Nói xong câu nầy, chắc Thúy Kiều cũng giật mình. Lỡ Kim Trọng...bỏ đi luôn thì sao ?! Nên vội níu lại bằng câu :

 

                         ... Nể LÒNG có lẻ cầm lòng cho đang.(14)

                                   Đã LÒNG quân tử đa mang,(15)

                             Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung !

  

       Thế là Cá đã cắn câu, buổi tỏ tình được viên mãn, Kim Trọng đã...

 

                                  Được lời như cởi tấm LÒNG,(16)

                               Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.

 

       Nhưng, vẫn "Sông Tương một dải nông sờ, Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia." Kịp đến khi "Ngày vừa sinh nhật ngoại gia, Trên hai đường dưới nữa là hai em." cùng "Tưng bừng sắm sửa áo xiêm, Biện dâng một lễ xa đem tấc thành." Thúy Kiều ở nhà có một mình, nên mới liều lĩnh đi gặp Kim Trọng, lại bị chàng lẫy hờn :

                             Trách LÒNG hờ hững với LÒNG,(17)

                          Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.

 

       Thúy Kiều lại phải phân bua để an ủi người yêu :

 

                              Vắng nhà được buổi hôm nay,

                         Lấy LÒNG gọi chút ra đây tạ LÒNG !(18)

 

       Rồi cùng nhau "Sánh vai về chốn thư hiên, Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông." với :

 

                                Đủ điều trung khúc ân cần,

                     LÒNG xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.(19)

         

       Khi gặp lại trong đêm, lại cùng nhau thề nguyền hẹn ước "Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mặt một lời song song.":

 

                               Tóc tơ căn vặn tấc LÒNG,(20)

                       Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

 

       Thề nguyền xong rồi, Kim Trọng được nước lại tỏ lời ước ao đòi hỏi :

 

                              Sinh rằng: Gió mát trăng trong,

                        Bấy lâu nay một chút LÒNG chưa cam.(21)

DCD_Kieukhaydan.png

Khi được Thúy Kiều ngỏ ý "Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai." Kim Trọng mới tỏ ý "Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài, Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ." Sau khi được Thúy Kiều đồng ý thì "Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày." Thúy Kiều mới khiêm tốn :

 

                             Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,

                       Làm chi cho nhọc LÒNG này lắm thân !(22)

 

    ... và sau khi nghe Thúy Kiều đàn xong, Kim Trọng đã nhận xét góp ý rất chân thành là :

 

                              Rằng: Hay thì thật là hay,

                       Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!

                              Lựa chi những khúc tiêu tao,

                    Dột LÒNG mình cũng nao nao LÒNG người ?(23)

 

       Vừa thề nguyền hẹn ước xong với Thúy Kiều thì Kim Trọng cũng vừa nhận được tin "...thúc phụ từ đường, Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề", nên phải lên đường đi Liêu Dương để hộ tang chú . Chàng Kim tìm gặp Thúy Kiều để chia tay và hứa hẹn :

 

                                   Trăng thề còn đó trơ trơ,

                            Dám xa xôi mặt mà thưa thớt LÒNG.(24)

 

     ... và cũng để nhắn nhủ :

 

                               Gìn vàng giữ ngọc cho hay, 

                        Cho đành LÒNG kẻ chân mây cuối trời."(25)

 

      Thúy Kiều đã trấn an Kim Trọng rằng :

 

                               Cùng nhau trót đã nặng lời,

                          Dẫu thay mái tóc dám dời LÒNG tơ !(26)

               

       Ta hãy tìm hiểu câu thơ lý thú nầy để thấy được thêm cái hay ho của tiếng Việt ta. "Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ", chữ "dám" trong câu còn có nghĩa là "chẳng dám". Nên câu thơ trên có nghĩa :

 

      - DÁM : Dẫu cho thay mái tóc (từ đen ra trắng), thì mới DÁM dời cái lòng tơ.

      - CHẲNG DÁM : Dẫu cho đến già cũng CHẲNG DÁM dời cái lòng tơ nầy.

 

      Khi ta nói "Hôm nay, trời chắc mưa" Chữ CHẮC ở đây KHÔNG CHẮC chút nào cả ! Vì câu trên có nghĩa "Hôm nay, trời CÓ THỂ mưa". Chữ DÁM thứ (24) trong câu thơ "Dám xa xôi mặt mà thưa thớt LÒNG" ở trên cũng hàm ý như thế. Còn...

 

      Cái "LÒNG TƠ" là cái Lòng gì ? TƠ ở trong lòng người ta là TƠ TÌNH, khác với TƠ của con nhện và con tằm là "Tơ hữu hình", còn TƠ TÌNH là sợi "Tơ vô hình", nó vướng vít và quấn lấy con người chặc hơn là tơ hữu hình mà người ta còn gọi là TƠ LÒNG vương vấn. Cái gì trong lòng có tơ ? Cái ngó sen, khi ta ngắt đôi thì trong lòng của hai bên ngó sen còn vương vít mấy sợi tơ như cụ Nguyễn Du đã tả khi Từ Hải "Quyết lời dứt áo ra đi", Thúy Kiều ở lại một mình đã nhớ về Kim Trọng như sau :

 

                             Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

                       Dẫu lìa NGÓ Ý còn vương TƠ LÒNG !(27)

 

              

                     

 

 

 

                                  Tơ lòng                  Tơ nhện             Tơ tằm

 

      Ta gặp lại từ "LÒNG TƠ" khi Vương Viên Ngoại bị thằng bán tơ vu oan, đến nỗi Thúy Kiều phải nhờ người may mối đánh tiếng bán mình "Sự LÒNG ngỏ với băng nhân"(28) và Mã Giám Sinh đã mua Thúy Kiều với "... vàng ngoài bốn trăm" . Nên khi hay tin Thúy Kiều đã bán mình, Vương ông đã vật vã đau đớn đến muốn quyên sinh : 

 

                           Một lần sau trước cũng là,

                   Thôi thì mặt khuất chẳng thà LÒNG đau !(29)

 

    Thúy Kiều đã phải "Nhỏ to nàng mới tìm lời khuyên can" và phân tích nặng nhẹ cho Vương Viên Ngoại nghe :

                              

                        LÒNG TƠ dù chẳng dứt tình,(30)

                     Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.

                         Thà rằng liều một thân con,

                      Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.  

 

      Chuyện Kiều bán mình chuộc cha làm cho cụ Nguyễn Du cũng cảm khái cho cái nhân tình thế thái mà lẫy rằng :

 

                          Trong tay đã sẵn đồng tiền,

                    Dầu LÒNG đổi trắng thay đen khó gì!(31)

                            Họ Chung ra sức giúp vì,

                      Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.

       

     Sau khi "Việc nhà đã tạm thong dong" thì Thúy Kiều tủi thân vò võ "Một mình nàng ngọn đèn khuya" than cho số phận :

 

                                  Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,

                            Xót LÒNG đeo đẳng bấy lâu một lời!(32)

 

    ...Với "Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn" làm kinh động đến "Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han" Thúy Kiều đã phải e ngại tỏ bày :

 

                                 Rằng: LÒNG đương thổn thức đầy,(33)

                            Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.

                                   Hở môi ra cũng thẹn thùng,

                              Để LÒNG thì phụ tấm LÒNG với ai.(34)

       

                                  

      Và xót xa tủi phận với :

 

                                  Dù em nên vợ nên chồng,

                        Xót người mệnh bạc, ắt LÒNG chẳng quên.(35)

 

      Đến lúc rồi cũng phải chia tay vì đã bán mình theo Mã Giám Sinh :

 

                                   Đau LÒNG kẻ ở người đi,(36)

                                  Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.

 

     Đi theo một người mà "Ghế trên ngồi tót sổ sàng", giờ lại phải ở chung một phòng, khiến cho Thúy Kiều :

 

                                     Ngại ngùng thẹn lục e hồng,

                              Nghĩ LÒNG lại xót xa LÒNG đòi phen.(37)

                                       Phẩm tiên rơi đến tay hèn,

                                  Tiếc công nắng giữ mưa gìn với ai.

 

      Thúy Kiều đâm ra hối tiếc ngẩn ngơ cho sự gìn giữ trong trắng của mình với người yêu Kim Trọng :

 

                                        Biết thân đến bước lạc loài,

                                   Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.

                                           Vì ai ngăn đón gió đông,

                                   Thiệt LÒNG khi ở đau LÒNG khi đi.(38)

 

      Nỗi lòng chỉ còn biết tâm sự xẻ chia với mẹ khi chia tay lúc "Một nhà huyên với một Kiều ở trong" mà thôi :

 

                                      Nhìn càng lã chã giọt hồng,

                               Rỉ tai nàng mới giãi LÒNG thấp cao.(39)

 

      Nhưng rồi cũng phải chấp nhận cho hoàn cảnh trái ngang trước mắt :

 

                                       Lỡ làng nước đục bụi trong,

                                Trăm năm để một tấm LÒNG từ đây.(40)

 

      Chỉ tội nghiệp cho Vương Viên Ngoại :

 

                                      Xót con LÒNG nặng trì trì,(41)

                                   Trước yên ông đã nằn nì thấp cao.

 

      Còn Thúy Kiều chia tay trong cảnh trời thu ảm đạm "Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay" và trong cảnh "Vi lô san sát hơi may, Một trời thu để riêng ai một người", ngoài việc "Thấy trăng mà thẹn những lời non sông" với Kim Trọng ra, thì cô lại nhớ đến mẹ cha khi :

 

                                          Rừng thu từng biếc chen hồng,

                                  Nghe chim như nhắc TẤM LÒNG THẦN HÔN.(42)

 

                                 

 

      THẦN 晨 là buổi sáng, HÔN 昏 là buổi chiều; TẤM LÒNG THẦN HÔN phát xuất từ thành ngữ THẦN HÔN ĐỊNH TĨNH 晨昏定省 là Tấm lòng của con cái Sớm Chiều thăm hỏi chăm nom lo lắng cho hai đấng sanh thành là Cha và Mẹ theo như trong sách Lễ Ký, chương Khúc Lễ Thượng《禮記·曲禮上》là :“Phàm vi nhân tử chi lễ, đông ôn nhi hạ thanh, hôn định nhi thần tỉnh 凡為人子之禮,冬温而夏清,昏定而晨省。Có nghĩa : Phàm cái lễ của bổn phận làm con là, mùa đông phải giúp cha mẹ làm ấm, mùa hè thì làm mát, buổi chiều thăm hỏi, buổi sáng phải vấn an”. Tức là : Bổn phận làm con phải sáng thăm tối viếng, quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ lúc tuổi già. 

       

      Trở lại với Thúy Kiều, sau khi đến Lâm Truy, bị Tú Bà đánh cho một trận dằn mặt, cô đã rút dao ra tự sát "Sợ gan nát ngọc liều hoa, Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay", nên Tú Bà phải "Kề tai mấy nỗi nằn nì", hứa là sẽ "Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà" để gả Thúy Kiều Cho đàng hoàng :

 

                                      Mụ rằng: Con hãy thong dong,

                                Phải điều LÒNG lại dối LÒNG mà chơi!(43)

                                        Mai sau ở chẳng như lời,

                                 Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.

 

       Trước lời hứa hẹn thề thốt của Tú Bà, Thúy Kiều cũng tạm yên lòng :

 

                                         Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,

                               Đành LÒNG, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.(44)

 

   ... Và Tú Bà đã cho Thúy Kiều vào ở lầu Ngưng Bích để chờ ngày xuất giá theo chồng. Thúy Kiều đã ở nơi đây với một tâm trạng phập phòng không yên :

 

                                          Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

                                  Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm LÒNG.(45)

 

  ... nhìn quanh thì chỉ thấy...

       

                                          Chung quanh những nước non người,

                                         Đau LÒNG lưu lạc, nên vài bốn câu.(46)

 

      Chính vì cái "...vài bốn câu" đó mà anh chàng Sở Khanh mới có cớ để họa vần làm quen, ra vẻ ta đây là người thương hương tiếc ngọc, cứu khổn phò nguy :

 

                                            Tức gan riêng giận trời già,

                                       LÒNG này ai tỏ cho ta, hỡi LÒNG ?(47)

 

  ... và Thúy Kiều đã mắc bẫy của Sở Khanh, khi trăn trở :

 

                                           Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,

                                   Cám LÒNG chua xót, nhạt tình chơ vơ.(48)

 

      Nên khi xuống lầu theo Sở Khanh bỏ trốn, Thúy Kiều cũng đã thấp thỏm không yên :

 

                                            Lối mòn cỏ nhạt mùi sương,

                                   LÒNG quê đi một bước đường, một đau.(49)

 

                             

 

      Bị Tú Bà bắt lại "Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra, Đang tay giập liễu, vùi hoa tơi bời". Đến đổi Thúy Kiều phải "Hết lời thú phục, khẩn cầu, Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa" và phải thốt ra một câu đau lòng là :

 

                                          Thân lươn bao quản lấm đầu,

                                   Chút LÒNG trinh bạch từ sau xin chừa !(50)

 

      Vì lở dại "bỏ...lầu theo trai" nên không dám xưng là mình "trinh bạch" nữa, thật đáng thương thay !

 

 

                  Mời đọc tiếp phần 2.

 

                                                                                                       杜紹德

                                                                                                   Đỗ Chiêu Đức

_______________________

DCD_tolong_2.png

Giai Thoại Văn Chương:

  

                                      SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT  (4)

DCD_lactanvuong.png

                          Người thứ tư trong Sơ Đường Tứ Kiệt : LẠC TÂN VƯƠNG

        

         LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 (626?-687?) tự là Quan Quang 觀光. Tên và Tự của ông đều xuất phát từ quẻ Khôn 坤 (lục tứ) của Kinh DỊCH là : QUAN quốc chi QUANG, lợi dụng TÂN chi VƯƠNG 觀國之光,利用賓於王. Có nghĩa : Quan sát dân tình trong nước thì biết được đức hạnh của nhà vua, và để quyết định xem có đến để phò trợ nhà vua đó hay không. Ông tên "TÂN VƯƠNG" nên mới lấy tự "QUAN QUANG" là vì thế. Lạc Tân Vương người đất Nghĩa Ô Vụ Châu (thuộc huyện Nghĩa Ô tỉnh Chiết Giang ngày nay). Từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng, bảy tuổi làm bài "Vịnh Nga 咏鹅" còn truyền tụng đến hiện nay. Ông xuất thân từ gia đình hàn vi, nhưng tuổi trẻ tài cao. Trong năm Vĩnh Huy (650) ông đã là Chủ Bộ về Văn học và võ công của Đạo Vương Lý Nguyên Khánh, sau chuyển về làm Chủ Bộ của đất Trường An. Năm Phụng nghi thứ 3 (678) đãm nhiệm chức Thị Ngự Sử, vì can vua động chạm đến Võ hậu nên bị hạ ngục; gặp đại xá nên được tha. Năm Điều lộ thứ 2 (680) nhậm chức Lâm hải Huyện Thừa, đến năm Quang Trạch nguyên niên (684) theo Anh Quốc Công Từ Kính Nghiệp dấy binh thảo phạt Võ Tắc Thiên, soạn bài hịch nổi tiếng cổ kim "Vị Từ Kính Nghiệp Thảo Võ Anh Hịch 為徐敬業討武曌檄". Sau khi Từ Kính Nghiệp bại binh, có tin đồn cho là ông đã bị giết trong loạn quân, nhưng sau nầy có người còn gặp ông đã xuất gia làm hòa thượng ở trong núi.

       Ông cũng là một trong TỨ KIỆT của buổi SƠ ĐƯỜNG. Người đời xếp ông đứng chót trong Tứ Kiệt, nhưng tài hoa và danh tiếng của ông hơn hẵn Lư Chiếu Lân và Dương Quýnh và sánh ngang ngửa với người đứng đầu là Vương Bột. Tương truyền...

       

        Trong một lần cùng cha và một người khách, bạn của cha, đi ngoạn cảnh đồng quê, chú bé Lạc Tân Vương mới 7 tuổi đã làm công chuyện của một "tua-gai"(tour-guide) giới thiệu với khách phong cảnh của quê mình, khi đi đến một bờ hồ nước trong xanh biếc, gió mát thoảng đưa nên mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn, thấp thoáng một vài bông liễu trắng xóa bay phất phơ từ các nhành liễu buông rũ lã lướt bên bờ hồ, trên mặt hồ lại có vài con ngỗng trắng đang bơi lội nhởn nhơ, thỉnh thoảng vổ cánh quạt nước tứ tung và kêu lên "quàng quạt". Trước phong cảnh đẹp đẽ hữu tình nầy, khách mới cười hỏi Lạc Tân Vương rằng :"Nghe nói cháu làm thơ rất giỏi, giới thiệu cảnh đẹp đã hay rồi, vậy cháu thử làm một bài thơ tả cảnh trước mắt xem sao !". Lạc Tân Vương thưa rằng :"Cháu làm bài thơ Vịnh Ngỗng nhé !" Đoạn chú bé đứng trầm ngâm nhìn đàn ngỗng lội trên mặt hồ một lúc, rồi cất tiếng ngâm :

 

                   鵝,鵝,鵝,   Nga, nga, nga,

                   曲項向天歌。   Khúc hạng hướng thiên ca.

                   白毛浮綠水,   Bạch mao phù lục thủy,

                   紅掌撥清波。   Hồng chưởng bát thanh ba.

Có nghĩa :

                    

 

           Ngỗng, ngỗng, ngỗng. Cổ cong hướng lên trời mà kêu (ca). Bộ lông trắng nổi lên trên (phù) mặt nước xanh biếc (lục thủy). Bàn chân hồng đẩy (bát) làn nước gợn sóng trong veo. (THANH 清 nầy có ba chấm thủy, có nghĩa là TRONG)

      

       Có nghĩa:

                  Ngỗng , ngỗng, ngỗng,

                  Cổ cong hướng lên không,

                  Lông trắng trên nước biếc,

                  Chân hồng đẩy sóng trong ! 

 

       Ba tiếng NGỖNG, NGỖNG, NGỖNG vừa chỉ con Ngỗng, vừa như là tiếng kêu của các con ngỗng theo phát âm Quan Thoại : NGẠ, NGẠ, NGẠ ! Vừa tượng thanh vừa vui nhộn như tuổi trẻ của Lạc Tân Vương, vừa nói lên được tình cảm của chú bé dành cho con ngỗng vui mừng khi gặp mặt. Câu hai là hình ảnh tiêu biểu rất tượng hình của cái cần cổ dài và cong của ngỗng vươn lên trời cao khi cất tiếng kêu. Hai câu kết thì thật xuất sắc , nêu bật được đặc điểm của con ngỗng và bối cảnh xung quanh với một thủ thuật tuyệt vời : Lông trắng nổi lên trên mặt nước xanh và chân ngỗng màu hồng đẩy làn nước trong mà bơi tới !

DCD_Nga.png

Khách ngạc nhiên đến thích thú trước tài thơ mẫn tiệp của cậu bé Lạc Tân Vương mới vừa lên bảy tuổi. Ông ta đã nói với cha của Lạc Tân Vương rằng, thằng bé tương lai sẽ là người thành đạt lớn, và quả nhiên Lạc Tân Vương là một trong TỨ KIỆT của buổi sơ Đường, ngang danh với Vương Bột 王勃, Lư Chiếu Lân 盧照鄰 và Dương Quýnh 楊炯, rất giỏi về thơ ngũ ngôn, thất ngôn và nhất là tản văn... 

        

     Về bài thơ VỊNH NGỖNG thì...

     Theo "Giai thoại Văn Chương Việt Nam của Thái Bạch" và của trên mạng "Để Gió Cuốn Đi" có kể rằng : Năm 987, đời Tiền Lê ở nước ta. Vua Nhà Tống sai Lý Giác đi sứ nước Nam. Khi đến chùa Sách Giang, Vua Lê mời sư Pháp Thuận giả làm người lái đò ra đón. Lý Giác rất giỏi và rất thích nói chuyện văn thơ. Ngồi trong thuyền đò, ông thấy trên mặt sông có đôi ngỗng trắng đang bơi, liền buộc miệng đọc :

 

            Nga nga lưỡng nga nga,           鵝鵝兩鵝鵝,

            Ngưỡng diện hướng thiên nha.  仰面向天崖。

 Có nghĩa :

            Hai con ngỗng một đôi,

            Ngước mặt hướng chân trời.

     

    Sứ thần Lý Giác vừa đọc xong, thì người lái đò bèn đọc tiếp ngay là :

 

            Bạch mao phô lục thủy,     白毛舖綠水,

            Hồng trạo bãi thanh ba.    紅棹擺青波。

 Có nghĩa :

            Lông trắng phô nước biếc,

            Chèo hồng quẫy sóng xanh.

 

      Lý Giác rất kinh ngạc, vì không ngờ rằng người lái đò nước Nam lại giỏi văn thơ như thế. Có thể là trước đó cả sứ thần Lý Giác và nhà sư Pháp Thuận đều đã đọc qua bài thơ của chú bé Lạc Tân Vương, nên mới xúc cảnh sanh tình mà buộc miệng đọc ra những câu thơ trên chăng ?! Mặc dù có sửa đổi đôi chút, nhưng tựu trung vẫn từ bài Vịnh Ngỗng của Lạc Tân Vương mà ra cả !

       

        Khi đã trưởng thành, ngoài tài làm thơ viết văn ra, Lạc Tân Vương còn là một hiệp khách với lòng hiệp nghĩa cao độ, chuyên cứu khổn phò nguy, giúp người cô thế bị hiếp đáp, trừng trị tham quan ô lại, trừng trị kẻ bạc tình, thậm chí giết người để báo thù cho kẻ thế cô bị ức hiếp... như cụ Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều : "Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ?!". 

       

       Năm Hàm Hanh thứ 2 đời Đường Cao Tông (671), Lạc Tân Vương từ Tây Vực trở lại Trường An để tìm chút công danh, nhưng không thành, bèn theo Lương Tích Thọ đầu quân ở Dao Châu, tháng 6 từ Dao Châu chuyển sang đất Thục, ở Thành Đô theo lối sống buông thả phóng túng của hiệp khách giang hồ "Tầm thù nhập tửu tứ, Phỏng khách thướng cầm đài 尋姝入酒肆,訪客上琴台" Có nghĩa : Muốn tìm người đẹp thì vào quán rượu, muốn tìm khách tao nhả thì lên cầm đài. Ở đây Lạc Tân Vương kết giao với Lư Chiếu Lân đang là Đô Úy, hai bên cùng xướng họa thật tương đắc. Nhưng sau khi Lư Chiếu Lân dứt bỏ Quách Thị, rồi một đi không trở lại trong khi Quách thị đã mang thai, chờ đợi mõi mòn đằng đẵng suốt hai năm trường, con sanh ra lại chết. Quách thị vô cùng đau xót than thở với Lạc Tân Vương, Vương nổi lòng hào hiệp thay Quách Thị làm một bài thơ trường thiên thất ngôn ca hành "Diễm Tình Đại Quách Thị Đáp Lư Chiếu Lân 艷情代郭氏答盧照鄰". Có nghĩa : "Bài thơ diễm tình thay cho Quách Thị đáp lại Lư Chiếu Lân" để bày tỏ nỗi lòng thương nhớ và oán trách cho sự bạc tình của Lư Chiếu Lân, trong đó có những câu như : 

 

                  迢迢芊路望芝田,    Điều điều thiên lộ vọng chi điền,

                  眇眇函關限蜀川。  Miễu miễu Hàm Quan hạn Thục Xuyên.

                  歸雲已落涪江外,    Quy vân dĩ lạc Phù Giang ngoại,

                  還雁應過洛水瀍。  Hoàn nhạn ưng qua Lạc Thủy Triền...

    Có nghĩa :

                   

 

                  Diệu vợi đường dài ngóng ruộng dâu,

                  Xa xăm Hàm Cốc Thục Giang đầu.

                  Phù Giang mây đã trôi thăm thẳm,

                  Cánh nhạn sông Triền Lạc Thủy đâu ?!...

       

      Ở nơi đất Thục xa xôi ngóng về đất Trường An diệu vợi chỉ thấy toàn ruộng dâu đay che khuất cả tầm mắt bởi ải Hàm Cốc ngăn cách của xứ Thục Xuyên, nhìn lên trời thì chỉ thấy mây trôi thăm thẳm của con sông Phù uốn khúc, mõi mòn đợi cánh nhạn từ sông Triền xứ Lạc Dương của Trường An bay qua dòng Lạc Thủy để đem tin đến nơi nầy... Nhưng mãi mãi vẫn hoài công chờ đợi mà thôi, vì ở nơi kinh thành, chàng Lư Chiếu Lân bạc tình quên nghĩa đã đang vui với :

 

                 柳葉園花處處新,    Liễu diệp viên hoa xứ xứ tân,

                 洛陽桃李應芳春。   Lạc Dương đào lý ứng phương xuân.

                 妾向雙流窺石鏡,    Thiếp hướng song lưu khuy thạch kính,

                 君住三川守玉人。   Quân trú Tam xuyên thủ ngọc nhân !

    Có nghĩa :

                  Liễu hoa mới mẻ khắp nơi nơi,

                  Đào lý Lạc Dương đã đượm rồi.

                  Thiếp đối gương sầu dòng lệ chảy,

                  Chàng ôm người ngọc mặc tình chơi !...

   ... và...

                  悲鳴五里無人問,    Bi minh ngũ lý vô nhân vấn,

                  腸斷三聲誰為續?    Trường đoạn tam thanh thùy vị tục ?

                  思君欲上望夫台,    Tư quân dục thướng Vọng phu đài,

                  端居懶聽將雛曲。   Đoan cư lãn thính tương sồ khúc !

    Có nghĩa :

                      

 

                  Khóc than năm dặm chẳng ai hay,

                  Ruột đứt ba canh luống ngậm ngùi.

                  Trông ngóng nhớ thương chừng hóa đá,

                  Lại sầu con trẻ sớm qua đời !

                                                          ...v.v và v.v....

       Bài thơ được truyền ra khiến cho người người đều oán trách Lư Chiếu Lân là kẻ bạc tình.        

 

       Cũng với tính khí hào hiệp đó được Lạc Tân Vương đem áp dụng vào quan trường, nên vào năm Phụng Nghi thứ ba (678) đời Đường Cao Tông, sau hơn mười năm bị chèn ép trong quan trường, khi vừa mới được thăng làm Thị Ngự Sử, Lạc Tân Vương đã dâng sớ luận bàn triều chính, động chạm đến các đồng liêu và nhất là động chạm đến Võ Hậu, nên bị vu cho tội tham ô rồi bị hạ ngục. Trong ngục ông đã làm bài thơ nổi tiếng dưới đây :

 

             在獄詠蟬         TẠI NGỤC VỊNH THIỀN

 

            西陸蟬聲唱,    Tây lục thiền thanh xướng,

            南冠客思深。    Nam quan khách tứ thâm.

            那堪玄鬢影,    Na kham huyền mấn ảnh,

            來對白頭吟。    Lai đối bạch đầu ngâm.

            露重飛難進,    Lộ trọng phi nan tấn,

            風多響易沉。    Phong đa hưởng dị trầm.

            無人信高潔,    Vô nhân tín cao khiết,

            誰爲表予心?    Thùy vị biểu dư tâm ?!

DCD_tainguc.png

Nghĩa Bài Thơ :

                       Trong Ngục Vịnh Ve

       Trong mùa thu nhưng tiếng ve vẫn còn vang lanh lảnh, khiến cho người tù như ta càng nhớ nhung nghĩ ngợi sâu xa hơn. Làm sao kham được khi tóc hãy còn xanh (như hai cánh ve còn ngân vang) mà phải cam chịu ngâm khúc bạc đầu oan ức bất đắc dĩ nầy. Sương rơi nặng hạt làm cho ve khó mà bay tới, gió rít mạnh nên át cả tiếng ve ngâm. Không có ai tin loài ve thanh cao trong sạch (cũng như ta), nên ai, ai mới là người bộc bạch được nỗi lòng cao khiết của ta đây ?!

 

       Vịnh VE, nhưng lại mượn hình tượng trên cao và tiếng ve ngâm cao vút để gởi gắm và bày tỏ nỗi lòng trong trắng thanh cao đầy tính hiệp nghĩa của mình. Bị chèn ép trù dập để đưa vào tù trong khi hào khí vẫn tràn đầy mà phải ngâm câu bạch đầu ta thán. Không tiến bước được trên con đường chính nghĩa vì bị các thế lực khác trù dập, như con ve không thể bay cao bay xa được vì những hạt sương nặng trĩu của mùa thu; không nói lên tiếng nói trung thực vì bị quyền thế cấp trên chèn ép cũng như con ve không còn cất cao tiếng ngân được vì bị tiếng gió rít át đi. Ai còn trân trọng sự cao khiết của con ve cũng như ai còn có thể vì ta mà bày tỏ nỗi lòng thanh cao trong trắng của ta đây ?

 

Diễn Nôm :

DCD_Vinhve.png

                     Trời thu ve còn vang tiếng,

                     Người tù lòng nghĩ đâu đâu,

                     Sao khiến người còn xanh tóc,

                     Phải ngâm khúc hát bạc đầu.

                     Sương nặng cánh bay không nổi,

                     Gió vờn tiếng hát chìm sâu.

                     Không người tin lòng cao nhã,

                     Ai bày tỏ nỗi lòng sầu ?!

 

       Mùa thu năm sau (679), ông được xá tội. Mùa đông năm đó ông đi về đất Yên (thuộc tỉnh Hà Bắc hiện nay) làm Tham Quân trong một doanh trại, quyết lòng ra sức lập công báo quốc. Bài "Dịch Thủy Tống Biệt 易水送別" được làm trong khoảng thời gian nầy khi ông đưa bạn qua dòng sông Dịch.

 

                     此地別燕丹,    Thử địa biệt Yên Đan

                     壯士髮衝冠。    Tráng sĩ phát xung quan.

                     昔時人已沒,    Tích thời nhân dĩ một,

                     今日水猶寒。    Kim nhật thủy do hàn !

 

                      

 

       DỊCH THỦY 易水 : Còn gọi là Dịch Hà 易河, tên một con sông nằm ở phía tây của Dịch Huyện thuộc tỉnh Hà Bắc, chia làm Nam Dịch Thủy và Bắc Dịch Thủy, là ranh giới phía nam của nước Yên thời Chiến Quốc, nơi mà thái tử Đan tiễn biệt Kinh Kha qua sông để đi thích khách Tần Thủy Hoàng. Bài thơ có nghĩa :

 

      Ta đưa bạn ở nơi nầy, nơi mà Kinh Kha đã từng vẩy tay ly biệt với thái tử Đan của nước Yên. Người tráng sĩ ra đi (thích khách Tần Thủy Hoàng) bi hùng cảm khái đến nỗi tóc dựng đứng đội cả mão lên. Bây giờ, người xưa tuy đã mất rồi, nhưng dòng nước nơi đây vẫn còn toát hơi lạnh lẽo.

 

       Bài thơ vừa tả thực (tiễn bạn), vừa hoài cổ (nhớ lại chuyện xưa), vừa như Vịnh Sử (nhắc lại một thiên lịch sử bi tráng hào hùng của Kinh Kha khi qua sông Dịch) và hàm súc cảm khái một cách bi hùng với hình ảnh "Tích thời nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn !". Cái lạnh của dòng sông Dịch như làm sống lại cảnh đưa tiễn ngày xưa, và cũng làm cho ta nhớ đến bài ca của Cao Tiệm Ly đã hát trên bờ sông khi đưa tiễn bạn :

 

                Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,       風蕭蕭兮易水寒,

                Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn !  壯士一去兮不復還.

Có nghĩa :

                Gió hắt hiu ôi, bờ sông Dịch lạnh,

                Tráng sĩ một đi rồi, không trở lại nữa đâu !

 

  ... và lại làm cho ta nhớ đến bài TỐNG BIỆT HÀNH của nhà thơ Thâm Tâm thời Tiền Chiến :

 

                  Đưa người ta không đưa qua sông

                  Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?

                  Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

                  Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

 

    ... và trong bài VỌNG NHÂN HÀNH cũng của Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình :

 

                  Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch

                  Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”...

 

      Diễn Nôm :

                      

 

                     Nơi nầy giả biệt Yên Đan,

                     Anh hùng tóc dựng ngập tràn bi ca.

                     Người xưa tuy đã lìa xa,

                     Hôm nay dòng nước la đà lạnh căm !

 

      Năm Quang Trạch nguyên niên (684) Lạc Tân Vương theo Anh Quốc Công Từ Kính Nghiệp khởi binh chống lại Võ Tắc Thiên, ông đã viết bài  "Vị Từ Kính Nghiệp Thảo Võ Anh Hịch 為徐敬業討武曌檄" hiệu triệu mọi người cùng đứng lên chống lại họ Võ. Võ Tắc Thiên thấy bài hịch chỉ mĩm cười khi dễ. Kịp khi đọc đến câu "Nhất phôi chi thổ vị can, lục xích chi cô hà thác ? 一坯之土未乾,六尺之孤何託?" mới thất kinh xúc mồ hôi hạn mà hỏi rằng :"Ai viết bài hịch văn nầy?" Có người tâu là của Lạc Tân Vương viết. Võ Tắc Thiên mới quở rằng :"Đây là lỗi lầm của Thừa Tướng, nhân tài như thế nầy sao không biết trọng dụng, để đến đổi lưu lạc bên ngoài theo loạn quân mà chống lại ta thế nầy?". Thì ra câu nói đó đã đánh ngay vào điểm yếu tử huyệt của Võ Tắc Thiên:" Một núm đất vàng còn chưa khô là chỉ chồng bà ta là Đường Cao Tông chết chưa bao lâu, mồ còn chưa xanh cỏ, mà bà ta đã phế đứa con côi là Đường Trung Tông được chồng ký thác để soán ngôi mà tự xưng là Châu Thiên Tử." Cái bất nghĩa bất nhân đó đã được Lạc Tân Vương khai thác để kêu gọi mọi người cùng đứng lên chống lại họ Võ. Đây là bài hịch hay nhất của buổi Sơ Đường. Trong khí thế đang lên, Lạc Tân Vương làm luôn một bài thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt "Tại Quân Đăng Thành Lâu 在軍登城樓" đầy khí thế hào hùng như sau :

 

                      城上風威冷,    Thành thượng phong uy lãnh,

                      江中水氣寒。    Giang trung thủy khí hàn.

                      戎衣何日定,    Nhung y hà nhật định,

                      歌舞入長安.     Ca vũ nhập Trường An !

      Có nghĩa :

                      

 

                      Trên thành quân uy ớn lạnh,

                      Dưới sông sát khí căm căm.

                      Áo trận ngày nao bình định,

                      Múa ca vào chiếm kinh thành !             

 

       Nhưng tiếc thay, bài hịch tuy hay, tuy đanh thép; bài thơ tuy hào hùng khí thế, nhưng cuộc nổi dậy của Từ Kính Nghiệp lại thất bại. Lạc Tân Vương bặt vô âm tín từ đó. Có người đồn rằng ông đã chết trong cuộc chiến, lại có người cho rằng ông đã vào núi ẩn cư tu đạo, được tôn thành thần, hiệu là "Nam Thiên Lạc Ân Sư 南天駱恩師". Lại có người cho rằng ông đã thế phát quy y vào cửa Phật, nương nhờ bóng thiền môn, hiệu là "Phổ Tế Diệu Chương Thiền Sư 普濟妙章禪師", mỗi năm vào tiết Đoan Ngọ đều được cúng tế linh đình. 

      

   Ta thấy...

       Từ một chú bé bảy tuổi Vịnh Ngỗng thật dễ thương, Lạc Tân Vương lớn lên với hình tượng của một hiệp khách cứu khổn phò nguy "giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ?!", rồi trở thành một quan viên chính trực, công chính liêm minh để đến nỗi bị trù dập bỏ tù, và cuối cùng không chiụ được sự tiếm quyền của Võ Tắc Thiên mà làm phản. Cuối đời lại mai danh ẩn dật, xuất gia thành một hòa thượng trông rất bặm trợn như các hình tượng được lưu truyền.

 

      Thế mới biết, cuộc sống nhân sinh đã hành hạ dằn vật con người như thế nào, cuộc đời chìm nổi đắng cay đã làm đổi thay thân xác từ một chú bé vô tư thông minh dễ thương thành một hoà thượng khắc khổ gầy gò dữ tợn. Mời xem các hình tượng lưu truyền về Lạc Tân Vương dưới đây sẽ rõ !

DCD_7tuoi.png
DCD_hiepkhach.png
DCD_quanvien.png
DCD_Hoathuong.jpg

                          Bảy tuổi "Vịnh Ngỗng"

              Hiệp khách Giang hồ

Quan viên chính trực

   Hòa thượng về già

Hẹn bài viết tới : Thi Phật VƯƠNG DUY.

 

                                                                                                          杜紹德

                                                                                                      Đỗ Chiêu Đức

            Giai Thoại Văn Chương :

  

                                      SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT  (3)

DCD_LuChieuLan.png

                       Người đứng thứ ba trong Tứ Kiệt : LƯ CHIẾU LÂN   

    

          LƯ CHIẾU LÂN 盧照鄰 (634-689), tự là Thăng Chi 升之, hiệu là U Ưu Tử 幽憂子, người đất U Châu huyện Phạm Dương (tỉnh Hà bắc ngày nay). Ông là thi, văn sĩ đời Đường, xuất thân con nhà gia thế, học rộng biết nhiều, sự nghiệp bắt đầu từ chức Điển Thiêm ở phủ của Đặng Vương Lý Nguyên Dũ, sau chuyển làm Huyện Úy huyện Tân Đô thuộc Ích Châu. Sau khi từ chức thì lân la ở đất Thục, uống rượu làm thơ, viết văn. Sau vì mắc bệnh phong cùi hành hạ vật vã đến không chịu đựng nỗi, nên nhảy xuống dòng sông Dĩnh tự trầm.

         LƯ CHIẾU LÂN cùng với Vương Bột, Dương Quýnh và Lạc Tân Vương 王勃、楊炯、駱賓王 được người đương thời tôn xưng là SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初唐四傑. Ông giỏi cả thơ và biền văn, thơ của ông phần nhiều thuộc thể Ca Hành có thể phổ nhạc được. Tác phẩm gồm có Lư Chiếu Lân Tập 盧照鄰集 (20 quyển) và U Ưu Tử Tập 幽憂子集 (10 quyển).

DCD_lactanvuong.png
DCD_SoDuongTuKiet.png

  SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT: Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu lân, Lạc Tân Vương

          

      Lư Chiếu Lân từ nhỏ đã học thi thư, 10 tuổi lại được đưa đến Giang Nam học tập với các đại nho như Tào Hiến, Vương Nghĩa Phương để dùi mài kinh sử. Lớn lên, ông nổi tiếng giỏi văn chương, đến Trường An để cầu công danh, nương nhờ vào trọng thần Lai Tế 來濟. Lai Tế thương tài ông bèn giới thiệu ông với mọi người, nhờ vào văn tài xuất chúng, tiếng tăm của ông nổi như cồn. Nhưng công danh thì vẫn còn mờ mịt như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt KHÚC TRÌ HÀ 曲池荷 (Hoa sen ở ao Khúc Trì) của ông làm sau đây :

                 

                  浮香繞曲岸,    Phù hương nhiễu khúc ngạn,

                  圓影覆華池。    Viên ảnh phúc hoa trì.

                  常恐秋風早,    Thường khủng thu phong tảo,

                  凋零君不知。    Điêu linh quân bất tri.

      Có nghĩa :

              Mùi hương ngào ngạt toả quanh bờ ao uốn khúc, cái bóng tròn trịa in hình dưới nước ao đẹp đẽ. Nhưng... luôn luôn lo sợ gió thu hiu hắt sớm thổi đến, làm cho lá hoa tàn tạ và không còn người biết tới nữa !

      Khéo lo sợ vẩn vơ, Lư Chiếu Lân ví mình như hoa sen đẹp đẽ thơm ngát nở vào mùa hạ, nếu không có người biết đến để thưởng thức thì khi gió thu heo may thổi đến sẽ tàn tạ một cach oan uổng !...

 

                  Hương thơm ngào ngạt quanh ao,

                  Bóng tròn đẹp đẽ tươi màu nước trong.

                  Những e thu sớm gió lồng,

                  Lá hoa tàn tạ hết mong người nhìn !

                     

 

 

      Biết Lư Chiêu Lân nóng lòng vì công danh, nên Lai Tế mới tiến cử ông cho chú của Đường Cao Tông là Đặng Vương Lý Nguyên Dũ 鄧王李元裕. Đặng Vương đã nghe tiếng Lư Chiếu Lân từ lâu nên tiếp ông bằng lễ tiếp đãi của một thượng khách và cho giữ chức Điển Thiêm. Đặng Vương cũng thường nói với các quan viên và thuộc hạ rằng :"Lư Chiếu Lân chính là Tư Mã Tương Như của ta đó !". Đây là khoảng thời gian đắc ý nhất của ông. Trong vương phủ lại có một kho sách rất qúy giá, cho nên mười năm làm việc trong vương phủ Lư Chiếu Lân đã đọc hết kho sách đó để phong phú thêm kiến thức của mình. Năm Long Sóc thứ ba 龍朔三年(663) ông lại được điều đi nhậm chức Đô Úy ở Tân Đô thuộc Ích Châu. Ba năm mãn hạn, nhưng ông vẫn ở lại đất Thục thưởng ngoạn danh thắng, uống rượu làm thơ.

      Đời vua Đường Cao Tông vì là thời buổi sơ Đường, nên ông vua trẻ Lý Trị thường phát động những cuộc chiến tranh biên giới để bình định các nước Hung Nô, Đột Quyết, Thổ Phồn, Cao Ly...Các binh tướng luôn phải chiến đấu một cách kiêu hùng vất vả, nên Tứ Kiệt đều có làm thơ biên tái, Lư Chiếu Lân cũng không ngoại lệ. Sau đây là bài thơ CHIẾN THÀNH NAM  戰城南 cùng chủ đề trong Hán Nhạc Phủ với bài thơ của Dương Quýnh, nhưng mỗi người mỗi vẻ :

 

                 將軍出紫塞,   Tướng quân xuất Tử tái,

                 冒頓在烏貪。   Mạo Đôn tại Ô Tham.

                 笳喧雁門北,   Già huyên Nhạn Môn bắc,

                 陣翼龍城南。   Trận dực Long Thành nam.

                 雕弓夜宛轉,   Điêu cung dạ uyển chuyển,

                 鐵騎曉參驔。   Thiết kỵ hiểu tham đàm.

                 應須駐白日,   Ưng tu trú bạch nhật,

                 爲待戰方酣。   Vị đãi chiến phương hàm.

    Có nghĩa :

            Tướng quân cởi ngựa xông ra khỏi Tử Tái của Vạn Lý Trường Thành, đánh nhau với Mạo Đôn là chúa của Hung Nô tại Ô Tham. Tiếng tù và vang rền ở phía bắc của Nhạn Môn Quan và thế trận được bày ra làm hai cánh ở phía nam của Long Thành, tiếng cung giương và tiếng tên bay vun vút suốt đêm, cùng với tiếng vó câu của những con ngựa sắt đến trời sáng vẫn còn rầm rập.(Chiến trận vẫn đang tiếp diễn) Phải làm sao như Lỗ Dương thời chiến Quốc của nước Sở hươu ngọn dáo để đẩy lui mặt nhựt cho trời đừng mau tối, vì chiến trận còn đang tiếp diễn một cách say sưa !

      Đánh giết nhau hăng máu đến thế là cùng !

 

      Diễn Nôm :

                       

 

 

                    Tướng quân xông khỏi Trường Thành,

                    Mạo Đôn giao chiến cùng dành Ô Tham.

                    Tù và ải bắc vang vang,

                    Thành Nam chiến trận lại càng xôn xao.

                    Cung giương tên bắn rào rào,

                    rầm rầm thiết kỵ ồn ào suốt đêm.

                    Phải dừng mặt nhựt đừng thêm,

                    Vì chưng chiến địa khắp miền đang say.

 

      Trong khi đó ở nơi phồn hoa đô hội, đám vương tôn quý tộc còn ăn chơi đàng điếm ra vào lầu xanh đã được Lư Chiếu Lân diễn tả trong bài CHIẾT DƯƠNG LIỄU 折楊柳 sau đây :

 

                倡樓啟曙扉,   Xướng lâu khải thự phi,

                園柳正依依。   Viên liễu chánh y y.

                鳥鳴知歲隔,   Điểu minh tri tuế cách,

                條變識春歸。   Điều biến thức xuân quy.

              露葉疑啼臉,    Lộ diệp nghi đề kiểm,

                風花亂舞衣。   Phong hoa loạn vũ y.

                攀折聊將寄,   Phàn chiết liêu tương ký,

                軍中書信稀。   Quân trung thư tín hi !

   Có nghĩa :

           Cánh cửa của lầu xanh vừa mở ra trong buổi sáng sớm mai, thì những cây liễu trong vườn như cũng lưu luyến không nở rời xa. Tiếng chim hót líu lo biết là năm đã hết, cành liễu chuyển màu xanh hơn nên biết là xuân đã về. Những giọt sương đọng trên lá liễu như là những giọt lệ trên mặt người đẹp, gió thổi làm cho những hoa liễu bay loạn lên như những mảnh vũ y. Bẻ nhành liễu gởi đi để tỏ chút lòng người hậu phương, vì trong quân doanh rất hiếm khi nhận được thư tín bên ngoài.

 

   Diễn Nôm :

               

 

 

                    Lầu xanh sáng mở cửa rào,

                    Trong vườn dương liễu luyến lưu hàm tình.

                    Năm tàn chim hót bên mành,

                    Cành xanh trổ nụ đành rành xuân sang.

                    Sương gieo như lệ mặt nàng,

                    Gió đưa hoa liễu rụng tràn vũ y.

                    Bẻ cành dương liễu gởi đi,

                    Trong quân thư tín hiếm khi gởi vào.

 

       Vì sống trong thời chinh chiến còn chưa yên, nên khi tả cảnh mai hoa nở trong tuyết trắng cuối năm để báo hiệu mùa xuân sắp đến, Lư Chiếu Lân cũng liên tưởng đến những người lính trận xa xôi ở tận xứ Hung Nô cách xa mấy vạn dặm đường ngày đêm chiến đấu bên cái chết cận kề còn biết gì là Xuân về Mai nở, hãy đọc bài MAI HOA LẠC 梅花落 dưới đây sẽ rõ :

 

                梅嶺花初發,   Mai Lĩnh hoa sơ phát,

                天山雪未開。   Thiên Sơn tuyết vị khai.

                雪處疑花滿,   Tuyết xứ nghi hoa mãn,

                花邊似雪回。   Hoa biên tự tuyết hồi.

                因風入舞袖,   Nhân phong nhập vũ tụ,

                雜粉向妝台。   Tạp phấn hướng trang đài.

                匈奴幾萬里,   Hung Nô kỷ vạn lý,

                春至不知來。   Xuân chí bất tri lai !

  Có nghĩa :

          Khi hoa mai trên Mai Lĩnh ở miền nam bắt đầu nở, thì tuyết ở vùng Thiên Sơn phía tây bắc còn chưa bắt đầu rơi. Nơi mà tuyết rơi thì cứ ngỡ là hoa mai trắng đã nở đầy cả, còn bên cạnh hoa mai trắng rơi thì lại như có thêm một lớp tuyết phủ đầy. Qua một trận gió thổi thì từng cánh mai trắng bay lọt vào cả các tay áo rộng của những nàng đang ca múa vương lấy mùi phấn son mà rơi cả tận đến nơi trang đài. Chỉ tội cho những người lính trận ở tận đất Hung Nô xa xôi mấy vạn dặm đường trong trời đông tuyết giá, khi xuân đến thì có ai biết là mùa xuân đã đến đâu !  

 

    Diễn Nôm :

                      

 

 

                    Mai Lĩnh hoa đã nở rồi,

                    Thiên Sơn xa tít chưa rơi tuyết mà...

                    Tuyết rơi trắng xóa tựa hoa

                    Bên hoa tuyết trắng ngỡ là hoa bay.

                    Hoa rơi tay áo gió lay,

                    Cánh hoa theo phấn trang đài vấn vương.

                    Hung Nô mấy vạn dặm đường,

                    Nàng xuân đã đến tỏ tường ai hay !?  

               

         Một lý do nữa khiến cho Lư Chiếu Lân sau khi mãn hạn quan còn ở lại đất Thục thêm hai năm nữa là vì ông quen với một người con gái họ Quách. Hai người đã yêu nhau đắm đuối. Trong cuộc tình nầy Lư Chiếu Lân đã để lại hai câu thơ bất hủ trong bài "Trường An Cổ Ý 長安古意" là :

 

                     得成比目何辞死,  Bất thành tỉ mục hà từ tử,

                     愿作鸳鸯不羡仙。  Nguyện tác uyên ương bất tiện tiên.

    Có nghĩa :

                     Chưa được sánh đôi chưa đành chết,

                     Chỉ cầu chắp cánh chẳng cầu tiên !

                        

 

 

       Nhưng khi hay tin Quách Thị có mang hai tháng thì, không biết vì lý do gì, Lư Chiếu Lân lại nói lời giả biệt để về thăm nhà, nên đành quyến luyến chia tay với Quách Thị và hẹn sẽ nhanh chóng trở lại gặp nàng. Nhưng lại nhưng, sau chuyến đi đó Lư Chiếu Lân đã không bao giờ trở lại nữa, để cho Quách Thị cứ chờ đợi mõi mòn, đau khổ, vật vã đến hư cả thai nhi. Người thứ tư trong Tứ Kiệt là LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王 đã bất mãn thay cho nàng, nổi lòng hào hiệp mà thay nàng viết nên bài thơ nhớ thương nổi tiếng để gởi cho Lư Chiếu Lân là "Diễm Tình Đại Quách Thị Đáp Lư Chiếu Lân 艷情代郭氏答盧照鄰". Có nghĩa : "Bài thơ diễm tình thay cho Quách Thị đáp lại Lư Chiếu Lân" sẽ đề cập ở bài sau khi nói về LẠC TÂN VƯƠNG. 

 

        Trở lại với Lư Chiếu Lân sau khi rời đất Thục, thì ngụ cư ở Lạc Dương. Và cũng trong bài thơ thất ngôn trường thiên dạng Nhạc phủ là TRƯỜNG AN CỔ Ý 長安古意 nầy, đã mang đến cho ông phải vướng vào vòng lao lý, vì trong đó lại có hai câu như sau :

 

                      梁家畫閣中天起,  Lương gia họa các trung thiên khởi,

                      漢帝金莖雲外直.   Hán đế kim hành vân ngoại trực.

    Có nghĩa :

                      Lâu đài đẹp đẽ của nhà họ Lương mọc lên ở giữa trời,

                      Cây cột vàng của Hán đế cao vút đến mây xanh.

 

       LƯƠNG GIA 梁家 : Nhà họ Lương chỉ một ngoại thích của Hán Thuận Đế là Lương Ký (anh của Lương Hoàng Hậu) đã cậy thế lực và tiền tài của em gái mà xây dựng lâu đài nguy nga tráng lệ ở thành Lạc Dương. Còn Võ Tam Tư 武三思 là cháu kêu Võ Hậu bằng cô, được phong là LƯƠNG VƯƠNG 梁王, cũng cậy quyền thế của cô mà xây dựng lâu đài ở Lạc Dương. Nên Võ Tam Tư cho là Lư Chiếu Lân dùng tích xưa để châm biếm mình, bèn nổi giận, bắt Lư Chiếu Lân bỏ tù. Sau nhờ có bạn giúp đỡ lãnh ra, nhưng chẳng bao lâu sau lại mắc phải bệnh phong, ông bèn đến núi Thái Bạch ở ngoại ô Trường An để dưỡng bệnh. Trong khoảng thời gian nầy ông lại gặp được Dược Vương Tôn Tư Mạc. Mạc rất coi trọng tài ông, vì cả hai cùng theo đạo Lão Trang nên rất tâm đầu ý hơp.  Khoảng thời gian nầy ông viết bài BỆNH LÊ THỌ PHÚ 病梨树赋 rất nổi tiếng.  Không lâu sau Tôn Tư Mạc phải phò Đường Cao Tông đến Cửu Thành Cung để tránh hè nghỉ mát. Lư Chiếu Lân vì muốn trị bệnh phong nên uống cả Huyền Minh Cao do các đạo sĩ bào chế, vừa đúng lúc hay tin cha mất, ông khóc cha đến nỗi mửa cả thuốc ra ngoài, nên bệnh càng trở nặng. Sau lại nhờ bạn bè chu cấp chuyển đến Long Môn Sơn dưỡng bệnh, nhưng bệnh lại ngày càng nặng hơn, đến nỗi một chân không duỗi thẳng được và liệt luôn một cánh tay. Ông lại mua một miếng đất ở bên bờ sông Dĩnh Thủy, xây sẵn cho mình ngôi mộ rồi ăn ngủ luôn trong đó. Trong khoảng thời gian nầy, ông viết hai bài tản văn nổi tiếng là THÍCH TẬT VĂN 釋疾文 và NGŨ BI VĂN 五悲文. Bệnh tình ngày càng hành hạ, nhức nhối thấu xương. Sau mười năm chịu đựng, cuối cùng, ông giả biệt thân nhân rồi nhảy xuống dòng sông Dĩnh tự trầm.
 

DCD_LuChieuLanphongcui.png

              Lư Chiếu Lân trước và sau khi mắc bệnh phong cùi.       

      

       Cuối bài "Thích Tật Văn 釋疾文" có bài ca u ẩn như những lời vĩnh biệt sau đây :

 

                 歲將暮兮歡不再,     Tuế tương mộ hề hoan bất tái,

                 時已晚兮憂來多。     Thời dĩ vãn hề ưu lai đa.

                 東郊絕此麒麟筆,     Đông giao tuyệt thử kỳ lân bút,

                 西山祕此鳳凰柯。     Tây sơn bí thử phụng hoàng kha.

                 死去死去今如此,     Tử khứ tử khứ kim như thử,

                 生兮生兮奈汝何。     Sanh hề sanh hề nại nhữ hà.

                 歲去憂來兮東流水,   Tuế khứ ưu lai hề đông lưu thủy,

                 地久天長兮人共死。   Địa cửu thiên trường hề nhân cộng tử.

     Có nghĩa :

                    Năm sắp tàn ngày vui không trở lại,

                    Thời đã qua ái ngại lắm ưu phiền.

                    Phía đông giao kỳ lân bút đã yên,

                    Tây sơn nọ phụng hoàng cành cũng vắng.

                    Chết thì chết như nay đà vẩy chết,

                    Sống lất lây sống hết được gì nào ?

                    Năm sầu nước cũng chảy mau...

                    Trời cao đất rộng thoáng mau đời người !

 

       Qủa là cảm khái với tâm tư buông bỏ của những người sắp chết. Vào những đêm trăng sáng có lẽ bệnh phong cùi hành hạ, nên Lư Chiếu Lân cũng có những câu than vãn về trăng như sau :

 

                   相思在萬里,    Tương tư tại vạn lý,

                   明月正孤懸。    Minh nguyệt chính cô huyền !

     Có nghĩa :

                        Nhớ nhau muôn dặm trời xanh,

                    Trăng treo lơ lửng trên cành đơn côi !

 

.... làm cho ta nhớ đến Hàn Mặc Tử với :

 

                        Ai mua trăng tôi bán trăng cho...

                    Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ !...

 

                    

     Hẹn bài viết tới : 

                       SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT (4) : LẠC TÂN VƯƠNG.

 

 

                                                                                            杜紹德

                                                                                    Đỗ Chiêu Đức

Giai thoại văn chương:

 

                        SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT (2)

DCD_DuongQuynh.png

                               Người đứng nhì Tứ Kiệt : DƯƠNG QUÝNH        

          

       DƯƠNG QUÝNH 楊炯(650-693)người đất Hoằng Nông, huyện Hoa Âm (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay), đứng hàng thứ bảy trong gia đình; là thi văn sĩ đời Đường , được xếp hàng thứ nhì trong Sơ Đường Tứ Kiệt. Đường Cao Tông năm Hiển Khánh thứ tư (659) trúng cử khoa Thần Đồng lúc 10 tuổi, năm Thượng Nguyên thứ ba (676) ứng chế khoa cập đệ, được phong Hiệu Thư Lang. Vĩnh Thuần nguyên niên (682) được Trung Thư Lệnh Tiết Nguyên Siêu tiến cử chức Sùng Văn Quán Học Sĩ kiêm Thái Tử Chiêm Sự Ty Trực. Trong khoảng thời gian nầy, Dương Quýnh đã sáng tác rất nhiều văn thơ và còn viết lời tư và biên tập cho thơ văn của Vương Bột nữa, đồng thời cũng phê phán "Thượng Quan Thể" là thể thơ đang thịnh hành lúc bấy giờ chú trọng về tu từ và dùng từ diễm lệ gợi cảm.

      Thùy Cũng nguyên niên đời Võ Hậu (685), vì ông chú tham gia cuộc nổi dậy của Từ Kỉnh Nghiệp chống lại Võ Tắc Thiên thất bại, nên bị vạ lây. Dương Quýnh bị biếm đi làm Tham Quân ở đất Tân Châu. Thiên Thụ nguyên niên (690), cùng với nhà thơ Tống Chi Vấn dạy học ở Tập Nghệ Quán trong cung Lạc Dương. Như Ý nguyên niên (692), cải nhậm huyện lệnh đất Doanh Xuyên, nổi tiếng là một huyện quan nhân đức. Dương Quýnh mất luôn tại đây, cho nên người đời còn gọi ông là DƯƠNG DOANH XUYÊN 楊盈川. Ông còn để lại một quyển thơ, gồm 34 bài và hơn 50 bài Phú, Tự, Biểu, Bia, Chí... Dương Quýnh sau được qui táng ở Lạc Dương. Năm Đường Trung Tông phục vị (705) truy phong ông là Trứ Tác Lang 著作郎。

      

      Bình sinh, Dương Quýnh là người tính khí cao ngạo, ỷ tài, nên rất ít người thân cận. Bị người đương thời xếp sau Vương Bột, trong thứ tự của Tứ Kiệt VƯƠNG DƯƠNG LƯ LẠC 王楊盧駱. Quýnh rất lấy làm khó chịu mà nói rằng : "Ngô quý tại Lư tiền, sỉ cư Vương hậu 吾愧在盧前,耻居王後". Có nghĩa : "Ta THẸN vì đứng trước Lư, NHỤC vì ở sau Vương". Câu đầu tỏ vẻ khiêm nhượng "THẸN vì mình không bằng mà được đứng trước Lư Chiếu Lân"; Câu sau thì lại tỏ vẻ kiêu ngạo "lấy làm NHỤC vì bị xếp sau Vương Bột". Tánh khí cao ngạo của Dương Quýnh, đôi khi cũng đem lại được những kết quả tốt, như vào những năm Điều Lộ, Vĩnh Long đời Đường Cao Tông (679-681), quân Đột Quyết, Thổ Phồn thường hay xâm lấn đất Thục và một dãy Cam Túc, nhà vua cử Lễ Bộ Thượng Thư là Bùi Hàng đi chinh phạt. Mắt thấy triều đình chỉ trọng võ mà khinh văn, nên Quýnh tức khí làm nên bài thơ TÒNG QUÂN HÀNH 從軍行 tuyệt tác sau đây :

 

                    

 

                 

 

 

 

 

             

 

 

                  烽火照西京,    Phong hỏa chiếu Tây kinh,

                  心中自不平。    Tâm trung tự bất bình.

                  牙璋辭鳳闕,    Nha chương từ phụng khuyết,

                  鐵騎繞龍城。    Thiết kỵ nhiễu long thành.

                  雪暗凋旗畫,    Tuyết ám điêu kỳ họa,

                  風多雜鼓聲。    Phong đa tạp cổ thinh.

                  寧為百夫長,    Ninh vi Bách Phu Trưởng,

                  勝作一書生。    Thắng tác nhất thư sinh !

 Có nghĩa :

        Khói lửa của chiến tranh đã chiếu đến kinh thành (Tây kinh), nên trong lòng người chiến binh không thể nào bình yên cho được. Binh phù của nhà vua đã truyền ra khỏi kinh thành (Phụng thành) rồi, nên đoàn thiết kỵ phải xông pha vây lấy long thành. Trời tuyết rơi ảm đạm làm đong lạnh các lá cờ có họa hình rủ xuống, gió thổi mạnh nên tiếng trống trận càng hỗn tạp dồn dập hơn. (Trước cảnh hào hùng của chiến trận), ta thà làm một Bách Phu Trưởng hiên ngang còn hơn là làm một thư sinh yếu đuối ! 

       Diễn Nôm :

                         
   

                        Tây kinh khói lửa rực trời,

                        Lòng người chiến sĩ khôn nguôi bất bình.

                        Lệnh vua vừa khỏi cửa thành,

                        Rần rần thiết kỵ Long Thành ruổi sang.

                        Màu cờ tuyết phủ trên ngàn,

                        Gió đưa tiếng trống rộn ràng vang vang.

                        Thà làm chiến sĩ hiên ngang,

                        Còn hơn khoát áo một chàng thư sinh !

 

       Dương Quýnh nói lẫy : Thà làm một Bách Phu Trưởng (tương đương như Trung Đội Trưởng ngày nay) còn hơn là một thư sinh quèn chưa đậu đạt. Cái hào khí và chiến đấu gian khổ của người chiến binh trong cơn binh lửa còn được Dương Quýnh diễn tả trong bài CHIẾN THÀNH NAM 战城南 sau đây với bài ngũ Ngôn Luật Thi mà 4 cặp đều đối nhau chan chát :

 

                 塞北途遼遠,   Tái bắc đồ liêu viễn,

                 城南戰苦辛。   Thành nam chiến khổ tân.

                 幡旗如鳥翼,   Phướng kỳ như điểu dực,

                 甲冑似魚鱗。   Giáp trụ tự ngư lân.

                 凍水寒傷馬,   Đống thủy hàn thương mã,

                 悲風愁殺人。   Bi phong sầu sát nhân.

                 寸心明白日,   Thốn tâm minh bạch nhật,

                 千里暗黃塵。   Thiên lý ám hoàng trần !

   Có nghĩa :

           Đường lên tái bắc thì xa xôi diệu vợi, còn trận chiến ở thành nam thì khổ nhọc vô cùng. Cờ phướng tung bay như những cánh chim đang vổ phần phật. Còn áo giáp của các chiến binh thì ánh lên như vảy của những con cá đang lắp lánh vậy. Nước sông đong cứng làm thương tổn đến các con chiến mã, gió rít u buồn khơi dậy lòng sầu đứt ruột của các chinh phu. Tất lòng đối với non sông sáng tỏ như ánh mặt trời, trong khi ngoài ngàn dặm còn mịt mờ với cát bụi vàng hoe.

       Diễn Nôm :

                        

 

                       Đường lên ải bắc xa xôi,

                       Thành nam chiến trận dập vùi khổ thay.

                       Phướng cờ tựa cánh chim bay,

                       Giáp trụ tựa vảy cá ngoài biển khơi.

                       Nước băng ngựa hí thương ôi,

                       Gió sầu rít mạnh bồi hồi chinh phu.

                       Tấc lòng sáng tựa trời thu,

                       Bụi vàng ngàn dặm mịt mù nẻo xa !                  

            

      Dương Quýnh nổi tiếng với các bài thơ Ngũ ngôn Luật Thi tả cảnh biên tái như đã nêu trên, ngoài ra ông cũng nổi tiếng với những bài thơ diễn tả nỗi sầu thương mong nhớ của người chinh phụ có chồng đi đánh trận xa xôi ngoài quan ải, như bài HỮU SỞ TƯ 有所思 sau đây :

 

                    賤妾留南楚,    Tiện thiếp lưu nam Sở,

                    征夫向北燕。    Chinh phu hướng bắc Yên.

                    三秋方一日,    Tam thu phương nhất nhật,

                    少別比千年。    Thiểu biệt tỉ thiên niên.

                    不掩嚬紅縷,    Bất yễm tần hồng lũ.

                    無論數綠錢。    Vô luân sổ lục tiền.

                    相思明月夜,    Tương tư minh nguyệt dạ,

                    迢遞白雲天。    Điều đệ bạch vân thiên.

 

                     

     Có nghĩa :

             Tiện thiếp thì ở lại đất Sở phía nam, còn chàng chinh phu thì đi về đất Yên phía bắc. Một ngày ly biệt mà như xa cách đã ba thu, mới có biệt ly mà như đã ngàn năm xa cách. Không che dấu nếp nhăn khi đứng trên lầu vân vê sợi chỉ hồng; Biết bao lần đếm dấu rêu xanh như những đồng tiền xanh trước ngõ. Thiếp nhớ nhung chàng hơn trong những đêm trăng sáng, lúc bầu trời như xa xôi diệu vợi hơn với những áng mây trắng bay bay !

      Đọc câu "三秋方一日 Tam thu phương nhất nhật" làm cho ta nhớ đến câu thơ tả Kim Trọng tương tư Thúy Kiều khi lần đầu tiên gặp gỡ :

 

                             BA THU dọn lại MỘT NGÀY dài ghê !

  ... và hai câu cuối :

                              相思明月夜,    Tương tư minh nguyệt dạ,

                              迢遞白雲天。    Điều đệ bạch vân thiên.

như hai câu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc :

 

                                Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,

                                Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San.

 

       Chiến tranh thời nào cũng gây nên cảnh chia ly nhớ thương cho đôi lứa, kẻ hậu phương người tiền tuyến, nhất là những nàng chinh phụ, một thân một mình vò võ chốn phòng the :"Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, Thiếp trong cánh cửa chàng ngoài chân mây!".

 

                       

     Diễn Nôm :

                    Thiếp ở lại nam nước Sở,

                    Chàng đi hướng bắc đất Yên.

                    Ba thu một ngày đằng đẵng,

                    Ngàn năm một thoáng triền miên.

                    Chẳng dấu mặt nhăn mày nhíu,

                    Đếm mãi rêu xanh đồng tiền.

                    Nhớ chàng những đêm trăng sáng,

                    Dật dờ mây trắng ngoài hiên !

     

      Dương Quýnh cảm thấy những quan viên trong triều thường sống bằng bộ mặt giả dối, bề ngoài làm ra vẻ thanh liêm chính trực, nhưng bên trong thì chỉ mong có dịp để tham nhũng, bóc lột dân lành, hãm hại đồng liêu, nên ông gọi bọn quan lại đó là "Kỳ LÂN TUYÊN 麒麟楦"(Vỏ bọc của con Kỳ Lân). Có người hiếu kỳ hỏi sao lại gọi thế, thì ông trả lời rằng : Trên sân khấu đóng vai kỳ lân thường khoác cho con lừa cái lớp vỏ kỳ lân bên ngoài cho đẹp, nhưng thực chất bên trong thì vẫn là con lừa mà thôi ! Vì tính thẳng thắng cương trực như thế, cho nên đám quan viên trong triều đều xa lánh ghét bỏ, ít có người chịu thân cận với ông. Nhưng hễ ông kết bạn với ai thì cũng rất thiệt tình và rất quý trọng bạn như bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt "Dạ Tống Triệu Túng夜送趙縱 " (Đêm đưa bạn Triệu Túng) dưới đây :

 

                 趙氏連城璧,    Triệu thị liên thành bích,

                 由來天下傳。    Do lai thiên hạ truyền.

                 送君還舊府,    Tống quân hoàn cựu phủ,

                 明月滿前川。    Minh nguyệt mãn tiền xuyên !

 

                      

     Có nghĩa :

           Ngọc bích nhà họ Triệu có giá trị liên thành, đó là do thiên hạ đều truyền tụng như thế. Nay ta đưa bạn trở về nhà cũ, trong khi vầng trăng sáng chiếu đầy cả con sông trước mặt !

 

      Hòa Thị Bích của nước Triệu rất đẹp rất qúy, vua Tần muốn lấy 15 thành để đổi lấy viên ngọc đó. Lạng Tương Như của nước Triệu mang ngọc qua cho nước Tần, vua Tần được ngọc không muốn giao thành. Lạng Tương Như đã tìm cách lấy lại viên ngọc giao trả về cho nước Triệu. Từ tích đó ta có thành ngữ "HOÀN BÍCH QUY TRIỆU 完璧歸趙" là "Trả ngọc bích về cho nước Triệu", thành ngữ nầy có ý nghĩa như Vật Hoàn Cố Chủ, hay như Châu về Hợp Phố vậy. Ở đây...

      Dương Quýnh ví bạn mình là Triệu Túng tài hoa và cao qúy như là viên Hòa Thị Bích của nước Triệu vậy. Bây giờ lại đưa bạn trở về quê cũ thì cũng như là Hoàn Bích Quy Triệu, là một cuộc trở về tốt đẹp, lại đưa tiễn nhau trong đêm trăng sáng vằng vặc trên bến nước mênh mông trải dài như tình người đưa tiễn !

      Diện Nôm :

                     Ngọc Triệu giá liên thành,

                     Thiên hạ đều biết danh.

                     Tiễn bạn về quê cũ,

                     Trăng sáng bến sông xanh !

     Lục bát :

                     Ngọc Triệu giá đáng liên thành,

                     Khắp trong thiên hạ đành rành chẳng sai.

                     Tiễn người quê cũ quy lai,

                     Giữa đêm trăng sáng trải dài bến sông !

 

        Tương truyền, khi làm huyện lệnh ở Doanh Xuyên  盈川縣令 (Nay là huyện Cù Châu tỉnh Chiết Giang). Mùa hè năm 693, huyện Doanh Xuyên bị hạn hán lớn, cây cối khô cằn ruộng đồng nứt nẻ, dân chúng mất mùa, dân tình đói kém. Dương Quýnh lòng như lửa đốt. Ông lập đàn cúng vái ba ngày ba đêm trời vẫn không có mưa. Thất vọng, ông bèn nhảy xuống giếng khô để tự vận, nhưng ngay đêm hôm đó trời đổ cơn mưa lớn, nước tuôn đầy giếng làm nổi xác của Dương Quýnh lên. Năm đó, ông vừa 44 tuổi. Dân chúng trong huyện cảm cái ân đức của ông nên lập chùa tạc tượng mà thờ phượng, tôn xưng là Thần Hoàng, đến nay đã có hơn 1300 năm rồi !

DCD_Tongquanhanh.png
DCD_denthoDQ.png

                               Đền thờ Thành Hoàng Dương Quýnh

 

        Vì tích trên, cho nên người đời còn gọi ông là DƯƠNG DOANH XUYÊN 楊盈川. 

 

        Hẹn bài viết tới : SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT  (3)

 

                                                                                      杜紹德 

                                                                                 Đỗ Chiêu Đức

____________

Giai Thoại Văn Chương:

  

                                  SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT  (1)

DCD_VuongBot.png

                                              Người đứng đầu Tứ Kiệt : VƯƠNG BỘT

         

       SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初唐四傑 là "VƯƠNG DƯƠNG LƯ LẠC 王楊盧駱", đó chính là VƯƠNG BỘT 王勃, DƯƠNG QUÝNH 楊炯, LƯ CHIẾU LÂN 盧照鄰 và LẠC TÂN VƯƠNG 駱賓王. Họ đều là những văn thi sĩ sống dưới thời Đường Cao Tông và Võ Hậu, họ đã bứt phá ra khỏi Cung Thể Thi của thời Lục Triều, mặc dù lúc đó có rất nhiều người chỉ trích bài bác cười chê, nhưng họ đã thành công trong việc phát triển và hoàn chỉnh thể Ngũ ngôn Luật thi trong buổi sơ Đường. Thi Thánh ĐỖ PHỦ của buổi thịnh Đường đã có thơ về họ như sau :

 

                    王楊盧駱當時體,   VƯƠNG DƯƠNG LƯ LẠC đương thời thể,

                    輕薄為文哂未休。   Khinh bạc vi văn sẩn vị hưu.

                    爾曹身與名俱滅,   Nhĩ tào thân dữ danh câu diệt,

                    不廢江河萬古流。   Bất phế giang hà vạn cổ lưu !

     Có nghĩa :

                     VƯƠNG, DƯƠNG, LƯ, LẠC, xướng thơ,

                     Những phường khinh bạc mù mờ chê bay.

                     Lũ ngươi chết chẳng còn ai...

                     Thơ kia như nước chảy hoài muôn năm !

 

       Quả nhiên, thơ văn của TỨ KIỆT như "giang hà vạn cổ lưu" chảy mãi cho đến ngày nay. Nào, ta hãy bắt đầu bằng người đứng đầu của Tứ Kiệt là VƯƠNG BỘT nhé !     

 

         Vương Bột 王勃 (650-676), tự là Tử An 子安, người đất Giáng Châu, Long Môn (tỉnh Sơn Tây ngày nay). Xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc, ông nội là Kinh học Đại Nho Vương Thông dưới triều Tùy Dương Đế; cha là Vương Phúc Cơ làm huyện lệnh Châu Hoan Giao Chỉ. Lên sáu tuổi đã biết làm thơ, nổi tiếng là thần đồng, thuộc làu kinh sử, 9 tuổi đã đọc Hán Thư của Nhan Thị, 10 tuổi đã thuộc làu cả Lục Kinh,  14 tuổi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của triều đình. Nổi tiếng với thơ ngũ ngôn và biền văn.

      Tương truyền, Vương Bột có tật rất lạ là trước khi muốn viết văn thì mài sẵn tới mấy nghiên mực, và sau khi chuẩn bị giấy bút xong thì rót rượu uống liên tục cho đến khi say mèm, bèn trùm mền lại ngủ một giấc ngon lành. Đến khi thức dậy thì hưu bút viết một hơi thẳng thét từ đầu đến cuối bài văn thât hay, mà không cần phải sửa chửa hay thêm bớt một chữ nào cả. Người đời xưng tụng ông là PHÚC CẢO 腹稿.Có nghĩa là : Làm nháp ở trong bụng.  

DCD_PhucCao.png

Năm Vương Bột 16 tuổi trên đường đi thăm cha, hay tin Đô Đốc Diêm Bá Dư trấn nhậm Hồng Châu trùng tu Đằng Vương Các mở cuộc thi thơ văn và khoản đãi tân khách bốn phương. Chủ ý muốn khoe tài con rễ là Ngô Tử Chương, nên đã cho Chương trau chuốt sẵn một bài phú thật hay để ngày hôm đó viết lại. Bột hay tin muộn, thời may có cụ già mách cho Bột rẻ thuyền vào Chương Giang sẽ có gió giúp đưa đến Đằng Vương Các. Bột nghe theo lời, đến đêm quả có gió lớn nổi lên chỉ trong một đêm mà vượt qua 800 dặm đường ( có thể là nhờ gió của đêm Trùng Cửu mùng 9 tháng 9 ). Kịp lúc Đằng Vương Các vừa phát giấy bút chiêu đãi khách làng văn. Thấy Bột chỉ là một thằng bé con, Đô Đốc Diêm Bá Dư không muốn cấp giấy bút, nhưng Bột kiên quyết muốn làm văn. Diêm không tiện từ chối, bèn cho người đứng phía sau lưng Bột, hễ Bột viết được câu nào thì chép lấy dâng đến cho Diêm xem, hễ thấy không xong là tống cổ ra khỏi buổi tiệc ngay. Khi Bột mở đầu bài văn bằng câu : Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ 南昌故郡,洪都新府 (Xưa là quận Nam Xương, nay là phủ Hồng Đô), thì Diêm cười và bảo : Cũng là sáo ngữ của các thầy Đồ Nho mà thôi. Đến câu : Tinh phân Dực Chẩn, Địa tiếp Hành Lư 星分翼軫,地接衡廬 (chỉ địa thế của Đằng Vương Các : Phân chia giữa sao Dực và sao Chẩn, còn đất thì nối tiếp giữa Hành Sơn và Lư Sơn) thì Diêm lặng thinh. Lại đến câu : Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu đẩu chi Khư. Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 物華天寶,龍光射牛斗之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 (Của đẹp báu trời, ánh long quang chiếu sao Ngưu sao Đẩu; Đất linh người giỏi, cao nhân Từ Trĩ hạ giường Trần Phồn) thì Diêm lại tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Kịp đến câu : 

 

                            Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc. 

                                            落霞與孤鶩齊飛, 秋水共長天一色 

                                            Ráng chiều cò trắng cùng bay,

                                      Long lanh thu thủy nước mây một màu

DCD_lachadu.png

... thì ông không còn dằn được cảm xúc, vỗ bàn đứng dậy khen là tuyệt cú ! Rồi giấu nhẹm luôn bài phú làm sẵn của con rể không dám trình làng. Vương Bột nổi tiếng luôn từ đấy và bài phú Đằng Vương Các Tự 滕王閣序 của Vương Bột cũng được lưu truyền thiên cổ với các câu đã trở thành Thành Ngữ như :

 

     * Trong câu : Lão đương ích tráng, ninh di bạch thủ chi tâm 老當益壮, 寧移白首之心. Cho ta thành ngữ : LÃO ĐƯƠNG ÍCH TRÁNG 老當益壯 : Chỉ Già mà còn mạnh khỏe.

     * Trong câu : Cùng thả ích kiên bất trụy thanh vân chi chí 窮且益堅,不墮青雲之志. Cho ta thành ngữ : CÙNG THẢ ÍCH KIÊN 窮且益堅 : Có nghĩa Nghèo mà biết kiên trì phấn đấu. 

     * Trong câu : Thiên cao địa quýnh, giác vũ trụ chi vô cùng 天高地迥,覺宇宙之無窮. Cho ta thành ngữ : THIÊN CAO ĐỊA QUÝNH 天高地迥 : Chỉ Trời cao đất rộng. 

     * Trong câu : Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số  興盡悲來,識盈虛之有數. Cho ta thành ngữ : HỨNG TẬN BI LAI 興盡悲來 : Hết vui tới buồn. 

     * Trong câu : Quan sơn nan việt, thùy bi thất lộ chi nhân 關山難越,誰悲失路之人. Cho ta thành ngữ : QUAN SAN NAN VIỆT 關山難越 : Núi non khó vượt. 

     * Trong câu : Bình thủy tương phùng tận thị tha hương chi khách 萍水相逢,盡是他鄉之客. Cho ta thành ngữ : BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG 萍水相逢 : Bèo nước gặp nhau. 

     * Trong câu : Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp 人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻. Cho ta thành ngữ : NHÂN KIỆT ĐỊA LINH 人傑地靈 hay ĐỊA LINH NHÂN KIỆT : Cuộc đất linh thiêng thì sẽ nảy sinh ra người tuấn kiệt.

    ... và còn rất nhiều rất nhiều câu hay khác nữa !...

 

     Vì tích của Vương Bột, nên trong Tăng Quảng Hiền Văn lại có câu :

 

                  Thời lai phong tống Đằng Vương Các    時來風送滕王閣

Có nghĩa :

                Khi thời cơ đã đến rồi thì sẽ có gió đưa đến Đằng Vương Các ngay. 

     Ý của câu trên chỉ khi thời vận tốt đã đến, thì con người sẽ rất dễ dàng mà có cơ hội để phát tích về mặt tiếng tăm hay công danh sự nghiệp. Nhưng khi qua đến Việt Nam ta, thì câu nói đó lại chuyển sang ý chỉ về tình duyên thuận lợi, may mắn, mà gọi là Duyên Đằng. Như ... 

DCD_VuongBotvaDangVuongcac.png

Trong Truyện Kiều để tả cuộc tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư với Thúc Sinh, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy :

 

                        Duyên Đằng thuận nẽo gió đưa,

                     Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.

 

       Ngay cả trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập với sự chủ xướng của vua Lê Thánh Tông cũng mượn từ GÁC ĐẰNG để chỉ dịp may hiếm có, cơ hội thuận lợi cho tình duyên như :

 

                       Thương nhĩ, Hồng nhan nguyền khéo lỗi,

                       Gác Đằng nhờ gió những ai vay !

 

   ... và như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, bài thứ 8 tả lại mối tình giữa Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử có câu :

 

                          Tiên-Dung gặp buổi đi chơi, 

                   Gió đưa Đằng-Các, buồm xuôi Nhị-Hà, 

 

       Hay như trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả lại mối tình tiên tục giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cũng có câu :

 

                         Gác Đằng Vương mấy dặm khơi, 

                        Có duyên đành đã gió trời thổi đưa. 

 

     Cho thấy bài "Đằng Vương Các Tự" của Vương Bột ảnh hưởng rất lớn đến văn học Trung Hoa và Việt Nam ta. Cuối bài Tự lại được kết bằng một bài thơ Thất ngôn Bát cú Cách điệu với bốn câu đâu gieo vần trắc và bốn câu sau gieo vần bằng rất hay như sau :

 

                   滕王高閣臨江渚,     Đằng Vương cao các lâm giang chữ,

                   佩玉鳴鸞罷歌舞。     Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.

                   畫棟朝飛南浦雲,     Họa đống triêu phi nam phố vân,

                   珠簾暮卷西山雨。     Châu liêm mộ quyển tây sơn vũ.

                   閒雲潭影日悠悠,     Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,

                   物換星移幾度秋。     Nhật hoán tinh di kỷ độ thu.

                   閣中帝子今何在?     Các trung đế tử kim hà tại?

                   檻外長江空自流。     Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu !

    Có nghĩa :

DCD_dangvuongcactu.png

                   Gác Đằng sừng sửng bờ xa,

                   Rộn ràng ngọc chuốc sanh ca đã dừng.

                   Bờ nam mây sớm ngập ngừng,

                   Rèm châu cao cuốn bâng khuâng nắng chiều.

                   Bóng mây đầm nước đìu hiu,

                   Sao dời vật đổi đã nhiều thu qua.

                   Vua tôi trong gác đâu ta ?

                   Trường Giang ngoài mái là đà chảy xuôi !

 

        Thật là cảm khái ! Trải biết bao vật đổi sao dời, tang thương biến đổi, Đằng Vương Các vẫn đứng sừng sửng ở ven sông, nhưng Đằng Vương giờ ở nơi đâu ? Cảnh cũ vẫn còn đây mà người xưa đà vắng bóng. 

        

       Vương Bột, vốn xuất thân là con nhà gia thế của đất bắc, tuổi trẻ tài cao, nên khi đoạt khôi nguyên kỳ thi đối sách của triều đình thì được Bái Vương Lý Hiền vời vào phủ để thị độc (đứng hầu để chỉ điểm cho thái tử học hành, như là một teacher assistant) rất được tin dùng. Nhưng vì làm bài "Hịch Anh Vương Kê 檄英王雞" để trách đùa con gà chọi của Anh Vương, cũng là một thái tử con của vua Cao Tông, khi hai anh em cùng chọi gà chơi với nhau. Vua Cao Tông nổi giận, cho là Vương Bột ỷ tài làm lếu, châm biếm và đụng chạm đến người của hoàng tộc, nên sai trục xuất ra khỏi phủ. Bột thất chí buồn tình, bèn đi chu du nhiều nơi ở phương nam. Khi đến đất Thục, lại nhằm lúc xuân về, vốn dĩ muốn mượn cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ của núi sông đất Thục để tiêu sầu, nhưng lòng quê nhớ về đất bắc vẫn canh cánh khôn nguôi nên mới làm bài thơ "Ký Xuân 羈春"(KÝ là Ở lại, giữ lại. Nên KÝ XUÂN có nghĩa là "Xuân đến mà vẫn phải ở lại nơi đất khách) để giải tỏa nỗi lòng :

 

                        客心千里倦,   Khách tâm thiên lý quyện,

                        春事一朝歸.   Xuân sự nhất triêu quy.

                        還傷北園里,   Hoàn thương bắc viên lý,

                        重見落花飛.   Trùng kiến lạc hoa phi ?

DCD_VuongBot_YXuan.png

Trên bước đường ngàn dặm, lòng người khách tha hương đã mỏi mê chán ngán rồi. Trước mắt lại thấy cảnh trí của mùa xuân ập về nên lòng lại càng muốn về ngay quê nhà. Cảnh quê xưa ở phương bắc còn để lại nhiều thương cảm ở trong lòng, không biết đến bao giờ mới thấy lại được cảnh hoa rụng bay lả tả ở quê nhà đây :

 

                        Ngàn dặm lòng quê mòn mõi,

                        Xuân về một sớm nhớ thay,

                        Đất bắc quê xưa trông ngóng,

                        Bao giờ thấy lại hoa bay ?!    

 

      Vương Bột còn nổi tiếng với các bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt, như bài "Tư Quy 思歸" tràn ngập đầy hình ảnh lá vàng của mùa thu dưới đây :

 

                 長江悲已滯,      Trường Giang bi dĩ trệ,

                 萬里念將歸。     Vạn lý niệm tương quy. 

                 況屬高風晚,      Huống thuộc cao phong vãn, 

                 山山紅葉飛。     Sơn sơn hồng diệp phi.

                           王勃                            Vương Bột 

    Có nghĩa :

                      Trường Giang sầu nước lửng,

                      Muôn dặm muốn về ngang.

                      Núi cao ngăn quê cũ ,

                      Non non rụng lá vàng !

   

     Hai câu cuối của bài thơ còn có một dị bàn là :

 

                    Huống PHỤC cao SƠN VIỄN,       況復高山遠,  

                    Sơn sơn HOÀNG diệp phi.           山山黃葉飛。

 

   * HUỐNG THUỘC hay HUỐNG PHỤC gì đều có nghĩa là : Hơn nữa, Vả lại...

   * CAO PHONG VÃN : là Gió thu trên cao thổi vi vút vào buổi chiều tối, còn ...

   * CAO SƠN VIỄN : là Núi cao chập chùng xa xăm diệu dợi.

   * HỒNG DIỆP hay HOÀNG DIỆP gì cũng đều là lá mùa thu, và cũng đều nên thơ cả ! Có điều, người Việt ta thì hay dùng "Lá Vàng" để chỉ mùa thu, còn người Hoa thì hay dùng "Lá Đỏ", vì họ có nhiều rừng phong đỏ thắm lúc thu về, còn ta thì lại có :

                                                Lá VÀNG trước gió sẻ đưa vèo ! ...

  hoặc thi vị hơn như Tản Đà :

                                           Trận gió thu phong cuốn lá VÀNG,

                                           Lá bay hàng xóm lá bay sang....

Lại diễn Nôm:

DCD_Lavang.png

Trường Giang nước đọng lòng sầu,

                     Xa nhà muôn dặm mấy thâu muốn về.

                     Núi cao ngăn cách làng quê,

                     Ngàn non lá đổ tái tê lòng sầu !   

                                              

         Nhưng nổi tiếng nhất là bài "Tống Đỗ Thiếu Phủ Chi Nhậm Thục Xuyên 送杜少府之任蜀川", có những câu thơ bất hủ cũng hình thành những thành ngữ dược thông dụng cho đến hiện nay, tiêu biểu như hai câu thơ sau đây :

 

                         海內存知己,   Hải nội tồn tri kỷ,

                         天崖若比臨。   Thiên nhai nhược tỉ lân.

 Có nghĩa :

               Trong vòng tứ hải mà có được một người tri kỷ, thì... Dù cho có xa xôi tận chân trời góc biển thì cũng như là ở sát vách với nhau vậy.

 

                                   Thế gian có một tri âm,

                          Chân trời góc biển cũng gần bên nhau.

DCD_thegiantriam.png

Cả bài thơ như sau :

 

                      城闕輔三秦,    Thành khuyết phó tam Tần,

                      風煙望五津。    Phong yên vọng ngũ tân.

                      與君離別意,    Dữ quân ly biệt ý,

                      同是宦遊人。    Đồng thị hoạn du nhân.

                      海內存知己,    Hải nội tồn tri kỷ,

                      天涯若比鄰。    Thiên nhai nhược tỉ lân.

                      無爲在歧路,    Vô vi tại kỳ lộ,

                      兒女共沾巾。    Nhi nữ cộng triêm cân.

      Có nghĩa :

                     Tam Tần phủ lấy Trường An

                     Mịt mờ sương khói mơ màng Ngũ Tân.

                     Chia tay ly biệt phân vân,

                     Cùng là hoạn lộ phong trần đồng tâm.

                     Bốn bể có được tri âm,

                     Chân trời góc biển như gần bên nhau.

                     Phân kỳ lưu luyến biết bao,

                     Đừng như nhi nữ lệ trào ướt khăn !   

                      

       Đường Lân Đức Nguyên niên (664), Vương Bột dâng thư cho hữu Thừa tướng Lưu Tường Đạo, Đạo kinh ngạc vì văn tài của Bột, nên tiến cử cho triều đình, được phong là Triều Tán Lang. Nhưng tính của Bột hay ỷ tài ngạo mạn, thường đắc tội với những người chung quanh; sau đó Bột lại nhậm chức Tham Quân ở Hoắc Châu. Trong khoảng thời gian nầy, Bột lại che dấu cho một tội nô là Tào Đạt. Chuyện lỡ vỡ, Bột sợ tội giết Tào Đạt, nên bị khép tội chết vì "giết quan nô của triều đình". Cha của Vương Bột cũng vì thế mà bị biếm đi làm Huyện Lệnh ở tận đất Giao Chỉ. Chẳng bao lâu, gặp dịp đại xá, Bột được tha tội chết chỉ tước đi quan chức mà thôi. 

      Tài hoa mệnh bạc, năm Đường Thượng Nguyên thứ 2 (675), Vương Bột 26 tuổi trên đường đi đến Giao Chỉ thăm cha. Năm sau, trên đường về, Vương Bột đã bị đắm thuyền và chết đuối trên dòng Chương Giang khi mới có 27 tuổi. Tương truyền, vì Vương chết trẻ nên rất thiêng, trên khúc sông Chương Giang nơi ông chết đuối, cứ vào khoảng đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng ngâm hai câu trong bài Tự Đằng Vương Các bất hủ của ông là  :

 

                  ... 落霞與孤骛齐飞,   Lạc hà dữ cô vụ tề phi, 

                      秋水共长天一色.   Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc...

 

                         

 

      Sứ thần Hồ Tông Thốc 胡宗鷟 đời Trần Nghệ Tông của Việt Nam ta, trong dịp đi sứ Trung quốc, một buổi chiều tà, nhân chèo thuyền dạo chơi trên khúc sông Chương Giang nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên, Hồ Tông Thốc nghe xong, bèn ra đứng ở mũi thuyền nói to lên rằng: 

 

                      何必"與 共"二字 !?   Hà tất "Dữ Cộng" nhị tự !?

Có nghĩa : 

               Sao lại phải dùng hai chữ DỮ 與 và CỘNG 共 (Với và Cùng) vậy !? 

 

     Mọi người hỏi tại sao, thì Hồ Tông Thốc giải thích rằng: 

     Hai câu văn tuy hay, song thừa hai chữ Dữ 與 và Cộng 共, vì đã nói "tề phi" (cùng bay) thì mặc nhiên là có ý Dữ 與 (Với) trong đó rồi; đã nói "nhất sắc" (một màu) thì mặc nhiên là có ý Cộng 共 (Cùng) trong đó rồi! Nên, hai câu trên nên sửa lại như sau: 

 

                      落霞孤骛齐飞,   Lạc hà cô vụ tề phi,

                      秋水长天一色.   Thu thuỷ trường thiên nhất sắc. 

 

        Mọi người nghe nói, đều phục ông bắt bẻ có lý, và hai câu của ông tuy về mặt âm hưởng không bằng hai câu của Vương Bột, nhưng về mặt văn tự thì quả có gọn ghẽ và hàm súc hơn. 

        Rôi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn thi nhân họ Vương nữa.                           

 

        Thật ra, hai câu văn tuyệt tác đó cũng không phải là do Vương Bột hoàn toàn nghĩ ra, mà đã mượn lời và ý trong bài "Tam Nguyệt Tam Nhật Hoa Lâm Viên Mã Xạ Phú 三月三日華林園馬射賦" của Dữu Tín 庾信 người đời Bắc Chu 北周. Trong bài phú của Dữu Tín có hai câu tả cảnh du xuân như sau :

 

                   落花與芝蓋同飛,  Lạc hoa dữ chi cái đồng phi,

                   楊柳共春旗一色.   Dương liễu cộng xuân kỳ nhất sắc.

Có nghĩa :

               Hoa rụng cùng bay phất phới với rèm xe,

               Hàng dương liễu cùng cờ xuân xanh xanh một màu.

 

      Hai câu tả cảnh mùa xuân nêu trên, tuy hay nhưng ít người biết tới, vì chưa thật xuất sắc, kịp đến khi Vương Bột vận dụng hai câu trên để tả cảnh mùa thu trong bài Đằng Vương Các Tự thì mới trở thành bất hủ và lưu danh thiên cổ ! Hễ nhắc đến Vương Bột là người ta nghĩ ngay đến bài phú Đằng Vương Các Tự, và hễ nhắc tới Đằng Vương Các Tự thì người ta cũng nghĩ ngay đến hai câu tả cảnh mùa thu bất hủ nầy :

                    

                Lạc hà dữ cô vụ tề phi,                       落霞與孤鶩齊飛,

                Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.  秋水共長天一色.

Có nghĩa :

                    Ráng chiều cò trắng cùng bay, 

              Long lanh thu thủy nước mây một màu. 

 

                   

 

      Sau khi Vương Bột chết, rất nhiều ngư phủ và những người sống trên vùng sông nước miền nam đã tưởng nhớ tôn xưng ông là "Thủy Tiên Vương" và thờ phượng ở trên thuyền, trên bến nước bên bờ sông. Hiện nay ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An của Việt Nam ta vẫn còn mộ và đền thờ Vương Bột.

 

 

                                                                                                  杜紹德

                                                                                             Đỗ Chiêu Đức

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 68:  

 

                                    MÃ và NGỰA

DCD_Malangua_1.png

                                                     Hỏi tên, rằng : Mã Giám Sinh,

                                        Hỏi quê, rằng : huyện Lâm Thanh cũng gần.

 

          Đó là hai câu thơ nói về tên Mã Giám Sinh 馬監生 đã bỏ bốn trăm lượng bạc ra mua Thúy Kiều sau khi đã "Cò kè bớt một thêm hai". Mà馬 là NGỰA, Ngựa là một trong lục súc vừa giúp kéo xe vừa giúp cho phương tiện giao thông được tiện lợi, lại vừa là con vật tiêu biểu cho giới qúy tộc như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu : 

 

                                  Mồi phú quý nhử làng XA MÃ,

                                 Bả vinh hoa lừa gã công khanh.

         

        Trong Tiết Thanh Minh với "Gần xa nô nức yến oanh, Chị em sắm sửa bộ hành du xuân" và với...

 

                                       Dập dìu tài tử giai nhân,

                           NGỰA XE NHƯ NƯỚC, áo quần như nêm.

 

         Thành ngữ NGỰA XE NHƯ NƯỚC có xuất xứ từ Hậu Hán Thư trong câu : " Xa như lưu thủy, mã như du long 車如流水,馬如游龍。" (Xe như nước chảy, Ngựa tợ rồng bơi ). Chỉ xe ngựa qua lại đông đúc xôn xao huyên náo, thường dùng để chỉ sự náo nhiệt của nơi phồn hoa đô hội.

         Còn khi tả vẻ phong lưu qúy phái của Kim Trọng khi Kim xuất hiện trong tiết Thanh Minh với hình tượng của :

 

                                    Tuyết in sắc NGỰA CÂU dòn,

                                Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

DCD_Nguacau.png

NGỰA là Ngựa, mà CÂU 駒 cũng là Ngựa, mà lại là ngựa non, ngựa giỏi nữa là đằng khác. Ta có thành ngữ THIÊN LÝ Mà千里馬 hay THIÊN LÝ LONG CÂU 千里龍駒  để chỉ những con tuấn mã có sức mạnh và dẽo dai như rồng, một ngày có thể vượt trên một ngàn dặm đường. Sức chạy mau của long câu còn cho ta thành ngữ BẠCH CÂU QÚA KHÍCH 白駒過隙. Có nghĩa : Con ngựa câu trắng thoáng qua khe cửa để chỉ thời gian qua thật nhanh, trong tiếng Việt ta nói thành "Bóng Câu Qua Cửa Sổ" và như một câu nữa trong Cung Oán Ngâm Khúc :

 

                                   BÓNG CÂU thoáng bên mành mấy nỗi,

                                   Những hương sầu phấn tủi sao xong?

 

        Về thành ngữ BẠCH CÂU QÚA KHÍCH  白駒過隙 có xuất xứ như sau :

        Đó là câu nói của Trang Tử trong Tri Bắc Du《庄子•知北游》:“人生天地之间,若白驹之过隙,忽然而已. Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược Bach Câu chi Qúa Khích, hốt nhiên nhi dĩ ".  Có nghĩa : " Con người sống trong trời đất cũng giống như là bóng ngựa trắng thoáng qua khe cửa, chỉ trong chốc lát mà thôi." Theo sách Hán Thư thì BẠCH CÂU là Ngựa non màu trắng lướt nhanh như bóng nắng mặt trời. Là bóng nắng lướt nhanh qua khe cửa hay khe vách gì đều dùng để chỉ thời gian qua rất nhanh, cuộc đời chỉ là cỏi tạm phù du, mà ta nói là "Như Bóng Câu Qua Cửa Sổ". Trong "Văn Tế Chiến Sĩ Trận Vong" của Nguyễn Văn Thành có câu :

 

                              Những là khen dạ đá gan vàng, 

                              Bóng BẠCH CÂU xem nửa phút như không,

                              Ơn dày đội cũng cam trong phế phủ ...

 

         Trong Nam Hải Tế Văn thì viết :

 

                             Bóng BẠCH CÂU bay vụt cửa phù sinh,

                             Hình thương cẩu đúc mòn khuôn đại khối.

 

        Trong truyện thơ Nôm Bích Câu Kỳ Ngộ khi Giáng Kiều khuyên Tú Uyên tu tiên cũng có câu :

 

                             Gẫm trong tám, chín mươi năm,

                           BÓNG CÂU CỬA SỔ, dễ cầm mãi ru!

 

       Còn trong truyện thơ Nôm Trinh Thử thì dùng "Ngựa Qua Cửa Sổ" khi chuột Đực lý luận để quyến rủ chuột Bạch là :

 

                              NGỰA QUA CỬA SỔ bao lâu,

                        Kíp toan kiếm chước bán sầu mua vui !

DCD_Bachcauquakhich.png

Con ngựa trong Lục Súc Tranh Công đã từng khoe rằng :

 

                       ...Tao đã từng, đi quán, về quê,

                          Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.    

         

        Từ ngàn xưa, bất cứ là quân đội của nước nào, Âu cũng như Á đều có đội Kỵ Binh, nhất là đội Thiết Kỵ nổi tiếng của Mông Cổ, không những chỉ dọc ngang trên các thảo nguyên Châu Á, mà còn tung hoành lấn chiếm sang cả Châu Âu. Sống trên mình ngựa, đánh giặc trên mình ngựa, xưng hùng xưng bá trên mình ngựa, rồi... chết cũng trên mình ngựa luôn, nên ta lại có thành ngữ "Da Ngựa Bọc Thây", chữ Nho là "MÃ CÁCH QUẢ THI 馬革裹屍 ". Đó là lời nói của danh tướng Mã Viện đời Đông Hán, nguyên văn như sau :"Nam nhi yếu đương tử vu biên dã, dĩ Mã Cách Qủa Thi hoàn táng nhĩ, hà năng ngọa sàng thượng tại nhi nữ tử thủ trung da? 男兒要当死于边野,以馬革裹屍还葬耳,何能卧床上在兒女子手中邪?". Có nghĩa : "Làm trai phải chết ở biên cương, lấy da ngựa để bọc thây, chớ sao có thể chết ở trên giường với vợ con được chứ ?!". Qua câu nói nầy, ta thấy con ngựa càng gần gũi thân thiết với con người hơn, khi sống thì cùng với con người "đánh Nam dẹp Bắc", khi chết, thịt ngựa là lương thực đở đói cho chiến sĩ, da ngựa thì để bọc thây khi các chiến binh tử trận ở sa trường, quả là một con vật gắn bó và cùng sống chết với con người ! Ta hãy nghe lại hai câu thơ hào hùng trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm Khúc là :

 

                             Chí làm trai dặm ngàn DA NGỰA,

                             Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao !

DCD_macachquathi.png

                        MÃ CÁCH QUẢ THI : Da Ngựa Bọc Thây    
                                     

         Còn một thành ngữ nghe rất Việt mà lại có gốc Hoa nữa là câu :"Ngựa quen đường cũ", có xuất xứ từ điển tích "LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老馬識途 " theo câu truyện sau đây : Tề Hoàn Công đem binh đi giúp nước Yên đánh bại được quân Sơn Nhung, trên đường về lại bị dẫn dụ lạc vào sa mạc Hàn Hải với gió cát mịt mù không nước uống, lạnh lẽo buốt giá không biết đường ra, quân sĩ kiệt quệ chết chóc rất nhiều. Tướng Quốc Quản Trọng mới tâu với Tề Hoàn Công về đặc tính nhận được đường về của loài Ngựa, bèn chọn một số ngựa già, thả cho chúng tự tìm lối ra, rồi ra lệnh cho toàn quân đi theo sau. Quả nhiên sau vài lần quanh quẹo đã ra khỏi được sa mạc hiểm ác kia.

      "Lão Mã Thức Đồ" là thành ngữ chỉ những con ngựa già có khả năng tìm về đường cũ khi đã đi qua, dùng để chỉ những người già dặn có kiến thức, có kinh nghiệm sống, có thể hướng dẫn ta đi những con đường đúng đắn. Còn "Ngựa Quen Đường Cũ" của ta thì thường dùng để chỉ những người đã làm việc xấu việc sai, dù cho có cải hóa sửa đổi lại rồi, cũng rất dễ dàng đi lại con đường sai lầm cũ, tật xấu khó chừa ! 

 

       Khi Thúy Kiều hỏi về biện pháp mà Sở Khanh sẽ dùng để giải cứu mình, thì được chàng họ Sở trả lời :

 

                              Rằng ta có NGỰA TRUY PHONG,

                         Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.

 

      TRUY 追 là Rựơt đuổi, PHONG 風 là Gió. Ngựa TRUY PHONG là TRUY PHONG MÃ 追風馬, là Ngựa chạy như rượt đuổi theo gió, ý là Ngựa chạy nhanh như gió, nên tất cả những con ngựa chạy nhanh đều có thể gọi là Ngựa Truy Phong được cả. Sở Khanh khoe có ngựa chạy nhanh như gió  để... dụ cô Kiều bỏ trốn ! " Ba mươi sáu chước chước nào là hơn ? ". Cho nên mới :

 

                             Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,

                    Song song NGỰA trước NGỰA sau một đoàn. 

 

       Ngựa là phương tiện giao thông, bị tên Sở Khanh lợi dụng làm phương tiện bỏ trốn. Thường trong văn học cổ, hình ảnh con ngựa còn là hình tượng của sự chia tay, khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                              Người lên NGỰA, kẻ chia bào,

                      Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

 

và là...

        phương tiện hành hung đã giúp cho Khuyển Ưng bắt cóc cô Kiều :

 

                             Vực nàng lên NGỰA tức thì,

                       Buồng đào viện sách bốn bề lửa dong.

và cũng là...

       hình ảnh hào hùng, dứt bỏ nhi nữ thường tình, của người đi làm việc lớn như Từ Hải :

 

                              Trông vời trời bể mênh mang,

                     Thanh gươm yên NGỰA lên đàng thẳng dong.

 

... để đưa đến một kết quả có hậu là...

      hình ảnh của sự long trọng tiếp đón khi Từ Hải đã làm nên sự nghiệp :

 

                              Kéo cờ lũy, phát súng thành,

                      Từ Công ra NGỰA thân nghinh cửa ngoài. 

                                                                             ... để rước nàng Kiều về dinh...  

 

         Con Ngựa còn là hình ảnh trung trinh luôn hướng về quê hương cố thổ, như trong thành ngữ NGỰA HỒ CHIM VIỆT có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài thơ cổ khuyết danh thời Đông Hán là :

 

                     胡馬依北風,   Hồ mã y bắc phong,

                     越鳥巢南枝.    Việt điểu sào nam chi.

  Có nghĩa :

            Con ngựa của đất Hồ nơi phương bắc, khi đưa vào Trung Nguyên thấy gió bấc thì hí lên tỏ lòng quyến luyến quê xưa. Còn con chim của Bách Việt, khi đưa vào Trung Nguyên thì luôn chọn cành nhánh phía nam để mà làm tổ. 

      Hai con một cầm (loài chim), một thú (loài vật) nhưng luôn luôn nhớ về quê hương chốn cũ, huống chi là con người ! Trong "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

 

                                Người nhìn kẻ lại trông theo,

                     NGỰA HỒ CHIM VIỆT nhiều điều nhớ nhau.

 

      Còn trong "Hoài Nam Khúc" của Hoàng Quang đời Tây Sơn thì đão lại là CHIM VIỆT NGỰA HỒ để chỉ lòng nhớ nước thương nhà :

 

                                CHIM VIỆT NGỰA HỒ lơ láo đó,

                                 Hươu Tần yến Tạ lạc loài mô.

DCD_NguaHoChimViet.png

                                         Ngựa Hồ                     Chim Việt

 

      Cũng trong "Hoa Tiên Truyện" của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện, ta còn gặp tích MàĐƯƠNG, tức Mà ĐƯƠNG SƠN 馬當山 nằm ở phía tây nam huyện Đông Lưu thuộc tỉnh An Huy ngày nay. Núi có hình tượng như như con ngựa đang nằm trên bờ sông Giang, thế sông hiễm trở hay có sóng gió bất thường. Đây cũng là nơi Vương Bột  nhờ một lão ông chỉ cho dùng thuyền buồm, nên chỉ trong một đêm đã đến được Nam Xương cách đó gần 800 trăm dặm đường để dự tiệc Đằng Vương và làm nên bài Đằng Vương Các Tự nổi tiếng cho  đến hiện nay :

 

                                 Tơ chơi nguyệt hãy đành hanh,

                         Rằng đây chẳng phải là ghềnh MàĐƯƠNG.

 

      Nhắc đến Mã Đương lại làm cho ta nhớ đến MÃ NGÔI 馬嵬, nơi mà Dương Qúy Phi buộc phải tự ải cho yên lòng quân trong cuộc binh biến trong năm Thiên Bảo thứ 15 đời Đường khiến cho Đường Huyền Tông phải bỏ kinh thành Trường An mà chạy vào đất Thục trong cuộc phản loạn do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh cầm đầu mà sử gọi là AN SỬ CHI LOẠN 安史之亂. Nhà thơ Bạch Cư Dị đã miêu tả trong bài thơ trường thiên "Trường Hận Ca" khi nhà vua trở lại kinh thành đi ngang qua Mã Ngôi như sau :

 

                 天旋地轉迴龍馭,   Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự,

                 到此躊躇不能去。   Đáo thử trù trừ bất năng khứ.

                 馬嵬坡下泥土中,   MÃ NGÔI pha hạ nê thổ trung,

                 不見玉顏空死處。   Bất kiến ngọc nhan không tử xứ !

  Có nghĩa :

                 Chuyển xoay long giá hồi cung,

                 Ngựa chùn chân bước người chùn dây cương.

                 MÃ NGÔI nắm đất bên đường,

                 Nào đâu người ngọc chìm hương mất rồi !

 

  Trong Hoài Cổ Khúc của ta cũng có câu :

 

                    MÃ NGÔI muôn dặm thẳng xông,

                 Thuyền quyên hồn dứt anh hùng lệ sa.

 

      Cuối TRUYỆN KIỀU được kết thúc bằng một thành ngữ có từ MÃ rất có hậu, đó là khi Kim Trọng thi đậu làm quan đã nhớ đến Thúy Kiều :

 

                          Ấy ai dặn ngọc thề vàng,

                  Bây giờ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG với ai ?!                        

       

      KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG 金馬玉堂, thành ngữ có xuất xứ từ đời Hán. KIM MÃ là KIM MÃ MÔN 金馬門, là Cửa Kim Mã, nơi mà các Học Sĩ đợi chiếu chỉ của nhà vua ban xuống. NGỌC ĐƯỜNG là NGỌC ĐƯỜNG ĐIỆN 玉堂殿, nơi nghị sự của các Học Sĩ, là Hàn Lâm Viện của các Hàn Lâm Học Sĩ.

      Nên thành ngữ KIM MÃ NGỌC ĐƯỜNG dùng để chỉ sự đổ đạt vinh hiển làm quan, đắc ý vì công thành danh toại.

DCD_Kimmangocduong.png

Cuối cùng, ta có từ VÓ NGỰA. VÓ có nghĩa là Chân Ngựa, như ta hay nói "Con ngựa bị chổng 4 VÓ lên trời !" Nhưng trong văn học VÓ NGỰA là chỉ BƯỚC CHÂN của NGỰA. Nên Tiếng Vó Ngựa là tiếng chân ngựa chạy, còn được gọi là VÓ CÂU vì người ta thường dùng ngựa trẻ ngựa khỏe để cưởi hay kéo xe. Để diễn tả cảnh chia tay não lòng của cô Kiều, khi phải đau lòng mà đi theo Mã Giám Sinh, cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                           Đoạn trường thay lúc phân kỳ,

                    VÓ CÂU khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.

 

      Ta gặp lại từ VÓ CÂU khi Hoạn Thư khuyên Thúc Sinh trở về Lâm Chuy để viếng Thúc Ông :

 

                        Cách năm mây bạc xa xa,

                Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn.

                        Được lời như cởi tấc son,

                VÓ CÂU rung rủi nước non quê người.

    và khi...

                      VÓ CÂU vừa gióng dặm trường,

               Xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh.

 

      Để kết thúc bài viết nầy, kính mời tất cả cùng nghe bản nhạc bất hủ của nhạc sĩ Văn Phụng : VÓ CÂU MUÔN DẶM với 3 câu kết thật hay :

 

             ... Mai VÓ CÂU lên đường

                 Đem chí trai can trường

                 Đời ta sống thác vì cố hương!...

 

      Xin bấm vào link dưới đây để nghe nhạc :

 

          https://lyric.tkaraoke.com/18352/vo_cau_muon_dam.html#

 

                                                                                                       杜紹德

                                                                                                   Đỗ Chiêu Đức

Giai Thoại Văn Chương:

  

                                         Thi Nang TỀ KỶ

DCD_ThinangTeKy.png

Như tất cả mọi người đều biết, trong trời đông giá rét, thậm chí tuyết phủ ngập trời, hoa mai vẫn cứ ngạo nghễ vươn lên, kết nụ trổ hoa bất chấp sương rơi tuyết phủ. Cùng với Tùng Trúc hợp thành : TÙNG TRÚC MAI TUẾ HÀN TAM HỮU 松竹梅歲寒三友, là ba người bạn trong mùa đông hàn lạnh lẽo ! Không mạnh mẽ cao lớn chửng chạc như Tùng, không xanh tốt dẽo dai vươn dài như Trúc, Mai ẻo lả khẳng khiu với những cành nhánh mảnh mai, nhưng những đọt xanh vẫn manh nha, nụ non vẫn đâm chồi nẩy lộc ... Xin mời nghe một câu chuyện mai nở sớm trong trời đông tuyết gía của TỀ KỶ 齊己, một nhà sư thi sĩ có biệt hiệu là THI NANG 詩囊 ( Túi Thơ) sau đây ...

DCD_TungCucMaiTueHan.png

                          TÙNG TRÚC MAI TUẾ HÀN TAM HỮU 松竹梅歲寒三友            

 

       Theo sách " Đường Tài Tử Truyện"《唐才子傳》ghi chép:

       Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ 齊己 (863—937), tục danh là Hồ Đắc Sinh 胡得生, có biệt hiệu là Hành Nhạc Sa Môn 衡岳沙門, là người đất Ninh Hương, thuộc huyện Trường Sa tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ông sống ở cuối đời  Đường, và xuyên suốt qua ba triều đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó, 6 tuổi đã phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng trâu. Sư Cụ trong chùa Đồng Độ Tự thương tình cho vào chùa tu để có thời gian học hành và nghiên cứu kinh Phật. Từ đó, Tề Kỷ học hành tấn tới và làm thơ rất nhanh rất giỏi.

       Một hôm gần cuối năm, như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO MAI 早 梅 " để tán thưởng cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài thơ có 2 câu rất hay là : 

 

                  Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏

                  Tạc dạ SỔ chi khai.           昨夜數枝開。

Có nghĩa :

               - Trong rừng tuyết của xóm phía trước xa xa...

               - Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở !

 

        Tề Kỷ rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được cái SỚM của MỘT cành Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát đất, bèn sửa lại thành :

 

                 Tiền thôn thâm tuyết lý,    前村深雪裏

                 Tạc dạ NHẤT chi khai.       昨夜一枝開。

 

... và từ đó về sau gọi Trịnh Cốc là " NHẤT TỰ SƯ  一字师 ", vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !

 

         Toàn bài thơ TẢO MAI của sư Tề Kỷ như sau :       

 

             

 

          早 梅                 TẢO MAI

        萬木凍欲折,       Vạn mộc đống dục chiết,

        孤根暖獨回。       Cô căn noãn độc hồi. 

        前村深雪裏,       Tiền thôn thâm tuyết lý,

        昨夜一枝開。       Tạc dạ nhất chi khai. 

        風遞幽香出,       Phong đệ u hương xuất,

        禽窺素豔來。       Cầm khuy tố diễm lai. 

        明年如應律,       Minh niên như ứng luật,

        先發望春臺。       Tiên phát Vọng Xuân Đài !

                齊己                                      Tề  Kỷ

 

CHÚ THÍCH :

      TẢO MAI : là Mai nở sớm, cũng có nghĩa là : Mai nở sớm hơn tất cả các loài hoa trong trời đông giá lạnh.

      ĐỐNG DỤC CHIẾT : Đống là Đong đá, Dục là Muốn, Chiết là Gãy. Có nghĩa là : Đong đá dòn đến muốn gãy luôn.

      NOÃN là Ấm. HỒI là Hồi Sinh. Nên Noãn Độc Hồi là : Nhờ Hơi ấm mà đơn độc hồi sinh .

      ĐỆ 遞 là Đệ Trình. Ở đây có nghĩa là Truyền đạt. Nên Phong Đệ là : Gió Đưa, gió đẩy.

      CẦM là Chim muông. KHUY là Nhìn ngắm.

      TỐ DIỄM là Trong Trắng đẹp đẽ. Ở đây chỉ Bạch Mai.

      ỨNG LUẬT : là Ứng theo Quy Luật tự nhiên.

      VỌNG XUÂN ĐÀI : là Cái Đài Ngóng Xuân, lên đó để đợi mùa xuân tới. Đứng trên đài cao, có thể nhìn thấy mặt trời mọc trước, có thể đón tia đầu tiên của ánh nắng mùa xuân trước hơn là những người ở dưới thấp.

 

NGHĨA BÀI THƠ :

       Muôn ngàn thảo mộc đều lạnh cóng đến muốn gãy ra. Chỉ riêng có rể của hoa mai là biết hút hơi ấm trong đất mà đơn độc hồi sinh. Cho nên, trong nền tuyết trắng xóa mênh mông của xóm trước xa xa, đêm qua một cành mai đã vươn lên nở hoa trong trời đông giá rét. Gió đã đưa cái hương thơm nhè nhẹ thoảng đi và chim cũng đã ngạc nhiên nhìn ngắm cành bạch mai thanh khiết trắng trong đẹp đẽ mà bay đến. Nếu sang năm lại theo cái quy luật Nở Sớm tự nhiên nầy, thì hoa mai ơi, hãy nở trước ở Vọng Xuân Đài để cho nhiều người nhìn ngắm, chớ ở nơi hoang sơ lạnh lẽo vắng vẻ nầy, có ai biết đến mà thưởng thức nhìn ngắm đâu !

       Như trên đã nói, Sư Tề Kỷ đi tu chỉ vì nghèo, bất đắc dĩ và bất đắc chí không thi thố được tài năng, nên còn nặng nợ với công danh, ông ví mình như cành mai nở sớm kia, vượt lên trên trăm hoa để khoe sắc, nhưng lại khoe sắc trong vùng tuyết lạnh không người.... cũng như tài năng của ông bị mai một ở trong chùa không người biết đến vậy ! Cho nên, ông đã khuyên mai nên nở ở Vọng Xuân Đài cho mọi người nhìn ngắm để biểu lộ cái ao ước thầm kín trong lòng... Nếu đi thi ta cũng sẽ toả sáng như mai sớm tỏa hương cho mọi người ngưỡng mộ vậy !

DCD_TaoMai.png

DIỄN NÔM :

                          TẢO MAI

                  Muôn cỏ hoa đong cứng,

                  Rể truyền hơi ấm xanh.

                  Xóm ngoài trong tuyết lạnh,

                  Đêm qua nở một cành.

                  Gió đưa hương thoang thoảng,

                  Chim ngắm vẻ đẹp xinh.

                  Nếu sang năm lại sớm,

                  Vọng Xuân Đài nở quanh.

  Lục bát :

                  Cỏ hoa lạnh cứng trời đông,

                  Riêng mai hơi ấm vẫn không phai tàn.

                  Xóm ngoài trong tuyết mênh mang,

                  Đêm qua nở trắng một cành bạch mai.

                  Gió đưa hương thoảng ra ngoài,

                  Chim nhìn ngắm vẻ thanh bai trong lành.

                  Sang năm lại sớm nở xanh,

                  Vọng Xuân Đài đó chung quanh lắm người.

                                                          Đỗ Chiêu Đức

 

         Đọc bài thơ nầy, lại làm ta nhớ đến 2 câu cuối của bài " Cáo Tật Thị Chúng 告疾示眾 " của Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) là một Thiền sư  của Việt Nam ta là :

 

                莫謂春殘花落尽,      Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

                庭前昨夜一枝梅 !     Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

                

Có nghĩa :

                   Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

                   Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!

 

                    

 

       Khi viết 2 câu trên, hẵn Mãn Giác Thiền Sư cũng đã đọc qua bài thơ của nhà sư Tề Kỷ rồi !

 

       Sau lúc thành niên, Tề Kỷ bèn vân du và du học bốn phương, chính thời gian nầy ông đã xưng hiệu là Hành Nhạc Sa Di(Môn) 衡岳沙彌(門), đến đâu ông cũng đều làm thơ đến đó, khi lên lầu Nhạc Dương, lúc dạo chơi hồ Động Đình, khi thì đi ngang qua xứ Trường An, nơi phồn hoa đô hội, lúc lại trèo đèo vượt suối đến tận Chung Nam Sơn, ngắm thông xanh ở Hoa Sơn... Ông đã làm rất nhiều bài thơ nổi tiếng trong khoảng thời gian nầy, cụ thể như bài Đăng Chúc Dung Phong 登祝融峰như sau :

 

                   猿鳥共不到,    Viên điểu cộng bất đáo,

                   我來身欲浮。    Ngã lai thân dục phù.

                   四邊空碧落,    Tứ biên không bích lạc,

                   絕頂正清秋。    Tuyệt đỉnh chánh thanh thu.

                   宇宙知何極,    Vũ trụ tri hà cực,

                   華夷見細流。    Hoa Di kiến tế lưu,

                   壇西獨立久,    Đàn tây độc lập cữu,

                   白日轉神州。    Bạch nhật chuyển thần châu.

 

                    

 

      CHÚC DUNG PHONG 祝融峰 là ngọn núi cao nhất trong 72 ngọn của Nam Nhạc Hành Sơn, ngất ngưỡng chót vót trên cao, vô cùng hùng vĩ. Vượn và chim đều không lên đến đó được, người lên đến đó cũng thấy mình như phơi phới muốn bay lên, bốn bên đều là bầu trời xanh biêng biếc, vì trời cũng đã đang độ vào thu. Vũ trụ bao la không biết đến đâu là cùng cực, những dòng sông nhỏ xíu bên dưới nối liền vùng Hoa Hạ và các xứ Man Di. Đứng trên đàn phía tây giờ lâu sẽ thấy ánh mặt trời chiếu sáng soi rọi khắp cả Thần Châu. Xin được tạm diễn Nôm như sau :

 

                    Vượn chim chẳng đến được đây,

                    Người thì phiêu diễu sắp bay lên trời.

                    Bốn bề sắc biếc rạng ngời,

                    Trên cao chót vót thu trời xanh lơ.

                    Bao la vũ trụ vô bờ,

                    Sông chia Hoa Hạ lờ mờ dưới chân.

                    Tây đàn đứng đó bâng khuâng,

                    Sáng lòa mặt nhựt khắp Thần Châu ta !

 

        Vân du một vòng khắp thiên hạ, khi trở lại đất Trường Sa, thì danh của Tề Kỷ đã nổi như cồn. Năm Công nguyên 921, trên đường đi Tứ Xuyên, khi ngang qua đất Kinh Châu được Tiết Súy Cao Qúy Hưng lưu lại, an trí cho trụ trì ở Long Hưng Tự nổi tiếng nơi đây với bổng lộc rất hậu hĩnh. Nhưng là kẻ chân tu, Tề Kỷ  đã không còn màng đến phú qúy lợi danh như hồi còn trẻ nữa, nên lại trở vế đất Giang Lăng và viên tịch ở nơi đây lúc 76 tuổi, ông để lại Bạch Liên Tập 白蓮集 gồm hơn 800 bài thơ. Số lượng thơ của ông làm so với các thi sĩ đời Đường được xếp hàng thứ 5, chỉ sau Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn mà thôi. Nhưng ông được người đời gọi là THI NANG 詩囊 (Túi đựng thơ) không phải vì ông làm nhiều thơ, mà vì trên cổ của ông phần ở dưới mặt có một cái bướu thịt lủng lẳng như chiếc túi. Lẽ ra trông rất xấu, nhưng người đời vì mến tài ông nên gọi đó là "Chiếc túi đựng thơ". Vì thế mà ông mới có thêm một biệt hiệu đăc biệt là THI NANG 詩囊 là vậy.

       Mặc dù là cao tăng nhà Phật, nhưng thơ của TỀ KỶ vẫn chịu ảnh hưởng của Tam Giáo Nho Thích Đạo đã thấm nhuần và ăn sâu vào nếp sống của xã hội quần chúng qua cách sống, cách nghĩ, cách viết và cả cách...làm thơ nữa. Mời đọc bài XUÂN HỨNG 春興 của ông sau đây sẽ rõ :

DCD_camhungngayxuan.png

 春興                 XUÂN HỨNG

 

柳暖莺多語,     Liễu noãn oanh đa ngữ,

花明草盡長。     Hoa minh thảo tận trường.

風流在詩句,     Phong lưu tại thi cú,

牽率繞池塘。     Khiên suất nhiễu trì đường.

叫切禽名宇,     Khiếu thiết cầm danh Vũ,

飛忙蝶姓莊。     Phi mang điệp tánh Trang.

時來真可惜,     Thời lai chơn khả tích,

自勉掇蘭芳。     Tự mẫn xuyết lan phương !

           齊己                                  Tề Kỷ

 

      Cái cảm hứng trong mùa xuân của nhà sư Tề Kỷ cũng vừa là cái cảm hứng chung của văn nhân thi sĩ trước cảnh những nhành liễu như ấm lên với gió xuân và hòa vào tiếng chim oanh đang rộn rã hót líu lo, những đóa hoa như sáng đẹp thêm ra và cỏ thì như vươn dài vô tận. Cái phong lưu tiêu sái thì nằm trong câu thơ còn sự phóng túng buông thả thì giàn trải theo ao hồ. Tiếng phi cầm kêu thảm thiết đúng là tên của con Đỗ Vũ (Đỗ Quyên là con Cuốc), còn những cánh bướm bay lượn chập chờn chẳng phải mang họ Trang của Trang Chu hay sao. Khi thời vận đã đến mà không biết nắm bắt thì quả thật là đáng tiếc, nên chi ta cũng tự nhủ mình là phải biết chắc lọc mà chọn lấy mùi hương cao qúy của hoa lan (Đừng để cho xuân tàn hoa lạc tận rồi sẽ chẳng còn chi nữa!). Xin được tạm diễn Nôm như sau đây :

 

                     CẢM HỨNG NGÀY XUÂN

 

                   Liễu xanh oanh hót líu lo,

                   Hoa xuân sáng đẹp mặc cho cỏ dài.

                   Phong lưu thơ thẩn trang đài,

                   Thả lòng phóng túng tình lay ao hồ.

                   Thiết tha tiếng cuốc ngẩn ngơ,

                   Chập chờn cánh bướm còn ngờ Trang sinh.

                   Tiếc xuân thắm thoát qua nhanh,

                   Nhủ lòng chọn lấy một cành lan hương !

 Hẹn bài viết tới :

                                 Thi Kiệt VƯƠNG BỘT.

  

                                                                                                    杜紹德

                                                                                               Đỗ Chiêu Đức

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 66 : 

                                      

                                                 LÒNG

dcd_long.png

                                                      Tóc tơ căn vặn TẤC LÒNG,

                                         Trăm năm tạc một chữ "Đồng" đến xương.

 

             Đó là hai câu thơ trong Truyện Kiều, tả lúc Kim Trọng và Thúy Kiều cùng nhau thề nguyền hẹn ước.  TẤC LÒNG là một tấc của tấm lòng, mà một tấc Tàu chỉ khoảng 2cm mà thôi, nên TẤC LÒNG là chỉ tấm lòng rất nhỏ nhoi của mình; tuy nhỏ nhoi nhưng chứa đựng rất nhiều tình nghĩa, tâm tư tình cảm đều chứa  đựng trong TẤC LÒNG nầy; TẤC LÒNG chữ Nho là THỐN TÂM 寸心, có xuất xứ từ 2 câu thơ trong bài "Ngẫu Đề" của Thi Thánh Đỗ Phủ đời Đường như sau :

 

                                  文章千古事,   Văn chương thiên cổ sự,

                                  得失寸心知。   Đắc thất THỐN TÂM tri.

     Có nghĩa :

                        Văn chương vốn là chuyện của thiên cổ, (Chuyện của muôn đời)...

                        Được hay mất thì trong TẤC LÒNG ta tự hiểu lấy !

 

          Khi ở lại một mình để Từ Hải ra đi lập nghiệp, Thúy Kiều cũng đã nhớ  đến cố quốc quê hương qua tấm lòng nhỏ nhoi nhưng lại rất nhiệt thành của mình :

 

                                            TẤC LÒNG cố quốc tha hương,

                                       Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời !

 

          Còn khi cân nhắc giữa tình và hiếu để quyết định bán mình chuộc tội cho cha, thì cụ Nguyễn Du đã cho cô Kiều tự ví lòng hiếu thảo của mình như là "Lòng cuả một tấc cỏ nhỏ nhoi" muốn báo đáp lại ánh nắng của ba tháng mùa xuân ấm áp :

 

                                            Hạt mưa xá nghĩ phận hèn,

                                      Liều đem TẤC CỎ quyết đền ba xuân.

 

          TẤC CỎ đó là THỐN THẢO TÂM 寸草心 xuất xứ từ 2 câu thơ trong bài Du Tử Ngâm của Thi Tù Mạnh Giao  đời Đường :

                                     誰言寸草心,     Thùy ngôn THỐN THẢO TÂM,

                                     報得三春暉。     Báo đắc tam xuân huy ?

          Có nghĩa :

                               Ai bảo nỗi lòng TẤC CỎ...

                               Báo đền được nắng ba xuân  ?!

dcd_tacco.png

Sau TẤC LÒNG ta có TƠ LÒNG. Tơ Lòng là gì ? Xin thưa : Tơ Lòng là sợi tơ ở trong lòng! Ở trong lòng nào ? Ở trong lòng con nhện như trong ca dao dân gian :

 

                                Buồn trông con nhện giăng tơ,

                            Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?!

 

    ... và ở trong con tằm, như trong Truyện Kiều khi Thúc Sinh phân bua than vãn với Thúy Kiều là :

 

                                  Dù cho sông cạn đá mòn,

                          Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ !

 

Cụ nguyễn Du đã mượn ý câu thơ trong bài thơ Vô Đề của Lý Thương Ẩn đời Đường là: "Xuân tàm đáo tử ti phương tận 春蠶到死絲方盡". Có nghĩa :  Con tằm xuân đến chết mới hết nhả tơ ! Ngoài ra ...

          TƠ LÒNG còn là sợi tơ trong lòng của các củ sen, cọng sen, ngó sen, như trong câu thành ngữ Ngẫu  Đoạn Ti Liên 藕斷絲連. Có nghĩa : Củ sen, ngó sen tuy bị cắt đứt, nhưng những sợi tơ ở giữa hai đầu vẫn còn dính liền với nhau. Trong Truyện Kiều khi tả Thúy Kiều lần thứ hai lọt vào lầu xanh đã nhớ về Kim Trọng như sau :

                                Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

                            Dẫu lìa ngó ý còn vương TƠ LÒNG!

 

        Ta còn gặp lại từ  TƠ LÒNG trong Truyện Kiều khi Từ hải chết trận, trong buổi tiệc hạ công mừng chiến thắng, Hồ Tôn Hiến đã hỏi Thúy Kiều là :"...Dây loan xin nối cầm lành cho ai ?" thì cô Kiều đã khóc mà trả lời rằng :

                             .... Còn chi nữa cánh hoa tàn,

                            TƠ LÒNG đã đứt dây đàn Tiểu Lân !

                              Rộng thương còn mảnh hồng quần,

                             Hơi tàn được thấy gốc phần là may !

dcd_tolong.png

TƠ LÒNG là sợi tơ ở trong lòng, là Tơ Tình, còn nói đão lại là LÒNG TƠ, như khi nghe tin Thúy Kiều đã bán mình để lấy tiền lo lót chuộc tội cho mình, thì Vương Viên Ngoại đã "Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi". Thúy Kiều phải lên tiếng khuyên nhủ là :

 

                          Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,

                      Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

                          LÒNG TƠ dù chẳng dứt tình, 

                     Gió mưa âu hẵn tan tành nước non.

                          Thà rằng liều một thân con,

                      Hoa dù rả cánh lá còn xanh cây...

 

       Hay như khi đưa Kim Trọng về Liêu Dương để hộ tang cho chú, Thúy Kiều cũng đã trấn an Kim Trọng bằng câu :

 

                           Cùng nhau trót đã nặng lời,

                     Dẫu thay mái tóc dám dời LÒNG TƠ !

 

       Trong truyện Nôm khuyết danh "Chàng Chuối" ta còn đọc thấy LÒNG HÀ LƯƠNG theo tích sau đây :

       Theo sách "Ngô Việt Xuân Thu" Năm Câu Tiễn thứ 25, sau khi nước Việt diệt được nước Ngô, được nhà Châu phong cho làm bá chủ chư hầu, bèn hiệu lệnh cho các nước Tề, Sở, Tần, Tấn cùng họp nhau uống máu ăn thề để phò trợ nhà Châu. Tần Hoàn Công không theo hiệu lệnh, nên Việt cử binh đánh Tần. Câu Tiễn lệnh cho tướng sĩ nước Ngô vừa mới quy hàng qua sông Hà để tiến đánh nước Tần. Sau chiến tranh Ngô Việt quân tướng đã mõi mệt nên chán nản và kêu khổ liên miên, may mà nước Tần thấy khí thế của quân Việt quá mạnh, nên tự động đến để quy hàng. Quân Việt trở về mà lòng mừng khấp khởi bèn làm bài thơ HÀ LƯƠNG CHI THI 河梁之詩 để tỏ nổi vui mừng. Nên...

 

                                  

 

      LÒNG HÀ LƯƠNG là lòng vui mừng, hân hoan, như trong truyện Nôm khuyết danh Truyện Chàng Chuối được cha giúp đỡ để cưới được vợ đẹp :

 

                           Thấy nàng khác đấng quần hồng,

                       Đã đưa khôn cấm tấc LÒNG HÀ LƯƠNG.

   

     Còn LÒNG HỒNG HỘC là chỉ có hoài bão to lớn như chim hồng chim hộc, hai loài chim lớn vừa bay cao bay xa như câu nói trong Sử Ký của Tư Mã Thiên "Yến tước an tri hồng hộc chí tai 燕雀安知鴻鵠志哉!". Có nghĩa : "Chim én chim sẻ làm sao mà biết được chí lớn của chim hồng chim hộc !". Trong thơ Nôm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu :

 

                          Say hết tấc LÒNG HỒNG HỘC,

                          Hỏi làm chi sự cổ câm (kim).

 

                           

 

     Còn trong Bích Câu Kỳ Ngộ thì gọi là CHÍ HỒNG để chỉ chí lớn :

 

                                 Đói no cơm giỏ nước bầu,

                      Những phường yến tước biết đâu CHÍ HỒNG.

 

     Sau LÒNG HỒNG HỘC chỉ 2 loại chim, ta có LÒNG QÙY HOẮC chỉ 2 loài hoa là Hoa Quỳ và Hoắc Hương. Hai loại cây nầy hoa và lá đều hướng về phía mặt trời, nên hoa qùy còn có tên là Hoa Hướng Dương, theo như thơ của Thi Thánh Đỗ Phủ :

 

                   葵藿傾太陽,    QÙY HOẮC khuynh thái dương,

                   物性固難奪。    Vật tính cố nan đoạt.

   Có nghĩa :

                        Qùy Hoắc hướng phía mặt trời,

                      Trời sinh vật tính khó dời đổi thay.  

 

       Vì "Hoa qùy môt dạ hướng dương"(thơ Á Nam Trần Tuấn Khải), nên được mượn để chỉ tấm lòng trung thành không gì thay đổi được. Trong "Đại Nam Quốc Sử diễn ca" của Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái có câu :

 

                        Bình dương nhật nguyệt sáng cao,

                 Tấm LÒNG QÙY HOẮC cũng đều hướng dương.

 

    LÒNG QÙY HOẮC là lòng hướng dương không dời đổi, còn LÒNG SON là lòng đỏ như son không bao giờ phai nhạt, cũng dùng để chỉ lòng trung thành không lay chuyển, chữ Nho là ĐAN TÂM, có xuất xứ từ 2 câu thơ của Văn Thiên Tường đời Tống, được cụ Nguyễn Công Trứ mượn làm hai câu thơ chữ Hán trong bài hát nói "Chí Làm Trai" là :

 

                         人生自古誰無死,      Nhân sanh tự cổ thùy vô tử,

                         留取丹心照汗青。      Lưu thủ ĐAN TÂM chiếu hãn thanh .

      Có nghĩa :

                         Xưa nay người sống ai không chết,

                         Lưu tấm LÒNG SON để sử xanh !

 

      Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Phan Trần có câu :

                    

                       Kiếp tu đã nguyện bồ đề,

                  LÒNG SON bảy mối, tóc thề mười phương.

 

      Còn trong thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gọi là LÒNG ĐAN :

 

                        Lồng cửa động, vân yêu cách,

                      Giải LÒNG ĐAN, nhật nguyệt thâu.

dcd_Longdan.png

LÒNG ĐAN là LÒNG SON, là lòng son sắt không đổi thay, khác với LÒNG ĐỔI TRẮNG THAY ĐEN như cụ Nguyễn Du đã nói trong Truyện Kiều :

 

                            Trong tay sẵn có đồng tiền,

                    Thì LÒNG ĐỔi TRẮNG THAY ĐEN khó gì.

 

      Hay là LÒNG NGƯỜI NHAM HIỂM, như khi cụ cho Thúc Sinh nói về vợ mình là Hoạn Thư với bồ nhí là Thúy Kiều như sau :

 

                            Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,

                    LÒNG NGƯỜI NHAM HIỂM biết đâu mà lường.

 

      Vì "Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường", nên các cụ đồ Nho xưa hay kháo nhau câu :

 

                 畫虎畫皮難畫骨,    Họa hổ họa bì nan họa cốt,

                 知人知面不知心。    Tri nhân tri diện bất tri tâm.

    Có nghĩa : 

                   Vẽ cọp vẽ da khó vẽ xương,

                   Biết người biết mặt chẳng biết lòng.

 

       Cũng trong Truyện Kiều, khi Bạc Bà ép Thúy Kiều lấy Bạc Hạnh, thì cô Kiều đã bày tỏ nỗi lòng lo lắng của mình với Bạc Bà là :

 

                             Cùng đường dù tính chữ tòng,

                        Biết người biết mặt biết lòng làm sao ?!

 

       Cỏi lòng của con người hay bị những dục vọng thôi thúc, những dục vọng đó cứ âm ỉ mãi trong tim mà nhà Phật gọi là TÂM HỎA 心火, là LỬA LÒNG. Như khi được Hoạn Thư cho vào Quan Âm Các để xuất gia, Thúy Kiều đã "Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương", nên cụ Nguyễn Du đã phán :

 

                           Cho hay giọt nước cành dương,

                    LỬA LÒNG tưới tắt mọi đường trần duyên. 

dcd_lualong.png

Cũng như khi Vương Viên Ngoại buộc Thúy Kiều phải rời bỏ am mây của sư Giác Duyên để cùng về đoàn tụ, thì cô Kiều cũng đã phân bua rằng :

 

                              Sự đời đã tắt LỬA LÒNG,

                      Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi !

 

       Cuối cùng ta có LÒNG PHIẾU MẪU. PHIẾU MẪU 漂母 là một bà già tầm thường giặt lụa ở bờ sông. Khi Hàn Tín 韓信 còn chưa phát tích, lang thang phiêu bạc đó đây sống nhờ vào Nam Đình Đình Trưởng. Nhưng vợ Đình Trưởng là một người đàn bà hà khắc, thường ăn cơm sớm và không chừa phần cho Hàn Tín. Khi Tín đến thì cơm đã hết rồi. Buồn lòng Hàn Tín đi lang thang ra bờ sông thì gặp phải Phiếu Mẫu đang lúc ngưng giặt đồ để ăn cơm. Trông thấy điệu bộ đói khát của Tín, bèn chia cho phân nữa phần cơm của mình đang ăn. Hàn Tín rất cảm kích mà bảo rằng :" Sau này nếu ta phát tích sẽ đền ơn cho bà trọng hậu". Phiếu Mẫu nổi giận đáp rằng :"Ta thấy nhà người đói khát tội nghiệp nên chia cơm cho ngươi ăn, chớ đâu phải để mong sau này ngươi báo đáp cho ta đâu !". Sau khi giúp cho Lưu Bang chiến thắng Hạng Võ để lập nên nhà Hán, Hàn Tín được phong là Tề Vương, rồi Sở Vương. Khi vinh quy áo gấm về làng đã báo đáp cho Phiếu Mẫu một ngàn lượng vàng. Vì tích nầy mà ta có thành ngữ NHẤT PHẠN THIÊN KIM 一飯千金. Có nghĩa : Một bửa cơm giá đáng ngàn vàng, để cho người đời biết giá trị của "Một Miếng Khi Đói" nó qúy giá biết dường bao !

 

       Trong Truyện Kiều, khi Thúy Kiều báo ân báo oán, cụ Nguyễn Du đã mượn tích nầy để so sánh sự giúp đỡ Thúy Kiều của "Mụ quản gia và Vãi Giác Duyên" như là Phiếu Mẫu đã giúp Hàn Tín vậy, và cũng cho Thúy Kiều đền ơn bằng "nghìn vàng" :

 

                             Nghìn vàng gọi chút lễ thường,

                      Mà LÒNG PHIẾU MẪU mấy vàng cho cân !?

dcd_Longhieumau.png

Xin được kết thúc bài viết về chữ LÒNG với LÒNG của PHIẾU MẪU.

      

       Hẹn bài viết tới.

 

                                                                                                杜紹德

                                                                                           Đỗ Chiêu Đức

DCD_tiengraodem.png

  Nhớ lại thời thập niên 60 của thế kỷ trước, khi các thí sinh còn phải thức đêm để học thi Trung học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài 1, Tú Tài 2... Sau đây là bài thơ hồi ức của một học trò nghèo ở xóm Cầu Kho cuối bến Chương Dương khi thức học thi ban đêm...   

 

 

                            TIẾNG RAO ĐÊM

 

                          

 

                            Ngày xưa trên gác trọ,

                            Trong xóm nghèo hẽm nhỏ.

                          Thức học nghe tiếng đêm,

                          Ngọn đèn khi mờ tỏ!

 


                    Văng vẳng tiếng rao ngon:
                     "Bánh mì đây, nóng dòn!".
                    Em bé trai vai quảy,
                    Một túi bánh mì con!...(mới ra lò).


                           Xa xa tiếng: "Bánh bò,
                           Bánh tiêu, dầu chá quảy!".
                           Tiếng xe đạp lẩy nhẩy,
                           Dòn như bánh ra lò. (mới chiên)


                     Thỉnh thoảng trong đêm chầy,
                     Vẳng tiếng: "Bánh Giò đây!".
                     Ông lão già tay đẩy,
                     Một giỏ bánh giò đầy...(mới nấu chín).


                           Như tiếng mỏ đêm canh,
                           Lốc cốc tiếng nhịp nhanh.
                             "Mì gỏ" đà đến hẽm,
                           Thèm rỏ dãi cũng đành (nuốt nước miếng!).


                     Tiếng kéo nhấp vang vang,
                     Bánh cắt đã mở màn,
                     Tôi nhớ hoài mùi vị,
                     Nước mắm tỏi chanh chan (thả giàn!).


                             Đêm nửa, sáng gần kề,
                             Thức học thi mõi mê,
                             Bánh mì nhai đỡ đói,
                             Hàng rong đã đi về.


                      Xé tan đêm vắng lặng,
                      Tiếng xúc xắc leng keng,
                      Ông "Giác hơi đấm bóp"
                      Lộc cộc xe đạp quèn!


                              Những cuộc đời cơ cực,
                              Những cuộc sống về đêm.
                              Những người nghèo vất vả.....
                              Vẳng mãi "Tiếng Rao Đêm!".


                         Năm mươi năm nhớ lại,

                         Học trò... thuở cơ hàn.
                         Sài Gòn năm xưa ấy,
                         Hỏi ai chẳng bàng hoàng!!!

                                                        

                                                         Đỗ Chiêu Đức

                                                              2020

__________________________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 65 : 

                                      

                                                 LÂN LÝ 

  

                                         
                                               

 

                                                   Sinh rằng LÂN LÝ ra vào, 

                                          Gần đây nào phải người nào xa xôi.              

 

         Đó là hai câu thơ mà Kim Trọng đánh tiếng  nhận là "Bà con lốì xóm" để làm quen với Thúy Kiều.  LÂN LÝ 鄰里, LÂN 鄰 là Lân cận, là lối xóm, là những người ở sát bên nhà. LÝ 里 là Làng xã. Nên LÂN LÝ là Bà con chòm xóm, là lối xóm với nhau. Đây là cái cớ đắc dụng nhất để làm quen với ai đó, nhất là các cô cậu mới lớn ở trong xã hội phong kiến ngày xưa. Nhắc lại bài thơ ngũ ngôn TRƯỜNG CAN HÀNH của Thôi Hiệu đời  Đường tả khi cô gái muốn làm quen với chàng trai đã "kiếm chuyện nhìn bà con lối xóm" như sau :

  

                       君家何處住,   Quân gia xà xứ trú ?    

                       妾住在橫塘。   Thiếp trú tại Hoành Đường.    

                       停船暫借問,   Đình thuyền tạm tá vấn,  

                       或恐是同鄉。   Hoặc khủng thị đồng hương.

  Có nghĩa :

                               Nhà chàng ở tận nơi đâu ?

                       Thiếp thì ở mãi sâu trong Hoành Đường.

                              Dừng thuyền thiếp hỏi tỏ tường,

                   

    Lân là hàng xóm, nên HƯƠNG LÂN 香鄰 là Cô hàng xóm thơm phức ! Đây là cách "nịnh đầm" của ông cha ta ngày xưa. Ai dám bảo các cụ là "cổ lổ xỉ" đâu. Ta hãy nghe cũng chàng Kim Trọng chỉ lo "cua" gái mà không chăm chỉ học hành, đã nghe ngóng khắp nơi để tìm người đẹp :

 

                               Trộm nghe thơm nức HƯƠNG LÂN,

                           Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.

 

       HƯƠNG LÂN 香鄰 còn được gọi là PHƯƠNG LÂN 芳鄰, cũng cùng một nghĩa "nịnh đầm" như trên.      

       

      Ta còn có LÂN là KỲ LÂN 麒麟, con vật thần thoại tượng trưng cho đức tính nhân hậu của bậc thánh nhân, của người quân tử. Trong chương Chu Nam của Kinh Thi có câu LÂN CHỈ TRÌNH TƯỜNG 麟趾呈祥, có nghĩa : Gót chân của con lân đi đến đâu thì mang điềm lành đến nơi đó. Nên các đoàn lân múa chúc mừng Xuân trong ba ngày Tết Nguyên Đán, trên danh thiếp luôn luôn có 4 chữ Lân Chỉ Trình Tường là vì thế. Trong Kinh Thi còn ví Kỳ Lân với Châu Văn Vương, còn gót chân của nó thì ví với con cháu của Châu Văn Vương. Do đó Lân Chỉ hay Gót Lân còn dùng để chỉ con cháu của người hiền đức, như trong truyện Nôm Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu :

 

                                   Trăm năm biết mấy tinh thần,

                                Sinh con sau nối GÓT LÂN đời đời.

 

                                

 

 

 

 

 

 

và như trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh khi cho ông Sãi luận về chữ MUỐN như sau :

 

                            Lưới thỏ giăng, Sãi muốn cho củ củ võ phu;

                           GÓT LÂN xéo, Sãi muốn cho chơn chơn công tử.

 

      và trong bài AI TƯ VÃN của công chúa Lê Ngọc Hân khóc thương vua Quang Trung cũng có câu :

 

                           GÓT LÂN CHỈ mấy hàng lẩm chẩm,

                           Đầu mũ mao, mình tấm áo gai!

             

      Như trên đã nói, KỲ LÂN 麒麟 là con vật tượng trưng cho bậc thánh nhân quân tử, đức cao vọng trọng, nên con của Kỳ Lân là LÂN TỬ 麟子 hay LÂN NHI 麟兒là từ dùng để chỉ con cháu của các bậc hiền đức nêu trên; là con dòng cháu giống của thế gia vọng tộc, như trong thơ Nôm Hoa Tiên Truyện của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện có câu :

               

                                  Họ Diêu sáng vẻ môn mi,

                         Điềm lành sớm ứng LÂN NHI một chàng.

 

                             

 

     Nói đến Kỳ Lân, thì không thể thiếu KỲ LÂN CÁC 麒麟閣, nơi mà vua Hán Tuyên Đế đã cho xây dựng nên để ghi tên của 11 người công thần sau khi đã bình định được Hung Nô. Nên KỲ LÂN CÁC, gọi tắt là LÂN CÁC 麟閣; là từ tượng trưng cho sự vinh dự của các công thần ngày xưa dưới các triều đại phong kiến, như trong các bài thơ "Tô Công Phụng Sứ" của Lê Quang Bí đời Hậu Lê của ta có câu :

 

                                 Trúc ghi lụa rủ đề LÂN CÁC,

                             Cho nước này xem nước khác trông.

 

       LÂN CÁC 麟閣 gọi nôm na là GÁC LÂN, như trong thơ của nhà vua Trần Trùng Quang (Trần Qúy Khoách) đời Hậu Trần có câu :

 

                                 Việc nước một mai công ngõ vẹn,

                                 GÁC LÂN danh tiếng dõi lâu xa.

 

       Còn LÂN KINH 麟經 là Kinh Xuân Thu 春秋經 là bộ kinh chép về lịch sử của nước Lổ, do Khổng Tử biên soạn. Năm Lổ Ai Công thứ 14, có người săn được một con kỳ lân bị què. Khổng Tử cho rằng kỳ lân là Nhân Thú 仁獸; là con thú tượng trưng cho sự nhân đức nhân nghĩa, nay xuất hiện lại bị bắn què, có nghĩa là thời thế đã suy đồi, vô đạo, nên ngưng không viết nữa. Vì thế mà Kinh Xuân Thu còn được gọi là LÂN KINH; một trong những bộ sách kinh điển của Nho Gia. Trong truyện thơ Nôm TRINH THỬ của ta có câu :

 

                                       Trời đâu phụ kẻ tiết nghì,

                              LÂN KINH mao giản tạc ghi còn truyền.  

 

       Còn trong "Phù Dung Tân Truyện" của Trúc Lâm Cư Sĩ đời nhà Nguyễn, theo  bản khắc in đề niên đại Tự Đức Kỷ Mão (1879) thì gọi là KINH LÂN :

 

                                      Mở mang sử Mã, KINH LÂN,

                                Sâu nguồn Thù Tứ, rộng sân Chu Trình.

       

                                
 

       

 

 

 

 

 

 

 

Hết LÂN tới LÝ, LÝ 里 ngoài nghĩa là Làng Xóm ra, Lý còn là DẶM : Đơn vị đo chiều dài thuở xưa tương đương 500m ngày nay. Ta có từ Thiên Lý Mã 千里馬 là loại ngựa giỏi, có thể chạy được mỗi ngày một ngàn dặm, và ta cũng hay nghe câu thơ thứ 2 trong bài thơ "Tứ Khoái" của các cụ đồ ngày xưa là :

 

               THIÊN LÝ tha hương ngộ cố tri   千里他鄉遇故知.

Có nghĩa :

               NGÀN DẶM quê người gặp bạn xưa.

 

       LÝ còn là ĐÀO LÝ 桃李, là hai loại cây ăn trái đồng thời cũng có nghĩa là hai loại trái : Trái Đào và trái Lý. Đây là hai loại cây trái ngọt, thanh và qúy, lại vừa có hoa thơm, nên thường được ví với người nhã nhặn, có học vấn hay học trò giỏi. Trong Ấu Học Quỳnh Lâm 幼學瓊林 nói về Khổng Tử như sau :...Hiền nhân thất thập, đệ tử tam thiên... Đào lý tại công môn, xưng nhân đệ tử chi đa賢人七十,弟子三千...桃李在公門,稱人弟子之多. Có nghĩa :... Trong đám ba ngàn học trò thì có 70 người giỏi... những người xuất sắc (ĐÀO LÝ) thì làm quan, ông là người có học trò đông hơn người khác. Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du ví cô Kiều tài hoa qúy phái như là Cành Đào Hoa Lý khi bị Hoạn Bà vùi dập :

 

                                 Tiếc thay ĐÀO LÝ một cành,

                          Một phen mưa gió tan tành một phen !

 

        Theo sách Thông Giám : Ông Địch Nhân Kiệt, tể tướng đời Đường, tiến cử cho vua Đường một lúc mấy chục người tài giỏi. Người đương thời khen ông rằng :" Thiên hạ ĐÀO LÝ tận tại công môn 天下桃李盡在公門 ". Có nghĩa : " Cây đào cây mận (ý chỉ Nhân tài) trong thiên hạ đều ở cửa của ông mà ra cả !" Trong Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (Bạch Viên Tôn Các) có câu :

 

                                Cửa chen ĐÀO LÝ người sum họp,

                                Nhà chật trân châu của đãi đằng.

 

                              

 

        Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng có câu :

 

                                Sân ĐÀO LÝ mây lồng man mác,

                                Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.

        

         Sau SÂN ĐÀO LÝ, ta có SÂN LÝ, tức LÝ ĐÌNH 鯉庭, là Sân trong nhà của người tên Lý. LÝ 鯉 nầy là Cá chép, tên tự của Bá Ngư 伯魚 là con của Khổng Tử. Theo sách Luận Ngữ. Chú Sơ. Qúy Thị 論語,注疏·季氏 ghi chép :

      " Trần Kháng hỏi Bá Ngư : Anh ở gần thầy, thầy có dạy cho anh những gì đặc biệt không?. Bá Ngư đáp : Có một lần thầy đứng trước phòng học, tôi đi ngang qua sân, thầy hỏi : Có học qua Kinh Thi chưa? Tôi đáp : chưa. Thầy bảo : Không học Kinh Thi thì lấy gì mà ăn nói ! Lại một lần khác, tôi đi ngang qua sân nhà, Thầy cũng hỏi : Học qua Kinh Lễ chưa? Tôi đáp : chưa. Thầy lại bảo : Không học Lễ thì làm sao biết cách để lập thân. Trần Kháng nghe nói rất mừng : Tôi chỉ hỏi có một câu mà học được những ba điều : Một là biết được sự gợi mở của Kinh Thi; Hai là biết được sự đối nhân xử thế của Kinh Lễ; Ba là biết được người quân tử chính trực không dạy riêng cho con mình những điều chi cả. Nên...

       LÝ ĐÌNH là từ dùng để chỉ sự giáo huấn của người cha đối với con cái, như trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ có câu :

 

                             Phó ngạnh tích mặc dù sinh tử,

                             Chắc LÝ ĐÌNH dạy chữ hiếu trung.

 

       LÝ ĐÌNH chỉ tích con của Khổng Tử, còn LÝ MIÊU 李貓 là Con mèo họ Lý. Đây là nick name của Lý Lâm Phủ, một gian thần đời Đường Cao Tông, giữ chức Trung Thư Thị Lang. Bề ngoài trông Lý rất ôn nhu đôn hậu, nhưng trong lòng thì rất gian manh hiễm độc, luôn toan mưu tính kế để hại người, nên dân chúng oán giận mới đặt cho cái tên LÝ MIÊU, lấy ý con mèo trông bề ngoài rất hiền lành ngoan ngoãn, nhưng lại là giống ăn thịt sống, khi giương nanh múa vút lên thì xé xác chú chuột nào đó như chơi. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh TRINH THỬ có câu :

 

                                Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,

                       Tham lam chẳng khác LÝ MIÊU đời Đường.

 

       Sau LÝ MIÊU ta có LÝ SƯƠNG 履霜 là Dẫm lên trên sương móc. Theo Kinh Dịch, quẻ Khôn, hào thứ 6《易經‧坤卦》初六爻 có câu : Lý sương, kiên băng chí 履霜,堅冰至。Có nghĩa : Dưới chân dẫm phải sương móc của mùa thu thì biết là băng cứng của mùa đông sắp đến rồi. Ý là : Dùng hiện tượng sương băng để cảnh báo đề phòng về mối họa hoạn trước khi nó xảy đến. Trong bộ sử trường thiên bằng thơ "Thiên Nam Ngữ Lục" của ta hồi cuối thế kỷ thứ 17 có câu :

 

                                 Đồng thân kim cốt ai đang,

                            Lăng vân là chí, LÝ SƯƠNG là lòng.

          

                          

 

       Cuối cùng ta có Ả LÝ, tức là nàng LÝ KÝ 李寄 trong truyền thuyết Sưu Thần Ký 搜神記 đời Đông Tấn như sau :

       Nước Đông Việt ở vùng Mân nam 閩南 (Quảng Đông, Phúc Kiến hiện nay) có nàng Lý Ký là con gái út thứ sáu của gia đình. Nhà nghèo không có con trai, trong nước lại có nạn yêu rắn hoành hành, mỗi năm đều phải tế một cô gái trẻ cho rắn ăn thịt. Lý Ký bèn quyết định bán thân mình cho rắn ăn thịt, lấy tiền để nuôi cha mẹ và các chị. Mặc dù cha mẹ can ngăn, Lý Ký cũng lén đi, nàng yêu cầu nhà vua cấp cho mình một thanh bảo kiếm và một con chó săn, rồi đi thẳng đến động rắn. Sau một đêm chiến đấu quyết liệt với sự hỗ trợ của con chó săn thiện nghệ, nàng đã chém chết con yêu rắn. Quốc vương nước Đông Việt cảm phục trước sự dũng cảm của nàng , nên đã cưới nàng về làm hoàng hậu. 

      Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho cô Kiều cân nhắc trước khi quyết định bán mình chuộc tội cho cha là :

 

                              Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh,

                            Lại thua Ả LÝ bán mình hay sao ?!

 

      Ả LÝ chính là nàng Lý Ký trong cốt truyện của Sưu Thần Ký nêu trên.

 

                       

                                       

 

 

 

                                              Lý ký trảm yêu xà
 

        Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                 杜紹德

                                                                                            Đỗ Chiêu Đức

DCD_TruyenKieu_LanLy.jpg
DCD_Kylan.png
DCD_Makinhlan.png
DCD_Lykytramuyeuxa.png

Giai Thoại Văn Chương: 

 

                                       Thi Nô GIẢ ĐẢO

DCD_Giadao_.png

                                                Lưỡng cú tam niên đắc, 两句三年得,

                                                Nhất ngâm song lệ lưu. 一吟双淚流.

                                    

      Hai câu thơ trên có nghĩa :"Ba năm làm được hai câu, Ngâm lên một tiếng lệ châu hai hàng". Đó là hai câu thơ tiêu biểu nhất cho người "Nô Lệ Của Thơ" : THI NÔ GIẢ ĐẢO 詩奴賈島. Sau đây, ta sẽ lần lượt tìm hiểu về cuộc đời và quá trình làm thơ của "Nhà Nô Lệ cho Thơ" nầy.

 

     GIẢ ĐẢO 賈島 (779-843), tự là Lãng Tiên 浪仙. Người đất Phạm Dương (Hà Bắc). Ông là thi nhân nổi tiếng đời Đường, cùng thời với Hàn Dũ 韓愈, được người đời gọi là THI NÔ 詩奴, ông lại tự lấy hiệu là Kiệt Thạch Sơn Nhân 碣石山人.

     Giả Đảo xuất thân bần hàn, từng xuất gia làm hòa thượng, pháp danh là Vô Bổn. Mùa đông năm Nguyên Hòa thứ năm (810) đến Trường An gặp Trương Tịch để ứng thí. Trước đó, khi ở Lạc Dương, vì thành Lạc Dương có lệ cấm hòa thượng ra ngoài sau giờ ngọ, mà Giả Đảo lại đang lúc gặp khó khăn khi làm thơ, nên cởi lừa ra ngoài đụng phải đoàn nghi trượng của Hàn Dũ trên đường. Hàn Dũ biết Giả Đảo có tài, bèn khuyến khích hoàn tục để tham gia khoa cử. Nhưng Giả Đảo thi mãi mấy khoa mà vẫn không đậu. Năm Nguyên Hòa thứ 14 (819) khi Hàn Dũ bị đày đến đất Triều Châu, gặp lại Giả Đảo, lại tiến cử đi thi. Năm Trường Khánh thứ hai (822) Giả Đảo mới đậu Tiến sĩ. Đời Đường Văn Tông bị biếm làm Chủ Bộ ở Trường Giang, nên còn có hiệu là Giả Trường Giang, năm Hội Xương đầu tiên đời Đường Võ Tông từ chức Tham Quân Tư Thương cải nhậm chức Tư Hộ, nhưng chưa kịp nhậm chức thì bệnh mất lúc 65 tuổi. Ông để lại 10 quyển Trường Giang Tập, gồm hơn 370 bài thơ.

 

       Tương truyền, một hôm Giả Đảo đi thăm một người bạn ở ẩn tên Lý Ngưng. Khi đến nơi thì trời đã tối, dưới ánh trăng sáng, chim chóc đã ngủ yên trên cành. Ông bèn đưa tay lên đẩy cửa, cửa khóa, nên ông lại chuyển sang gỏ cửa. Nào ngờ người bạn đi vắng, ông bèn để lại bài thơ "Đề Lý Ngưng U Cư 題李凝幽居" như sau : 

             《題李凝幽居》      ĐỀ LÝ NGƯNG U CƯ

 

               閒居少鄰並,    Nhàn cư thiểu lân tịnh, 

               草徑入荒園。    Thảo kính nhập hoang viên.

               鳥宿池邊樹,    Điểu túc trì biên thọ, 

               僧敲月下門。    Tăng xao nguyệt hạ môn.

               過橋分野色,    Qúa kiều phân dã sắc, 

               移石動雲根。    Di thạch động vân căn.

               暫去還來此,    Tạm khứ hoàn lai thử, 

               幽期不負言。    U kỳ bất phụ ngôn.

Diễn Nôm :

                    Nhàn cư hàng xóm vắng hoe,

                    Cỏ xanh phủ ngập lối về  vườn hoang .

                    Trên cành chim chóc ngủ an,

                    Cửa sài hòa thượng đẩy (gỏ) toan đi vào .

                    Qua cầu nước chảy lao xao,

                    Đá trôi mây động trời cao muôn trùng.

                    Tạm rời lại trở lại cùng,

                    Ẩn cư đã hẹn quyết không sai lời.

DCD_delynganucu.jpg

Bài thơ trên có hai câu :鳥宿池邊樹 Điểu túc trì biên thọ, 僧敲月下門 Tăng XAO nguyệt hạ môn.Có nghĩa : Chim thì ngủ trên cây bên ao nước, còn Thầy tăng thì đang GỎ cửa ở dưới ánh trăng. Khi viết đến câu nầy, Giả Đảo không biết là nên dùng chữ XAO 敲 là GỎ, hay dùng chữ THÔI 推 là ĐẨY cho câu thơ nghe hay hơn, nên...

     Hôm sau cởi lừa về Tràng An. Trên đường đọc lại bài thơ đêm hôm qua, đến hai câu :"Điểu túc trì biên thọ, Tăng xao nguyệt hạ môn 鳥宿池邊樹, 僧敲月下門, Giả Đảo cứ do dự mãi, không biết là nên dùng chữ XAO 敲 là Gỏ hay là dùng chữ THÔI 推 là Đẩy cho câu thơ hay hơn, nên ngồi trên lưng lừa mà hai tay cứ làm động tác ĐẨY hoặc GỎ trông rất buồn cười, và ngẩn ngơ đến nỗi con lừa xuýt chút nữa thì đâm vào đầu ngựa của Lại Bộ Thượng Thơ Hàn Dũ. Bị quân hầu níu lại, Hàn Dũ hỏi rõ nguồn cơn, mới cả cười và khuyên ông nên chọn từ XAO 敲 cho câu thơ trên. Vì XAO 敲 vừa tượng hình tượng thanh hơn THÔI 推, lại vừa hợp lý hơn vì đến nhà thăm bạn thì phải GỎ cửa chớ sao lại ĐẨY cửa cho được ! Vì cái duyên chữ nghĩa nầy mà mấy lần Hàn Dũ đã giới thiệu và khuyến khích Giả Đảo hoàn tục để tiếp tục lai kinh ứng thí. Và ...

      Vì sự tích trên mà thành ngữ Trung Hoa có câu "Hà Tất THÔI XAO 何必推敲" nghĩa là :"Sao lại phải Thôi Xao như thế !" Câu nầy có nghĩa là : "Sao lại phải ĐẺO GỌT lời văn như thế". Thường để chỉ những người ĐẺO GỌT lời văn một cách quá đáng, thì sử dụng Thành ngữ nêu trên. Sau này dùng rộng ra thì THÔI XAO có nghĩa là :"Cân Nhắc thật cẩn thận một sự việc nào đó trước khi làm".

      

      Trong một lần, sau khi ứng thí lạc đệ, Giả Đảo đang ở trọ Thảo Đường Tự của Khuê Phong, lại phải đưa nhà sư Vô Khả nam du về hướng Lư Sơn, nên làm bài thơ Tống Vô Khả Thượng Nhân 送無可上人 như sau :

 

                       圭峰霽色新,    Khuê Phong tễ sắc tân,

                       送此草堂人。    Tống thử thảo đường nhân.

                       麈尾同離寺,    Chủ vĩ đồng ly tự,

                       蛩鳴暫別親。    Cùng minh tạm biệt thân.

                       獨行潭底影,    Độc hành đàm đễ ảnh,

                       數息樹邊身。    Sổ tức thọ biên thân.

                       終有煙霞約,    Chung hữu yên hà ước,

                       天台作近鄰。    Thiên Thai tác cận lân.

    Diễn Nôm :

                       Khuê Phong mưa vừa tạnh,

                       Thảo Đường lại tiễn chân,

                       Phất trần rời chùa cũ,

                       Tiếng dế biệt người thân.

                       Bóng in đàm nước lạnh,

                       Người nghỉ cội cây xanh.

                       Đã hẹn cùng mây nước,

                       Thiên Thai ấy xóm gần.

 

                  

 

       Hai câu 獨行潭底影, Độc hành đàm đễ ảnh, 數息樹邊身. Sổ tức thọ biên thân, là "Cái bóng người đi cô độc lẻ loi in dưới đầm nước, thỉnh thoảng dừng chân đứng nghỉ dưới bóng cây bên đường". Hình ảnh thật độc đáo như trong điện ảnh, Giả Đảo nhìn người đi bằng hình bóng đảo ngược dưới đầm nước xa xa. Nên sau bài thơ đưa tiễn độc đáo nầy, Giả Đảo còn viết kèm theo một bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt nữa để nói về 2 câu thơ nêu  trên là :

 

                      两句三年得,   Lưỡng cú tam niên đắc,

                      一吟雙淚流。   Nhất ngâm song lệ lưu.

                      知音如不賞,   Tri âm như bất thưởng,

                      歸臥故山秋。   Quy ngọa cố sơn thu !

     Có nghĩa :

                      Ba năm mới được hai câu ,

                      Ngâm xong xúc động lệ sầu chứa chan ,

                      Tri âm hờ hững chẳng màng ,

                      Thì thôi núi cũ thu vàng nằm trơ !

 

      Qủa là một Thi Nô Khổ Ngâm hiếm thấy trong thi ca. Thi Nô Giả Đảo cùng với Thi Tù Mạnh Giao hợp thành một cặp bài trùng GIAO HÀN ĐẢO XÚ 郊寒島瘦, có nghĩa :"Mạnh Giao làm thơ trong đói lạnh, còn Giả Đảo thì vì làm thơ mà gầy còm". Một người là "Tù nhân" của thơ, còn một người là "Nô lệ" của thơ mà. Ta hãy nghe cái ông "nô lệ của thơ" nầy thương tiếc và tiễn đưa mùa xuân đến giây phút cuối cùng như thế nào qua bài Thất ngôn Tứ tuyệt TAM NGUYỆT HỐI NHẬT TỐNG XUÂN 三月晦日送春 (Đưa tiễn mùa xuân ngày ba mươi tháng ba) sau đây :

 

                  三月正當三十日,    Tam nguyệt chính đương tam thập nhật,     

                  春光別我苦吟身.    Xuân quang biệt ngã khổ ngâm thân.      

                  共君今夜不須睡,    Cộng quân kim dạ bất tu thụy,

                  未到曉鐘猶是春.    Vị đáo hiểu chung do thị xuân. 

Có nghĩa :

        Hôm nay vừa đúng ngày 30 tháng 3 (ngày cuối cùng của mùa xuan). (Rồi) nắng xuân sẽ từ bỏ ta-cái thân khổ ngâm này mà đi (bạn ạ).(Vậy) đêm nay, mời bạn hãy cùng tôi không ngủ (thức trắng đêm để tiễn xuân đi). Nếu còn chưa nghe thấy tiếng chuông chùa công phu buổi sáng thì vẫn hãy còn là mùa xuân mà.

 

                       

 

                       Tháng ba vừa vặn ba mươi đúng,

                       Giả biệt xuân hồng thân khổ ngâm.

                       Cùng bạn đêm nay ta thức trắng

                       Chuông chưa điểm sáng hãy còn XUÂN !

 

      Qủa là cùng nàng xuân lưu luyến nắm níu nhau đến giây phút cuối cùng ! Đối với cảnh vật mùa xuân thì là thế, còn đối với con người, cách đối nhân xử thế của Giả Đảo lại lạnh nhạt và cao ngạo vô cùng, đã ít nói lại không thân thiện, nên chi rất dễ làm mất lòng người khác. Hãy nghe thêm một giai thoại về tánh khí cô  độc cộc cằn nầy của Giả Đảo đã xém chút nữa đem đến họa sát thân.      

     

      Tương truyền, một hôm sau khi thi đậu Tiến sĩ, Giả Đảo mới hẹn cùng vài người bạn đi du ngoạn Thanh Long Tự. Ngồi trong quán rượu, đợi mãi mà vẫn không thấy bạn đến, Giả Đảo bèn rút tập thơ mang theo bên mình ra để đọc và nghiền ngẫm xem có "sửa đổi thôi xao" gì được nữa hay không. Một lúc sau mõi mệt mới gục xuống bàn ngủ quên đi. Đang ngon giấc bỗng thấy như có ai đó đang thò tay rút tập thơ của mình ra. Giật mình tỉnh dậy, thấy trời đã tối, trước mặt là một người ăn mặc sang trọng đang cầm tập thơ của mình mà xem. Giả Đảo nghĩ rằng đây là tâm huyết của mình, sao lại có thể để cho người khác lấy đi được, bèn đứng ngay dậy, đưa tay giật phắt tập thơ lại, giận dữ nói rằng :"Đây là tập thơ của tôi mà ! Thấy nhà ngươi ăn mặc đẹp đẽ, lại ra dáng tai to mặt lớn thế kia, chắc chẳng biết gì là thi thơ đâu mà đọc !". Đột nhiên bị giựt lại tập thơ, còn bị mắng cho một trận, người kia lườm mắt nhìn Giả Đảo một cái, rồi lặng lẽ bỏ đi xuống lầu.

      Cái người lạ bị Giả Đảo mắng đó chính là Đường Tuyên Tông Lý Thầm. Xưa nay nhà vua vốn có thói quen vi phục xuất hành, mặc đồ thường dân đi dạo chơi khắp kinh thành. Hôm đó, đi ngang qua quán rượu, nghe có tiếng người đang ngâm thơ trên lầu, bèn vào quán ngồi uống rượu để nghe. Một lát sau không nghe ngâm nữa, nên mới hỏi thăm rồi đi lên lầu, và... đã bị Giả Đảo mắng cho một trận. Sau khi nghe biết người bị mình mắng chính là đương kim hoàng đế, Giả Đảo sợ đến không còn hồn vía nào nữa. Ngày hôm sau vào chầu bèn qùy xuống xin tội, may mà nhà vua tha cho tội chết, chỉ đày đi làm Chủ Bộ ở tận huyện Trường Giang, nên Giả Đảo còn có tự hiệu là GIẢ TRƯỜNG GIANG là vì thế.

 

      Lại một lần, từ đất Trường An Giả Đảo đưa tiễn ông bạn Ngô Xử Sĩ về miền nam ẩn cư. Nhớ lại cảnh lúc chia tay đưa bạn lên thuyền về vùng sông nước, Giả Đảo đã làm một bài thơ Ức Giang Thượng Ngô Xử Sĩ 憶江上吳處士 để nhớ đến bạn trên bến sông như sau :

DCD_tienban.jpg

                 閩國揚帆去,   Mân quốc dương phàm khứ,

                 蟾蜍虧復團。   Thiềm thừ khuy phục đoàn.

                 秋風生渭水,   Thu phong sanh Vị Thủy,

                 落葉滿長安。   Lạc diệp mãn Trường An.

                 此地聚會夕,   Thử địa tụ hội tịch,   

                 當時雷雨寒。   Đương thời lôi vũ hàn.

                 蘭橈殊未返,   Lan nhiêu thù vị phản,

                 消息海云端。   Tiêu tức hải vân đoan.

   Có nghĩa :

                 Dương buồm bạn đến đất Mân,

                 Trăng tròn rồi khuyết mấy lần nhớ nhau.

                 Gió thu Sông Vị thổi ào,

                 Trường An lá rụng rạt rào khắp nơi.

                 Nơi đây họp mặt chia phôi,

                 Gió mưa sấm chớp bên trời lạnh căm.

                 Chèo lan giờ vẫn xa xăm,

                 Mịt mù tin nhạn bặt tăm mây trời !

 

       Bài thơ có cặp thừa rất độc đáo là 秋風生渭水,Thu phong sanh Vị Thủy, 落葉滿長安。Lạc diệp mãn Trường An. Vừa gợi hình vừa nên thơ với nước sông Vị Thủy gợn sóng lăn tăn tạo nên gió thu hiu hắt, chớ không phải là tại gió thu hiu hắt thổi nên những đợt sóng mới lăn tăn, và lá vàng rụng rạt rào tràn ngập đầy rẫy cả thành Trường An tạo nên một cảnh thu bao trùm cả trời đất. Đắc ý với hai câu thơ trên, nên khi đang cởi lừa đi trên đường Trường An, đọc lại hai câu thơ tiễn bạn nầy Giả Đảo đã ngơ ngẩn đến nỗi đâm vào đầu ngựa của quan Kinh Triệu Doãn Lưu Thê Sở, bị lính đi hầu hai bên bắt lại nhốt hết một đêm trong tù. Sáng ngày quan Lệnh Doãn biết là nhà thơ Giả Đảo nên mới được thả ra. 

 

       Vì tích nầy và tích mắng vua mà nhà thơ An Kỳ lúc bấy giờ đã làm hai câu thơ như sau :

 

                      騎驢沖大尹,   Kỵ Lư xung Đại Doãn,

                      奪卷忤宣宗。   Đoạt quyển ngỗ Tuyên Tông.

   Có nghĩa :

                             Cởi lừa đụng phải doãn quan,  

                     Tuyên Tông chẳng biết đoạt ngang thơ về. 

 

                                

 

       Còn nhà thơ Lý Khắc Cung thì viết rằng :

 

                    宣宗謫去為閒事,  Tuyên Tông trích khứ vi nhàn sự,

                    韓愈知來已振名。  Hàn Dũ tri lai dĩ chấn danh.

   Có nghĩa :

                               Vua đày là chuyện thường tình,

                           Hàn Dũ biết đến nổi danh vang rền !

 

       Chuyện về THI NÔ GIẢ ĐẢO còn rất nhiều, hẹn dịp khác sẽ kể thêm về "Thi nhân Nô lệ của Thơ" nầy.

 

 

                                                                                                         杜紹德

                                                                                                    Đỗ Chiêu Đức

__________________________________________

Giai Thoại Văn Chương:

 

                             Thi Cuồng HẠ TRI CHƯƠNG

DCD_hatrichuong.png

                                                        HẠ TRI CHƯƠNG ( 659-744 )

 

        HẠ TRI CHƯƠNG 賀知章 tự là Quí Chân 季真, về già tự xưng hiệu là "Tứ Minh Cuồng Khách 四明狂客", là thi nhân lại vừa là nhà Thư Pháp nổi tiếng đời Thịnh Đường. Ông người đất Vĩnh Hưng thuộc Việt Châu (Huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang hiện nay), đậu Trạng Nguyên khoa Ất Mùi (695), được phong là Quốc Tử Tứ Môn Bác Sĩ, Thiên Thái Thường Bác Sĩ. Ông tuần tự giữ các chức vụ Lễ Bộ Thị Lang, Bí Thư Giám, Thái Tử Tân Khách... Ông tính tình khoáng đạt, phóng túng, không thích gò bó, vì xưng hiệu là Tứ Minh Cuồng Khách, nên người đời gọi ông là THI CUỒNG 詩狂, cùng với Lý Bạch 李白, Trương Húc 张旭, Lý Thích Chi 李适之, Tiêu Toại 焦遂, Lý Tấn 李琎, Thôi Tông Chi 崔宗之 và Tô Tấn 苏晋, xưng là "ẨM TRUNG BÁT TIÊN 飲中八仙" (Tám ông tiên trong rượu). Đến 86 tuổi HẠ TRI CHƯƠNG mới cáo lão về quê, rồi mất ở quê cùng năm. Tác phẩm phần nhiều thất tán, chỉ còn lưu lại khoảng 20 bài thơ mà thôi.

 

        Trong "Ẩm Trung Bát Tiên Ca 飲中八仙歌" Đỗ Phủ đã viết về ông như sau :

 

                  知章騎馬似乘船,  Tri Chương kỵ mã tự thừa thuyền,

                  眼花落井水底眠.    Nhãn hoa lạc tỉnh thủy để miên.

    Có nghĩa :

                        Tri Chương cưởi ngựa tựa đi thuyền,

                        Lắc lư té giếng vẫn ngủ yên.

DCD_battien.png

                   Ẩm trung bát tiên : Tám ông tiên trong rượu

 

   ... cho thấy tính tình phóng túng không thích gò bó của ông, mặc dù là quan lớn, ông vẫn thích kết giao với bạn thơ rượu và uống rượu với những người tao nhã phong lưu. Ông nổi tiếng với giai thoại "Kim Quy Hoán Tửu 金龜換酒" sau đây :

 

       Năm Thiên Bảo nguyên niên đời Đường (742), Lý Bạch cô thân chiếc bóng đến đất Tràng An, không một ai quen biết. Một hôm, ông đến Tử Khách Đạo Quan ( chùa dành cho đạo sĩ tu tiên) để tham quan, tình cờ gặp được Ha Tri Chương cũng đến nơi đó. Đọc thơ và nghe tiếng Bạch đã lâu, Hạ rất ngưỡng mộ tài hoa của Lý, bây giờ gặp mặt, thấy Lý là người tao nhã, dáng vẻ thanh cao như tiên thượng giới, nên mặc dù lớn hơn Lý Bạch đến hơn 40 tuổi vẫn kết bạn vong niên, và cùng đàm đạo với nhau vô cùng tương đắc. Đến khi đọc bài thơ Thục Đạo Nan 蜀道難 của Lý Bạch vừa làm xong đến các câu như : 

 

                  但見悲鳥號古木,  Đản kiến bi điểu hiệu cổ mộc,

                  雄飛雌從繞林間。  Hùng phi thử tòng nhiểu lâm gian.

                  又聞子規啼夜月,  Hựu văn tử quy đề dạ nguyệt,

                  愁空山...             Sầu không san...

      Có nghĩa :

                     Chim sầu nhớn nhác cành khô,

                     Trống mái lượn lờ đường núi thâm u.

                     Tử quy trăng lạnh kêu thu,

                     Rừng núi vắng mịt mù !...

 

  ... Hạ Tri Chương đã kinh ngạc nói với Lý Bạch rằng : "Bạn quả là thi tiên từ thượng giới !" Do đó mà mọi người đều gọi Lý bạch là Lý Trích Tiên 李謫仙. Chiều hôm đó, Hạ bèn mời Lý vào quán rượu định uống một bửa cho thỏa thích. Không ngờ khi vừa ngồi xuống ghế, Hạ mới nhớ ra rằng trên mình đã gần hết tiền, không do dự gì cả, Hạ bèn cởi ngay giải túi Kim Quy Đới có thêu hình kim quy của vua ban cho các quan ở hàng tứ phẩm trở lên đeo mỗi khi vào chầu, để trừ tiền rượu. Lý trông thấy cả kinh bảo : "Đây là vật báu của vua ban sao có thể đem đổi rượu mà uống được chứ ?" Hạ cả cười đáp :"Có gì đâu, hôm nay gặp được bạn tiên, không uống với nhau cho say còn đợi đến chừng nào ?". Sau bửa rượu đêm đó, sáng hôm sau vào chầu, Hạ Tri Chương còn tiến cử Lý Bạch với nhà vua, vua cũng đã nghe tiếng Lý từ lâu, bèn triệu kiến và phong cho chức Hàn Lâm Học Sĩ.

 

                                         

        Hạ Tri Chương về già tự xưng là Tứ Minh Cuồng Khách 四明狂客, vì mỗi lần uống rượu say thì ông sẽ phóng bút làm thơ mà không cần phải cân nhắc chọn từ gì cả, nên mới được hiệu là THI CUỒNG 詩狂, và cũng vì thế mà lời thơ của ông rất dung dị bình dân dễ đi vào lòng người. Ta hãy đọc bài "Vịnh Liễu 詠柳" của ông sau đây sẽ rõ :

 

                       碧玉妝成一樹高,  Bích ngọc trang thành nhất thọ cao,

                       萬條垂下綠絲絛。  Vạn điều thùy hạ lục ty thao.

                       不知細葉誰裁出,  Bất tri tế diệp thùy tài xuất,

                       二月春風似剪刀。  Nhị nguyệt xuân phong tự tiễn đao !

     Có nghĩa :

                          Tạo thành ngọc bích một cây cành,

                          Trông tựa muôn ngàn sợi lụa xanh.

                          Lá nhỏ vươn dài ai khéo cắt,

                          Tháng hai gió tựa kéo qua nhanh              

 

       Thật nghệ thuật, thật bình dân mà gợi hình một cách tự nhiên : Cây liễu xanh biếc trong mùa xuân như được làm bằng ngọc bích. Ai đã khéo cắt nên những lá nhỏ vươn dài như những dãy lụa xanh rũ xuống một cách thật đều đặn đẹp đẽ kia. Không ai cả, chính do làn gió xuân ấm áp của tháng hai như những nhát kéo của thiên nhiên tạo nên nét đẹp của những lá liễu xanh biếc vươn dài kia ! Cả bài thơ cũng không có nhắc đến một chữ liễu nào cả; bình dân, gợi hình và nghệ thuật biết bao nhiêu !         

       Đọc 2 câu cuối của bài thơ trên lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong bài "Xuân Về" của thi sĩ Nguyễn Bính thời Tiền Chiến :

 

                         Lá nõn nhành non ai tráng bạc,

                         Gió về từng trận gió bay đi !

 

      Ai đã "tráng bạc" lá nõn nhành non ? Không ai cả, chính là "Gió xuân" đó ! Chính là thiên nhiên khi mùa xuân về đã đem lại sức sống cho cây lá đâm chồi nẩy lộc !

       

       Năm Đường Thiên Bảo thứ ba (744), Hạ tri Chương mới cáo lão từ quan về quê khi đã 86 tuổi đời, là Thái Tử Tân Khách, là Thẩy dạy học cho đương kim Hoàng thượng khi còn là Thái tử, ông được nhà vua và bá quan văn võ đưa tiễn rất linh đình trọng hậu, nhưng khi về đến Vĩnh Hưng Việt Châu (thuộc Tiêu Sơn Chiết Giang hiện nay) ông lại cảm thấy như bị trêu chọc ngỡ ngàng với lũ trẻ, vì chúng ngỡ ông là khách từ phương xa đến. Sau hơn 50 năm xa quê, người đã già, tóc đã bạc, đã trải qua biết bao là tang thương biến đổi, may mà giọng nói của quê hương vẫn còn nguyên đó, ông rất cảm khái mà làm nên hai bài "Hồi Hương Ngẫu Thư 回鄉偶書" sau đây :

 

                            其一                                       Kỳ Nhất

 

                       少小離家老大回,   Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,

                       鄉音無改鬢毛衰。   Hương âm vô cải mấn mao suy.

                       兒童相見不相識,   Nhi đồng tương kiến bất tương thức

                       笑問客從何處來?    Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ?  

     Có nghĩa :

                       Trẻ nhỏ xa nhà, già trở lại,

                       Giọng quê còn đó, tóc như mây.

                       Nhi đồng gặp gỡ không quen biết,

                       Cười hỏi nơi nào khách đến đây ?

 

                      

       Thật mĩa mai và cảm khái biết bao ! Qủa là lở khóc lở cười khi chợt nghĩ rằng, ta là người về thăm lại quê hương hay ta là Khách của quê hương đây ?! Mời đọc tiếp bài 2 mà rất ít người biết đến :

 

                            其二                                           Kỳ Nhị

 

                      離別家鄉歲月多,   Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa,

                      近來人事半消磨。   Cận lai nhân sự bán tiêu ma.

                      唯有門前鏡湖水,   Duy hữu môn tiền kính hồ thủy ,

                      春風不改就時波。   Xuân phong bất cải cựu thời ba !

      Có nghĩa :

                      Cách biệt quê nhà mấy nắng mưa,

                      Đổi thay thế thái nói sao vừa !

                      Duy chỉ như gương hồ trước ngõ,

                      Gió xuân vẫn gợn sóng ngày xưa !

DCD_KyNhi_2.png
DCD_KyNhi.png

Nhân sự thì đã tiêu ma thay đổi cả rồi, cũng may là những gợn sóng lăn tăn trước hồ vẫn còn "lăn tăn như cũ", "Xuân phong bất cải cựu thời ba" mà !. Nhân sự đổi thay nhưng thiên nhiên thì vẫn còn đó, làm ta nhớ lại đoản văn của Thanh Tịnh :"... Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi năm trước ..." Và cũng chính vì thế mà dù cho có cách trở muôn dặm quan san, dù cho quê hương có thay đổi muôn hình dạng trạng thì người lữ khách, lữ thứ tha hương vẫn muốn tìm về với quê hương cố thổ , vẫn muốn tìm về với nơi chôn nhau cắt rún của ngày xưa !

                                       

                      Cũng trong năm cáo lão về quê  với sự ngỡ ngàng của kẻ tha hương lâu năm tìm về quê cũ, Hạ Tri Chương đã nằm xuống mảnh đất Việt Châu quê nhà với tuổi 86... là tuổi Thượng Thượng Thọ lúc bấy giờ ! 

 

           Hẹn bài viết tới !

                                    Thi Nô GIẢ ĐẢO

 

                                                                                                    杜紹德

                                                                                                Đỗ Chiêu Đức  

__________________________________

DCD_DoPhu.png

 

Giai Thoại Văn Chương: 

 

                                       Thi Thánh ĐỖ PHỦ

DCD_XuanVong.png

    國破山河在,         Quốc phá sơn hà tại,

    城春草木深。         Thành xuân thảo mộc thâm.

    感時花濺淚,         Cảm thời hoa tiễn lê,

    恨別鳥驚心。         Hận biệt điểu kinh tâm.

    烽火連三月,         Phong hỏa liên tam nguyệt,

    家書抵萬金。         Gia thư để vạn kim.

    白頭搔更短,         Bach. đầu tao cánh đoản,

    渾欲不勝簪。         Hồn dục bất thắng trâm. 

                 杜甫                                     Đỗ Phủ

 

 CHÚ THÍCH :

           1. Quốc Phá 國破 : trong Thành ngữ " Quốc Phá Gia Vong ", tương đương với câu nói " Nước mất nhà tan " của ta.

           2. Thâm 深 : là Sâu, là Đậm, Ở đây nghĩa là Xanh om tươi tốt.

           3. Tiễn 濺 : là Ép cho tuôn trào ra. Tiễn Lệ là ứa lệ, là rơi lệ.

           4. Phong Hỏa  烽火 : Đài cao dùng  đốt lửa để báo hiệu quân địch tấn công. Ở đây chỉ Chiến Tranh.

           5. Để 抵 : là Đáng giá, Có giá trị như...

           6. Tao 搔 : là gãi. Ở đây có nghĩa là dùng các ngón tay để gom tóc lại.

           7. Hồn Dục 渾欲 : là Gần như, là Hầu như.

           8. Bất Thắng 不勝 : Ở đây không có nghĩa là Thua ( không thắng ), mà là Không Thể. 

           9. Trâm 簪 : Danh Từ là Cây Trâm. Ở đây là Động Từ, nên có nghĩa là Cài Trâm.

          10. Vọng 望 : là Hy Vọng. Ở đây là Trông Ngóng, Mong chờ.

 

DỊCH NGHĨA :

                                        XUÂN MONG CHỜ

                Nước đã mất, nhưng núi sông thì hãy còn trơ đó , thành Trường An vào xuân cây cỏ vẫn xanh om tươi tốt ( vì cỏ cây đâu biết hờn mất nước ). Lòng đầy xúc cảm vì thời cuộc, nên trông hoa nở cũng khiến lệ rơi,Hận vì chiến tranh cách biệt, nên nghe tiếng chim kêu cũng kinh hãi trong lòng. Chinh chiến tràn lan suốt ba tháng nay, tin nhà đều bặt, nên nhận được thơ nhà thấy quý giá như được ngàn vàng. Tuổi già tóc bạc, vuốt thấy đã rụng và ngắn lại nhiều, hầu như không còn búi được để cài trâm nữa !

           ... Riêng câu 3 và 4 có thể giải là :

                   Cảm thương về thời cuộc đão điên, nên hoa cũng ứa lệ.

                   Ly hận của sự biệt ly, làm cho chim cũng cảm thấy kinh hoàng....

 

           Hiểu như trên , lại làm cho ta nhớ đến bài thơ " GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG " của Nhà thơ THẾ LỮ...

 

                   " Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,

                      Trong lúc gần xa pháo nổ rang.

                      Rủ áo phong sương trên gác trọ,

                      Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang !

          và....

                      Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,

                      Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,

                      Cười nâng tà áo đưa lên gió,

                      Em bảo : " HOA KIA KHÓC HỘ NGƯỜI ! "

                                                                  .........................................

DIỄN NÔM : 

 

                      

 

                        Nước mất núi sông còn đó,

                        Vào xuân hoa cỏ xanh rì.

                        Đau xót hoa còn rướm lệ,

                        Kinh hoàng chim sợ phân ly.

                        Khói lửa mịt mờ ba tháng,

                        Thư nhà vàng bạc khó bì.

                        Tóc bạc bơ phờ năm tháng,

                        Trâm cài chẳng được còn chi !

 Lục bát :

                       Nước mất nhưng núi sông còn,

                      Thành xuân cây cỏ xanh rờn khắp nơi.

                       Khi buồn hoa cũng lệ rơi,

                       Kinh hoàng ly biệt chim trời bay cao.

                       Lửa binh ba tháng lao đao,

                      Thư nhà nhận được mừng nào cho cân.

                      Bạc đầu tóc lại rụng dần,

                      Lưa thưa khó búi chẳng cần cài trâm !

                                                                   Đỗ Chiêu Đức

 

2. Bài thơ TUYỆT CÚ ngũ ngôn :

 

     
             

      絕句               TUYỆT CÚ   

   江碧鳥逾白,     Giang bích thủy du bạch,

   山青花欲燃。     Sơn thanh hoa dục nhiên.

   今春看又過,     Kim xuân khan hựu quá,

   何日是歸年.      Hà nhật thị qui niên ?!

         杜甫                               Đỗ Phủ 

         

CHÚ THÍCH :

    * Bài thơ nầy được Thi Thánh Đỗ Phủ làm vào mùa xuân năm Quảng Đức thứ hai đời Đường Đại Tôn (764). Lúc nầy ông đang tạm cư ở Thành Đô, cuộc sống tạm ổn định, mặc dù xa quê nhưng trong lòng cũng tạm thoải mái bớt day dứt, nên lời thơ cũng nhẹ nhàng gợi cảm hơn.

    - BÍCH 碧 : là BIẾC. Ta thường hiểu là XANH thì mới BIẾC. Thật sự BÍCH là chỉ cái sắc ÓNG ÁNH, như Cẩm Thạch  " Lên Nước " thì gọi là BÍCH, bất cứ nó ửng lên màu gì đều là BIẾC cả !.   

   - DU 逾 :là Càng hơn, là Vượt quá.

   - DỤC 欲 :là Muốn, là Giống Như.

   - NHIÊN 燃 :là Cháy, Ở đây có nghĩa là Rực Rỡ.

   - QUÁ 過 :là Qua, là Đi Qua.

   - HÀ 何 :Nghi Vấn Từ, có nghĩa là GÌ, NÀO, SAO... Như : HÀ SỰ là Việc gì ?, HÀ NHÂN là Người Nào?, HÀ CỐ là Cớ Sao ?. Trong câu thơ HÀ NHẬT là Ngày Nào ?

 

DỊCH NGHĨA :

        Nước của dòng sông càng xanh biếc thì những cánh chim bay lượn trên sông càng trắng hơn thêm, núi càng xanh hơn thì muôn hoa càng như rực rở hơn lên như muốn bốc cháy. Trước mắt ta mùa xuân lại sắp đi qua nữa rồi, không biết là đến năm nào mới có được ngày quay trở lại quê hương đây ?!.

 

                 

DIỄN NÔM :          

 

                     TUYỆT CÚ

             Nước biếc chim càng trắng,

             Núi xanh hoa rực hương.

             Nay nhìn xuân lại hết,

             Biết thuở nào hồi hương ?!

 

 Thất ngôn :

            Trắng xóa cánh chim làn nước biếc,

            Núi xanh hoa rực lửa khoe hương.

            Mắt trông xuân lại qua lần nữa,

            Biết đến năm nào về cố hương ?!

                                                    Đỗ Chiêu Đức

DCD_TuyetCu.png

3. Bài thơ KHIỂN HOÀI :

            

          遣懷                   KHIỂN HOÀI   

     愁眼看霜露,     Sầu nhãn khan sương lộ,

     寒城菊自花。     Hàn thành cúc tự hoa.

     天風隨斷柳,     Thiên phong tùy đoạn liễu,

     客淚墮清笳。     Khách lệ trụy thanh già.

     水淨樓陰直,       Thủy tịnh lâu âm trực,

     山昏塞日斜。     Sơn hôn tái nhật tà.

     夜來歸鳥盡,     Dạ lai quy điểu tận,

     啼殺後棲鴉。     Đề sát hậu thê nha. 

                   杜甫                             Đỗ Phủ.

 

        

 

* Chú Thích :

    - GIÀ 笳 : là một loại nhạc cụ của người Hồ, được cuốn bằng lá sậy, thổi lên nghe réo rắt như tiếng tiêu của ta vây.

    - Lâu Âm 樓陰 : Chỉ cáo bóng của lâu đài in dưới nước.

    - Sơn Hôn 山昏 : Núi về chiều, khi hoàng hôn xuống.

    - Tái Nhật 塞日 : Mặt trời của vùng biên tái.

    - Đề Sát 啼殺 :(Tiếng quạ) Kêu buồn muốn chết người. Ý nói kêu rất thảm thiết.

 

* Dịch Nghĩa :

        Mắt buồn nhìn sương mù đong thành những hạt móc, trời trở lạnh trong thành nên cúc cũng tự nở hoa  ( đây là cảnh vào thu ). Vì vào thu cho nên những nhành liễu đã rụng hết lá và có những cành khô còn gãy đoạn theo gió thu se sắt, như dòng lệ của khách chảy dài khi những tiếng còi trong trẻo vút lên cao. Mặt nước hồ thu trong veo phẵng lặng soi bóng những lâu đài ngã bóng đứng lặng yên dưới nước. Mặt trời đã nghiêng bóng soi lên vùng biên tái của rừng núi lúc hoàng hôn. Đêm đã xuống dần, chim đã bay hết về tổ rồi, chỉ còn nghe tiếng quạ kêu sương thảm thiết ở lại sau....

                           

* Diễn Nôm : 

                     Khiển Hoài

 

            

 

                Mắt sầu nhìn sương xuống,

                Thành lạnh cúc đơm hoa.

                Gió trời làm gãy liễu,

                Lệ khách rơi tù và.

                Nước trong bóng lầu thẳng,

                Núi chiều ánh nắng tà.

                Đêm đến chim về tổ,

                Tiếng qụa buồn thiết tha !

     Lục bát :

                Buồn trông sương xuống mênh mang,

                Vào thu thành lạnh cúc vàng nở hoa.

                Gió thu rít gãy liễu tà,

                Lệ tuôn réo rắt tiếng già bên sông.

                Lâu đài im bóng nước trong,

                Chiều về biên tái núi rừng thâm u,

                Muôn chim mõi cánh mịt mù,

                Lẻ loi tiếng quạ kêu thu não nùng !

                                                    Đỗ Chiêu Đức

 

4. Bài thơ LỮ DẠ THƯ HOÀI :

                

 旅夜書懷          LỮ DẠ THƯ HOÀI

 

細草微風岸,    Tế thảo vi phong ngạn,

危檣獨夜舟。    Nguy tường độc dạ chu.

星垂平野闊,    Tinh thùy bình dã khoát,

月湧大江流。    Nguyệt dũng đại giang lưu.

名豈文章著?    Danh khởi văn chương trứ ?

官應老病休。    Quan ưng lão bệnh hưu.

飄飄何所似?    Phiêu phiêu hà sở tự ?

天地一沙鷗。    Thiên địa nhất sa âu.

                 杜甫                              Đỗ Phủ.

 

       

 

* Chú Thích :

      Tháng Tư Vĩnh Thái nguyên niên (765), Nghiêm Võ tạ thế, Đỗ Phủ mất nơi nương tựa. Tháng 5, Mới dắt díu gia quyến xuống thuyền rời khỏi Thành Đô sau 5 năm định cư nơi đất Thục, xuôi về đông, phiêu bạc trên Miên Giang Trường Giang một giải. Khoảng sau Trung Thu năm đó, lại tiếp tục đi xuống Vân An ( Nay là Vân Dương ). Chính trên đường đi nầy, ông sáng tác bài " Lữ Dạ Thư Hoài " (  Viết về những hoài cảm của mình trên bước lữ hành ), để nói lên cái cảm khái của một đời phiêu bạc, có tài nhưng lại chẳng gặp thời !

                  

* Dịch Nghĩa :

                    HOÀI CẢM ĐÊM LỮ HÀNH.  

       Gió hiu hiu thổi lên đám cỏ non bên bờ sông, đêm xuống, thuyền đậu bến, ta ngồi dưới cột buồm cao cao nhìn bầu trời đầy sao lắp lánh, nên cảm thấy cánh đồng trước mắt như mênh mông hơn. Bóng trăng dường như từ trong nước chiếu ra lắp lánh theo dòng. Văn chương có phải làm nên được tiếng tăm chăng ? Quan trường thì vì bệnh tật mà phải cáo hưu. Một đời phiêu bạc khắp nơi với mục đích gì đây ? Chỉ còn lại cảm giác cô đơn như cánh hãi âu cô độc trong trời đất mênh mông mà thôi !

      Lấy cột buồm cao cao so sánh với thân lẻ loi cô độc của mình, lấy bầu trời cao với trăng sao để thấy sự nhỏ nhoi của con người, lại lấy cánh đồng mênh mông để giải bày uẩn khúc ở nội tâm. 4 câu đầu là " LỮ DẠ ", lấy cảnh để ngụ tình. 4 câu sau là " THƯ HOÀI ", nói lên cái hoài bảo và cảm xúc của mình, không ngờ là nhờ văn chương mà được nổi tiếng, trong khi chính trường thì vì bệnh tật, già cả mà phải bị từ quan, thương cảm cho tấm thân phải phiêu bạc khắp nơi không nơi nương tựa, lời thơ bi thiết như tiếng thở dài !...

 

* Diễn Nôm :

                     LỮ DẠ THƯ HOÀI

DCD_Ludathuhoai.png

                   Vi vút gió đùa cỏ dại,

                   Cao cao buồm trống cột không.

                   Sao trời như chùn xuống thấp,

                   Nước trăng lắp lánh về đông.

                   Văn chương làm nên danh giá ?

                   Lão bệnh quan trường hết mong,

                   Phiêu bạt phương trời ai biết ?

                   Hải âu, trời biển mênh mông !

     Lục bát :

                   Gió hiu lay động cỏ bờ,

                   Cột buồm cao ngất bơ vơ thân gầy.

                   Đồng không sao ngỡ gần đây,

                   Ánh trăng lắp loáng trôi đầy dòng sông.

                   Văn chương có tiếng như không,

                   Thân già bệnh tật hết mong quan trường.

                   Bôn ba phiêu bạt bốn phương,

                   Đất trời cao rộng vô thường cánh chim !

                                                                   Đỗ Chiêu Đức

 

5. Bài thơ MỘ QUY :

          

          Công Nguyên 768 (Năm Đại Lịch thứ 3 vua Đường Đại Tông), lúc bấy giờ Đỗ Phủ đã 57 tuổi, đang ở Hồ Bắc. Trước đó, khi ở Quỳ Châu ông rất chú trọng đến Luật thơ và đã làm rất nhiều bài thơ Niêm Luật thật nghiêm cẩn, như 8 bài Thu Hứng....Đồng thời cũng trong thời gian nầy, ông có ý nghĩ muốn bức phá sự trói buộc của Niêm Luật, nên mới muốn thử làm ra một thể thơ mới. Một hôm, ông làm ra một bài thơ Phi Cổ Phi Luật (không phải Cổ Thi mà cũng không phải Luật Thi) có tựa là " SẦU " , phía dưới ghi chú là " Cường hí vi Ngô Thể " (Đùa rằng đây là thơ NGÔ THỂ). Tiếp đó , ông lại làm thêm 17, 18 bài như thế nữa, và vì thế mà trong Đường Thi lại thêm một thể loại : Thơ NGÔ THỂ.

 

         "MỘ QUY"《暮歸》chính là thơ Ngô Thể được Đỗ Phủ làm khi đang ở Hồ Bắc. 

 

           暮歸                            MỘ QUY

                      

      霜黄碧梧白鶴棲,  Sương hoàng bích ngô bạch hạc thê,

      城上擊柝複烏啼。  Thành thượng kích thác phục ô đề.

   客子入門月皎皎,  Khách tử nhập môn nguyệt giảo giảo,

      誰家搗練風淒淒。  Thùy gia đão luyện phong thê thê.

   南渡桂水闕舟楫,  Nam độ Quế Thủy khuyết chu tiếp,

      北歸秦川多鼓鼙。  Bắc quy Tần Xuyên đa cổ bề.

   年過半百不稱意,  Niên quá bán bách bất xứng ý,

      明日看雲還杖藜。  Minh nhựt khan vân hoàn trượng lê.

                          杜甫                                                 Đỗ Phủ.

 

              

 

* Chú Thích :

    - Hoàng 黄 : Còn đọc là HUỲNH, màu vàng, ở đây là Động Từ, nê có nghĩa là Làm Cho Vàng, Nhuộm Vàng.

    - Thác 柝: là Cái Mõ Canh, nên Kích Thác : Gõ Mõ Canh .

    - Nguyệt Giảo Giảo 月皎皎 : là Trăng sáng vằng vặc.

    - Đão Luyện 搗練 : Dùng chày để đập cho tơ mềm ra để giặt cho thành lụa, chuẩn bị may áo mùa đông.

    - Phong Thê Thê 風淒淒 : Gió hắt hiu.

    - Tiếp 楫 : là Mái Chèo. Khuyết Chu Tiếp : là Thiếu Mái Chèo của Thuyền. Không phải là thuyền không có mái chèo, mà là không có TIỀN để thuê một thuyền chèo.

    - Cổ Bề 鼓鼙 : là Trống trận. Đa Cổ Bề : Nhiều trống trận. Có nghĩa : Có nhiều trận đánh nhau với quân Thổ Phồn.

    - Trượng Lê 杖藜 : Chống gậy Lê. Lê là một loại thảo mộc, có thân cứng và dẽo như Cây Mây, nên dùng làm gậy cho chắc và nhẹ.

 

* Dịch Nghĩa :

                                          CHIỀU VỀ  ( Nhà Trọ )

             Bạch Hạc đậu trên cành ngô đồng đã vàng lá vì sương thu lạnh lẽo, trên thành tiếng mõ đã bắt đầu điểm canh lẫn với tiếng quạ kêu sương. Khách trở về nhà trọ, vào cửa trong lúc ánh trăng đã vằng vặc ngoài trời, trong khi đó tiếng chày giặc lụa của nhà ai còn vang vang trong gió thu hiu hắt. Ta muốn xuôi Nam qua dòng Quế Thủy nhưng lại không đủ sức thuê thuyền, muốn trở về đất Bắc ở Tần Xuyên thì giặc giã chiến tranh, trống trận nổi lên liên miên không dứt. Quá nửa đời người không có chuyện gì xứng ý toại lòng cả ! Thôi thì, ngày mai lại phải chống gậy mà ngắm mây trời xa xa để thương nhớ về cố hương mà thôi !

 

* Diễn Nôm :

                                 CHIỀU VỀ

 

                    

 

                  Hạc trắng đậu cành ngô vàng sương lạnh,

                  Quạ đen kêu tiếng mõ báo canh tàn.

                  Khách vào nhà đón trăng sáng miên man,

                  Tiếng chày giặt lẫn gió buồn thê thiết.

                  Muốn về nam không tiền xuôi Quế Thủy,

                  Bắc Tần Xuyên giục giã trống quân vang.

                  Quá năm mươi còn lưu lạc chưa an ,      

                  Ngày mai lại gậy lê nhìn mây trắng !

    Lục bát :

                  Sương vàng hạc trắng ngô xanh,

                  Qụa kêu lẫn tiếng cầm canh trên thành.

                  Khách về trăng sáng long lanh,

                  Tiếng chày đập vải gió lành lạnh thêm.

                  Xuôi nam Quế Thủy không tiền,

                  Ngược bắc chiến cuộc liên miên đất Tần.

                  Đời người quá nửa long đong,

                  Gậy lê mai lại ngóng trông quê nhà !

                                                               Đỗ Chiêu Đức

                                                  

 

6. Hai bài thơ KHÚC GIANG :

 

            Xuất xứ của câu thơ "Nhân sinh thất thập cổ lai hi  人生七十古來稀".

 

           Đôi hàng giới thiệu về 2 bài thơ KHÚC GIANG của Đỗ Phủ như sau :

 

           Khúc Giang còn gọi là Khúc Giang Trì, nằm ở phía đông cầu Chu Tước phía nam của thành Trường An, là khu danh thắng nổi tiếng của thành Trường An đời Đường, được xây dựng từ thời Hán Vũ Đế và được trùng tu lại vào năm Khai nguyên của vua Đường Huyền Tông, Nước hồ trong vắt, hoa cỏ uốn quanh, phía nam có Tử Vân Lâu, Phù Dung uyển, phía tây có Hạnh Viên và Từ Ân Tự, là nơi du ngoạn nổi tiếng đương thời.Thắng cảnh Khúc giang cùng thạnh suy với giang san nhà Đường. Hai bài thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ được làm vào cuối xuân năm Càn Nguyên nguyên niên ( 758 ) . Ông đã đem toàn bộ tâm tư của mình ký thác vào cảnh vật nầy để viết lên những ưu tư về đổi thay của thời cuộc.

 

          Theo tài liệu thống kê, thì vào đời Đường, tuổi thọ trung bình của con người ta lúc bấy giờ chỉ vào khoảng 40- 45, cho nên Đỗ Phủ mới hạ câu " Nhân sanh thất thập cổ lai hy " bất hủ, để đời cho đến hiện nay, hễ nhắc đến tuổi " Cổ lai hy ", " Cổ lai ", hay " Cổ hy " là người ta biết ngay là đã thọ được 70 tuổi rồi ! 

 

          曲 江                           KHÚC GIANG

                     其一                                       Kỳ nhất. 

 一片花飛減卻春,    Nhất phiến phi hoa giảm khước xuân,

    風飄萬點正愁人。    Phong phiêu vạn điểm chánh sầu nhân. 

 且看欲盡花經眼,    Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,

    莫厭傷多酒入唇。    Mạc yếm thương đa tửu nhập thần .

 江上小堂巢翡翠,    Giang thượng tiểu đường xào phỉ thúy,

    苑邊高塚臥麒麟。    Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân.

 細推物理須行樂,    Tế suy vật lý tu hành lạc,

   何用浮名絆此身?      Hà dụng phù danh bạn thử thân ?. 

 

        

 

    其二                                  Kỳ nhị.

 朝回日日典春衣,    Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

    每日江頭盡醉歸。    Mỗi nhật giang đầu tận túy quy. 

 酒債尋常行處有,    Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

    人生七十古來稀。    NHÂN SANH THẤT THẬP CỔ LAI HY. 

 穿花蛺蝶深深見,    Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến (hiện),

    點水蜻蜓款款飛。    Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi. 

 傳語風光共流轉,    Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

    暫時相賞莫相違。   Tạm thời tương thưởng mạc tương vi .

                        杜甫                                                 Đỗ Phủ. 

               

 

 * GHI CHÚ :

  (1)  减却春:Giảm khước xuân :Xuân sắc bị giảm đi.

  (2)  万点:Vạn điểm : Chỉ muôn ngàn hoa rụng, rụng rất nhiều. 

  (3)  且: Thả : là Liên từ, có nghĩa là Hãy.经眼:Kinh nhãn : ngang qua trước mắt. 

  (4)  伤:Thương : là thương cảm, xúc động. 巢翡翠:Xào Phỉ Thúy : Là Chim Phỉ Thúy làm ổ. Chữ XÀO là Cái Ổ,  ở đây là Động từ :  nghĩa là Làm ổ.

  (5)  苑:Uyển : Là Vườn hoa( Vườn trồng toàn hoa Phù Dung cạnh bên Khúc giang ) 冢 : Chủng : Gò đất cao, ở đây chỉ các phần mộ xưa. 

  (6)  细推 Tế suy : Là Suy luận cho cặn kẽ, tới nơi tới chốn. 

  (7)  物理:Vật lý : Cái Lý lẻ của sự vật, sự việc. 

  (8)  浮名: Phù danh : Là Hư danh.

  (9)  朝回: Triều hồi : Là Đi chầu Vua về.典:Điển : Cầm cố. 

   (10) 债 :  Trái : là Nợ. Tửu trái : là Nợ Rượu chè (  Chớ không phải Nợ Cơm áo ).行处:Hành xứ : là Khắp nơi. 

     ( 11) 蛱蝶: Giáp Điệp : Các loài bướm nhỏ thường bay lượn, tìm hút nhụy trong các khóm hoa .

   (12) 蜻蜓: Thanh Đình : Con Chuồn Chuồn. 

   (13) 風光: Phong Quang : Quang cảnh của mùa xuân.共流转 Cộng Lưu Chuyển : Cùng qua lại, chuyển động, Có nghĩa là cùng 

                            thưởng ngoạn cảnh trí đẹp đẽ.

   (14) 相赏: Tương Thưởng : Cùng Thưởng ngoạn. 莫 Mạc : là Đừng. 相违: Tương Vi : Cùng để lở mất.( Cái gì đó... ). 

 

* DỊCH NGHĨA :

                                         Bài 1.

             Chỉ vỏn vẹn một cánh hoa bay mà thôi, mùa xuân cũng đã bị giảm mất đi rồi, huống hồ, gió thổi làm cho muôn ngàn cánh hoa cùng bay phất phơ một lúc, làm cho lòng người tiếc xuân buồn muốn thúi ruột, khi mắt trông xuân sắp tàn, ngàn hoa rơi rụng trước mắt. Thôi cũng đừng sầu thương quá mà hãy cùng mềm môi với chén rượu nầy. Hãy nhìn cảnh trí trước mắt, họa đường lộng lẫy ngày xưa, thì nay chim phỉ thúy đã làm tổ trên rường, và những gò nổng phần mộ ngày nào uy nghi, nghiêm cẩn thì nay tượng kỳ lân đã ngã đỗ nằm cạnh bên. Nên suy cho cùng về lý lẽ thịnh suy tiêu trưởng của sự vật, sự việc trên đời, thì ta nên hành lạc, vui chơi thoải mái, chớ... sao lại vì những cái hư danh không đâu mà trói buộc tấm thân nầy ?!

                                      Bài 2.

             Từ giả buổi chầu vua đi ra là đi cầm ngay chiếc áo mùa xuân ( để mua rượu uống ). Mỗi ngày đều say khước từ đầu sông Khúc giang đi về. Nợ rượu chè thì nơi nào cũng có được. Nhưng , người đời sống đến 70 mươi tuổi thì xưa nay rất hiếm. Hãy nhì xem kìa, đàn bướm nhỏ đang bay lượn trong khóm hoa, và lủ chuồn chuồn đang lượn bay đùa giởn trên mặt nước. Cảnh trí đẹp là thế, sao không bảo nhau mà cùng thưởng ngoạn, đừng bỏ lở mất những giờ khắc quý giá, mà phí cả cuộc đời !

                        

 

 * DIỄN NÔM :               Bài 1. 

                      Một cánh hoa rơi xuân hết sang,

                      Muôn ngàn hoa tạ báo xuân tàn.

                      Mắt trông hoa rụng lòng tê tái,

                      Môi nhắp rượu nồng dạ xốn xang.

                      Phỉ Thúy chọn rường xây tổ ấm ,

                      Kỳ lân gò nổng ngã nghiêng tàn.

                      Suy cho cặn kẽ nên hành lạc,

                      Sao để hư danh trói buộc ràng ?.

       Lục bát :

                      Hoa rơi một cánh xuân tàn,

                      Đau lòng hoa rụng muôn ngàn xót xa.

                      Hoa bay trước mắt la đà,

                      Rượu mềm môi đắng lòng già tiếc thương.

                      Tổ êm phỉ thúy chọn rường,

                       Gò cao nghiêng ngã bên vườn kỳ lân.

                      Ăn chơi, suy kỹ, cân phân,

                      Hư danh trói buộc tấm thân ích gì ?.

         Bài 2.  

                     Tan chầu cầm quách áo xuân hồng,

                     Say khướt trở về với bến sông.

                     Nợ rượu khắp nơi đều có được,

                     Người đời bảy chục hiếm xưa không.

                     Kìa đàn bướm nhỏ vờn hoa dại,

                     Nọ lũ chuồn chuồn bởn nước trong.

                     Cảnh đẹp khuyên ai cùng tận hưởng,

                     Hoa tàn cảnh tạ khỏi hoài công !

Lục bát :

                   Tan chầu cầm quách áo xuân,

                   Mỗi ngày túy lúy đầu sông đi về.

                   Khắp nơi nợ rượu bề bề ,

                   Người đời bảy chục hiếm hề xưa nay.

                   Hãy xem đàn bướm lượn bay,

                   Chuồn chuồn giởn nước khoan thai bay về.

                   Thiên nhiên cảnh trí bốn bề,

                   Sao không thưởng ngoạn còn chê chỗ nào ?!

                                                                          Đỗ Chiêu Đức  

Giai Thoại văn Chương :

                   

         Cũng Tại Cái Ông KHUẤT NGUYÊN của nước Sở

DCD_Khuatnguyen_1.jpg

                                         TIẾT ĐOAN NGỌ : Tết Giữa Năm

 

      Mùng 5 tháng 5 là TIẾT ĐOAN NGỌ 端午節, theo Ngũ hành Bát quái, vì số 5 thuộc dương, nên Tiết Đoan Ngọ còn gọi là Tiết ĐOAN DƯƠNG 端陽. ĐOAN: là Đầu mối, là mở đầu; NGỌ: là giờ Ngọ, là giữa trưa; còn DƯƠNG là mặt trời, là khí dương, ĐOAN DƯƠNG có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Còn ĐOAN NGỌ là bắt đầu lúc giữa trưa. Theo truyền thuyết Trung Hoa...

 

     KHUẤT NGUYÊN 屈原 (340-278 TCN) : Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông chẳng những là vị trung thần của nước Sở mà còn là nhà thơ, nhà văn hoá nổi tiếng của Trung Hoa. Ông là tác giả hai bài thơ bất hủ là LY TAO 離騷 và SỞ TỪ 楚辭, nổi tiếng trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong. Do can ngăn Sở Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự trầm ngày mùng 5 tháng 5. Dân chúng nơi đó đã mang thuyền đến giữa dòng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho các loại cá và linh hồn của các yêu ma quỷ quái không lại gần được thi thể của ông họ đã đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tiếc thương cho một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, dân Trung Hoa xưa lại làm bánh ú gói nhân thịt mỡ, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống để cúng Khuất Nguyên. Do đó, hình thành hai tập tục trong ngày lễ Đoan Ngọ cho đến hiên nay là : Đua thuyền rồng và Ăn bánh ú.

DCD_Duathuyenrong.png

Trong văn học, tác phẩm LY TAO của Khuất Nguyên hình thành những từ như : Tao Nhân Mặc Khách, Tao Đàn ... Trong thơ ca Trung Hoa còn ghi nhận SỞ TỪ là nguồn gốc của thơ Thất ngôn sau nầy. Sau đây là hai bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt có liên quan đến Tết Đoan Ngọ ở đời Đường. 

 

        同州端午             ĐỒNG CHÂU ĐOAN NGỌ

 

     鶴髮垂肩尺許長,    Hạc phát thùy kiên xích hứa trường,

     離家三十五端陽。    Ly gia tam thập ngũ Đoan Dương.

     兒童見說深驚訝,    Nhi đồng kiến thuyết thâm kinh nhạ,

     卻問何方是故鄉。    Khước vấn hà phương thị cố hương ?

             殷堯藩                                         Ân Nghiêu Phồn

DCD_Khuatnguyen3.png

Có nghĩa :

              Tóc bạc qúa vai cả thước thường,

              Xa nhà ba mươi lăm Đoan Dương.

              Trẻ con nghe nói đều kinh ngạc,

              Cùng hỏi nơi nào là cố hương ?

 

        Tết giữa năm cũng khiến cho người lữ khách nhớ nhà như là Tết Nguyên Đán vậy ! Đọc bài thơ trên làm cho ta lại nhớ đến bài "Hồi Hương Ngẫu Thư" của Hạ Tri Chương... Ta đọc thêm một bài thơ về Đoan Ngọ nữa nhé !

 

         端午                  ĐOAN NGỌ

 

     節分端午自誰言,    Tiết phân Đoan Ngọ tự thùy ngôn,

     萬古傳聞為屈原。    Vạn cổ truyền văn vị Khuất Nguyên.

     堪笑楚江空渺渺,    Kham tiếu Sở giang không diểu diểu,

     不能洗得直臣冤。    Bất năng tẩy đắc trực thần oan !

                文秀                                                  Văn Tú

 

                 

Có Nghĩa :

              Đoan Ngọ ai chia Tết tháng năm,

              Khuất Nguyên từ vạn cổ xa xăm.

              Nực cười sông Sở trôi trôi mãi...

              Rửa chẳng sạch oan đấng nghĩa thần !

 

      Sông Mịch La của nước Sở, nơi Khuất Nguyên nhảy xuống để tự trầm, mấy ngàn năm vẫn không thể rửa hết oan khiên cho đấng bề tôi trung nghĩa. Bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến một "Giai thoại văn chương Việt Nam thời vua Tự Đức", ông vua rất giỏi văn thơ của Việt nam ta ...

              

      Trong "Giai thoại văn chương Việt Nam" của Thái Bạch có kể về tài ứng đối của Đinh Nhật Thận như sau : Đinh Nhật Thận sinh năm Ất Hợi (1815) tại làng Thanh Lạo, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1837), đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838) được bổ làm Tri phủ. Ông thường giao du với Cao Bá Quát và Nguyễn Hàm Ninh. Sau Cao Bá Quát dấy binh chống lại triều đình, Đinh Nhật Thận bị tình nghi, bắt giải về kinh giam lại, sau lại được thả ra. ("Quốc Triều Hương Khoa Lục" chép về Đinh Nhật Thận: “ Vì là bạn cũ của tên giặc Cao Bá Quát nên bị bắt giam, sau được thả”.

 

         Vì mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy cho con em trong hoàng tộc và cũng để dễ bề kiềm chế ông. Tục truyền khi ở kinh đô, một hôm Đinh Nhật Thận cùng các quan đại đại thần theo thuyền ngự đi ngoạn cảnh trên sông Hương. Nhân bàn luận về Nho giáo, ông nhắc đến câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” và cho đó là một câu chí lý. Nghe xong, vua Tự Đức phán: 

     - Vậy trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này chết đi, khanh có dám làm không? 

     Nghe vua phán vậy, các quan trên thuyền đều lo sợ thay cho ông, vì không nhảy xuống sông thì không trung với vua, mà nhảy xuống thì chết là cái chắc. Ấy vậy mà ông vẫn bình tĩnh lạy nhà vua ba lạy xong đâu vào đấy, rồi lao mình nhảy tỏm xuống dòng sông. Mọi người đều bàng hoàng, tưởng đây là nơi an nghỉ ngàn thu của ông rồi. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ngoi đầu lên khỏi mặt nước và vói tay bám vào mạn thuyền ngự. Vua Tự Đức hỏi: 

    - Sao khanh không ở dưới đó luôn mà còn trở lên đây chi vậy ?

      Ông bình tĩnh đáp rằng :

    - Chỉ tại cái ông Khuất Nguyên của nước Sở. Nhà vua ngạc nhiên hỏi :

    - Tại sao lại Khuất Nguyên ?. Ông chậm rãi kể :

    - Thần định ở luôn dưới đó, nhưng khi vừa xuống đến đáy sông thì thần gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần rằng : 

 

             Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn,     我逢黯主含冤忍,

             Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà ?          爾遇明君溺死何?

   Có nghĩa :

          Ta gặp phải chúa hắc ám, nên phải chịu oan đã đành,

          Còn ngươi gặp được minh quân sao lại phải nhảy xuống đây trầm mình tự tử vậy ?

  ... hạ thần nghe ông ấy mắng quá đúng cho nên phải ngoi lên đây để tâu cùng bệ hạ rõ!

 

      Vua Tự Đức cả cười, sai thị vệ kéo ông lên thuyền ngự, lấy quần áo cho ông thay rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng cho cái tài ứng đối mẫn tiệp, mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt.

DCD_khuatnguyenFinal.png

Giai thoại trên nghe thì rất lý thú, nhưng chỉ để kể cho nhau nghe chơi khi trà dư tửu hậu mà thôi. Nay nhân Tết Đoan Ngọ, ở nơi xứ lạ quê người nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn, nên kể hầu chư vị cho vui với một ngày Lễ chỉ có ở vùng của các nước Đông Nam Châu Á mà thôi.

 

       Hẹn bài viết tới !

 

                                                                            杜紹德

                                                                       Đỗ Chiêu Đức 

Giai Thoại văn Chương:

                   

Người chồng khóc vợ chân tình nhất

DCD_NgChan_1.png

                                               NGUYÊN CHẨN 

 

         NGUYÊN CHẨN (779-831) tự là Vi Chi, biệt hiệu là Uy Minh, người đất Lạc Dương Hà Nam, là thi nhân, văn học gia và là đại thần của đời Đường. Ông thuộc bộ tộc Phá Bạt của dòng dõi Tiên Ti, là cháu đời thứ 19 của Bắc Ngụy Chiêu Thành Đế, con của Tỉ Bộ Lang Trung Nguyên Khoan. Từ nhỏ đã nổi tiếng về văn tài, năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), mới 15 tuổi đã thi đậu minh kinh, được phong chức Tả Thập Di. Năm Trinh Nguyên thứ 18 (802) đời Đường Đức Tông mới cùng Bạch Cư Dị đậu khoa Tiến sĩ bạt tụy để ra làm quan. Nguyên Chẩn đã từng bái tướng, làm quan đến chức Thượng Thư Tả Thừa. Năm Thái Hòa thứ 4 (830) nhậm chức Võ Xương Quân Tiết Độ Sứ. Năm Thái Hòa thứ 5 (831) qua đời lúc mới 53 tuổi, được truy phong là Thượng Thư Hữu Bộc Xạ. Nguyên Chẩn là bạn cùng khoa với Bạch Cư Dị, cùng kết thân là bạn thơ suốt đời, cùng đề xướng thể thơ Tân Nhạc Phủ mà người đời gọi là "Nguyên Bạch 元白", hình thành "Nguyên Hòa Thể 元和體". Thành tựu về văn học của ông rất lớn, nhất là về mặt thơ ca. Còn lưu lại hơn 830 bài thơ, từ phú, chiếu sách, minh giản, luận nghị... hơn một trăm bài. Tất cả đều thu tập vào trong "Nguyên Thị Trường Khánh Tập 元氏長慶集".  

DCD_NguyenChan.png

Năm Trinh Nguyên thứ 18 (802) đời Đường Đức Tông, mặc dù chưa ra làm quan, nhưng vẫn được quan Thái Tử Thiếu Bảo Vi Hạ Khanh 韋夏卿 biết đến tài và gả cho cô con gái út mà ông ta rất yêu thương là Vi Tùng 韋叢. Lúc đó, Vi Tùng chỉ mới 20 tuổi, còn Nguyên Chẩn thì đã 25 tuổi rồi. Sau khi kết hôn, họ sống đời sống bần hàn đạm bạc. Vi Tùng mặc dù là tiểu thơ con quan nhưng lại rất chịu thương chịu khó, cùng sống cảnh nhèo khổ với chồng mà không một lời oán than trách móc, nên vợ chồng rất hòa hợp và thương yêu nhau. Bảy năm sau, tức năm Nguyên Hòa thứ tư (809), khi Nguyên Chẩn nhậm chức Án Sát ngự Sử thì Vi Tùng nhuốm bện và qua đời khi chỉ mới 27 tuổi. Nguyên Chẩn vô cùng đau xót tiếc thương, ông đã làm rất nhiều thơ để khóc, điếu và truy điệu người vợ đã cộng khổ mà không cùng được đồng cam nầy. Trong số thơ truy điệu phải kể đến 3 bài KHIỂN BI HOÀI 遣悲懷 là nổi tiếng và được nhiều người biết đến nhất.

 

       Sau đây, ta sẽ lần lượt đọc lại 3 bài thơ bất hủ nầy :

             

      遣悲懷·其一           KHIỂN BI HOÀI    Kỳ 1        

 

    謝公最小偏憐女,   Tạ công tối tiểu thiên lân nữ,

    自嫁黔婁百事乖。   Tự gía Kiềm Lâu bách sự quai.

    顧我無衣搜藎篋,   Cố ngã vô y sưu tẫn giáp,

    泥他沽酒拔金釵。   Nệ tha cô tửu bạt kim thoa.

    野蔬充膳甘長藿,   Dã sơ sung thiện cam trường hoắc,

    落葉添薪仰古槐。   Lạc diệp thiêm tân ngưỡng cổ hoài.

    今日俸錢過十萬,   Kim nhật bổng tiền qúa thập vạn,

    與君營奠復營齋。   Dữ quân doanh điện phục doanh trai.

                  元稹                                   Nguyên Chẩn

DCD_Khienbihoai.png

* Chú Thích :

    - Khiển Bi Hoài 遣悲懷 : Giải bày nổi lòng bầu bi buồn thảm.

    - Tạ Công 謝公...: Lấy tích Tể Tướng Tạ An đời Đông Tấn rất thương cô cháu gái là Tạ Đạo Uẩn.

    - Kiềm Lâu 黔婁 : là một hàn sĩ ở nước Tề thơi Chiến Quốc.

    - Tẫn Giáp 藎篋 : là Rương, hòm, va-li đan bằng tre mây hoặc cỏ.

    - Nệ 泥 : là Câu nệ, là theo làm eo, năn nỉ.

    - Dã Sơ 野蔬 : là Rau cải mọc hoang. Hoắc 藿 : là đọt đậu non. Câu nầy chỉ chung các loại rau dền, rau muống, rau lang, rau ngỗ...

    - Tân 薪 : là củi. Cổ Hoài 古槐 : là Cây Hòe cổ, là cây hoẻ già.

    - Bổng Tiền 俸錢 : Tiền bổng lộc, Tiền lương.

    - Doanh Điện 營奠 : là Cúng tế; Doanh Trai 營齋 : là làm tuần trai.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

        Giống như là Tạ An đời Tấn rất thương cô con gái út của mình, nhưng từ ngày lấy phải kẻ Kiềm Lâu hàn sĩ nầy thì trăm việc đều trớt quớt không như ý. Thấy tôi không có áo mới để mặc nàng đã lục lọi hết các rương hòm để tìm kiếm. Không tiền mua rượu uống tôi đã theo nài nĩ nàng, nàng cũng chịu rút cây trâm vàng trên đầu mà đưa cho tôi. Ăn uống thì đạm bạc chỉ tìm các loại rau rừng đọt đậu... Gom góp lá rụng phơi khô để làm củi nên thường ngóng trông cây hòe lớn rụng lá xuống. Đến ngày hôm nay ta đã làm quan, bổng lộc đã hơn mươì vạn hộc một năm, thì nàng đã mất rồi; nên chỉ còn có nước là vừa cúng tế vừa làm tuần trai cho nàng mà thôi !

 

* Diễn Nôm :

                 

 

                     KHIỂN BI HOÀI (1)

 

                 Gái út Tạ công được mến yêu,

                 Gã cho hàn sĩ khổ trăm điều.

                 Lo ta áo cũ moi rương nát,

                 Vì mỗ rượu ghiền bán lược yêu.

                 Rau cháo đỡ lòng ăn xí xóa,

                 Lá cây làm củi ước rơi nhiều.

                 Nay ta bổng lộc hơn mười vạn,

                 Phúng điếu mong nàng sớm độ siêu !

     Lục bát :

                 Tạ Công gái út thương nhiều,

                 Lấy chàng hàn sĩ trăm điều khổ thay.

                 Lo ta không áo tìm may,

                 Vì ta hết rượu rút ngay trâm vàng.

                 Bửa ăn rau dại làm sang,

                 Lá khô làm củi nên nàng ngóng cây.

                 Nay ta mười vạn bổng đầy,

                 Chỉ còn phúng điếu làm chay cho nàng.

 

      Bài thơ hết lời ca ngợi người vợ hiền, trước tiên là đức tính tốt của một tiểu thơ con nhà quan mà chịu khuất thân lấy người hàn sĩ để phải chịu khổ trăm điều : Lo cái ăn cái mặc để giữ thể diện cho chồng, chìu cả những thói ghiền rượu của chồng mà không ngần ngại bán cả trâm vàng, sống kham khổ bằng các loại rau dại, chắc mót cả lá khô để làm củi đốt... Thế mà ngang trái thay, khi đã làm quan, khi đã giàu sang vinh hiển, thì vợ đã mất rồi !... Dù cho có cúng tế làm đám linh đình như thế nào cũng không bù đắp được tấm chân tình của người vợ hiền đã khuất bóng. 

 

 遣悲懷·其二            KHIỂN BI HOÀI  Kỳ 2

 

昔日戲言身後事,   Tích nhật hí ngôn thân hậu sự,

今朝都到眼前來。   Kim triêu đô đáo nhãn tiền lai.

衣裳已施行看盡,   Y thường dĩ thí hành khan tận,

針線猶存未忍開。   Châm tuyến do tồn vị nhẫn khai.

尚想舊情憐婢僕,   Thượng tưởng cựu tình lân tì bộc,

也曾因夢送錢財。   Dã tằng nhân mộng tống tiền tài.

誠知此恨人人有,   Thành tri thử hận nhân nhân hữh,

貧賤夫妻百事哀。   Bần tiện phu thê bách sự ai !

               元稹                               Nguyên Chẩn

 

        

 

* Chú Thích :

    - Hí Ngôn 戲言 : Lời nói chơi (giữa vợ chồng với nhau).

    - Thân Hậu Sự 身後事 : Chuyện sau khi đã chết, đã qua đời.

    - Dĩ Thí 已施 : Đã bố thí (cho người nghèo).

    - Hành Khan Tận 行看盡 : là Đã gần hết.

    - Do Tồn 猶存 : Còn chừa lại, còn để lại.

    - Tì Bộc 婢僕 : TÌ là Tì nữ, hầu gái. BỘC là Gia bộc, người giúp việc trai.

    - Bần Tiện Phu Thê 貧賤夫妻 : là Vợ chồng nghèo khó với nhau.

 

* Nghĩa bài thơ :

        Ngày xưa vợ chồng thường nói chơi với nhau là : người nầy chết thì người kia sẽ ra sao ?... Đến hôm nay thì sự thực đó đều đã phơi bày trước mắt. 

Quần áo của bà để lại tôi đã bố thí cho người nghèo gần hết rồi, chỉ có kim chỉ ngày xưa của bà dùng để may vá thì tôi còn giữ lại cả mà không đành lòng mở ra xem. Tôi luôn nhớ đến tình nghĩa của bà ngày xưa đối với nô tì gia bộc, người ăn kẻ ở trong nhà mà càng yêu thương họ hơn; cũng thường nằm mơ thấy bà nên luôn mua thêm vàng mã đốt xuống gởi cho bà. Vốn dĩ biết rằng cái hận sinh ly tử biệt mọi người đều có, nhưng đối với vợ chồng xuất thân nghèo hèn như chúng ta thì trăm việc đều bi ai buồn thãm. 

 

* Diễn Nôm :

                 KHIỂN BI HOÀI (2)

DCD_khienbihoai_2.png

            Ngày xưa cứ tưởng nói chơi thôi,

            Nào biết hôm nay trước mắt rồi.

            Bố thí áo quần cho sắp hết,

            Vẫn còn kim chỉ chẳng đành coi.

            Nhớ bà xưa vẫn thương người ở,

            Vì mộng nay thường đốt bạc tơi.

            Vẫn biết hận nầy ai tránh khỏi,

            Vợ chồng nghèo khó khổ khôn vơi !

   Lục bát :

            Xưa kia cứ ngỡ nói chơi,

            Nào ngờ nay đã phương trời âm dương.

            Áo quần bố thí vẫn thường,

            Chỉ kim còn đó chẳng buồn mở xem.

            Vốn thương kẻ ở người quen,

            Mã vàng thường đốt mấy phen mơ màng.

            Vốn hay tử biệt hận tràn,

            Vợ chồng nghèo khổ muôn vàn bi thương !

 

      Thật chí tình chí nghĩa, Nguyên Chẩn nhớ đến từng việc, từng việc một của vợ mình khi còn sống, cho nên áo quần thì bố thí cho người nghèo gần hết, chớ kim chỉ mà ngày thường vợ thường dùng để may vá thì không dám mở ra, sợ gợi lại hình ảnh của vợ lúc còn sống; Vốn biết vợ có lòng nhân từ hay thương người ăn kẻ ở trong nhà nên cũng đối xử với họ tốt hơn... và mặc dù bây giờ làm quan đã giàu sang rồi, vẫn còn nhớ lúc vợ chồng thuở hàn vi trăm việc đều buồn thương sầu thảm.

 

 遣悲懷.其三          KHIỂN BI HOÀI (3)

 

閒坐悲君亦自悲,      Nhàn tọa bi quân diệc tự bi,

百年都是幾多時?      Bách niên đô thị kỷ đa thì ?

鄧攸無子尋知命,      Đặng Du vô tử tầm tri mệnh,

潘岳悼亡猶費詞。      Phan Nhạc điếu vong do phí từ.

同穴窅冥何所望?      Đồng huyệt yểu minh hà sở vọng,

他生緣會更難期。      Tha sinh duyên hội cánh nan kỳ.

惟將終夜長開眼,      Duy tương chung dạ trường khai nhãn,

報答平生未展眉。      Báo đáp bình sinh vị chuyển mi.

               元稹                                        Nguyên Chẩn

DCD_Khienbihoai_3.png

* Chú Thích :

    - Đặng Du 鄧攸 : Theo Tấn Thư ghi chép : ĐẶNG DU (?-326) người đời Tây Tấn, tự là Bá Đạo, là quan Thái Thú đất Hà Tây. Cuối năm Vĩnh Gia trong chiến tranh loạn lạc, Du đã bỏ con chết trong chiến loạn mà cứu lấy cháu do em trai gởi gắm, với lý do mình còn có thể sanh con khác được, chứ cháu mà chết rồi thì làm sao sanh được đứa cháu khác đây ? Cuối cùng, vợ ông không còn khả năng mang thai nữa. Đành phải nạp thiếp, khi hỏi rõ lý lịch thì biết cô thiếp mà mình định nạp là cháu gái con của em vợ mình, nên thôi. Ông cho đó là số mạng của mình, nên từ đó không có ý định nạp thiếp nữa. Rồi đành chịu cảnh vô hậu, không người nối dõi.

   - Phan Nhạc 潘岳 : Cũng theo Tấn Thư ghi chép : PHAN NHẠC(247-300) người đời Tây Tấn, tự là An Nhân. Người đời thường gọi ông là PHAN AN 潘安, là một văn học gia nổi tiếng đẹp trai, là Huyện Lệnh của đất Hà Dương. Vợ là Dương Thị, chết trẻ. Ông vô cùng thương nhớ vợ và làm rất nhiều thơ để phúng điếu, trong có 3 bài "Điếu Vong Thi 悼亡詩" rất nổi tiếng, được nhiều người biết đến.

   - Yểu Minh 窅冥 : là Nơi xa xôi tăm tối, chỉ Âm Phủ.

   - Hà Sở Vọng 何所望?: Còn kỳ vọng mong mõi gì nữa đây ?

   - Duyên Hội 緣會 : là Duyên hội ngộ, là cái nhân duyên gặp gỡ nhau.

   - Cánh Nan Kỳ 更難期 : là Càng khó mà trông mong hơn nữa.

   - Khai Nhãn 開眼 : Mở mắt, vì không ngủ được.

   - Triển Mi 展眉 : là Nở mày; ý chỉ Nở mày nở mặt.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

        Rảnh rổi ngồi buồn nhớ thương bà mà cũng tự thương cho thân tôi nữa. Người ta thường nói trăm năm tơ tóc, nhưng trăm năm có là bao đâu ? Đặng Du không có con nối dõi cũng do nơi mạng số; còn Phan An khóc điếu vợ rồi thì lời điếu cũng thoảng qua thôi. Đã không còn trông mong chết cùng chung một huyệt mộ, thì duyên hội ngộ ở kiếp sau cũng không dễ gì trông mong cho có được đâu. Giờ chỉ còn biết nhớ thương bà mà "mở mắt" suốt đêm trường không ngủ, để báo đáp lại lúc còn sống nghèo khổ bà chẳng "Nở mặt nở mày" được !(Khi tôi đã làm quan lớn).

 

* Diễn Nôm :

                          KHIỂN BI HOÀI (3)

 

                     

 

                   Ngồi rảnh nhớ nàng dạ xót thay,

                   Bách niên giai lão mất còn ai ?

                   Đặng Du vô tử đành hiu hẩm,

                   Phan Nhạc điếu vong những cảm hoài.

                   Chung huyệt chung mồ thôi ngóng đợi,

                   Kiếp sau kiếp nữa khó mong thay.

                   Suốt đêm mở mắt tuôn dòng lệ,

                   Báo đáp nàng xưa chẳng mở mày !

   Lục bát :

                   Buồn nàng rồi lại buồn ta,

                   Trăm năm tơ tóc có là bao nhiêu ?

                   Đặng Du vô tử hẩm hiu,

                   Phan An khóc vợ nghe nhiều xót xa.

                   Hết mong chung huyệt đôi ta,

                   Kiếp sau gặp gỡ cũng là viễn vong.

                   Suốt đêm mở mắt nhớ mong,

                   Vì nàng đến chết vẫn không mở mày !

 

       Thật chân tình, thật thực tế và thực cảm động lòng người ! Ngồi buồn nhớ thương bà mà cũng tự thương cho thân tôi. Người ta nói trăm năm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc thật sự có được bao nhiêu đâu ? Tôi với bà không có con, âu đó cũng là do số mạng ta phải thế; Tôi làm thơ thương khóc bà rồi cũng chỉ như làn gió thoảng thôi, vì bà đâu còn nghe thấy được nữa đâu. Chúng ta từng nguyện sống chung nhà và chết thì chung một huyệt mộ, nhưng đó cũng chỉ là những chuyện viễn vông, cũng như hẹn sẽ cùng nhau gặp gỡ ở kiếp lai sinh đều là những chuyện huyễn hoặc không thể nào có thật được. Việc thực tế nhất trước mắt là tôi luôn "mở mắt" thức trắng thâu đêm vì thương cho bà lúc còn sống đã không được "mở mày mở mặt" với người đời !

 

       Qua ba bài thơ vừa điếu tang, vừa bày tỏ nỗi lòng thương nhớ vợ chẳng may mất sớm của Nguyên Chẩn. Ta thấy ông đã sử dụng những chi tiết rất nhỏ nhặt, rất tầm thường trong cuộc sống, như quần áo, trâm cài, rau dại, lá khô... Sự hiền thục của vợ như mến thương người ăn kẻ ở trong nhà, sống kham khổ với chồng mà chẳng chút oán than trách móc, vợ chồng cùng ước hẹn sống chết có nhau, tái ngộ ở kiếp lai sinh... Chính những sự nhỏ nhặt tầm thường của các mặt trong đời sống thực tế của vợ chồng đã được ông than van kể lể làm cảm động lòng người đọc một cách chân thành như sự chân thành của ông trong những lời thơ  thương khóc vợ.

       Ngoài ba bài thơ thương tiếc điếu tang vợ như trên, Nguyên Chẩn còn có một hệ thống 5 bài thơ Tứ tuyệt "LY TỨ 離思" (Nỗi nhớ thương lúc phân ly) cũng rất nổi tiếng, nhất là bài thứ tư trong 5 bài nêu trên đã trở thành bất hủ :

 

                 曾經滄海難爲水,   Tằng kinh thương hải nan vi thủy,

                 除卻巫山不是雲。   Trừ khước Vu Sơn bất thị vân.

                 取次花叢懶回顧,   Thủ thứ hoa tùng lãn hồi cố,

                 半緣修道半緣君。   Bán duyên tu đạo bán duyên quân.

    Có nghĩa :

       Nếu không phải là nước của biển xanh mênh mông thì không phải là nước.  Ngoại trừ những mây mù trên đỉnh Vu Sơn ra, còn lại đều không phải là mây. Đã lơ đễnh qua khỏi khóm hoa rồi thì cũng lười biếng quay đầu nhìn lại, vì lòng đã trót theo tu đạo, và cũng vì trong lòng ta đã có hình bóng của em rồi.

 

    Diễn Nôm :

                   

 

                 Chẳng là biển rộng không là nước,

                 Trừ bỏ Vu Sơn chẳng phải mây!

                 Trước khóm hoa tươi lười biếng ngắm,

                 Nửa vì tu đạo nửa nàng đây.

    Lục bát :

                 Biển xanh mới thật nước đây,

                 Chẳng Vu Sơn đó chẳng mây trên trời.

                 Quay đầu biếng ngắm hoa tươi,

                 Nửa vì đaọ hạnh nửa vui vì nàng.

 

       Ý của Nguyên Chẩn là :"Ngoại trừ vợ ông ra, thì không có người đàn bà nào trên đời nầy đáng cho ông yêu nữa cả ! Dù có đi qua một "rừng hoa" trước mắt, ông cũng không buồn quay đầu lại để nhìn ngắm, vì đạo hạnh và nhất là vì trong lòng ông đã có hình bóng của vợ ông rồi. Không có bất cứ người đàn bà nào khác có thể thay thế được ! 

      Bốn chữ đầu của câu thơ thứ nhất "TẰNG KINH THƯƠNG HẢI 曾經滄海" đã trở thành Thành Ngữ để chỉ khi "Một chàng trai yêu một cô gái nào đó mà cho rằng ngoài nàng ra thì chẳng thể nào yêu người khác được nữa", dùng bốn chữ TẰNG KINH THƯƠNG HẢI để tỏ tình và để cho nàng biết là ngoài nàng ra chàng sẽ không còn yêu ai khác, nếu không lấy được nàng thì chàng sẽ..."ở vậy nuôi con" cho đến hết đời ! Nên...

 

      Khi viết câu thơ trên Nguyên Chẩn muốn cho mọi người biết mình là người đàn ông chung tình, vợ chết rồi thì không còn yêu ai khác nữa và sẽ không lấy ai khác nữa. Nhưng ... khóc vợ chết thì nói thế, chứ đời sống thực tế của ông thì ông là người "bạ đâu yêu đó, gặp người nào yêu người nấy và bỏ... người kia" là.... KẺ BẠC TÌNH NHẤT trong tất cả những đàn  ông bạc tình ở trên đời nầy ! Mời đọc lại bài "BẠC TÌNH NỔI TIẾNG ĐƯỜNG THI" thì sẽ rõ !

 

      Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                        杜紹德

                                                                                                    Đỗ Chiêu Đức

Bạc Tình Nổi Tiếng Đường Thi - Nguyên Chẩn

 

 

Tằng kinh thương hải nan vi thủy, 曾經滄海難爲水,

Trừ khước Vu sơn bất thị vân. 除卻巫山不是雲。

 

Hai câu thơ trên có nghĩa: 

Chẳng là biển rộng không là nước,

Trừ bỏ Vu Sơn chẳng phải mây!

 

Ý của lời thơ là :"Nếu không phải là nước của biển xanh mênh mông thì không phải là nước. Ngoại trừ những mây mù trên đỉnh Vu Sơn ra, còn lại đều không phải là mây !" Tác giả là NGUYÊN CHẨN một đại văn thi sĩ đời Đường đã làm thơ khóc vợ với 2 câu thơ trên. Ý của ông là :"Ngoại trừ vợ ông ra, thì không có người đàn bà nào trên đời nầy đáng cho ông yêu nữa cả !". Chung tình đến thế, yêu vợ đến thế là cùng. Nhưng ... khóc vợ chết thì nói thế, chứ đời sống thực tế của ông thì ông là ... KẺ BẠC TÌNH NHẤT trong tất cả những đàn ông bạc tình ở trên đời nầy ! Mời đọc tiểu sử của ông dưới đây sẽ rõ ...

 

NGUYÊN CHẨN (779-831), người đất Lạc Dương Hà Nam, từ nhỏ đã thông minh cơ trí hơn người, nổi tiếng học giỏi, là Tiến sĩ cùng khoa với Bạch Cư Dị. Hai người là bạn thơ thân thiết với nhau suốt đời, cùng vận động và đề xướng ra NGUYÊN HÒA THỂ 元和體 trong nhạc phủ. Người đời xưng tụng là Thể NGUYÊN BẠCH 元白, cho thấy ông được xếp đứng trước cả Thi Bá Bạch Cư Dị.

Thành tựu về mặt văn thơ của Nguyên Chẩn thì không còn gì nghi ngờ và phải bàn cải nữa; Nhưng về mặt tình cảm lăng nhăng lãng mạn "Bạc tình nổi tiếng lầu xanh" thì cũng không còn gì để bàn cải nữa! Nguyên Chẩn là anh chàng phụ tình có một không hai trong đời Đường, trên từ tiểu thơ con nhà quyền qúy, đến các cô gái nhà lành khuê môn bất xuất, rồi đến các nữ sĩ đạo cô tài hoa phóng đãng cho đến các ca kỹ nổi tiếng lầu xanh ... Tất cả đều bị ruồng rẫy bầm dập dày dò và chết dưới tay của chàng lãng tử tài hoa nầy.

Đầu tiên là Thôi Song Văn 崔雙文, tức là nàng Thôi Oanh Oanh 崔鶯鶯, còn Nguyên Chẩn tức là Trương Quân Thụy 張君瑞 tức Trương Sinh 張生, mà sau nầy nhà văn Vương Thực Phủ 王實甫 đã viết thành truyện TÂY SƯƠNG KÝ 西廂記 nổi tiếng vào đời nhà Nguyên. Năm Trinh Nguyên thứ 15 (799), Nhà của một bà dì bà con xa bên mẹ, vì chiến loạn phải chạy đến tạm lánh ở nhà Nguyên Chẩn. Chẩn trông thấy cô biểu muội họ xa tài mạo song toàn, vừa đẹp vừa xinh lại có tài văn thơ, bèn kết ngay từ giây phút đầu gặp gỡ. Tiểu thơ họ Thôi cũng phải lòng ngay cái anh biểu huynh tài hoa đẹp trai "Văn chương nết đất thông minh tính trời" mới có 21 tuổi nầy. Hai người rất nhanh đã ngã vào lòng nhau sau những lời thề non hẹn biển. Nhưng rồi chàng phải lên đường lai kinh ứng thí, nàng phải gạt lệ luyến lưu đưa tiễn người yêu bên ngoài mười dặm trường đình. Nhưng rồi ...

 

Mái Tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng!

 

 

 

Chờ đợi mỏi mòn, cuối cùng nàng cũng được tin: Mặc dù chàng thi rớt, nhưng lại được quan lớn hai đời là Kinh Triệu Doãn Vi Hạ Khanh biết đến tài, tin tưởng rằng Nguyên Chẩn sẽ phát tích trong tương lai, nên mới gã cho cô con gái út là Vi Tùng. Nên chàng lưu lại đất Trường an để chờ đợi khoa thi sau.

 

Vi Tùng 韋叢 tự là Huệ Tùng 蕙叢, mặc dù là tiểu thơ con nhà quan nhưng rất hiền thục, không ham phú quý hư vinh, hết lòng thương yêu chăm sóc và giúp đỡ cho chồng dùi mài kinh sử để chờ đợi khoa thi. Thế mà khi Nguyên Chẩn đã thi đậu làm quan lớn rồi thì Vi Tùng lại vắn số chết đi khi mới vừa 27 tuổi. Trong ba bài thơ KHIỂN BI HOÀI 遣悲懷 làm để điếu tang vợ, thì bài thứ nhất Nguyên Chẩn đã tả lại cảnh chịu thương chịu khó của vợ như sau :

 

謝公最小偏憐女, Tạ công tối tiểu thiên lân nữ,

自嫁黔婁百事乖。 Tự gía kiềm lâu bách sự quai.

顧我無衣搜藎篋, Cố ngã vô y sưu tẫn giáp,

泥他沽酒拔金釵。 Nệ tha cô tửu bạt kim thoa.

野蔬充膳甘長藿, Dã sơ sung thiện cam trường hoắc,

落葉添薪仰古槐。 Lạc diệp thiêm tân ngưỡng cổ hoài.

今日俸錢過十萬, Kim nhật bổng tiền qúa thập vạn,

與君營奠復營齋。 Dữ quân doanh điện phục doanh trai.

 

Có nghĩa:

 

Gái út Tạ công được mến yêu,

Gã cho hàn sĩ lắm tiêu điều.

Lo ta áo cũ moi rương nát,

Vì mỗ rượu ghiền bán lược yêu.

Rau cháo đỡ lòng ăn xí xóa,

Lá cây làm củi ước rơi nhiều.

Nay ta bổng lộc hơn mười vạn,

Phúng điếu mong nàng sớm độ siêu!

 

Tình nghĩa vợ chồng thật thắm thiết mặn nồng, đọc thơ ai dám bảo đây là ông chồng phong lưu lãng tử bạc tình ? Ấy thế, mà trong khoảng thời gian vợ nằm bệnh cũng chính là thời gian Nguyên Chẩn đang dan díu với Đệ nhất Nữ Tài Tử đời Đường là Tiết Đào 薛濤, khi ông đang giữ chức Án Sát Ngự Sử ở đất Tây Xuyên. Thế mà lại khóc vợ thảm thiết với 2 câu thơ để đời thiên cổ đã nêu ở đầu bài : 

 

Tằng kinh thương hải nan vi thủy, 曾經滄海難爲水,

Trừ khước Vu sơn bất thị vân. 除卻巫山不是雲。

 

Rất nhiều người thắc mắc là : Không biết hai câu thơ trên đây Nguyên Chẩn làm để khóc vợ hay khóc cho mối "tình chị em" nhưng không kém phần say đắm với Tiết Đào, hay là khóc cho tiểu thơ Thôi Oanh Oanh đang mõi mòn chờ đợi ở dưới Mái Tây. Chỉ biết không chỉ Tiết Đào mê đắm Nguyên Chẩn mà Nguyên Chẩn cũng rất say mê bà chị ca kỹ tài danh lớn hơn mình đến 11 tuổi nầy, chàng đã vắt óc tổn hao tâm tư để viết nên một bài thất ngôn luật thi để "Ký Tặng Tiết Đào 寄贈薛濤" như sau:

 

錦江滑膩蛾眉秀, Cẩm Giang hoạt nhị nga mi tú,

幻出文君與薛濤。 Huyễn xuất Văn Quân dữ Tiết Đào.

言語巧偷鸚鵡舌, Ngôn ngữ xảo thâu anh vũ thiệt,

文章分得鳳凰毛。 Văn chương phân đắc phụng hoàng mao.

紛紛辭客多停筆, Phân phân từ khách đa đình bút,

個個公卿欲夢刀。 Cá cá công khanh dục mộng đao.

別後相思隔煙水, Biệt hậu tương tư cách yên thủy,

菖蒲花發五雲高。 Xương bồ hoa phát ngũ vân cao.

 

Có nghĩa:

 

Cẩm Giang làm mượt nga my,

Có Tiết Đào đẹp thua gì Văn Quân.

Nói năng anh vũ hót xuân,

Văn chương phụng múa xa gần đều khen.

Văn nhân chẳng dám đua chen,

Công hầu đều phục mấy phen mộng hồn.

Chia thay nhung nhớ bồn chồn,

Xương bồ hoa tỏa ngát hơn mây trời!

 

 

 

Nhưng hạnh phúc lại chẳng dài lâu, chỉ vỏn vẹn đến với nàng trong 3 tháng. Vì tháng 7 năm đó, chàng Giám Sát Ngự Sử Nguyên Chẩn lại được lệnh vua điều đến Lạc Dương. Tiết Đào vô cùng thất vọng, nàng như hụt hẫng khi hạnh phúc vuột khỏi tầm tay. Cũng may là sau đó ít lâu thì lại nhận ngay được thơ của Nguyên Chẩn tỏ tình lưu luyến nhớ thương. Cứ thế tình yêu của lứa đôi tuy xa cách phương trời, nhưng lại được trải lòng trên những câu thơ trăm nhớ ngàn thương của thư đi tin lại. Chính thời gian nầy Tiết Đào đã nghĩ ra việc sáng chế một mẫu giấy chỉ đủ để chép một bài thơ cho gọn đẹp, đó là TIẾT ĐÀO TIÊN 薛濤箋 và sáng chế nầy còn lưu truyền mãi cho đến hiện nay. Nhưng rồi người tình tài hoa trẻ tuổi đẹp trai cũng bặt vô âm tín, mặc dù thơ của Tiết Đào đã gởi đi mấy lượt:

 

風花日將老, Phong hoa nhựt tương lão,

佳期猶渺渺。 Giai kỳ do miễu miễu.

不結同心人, Bất kết đồng tâm nhân, 

空結同心草. Không kết đồng tâm thảo.

 

Có nghĩa:

 

Gió đưa hoa rụng về đâu,

Giai kỳ biết đến khi nào gặp đây?

Đồng tâm người ở chân mây,

Đồng tâm cỏ kết còn đây rành rành.

 

Cuối xuân năm Nguyên Hòa thứ 6 (811), Nguyên Chẩn đến Giang lăng thăm bạn đồng liêu là Lý Cảnh Kiệm. Kiêm biết Chẩn vừa mới chết vợ, đời sống neo đơn, không ai chăm sóc cho cái ăn cái mặc, bèn làm mai biểu muội của mình là An Tiên Tần 安仙嬪 gã cho Nguyên Chẩn làm trắc thất (vợ lẽ). Cũng trong năm đó, Tễ Tướng Bùi Độ qua đời, Nguyên Chẩn mất đi chỗ dựa, bèn theo Kinh Nam Tiết Độ Sứ đi chinh phạt một nhóm dân tộc thiểu số đứng lên bạo động làm phản ở Hồ Nam. Chỉ được mấy năm An Tiên Tần cũng cởi hạc quy tiên ở Giang Lăng, sau khi để lại cho Nguyên Chẩn một đứa con. Chàng cũng đã thương nhớ người thứ thất nầy qua ba bài thơ "Giang Lăng Tam Mộng 江陵三夢" với các câu như:

 

平生每相夢, Bình sinh mỗi tương mộng,

不省两相知。 Bất tỉnh lưỡng tương tri.

况乃幽明隔, Huống nãi u minh cách,

夢魂徒尔为。 Mộng hồn đồ nhĩ vi.

 

Có nghĩa:

 

Bình sinh mỗi lúc cùng mơ,

Hai người tri kỷ dật dờ hai phương.

Huống nay cách trở âm dương,

Mộng hồn ngơ ngẩn người thương đâu rồi!

 

Hoặc như:

 

君骨久为土, Quân cốt cửu vi thổ,

我心長似灰。 Ngã tâm trường tự hôi.

百年何处尽, Bách niên hà xứ tận,

三夜夢中来。 Tam dạ mộng trung lai.

 

Có nghĩa:

 

Xương nàng đã hóa bụi hồng,

Tim ta cũng tắt lửa lòng từ lâu.

Trăm năm nào có gì đâu,

Ba canh hồn mộng đêm sầu khôn vơi!

 

Sầu thảm khóc thương thê thiếp thì nói thế chớ không phải thế. Mùa xuân năm Nguyên Hòa thứ 11 (816) Nguyên Chẩn 37 tuổi, lại được thượng cấp là Sơn Nam Tây Đạo Tiết Độ Sứ Quyền Đức Dự làm mai để cưới một tiểu thơ con nhà khuê các khác là Bùi Thục 裴淑. Bùi Thục là con của ngự sử Bùi Vân, trên đường đi nhậm chức ghé qua ra mắt Quyền Đức Dự, Trong buổi tiệc chiêu đãi Nguyên Chẩn và Bùi Thục phải lòng nhau, nên mới có mối lương duyên nầy. Lần thứ ba tân hôn, Nguyên Chẩn ngây ngất với hạnh phúc tràn đầy bên cô dâu trẻ, mãi đến khi sinh con được ba tháng mới trở về Thông Châu, nhậm chức Quắc Châu Trưởng Sử.

 

Tuy đã ba lần kết hôn, hai lần ruồng rẫy người yêu, Nguyên Chẩn vẫn chưa chịu yên thân. Năm Trường Khánh thứ 3 (823) Nguyên Chẩn cải nhậm Thứ Sử Việt Châu kiêm Chiết Đông Quan Sát Sứ. Một lần nữa đi về nơi sông nước, Nguyên Chẩn chợt nhớ đến Tiết Đào, người tình xưa nay đã qúa tuổi năm mươi. Nhưng chưa kịp gặp lại thì đã gặp ngay được nàng ca kỹ, ca linh, ca sĩ nổi tiếng nhất xứ Việt Châu là Lưu Thái Xuân 劉采春. Vốn xuất thân trong giới bình dân, là một cô đào vừa diễn vừa ca, có chồng là Châu Qúy Sùng cũng là một linh công (kép diễn tuồng). Mặc dù tuổi đã gần 30, nhưng phong tư còn yểu điệu, đặc biệt là giọng hát vút cao như bay theo làn gió cuốn vút tận mây xanh, được giới mộ điệu khen tặng là "Bán nhập giang phong bán nhập vân 半入江風半入雲" ( Nửa theo làn gió của sông nước nửa như bay bổng tận mây xanh), nên...

Khi quan lớn Thứ sử kiêm Quan Sát Sứ Nguyên Chẩn lúc bấy giờ đã ngoại 40, vừa gặp mặt lần đầu đã chết mê chết mệt ngay với cô ca linh tài hoa hương trời sắc nước nầy, quên mất tiêu người tình cũ Tiết Đào vẫn còn đang làm thơ chép trên giấy "Tiết Đào Tiên" để gởi đến cho mình lời thơ nhung nhớ. Nguyên Chẩn "rước" Lưu Thái Xuân về "dinh" với quan lớn, bỏ lại gánh hát, bỏ chồng bỏ con, bỏ cả vùng sông nước nơi đã hun đúc nên giọng hát thiên phú tài hoa của nàng. Những tưởng cuộc sống giàu sang phú qúy sẽ đem lại hạnh phúc mãi mãi với ông chồng quan lớn lại vừa là thi nhân tài tử đã có những lời thơ ca ngợi giọng hát của nàng như:

 

更有惱人腸斷處, Cánh hữu não nhân trường đoạn xứ,

選詞能唱"望夫歌"。 Tuyển từ năng xướng VỌNG PHU CA!

 

Có nghĩa:

 

Cất giọng khiến người sầu đứt ruột,

Chọn từ nên khúc "Vọng Phu Ca"! 

 

 

 

Nào ngờ...

Cuộc sống tưởng chừng như hạnh phúc sẽ miên trường kia chỉ kéo dài được có 7 năm. Năm Công Nguyên 829, Nguyên Chẩn được điều về Trường An, hồi triều để giữ chức Thượng Thư Tả Thừa. Bỏ lại Lưu Thái Xuân chờ đợi mõi mòn ròng rã suốt hai năm trường. Khi biết ra thì Nguyên Chẩn đã có người yêu khác là Linh Lung, một hồng nhan tì thiếp của Bạch Cư Dị. Thẹn với chồng với con, với đoàn ca kịch, với sông nước Giang Nam... Khoảng năm Công Nguyên 831, Lưu Thái Xuân đã nhảy xuống sông tự trầm để kết liễu đời mình khi chỉ mới hơn ba mươi tuổi...

 

Không cần biết là với thủ thuật nào (mua chuộc, ép buộc hay cưởng chiếm...) Ngài quan lớn Nguyên Chẩn vẫn phải chịu trách nhiệm là kẻ phá hoại gia cang người khác, là kẻ bạc tình lang sẵn sàng vứt bỏ người yêu không thương tiếc để chạy theo công danh hoặc chạy theo một bóng hình khác. Sau cô đào Lưu Thái Xuân, Nguyên Chẩn còn một cuộc tình không chính đáng nữa với Linh Lung 玲瓏, một tì thiếp của Bạch Cư Dị...

Nguyên và Bạch ngoài việc cùng xướng họa văn thơ, và cùng sáng tạo ra thể nhạc phủ "Nguyên Hòa Thể 元和體" ra, ngày thường đôi tri kỷ tri âm nầy còn có một trò chơi vượt ngoài tầm cho phép của Nho Gia là : Cùng trao đổi tì thiếp với nhau. Nên nhân biết Bạch Cư Dị có một nàng tì thiếp là Linh Lung 玲瓏, xuất thân là ca kỷ ở Hàng Châu rất đẹp và nổi tiếng. Nguyên Chẩn bèn tìm gặp, thì qủa nhiên là một giai nhân tài sắc kiêm toàn, bèn "mượn" nàng về nhà để "chi dụng" qua hơn một tháng mới trả lại cho Bạch Cư Dị. Thật là hết nói cho tính phong lưu lãng tử buông thả không câu nệ của cặp đôi bằng hữu nầy, đã dám vượt lên trên lễ giáo để đi trước thời đại.

 

Về phần Nguyên Chẩn, suốt một đời phong hoa tuyết nguyệt, thưởng ngoạn biết bao là non xanh nước biếc, rượu ngon gái đẹp. Chàng lãng tử nổi tiếng là bạc tình nầy vừa thề non hẹn biển với người yêu (Thôi tiểu thơ), vừa làm thơ khóc điếu vợ chết (Vi Tùng), vừa dan díu với đạo cô nữ sĩ (Tiết Đào), vừa về kinh cưới con nhà khuê các (An Tiên Tần), vừa cưới con nhà quyền qúy khi trắc thất An Tiên Tần qua đời (Bùi Thục), rồi khi đến vùng sông nước lại chiếm đoạt phá hoại gia cang người khác (Lưu Thái Xuân), cuối cùng thì lại tằng tịu với tì thiếp của bạn (Linh Lung)... Quả là tiêu biểu cho một kẻ...

 

BẠC TÌNH nổi tiếng trong ĐƯỜNH THI, không còn phải biện minh gì nữa cả !

 

Hẹn bài viết tới:

" NGUYÊN CHẨN : Người chồng khóc vợ chân tình nhất !"

 

杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

DCD_NgChan.png

Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường (4) :  

 

                                            LƯU THÁI XUÂN

DCD_LuuThaiXuan.jpg

                                          Cô Đào Ca Múa Giỏi Nhất đời Đường

              

       LƯU THÁI XUÂN 劉采春, năm sanh năm mất không rõ, chỉ biết là bà nhỏ hơn Tiết Đào khoảng gần 20 tuổi. Người đất Việt Châu thuộc huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang ngày nay. Có thuyết cho là người đất Hoài Âm tỉnh Giang Tô. Lưu Thái Xuân là một ca linh nổi tiếng đời Trung Đường, là vợ của nghệ nhân Châu Qúy Sùng, cùng với anh chồng là Châu Qúy Nam lập thành một ban ca kịch. lúc bấy giờ gọi là Tham Quân Hí 參軍戲. là một hình thức hài kịch giúp vui, thường chỉ do các nam nghệ nhân thủ diễn cả vai nữ. Duy chỉ có ban kịch của Lưu Thái Xuân thì vai nữ do bà tự thủ diễn và còn đem cả các khúc ca được phổ thành nhạc từ những bài thơ nổi tiếng của các thi nhân lúc bấy giờ vào trong kịch. 

DCD_LTXuan_2.jpg

Sau loạn An Lộc Sơn, nhà Đường chỉnh đốn lại quân bị, phòng thủ biên cương, nên nam tử trượng phu phải đi lính thú để trấn thủ lưu đồn... bỏ lại gia đình vợ con để ra ngoài biên ải, một số thương nhân của vùng sông nước cũng bỏ nhà đi buôn để tìm lợi nhuận, như Bạch Cư Dị đã nói trong TÌ BÀ HÀNh là "Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly 商人重利輕別離"(Kẻ thương buôn chỉ xem trọng lợi nhuận mà xem nhẹ sự ly biệt giữa vợ chồng với nhau). Vì thế phong trào thơ khuê oán lại dậy lên và lưu hành khắp mọi nơi trong nước. Lưu Thái Xuân lại có giọng ca thiên phú lảnh lót truyền cảm, nên khi nàng cất cao giọng thánh thót rót những lời thơ thương nhớ oán trách của những nàng khuê phụ trông chồng, thì các bà các cô đều không cầm được nước mắt. Trên 120 bài thơ khuê oán đã được tiếng hát của bà mang đi khắp cả vùng giang nam giang bắc, những khúc "Vọng Phu Ca 望夫歌" nầy còn được gọi một cách nôm na bình dân là "La Cống Khúc 囉嗊曲". LA CỐNG vốn là tên của một lâu đài do Trần Hậu Chủ xây nên bên bờ sông Tần Hoài để vui chơi hưởng lạc; dân chúng đi ngang qua đó thường nghe những khúc nhạc du dương vẳng ra, rồi cũng bắt chước mà hát theo khi đang đi trên sông nước để làm vui, thét rồi thành câu hò giọng hát trên sông.Trong Toàn Đường Thi Tập có 6 khúc "LA CỐNG KHÚC" do bà tự sáng tác và phổ vào nhạc phủ, như :

                    

                 不喜秦淮水,    Bất hỉ Tần Hoài thủy,

                 生憎江上船。    Sinh tăng giang thượng thuyền.

                 載兒夫壻去,    Tải nhi phu tế khứ,

                 經歲又經年。    Kinh tuế hựu kinh niên !

  Có nghĩa :

            "Bất hỉ" là không vui, không vui là không ưa không thích nước của con sông Tần Hoài. "Sinh tăng" là Sinh ra ghét, là Đâm ra ghét luôn những con thuyền qua lại trên dòng sông đó. Vì ... chúng chở chồng của con đi đi mãi, hết năm nầy qua năm khác (mà không thấy trở về gì cả !).

 

   Diễn Nôm :

                   

 

                Chẳng ưa sông nước Tần Hoài,

                Ghét luôn qua lại thuyền ai trên dòng.

                Chở đi con, chở đi chồng,

                Năm nầy tháng nọ trông mong mõi mòn !

        

        Lời thơ mộc mạc bình dân, cùng với tiếng ca truyền cảm điêu luyện của Lưu Thái Xuân dễ đi vào lòng người với các từ thông dụng như BẤT HỈ (không vui), SINH TĂNG (Đâm ra giận), KINH TUẾ hựu KINH NIÊN (Qua năm nầy đến năm khác)... dễ làm ray rức xúc động lòng người cô phụ trông chồng trong chốn phòng khuê lạnh lẽo, một thân một mình chiếc bóng lẻ loi. Oán trách chán rồi thì lại tự an ủi mình như lời thơ kỳ nhị :

 

                 借問東園柳,    Tá vấn đông viên liễu,

                 枯來得幾年。    Khô lai đắc kỷ niên ?

                 自恨枝無葉,    Tự hận chi vô diệp,  

                 莫怨太陽偏。    Mạc oán thái dương thiên.

  Có nghĩa :

            Dám hỏi mấy cây liễu ở vườn đông kia đã khô được mấy năm rồi ? (Thôi thì nên) chỉ tự hận cành nhánh của mình không ra nổi lá nữa, chớ đừng oán trách ánh nắng thiên lệch (không chịu chiếu vào mình nên lá mới mọc ra không nổi !). Hai câu cuối "自恨枝無葉 Tự hận chi vô diệp, 莫怨太陽偏 Mạc oán thái dương thiên" đã trở thành hai câu châm ngôn để tự an ủi mình khi gặp việc bất đắc ý như thi rớt, thất bại...

 

  Diễn Nôm :

                   

               Liễu kia ướm hỏi tường đông,

               Khô tàn đã trải mấy năm qua rồi ?

               Đành thôi tự hận cành còi...

               Trách chi ánh nắng thiệt thòi riêng ta !

 

       Oán trách rồi cam chịu, hờn mát rồi lại tự an ủi mình, vì có chồng thương lái nên đành phải chịu cảnh phòng không. Ngày ngày cứ đứng ngóng bên bờ sông mong mõi bóng chàng về như người cô phụ vọng phu, rồi lại nuối tiếc...

 

                莫作商人婦,    Mạc tác thương nhân phụ,

                金釵當卜錢。    Kim thoa đương bốc tiền.

                朝朝江口望,    Triêu triêu giang khẩu vọng,

                錯認幾人船。    Thác nhận kỷ nhân thuyền !

 Có nghĩa :

             Đừng làm vợ của các ông lái buôn, cứ phải rút cây trâm vàng đi làm tiền bói toán (xem coi bao giờ thì chàng mới trở về!). Cứ mỗi buổi sáng là lại đứng trông ngóng ở đầu sông và cứ mấy lượt nhận nhầm thuyền của người khác (mà cứ tưởng là thuyền của chồng mình về!).

 

   Diễn Nôm :

                   

                  Chớ làm vợ của lái buôn,

                  Trâm vàng bói toán thêm buồn tuổi xanh.

                  Ngày ngày trông ngóng bóng anh,

                  Nhận nhầm thuyền khác nên đành ngẩn ngơ !

 

      Đọc bài thơ ca nầy lại làm cho ta nhớ đến bài GIANG NAM KHÚC của LÝ ÍCH :

      

                   嫁得瞿塘賈,    Giá đắc Cù Đường cổ,

                   朝朝誤妾期。    Triêu triêu ngộ thiếp kỳ.

                   早知潮有信,    Tảo tri triều hữu tín,

                   嫁與弄潮兒。    Giá dữ lộng triều nhi !

   Có nghĩa :

                   Ai xui lấy lái Cù Đường,

                   Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương ưu phiền

                   Lớn ròng con nước thường xuyên

                   Phải dè lấy gả chèo thuyền cho xong !

 

                   

 

      Ta thấy, tình yêu nam nữ ở bất cứ thời đại nào cũng mãnh liệt vô cùng, tình yêu của nàng "thương lái" nầy rất thực tế, rất nhân bản, và cũng rất mãnh liệt...dám nói lên tiếng nói của con tim yêu đương cuồng nhiệt, chữ "Tảo tri" (sớm biết) là  "Phải dè" sớm biết trước, nước thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà trước kia lấy gã chèo đò cho xong ! Nhưng oán trách thì nói thế, chớ "ngu sao" lấy gả chèo đò.  Vì, nước thủy triều thì lên xuống đúng hẹn, nhưng "gả chèo đò" chưa chắc đã về nhà đúng hẹn đâu ( mắc "đi nhậu" chẳng hạn ...). "Oán" thì nói "lẫy" thế thôi, chứ lấy chồng thương buôn giàu có vẫn hơn là lấy anh chèo đò để uống nước sông... cầm hơi à ?!                        

 

      Trong một bài khác, sau khi chờ đợi mõi mòn thì người cô phụ trông chồng lại nằm nhà để "theo dõi bước anh đi", nhưng bước chân giang hồ vô định càng đi càng xa, phiêu bạt vô chừng như lời ca sau đây:

 

                那年離別日,    Na niên ly biệt nhựt,

                只道住桐廬。    Chỉ đạo trú Đồng Lư,

                桐廬人不見,    Đồng Lư nhân bất kiến,

                今得廣州書。    Kim đắc Quảng Châu Thư.

Có nghĩa :

                Ngày chia tay năm ấy, những tưởng là chàng  trú ngụ ở Đồng Lư. Nhưng sao có người đến Đồng Lư lại không gặp được chàng. Hôm nay nhận được thư chàng từ Quảng Châu gởi đến (mới biết là chàng lại đi càng xa hơn nữa, đến tận xứ Quảng Châu rồi !).

 

      Diễn Nôm :

                           

                           Chia tay hôm ấy năm kia,

                           Đồng Lư vẫn đợi chàng dìa bao năm.

                           Đồng Lư người vẫn bặt tăm,

                           Được thư mới biết ăn nằm Quảng Châu.

 

        Thấp thỏm đợi chồng về ngờ đâu chàng càng đi lại càng xa ! Biết này nào mới về lại cho đây? Chờ đợi rồi lại đợi chờ, "Ngày xuân mòn mõi má hồng phôi pha". Ngày qua tháng lụn năm tàn, người đi thì vẫn biền biệt phương trời, người ở lại cô phòng vẫn luôn khoắc khoải đợi mong đến đổi tóc đen đà hóa bạc :

 

              昨日勝今日,     Tạc nhật thắng kim nhật,

              今年老去年。     Kim niên lão khứ niên.

              黃河清有日,     Hoàng Hà thanh hữu nhật,

              白髮黑無緣。     Bạch phát hắc vô duyên !

   Có nghĩa :

             Hôm qua còn khá hơn hôm nay, năm nay thì lại già hơn năm qua.

             Nước sông Hoàng Hà còn có lúc trong, chớ tóc đã bạc rồi thì khó có

             cơ duyên gì làm cho đen lại được !

 

   Diễn Nôm :

                    

 

                     Hôm qua khá hơn hôm nay,

                     Năm nay gìa đến khó tày năm qua.

                     Có khi trong, nước Hoàng Hà,

                     Bơ phờ tóc bạc khó mà lại xanh !

 

        Lời hát của những bài VỌNG PHU CA sầu nhớ, áo não buồn thương lại được giọng ca thiên phú lảnh lót của Lưu Thái Xuân cất cao vang xa đến tận các khuê phòng làm cho những nàng cô phụ trông chồng không cầm được nước mắt nhớ thương, đến cả những lữ khách qua đường cũng phải ngẩn ngơ nhớ về nơi cố lý.

 

        Năm Công nguyên 823, đến trấn nhậm Thứ sử Việt Châu kiêm Chiết Đông Quan Sát Sứ là Nguyên Chẩn, một thi sĩ tài hoa đương thời đang ở độ tuổi 46, lại nổi tiếng là phong lưu bạc tình bậc nhất. Khi xem Lưu Thái Xuân diễn kịch và cất tiếng oanh vàng đã bị ngay tiếng sét ái tình mê mẩn và viết ngay một bài thơ "Tặng Lưu Thái Xuân 贈劉采春" ca ngợi nàng để tán tỉnh và tỏ lòng ái mộ :

 

               新妝巧樣畫雙蛾,    Tân trang xảo dạng họa song nga,

               謾裹常州透額羅。    Mạn khỏa Thường Châu thấu ngạch la.

               正面偷勻光滑笏,    Chính diện thâu quân quang hoạt hốt,

               緩行輕踏破紋波。    Hoãn hành khinh đạp phá văn ba.

               言辭雅措風流足,    Ngôn từ nhã thố phong lưu túc,

               擧止低回秀媚多。    Cử chỉ đê hồi tú mị đa.

               更有惱人腸斷處,    Cánh hữu não nhân trường đoạn xứ,

               選詞能唱"望夫歌"。  Tuyển từ năng xướng VỌNG PHU CA !

 

    Có nghĩa :

                    

 

                   Khéo tay trang điểm vẽ mày nga,

                   Phơ phất Thường Châu đẹp lụa là.

                   Điệu bộ thẳng ngay trông đĩnh đạc,

                   Gót hài yểu điệu lướt thu ba.

                   Lời từ văn vẻ phong lưu tuyệt,

                   Cử chỉ đoan trang nhã nhặn mà.

                   Cất giọng khiến người sầu đứt ruột,

                   Chọn từ nên khúc "Vọng Phu Ca"!

 

         Bài thơ vừa khen đào nương trang điểm đẹp, cử chỉ đoan trang thân hình yểu điệu, dáng vẻ phong lưu, lại biết soạn nên Vọng Phu Ca với lời ca thánh thoát làm xúc động lòng người... nên đã đánh động lòng của cô đào trẻ đẹp Lưu Thái Xuân. Vị quan lớn đa tình tài hoa đã khuấy động cuộc sống đang bình ổn an phận của nàng ca linh trên vùng sông nước. Nàng đã không cầm được lòng trước sự tỏ tình và cám dỗ của đối phương mà ngã vào vòng tay của Nguyên Chẩn, một tài tử đa tình nhưng chẳng chung tình chút nào cả. Nàng đã từ bỏ gia đình, chồng con, sông nước... mà về làm thiếp cho Thứ Sử Việt Châu Nguyên Chẩn.

 

        Năm Công Nguyên 829, Nguyên Chẩn được điều về Trường An, hồi triều để giữ chức Thượng Thư Tả Thừa. Bỏ lại Lưu Thái Xuân chờ đợi mõi mòn ròng rã suốt hai năm trường. Khi biết ra thì Nguyên Chẩn đã có người yêu khác là Linh Lung, một hồng nhan tì thiếp của Bạch Cư Dị. Thẹn với chồng với con, với đoàn ca kịch, với sông nước Giang Nam... Khoảng năm Công Nguyên 831, Lưu Thái Xuân đã nhảy xuống sông tự trầm để kết liễu đời mình khi chỉ mới hơn ba mươi tuổi, để lại một bài thơ tuyệt mạng như sau :

 

                聞道瞿塘顧堆懷,   Văn đạo Cù Đường cố đối hoài,

                高山流水近陽台。   Cao sơn lưu thủy cận Dương Đài.

                旁人哪得奴心事,   Bàng nhân nả đắc nô tâm sự,

                美景良辰永不回!   Mỹ cảnh lương thần vĩnh bất hồi !

     Có nghĩa :

                    
 

                    Nghe nói Cù Đường dạ xót xa,

                    Dương Đài non nước có đâu xa.

                    Người ngoài nào biết đâu lòng thiếp,

                    Cảnh đẹp thôi rồi chỉ thoáng qua !

 

        Thế là tàn một cuộc đời tài hoa, nhẹ dạ nên bị quyến rủ bởi lời ong tiếng ve của kẻ bạc tình ! Tội nghiệp thay cho thân phận của một ca nhi, suốt cả cuộc đời mang tiếng hát khóc thương cho số phận của những người thiếu phụ phòng không chiếc bóng mòn mõi đợi chồng về, cuối cùng, khóc cho người mà cũng khóc cho chính mình, khi kẻ bạc tình lang đã một đi không trở lại !...

DCD_NguyenChan.png

Hẹn bài viết tới: NGUYÊN CHẨN kẻ bạc tình nổi tiếng

 

 杜紹德

Đỗ Chiêu Đức

Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường (3) :  

 

                                                 LÝ  Dà 

DCD_Lyda.png

                                                 Nữ trung Thi Hào : LÝ DÃ

          

      LÝ DÃ 李冶 (730-784), tự là Qúi Lan 季蘭 (Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 ghi là TÚ LAN 秀蘭), người đất Ô Trình (thuộc Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang hiện nay). Bà là nữ thi nhân nổi tiếng trên thi đàn đời Đường lúc bấy giờ. Bà từ nhỏ đã có tài thi thơ, lớn lên được cha đưa vào đạo quán xuất gia làm đạo cô, về già được triệu vào cung. Năm Công Nguyên 784, vì từng làm thơ ca ngợi loạn tướng Chu Thử, bị Đường Đức Tông hạ lệnh dùng gậy loạn đả đến chết. Bà lưu lại chỉ khoảng 15-16 bài thơ, nhưng đều là những tuyệt tác, được Lưu Trường Khanh 劉長卿 là thi sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ gọi là Nữ Trung Thi Hào 女中詩豪.

 

     Theo "Đường Thi Kỷ Sự và Thái Bình Quảng Ký 唐詩纪事和太平廣記" ghi lại : LÝ DÃ dung mạo đẹp đẽ, thiên phú cực cao, từ rất nhỏ đã tỏ rõ thi tài. Năm 6 tuổi đã từng làm thơ vịnh hoa tường vi, trong đó có hai câu :

 

                經時未架却,    Kinh thời vị giá khước,

                心绪乱縱横。    Tâm tự loạn tung hoành.

  Có nghĩa :

                Đến kỳ chưa kịp làm giàn,

                Hoa đà nở rộ tràn lan khắp cùng.

 

               Hai câu thơ vịnh hoa tường vi nở sớm rất hay, lại bị ông cha hiểu lệch đi vì ba chữ VỊ GIÁ KHƯỚC 未架却 (Chưa kịp làm giàn) là hài thanh của ba chữ VỊ GIÁ KHƯỚC 未嫁却 (Chưa xuất giá), chưa lấy chồng mà tâm đã loạn bùng bung lên rồi. Nên mặc dù mừng vì tài thơ mẫn tiệp của con trẻ, nhưng lại lo buồn vì sợ con gái khi lớn lên sẽ không giữ được sự đoan trang trong phụ đạo. Vì cứ mãi ưu tư vô cớ như thế nên khi Lý Qúi Lan mới có 11 tuổi, thì ông cha đã đưa cô bé vào Ngọc Chân Quán để xuất gia làm đạo cô. 

 

      Mặc dù lớn lên với chiếc áo của nữ đạo sĩ, Lý Qúi Lan vẫn cởi mở phóng khoáng như một nam nhân, chẳng những giỏi về thơ văn, nàng còn tinh thông cả âm luật và giỏi về đàn cầm. Nàng giao du với những danh sĩ đương thời như Chu Phóng, Lục Vũ, Lưu Trường Khanh, Diêm Bá Quân và nhất là với nhà sư trẻ trung đẹp trai Thích Kiểu Nhiên... cùng nhau giao tình xướng họa gạt bỏ hết tỵ hiềm nam nữ thường tình của thế nhân, tất cả đều xem nàng như là một nữ trung hào kiệt.

 

     Trước tiên nàng gặp được danh sĩ Chu Phóng. Tài tử giai nhân nhất kiến chung tình, lúc đôi lứa đang mặn nồng thì Chu Phóng lại nhận chiếu chỉ đi làm quan xứ khác. Thương nhớ dâng tràn khiến hồn thơ cũng lai láng, Lý Qúi Lan đã viết nên những câu thơ nổi tiếng trong bài "Tương Tư Oán 相思怨" như sau :

 

                 人道海水深,    Nhân đạo hải thủy thâm,

                 不抵相思半。    Bất để tương tư bán.

                 海水尚有涯,    Hải thủy thượng hữu nhai,

                 相思渺無畔。    Tương tư miễu vô bạn.

 

     Có nghĩa :

DCD_LyDa_poem.png

                     Người đời bảo nước biển sâu,

                     Tương tư thương nhớ còn sâu bội phần.

                     Mênh mông biển rộng vô ngần,

                     Tương tư còn rộng mênh mông hơn nhiều !

 

       Nhưng từ xưa đến nay, đàn ông vốn dĩ bạc tình, Chu Phóng đã một đi không trở lại. Chính đang lúc Lý Qúi Lan đang đau khổ thất vọng ê chề, thì Lục Vũ xuất hiện như một cứu tinh cứu vớt trái tim đang tan vỡ của người đẹp. Vũ lại là ông thánh về bình phẩm trà đã đem lại nhiều điều mật ngọt cho nàng qua các lần thưởng thức trà bên câu thơ tiếng nhạc. Hai người luôn chung bóng chung đôi sớm tối có nhau, nhưng chàng Lục Vũ đẹp mã phong lưu quen thói kia, chỉ ấp yêu Qúy Lan chưa đầy hai tháng thì lại tìm đường quất ngựa truy phong, bỏ lại hồng phấn giai nhân trong mõi mòn trông đợi, đi tìm cũng không tìm gặp được như trong bài "Tầm Lục Vũ bất ngộ 尋陸羽不遇" (Tìm Lục Vũ không gặp) sau đây :

 

                叩門無犬吠,     Khấu môn vô khuyển phệ,

                欲去問西家.     Dục khứ vấn tây gia.

                報道山中去,     Báo đạo sơn trung khứ,

                歸来每日斜.     Quy lai mỗi nhựt tà !

  Có nghĩa :

                    Gỏ cửa không chó sủa người,

                   Láng giềng ướm hỏi người thời đi đâu ?

                   Đáp rằng vào tận núi sâu,

                   Chỉ về khi nắng xế đầu nghiêng tây !

 

      Lục Vũ cũng bỏ nàng mà đi rồi !...

 

      Nhưng lưới tình khó tránh, đạo cô trẻ đẹp tài hoa đã lại phải lòng một cao tăng cũng trẻ đẹp tài hoa như nàng, đó chính là Thích Kiểu Nhiên, cháu mười đời của danh sĩ Tạ Linh Vân, cũng là ông tổ khai sáng ra trà đạo Trung Hoa, rất giỏi về bình phẩm các loại trà, được người đời xưng tụng là Giang Đông Danh Tăng 江東名僧 (Nhà sư nổi tiếng của đất Giang Đông). Sau lần đầu hội ngộ thì Lý Qúi Lan như chạm phải tiếng sét ái tình và sau nhiều lần gợi ý không thành, nàng quyết định làm một bài thơ tỏ tình với nhà sư như sau :

 

               尺素如殘雪,    Xích tố như tàn tuyết,

               結為雙鯉魚。    Kết vi song lý ngư.

               欲知心裡事,    Dục tri tâm lý sự,

               看取腹中書。    Khán thủ phúc trung thư !

  Có nghĩa :

               

 

               Trang thư như tuyết trắng ngần,

               Kết đôi cá lý bâng khuâng gởi người.

               Nếu như muốn tỏ lòng ai,

               Xem trong bụng cá biết ngay lòng này !

 

      Xích Tố là Thư tín ngày xưa như tàn tuyết, chỉ chữ hiện lên trên giấy như tuyết trắng, và thiếp đã xếp nó lại thành hình 2 con lý ngư để gởi đến chàng ( theo tích lý ngư đưa thư) Nếu chàng muốn biết mối tình ở trong lòng thiếp thì hãy móc bụng ra mà xem thư sẽ rõ. Lời thơ vừa tỏ tình vừa khiêu khích vừa bộc bạch hết nỗi lòng qua các từ "Tâm Lý Sự" là chuyện trong lòng và "Phúc Trung Thư" là Thư ở trong bụng. Sư Kiểu Nhiên đọc thư đã hiểu tình ý của người bạn thơ ca muốn nói gì rồi, nhưng nếu từ chối thẳng thừng thì lại e làm tổn thương đến tấm chân tình của nữ sĩ. Nhà sư cũng bèn từ chối bằng một bài thơ kéo léo sau đây :

               

                天女來相試,    Thiên nữ lai tương thí,   

                將花欲染衣。    Tương hoa dục nhiễm y.

                禪心竟不起,    Thiền tâm cánh bất khởi,

                還捧舊花歸。    Hoàn phủng cựu hoa quy !

    Có nghĩa :

 

                Tiên trời đến thử ta chăng,

                Đem hoa đến nhuộm áo tăng bụi hồng.

                Lòng thiền gởi hết am không,

                Hoa xinh dâng lại tạ lòng người tiên !  

 

       Qủa là bậc cao tăng có khác ! Từ chối một cách hết sức khéo léo, không chạm tự ái và không làm bẻ mặt người đẹp. Nàng là tiên trên trời đến đây nói yêu ta, có phải là muốn thử đạo hạnh của ta chăng ? Chớ lòng thiền của ta thì đã gởi hết cho cửa không rồi, cho nên tình yêu như đóa hoa xinh của nàng ta xin được gởi lại cho nguyên chủ. Từ chối khéo léo tế nhị đến thế là cùng.

       

     Trải qua bao lần thất vọng thất ý trong tình trường, và cũng trải qua biết bao là nhân tình thế thái, Lý Qúi Lan đã chịu đựng và thể nghiệm được triết lý của cuộc sống qua bài thơ BÁT CHÍ 八至 sau đây :

 

                至近至遠東西,    Chí cận chí viễn đông tây,

                至深至淺清溪。    Chí thâm chí thiển thanh khê.

                至高至明日月,    Chí cao chí minh nhựt nguyệt,

                至親至疏夫妻。    Chí thân chí sơ phu thê !

   Có nghĩa :

                    Gần nhất xa nhất đông tây,

                    Cạn nhất sâu nhất nước đầy núi khe.

                    Sáng cao nhất nhựt nguyệt kia,

                    Vợ chồng thân nhất, chia lìa không quen !

 

                   Rõ thật mĩa mai ! Đông và Tây nói gần thì thật gần có thể sát bên nhau như tay phải tay trái vậy, nhưng nếu nói xa thì cũng thật rất là xa, một người ở bên đông, một người ở bên tây, "Quân tại Tương Giang đầu, Thiếp tại Tương Giang vĩ", Xa xôi cách trở biết bao. Như nước trong veo trong khe núi chảy ra, có thể nhìn thấy đá tận đáy khe, có thể rất sâu mà cũng có thể rất cạn. Trên đây là hai sự kiện "Có Thế".Còn hai sự việc "Hiển nhiên" là Mặt trăng mặt trời là cao nhất sáng nhất; còn Vợ Chồng là cặp đôi thân thiết nhau nhất, mà cũng xa lạ nhau nhất, như ông bà ta cũng đã nói "Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương !". Hai người xa lạ làm vợ chồng với nhau thì thân nhau nhứt trên đời; đến lúc li dị bỏ nhau, thì lại ghét hờn nhau thành người xa lạ cũng... nhất trên đời !

DCD_LydaLyQuyLan.jpg

                                             LÝ DÃ :  Lý Qúi Lan

 

      LÝ DÃ, Lý Qúi Lan là nàng thơ đẹp nhất giỏi nhất của đời Đường, nàng đã từng được Đường Huyền Tông Lý Long Cơ nghe tiếng triệu vào cung hơn một tháng khi đã qua tuổi bất hoặc (40 tuổi). Sau lại được Đường Đức Tông triệu vào cung khi đã quá tuổi năm mươi. Lúc Chu Thử làm loạn, Đường Đức Tông phải lưu vong, Lý Dã kẹt lại trong cung, bắt buộc phải xướng họa với Chu Thử. Khi Đường Đức Tông bình định được phản loạn trở lại kinh thành, biết được việc nàng có qua lại với Chu Thử, bèn nổi giận hạ lệnh cho loạn côn đánh chết nàng. Thế là một đời hồng nhan bạc bạc mệnh, tài sắc có thừa phải nát ngọc tan vàng một cách thê thãm trong cung cấm. Đáng thương thay !

 

      Xin được kết thúc bài viết về Nữ Trung Thi Hào LÝ DÃ ở đây. Hẹn bài viết tới : Nữ Trung Ca Linh LƯU THÁI XUÂN.

 

                                                                                             杜紹德

                                                                                        Đỗ Chiêu Đức

 

KHÔNG OÁN MÀ OÁN, OÁN MÀ KHÔNG OÁN!

                       

                    THIÊN TÂN KIỀU XUÂN VỌNG

                           天  津  橋  春  望

DCD_Oan.png

 UNG ĐÀO 雍陶(805—), tự là Quốc Quân, người đất Bì Đô, đậu Tiến Sĩ năm Đại Hòa. Ông từng giữ các chức vụ Thị Ngự Sử, Quốc Tử Mao Thi Bác Sĩ, Giản Châu Thứ Sử... Ông là bạn thơ của Trương Tịch, Vương Kiến, Giả Đảo ... thuộc phái Giang Hồ Quái Đản. Sống dưới đời Vãn Đường khi vận nước đã suy vi, xã hội ngày một xuống dốc, khi đi dạo đến bên cầu Thiên Tân, nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của cung điện ngày xưa, xúc cảnh sanh tình, nên ông đã rất cảm khái mà làm bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt bất hủ nầy.                       

 

      天津橋春望           THIÊN TÂN KIỀU XUÂN VỌNG

 

   津橋春水浸紅霞,    Tân kiều xuân thuỷ tẩm hồng hà,

   煙柳風絲拂岸斜。    Yên liễu phong ty phất ngạn tà.

   翠輦不來金殿閉,    Thuý liễn bất lai kim điện bế,

   宮鶯銜出上陽花。    Cung oanh hàm xuất Thượng Dương hoa.

                   雍陶                                               Ung Đào

DCD_ThienTanKieu.png

CHÚ THÍCH :

     THIÊN TÂN KIỀU 天津橋 : Cây cầu bắt ngang dòng Lạc Thuỷ từ đời Tuỳ Dương Đế, ở phía nam của thành Lạc Dương, kinh đô trước đây của nhà Đường, thường được gọi là Đông Đô.

     TẨM : là Ngâm Nước, là Chìm trong nước.

     HỒNG HÀ : là Ráng màu đỏ. Ở đây chỉ Ráng Chiều.

     PHẤT 拂 : Có bộ Thủ là Tay bên trái. Có nghĩa là PHỦI, như Phất Trần là Phủi bụi, nghĩa phát sinh là Phe Phẩy, Đong Đưa.

     THUÝ LIỄN : là Xe của Vua đi lại trong cung do dê kéo.

     HÀM : là Ngậm, ở đây nghĩa là THA.

     THƯỢNG DƯƠNG CUNG 上陽宮 : Là một trong những hành cung lớn đời Đường, nằm ở tây nam thành Lạc Dương, do Đường Cao Tôn Lý Trị xây dựng vào năm Càn Phong thứ 2 ( 667 ) . Lúc bấy giờ Lạc Dương là Đông Đô, vua ngự và nghe việc triều chính ở đây. Năm 705, khi bị Đường Trung Tôn ép phải thoái vị, Võ Tắc Thiên cũng ở cung này cho đến chết. Đường Huyền Tôn cũng từng làm yến tiệc lớn ở trong cung nầy. Nhưng sau loạn An Lộc Sơn  ( 755-763 ), Thượng Dương Cung bị tàn phá nghiêm trọng, về sau dần dà hoang phế, đến đời Đường Đức Tôn thì bỏ phế hẵn. UNG ĐÀO sanh năm 805, nên khi đi dạo đến đây thì Thượng Dương Cung đã bị bỏ phế lâu rồi !

 

NGHĨA BÀI THƠ :

 

                             NGẮM VẺ XUÂN TRÊN CẦU THIÊN TÂN

        Khi ta lên cầu Thiên Tân để ngắm vẻ xuân thì thấy ráng chiều đỏ thắm như in ở dưới nước. Tơ liễu như mây như khói theo gió đung đưa bên bờ sông trong ánh nắng chiều. ( Thiên nhiên của mùa xuân thì vẫn đẹp như thuở nào ) Nhưng... xe của Vua đã không còn ngự đến nữa, và điện vàng thì đóng kín im ỉm, những con chim oanh cũng bỏ cung mà tha cả những cánh hoa của Thượng Dương Cung bay ra ngoài !

 

        Thật cảm khái ! Mùa xuân thì cảnh vật mỗi năm vẫn thế, nhưng thời thịnh trị phồn vinh của nhà Đường thì một đi không trở lại ! Đọc bài nầy, làm ta lại nhớ đến những bài trước :

 

                  Đình thọ bất tri nhân khứ tận,              庭樹不知人去盡,

                  Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa !         春來還發舊時花。

                                  (Cây cỏ biết đâu người đi hết,

                                   Xuân về lại trổ những hoa xưa !)

   và ...

                  Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,       舊時王謝堂前燕,

                  Phi nhập tầm thường bách tính gia !      飛入尋常百姓家。

                                 (Trên rường Vương Tạ én ngày xưa,

                                  Đã bay hết cả vào nhà dân gian !).

 

        Chẳng những chim én, mà chim oanh cũng đã bỏ đi rồi, lại còn tha cả những đóa hoa của cung Thượng Dương ra ngoài nữa chớ !

 

        Một điều thật thú vị là ....

 

        Bài thơ nầy thường " bị " hiểu lầm là một bài thơ CUNG OÁN với cách giải thích như sau :

        Cảnh xuân đẹp bên cầu Thiên Tân với ráng chiều đỏ thắm, với liễu rũ như tơ ở hai bên bờ, làm cho nàng cung nữ chợt động tình xuân, nhưng xe vua không tới và điện vàng thì luôn khóa kín, khiến nàng càng tủi phận mình hơn khi thấy chim oanh tha một cánh hoa ra khỏi Thượng Dương Cung. Hoa còn được chim tha ra ngoài chớ thân phận cung nữ của mình biết ngày nào mới được giải thoát cho đây ?!

 

         Qủa là một sự hiểu lầm đầy thi vị !!!...

 

                    

 

  DIỄN NÔM :

                   NGẮM XUÂN BÊN CẦU THIÊN TÂN

 

                   Thiên Tân bóng nước ráng in hồng,

                   Tơ liễu mơ màng bên bến sông.

                   Chẳng thấy xe vua cung khóa kín,

                   Ngậm hoa oanh nọ vượt tường đông !

   Lục bát :

                   Nước xuân in bóng ráng chiều,

                   Bên cầu tơ liễu hiu hiu gió lùa !

                   Điện vàng khóa, vắng xe vua,

                   Thượng Dương hoa được oanh vừa tha ra !

                                                                          

                    

 

          Ta vừa đọc qua bài Thiên Tân Kiều Xuân Vọng của Ung Đào, một bài thơ hoài cổ cảm khái trước tang thương biến đổi, vật đổi sao vời mà làm nên, nhưng lại " bị " hiểu lầm là một bài thơ CUNG OÁN, còn bài thơ Thu Tịch của Đỗ Mục là một bài thơ CUNG OÁN thì lại rất ít người phát hiện ra cái OÁN của nó. Nên tôi mới đề tựa cho bài nầy là :  KHÔNG OÁN MÀ OÁN, OÁN MÀ KHÔNG OÁN !  Chuyện văn chương lắm lúc oái oăm, lắt léo mà lại thú vị vô cùng !

 

            Mời tất cả cùng đọc lại cả 2 bài thơ, so sánh nghiền ngẫm để cảm nhận cái hay ho sâu sắc mà lại rất nhẹ nhàng, thi vị của văn thơ !....

 

              

                秋夕                              THU TỊCH    

                       杜牧                                               Đỗ Mục

  銀燭秋光冷畫屏,   Ngân chúc thu quang lãnh họa bình

    輕羅小扇撲流螢。   Khinh la tiểu phiến phốc lưu huỳnh

    天街夜色涼如水,   Thiên giai dạ sắc lương như thủy

    臥看牽牛織女星。   Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .

 

 Chú thích :

           1. Ngân Chúc : Ngân là Bạc, ở đây là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc là đuốc. Hoa Chúc là Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây Đèn Cầy, Cây Nến. Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu trắng bạc.

            2. Họa Bình : là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà quyền quý thời xưa.

            3. Khinh La : Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là Vải The. Khinh La : là loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài " Khinh La Tiểu Phiến " : Là chiếc quạt con làm bằng lụa là của các tiểu thơ xưa thường cầm trên tay.

            4. Phốc : Là chụp bắt.

            5. Lưu Huỳnh : Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu Tinh : là Sao xẹt. Huỳnh : là con Đom đóm.

            6. Thiên Giai : Giai là con đường. Thiên Giai : không phải là đường ở trên trời, mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.

            7. Lương Như Thủy : là Mát như nước.

 

 Dịch nghĩa :

                                        ĐÊM THU

             Ánh sáng lung linh từ ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho tấm bình phong đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng phe phẩy chiếc quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang lặp lòe bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con đường của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm thanh vắng lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao Chức Nữ và Ngưu Lang.

 

Diễn nôm : 

                         

 

                       Lung linh nến trắng bình phong lạnh,

                       Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.

                       Lấp lánh sao trời trong như nước,

                       Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu .

       Lục bát :

                       Bình phong thu lạnh se se,

                       Quạt là nến trắng lặp lòe đóm bay

                       Trời thu như nước mát thay,

                       Ngưu Lang Chức Nữ đêm nay tương phùng !

 

                      

                                                                                               

              Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay lượn lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.... Rất bình dị và rất nên thơ  !  Có ai ngờ được đây lại là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé

 

          ... Ngọn bạch lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực rỡ, rõ ràng là cuộc sống của nhà quyền quý đế vương, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường trong Kinh thành , trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời ?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không !. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả thanh xuân, cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ? ! Duy chỉ có nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới ...

 

                  Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên  ....    mà thôi ! 

                                                                                             

            " Bách niên " mà chỉ gặp nhau vào đêm " Thất Tịch " hằng năm, thì có ai ao ước mà làm gì  !!!

 

          Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái " Oán " trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị. Phải chăng cái oán đeo đẳng miên man lâu dần nên đã hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một sự tự nhiên tội nghiệp ! Không như nàng cung nữ của Ôn Như Hầu :

 

                     ..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !... 

    Khi...   

                 Cái oán đã lên đến cực điểm và trở thành bạo động !      

DCD_ThuphapThuTichDCD.png

                  Thư pháp của Đỗ Chiêu Đức 杜紹德 với Bài thơ THU TỊCH.

 

                  Hẹn bài viết tới !

                                                                                              杜紹德

                                                                                           Đỗ Chiêu Đức

Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường (2):  

 

                                          NGƯ HUYỀN CƠ

DCD_NguHuyenCo.png

 Ngoài TIẾT ĐÀO 薛濤 được vinh xưng là "Đệ Nhất Nữ Thi Nhân Đời Đường" ra, ta còn có "Nữ Trung Thi Thánh NGƯ HUYỀN CƠ 魚玄機", "Nữ Trung Thi Hào LÝ DÃ 李冶" và "Nữ Trung Ca Linh là Cô Đào Ca Múa Giỏi LƯU THÁI XUÂN 劉彩春. 

 

* Nữ Trung Thi Thánh NGƯ HUYỀN CƠ : 

 

       NGƯ HUYỀN CƠ 魚玄機 (844-871), vốn tên là Ngư Ấu Vi 魚幼薇, tự là Huệ Lan 蕙蘭, sau khi xuất gia làm đạo cô mới đổi tên là Huyền Cơ 玄機. Theo Bắc Mộng Tỏa Ngôn và Đường Tài Tử Truyện thì Ngư Huyền Cơ xuất thân bần hàn, nhưng tính tình lại thông minh dĩnh ngộ, được sự chỉ dạy của cha, nên tinh thông kinh sách, thích thi ca, năm tuổi đã biết đọc thơ, bảy tuổi đã biết làm thơ và dung mạo thì lại rất xinh đẹp.

 

                          

       Năm Ngư Huyền Cơ lên mười tuổi. Một hôm đại thi sĩ lúc bấy giờ là Ôn Đình Quân 温庭筠 nghe tiếng nàng thông minh và giỏi thơ bèn tìm đến để thử tài. Nhân trên đường thấy cảnh liễu xuân lã ngọn bên bờ sông, bèn lấy đề tài "Giang Biên Liễu (Liễu ven sông)"để làm đề. Huyền Cơ trầm tư giây lát, bèn cất bút viết thành bài thơ Ngũ Ngôn Luật Thi như sau :

 

                 翠色連荒岸,    Thúy sắc liên hoang ngạn,

                 烟姿入遠樓。    Yên tư nhập viễn lâu.

                 影鋪秋水面,    Ảnh phô thu thủy diện,

                 花落釣人頭。    Hoa lạc điếu nhân đầu.

                 根老藏魚窟,    Căn lão tàng ngư quật,

                 枝低繫客舟。    Chi đê hệ khách chu.

                 蕭蕭風雨夜,    Tiêu tiêu phong vũ dạ,

                 驚夢復添愁。    Kinh mộng phục thiêm sầu !

  Có nghĩ

 

                     Nối liền sắc biếc bờ hoang ,

                     Dáng như sương khói bàng hoàng lầu xa.

                     Bóng soi gợn sóng thu ba,

                     Trên đầu ngư phủ la đà hoa rơi.

                     Rễ sâu hang cá chơi vơi,

                     Cành mềm rũ xuống buộc lơi con thuyền.

                     Sạt sào mưa gió trong đêm,

                     Giật mình thức giấc gợi thêm mối sầu !

 

         Bài thơ qúa hay ! Tả về hàng LIỄU bên bờ SÔNG, nhưng không có sử dụng từ LIỄU từ SÔNG nào cả. Ta đọc bài thơ trên bằng văn xuôi như sau sẽ rõ :"Một màu xanh biếc liền nhau bên bờ hoang vắng như sương như khói chạy dài cho đến tận các lâu đài xa xa. Bóng thì soi đầy trên mặt nước thu trong xanh, còn hoa trắng thì bay lả tả trên đầu người ngồi câu cá. Rễ thì ăn sâu đến tận hang của cá ở, còn cành thì vươn dài ra rũ thấp xuống như muốn buộc chặc lấy thuyền khách. Những đêm mưa gió lại sao sát sạt sào làm cho ai đó giật mình thức giấc và càng gợi thêm nỗi sầu". Qúa tuyệt vời ! Đầy một bụng thơ văn như Ôn Đình Quân cũng phải chịu là "Con bé tài thơ quá giỏi !". Từ cảm mến và cảm phục nhau qua thi thơ, mối tình "Chú Cháu" nảy sinh theo thời gian...

 

       Năm Đại Trung thứ 12 (858) Ngư Huyền Cơ đã là một tiểu mỹ nhân 14 tuổi, xinh đẹp vô cùng. Một lần Ôn Đình Quân từ Hồ Bắc trở về Trường An, cũng nhằm lúc các tân khoa Tiến sĩ mở hội đề thơ để ăn mừng. Ôn đưa Cơ cùng đến dự, sau khi các tân Tiến sĩ đã đề thơ xong, Ngư Huyền Cơ cũng lưu lại một bài thơ cảm tác "Du Sùng Chơn Quán Nam Lâu Đổ Tân Cập Đệ Đề Danh Xứ 游崇真觀南樓睹新及第题名處" (Dạo Đạo quán Sùng Chơn, nhìn nơi các tân khoa đề tên) như sau :

 

              雲峰满目放春晴,     Vân phong mãn mục phóng xuân tình,

              歷歷银钩指下生。     Lịch lịch ngân câu chỉ hạ sinh.

              自恨羅衣掩詩句,     Tự hận la y yễm thi cú,

              舉頭空慕榜中名。     Cử đầu không mộ bảng trung danh.

  Có nghĩa :

                    Núi mây trước mắt nắng chan hòa,

                    Móc bạc rành rành bút nở hoa.

                    Chỉ hận quần thoa thơ mất lối,

                    Đành thôi hâm mộ chẳng kêu ca !

 

                  
                        Du Sùng Chơn Quán Nam Lâu Đổ Tân Cập Đệ Đề Danh Xứ

 

       Bài thơ tỏ rõ chí khí cao ngạo và bất phàm của Ngư Huyền Cơ, chỉ hận là phận quần thoa không thể tham gia thi cử, nên đành hâm mộ suông mà thôi; Nếu cũng được dự thi thì trên bảng vàng bảng bạc đó, chắc cũng có tên của ta mà thôi ! Bài thơ của Ngu Huyền Cơ đã đánh động lòng của Tiến sĩ Trạng Nguyên năm đó là Lý Ức 李億. Rồi nhờ vào sự mai mối và kết hợp của Ôn Đình Quân, Lý đã cưới Ngư Huyền Cơ về làm thứ thiếp, vì Lý đã có vợ lớn ở nhà. Đây là khoảng thời gian trăng mật hạnh phúc nhất trong đời của Ngư Huyền Cơ, Lý đã đưa nàng cùng đến trấn nhậm ở đất Tấn Thủy thuộc Sơn Tây. Nơi đây non xanh nước biếc, cảnh trí hữu tình, rất thích hợp cho tài tử giai nhân cùng ngâm nga xướng họa. Nhưng... 

               

       Hồng nhan bạc mệnh, người vợ cả của Lý Ức không thể chịu được cảnh tình chàng ý thiếp ân ân ái ái của Lý và Huyền Cơ, nên tìm hết cách để đày ải dày dò nàng đủ mọi điều, không có được ngày nào yên thân. Cuối cùng, Lý đành phải an bày cho nàng vào ở trong một đạo am là Hàm Nghi Quán 咸宜觀 gần đó. Lúc bấy giờ Ngư Huyền Cơ chỉ mới có 16 tuổi, nàng đã viết những câu thơ thương nhớ chồng rất thắm thiết như sau :

 

                     楓葉千枝復萬枝,    Phong diệp thiên chi phục vạn chi

                     江橋掩映暮帆遲。    Giang kiều yễm ánh mộ phàm trì.

                     憶君心似西江水,    Ức quân tâm tự Tây giang thủy,

                     日夜東流無歇時。    Nhựt dạ đông lưu vô yết thì !

    Có nghĩa :

                         

 

                      Ngàn vạn cành phong vạn nhánh non,

                      Bên sông cầu vắng cánh buồm con.

                      Nhớ chàng lòng thiếp như sông nước,

                      Chảy mãi về đông chẳng mõi mòn.

     hay như...

                      朝朝送别泣花鈿,    Triêu triêu tống biệt khấp hoa điền,

                      折盡春風楊柳烟。    Chiết tận xuân phong dương liễu yên.

                      愿得西山無樹木,    Nguyện đắc tây sơn vô thọ mộc,

                      免教人作泪懸懸。    Miễn giao nhân tác lệ huyền huyền.

    Có nghĩa :

                      Ngày ngày đưa tiễn biếng cài trâm,

                      Bẻ hết liễu dương xuân biệt tăm.

                      Ước được núi tây không cản lối,

                      Để người khỏi phải lệ đầm khăn !

 

       Tình cảm nhớ thương tha thiết là thế, ươt át khắc khoải da diết là thế, nhưng những cánh thư đi cứ mãi biệt tăm. Suốt ba năm không một lần được hồi âm. Hỏi ra thì mới biết Lý Ức đã cùng gia đình thuyên chuyển đến Dương Châu ngoài ngàn dặm xa xôi để làm quan mất rồi. Thất vọng và đau khổ dày dò khơi dậy lòng căm phẫn bất cần đời của người con gái tài hoa. Nàng quyết định buông thả sống cuộc sống phóng túng và thụ hưởng để... thỏa mãn cuộc đời. 

DCD_NudaosiNguHuyenCo.png

                             Nữ đạo sĩ Ngư Huyền Cơ

 

       Trước đạo quán của mình, nàng treo một tấm bảng với hàng chữ "Ngư Huyền Cơ thi văn hậu giáo 魚玄機詩文候教" Có nghĩa : "Ngư Huyền Cơ đang đợi chỉ giáo về thơ văn". Tấm bảng vừa treo lên, thì tất cả những văn nhân thi sĩ lũ lượt kéo đến chật cả đạo quán. Ban ngày thì họ cùng uống trà đàm đạo, xướng họa văn thơ với người đẹp; Ban đêm thì bày tiệc tùng cùng nâng chén ngâm nga, làm thi làm phú với giai nhân đạo cô quốc sắc đa tài. Ai may mắn lọt vào mắt xanh thì được Huyền Cơ giữ lại qua đêm để cùng vui vầy cá nước. Cuộc sống buông thả trác táng trụy lạc đó cứ kéo dài mãi, đôi khi sau lúc trà dư tửu hậu, tàn tiệc người tan, nàng cũng tự thấy cảm thương mình :

 

                  自叹多情是足愁,     Tự thán đa tình thị túc sầu,

                  况当风月满庭秋。     Huống đương phong nguyệt mãn đình thu.

                  洞房偏与更声近,     Động phòng biến dữ canh thanh cận,

                  夜夜灯前欲白头。     Dạ dạ đăng tiền dục bạch đầu.

  Có nghĩa :

                  Than kiếp đa tình khéo lắm sầu,

                  Huống chi trăng gió lạnh màu thu.

                  Động phòng canh đã tàn hương sắc.

                  Đối bóng đêm đêm khiến bạc đầu !

 

  Hay như hai câu... 

                             殷勤不得语,   Ân cần bất đắc ngữ,

                             红泪一双流。   Hồng lệ nhất song lưu.

  Có nghĩa :

                            Ân cần không nói nên lời,

                     Lệ rơi thành máu song đôi chảy dài ...

 

       Cho đến một hôm...

       

       Ngư Huyền Cơ gặp lại thần tượng thi ca của mình lúc mới lớn Ôn Đình Quân 温庭筠. Mối "tình chú cháu" lại bùng phát mãnh liệt nhờ vào văn thơ. Ngư Huyền Cơ thương ông chú nầy vì Ôn là nhà thơ nhà từ kiệt xuất của buổi tàn Đường. Luận về dung mạo thì Ôn Đình Quân xấu đến không có người đàn ông nào xấu hơn được. Ôn có ngoại hiệu là Ôn Chung Quì 溫鍾夔 (Chung Quì là ông thần bắt ma qủi, có dung mạo rất xấu xí dữ dằn); còn luận về tuổi tác thì Ôn lớn hơn cơ đến hơn 30 tuổi. Thế mà người đẹp vừa trẻ trung vừa giỏi văn thơ lại đi yêu ông già vừa xấu vừa già là bởi vì đâu ? Truy nguyên thì cũng bởi do thơ văn mà ra; Thế mới biết sức hấp dẫn và quyến rủ của thi ca mãnh liệt biết là bao nhiêu ! Ta hãy đọc bài thơ KÝ PHI KHANH 寄飛卿 (Phi Khanh là tên tự của Ôn Đình Quân) sau đây để thấy Ngư Huyền Cơ yêu thương và mến phục Ôn Đình Quân như thế nào :

  

                  

 

              階砌亂蛩鳴,     Giai thế loạn cùng minh,

              庭柯烟露清。     Đình kha yên lộ thanh.

              月中鄰樂響,     Nguyệt trung lân nhạc hưởng,

              樓上遠山明。     Lâu thượng viễn sơn minh.

              珍簟凉風著,     Trân điệm lương phong trứ,

              瑶琴寄恨生。     Dao cầm ký hận sanh.

              稽君懒書札,     Kê quân lãn thư trát,

              底物慰秋情。     Đễ vật ủy thu tình ?!

  Có nghĩa :                

                 Trước thêm rỉ rỉ dế than,

                 Trong sân cây lá sương bàng bạc rơi.

                 Trong trăng tiếng nhạc lưng trời,

                 Lầu cao tỏ rõ núi đồi xa xa.

                 Chiếu chăn lạnh gió thu qua,

                 Dao cầm gởi hận quyện hòa đêm thâu.

                 Chàng Kê biếng nhác gởi thư,

                 Lấy gì giải tỏa tình thu canh chầy ?!

      

        Rõ khéo nói nịnh với "ông chú" vừa già vừa xấu, lại ví ông ta với Kê Khang là người đứng đầu trong Trúc Lâm Thất Hiền đời Tấn rất đẹp trai và rất giỏi về đàn; người đã được cụ Nguyễn Du khen là :

 

                    KÊ KHANG nầy khúc Quảng Lăng,

                 Một rằng lưu thuỷ hai rằng hành vân.

 

                   

                       Nếu không yêu thương và kính phục Ôn Đình Quân hết mực, thì không thể so sánh một cách thiên lệch mĩa mai như thế. Hai người cùng đến với nhau trong thi ca, qua thi ca họ quên hết tuổi tác xấu đẹp cùng hòa lòng vào nhau để thăng hoa cuộc sống thơ văn. Ôn Đình Quân đã để lại những bài thơ bất hủ như Thương Sơn Tảo Hành 商山早行 với các câu :

 

                   晨起動征鐸,    Thần khởi động chinh đạc,

                   客行悲故鄉。    Khách hành bi cố hương.

                   雞聲茅店月,    Kê thanh mao điếm nguyệt,

                   人迹板橋霜。    Nhân tích bản kiều sương...

  Có nghĩa :

                   Sớm mai lạc ngựa vang vang,

                   Lên đường lữ khách lòng càng nhớ quê.

                   Trăng tàn gà gáy não nề,

                   Cầu sương điếm cỏ người về nơi đâu !...

 

       Hai câu sau của bài thơ đã được cụ Nguyễn Du mươn để tả lúc Thúy Kiều trốn khỏi Quâm Âm Các của Hoạn Thư với cảnh trí và tâm trạng :

 

                   Mịt mù dặm cát đồi cây,

             TIẾNG GÀ ĐIẾM NGUYỆT, DẤU GIÀY CẦU SƯƠNG.

                  Canh khuya thân gái dặm trường,

                Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!

 

                 

 

       Còn Ngư Huyền Cơ thì để đời với 2 câu thơ gần như là cách ngôn trong bài thơ Tặng Lân Nữ 贈鄰女 (Tặng cô hàng xóm) là :

 

                   易求無價寶,   Dị cầu vô giá bảo,

                   難得有情郎。   Nan đắc hữu tình lang.

   Có nghĩa :

                     Dễ cầu vô gía ngàn vàng,

               Khó tìm được đấng tình lang chung tình !

 

       Cho thấy sự bạc tình của giới mày râu từ xưa đến nay vẫn thế ! "Vô giá bảo dễ cầu, Hữu tình lang khó được !". Ngư Huyền Cơ kết thúc cuộc đời mình khi chỉ mới có 27 tuổi, vì lở tay đánh chết một nữ tì thân cận tên Lục Kiều trong cơn ghen tức, lại bị quan Kinh Triệu là Ôn Chương, người đã từng một thời đeo đuổi theo Huyền Cơ mà không được nàng đáp lại, xử tử hình. 

 

                          

        Thế là kết thúc một cuộc đời tài hoa của một giai nhân bạc mệnh !

 

       Hẹn bài viết tới, Nữ Trung Thi Hào 女中詩豪: LÝ DÃ 李冶.

 

                                                                                  杜紹德

                                                                                Đỗ Chiêu Đức

Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường:  

 

                                               TIẾT ĐÀO

DCD_TietDao.png

                                               Đệ Nhất Nữ Tài Tử đời Đường

     

      Tiết Đào 薛濤 (768-832), tự là Hồng Độ 洪度, có bản ghi là Hoằng Độ 宏度, là nữ thi nhân, nhạc kỹ nổi tiếng đất Thành Đô (Tứ Xuyên). Cha là Tiết Vân 薛鄖, làm quan ở đất Thục. Tiết Đào cùng với thi nhân Vi Cao 韋皋 và Nguyên Chẩn 元稹 trải qua hai cuộc tình thắm thiết, và trong khoảng thời gian yêu đương nồng thắm nầy, Tiết Đào đã sáng chế ra một loại giấy hoa tiên màu hồng dùng để chép những bài thơ tình ướt át của  đôi lứa yêu nhau, gọi là Tiết Đào Tiên 薛濤箋 (Giấy hoa tiên có tên là Tiết Đào) nổi tiếng và truyền mãi cho 

đến hiện nay. Người đời sau xếp Tiết Đào 薛濤, Ngư Huyền Cơ 魚玄機, Lý Dã 李冶 và Lưu Thái Xuân 劉彩春 hợp xưng là "Tứ Đại Nữ Thi Nhân Đời Đường 唐代四大女詩人"; cùng với Trác Văn Quân 卓文君, Hoa Nhụy Phu Nhân 花蕊夫人 và Hoàng Nga 黄娥 hợp xưng là "Tứ Đại Nữ Tài Tử của Đất Thục 蜀中四大才女".

 

       

     Theo Danh Viện Thi Quy 名媛詩歸 ghi lại : Tiết Đào lúc tám chín tuổi đã biết làm thơ, rất thông minh và lại tinh thông âm luật. Một hôm, đang ngồi hóng mát với cha ở trung đình, ông cha bèn chỉ vào cây ngô đồng bên miêng giếng mà đọc rằng :

 

                    庭除一古桐,    Đình trừ nhất cổ đồng,

                    聳杆入雲中。    Tủng cán nhập vân trung..

Có nghĩa : 

                Trong sân cao ngất ngô đồng,

                Vương cao cành lá lẫn trong mây trời.

    

      Tiết Đào nghe xong, bèn đọc hai câu tiếp là :

 

                    枝迎南北鳥,   Chi nghinh nam bắc điểu,

                    葉送往来風.    Diệp tống vãn lai phong.

Có nghĩa :

                Lá thì theo gió lả lơi,

                Cành thì nam bắc rủ mời chim qua.

 

                Ông cha nghe xong rất ngạc nhiên cho tài thông minh nhanh nhạy của con gái, nhưng lại lắc đầu buồn bã vì ý thơ phóng túng buông thả, báo cho điềm xấu về cuộc đời của con gái sau nầy. Qủa nhiên, sau nầy cha mất sớm. Vì cuộc sống, nên mới 16 tuổi Tiết Đào đã trở thành danh kỹ nổi tiếng ở đất Trường An. Hai câu thơ của Tiết Đào hình thành thành ngữ "LÁ GIÓ CÀNH CHIM" trong tiếng Việt của ta. Khi tả cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu xanh, cụ Nguyễn Du cũng đã viết :

 

                           ...Biết bao bướm lả ong lơi

                     Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm

                             Dập dìu LÁ GIÓ CÀNH CHIM,

                    Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.

 

        Vào đời Đường lúc bấy giờ, tất cả các quan viên lớn bé đều xuất thân từ khoa cử, nên muốn lọt vào mắt xanh của các quan thì phải là các cô nàng chẳng những phải có nhan sắc mà còn phải có tài hoa nữa, và đây cũng chính là những ưu điểm vượt trội hơn người của Tiết Đào; những quan viên thi sĩ tài hoa như Bạch Cư Dị, Trương Tịch, Vương Kiến, Lưu Vũ Tích... đều tìm đến với nàng để xướng họa và nghe nàng đàn hát. Nàng đã sáng tác hơn 500 bài thơ với các văn nhân thi sĩ đó, nhưng phần nhiều đã thất tán, chỉ còn lưu lại cho hậu thế khoảng hơn 90 bài mà thôi.

 

                          

 

      Năm Trinh Nguyên thứ nhất (785), Trung Tư lệnh Vi Cao 韋皋 nhậm chức Kiếm Nam Tây Xuyên Tiết Độ Sứ. Trong tiệc rượu mừng có mời nhạc kỹ Tiết Đào đến giúp vui. Vi Cao muốn thử tài, mới ra một đề tài là  "đề Vu Sơn Miếu" nổi tiếng của nơi đó, và buộc Tiết Đào phải làm ngay một bài thơ trên tiệc rượu. Tiết Đào ung dung bày giấy mực và cất bút viết ngay một bài Thất ngôn Bát cú như sau :

 

      謁巫山廟                YẾT VU SƠN MIẾU

 

    亂猿啼處訪高唐,    Loạn viên đề xứ phỏng Cao Đường,

    路入烟霞草木香。    Lộ nhập yên hà thảo mộc hương.

    山色未能忘宋玉,    Sơn sắc vị năng vong Tống Ngọc,

    水聲猶是哭襄王。    Thủy thanh do thị khốc Tương Vương.

    朝朝夜夜陽台下,    Triêu triêu dạ dạ Dương Đài hạ,

    為雨為雲楚国亡。    Vi vũ vi vân Sở Quốc Vương (vong).

    惆悵廟前多少柳,    Trù trướng miếu tiền đa thiểu liễu,

    春来空鬥畫眉長。    Xuân lai không đấu họa mi trường.

 

Có nghĩa :

                

 

                 Cao Đường tiếng vượn bi thương,

                 Cỏ cây mây khói tỏa hương đón mời.

                 Núi nhìn Tống Ngọc nhớ người,

                 Suối tuôn róc rách bùi ngùi Tương Vương.

                 Dương Đài sớm tối yêu đương,

                 Mây mưa đánh đổ Sở Vương nước nhà.

                 Liễu bay trước gió la đà,

                 Đón xuân mày liễu dài ra mấy phần.

 

       Bài thơ nhắc đủ cả Cao Đường Phú của Tống Ngọc làm theo lệnh của Sở Tương Vương tả lại cảnh Cao Đường Thần nữ ở Dương Đài, sáng kéo mây chiều làm mưa đến khi nước Sở vong quốc. Bây giờ các hàng liễu trước miếu đến mùa xuân các lá liễu lại vươn dài ra như những chơn mày của người đẹp khoe đẹp khoe dài !

       Vi Cao đọc xong bài thơ, bèn dứng lên vổ bàn khen hay, nhìn nét chữ thanh tú rắn rỏi mường tượng như bút pháp Lan Đình của Vương Hi Chi, khiến Vi lại càng cảm mến, bèn chiêu nàng làm nữ tham quân trong phủ Tiết Độ Sứ. Tiết Đào đã tỏ ra rất đắc lực với những công việc được giao. Vi Cao lại dâng sớ về triều đình phong Tiết Đào làm Hiệu Thư Lang chuyên lo về việc công văn sổ sách. Mặc dù chỉ là một chức quan cửu phẩm nhỏ nhoi, nhưng đối với thời bấy giờ đã là một đăc ân rất lớn đối với nữ giới. Nên mọi người đều gọi nàng là "Nữ Hiệu Thư". Từ đó, Tiết Đào danh nổi như cồn, tất cả những người cần gặp hay cần nhờ cậy đút lót cho Tiết Độ Sứ đều nhờ đến Tiết Đào. Lâu dần, sự việc lỡ vỡ. Năm Trinh Nguyên thứ năm (789)Tiết Đào bị biếm đến Tòng Châu. Tòng Châu là vùng biên thùy phía tây nam của đất Thục. Nơi đây, dân cư thưa thớt, binh hoang mã loạn, đường núi vắng vẻ thê lương, khiến người đi đường luôn luôn phập phồng lo sợ. Tiết Đào rất hối hận ghi lại cảm giác sợ hãi của mình bằng những câu thơ sau đây :

 

               聞道邊城苦,    Văn đạo biên thành khổ,

               而今到始知。    Nhi kim đáo thỉ tri..

               羞将門下曲,    Tu tương môn hạ khúc,

               唱與隴頭兒。    Xướng dữ Lũng đầu nhi.

 

     Có nghĩa :

                    

 

                    Biên thùy nghe nói khổ thay,

                    Đem thân đày ải đến nay mới tường.

                    Thẹn đem khúc hát u buồn,

                    Hát cùng biên tái sầu thương những người !

 

       Lại viết nên THẬP LY THI 十離詩 (Mười Bài Thơ Ly Biệt) thật tội nghiệp đáng thương gởi ngược về cho Vi Cao. Cao đọc xong cảm động, tha tội và cho triệu nàng về phủ. Chính khoảng thời gian nầy Vi Cao mới thực sự chuôc nàng thoát ly khỏi thân phận Nhạc Kỹ 樂妓. Kể ra thì khoảng thời gian đem thân làm nhạc kỹ của Tiết Đào chỉ khoảng 4 năm, từ 15 đến 19 tuổi, nhưng cái tiếng Danh Kỹ (Kỹ nữ nổi tiếng) đã theo nàng suốt cả cuộc đời và mãi cho đến... hiện nay. Rõ là oan uổng ! Sau khi được giải thoát, Vi Cao cho nàng về ẩn cư ở Hoán Hoa Lý 浣花里, chỉ hầu tiếp khi cần thiết mà thôi.

 

      Tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ tư (809). Thi nhân Nguyên Chẩn 元稹 khi đường công danh đang thênh thang rộng mở, đến đất Tây Xuyên với thân phận của một Giám Sát Ngự Sử, nghe phương danh của Tiết Đào đã lâu, nên hẹn gặp nàng ở Tân Châu để thỏa lòng ao ước. Sau buổi gặp mặt, Tiết Đào đã bị ngay tiếng sét ái tình giáng phải trước chàng thi sĩ tài hoa kiêm Giám Sát Ngự Sử trẻ trung đẹp trai chỉ mới có 31 tuổi nầy. Ngọn lửa ái tình bùng cháy mãnh liệt trong lòng nàng, mặc dù nàng lớn hơn chàng đến mười tuổi, nhưng khi chàng ngỏ ý, thì nàng bèn lao vào vòng tay chàng như con thiêu thân bất chấp tất cả. Sau đêm gặp gỡ, nàng đã viết nên một bài thơ "Trì Thượng Song Điểu 池上雙鳥" (Đôi chim trên ao) ướt át gợi tình như một cô gái đang xuân để bày tỏ tấm chân tình của mình :

 

                雙栖綠池上,      Song thê lục trì thượng,

                朝暮共飛還。      Triêu mộ cộng phi hoàn.

                更忙将趨日,      Cánh mang tương xu nhật,

                同心蓮葉間。      Đồng tâm liên diệp gian.

  Có nghĩa :

                    

 

                    Song đôi liền cánh trên ao,

                    Sáng chiều chắp cánh bay vào bay ra.

                    Vội vàng ngày thoáng trôi qua,

                    Giữa hồ sen biếc giải là đồng tâm. 

 

       Cả hai đều mê mẩn đắm chìm trong tình yêu cuồng nhiệt của tài tử giai nhân, cùng dạo chơi bên dòng Cẩm Giang trong xanh hữu tình, cùng nhau sáng chiều ngắm "Thục giang thủy bích Thục sơn thanh 蜀江水碧蜀山青", tình chàng ý thiếp cùng đắm đuối trong non xanh nước biếc. Đây là khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời của Tiết Đào, nhưng hạnh phúc lại chẳng dài lâu, chỉ vỏn vẹn đến với nàng trong 3 tháng. Vì tháng 7 năm đó, chàng Giám Sát Ngự Sử Nguyên Chẩn lại được lệnh vua điều đến Lạc Dương.

       Tiết Đào vô cùng thất vọng, nàng như hụt hẫng khi hạnh phúc vuột khỏi tầm tay. Cũng may là sau đó ít lâu thì lại nhận ngay được thơ của Nguyên Chẩn tỏ tình lưu luyến nhớ thương. Cứ thế tình yêu của lứa đôi tuy xa cách phương trời, nhưng lại được trải lòng trên những câu thơ trăm nhớ ngàn thương của thư đi tin lại. Chính thời gian nầy Tiết Đào đã nghĩ ra việc sáng chế một mẫu giấy chỉ đủ để chép một bài thơ cho gọn đẹp, vì nàng chuyên về sáng tác thơ tuyệt cú. Tiết Đào thiết kế ra mẫu giấy hoa tiên được nhuộm hồng để chép thơ tình cho thiết tha lãng mạn, rồi đưa cho những hãng giấy ở địa phương sản xuất ra hàng loạt, rất được các tài tử giai nhân sính thơ lúc bấy giờ rất ái mộ, gọi loại giấy để chép thơ tình đó là TIẾT ĐÀO TIÊN 薛濤箋 và sáng chế nầy còn lưu truyền mãi cho đến hiện nay.

       Nhưng hồng nhan đa truân, cũng khó trách Nguyên Chẩn tuổi trẻ quan cao, lại đang lúc thanh vân đắc ý; còn Tiết Đào chẳng những lớn hơn chàng mười tuổi, lại còn là một nhạc kỹ xuất thấn giữa chốn phong trần. Nên dần dà, tin nhạn thưa dần rồi bặt hẵn, và người thì biền biệt phương trời, khó mong có ngày trở lại. Tiết Đào chỉ đành gởi gắm tình yêu của mình qua thơ nhạc mà thôi. Ta hãy cùng đọc bài thơ sau để cảm thông cho tình yêu tha thiết của nữ thi nhân đa tài nhưng bạc mệnh nầy :

 

       春望词                      XUÂN VỌNG TỪ

花开不同赏,花落不同悲。  Hoa khai bất đồng thưởng, Hoa lạc bất đồng bi.

欲问相思处,花开花落时。  Dục hướng tương tư xứ,    Hoa khai hoa lạc thì.

揽草结同心,将以遗知音。  Lãm thảo kết đồng tâm,    Tương dĩ di tri âm.

春愁正断绝,春鸟复哀吟。  Xuân sầu chánh đoạn tuyệt,Xuân điểu phục ai ngâm.

风花日将老,佳期犹渺渺。  Phong hoa nhựt tương lão, Giai kỳ do miễu miễu.

不结同心人,空结同心草。  Bất kết đồng tâm nhân,    Không kết đồng tâm thảo.

那堪花满枝,翻作两相思。  Na kham hoa mãn chi,      Phiên tác lưỡng tương ti.

玉箸垂朝镜,春风知不知。  Ngọc trữ thùy triêu kính, Xuân phong tri bất tri ?!

 

            

 

Có nghĩa :

                      BÀI TỪ NGÓNG XUÂN 

 

                 Không cùng chung ngắm hoa xuân,

                 Hoa rơi hoa tạ cũng không chung cùng.

                 Nhớ nhau những phút tương phùng,

                 Hoa tươi hoa héo không cùng bên nhau.

                 Đồng tâm cọng cỏ xưa trao,

                 Tri âm biết có khi nào nhớ mong ?

                 Sầu xuân mãn kiếp con tằm,

                 Chim xuân khản tiếng hót ngâm tình sầu.

                 Gió đưa hoa rụng về đâu,

                 Giai kỳ biết đến khi nào gặp đây ?

                 Đồng tâm người ở chân mây,

                 Đồng tâm cỏ kết còn đây rành rành.

                 Hoa xuân giờ lại đầy cành,

                 Lòng xuân đôi đứa lại đành đôi nơi.

                 Sáng soi gương luống lệ rơi,

                 Gió xuân ở tận phương trời biết chăng ?!

        

       Chờ đợi mõi mòn trong tuyệt vọng, cuối cùng vì niên kỷ ngày càng một cao, Tiết Đào đành cởi đi hồng quần mà mình rất thích mặc, để thay vào một bộ đồ của đạo cô màu xám. Mặc cho xe ngựa vẫn rộn ràng bên Hoán Hoa Khê nơi nàng ẩn cư, Tiết Đào vẫn cố giữ cho lòng thanh thản cam phận với số kiếp hẫm hiu của một nữ đạo cô. Nhưng cuối cùng nàng cũng rời khỏi Hoán Hoa Khê để dời về Bích Kê Phường, dựng lên một tòa Ngâm Thi Lâu (Lầu thơ để ngâm nga) để sống hết những ngày còn lại.

      Khi Tể Tướng Đoàn Văn Xương đãm nhiệm chức Tây Xuyên Tiết Độ Sứ, có lần khi du ngoạn một ngôi cổ miếu là Võ Đãm Tự 武担寺 ở địa phương, có nhã ý mời Tiết Đào cùng đi dạo. Lúc bấy giờ Tiết Đào đã ngoài 50 tuổi lại mang bệnh trầm kha nằm liệt giường, nên không thể cùng đi được, mới làm một bài thơ từ khước như sau :

 

          

 

         消瘦翻堪见令公,    Tiêu xú phiên kham kiến lệnh công,

         落花无那恨东风。    Lạc hoa vô nả hận đông phong.

         侬心犹道青春在,    Nồng tâm do đạo thanh xuân tại,

         羞看飞蓬石镜中。    Tu khán phi bồng thạch kính trung.

Có nghĩa :

                Ốm đau không thể gặp ông,

                Đành lòng hoa rụng gió đông khó cầm.

                Nhủ thầm nếu vẫn thanh xuân,

                Thẹn vì tóc đã rối bùng trong gương !

 

       Đọc xong bài thơ trên Đoàn văn Xương vô cùng thương cảm, thương cho số phận của một nữ sĩ đa tài đã đến tuổi về chiều lại vương nhiều tật bệnh. Cho nên, đến mùa hạ của năm Đại Hòa thứ sáu (832), khi Tiết Đào trút hơi thở cuối cùng yên lòng nhắm mắt, thì chính tay của Tể Tướng Đoàn Văn Xương đã đích thân viết mộ chí cho nàng :"Tây Xuyên Nữ Hiệu Thư Tiết Đào Hồng Độ Chi Mộ 西川女校书薛涛洪度之墓".

       

      Mười sáu tuổi đã phải luân lạc vào kỹ viện làm nhạc kỹ, nhưng nhờ tài hoa xuất chúng Tiết Đào đã tạo cho mình một chỗ đứng trong thi đàn đời Đường, sánh ngang hàng với các thi nhân nổi tiếng đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích, Trương Hỗ, Trương Tịch, Nguyên Chẩn... Người đời sau đã xếp Tiết Đào đứng đầu trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân đời Đường" là TIẾT ĐÀO, LÝ DÃ, NGƯ HUYỀN CƠ và LƯU THÁI XUÂN. Hiện mộ Tiết Đào được xây trong Vọng Giang Lâu của Thành Đô (thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) trong rừng thúy trúc, bên mộ có trồng hoa đào để nhắc nhở đến màu hồng phấn trên giấy hoa tiên có tên là TIẾT ĐÀO TIÊN. Bên dòng sông Cẩm Giang của Hoán Hoa Lý có một cái giếng, tương truyền là Tiết Đào đã lấy nước trong giếng đó để tạo ra giấy Tiết Đào Tiên, nên cái giếng đó được đặt tên là TIẾT ĐÀO TỈNH 薛濤井 (Giếng Tiết Đào). Dân chúng lại lấy nước giếng đó để cất thành rượu, uống rất ngon, gọi là TIẾT ĐÀO TỬU 薛濤酒.

 

                     Nói chung, vì mến mộ tài hoa kiệt xuất của người nữ thi nhân đa tài đa truân và phận bạc, nên mới có GIẾNG TIẾT ĐÀO và RƯỢU TIẾT ĐÀO sau nầy. Chỉ có "Giấy Hoa Tiên Tiết Đào" là do chính Tiết Đào sáng tạo ra mà thôi. Hiện nay bên Vọng Giang Lâu còn có TIẾT ĐÀO KỶ NIỆM QUÁN 薛濤紀念館, trong đó có tượng của Tiết Đào tay cầm thi quyển, mặt nhìn về hướng Cẩm Giang.

 

                     Trên đây là các giai thoại và cuộc đời nữ thi nhân nổi tiếng nhất đời Đường : TIẾT ĐÀO 薛濤. Trong bài viết tới ta sẽ lần lượt điểm qua 3 nữ thi nhân nổi tiếng còn lại : NGƯ HUYỀN CƠ 魚玄機, LÝ Dà李冶 và LƯU THÁI XUÂN 劉彩春.

DCD_4MyNhan.png

TIẾT ĐÀO 薛濤, NGƯ HUYỀN CƠ 魚玄機, LÝ Dà李冶 và LƯU THÁI XUÂN 劉彩春.

 

                                                                                           Đỗ Chiêu Đức

                                                                                          Biên dịch 2020

            THƠ DÂNG HIỀN MẪU

 

THƠ NGÀY TỪ MẪU

 

Nhớ hoài nét mặt mẹ hiền hiền,*

Thao thức canh trường kẻ khổ miên.*

Hôm sớm tảo tần buôn lại bán,

Sáng chiều tất tả xuống rồi lên.

Ra vào chiu chắt con thơ dại,

Xuất nhập lo toan gia đạo hên.

Giáo tử tướng phu đều quán xuyến,*

Mẹ là từ mẫu cỏi thần tiên!

 

TÌNH MẸ NẶNG OẰN KIẾP TÁI SINH

 

Tình mẹ nặng oằn kiếp tái sinh,

Luân hồi mãi vẫn nhớ ân tình.

Công cha vòi cọi như non Thái,

Nghĩa mẹ rạng ngời tựa chúng tinh.*

Chín tháng cưu mang nên dáng vóc,

Ba năm bú mớm tạo hài hình.

Kiếp nầy khó đáp công sinh dưỡng,

Tình mẹ nặng oằn kiếp tái sinh!

 

                                Đỗ Chiêu Đức

                                Lễ Mẹ 2020

 

* - Bài học thuộc lòng Lớp Đồng Ấu ngày xưa :

              Ai khó nhọc liên miên ?

              Ai hòa nhã vô biên ?

              Ấy chính người mẹ qúy,

              Với nét mặt hiền hiền !

  -  Khổ miên 苦眠 là Khó ngủ.

  - Tướng phu giáo tử 相夫教子 : Giúp đỡ chồng và nuôi dạy con cái.

  - Chúng tinh 眾星 hay Quần tinh 群星 đều chỉ Các vì sao trên trời.

Mạn đàm :

                             

                               THƠ ĐƯỜNG VẦN TRẮC

DCD_ThoDuongVantrac.jpg

 

Thường nói đến gieo vần là người ta nghĩ ngay đến Vần Bằng. VẦN là những chữ những từ có  âm điệu, âm sắc và âm vận giống nhau như SA, GIA, HOA trong bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt "BẠC TẦN HOÀI 泊秦淮" của chàng thi sĩ lạc phách phong lưu đa tình của buổi Tàn Đường Đỗ Mục 杜牧 :

 

                      煙籠寒水月籠沙,   Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung SA,

                      夜泊秦淮近酒家。   Dạ bạc Tần Hoài cận tửu GIA.

                      商女不知亡國恨,   Thương nữ bất tri vong quốc hận,

                      隔江猶唱後庭花。   Cách giang do xướng Hậu Đình HOA.

Có mghĩa :  

                        

 

                      Khói mờ nước lạnh cát trăng nhòa,

                      Đêm ghé Tần Hoài cạnh tửu gia.

                      Ca kỷ biết đâu hờn mất nước,

                      Cách sông còn hát Hậu Đình Hoa ! 

 

        Đó là cách gieo vần của các bài Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Tứ Tuyệt mà cụ Nguyễn Du đã nói trong Truyện Kiều khi chị em Thúy Kiều đi du xuân Đạp Thanh nhân tiết Thanh Minh, trước mả Đạm Tiên cô Kiều đã :

                                     Rút trâm sẵn vắt mái đầu,

                               Vạch da cây vịnh BỐN CÂU BA VẦN.

 

        Không "Bốn câu ba vần" thì "Bốn câu hai vần" nghe vẫn êm tai như thường. Như bài "Ức Đông Sơn" của Thi Tiên Lý Bạch sau đây :

 

                           不向東山久,       Bất hướng Đông sơn cữu,

                           薔薇幾度花?       Tường vi kỷ độ HOA ?

                           白雲還自散,       Bạch vân hoàn tự tán,

                           明月落誰家?       Minh nguyệt lạc thùy GIA ?

Có nghĩa :

                          Đông Sơn lâu không đến,

                          Mấy độ tường vi PHAI?

                          Mây trắng còn tan biến,

                          Trăng vàng rụng nhà AI ?!

   Lục bát :

                          Đông Sơn lâu qúa không QUA,

                      Tường Vi mấy độ hoa ĐÀ phôi PHAI.

                          Ngẩn ngơ mây trắng còn BAY,

                     Trăng vàng rụng xuống nhà AI đêm này ?!

 

        Ta thấy, vần BẰNG êm tai là thế, du dương là thế, gợi cảm là thế !... Nhưng trong thi ca, thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp những bài thơ gieo vần TRẮC, đọc lên nghe "Trúc trắc" chói cái lổ tai, nhưng vẫn có cái âm  điệu độc đáo riêng của nó. Ta hãy nghe thử âm điệu bài thơ "Giang Tuyết 江雪" của Liễu Tông Nguyên 柳宗元sau đây sẽ rõ :

 

                       千山鳥飛絕,    Thiên sơn điểu phi TUYỆT,

                       萬徑人踪滅。    Vạn kính nhân tung DIỆT.

                       孤舟簑笠翁,    Cô chu toa lập ông,

                       獨釣寒江雪。    Độc điếu hàn giang TUYẾT !

Có nghĩa :

                        

 

                       Ngàn núi chim bay MIẾT,

                       Muôn lối bóng người TUYỆT.

                       Thuyên côi một lão ông,

                       Buông cần trên sông TUYẾT !

   Lục bát :

                       Chim bay về núi hết rồi,

               Đường mòn muôn lối bóng người bặt tăm.

                       Thuyền côi áo lá ngư ông,

                Buông cần một bóng trên sông tuyết mù !

 

      Ba âm TUYỆT, DIỆT, TUYẾT khô khan cộc lốc lạnh lẽo như trời đông giá tuyết ! nêu bậc được cảnh trí độc đáo lạnh lùng vắng vẻ của trời đông tuyết giá trên sông, làm ta lại nhớ đến...

 

                                        Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, 

                                        Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...

 

 của cụ Nguyễn Khuyến. Ai bảo thơ vần TRẮC không nên thơ, không gợi cảm đâu ? Thơ VẦN TRẮC hay theo kiểu VẦN TRẮC ! Nhưng, lại nhưng, luật thơ Đường, Luật chính quy lại không chấp nhận thơ Vần Trắc là thơ CHÍNH LUẬT, mà lại liệt vào hàng thơ Cổ Phong CỔ THỂ. Theo như tài liệu tham khảo trên mạng thì...

 

      Cơ bản mà nói, cho đến trước mắt vẫn chưa có tài liệu văn bản nào quy định là "Thơ Đường luật không thể gieo vần TRẮC". Nhưng căn cứ vào tất cả tư liệu về Đường Thi trước mắt, thì rất hiếm có một bài thơ Đường Luật nào của đời Đường mang vần TRẮC cả, thường thì những câu thơ "Đúng Luật Bằng Trắc" xa cạ xen lẫn những câu "Thất Luật" trong cùng một bài thơ, nên có người xếp NÓ vào thơ Đường Luật, có người xếp NÓ vào thơ "Cổ Phong".

      Sự phân biệt giữa thơ Đường Luật và thơ Cổ Phong không phải căn cứ ở chỗ gieo VẦN TRẮC hay VẦN BẰNG, cũng không phải xem SỐ CHỮ trong câu thơ, mà là căn cứ vào LUẬT BẰNG TRẮC TRONG TỪNG CÂU THƠ có đúng với "Cách Luật" hay không, nếu đúng thì là THƠ LUẬT, còn nếu không đúng thì là thơ CỔ PHONG.

 

      Căn cứ theo tài liệu nghiên cứu của Vương Lực 王力, một học giả cận đại chuyên nghiên cứu về Luật Thi đời Đường thì :"Thơ Đường luật đời Đường, mặc dù có những tác phẩm gieo vần trắc, nhưng rất ít. Một ít tác phẩm thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt và Ngũ ngôn luật thi, còn Thất ngôn tuyệt cú và Thất ngôn luật thì lại càng hiếm thấy. Đại bộ phận Ngũ ngôn tuyệt cú đều được xếp vào "Ngũ Ngôn Cổ Phong", nên thơ gieo "Vần Trắc" đều được liệt vào nhóm "Cổ Thể Thi". Theo học giả Vương Lực thì :

 

      "Thơ Chính luật Đường Luật lấy VẦN BẰNG làm chính, còn VẦN TRẮC thì giống như thơ Cổ Phong. Ta phân biệt chúng bằng cách căn cứ vào LUẬT BẰNG TRẮC trong một câu thơ làm tiêu chuẩn". Theo như mẫu BẰNG TRẮC dưới đây :

 

   * NGŨ NGÔN :               

                 1.仄仄平平仄      T T B B T

                 2.仄仄仄平平      T T T B B

                 3.平平平仄仄      B B B T T

                 4.平平仄仄平      B B T T B

   * THẤT NGÔN :

                 1. 平平仄仄平平仄    B B T T B B T

                 2. 平平仄仄仄平平    B B T T T B B

                 3. 仄仄平平平仄仄    T T B B B T T

                 4. 仄仄平平仄仄平    T T B B T T B

 

     Cụ thể như bài "Tầm Ẩn Giả Bất Ngộ" (Tìm người ở ẩn không gặp) của nhà Thơ Giả Đảo 賈島的尋隐者不遇 đời Đường như sau : 

 

               松下问童子,Tùng hạ vấn đồng TỬ,    平仄仄平仄   BTTBT    sai luật câu

               言师采药去。Ngôn sư thái dược KHỨ. 平平仄仄仄   BBTTT    sai luật câu

               只在此山中,Chỉ tại thử sơn trung,    仄仄仄平平   TTTBB    đúng luật câu

               云深不知处。Vân thâm bất tri XỨ.      平平仄平仄   BBTBT    sai luật câu

Có nghĩa :

                  
 

                    Dưới tùng hỏi đồng TỬ,

                    Sư hái thuốc đâu HỬ ?

                    Chỉ ở trong núi nầy,

                    Mây mù sao thấy CHỨ ?!

   Lục bát :

                    Dưới rặng thông, hỏi tiểu đồng,

               Rằng sư hái thuốc lòng vòng đâu đây.

                    Quẩn quanh trong ngọn núi nầy,

               Mây mù khuất lắp bóng thầy thấy đâu !

 

     Nếu kể theo Luật Thi thì bài thơ trên vừa "Thất Niêm" vừa "Thất Luật", nên phải được liệt vào nhóm các bài thơ "Cổ Phong". Sau đây là bài VỌNG NHẠC (Ngắm núi) của Thi Thánh Đỗ Phủ 又如杜甫的《望岳》:

 

 岱宗夫如何? Đại tông phù như hà ?        仄平平平平    TBBBB      sai luật câu         齐鲁青未了。 Tề Lỗ thanh vị liễu.            平仄平仄仄    BTBTT       sai luật câu

  造化钟神秀, Tạo hóa chung thần tú,      仄仄平平仄    TTBBT       đúng luật câu

  阴阳割昏晓。 Âm dương các hôn hiểu.     平平仄平仄    BBTBT      sai luật câu

  荡胸生层云, Đảng hung sanh tằng vân,  仄平平平平    TBBBB      sai luật câu

  决眦入归鸟。 Quyết tí nhập quy điểu.      仄仄仄平仄    TTTBT       sai luật câu

  会当凌绝顶, Hội đương lăng tuyệt đĩnh, 仄平平仄仄     TBBTT      sai luật câu

  一览众山小。 Nhất lãm chúng sơn tiểu.   仄仄仄平仄     TTTBT      sai luật câu

Có nghĩa :

                     

 

                       Thái Sơn đẹp ra sao ?

                       Tề Lỗ xanh khôn nói.

                       Tạo hóa kết xinh tươi,

                       Âm dương chia sáng tối.

                       Lòng tợ mây trắng trôi,

                       Chim như bay lạc lối.

                       Quyết lên tận đĩnh cao,

                       Dưới thấp muôn ngàn núi !

    Lục bát :

                       Thái Sơn đẹp biết dường bao !

                    Xanh tươi Tề Lỗ ngạt ngào cỏ hoa.

                       Khéo thay con tạo nguy nga,

                    Âm dương sáng tối nam qua bắc về.

                       Chập chùng mây trắng tư bề,

                   Chim bay mõi cánh đi về phương nao.

                       Cố lên tận đĩnh non cao,

                  Cúi trông ngàn núi khác nào dưới chân     

 

        Ông Thánh làm thơ, mặc dù đối rất chỉnh, nhưng nếu kể là Luật Thi thì vẫn "Thất Niên Thất Luật" như thường, nên bài thơ trên phải được kể là thơ "Cổ Phong" chứ không phải "Ngũ Ngôn Luật Thi".

 

      Lại như bài kệ VÔ MÔN QUAN của Tuệ Khai Thiền Sư đời Tống 宋.慧開禪師《無門關》như sau :

 

          春有百花秋有月, Xuân hữu bách hoa thu hữu nguyệt,    BTTBBTT   Sai luật

          夏有涼風冬有雪; Hạ hữu lương phong đông hữu tuyết.   TTBBBTT   Đúng luật

          若無閒事掛心頭, Nhược vô nhàn sự quải tâm đầu,         TBBTTBB   Sai luật

          便是人間好時節。 Tiện thị nhân gian hảo thời tiết.           TTBBTBT   Sai luật

Có nghĩa :

                        Xuân có trăm hoa thu có nguyệt,

                        Hạ thì gió mát đông thì tuyết.

                        Nếu không vướng mắc truyện trong lòng,

                        Nhân gian bốn mùa nào cũng tuyệt !

  Lục bát :

                        Xuân hoa thu nguyệt lẽ thường,

                    Hạ thì gió mát đông thường tuyết rơi.

                        Nếu lòng thanh thản thảnh thơi,

                      Bốn mùa thời tiết tuyệt vời kể chi !

 

      Ba câu trên còn giữ được "Nhị tứ lục phân minh", câu bốn thì bỏ luôn " Nhị tứ lục" và bài kệ cũng Thất cả Niêm. nên chỉ kể là Cổ Phong chứ không kể là "Thất Ngôn Tứ Tuyệt". 

 

      Lại như bài Thất ngôn bát cú "Ý TỰ" của Hàn Ốc 韩偓的《意绪》đời Đường :

 

    绝代佳人何寂寞,Tuyệt đại giai nhân hà tịch mạc,         仄仄平平平仄仄     Đ.luật

    梨花未发梅花落。Lê hoa vị phát mai hoa lạc.                平平仄仄平平仄     S.luật

   东风吹雨入西园,Đông phong xuy vũ nhập tây viên,     平平平仄仄平平     S.luật

   银线千条度虚阁。Ngân tuyến thiên điều độ hư các.       平仄平平仄平仄     S.luật

    脸粉难匀蜀酒浓,Kiểm phấn nan quân Thục tửu nùng,  仄仄平平仄仄平     Đ.luật

    口脂易印吴绫薄。Khẩu chi dị ấn Ngô lăng bạc.              仄平仄仄平平仄     S.luật

    娇娆意态不胜羞,Kiều nhiêu ý thái bất thắng tu,           平平仄仄仄平平     Đ.luật

    愿倚郎肩永相着。Nguyện ỷ lang kiên vĩnh tương trác.    仄仄平平仄平仄     S.luật

Có nghĩa :

                       

 

                      Người đẹp tuyệt trần sao vắng lặng,

                      Hoa lê chưa quét hoa mai rụng.

                      Gió đông mưa thổi góc vườn tây,

                      Kim chỉ thêm buồn lầu gác vắng.

                      Hương phấn khôn che rượu Thục nồng,

                      Son môi dễ để lụa Ngô ấn.

                      Yêu kiều diễm lệ thẹn thùng nên...

                      Tựa lấy vai chàng qua kiếp sống !

 Lục bát :

                      Tuyệt trần người đẹp buồn sao,

                    Hoa lê chưa quét đã sầu hoa mai.

                      Gió đông mưa ướt vườn tây,

                 Ngàn kim mũi chỉ riêng đây lạnh lùng.

                      Phấn son rượu Thục vẫn nồng,

                   Son môi để dấu ấn hồng lụa Ngô.

                      Yêu kiều diễm lệ dường thơ...

                 Vai chàng tựa đến bạc phơ mái đầu !

 

     Bài thơ có Vần Trắc trên đây, Niêm rất chỉnh, Đối rất chỉnh, Luật thì có câu Sai câu Đúng, nhưng vẫn không kể là Luật Thi được. 

 

     Bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt độc nhất vô nhị trong Đường Thi (theo tài liệu nói, chớ không phải tôi nói). Thường thì Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt gieo vần Trắc thì nhiều, chớ Thất Ngôn thì duy nhất chỉ có bài nầy mà thôi. Đó là bài "Lạc Kiều Vãn Vọng 洛橋晚望" của Mạnh Giao 孟郊 đời Đường :

 天津橋下冰初結,        Thiên Tân kiều hạ băng sơ kết,              BBBTBBT       Sai luật

  洛陽陌上人行絕。        Lạc Dương lộ thượng nhân hành tuyệt.    TBTTBBT    Sai luật

  榆柳蕭疏樓閣閒,        Du liễu tiêu sơ lâu các nhàn,                 BTBBBTB       Sai luật

  月明直見嵩山雪。        Nguyệt minh trực kiến Tung Sơn tuyết.    TBTTBBT    Sai luật

 

        Bốn câu trên, nghiêm chỉnh mà nói thì đều phạm LUẬT BẰNG TRẮC, nhưng đều giữ được "Nhị Tứ Lục phân minh" của một bài Tuyệt Cú, đáng là một bài thơ hay.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                        - Dưới dốc cầu Thiên Tân vừa mới kết băng, thì...

                        - Trên đường phố Lạc Dương đã tuyệt bóng người đi rồi.

                        - Các nhánh liễu lơ thơ tiêu điều đứng nhàn hạ trước lầu,

                        - Vầng trăng sáng cho ta nhìn thấy rõ ràng tuyết phủ trên ngọn núi Tung Sơn.

 

* Diễn Nôm :

                 

                          Dưới dốc Thiên Tân băng mới kết,

                          Lạc Dương đường phố người đi hết.

                          Xác xơ tơ liễu rủ bên lầu,

                          Trăng chiếu Tung Sơn đầy núi tuyết !

   Lục bát :

                          Thiên Tân cầu mới đóng băng,

                   Lạc Dương đường phố đã không một người.

                            Trước lầu tơ liễu tơi bời,

                     Trăng soi tỏ rõ tuyết ngời Tung Sơn.

 

     Từ các ví dụ trên đưa ta đến kết luận là :

 

     Thơ TRẮC VẬN (Vần Trắc) thuộc phạm trù của thơ CỔ PHONG, nên "Không thể kể là thơ Đường Luật "  Chính Luật được. Nhưng thơ Vần Trắc cũng có nét độc đáo riêng, NÓ có thể nới lỏng hơn về Cách Luật trong từng câu, Niêm Luật và yêu cầu về Đối Xứng cũng dễ dàng hơn, dễ diễn tình diễn ý hơn mà âm điệu cũng hấp dẫn và lạ tai hơn, không đơn điệu gò bó như Luật Thi, nên thỉnh thoảng ta cũng hay bắt gặp một vài bài thơ độc đáo của các tác giả nổi danh tìm đến với không gian mới thông thoáng hơn nầy, như bài Sanh Tra Tử - NGUYÊN TỊCH (đêm Nguyên Tiêu) của Âu Dương Tu đời Tống 欧阳修的《生查子·元夕》sau đây :

 

            去年元夜时,   Khứ niên nguyên dạ thì,

            花市灯如昼。   Hoa thị đăng như trú.

            月上柳梢头,   Nguyệt thượng liễu sao đầu,

            人约黄昏后。   Nhân ước hoàng hôn hậu.

            今年元夜时,   Kim niên nguyên dạ thì,

            月与灯依旧。   Nguyệt dữ đăng y cựu,

            不见去年人,   Bất kiến khứ niên nhân,

            泪湿春衫袖。   Lệ thấp xuân sam tụ.

 

       Hai câu thơ nổi tiếng là bất hủ đi vào văn học dân gian, hòa vào cuộc sống và đầu môi chót lưỡi của mọi người là : 

 

            月上柳梢头     Nguyệt thượng liễu sao đầu, 

            人约黄昏后     Nhân ước hoàng hôn hậu. 

Có nghĩa :

                       

 

                     Trăng lên ngọn liễu rạng ngời,

              Người cùng ước hẹn sau trời hoàng hôn.

 

        Nhưng....

                     Trước mắt, các bạn thơ, các người thơ trong Vườn Thơ Thẩn hay các thi nhân, thi sĩ làm thơ Đường Luật gieo vần Trắc, nhưng vẫn giữ đúng NIÊM, LUẬT, VẬN một cách nghiêm chỉnh. Theo tôi thì đó cũng là một diễn biến theo thời đại của Luật Thơ, nên ta vẫn có thể gọi đó là  TRẮC VẬN LUẬT THI 仄韻律詩 là : "Thơ Đường Luật được gieo vần Trắc" cho hợp với trào lưu tiến hóa, chớ nếu gọi bằng thơ CỔ PHONG hay CỔ THỂ thì nghe có vẽ CỨNG NGẮT không linh động thông thoáng chút nào cả ! Những từ chuyên môn như "Cổ Phong, Cổ Thể" chỉ để nghiên cứu và chỉ nên gọi ở trên lớp khi đang giảng cho các học viên mà thôi !

 

         Sau đây là hai bài thơ xướng họa của Vườn Thơ Thẩn được gieo VẦN TRẮC và Niêm Luật đều rất chỉnh đúng với Luật Thơ Đường Luật chính thể :

 

     Chúc Mừng Sinh Nhật 

       Nguyễn Đắc Thắng

           

Sinh Nhật hôm nay mừng sáu sáu

Dù đang yếu bước chân kỳ lão

Cảm hoài tâm sự nặng lòng thơ

Cố gắng gìn thân an bộ não 

Bằng hữu nơi nơi gởi chúc mừng

Thâm tình đặc biệt mời đi dạo

Ngẫm mình thấy bạn thoáng nao nao

Mong mỏi yên bình sau gió bão.

                              Cao Linh Tử . 

                               Cao Lãnh, 4/4/2018

 

       

  Nguyễn Đắc Thắng 66

          

Họa Vận :

 

    MỪNG SINH NHẬT 66

 

Mừng đệ năm nay đạt sáu sáu,

Vượt vòng Hoa Giáp năm năm lão.

Lạc quan dưỡng bệnh chớ âu sầu,

Vui sống yêu đời đừng áo não !

Tình bạn chan hòa khắp mọi nơi,

Vườn thơ bát ngát chung cùng dạo.

Bền lòng vững chí chớ oán vưu,

Trời sẽ xanh hơn sau lốc bão !

                        Đỗ Chiêu Đức

                            Mậu Tuất 2018

 

Sau đây là các bài thơ xướng họa của Vườn Thơ Thẩn nhân MÙNG 1 TẾT Âm Lịch, Canh Tý 2020.

 

    KHAI BÚT CANH TÝ

       (Thơ Vận Trắc)

 

Đôi vần khai bút xuân Canh Tý

Ước viết sao tròn câu ý nhị

Cầu sẽ trăm ngày vẹn thỏa tâm

Mong rằng vạn sự xuôi như ý

Mừng mừng bá tánh ngập tài danh 

Chúc chúc muôn nhà tràn phước hỉ

Quốc thái dân an, cảnh thịnh cường

Người người no thỏa tiền căng …ví.

                        CAO BỒI GIÀ

                               25-01-2020

 

HỌA VẬN :

 

     HỌP MẶT ĐẦU NĂM

 

Họp mặt bạn bè vui Tết Tý

Bên cành mai thắm vừa bung nhị

Hàn huyên câu chuyện mãi thân tình

Chúc tụng cuộc đời luôn toại ý

Chén rượu tương phùng say ngất ngây

Vần thơ xướng họa tràn hoan hỉ

Tuổi già thanh thản sống an vui

Lọ phải sang giàu tiền chật ví.

                        Sông Thu

             (Mùng Một Tết Canh Tý 2020)

 

   

 

    CHÚC MỪNG NĂM TÝ

 

Năm chuột địa chi gọi chú Tý,

Tết về trăm thứ hoa đương nhị.

Muôn điều may mắn thảy toại lòng,

Vạn sự hanh thông đều xứng ý.

Già trẻ tương thông cộng lạc an,

Gái trai hòa hợp cùng hoan hỉ.

Xóm làng khởi sắc hết lo toan,

Rủng rỉnh bàng dân tiền chật ví !

                                Đỗ Chiêu Đức

 

      Xin được kết thúc bài viết về THƠ ĐƯỜNG VẦN TRẮC ở nơi đây. Hẹn bài viết tới!

 

                                                                               杜紹德

                                                                               Đỗ Chiêu Đức

Phiếm về

                           THIÊN là TRỜI

DCD_Thien.jpg

 Thiên 天 là Trời, Thiên 千 là Một Ngàn, Thiên 偏 là Thiên Lệch, Thiên 遷 là Di Dời ... Ở đây, ta chỉ nói đến chữ Thiên 天 là Trời, là phần không gian ở trên đầu của ta mà thôi. Theo "Chữ Nho ...Dễ Học", ta có chữ Nhân là người được viết như thế nầy 人. Đây là chữ Tượng Hình đơn giản nhất, cơ bản nhất và cũng ... Tượng hình nhất : Hình người đứng xoạt 2 chân hiên ngang giữa trời đất đúng như sách Tam Tự Kinh ngày xưa dạy : Tam tài giả, THIÊN ĐỊA NHÂN 三才者,天地人。( TAM TÀI là TRỜI, ĐẤT và NGƯỜI ). Con Người là một thành viên của vũ trụ, hợp với Trời và Đất tạo nên cái thế giới nầy !

Nên ...
          Khi cần diễn tả sự to lớn thì chữ nhân 人 dang thêm hai tay ra theo lối CHỈ SỰ 指事  ( Mượn việc dang hai ta ra để chỉ sự to lớn gọi là Chỉ Sự  ) thành chữ ĐẠI 大 , theo diễn tiến của chữ viết sau đây :

 

                   Giáp Cốt Văn          Đại Triện          Tiểu Triện              Lệ Thư

DCD_4Thien.jpg

Nên...
          ĐẠI là To, là Lớn, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng phát sinh : là Vĩ Đại, là Trưởng thành ... Nhưng ...


          Con người dù cho có cao lớn đến đâu cũng không thể cao lớn bằng Trời được, cho nên thêm một nét ngang tượng trưng cho bầu trời lên phía trên chữ Đại 大, thì ta có chữ THIÊN 天 là TRỜI, được hình thành theo lối HỘI Ý 會意 , theo diễn tiến của chữ viết như sau đây :

 

                Giáp Cốt Văn            Đại Triện                Tiểu Triện               Chữ Lệ 

DCD_4Thien_2.jpg

 Theo như Giáp cốt văn và Đại Triện ở trên, ta thấy rõ ràng hình người có cái đầu to tượng trưng cho Đầu Đội Trời, Chân Đạp Đất, gọi là " Đỉnh thiên lập địa 頂天立地 " như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :


                    ĐỘI TRỜI đạp đất ở đời,
              Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.
 Nên ...
          Chữ Thiên 天 chỉ phần cao nhất của cơ thể con người, vượt lên trên đĩnh đầu cao vòi vọi, đó là Trời.

 

          Về mặt thể chất, thì con người không thể cao bằng Trời, lớn bằngTrời được, nhưng về chí khí thì cũng có những người có chí lớn muốn CHỌC TRỜI Quấy Nước làm nên những chuyện Kinh Thiên Động Địa. Cho nên, chữ Thiên 天 mà nhô đầu lên theo chiều dọc để CHỌC thủng Trời thì sẽ thành chữ PHU 夫 là người đàn ông cao lớn mạnh khỏe hiên ngang đứng giữa trời đất, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

 

                  Giáp Cốt Văn          Đại Triện                Tiểu Triện              Lệ Thư

DCD_Phu.jpg

Nên ...             

         PHU 夫 : là Người đàn ông trưởng thành, mạnh mẽ, hiên ngang mà các bà các cô ai cũng ước mong trở thành người hôn phối của mình, nên ...
         PHU 夫 còn có nghĩa là CHỒNG với các từ ghép nghe cho êm tai và âu yếm là : Phu Tế 夫婿, Phu Lang 夫郎, Phu Tướng 夫相, Trượng Phu 丈夫 ... Như trong Truyện Kiều tả lúc Từ Hải chia tay với Kiều để  lên đường lập nghiệp ....


                      Nửa năm hương lửa đang nồng,
             TRƯỢNG PHU thoát đã động lòng bốn phương.

 

         Chữ PHU 夫 lại làm cho ta ....
... Nhớ lại 2 câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài "Không Chồng Mà Chửa" là :

 

                Duyên THIÊN chưa thấy nhô đầu dọc,
                Phận LIỄU sao đà nẩy nét ngang ?!

 

         Nữ sĩ đã chơi chữ bằng cách chiết tự rất lý thú và lí lắt như sau :

         Duyên THIÊN 天 là duyên trời run rủi, chưa thấy nhô đầu dọc, là chưa thành chữ PHU 夫, nghĩa là chưa có chồng.
         Phận LIỄU 了 (là Liễu bồ, là Phận gái) sao đà nẩy nét ngang ? Chữ LIỄU 了 mà " nẩy " nét ngang thì sẽ thành chữ TỬ 子 là CON. Nên 2 câu thơ trên có nghĩa :

 

                  Duyên trời nào thấy đâu run rủi,
                  Phận gái sao đà đã có con ?

 

        Trong dân gian Nam Kỳ Lục Tỉnh, ở Cái Răng Ba Láng quê tôi, lúc nhỏ tôi cũng thường nghe bà con lối xóm hát rằng :


                  Không chồng có chửa mới ngoan,
               Có chồng có chửa thế gian sự thường !

 

        Về chữ LIỄU 了 là Kết thúc, kết liễu, đồng âm với chữ LIỄU 柳 là Dương Liễu chỉ phái nữ mềm yếu dịu dàng ẻo lả như nhánh liễu. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã chơi chữ bằng cách sử dụng từ Đồng Âm để đánh đồng 2 chữ Liễu theo âm Hán Việt. Chớ chữ Liễu là Dương Liễu thì làm sao có được nét ngang mà "nẩy" ?!

 

        Thiên 天 là Trời, chữ đầu tiên trong sách Tam Thiên Tự 三千字 của soạn giả Đoàn Trung Còn khi mới bắt đầu học chữ Nho hồi xưa :

 

        天 Thiên trời, 地 Địa đất, 舉 Cử cất, 存 Tồn còn, 子 Tử con, 孫 Tôn cháu, 六 Lục sáu, 三 Tam ba, 家 Gia nhà, 國 Quốc nước, 前 Tiền trước, 後 Hậu sau...   

DCD_tamThienTu.jpg

 Thiên 天 là Trời, là phần không gian cao ngất ở trên đầu ta, nhưng trong dân gian theo tín ngưỡng của người dân Đông Á chịu ảnh hưởng của Nho Thích Đạo, thì Trời là thế giới của cỏi trên, có đủ các thành phần Tiên Phật Thần Thánh của thượng giới, và có đời sống giống như ở dân gian, đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ta quen gọi là Ông Trời, và ông Trời hiện diện đầy đủ trong các mặt vui buồn của cuộc sống con người, ta vẫn thường nghe các câu :

        - Vui qúa Trời !

        - Buồn qúa Trời !

        - Sướng qúa Trời !

        - Khổ qúa Trời !....

          Vui buồn sướng khổ gì đều kêu Trời cả ! Nên theo truyện cổ tích dân gian thì ... Ngày xửa ngày xưa, ông Trời ở rất gần ta, chỉ cao khỏi ba xào một chút mà thôi, nhưng vì hễ động một chút là người ta kêu Trời : Hôm nay ăn no qúa Trời; Con đói qúa Trời ơi ! Cái con nhỏ đó đẹp qúa Trời ! Nhỏng nhẻo qúa Trời; Thấy "ghét" qúa Trời đi !... Nhất nhất cái gì cũng kêu Trời, kể cả "Con mắc  ...  qúa Trời ơi !". Nên ... Ông Trời nghe thét rồi chán qúa mới "vọt" tuốt lên 9 từng mây mà ở trển luôn cho yên thân ! Chẳng những giới bình dân kêu trời, mà trong văn chương trí thức cũng kêu trời, như Vương Viên Ngoại trong Truyện Kiều, khi biết cô Kiều đã bán mình, ông cũng đã kêu lên :

 

                   Trời làm chi cực bấy Trời,

              Này ai vu thác cho người hợp tan !?

 

hay lúc cô Kiều kể cho Vương Bà nghe về nhân cách của Mã Giám Sinh "Gẫm ra cho kỹ như hình con buôn" thì :

                    

                   Vương Bà nghe bấy nhiêu lời, 
               Nỗi oan đã muốn vạch Trời kêu lên.

  

hay khi bị Sở Khanh gạt, rồi còn muốn hành hung nữa, thì cô Kiều cũng đã kêu trời :

 

                 Nàng rằng : Trời nhé có hay !

                 Quyến anh rủ yến sự này tại ai ?

                 Đem người đẩy xuống giếng khơi,

                 Nói lời rồi lại ăn lời được ngay !

                                         

        Thiên 天 là Trời, là phần đầu của con người như chữ Tượng Hình Hội Ý đã nói ở phần trên, nên trong sách tướng số gọi cái trán là Thiên Đình 天庭, phần giữa trán gọi là Thiên Môn 天門 và phần xương phía trên trán gọi là Thiên Linh 天靈, nên ta mới có từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 là cái Mỏ Ác. Lúc còn bé thì phần Mỏ Ác nầy chỉ là một lớp sụn rất mềm, nên người lớn bắt nạt con nít hay nói câu : " Coi chừng tao cú cho một cái lủng Mỏ Ác bây giờ !". Khi lớn, Mỏ Ác đã cứng khó mà "cú" cho lủng, thì lại trở thành "cứng đầu cứng cổ"!.

 

           

 

        Từ Thiên Linh Cái 天靈蓋 còn tượng trưng cho cả Cái Đầu, cái Xương Sọ hoặc cái Đầu Lâu, như các thầy Pháp, thầy Phù Thủy luyện Thiên Linh Cái là chuyên sưu tập đầu lâu và xương sọ của các cô gái đã chết và như trong truyện "Trang Tử Cổ Bồn Ca 莊子鼓盆歌", mà ta quen gọi là truyện "Trang Tử Thử Vợ", thì  Thiên Linh Cái tượng trưng cho cái đầu với nội dung  câu truyện như sau :

 

         Trang Tử tên Chu 周 ( Châu ), tự là Tử Hưu 子休, người nước Tống 宋 thời Chiến Quốc (690-286 TCN), cùng vợ là Điền Thị ẩn cư ở phía nam núi Hoa Sơn. Một hôm, trên đường về nhà, trông thấy một thiếu phụ dùng quạt để quạt một nấm mộ bên đường. Trang Tử thấy lạ bèn hỏi, thiếu phụ cho biết là mộ của chồng mình, vì khi còn sống hai vợ chồng rất thương yêu nhau, nên có hẹn nhau là khi chồng chết, thì sau tang lễ, phải đợi cho mộ khô rồi mới tái giá, nhưng gần đây mưa gió cứ dập dìu, mộ không khô được, nên phải quạt cho mộ mau khô ! Trang Tử nghe nói, thầm cười cho thế thái nhân tình nhưng cũng thi triển pháp lực giúp thiếu phụ quạt khô mộ chồng. Khi về nhà, đem truyện kể lại với vợ là Điền Thị, Điền Thị vô cùng phẫn nộ, chê trách thiếu phụ và bảo rằng : " Trung thần bất sự nhị quân, Liệt nữ bất sự nhị phu 忠臣不事二君,烈女不事二夫 ". Có nghĩa " Tôi trung không thờ hai chúa, gái tiết liệt chẳng lấy hai chồng ". Mấy tháng sau, Trang Tử bệnh chết, có một thiếu niên anh tuấn dắt theo một lão bộc, tự xưng là Vương tôn của nước Sở, vì mộ tiếng của Trang Tử mà tìm đến để theo học đạo. Nay tuy Trang Tử đã mất, nhưng cũng nguyện thủ tang theo lễ thầy trò, ở lại cư tang một trăm ngày và để đọc Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Điền Thị rất vui dạ vì cảm cái vẻ cao sang tuấn tú của Vương tôn, mới nhờ lão bộc làm người mai mối, rồi xuất tiền lo cho hôn sự của hai người. Đêm động phòng hoa chúc, Vương tôn bỗng phát bệnh đau tim, thoi thóp sắp đứt hơi. Lão bộc cho biết là nếu có óc của người sống hoặc của người chết chưa quá bốn mươi chín ngày hòa với rượu uống vào thì khỏi bệnh. Điền Thị bèn xách búa bổ quan tài của Trang Tử định lấy óc ra làm thuốc cứu mạng Vương Tôn.. Không ngờ khi quan tài vừa vỡ ra thì Trang Tử cũng vừa sống lại. Điền Thị cả thẹn, biết mọi việc đều do Trang Tử biến hóa an bày, nên treo cổ mà chết. Trang Tử gỏ bồn làm nhịp ca bài điếu tang rồi cảm khái ngâm rằng :

 

           從茲了卻冤家債, Tòng tư liễu khước oan gia trái,
           你愛之時我不愛。 Nhĩ ái chi thời ngã bất ái.
           若重與你做夫妻, Nhược trùng dữ nhĩ tố phu thê,
           怕你斧劈天靈蓋。 Phạ nhĩ phủ phách Thiên Linh Cái.
Có nghĩa :
              Từ nay đã hết nợ oan gia,
              Nàng bảo yêu, ta hết thiết tha.
              Tiếp tục vợ chồng như thuở trước,
              Có ngày búa bổ vỡ đầu ta.

 

        Ngâm xong, nổi lửa đốt sạch nhà cửa quan tài ở dưới núi Hoa Sơn rồi đi mất. Dân chúng quanh vùng chỉ nhặt lại được hai quyển Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh chưa bị thiêu rụi mà thôi.

 

         

 

       "Phủ phách Thiên Linh Cái" là búa bổ cho vỡ sọ đầu ra ! Đây là chuyện "Trang Tử Thử Vợ" thường tình của " cải lương ", của phim ảnh theo như truyện kể của dân gian đời Tống (960-1279), những người theo Tống Nho dùng để khuyến thế răn đời, chớ con người cao khiết siêu thoát với tư tưởng của Lão Trang như Trang Tử sao lại có thể dùng tiểu xảo gài bẫy để thử vợ một cách không quang minh chính đại như thế !?

 

        Trở lại với Thiên 天 là Trời, trong Nho Giáo THIÊN 天 không phải là Ông Trời, mà là Thiên Lý 天理 là cái Lẽ Trời, nói theo bình dân, là Cái Lý Lẽ tự nhiên công bằng chính trực, chí công vô tư, chí cao vô thượng của Trời, nên cái gì hợp với tự nhiên của nhân tình thế thái thì cái đó là ... Thiên. Ví dụ như :  

     -Thiên Lương 天良: là Tấm lòng lương thiện ngay thẳng bẩm sinh của trời ban, là cái Lương Tâm vốn có của con người, mà cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã gán cho mình cái nghĩa vụ thiêng liêng là phải phổ biến, gợi mở, khơi dậy cái thiên Lương ở trong lòng mỗi người, nên ông mới mượn bài thơ " Hầu Trời " để nói thác :


              Trời rằng : " Không phải là Trời đày,
              Trời định sai con một việc này
              Là việc "thiên lương" của nhân loại,
              Cho con xuống thuật cùng đời hay"... 


    - Thiên Bình 天平: là Sự cân bằng thẳng hàng không thiên lệch về bên nào cả, là biểu tượng của Cán Cân Công Lý ở các tòa án, pháp đình, và là cái cân có 2 dĩa cân của các tiểu thương buôn bán ở ngoài chợ, một bên để trái cân một bên để hàng hóa lên đến khi nào cân bằng thì thôi. Nên... Thiên Bình là sự bình đẵng tự nhiên của trời, sự công bằng không thiên lệch cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.       

     

      Biểu tượng cái cân của tòa án ngầm bảo rằng mọi người đều bình đẵng trước pháp luật và trước... Trời !

 

   - Thiên Võng 天網: là Cái Lưới của Trời, nó không phải là cái lưới có thật, mà nó là biểu tượng của cái công cụ bảo vệ công lý của trời. Ai làm trái cái lý trời thì sẽ bị cái lưới nầy tóm lấy để trừng trị, như câu nói sau đây :


               Chủng qua đắc qua,     種瓜得瓜,
               Chủng đậu đắc đậu.     種豆得豆,
               Thiên võng khôi khôi,   天網恢恢,
               Sơ nhi bất lậu !            疏而不漏。

Có nghĩa :
               Trồng dưa thì được dưa,
               Trồng đậu thì được đậu.
               Lưới trời lồng lộng,
               Tuy thưa nhưng không lọt !
      Ý muốn nói, gieo nhân nào sẽ gặt qủa nấy, làm lành sẽ gặp lành, làm ác sẽ gặp ác, không sai chạy bao giờ, chỉ sớm hay muộn mà thôi !

 

         

                                        Thiên võng khôi khôi,   天網恢恢,

 

 

       Ông trời luôn luôn đứng về phía người hiền, người lương thiện, nên Tăng Quảng Hiền Văn cũng có câu :


             Nhân hữu thiện nguyện,   人有善願,
             Thiên tất hựu chi !            天必祐之!
Có nghĩa :
             Người mà có những ước nguyện tốt lành, thì...
             Trời sẽ phù trợ ủng hộ cho người đó !

 

    - Thiên Chức 天職 : Không phải là cái chức tước do trời ban, mà là trách nhiệm vốn có mà trời đặt để cho mỗi con người trong xã hội. Như Thiên Chức của Cha Mẹ là phải nuôi dạy con cái cho nên người, và con cái thì phải biết hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ...

 

   - Thiên Bẩm 天禀, Thiên Tài 天才, Thiên Phú 天賦, Thiên Tư 天資 : đều là những cái sanh ra đã có sẵn mà trời ban riêng cho người nào đó mà người khác không thể có được. Như cụ Nguyễn Du đã khen cô Kiều :


                     Thông minh vốn sẵn Tư Trời,
                 Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
            Tư Trời là Thiên Tư của trời ban cho đó !

 

      Cái gì thuộc về tự nhiên thì đều gán hết cho Trời, và được gọi là  Thiên Nhiên 天然, ví dụ như Trời Mưa, Trời Nắng, Trời Gió... và Tai họa do những thứ đó gây ra như Mưa lũ, Hạn hán, Gió bão...đều được gọi là Thiên Tai 天災, là tai họa chết chóc, đổ vỡ do trời gây ra cho con người. Song song với Thiên Tai thì Trời cũng set-up sẵn một chỗ để tưởng thưởng cho những người lương thiện, mà tôn giáo nào cũng có, đó chính là Thiên Đàng 天堂, nơi yên vui sung sướng nhất mà mọi người đều mong ước. Tất cả những hiện tượng thời tiết mùa màng xảy ra chung quanh cuộc sống con người đều là những thứ sỡ hữu của trời như câu nói :


           Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ,       天有四時春在首,
           Nhân sanh bách hạnh hiếu vi tiên.  人生百行孝為先。
Có nghĩa :
           Trời có bốn mùa thì mùa xuân là mùa đứng đầu, còn...
           Người thì có cả trăm phẫm hạnh, hiếu là phẩm hạnh trước tiên.

 

           Ông Trời làm nên tất cả, cả thân phận của con người cũng do trời đặt để, như cụ Nguyễn Du đã nói :


                 Trời kia đã bắt làm người có thân,
                 Bắt phong trần phải phong trần,
                 Cho thanh cao mới được phần thanh cao


       Bỉ sắc 彼嗇 thì tư phong 茲豐, có nghĩa Cái kia cạn thì cái nầy đầy, hết cơn bỉ cực thì đến ngày thái lai. Ông trời luôn bắt người ta phải " phong trần " trước, rồi mới cho " thanh cao " sau. Bắt cô Kiều phong trần mười lăm năm rồi mới cho gặp lại Kim Trọng. Thế mà khi đoàn viên lại phải cảm kích cái lòng tốt của ông trời :


               Trời còn để có hôm nay,
               Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
               Hoa tàn mà lại thêm tươi,
               Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa !
          Khéo mà nói sạo để... nịnh ông trời !

 

      Còn giới bình dân thì không khách sáo gì cả, vợ chồng cứ đẻ sòn sọt năm một, mỗi năm một đứa, nhà trên mười anh chị em là chuyện " thường tình " ở quê tôi, đời sống nheo nhóc nhưng lại rất lạc quan mà... đổ thừa cho ông trời :
            - Trời sanh trời nuôi.
            - Trời sanh voi sanh cỏ !
      Tội nghiệp cho ông trời, cứ đẻ cho đã rồi đổ thừa cho ông trời là xong ngay ! Nhưng... nói cũng lạ, " nhờ Trời " rồi tất cả cũng đều khôn lớn nên người, lắm gia đình lại còn trở nên khá giả giàu có nữa là đằng khác ! Các Thầy Đồ ta ngày xưa thường nói :
                 Hữu nhi bần bất cửu,      有兒貧不久,
                 Vô tử phú bất trường.     無子富不長。
Có nghĩa :
              Có con thì nghèo không lâu, vì khi lớn lên con sẽ làm ra thêm của cải.. Còn ...    Không có con thì giàu không bền, vì không có ai làm thêm của cải cho mình. Nên các Cụ cứ... đẻ thả giàn !

      

      Thiên 天 là Trời, nên Thiên Hạ 天下 là dưới gầm trời nầy, là núi non sông nước, là đất đai ruộng vườn mầu mở của dân cư, là lãnh thổ, là cương thổ mà theo quan niệm phong kiến ngày xưa thì ai có tài thao lược giỏi giang, ai có đức trị dân thì sẽ là chúa tể của cái Thiên Hạ nầy, nên mới có thành ngữ Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下, có nghĩa là Đuổi bắt con nai trong thiên hạ nầy theo xuất xứ sau đây : 

DCD_Truclocthienha.jpg

                          Trục Lộc Thiên Hạ 逐鹿天下

 

       Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史記˙淮陰侯列傳": Tần chi cương tuyệt nhi duy thỉ, sơn đông đại nhiễu, dị tính tịnh khởi, anh tuấn ô tập. Tần thất kỳ lộc, thiên hạ cộng trục chi, ư thị cao tài tật túc giả tiên đắc yên.秦之綱絕而維弛,山東大擾,異姓並起,英俊烏集。秦失其鹿,天下共逐之,於是高材疾足者先得焉。Có nghĩa :


    " Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc." Và...
      Các lộ anh hùng lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng đưa đến thế Hán Sở Tranh Hùng, như World-cup vào đến vòng chung kết vậy ! Nên...   
      Thiên Hạ là của chung, ai giỏi thì giành được. Ngày xưa, quan niệm Thiên Hạ là đất Trung Nguyên mầu mở với dân cư đông đúc, nên thành ngữ trên còn được nói là Trục Lộc Trung Nguyên 逐鹿中原, và tại sao phải là Lộc mà không phải là con vật khác ? Vì chữ Lộc 鹿 là con Nai đồng âm với chữ Lộc 祿 là Thiên Lôc 天祿, có nghĩa là " Lộc của trời ban", chính là cái ngôi vua của Thiên Tử 天子 là con trời, vì Thiên Tử mới là người xứng đáng hưởng Thiên Lộc mà thôi !

 

       Còn "Thiên Hạ" trong tiếng Việt Nam ta là Phiếm Chỉ Đại Từ, có nghĩa là : Người ta, Người Khác hay chỉ chung Quảng Đại Quần Chúng...như :
       - "Thiên hạ" đồn rằng...
       - Đó là chuyện của "thiên hạ", đâu phải chuyện của mình.
       - Hơi sức đâu mà lo chuyện của "thiên hạ" !...

      Ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương trong bài tứ tuyệt "Chợt Giấc" cũng đã buồn cho thời cuộc mà lẫy rằng :
                     Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba,
                     Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
                     Thiên Hạ dễ thường đang ngủ cả,
                     Việc gì mà thức một mình ta ?!

 

       Còn Thiên Hạ trong đạo Phật là cỏi Ta-Bà, là bể khổ trầm luân, nên khi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni thác sinh làm Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi đi bảy bước nở ra bảy đóa hoa sen thì một tay chỉ Trời, một tay chỉ đất và nói câu : Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn 天上天下唯我獨尊, có nghĩa : " Trên trời dưới trời duy chỉ có TA là tôn qúy ". Cái TA hay cái NGÃ đó chính là Chân Ngã 真我, là Pháp Thân 法身thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian mà chúng sinh đều có. TA đó chính là Phật Tánh 佛性, là Chân Tâm 真心 để giải thoát cho tất cả mọi loài khỏi trầm luân trong bể khổ của cái Thiên Hạ Ta-Bà nầy ! Chính cái Phật Tánh đó là Thiên Hạ độc tôn, chớ không phải Đức Như Lai tự cho mình là độc tôn trong Thiên Hạ.

DCD_duyngadocton.jpg

  Trong quyển tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của Kim Dung là " Thiên Long Bát Bộ " có một nhân vật nữ theo Đạo Gia là Thiên Sơn Đồng Mỗ, nhưng lại tu tập môn võ công của Phật Gia là " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn Công " rất lợi hại, bà ta cầm đầu và khống chế cả 81 Động và 72 Đảo võ lâm bàng môn tả đạo đều phải nghe theo lệnh của bà ta răm rắp .  

 

       Còn Thiên Hạ của Đạo Giáo 道教 ( Lão Giáo ) là Cỏi Hồng Trần 紅塵, nơi bụi bặm mịt mù mà con người chỉ là những cái hình chiếu từ cuộc sống thực tế ở trên trời, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong Cung Oán Ngâm Khúc là :


                      Cái quay búng sẵn trên trời,
                 Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm !


nên con người phải biết tu tập theo đạo pháp để trở về với cuộc sống thực ở trên trời, tức là thành Tiên để về nơi Thượng Giới !

 

       Thiên Hạ của ngày nay là Năm Châu Bốn Bể, là bề mặt của qủa địa cầu nầy, là cả thế giới như bài học thuộc lòng ngày xưa của lớp Đồng Ấu :

 

               ... Người bốn giống : đen, vàng, đỏ, trắng,
                   Trời bốn phương : nam, bắc, đông, tây.
                   Đi cho biết đó biết đây,
                   Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ?!

 

       Thiên 天 là Trời, khi nào thì ta thấy được trời : Ban Ngày, nên Thiên 天 là Ban Ngày, như Tam Thiên Tam Dạ 三天三夜 là Ba ngày ba đêm. Thiên còn có nghĩa là Ngày, nên Kim Thiên 今天 là ngày hôm nay; Khi trời sáng trở lại là ngày hôm sau, nên Minh Thiên 明天 là ngày mai...  

        Thiên còn có nghĩa là Thời Tiết, Mùa Màng, như : Thiên Vũ 天雨 là Trời mưa, nhưng Vũ Thiên 雨天 là Mùa Mưa. Tương tự, Thiên Tình 天晴 là Trời nắng, Tình Thiên 晴天 là Mùa nắng. Như thời tiết ở Miền Nam nước ta, mỗi năm chỉ có 2 mùa Mưa và Nắng, theo như câu nói :
                    Tứ thời vô xuân hạ,         四時無春夏,
                    Nhất vũ tiện thành thu.   一雨便成秋。
Có nghĩa :
             Bốn mùa không có xuân hạ gì cả, hễ...
             Mưa xuống một cái thì thành mùa thu ngay !

 

        Thiên còn là cái gì cao quý nhất, cần thiết nhất, như câu nói trong sách Hán Thư 漢書 : Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên 王者以民為天,而民以食為天. Có nghĩa : " Bậc vương giả lấy dân làm cao nhất, còn dân thì lấy cái ăn làm cao nhất."

 

                    


        Ý nói : Vua thì coi dân là cần thiết nhất, vì không có dân thì làm vua với ai đây ? Còn dân thì coi cái ăn là cần thiết nhất, vì không có cái ăn thì làm sao mà sống ?! Câu nói nầy thường hay bị nói sai thành : Dân dĩ thực vi TIÊN 民以食為先, có nghĩa : Dân thì lấy cái ăn làm trước hết. Sai mà không Sai, chỉ là một cách nói khác đi mà thôi, nhưng ý của chữ TIÊN 先 không mạnh bằng ý của chữ THIÊN 天 là Cao nhất, là Cần thiết nhất.  

 

       Thiên 天 là Trời, Thăng Thiên 升天 là Lên trời, Phi Thiên 飛天 là Bay lên trời, còn Quy Thiên 歸天 là Về trời, là chết. Nhưng không phải ai chết cũng được về trời, vì trời chỉ có 9 tầng mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa ngục thì có tới 18 tầng lận, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa Ngục phải xây 18 tầng mới đủ chỗ chứa !   

      Về từ Cửu Trùng Thiên 九重天, ngoài nghĩa là 9 tầng trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời phong kiến ngày xưa, như 2 câu thơ mở đầu trong bài thơ Tả Thuyên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左遷至藍關示侄孫湘 của Hàn Dũ đời Đường :


             Nhất phong triêu tấu Cửu Trùng Thiên,   一封朝奏九重天,
             Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên.        夕貶潮陽路八千 .
 Có nghĩa :
             Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
             Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm đường.

 

               

 

       Cửu Trùng Thiên 九重天 là Vua, còn được gọi là Đấng Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như câu thơ trong đoạn mở đầu của Chinh Phụ Ngâm do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :


                Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
                Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
                CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
                Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

 

       Thiên còn là Thiên Thời 天時, ngoài nghĩa chỉ Thời tiết mùa màng ra, Thiên Thời còn có nghĩa là Thời Cơ của Trời, là cái cơ trời vận hành đến một lúc nào đó, như Thúy Vân đã phân bua :


                        Cơ Trời dâu bễ đa đoan,
                Một nhà để chị riêng oan một mình !


        Ta thường nghe câu nói trong sách Mạnh Tử là "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa 天時不如地利,地利不如人和". Có nghĩa : Thời cơ của trời không bằng lợi thế của đất, cái lợi thế của đất không bằng cái hòa đồng hòa hợp của con người. Ví dụ như :    

        Fifa World-cup 2018 kỳ rồi tổ chức ở Russia, nên đội bóng Nga có lợi thế về THIÊN THỜI là đã quen với thời tiết giá lạnh của xứ mình; ĐỊA LỢI vì được đá ở sân nhà; NHÂN HÒA vì có cổ động viên đông nhất so với các đội bóng khác. Nên đội Nga đã thắng đậm ngay trận đầu 5-0 trước Saudi Arabia và đi một lèo đến Tứ Kết, trở thành 8 đội bóng mạnh nhất hành tinh ! 

 

            

 

       Thiên thời 天時, Địa lợi 地利, Nhân hòa 人和 còn được nói thành Thiên Tường 天祥, Địa Nghi 地宜, Nhân Thuận 人顺. Có nghĩa :
      * Thiên Tường 天祥 : là cái Điềm lành của trời, là cái mặt tốt về thời cơ, thời vận, là Thiên Thời đó.
      * Địa Nghi 地宜 : là cái Tiện nghi của đất, của cái nơi mà ta định làm hay cái chỗ mà sự việc xảy ra, là Địa Lợi đó. 
      * Nhân Thuận 人顺 : là Nhân sự được suông sẻ, mọi người đều đồng ý, không ai chống đối, là Nhân Hòa đó.

 

       Nhưng đối với bà con lối xóm ở quê tôi thì THIÊN TƯỜNG là " Thương Tiền ", từ dùng để chỉ những người keo kiệt hà tiện mà tham lam chỉ biết có TIỀN, cả câu như thế nầy :

                    " Thiên tường tác biệt hựu thu sương ".

Có nghĩa là :  " Thương tiền, Tiếc bạc lại Thương xu ".

        Có một câu chuyện vui kể rằng : Có ông trưởng giả nhà quê nọ mời bạn ăn mừng thọ lục tuần. Thiệp mời có kèm theo môt câu như thế nầy : Sách có câu chữ rằng " Xuân đình hiền tạ tống mặt khơi ". Câu sách đó có nghĩa là : " Xin đừng hà tiện tới mặt không !".

   

       Cái Thời Cơ của Trời, chính là cái Thiên Lý  đã được đề cập ở phần đầu bài viết nầy, nói lên cái lý lẽ công bằng tự nhiên của Trời, như câu : 


                      Tử sinh hữu mệnh,   死生有命,
                      Phú quý tại thiên.     富貴在天.
Có nghĩa :
                 Chết sống đều có số mạng,
                 Giàu sang là do trời ban.
    ... và không phải ai cũng được trời ban, phải đúng với cái lẽ trời thì mới được, như trong Minh Tâm Bửu Giám ghi lại câu nói nổi tiếng của Khổng Minh Gia Cát Lượng là :  


                Mưu sự tại nhân,                       謀事在人,
                Thành sự tại thiên.                    成事在天,
                Nhân nguyện như thử như thử,  人願如此,如此,
                Thiên lý vị nhiên vị nhiên !         天理未然,未然!

Có nghĩa :
               Mưu tính công việc là ở người, còn...
               Thành công hay thất bại là do trời,
               Người muốn như thế nầy, như thế nầy đây, nhưng...
               Cái lẽ trời cho biết là còn chưa được, còn chưa được ! 

DCD_muusutainhan.jpg

Gia Cát Khổng Minh là người giỏi cả binh thư thao lược, trên thông thiên văn dưới thông địa lý, mang chí lớn muốn khôi phục lại nhà Hán, lập rất nhiều công lớn trong việc giúp Lưu Bị tam phân thiên hạ, lập nên nhà Thục Hán, nhưng lục xuất Kỳ Sơn đều thất bại, cuối cùng đành ôm hận mà chết với câu than bất hủ là " Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên " như đã nêu trên.

 

       Con người khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa được sanh ra, chưa thấy trời, thì gọi là Tiên Thiên 先天. Được sanh ra rồi, mở mắt đã thấy trời rồi, thì gọi là Hậu Thiên 後天. Hằng ngày phải đầu tắt mặt tối đội trời để làm việc kiếm sống, thì gọi là Thiên Thiên 天天. Vui vẻ trong cuộc sống thì gọi là Lạc Thiên 樂天. Buồn thảm trong cuộc sống thì gọi là Bi Thiên 悲天. Khi nhắm mắt xuôi tay rồi thì gọi là Quy Thiên 歸天. Tuổi thọ và những năm tháng mà ta có được gọi là Thiên Niên 天年.


      Mong rằng tất cả đều quy thiên 歸天 trong cái tâm tình lạc thiên 樂天 để đều được vui  hưởng những thiên niên 天年 tuyệt vời có được trong cuộc sống !

 

                                                                    

                                                                                      Đỗ Chiêu Đức

Thi Quỷ: 

 

                                           LÝ HẠ

DCD_Lyha.png

LÝ HẠ (790-816) tự là Trường Cát, người đất Xương Cốc Phước Xương ( thuộc Nghi Dương tỉnh Hà Nam hiện nay). Ông là hậu duệ thất tán của tông thất nhà Đường. Cha là Huyện lệnh Lý Tấn Túc. Vì âm Quan thoại "Tấn Túc" đọc đồng âm với "Tấn Sĩ", nên vì kỵ húy của cha, thêm bạn bè dèm xiểm nên ông không thể dự thi Tiến sĩ được, chỉ nhờ phụ ấm nên được giữ chức Phụng Lễ Lang. Thơ ông thiên về trường phái lãng mạn, quái dị, ông hay tìm thi hứng ở những nơi hoang vu mồ mả nên được người đời gọi là THI QỦY. Lý Hạ cùng với Lý Bạch và Lý Thương Ẩn hợp thành TAM LÝ của đời Đường. Rất tiếc là tài hoa nhưng mệnh yểu, ông bị bệnh mất lúc 27 tuổi khi từ quan về sống nơi quê nhà.

DCD_ThiQuy.png

Dưới đây là bài thứ 6 trong " Nam Viên thập Tam Thủ " (13 bài thơ có tựa là NAM VIÊN) của Thi Quỷ Lý Hạ, như sau :                           

 

 

 南園十三首( 其六)      Nam Viên Thập Tam Thủ ( Kỳ lục ).

                    李賀                                                   Lý Hạ
 尋章摘句老雕蟲,        Tầm chương trích cú lão điêu trùng,
   曉月當簾挂玉弓。        Hiểu nguyệt đương liêm quải ngọc cung.
 不見年年遼海上,        Bất kiến niên niên Liêu Hải thượng,
   文章何處哭秋風?        Văn chương hà xứ khốc thu phong ?

 

 

 

         Đây là bài thơ cảm khái cho việc học hành trở nên vô dụng trong thời loạn, có tài mà không thi thố gì được cả....

   Hai câu đầu nói lên sự khổ nhọc của việc học hành trong thư trai, thấp thoáng có chút gì ai oán... Ta hãy nghe câu đầu : " Tầm chương trích cú lão điêu trùng " là : Suốt ngày cứ nhai văn nhá chữ cặm cụi như con mọt sách già (lão điêu trùng). Vùi đầu vào sách vở để mong học cho thành tài, thi đậu, nổi tiếng.... khắc khổ học hành đến nỗi : Hiểu nguyệt đương liêm quải ngọc cung, nghĩa là : Thức trắng cả đêm, trời sắp sáng, bầu bạn suốt đêm chỉ còn có mảnh trăng tàn treo ngược bên rèm ngoài khung cửa sổ như nửa vành cung ngọc. Chẳng ai hay chẳng ai biết đến cảnh học hành vất vả thê lương cô đọc nầy... Lý Hạ muốn ám chỉ gì đây ?!...Ta đọc tiếp 2 câu chót nhé !....

 

                       Bất kiến niên niên Liêu Hải thượng,

                       Văn chương hà xứ khốc thu phong ?!

 

  Nghĩa 2 câu nầy là :

             " Bộ không nhìn thấy mỗi năm ở trên đất Liêu Hải ư ? Nơi đó, văn chương không có chỗ để mà khóc gió thu nữa là khác !".

 

          Tại sao ? Tại sao cái học lại vô dụng đến thế kia ? Có VĂN TÀI mà không sử dụng được ?. Thì ra Lý Hạ đã liên hệ cái bối cảnh cá nhân mình với cái hoàn cảnh chung của đất nước lúc bấy giờ, cái căn nguyên tạo nên sự chán nản và phẫn uất ở nội tâm....

DCD_LieuHai.jpg

"Liêu Hải" chỉ về biên giới Đông Bắc của nhà Đường lúc bấy giờ, tức một dãy thuộc địa Hà Bắc Đạo, từ năm Nguyên Hòa thứ tư ( 809 ) đến năm Nguyên Hòa thứ bảy, liên tiếp xảy ra những cuộc binh biến, thuộc địa chư hầu mỗi người cát cứ một phương , không còn nghe theo lệnh của triều đình nữa. Đường Hiến Tôn mấy lần đem binh chinh phạt, nhưng đều bại trận, gây nên tình trạng hỗn loạn của xã hội do sưu cao thuế nặng, bắt lính bắt phu .... dân chúng lầm than trước cảnh chiến tranh loan lạc liên miên... Đây là lý do thứ nhất khiến Lý thấy sự vô dụng của học hành trong thời loan. Thứ nữa, là chiến sự liên miên nên triều đình trọng dụng võ sĩ hơn văn nhân, kẻ sĩ không có đất  "dụng võ ". Từ " Văn chương " của câu 4 là chỉ " kẻ sĩ " đó, còn " khốc thu phong " không phải là thương khóc mùa thu bình thường của các thi nhân, mà là thương cảm cho xã hội loạn ly, kẻ sĩ lâm cảnh cùng đồ mạt vận đó mà thôi !

 

          Bài Tứ Tuyệt nầy rất hàm súc thâm trầm. Câu 1 , vừa tự sự vừa biểu lộ sự bất mãn vô ích của sự học hành qua từ " lão ", làm con " mọt sách già " một cách vô ích. Câu 2, cho thấy sự vất vả trong việc dồi mài kinh sử, học thâu đêm suốt sáng, trong câu nầy lại khéo so sánh mảnh trăng non với vành cung ngọc, hàm ý chỉ chiến sự ở câu sau. Câu 3, chỉ nêu lên từ " Liêu Hải ", không nhắc gì đến chiến sự mà tự người đọc biết đó là cảnh binh biến loạn lạc. Câu 4, nêu lên cảnh mạt vận không có đất dụng võ của văn sĩ bằng một ý hết sức nên thơ là " Văn chương không có chỗ để mà khóc thương gió mùa thu nữa là ! ".

 

 

Diễn Nôm :

DCD_LieuHai_2.png

                     Nhá chữ nhai văn mọt sách già !
                   Đêm đêm thức trắng với trăng ngà.
                   Nơi kia Liêu Hải không cần đến,

                   Khóc gió thu buồn kẻ sĩ ta !

Lục bát :

                   Nhai văn như mọt sách già,

                   Bên rèm thức với trăng ngà đêm thâu.

                   Biết đâu Liêu Hải địa đầu,

                   Văn chương hết đất khóc sầu gió thu !

 

 

                                                                          Đỗ Chiêu Đức

Thi Cốt : 

 

                  TRẦN TỬ NGANG

DCD_TranTuNgang.png

Trần Tử Ngang (659-700), tự là Bá Ngọc, người đất Xa Hồng Tử Châu (thuộc tỉnh Tứ Xuyên hiện nay). Ông xuất thân trong một gia đình hào phú lâu đời, hồi trẻ, ông chỉ ham học võ nghệ, săn bắn và đánh bạc; đến năm 17, 18 tuổi, ông mới chuyên tâm học hành.

      Năm 684, ông thi đỗ Tiến sĩ lúc 23 tuổi, được Võ hậu (tức Võ Tắc Thiên) khen ngợi, cho làm chức Chính Tự ở Lân Đài, sau thăng làm Hữu Thập di, nên ông còn được gọi là Trần Thập Di).

     Năm 26 tuổi, ông tham gia quân đội của Kiều Tri Chi, từng đến biên thùy phía Tây Bắc. Năm 35 tuổi, ông làm tham mưu cho Kiến An Vương Võ Du Nghi, theo quân đi chinh Đông, đánh quân Khiết Đan. Võ Du Nghi không có mưu lược, quân đi tiên phong đại bại, mấy lần Trần Tử Ngang hiến kế cho Võ Du Nghi, và hăng hái xin cầm quân ra trận; nhưng không được nghe theo, mà ngược lại còn bị chủ tướng trút giận lên đầu ông, hạ chức ông từ tham mưu xuống làm quân tào.

     Bất đắc chí, năm 38 tuổi, ông lấy cớ cha già, xin từ chức về quê. Năm 702, huyện lệnh huyện Xạ Hồng là Đoàn Giản, vì nghe lời xui giục của Tể tướng Võ Tam Tư (cháu Võ Hậu) nên đã hại chết Trần Tử Ngang. Năm đó, ông 41 tuổi.

 

     Tác phẩm của ông có Trần Thập Di Tập (Tập thơ thu thập những phần còn sót lại của họ Trần), trong đó có khoảng 120 bài thơ. Theo Dịch Quân Tả, thì Trần Tử Ngang là người có "tính tình hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, ưa giúp người, có khí cốt của một hiệp sĩ, nên được gọi là THI CỐT, và điều đáng qúy nhất là ông rất chân thật với bạn bè".

 

     Dưới đây là một bài thơ ưu thời mẫn thế, cảm khái cho thế cuộc của nhân sinh tiêu biểu cho cái khí cốt cao nhã của ông.

 

 

登幽州臺歌               ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA

 

前不見古人,           Tiền bất kiến cổ nhân,

後不見來者,           Hậu bất kiến lai giả.

念天地之悠悠,       Niệm thiên địa chi du du,

獨愴然而涕下!          Độc sảng nhiên nhi thế hạ !

 

              陳子昂                                         Trần Tử Ngang

DCD_Dangy.png

* Chú Thích :

 

  - U CHÂU 幽州 : Một trong 12 châu quận ngày xưa, là thành phố Bắc Kinh hiện nay. U CHÂU ĐÀI 幽州台 : Còn gọi là Kế Bắc Lâu, là Đại Hưng của TP Bắc Kinh hiện nay, đây là cái đài mà Yên Chiêu Vương thời Chiến quốc xây nên để chiêu nạp hiền sĩ trong thiên hạ.

  - TIỀN 前 : là Trước đây, chỉ qúa khứ.

  - CỔ NHÂN 古人 : Người xưa, chỉ các bậc thánh quân biết chiêu hiền đãi sĩ.

  - HẬU 後 : là Sau nầy, chỉ tương lai.

  - LAI GIẢ 来者 : Người đến, chỉ những minh quân biết trọng dụng nhân tài.

  - Niệm 念 : là Nghĩ đến. 

  - DU DU 悠悠 : là Dằng dặc. Chỉ thời gian dài lâu và không gian rộng lớn.

  - SẢNG NHIÊN 愴然 : chỉ rất bi thương thê thiết.

  - THẾ HẠ 涕下 : Nước mũi chảy xuống. Ở đây mượn để chỉ nước mắt chảy xuống khi qúa bi thương.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                                          BÀI CA khi lên U CHÂU ĐÀI

 

          Trước chẳng thấy có người xưa, sau cũng chẳng thấy có ai đến. Nhìn trời đất rộng thênh thênh dằng dặc mà riêng mình ta thấy xót xa rơi lệ !

 

          Đây qủa là một bài bi ca ưu thời mẫn thế luận cổ suy kim của một người có tài nhưng bất đắc chí. Đứng trên đài cao nhìn trước trông sau, thấy trời đất bao la mênh mông vô tận mà thân phận con người thì lại nhỏ nhoi, cho dù có tài hoa cũng vẫn không thi thố được, buồn cho nỗi đơn độc bơ vơ của mình trước thiên nhiên cao rộng bao la, nỗi ẩn ức của một kẻ sĩ có tài nhưng lại bị áp chế ruồng rẫy thậm chí bị bức hại. Chỉ vỏn vẹn có bốn câu ngắn ngủi mà dư âm còn đọng mãi trong lòng người đọc.        

        "Tiền bất kiến cổ nhân, Hậu bất kiến lai giả", có nghĩa là "KHÔNG TIỀN KHOÁNG HẬU 空前曠後" mà ta thường nói : Trước đã không mà sau thì trống rổng, nghĩa là trước sau gì đều "Không Có Gì Cả, Không Có Ai Cả !" Nên mới xúc cảm thương tâm đến rơi lệ. Đó là Tâm sự của Trần Tử Ngang đời Đường, còn đối với chúng ta hiện nay, từ...

 

        KHÔNG TIỀN KHOÁNG HẬU 空前曠後 thường dùng để chỉ cái gì đó rất hiếm thấy, rất to lớn, rất vĩ đại ... mà ngày thường hoặc người thường không thể có được, làm được !

           

 

* Diễn Nôm :

                       ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA

DCD_DangU.png

                 Trước xưa chẳng thấy có ai,

                 Sau xưa cũng chẳng thấy người nào đâu.

                 Bao la trời đất một màu,

                 Riêng ta bi thiết tuôn trào dòng châu.

                                        

                                                                                                                               Đỗ Chiêu Đức

Danh Hiệu Thi Nhân :

 

 

                           THI THIÊN TỬ

DCD_ThiThienTu.png

Những người nghiên cứu và say mê thơ Đường, thường hay kháo nhau về những giai thoại xoay quanh các thi nhân của thời đại nầy. Trong số các giai thoại đó, chuyện thường được nhắc đến nhiều nhất là danh xưng của các thi nhân, như  Thi Tiên là Lý Bạch, Thi Thánh là Đỗ Phủ và Vương Duy là Thi Phật, còn một danh hiệu cao quý thường gây tranh cải là Thi Thiên Tử. Vậy, ai là Thi Thiên Tử của thời đại hoàng kim của thi ca nầy ?. Chính là Vương Xương Linh đó, có giai thoại cho rằng Thi Thiên Tử là Vương Chi Hoán, vì trong một lần cá cược, Vương Xương Linh bị thua, cho nên mới nhường chức Thi Thiên Tử lại cho Vương Chi Hoán, nhưng đây chỉ là chuyện các thi sĩ vui đùa với nhau mà thôi, xin mời nghe giai thoại mà dân gian thường truyền khẩu sau đây.....

 

          Trong thời Khai Nguyên đời Đường, các thi nhân Vương Xương Linh, Cao Thích, Vương Chi Hoán đồng nổi danh ngang nhau. Lúc bấy giờ tuy đời sống, hoàn cảnh của mỗi người mỗi khác, nhưng họ vẫn thường hay đi chơi chung với nhau.

          Một ngày kia, trời lạnh, tuyết rơi nhẹ, ba vị thi nhân cùng đến uống rượu tại Kỳ đình. Bỗng nhiên có các linh quan (con hát) ở Lê viên, độ hơn mười người, cũng lên lầu dự tiệc. Nhân đó, ba vị thi nhân đồng hẹn nhau tránh khỏi bàn ngồi, đến bên lò sưởi trong góc để nghe ngóng.

         Trong chốc lát, có bốn cô ca kỹ lần lượt kéo đến. Các cô đều rất xa hoa diễm lệ, yêu kiều khả ái. Tất cả mọi người cùng tấu nhạc và bắt đầu hát, các bài hát đều là những tác phẩm nổi danh đương thời.

          Vương Xương Linh cùng các bạn ước hẹn với nhau rằng: "Bọn chúng ta hiện nay đều là những người có tiếng trên thi đàn, nhưng việc hơn kém chưa định được. Nay cứ lặng nghe các linh quan ngâm thơ và hát những bài thơ  thuộc Nhạc Phủ, xem thơ của ai được ngâm và hát nhiều nhất thì người ấy sẽ là Thi Thiên Tử nhé ! ".

          Một lúc sau, các linh quan cử nhạc, một cô đào gỏ nhịp hát lên rằng:

 

         Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô                寒雨連江夜入吴,

         Bình minh tống khách Sở sơn cô             平明送客楚山孤.

         Lạc Dương thân hữu như tương vấn,     洛楊親友如相問,

         Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.           一片冰心在玉壶!

DCD_dithuyen.jpg

Ban đêm đi thuyền vào đất Ngô trong khi mưa lạnh giăng giăng ngang sông. Sáng sớm mai tiễn khách chỉ có mỗi ngọn núi Sở cô quạnh. Nếu bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm, (thì xin anh đáp rằng ) Lòng tôi như một mảnh băng trong trắng ở trong bình ngọc vậy.

Diễn nôm :                                               

                          

                       Vào Ngô đêm lạnh sông dài,

                       Sáng ra núi Sở đưa người sang ngang.

                       Lạc Dương thân hữu hỏi han,

                       Tấm lòng băng tuyết chan chan ngọc hồ!

        Đó chính là bài " Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm " của Vương Xương Linh, nên khi ...

        Nghe xong, Vương Xương Linh mỉm cười, đưa tay lên vẽ trên tường một dấu hiệu, nói: "Nhất tuyệt cú!". Lại một cô khác ngâm rằng:

 

             Khai khiếp lệ triêm ức             開箧淚沾臆

             Kiến quân tiền nhật thư         見君前日書

             Dạ đài hà tịch mịch                 夜台何寂寞

             Do thị Tử Vân cư.                    猶似子雲居

DCD_Khocduongphu.jpg

                                    Khốc Đơn Phụ Lương Cửu Thiếu Phủ

          Mở hộp ra mà nước mắt ướt đầm trên ngực, vì nhìn thấy bức thư của chàng ngày trước. Chốn dạ đài hiu quạnh biết bao nhiêu, nhưng nơi đó vẫn là chỗ ở của chàng Tử Vân (tức Dương Hùng ) đã mất .

Diễn nôm :

                                                

                          Mở tráp lệ đôi hàng,

                          Thư chàng dạ xốn xang.

                          Tuyền đài sao vắng vẻ,

                          Tử Vân một bóng chàng !

 

          Đó chính là bài " Khốc Đơn Phụ Lương Cửu Thiếu Phủ " của Cao Thích. Nên khi nghe xong...

          Cao Thích đưa tay lên vách vẽ một vòng, nói: "Nhất tuyệt cú!"

 

          Tiếp đến một cô khác cũng gõ nhịp ngâm rằng:

 

        Phụng trửu bình minh kim điện khai   奉帚平明金殿開

        Tạm tương đoàn phiến cộng bồi hồi    暫将團扇共徘徊

        Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc          玉颜不及寒鸦色

        Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai.       犹带昭陽日影來!

DCD_Chieuduong.jpg

Buổi sáng cầm chổi quét khi cửa điện vàng vừa mở ra, tay mân mê cây quạt mà trong dạ lại bồi hồi. Mặt ngọc còn không bằng cả nhan sắc của con quạ lạnh, (vì quạ) còn được hưởng ánh nắng mặt trời ở điện Chiêu Dương mà bay đến đây ! Đó là bài " Trường Tín Thu Từ " cũng của Vương Xương Linh ...

Diễn nôm :

                                                

                          Mở tráp lệ đôi hàng,

                          Thư chàng dạ xốn xang.

                          Tuyền đài sao vắng vẻ,

                          Tử Vân một bóng chàng !

 Lục bát :

                  Điện vàng mở, chổi cầm tay,

                  Bâng khuâng quạt lụa ai hoài xiết chi.

                  Ngọc nhan qụa lạnh khôn bì,

                  Chiêu Dương nắng ấm phải chi được cùng !

 

          Nghe xong, Vương Xương Linh lại đưa tay lên vẽ lên tường, nói: "Nhị tuyệt cú!". Lại một cô khác đứng lên gỏ nhịp cất tiếng ngâm :

 

        千里黃雲白日曛, Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân,

        北風吹雁雪紛紛.   Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.

        莫愁前路無知己, Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,

        天下誰人不識君。 Thiên hạ hà nhân bất thức quân ?!

DCD_Thienly.png

 Ngàn dặm mây ngã màu vàng che mờ cả mặt nhựt. Gió bấc thổi cho chim nhạn bay về nam và tuyết rơi phơi phới. Thôi bạn hãy lên đường đi đi, đừng buồn là phía trước mặt không có người tri kỷ. Vì trong thiên hạ nầy ai là người không biết đến bạn đâu !?  

 

Diễn nôm :

                                                

                           Ngàn dặm mây vàng nắng úa hanh,

                           Tuyết rơi gió cuốn nhạn bay nhanh

                           Đừng sầu trước mặt không tri kỷ,

                           Thiên hạ ai người chả biết anh !

 

Đó là bài " Biệt Đổng Đại " của Cao Thích, nên anh ta lại giơ tay lên ra dấu và điểm : " nhị Tuyệt cú !".

          Bốn cô đã ngâm bốn bài, toàn là tác phẩm của Vương Xương Linh và Cao Thích.

          Vương Chi Hoán thẹn quá, nhưng tự nghĩ rằng thơ của mình nổi danh đã lâu, bèn nói với hai người kia rằng: "Bọn này đều là những nhạc quan không theo kịp thời điểm, những bài họ hát đều là ngôn từ quê mùa của vùng Ba Thục. Còn những khúc hát như Dương xuân Bạch tuyết thì bọn phàm phu tục tử này có dám nói đến đâu ?" Bèn chỉ vào một trong những ca kỹ đẹp nhất bọn, nói: "Đến lượt cô này hát, nếu như không phải là thơ của ta, ta nhất định không tranh đua với các anh nữa. Còn nếu như đúng là thơ của ta, thì các anh phải tôn ta làm Thi THIÊN TỬ nhé !". Nói xong cả bọn vui vẻ cười đợi. Phút chốc, đến lượt cô đào đẹp nhất bọn, búi tóc song hoàn, cất tiếng ca réo rắt :

 

       Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian   黄河逺上白雲間

       Nhất phiến cô thành vạn nhận san       一片孤城萬仞山

       Khương địch hà tu oán dương liễu        姜笛何須怨楊柳

       Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan.    春風不度玉門関

DCD_HoangHa.png

Sông Hoàng Hà chảy từ nơi xa tít trong khoảng mây trắng. Một mảnh thành trơ trọi giữa núi cao muôn nhận (đơn vị đo lường thời xưa, ba thước là một nhận). Sáo Khương đừng thổi bài "Oán dương liễu" nữa, vì gió xuân kia cũng không đưa (tiếng sáo) qua được Ngọc Môn Quan đâu.

 

Diễn nôm :

                                                

                          Hoàng Hà xa tít tầng mây trắng,

                          Đổ xuống thành côi núi ngút ngàn.

                          Tiếng sáo rợ Khương sao réo rắt,

                          Gió xuân chẳng đến Ngọc Môn Quan !

 

Đúng là bài " Lương Châu Từ " nổi tiếng của Vương Chi Hoán, nên khi cô đào vừa dứt tiếng hát thì ...

           Vương Chi Hoán bèn vỗ tay cả cười nói với hai bạn rằng : " Các anh thấy đấy, ta nói có sai đâu, ta quả là chơn mạng Thi THIÊN TỬ đó nhé !". Cả bọn cùng cả cười chuốc rượu uống mừng.

DCD_VuongchiHoan.png

Các linh quan không rõ đầu đuôi câu chuyện, đều hỏi: "Chẳng hay chư vị vui cười chuyện gì thế?" Vương Xương Linh và các bạn liền thuật rõ mọi việc. Các linh quan đồng thưa rằng: "Bọn tục nhân chúng tôi không nhận ra được những bậc cao nhã, xin được muôn vàn ngưỡng mộ!" Xong tất cả đều ngồi vào bàn tiệc cùng vui vẻ uống say  đến sáng.

           Nhân chuyện nầy, mới có giai thoại cho rằng Vương Chi Hoán cũng là Thi Thiên Tử là vì vậy !.....

 

          Kính mời Quý Vị xem  thêm tài liệu bổ sung sau đây :


          詩天子指诗坛的领袖。 唐 诗人 王昌龄 、 王维 和 李白 都有此誉称。 清 陆凤藻 《小知录·文学》:“ 王昌龄 集, 王维 诗天子, 杜甫 诗宰相。” 清 宋荦 《漫堂说诗》:“大抵各体有‘初’、‘盛’、‘中’、‘晚’之别,而三 唐 七絶,并堪不朽。 太白 、 龙标 ( 王昌龄 )更有‘诗天子’之号。” 郑振铎 《插图本中国文学史》第二五章八:“ 王昌龄 字 少伯 , 京兆 人,与 高适 、 王之涣 齐名,而 昌龄 独有‘诗天子’的称号。”
          Thi Thiên Tử ( Vua trong thơ )  chỉ lãnh tụ trên Thi Đàn. Các thi nhân Vương Xương Linh, Vương Duy và Lý Bạch đều có cái danh xưng danh dự nầy. Theo Lục Phụng Tảo đời Thanh " Văn học- Tiểu tri lục " thì : " Theo Vương Xương Linh tập, Vương Duy là Thi Thiên Tử, Đỗ Phủ là Thi Tể Tướng. "Trong " Mãn đường thuyết thi " đời Thanh thì : " Đại đễ các thể đều phân biệt SƠ, THỊNH, TRUNG, VÃN, mà tam Đường thất Tuyệt, đều có thể  nói là bất hủ hết được. Thái Bạch, Long Tiêu ( Vương Xương Linh ) lại có danh hiệu là "Thi Thiên Tử ".  Theo điều thứ 25 chương 8 trong " Tháp đồ bổn TRUNG QUỐC VĂN HỌC SỬ " của Trịnh Chấn Đạc viết : " Vương Xương Linh tự Thiếu Bá, người đất Kinh Triệu , nổi danh ngang hàng với Cao Thích, Vương Chi Hoán, nhưng Vương lại có danh xưng độc hữu là " THI THIÊN TỬ ".

DCD_danhhieu.png

Danh Hiệu của các thi nhân đời Đường như sau :

1.  詩仙/詩俠:李白   Thi Tiên, còn gọi là Thi Hiệp : Lý Bạch.
Mời Xem: XUÂN TỨ của Lý Bạch (Đỗ Chiêu Đức Diển Giãi)

2.  詩聖/詩史:杜甫   Thi Thánh hay Thi Sử : Đỗ Phủ. 

       Bạc Mộ - Đỗ Phủ
3.  詩豪:劉禹錫       Thi Hào : Lưu Vũ Tích.

ĐƯỜNG THI TUYỂN DỊCH Tập 1 : Ô Y HẠNG - Lưu Vũ Tích 

4.  詩霸:白居易       Thi Bá : Bạch Cư Dị

Về Bài "THU VŨ DẠ MIÊN " của BACH CƯ D 

5.  詩鬼/鬼才:李賀   Thi Quỷ hay Quỷ Tài : Lý Hạ. 

     Nam Viên Thập Tam Thủ kỳ Lục
6.  詩佛:王維          Thi Phật : Vương Duy.

Tống Xuân Từ của Vương Duy  

7.  詩囚:孟郊          Thi Tù : Mạnh Giao.

MẠNH GIAO 孟郊 (751-814) - Đỗ Chiêu Đức
8.  詩奴:賈島          Thi Nô : Giả Đảo.

Về Bài Xuân Hành ( 春行 ) của Giả Đảo (793 - 865)
9.  詩骨:陳子昂         Thi Cốt : Trần Tử Ngang.
      Đăng U Châu Đài Ca
10.  詩狂:賀知章        Thi Cuồng : Hạ Tri Chương.

Mời xem: HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ Hạ Tri Chương
11.  詩傑:王勃           Thi Kiệt : Vương Bột.

Mời xem: Giai Thoại Văn Chương : Sửa Văn Vương Bột (Đỗ Chiêu Đức )
12.  詩天子:王昌齡       Thi Thiên Tử : Vương Xương Linh.

Mời xem: KHUÊ OÁN - VƯƠNG XƯƠNG LINH
13.  詩腸:張籍           Thi Trường : Trương Tịch. 

Bàn về Khúc ngâm người tiết phụ đời Đường (Trương Tịch) 
14.  詩囊 : 齊己           Thi Nang : Tề Kỷ. 
Nhất Tự Sư (Tề Kỷ) 

                                                                      

Đỗ Chiêu Đức 

Biên khảo

THẨN THƠ XƯỚNG HỌA

Kính mời vào xem thơ xướng họa với đủ đề tài và hình ảnh:

TL_bamvoday.gif

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 53 : 

                                      

                                       HƯƠNG

DCD_Huong.jpg

                                             HƯƠNG TRỜI đắm nguyệt say hoa,

                                       Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình !

              

            HƯƠNG TRỜI chữ Nho là Thiên Hương 天香, nằm trong nhóm từ THIÊN HƯƠNG QUỐC SẮC 天香國色  hay QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG 國色天香 gì cũng thế. Ta nói là Hương Trời Sắc Mước hay Sắc Nước Hương Trời. Thường dùng để chỉ những người đẹp tuyệt trần, những tuyệt thế giai nhân, có cái hương của trời và cái sắc của nước, là người đẹp nhất nước mà bây giờ ta thường gọi là HOA HẬU toàn quốc, Hoa Hậu Thế Giới, Hoa Hậu Hoàn Vũ.... Trong Truyện Kiều Mã Giám Sinh đã ngầm đánh gía Thúy Kiều là :

 

                                   Đã nên QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG,

                              Một cười này hẵn nghìn vàng chẳng ngoa.

                                    Về đây nước trước bẻ hoa,

                               Vương tôn qúy khách ắt là đua nhau !... 

 

          Thật ra QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG 國色天香 là tên riêng để gọi Hoa MẪU ĐƠN, có điển tích như sau :

 

          Theo Lý Tuấn"Tùng Viên Tạp lục 李濬.松窗雜錄 đời Đường : Nhà vua hỏi kẻ thị thần (người hầu cận) :"Nay trong kinh thành rất nhiều người ngâm vịnh hoa Mẫu Đơn, vậy ai là người vịnh hay nhất ?". Người thị thần đáp :"Thần nghe mọi người ngâm vịnh thường khen là thơ của Lưu Chính Phong là hay nhất với hai câu : Quốc sắc triêu hàm tửu, Thiên hương dạ nhiễm y 國色朝酣酒,天香夜染衣." Có nghĩa : Vẻ QUỐC SẮC ửng như say rượu (chỉ màu hoa đỏ thắm), Mùi THIÊN HƯƠNG đêm đến ngát y thường (chỉ mùi hương thơm ngát). Hai câu thơ trên ca ngợi hoa Mẫu Đơn là hoa đẹp nhất thơm nhất. Trong ba bài Thanh Bình Điệu thi tiên lý Bạch đã so sánh sắc đẹp của Dương Qúy Phi như là hoa Mẫu Đơn, nên sau dùng rộng ra QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG  chỉ những giai nhân đẹp nhất nước, nói chung là để chỉ người đẹp có sắc đẹp vượt trội hơn những ngưòi khác. 

DCD_Quocsacthienhuong.jpg

 Khi nói về cặp đôi Kim Trọng và Thúy Kiều cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                               Người QUỐC SẮC, kẻ thiên tài,

                           Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

 

         Còn khi Vương Quan kể về người đẹp Đạm Tiên "Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến oanh", nhưng : 

 

                                    Phận hồng nhan có mong manh,

                           Nửa chừng xuân thoắt gãy cành THIÊN HƯƠNG !

 

         Thiên Hương là Hương Trời, HƯƠNG của TRỜI ở trên cao chất ngất mà người thường khó bề với tới, như nàng cung nữ kiêu kỳ của Ôn Như Hầu trong Cung Oán :

 

                                   HƯƠNG TRỜI sá động trần ai,

                             Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

 

         Nhưng, có khi cũng dùng để chỉ thuần túy là mùi hương hoa thơm ngát mà thôi, như trong truyện Nôm khuyết danh Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng :

 

                                   Dặm hoa lừng lẫy HƯƠNG TRỜI,

                                Phút giây hiện đã đến nơi cửa thiền.  

 

                                  

 

         HƯƠNG ở đây thuần túy là mùi thơm của hoa, là hương hoa kêu gọi bướm ong cũng trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :

 

                                     Vườn xuân bướm hãy còn rào,

                              Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm HƯƠNG.

 

        HƯƠNG còn là HƯƠNG HỎA 香火, là Nhang Đèn (Hỏa 火 là Lửa, mà cũng là đèn đóm nữa). Nhưng từ HƯƠNG HỎA ta quen hiểu là Nhang Khói, như Đất Hương Hỏa, Ruộng Hương Hỏa... là những miếng đất miếng ruộng dùng để canh tác cho sanh hoa lợi để thờ cúng ông bà, để có Nhang Khói cho Tổ Tiên. Nhưng trong văn học cổ Hương Hỏa còn đi với Ba Sinh thành "Hương Hỏa Ba Sinh" mà ta quen nói là : HƯƠNG LỬA  BA SINH hay BA SINH HƯƠNG LỬA (là TAM SANH HƯƠNG HỎA 三生香火) theo tích sau đây :

 

      Cao tăng Viên Trạch 圓澤 đời Đường, có một người bạn thân tên là Lý Nguyên Thiện 李源善. Hai người cùng ước hẹn nhau đi về vùng Trường Giang Tam Hiệp. Sư muốn đi bằng đường thủy, nhưng Lý Nguyên Thiện lại muốn đi bằng đường bộ. Sư đành chìu bạn. Trên đường đi, họ gặp một người đàn bà mang thai bụng rất to đang lấy nước ở bờ sông. Sư bèn nói với Nguyên Thiện rằng :"Ta muốn tránh mà cũng không khỏi, người đàn bà đó mang thai đã ba năm rồi, đợi ta đi đầu thai mà ta cứ tránh mãi. Bây giờ gặp gỡ nơi đây thì hết tránh được rồi. Ba ngày nữa, khi anh đến nhà người đàn bà đó thấy đứa bé mới sinh mĩm cười với anh, thì chính là ta đang chào anh đó. Đến đêm Trung Thu mười ba năm sau, ta lại chờ anh ở Thiên Trúc Tự của đất Hàng Châu. Chừng đó ta sẽ lại gặp nhau.

      Đêm đó, qủa nhiên sư Viên Trạch viên tịch, và người đàn bà kia cũng chuyển dạ sanh ra một đứa bé trai. Sáng hôm sau, Lý Nguyên Thiện đến thăm thì đứa bé qủa nhiên đã mĩm cười với chàng. Thắm thoát mười ba năm sau, khi chàng tìm đến Thiên Trúc Tự của Hàng Châu. Khi vừa bước đến cửa chùa đã trông thấy một mục đồng ngồi trên lưng trâu bên phiến đá trước chùa mà ngâm rằng :

 

              三生石上舊精魂,   Tam sanh thạch thượng cựu tinh hồn,

              賞月吟風不要論。   Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luân.

              慚愧情人遠相訪,   Tàm qũy tình nhân viễn tương phỏng,

              此身雖異性常存。   Thử thân tuy dị tính thường tồn.

   Có nghĩa :

              Ba sinh trên đá ấy hồn xưa,

              Phong nguyệt ngâm nga chẳng hỏi thưa.

              Thẹn bởi người xưa nay đến viếng,

              Thân tuy khác lạ tính như xưa. 

 

       Mục đồng ngâm xong, đến dắt tay Lý Nguyên Thiện cùng ngồi trên tảng đá để hàn huyên. Hiện nay trước chùa Thiên Trúc ở Tây Hồ của đất Hàng Châu vẫn còn tồn tại tảng đá nầy, tục gọi là TAM SANH THẠCH 三生石, lấy ý ở tiền thân của Viên Trạch là NHẤT SINH, đứa bé sơ sinh mĩm cười với Nguyên Thiện là NHỊ SINH và đứa trẻ mục đồng ở trước chùa Thiên Trúc là TAM SINH. Hình Thành Thành ngữ TAM SINH HỮU HẠNH 三生有幸. Có nghĩa là : Có được cái may mắn của ba đời mới gặp được nhau đây.

DCD_Huonglua.jpg

 Còn HƯƠNG LỬA thì theo như tài liệu "Văn Hóa Phật Giáo của hoavouu.com" trên mạng thì kể là :

 

       Trong sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa, Tỉnh Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết gì. Trong giấc ngủ, Tỉnh Lang mơ thấy mình đi chơi Non Bồng. Ở chốn ấy, Tỉnh Lang gặp một ông thầy ngồi niệm kinh, trước mặt có một cây hương đang cháỵ Do tò mò, Tỉnh Lang bèn hỏi về nguyên do cây hương nàỵ Thầy tăng đáp lại rằng, trước đó đã có một người lên chùa và thắp cây hương này để khấn nguyện, cầu phúc. Nay cây hương vẫn còn cháy mà người ấy đã sinh được ba kiếp rồị. Kiếp đầu tiên là vua Huyền Tôn, kiếp thứ hai là vua Hiến Tôn ở đời Đường, và kiếp thứ ba là Tỉnh Lang. Nghe đến tên mình, Tỉnh Lang giật mình tỉnh giấc, lòng nửa tin nửa ngờ. Về sau, điển tích này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và dần dà đã hình thành nên thành ngữ "Tam sinh hương hỏa" hay "hương lửa ba sinh" để chỉ lời nguyện có hiệu lực đến ba đời người.

 

       Dù kể theo tích nào thì BA SINH HƯƠNG LỬA hay HƯƠNG LỬA BA SINH trong văn học cổ đều dùng để chỉ TÌNH DUYÊN giữa gái trai đã được định sẵn từ ba kiếp trước, như khi lở "Hạ công chén đã qúa say" với Thúy Kiều rồi, đến rạng ngày Hồ Tôn Hiến tỉnh rượu lại lo lắng " Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên ngó xuống người ta trông vào", nên mới ép Thúy Kiều lấy Thổ Quan với cái cớ :

 

                   Dạy rằng: HƯƠNG LỬA BA SINH,

                   Dây loan xin nối cầm lành cho ai.

DCD_Huongluabasinh.jpg

  HƯƠNG LỬA còn để chỉ duyên nợ hay tình nghĩa vợ chồng, như trong truyện Nôm Nữ Tú Tài :

  

                    May mà HƯƠNG LỬA bén duyên,

                    Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đồ.

 

       Khi chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, để "Phỉ nguyền sánh Phượng đẹp duyên cởi rồng" rồi, thì Từ Hải lại dứt áo ra đi làm việc lớn trong khi :

 

                    Nửa năm HƯƠNG LỬA đương nồng,

              Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

 

       Khi trở lại vườn Thúy để tìm Thúy Kiều không gặp, đến khi thi đậu làm quan vẫn không tìm gặp được Thúy Kiều. Kim Trọng những tưởng kiếp nầy đã hết trông mong gì gặp lại người xưa, nên khi "Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến ĐÀN với HƯƠNG" để dạo lại khúc đàn xưa, thì cảm thấy :

 

                     Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,

                LỬA HƯƠNG biết có kiếp này nữa thôi ?

 

       Chung tình như Kim Trọng, cũng qủa thật hiếm thấy ở ngày hôm nay !

 

 

       Xin kết thúc các từ HƯƠNG ở đây. Hẹn bài viết tới !

 

     Đỗ Chiêu Đức

VUI TUỔI 90

THƠ ĐƯỜNG 6 CHỮ

               

             Cố Huống 顧況 (725-814) tự Bô Ông 逋翁, người Hải Diêm 蘇州 Tô Châu 海鹽 (nay thuộc tỉnh Chiết Giang 浙江, Trung Quốc). Về già, tự lấy hiệu là Bi Ông. Ông là Thi sĩ, họa sĩ của đời Đường. Quan không cao, từng giữ chức Trứ Tác Lang. Vì làm thơ châm chích giới quyền quí đương thời, nên bị biếm đến Nhiêu Châu làm Tư Hộ Tham Quân. Về già ẩn cư ở núi Mao Sơn.

DCD_CoHuong.jpg

Thường thì nhắc tới Đường Thi, người ta chỉ nghĩ đến thơ 5 chữ và 7 chữ : Ngũ ngôn Cổ Phong, Ngũ ngôn Tứ tuyệt, Ngũ ngôn Bát cú, Thất ngôn Cổ phong, Thất ngôn Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, mà ít ai biết đến Lục ngôn thi, tức là Thơ 6 chữ. Kỳ nầy, xin trình làng một bài thơ Đường 6 chữ của thi sĩ Cố Huống, người đã có bài thơ nổi tiếng khi vịnh Giai thoại Điển tích LÁ THẮM của chàng thư sinh Vu Hựu và Cung nhân Hàn Thị như sau :

 

               Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,                      花落深宫鶯亦悲
               Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì.        上陽宫女斷腸時 
               Quân ân bất bế đông lưu thủy,                         君恩不閉東流水
               Diệp thượng đề thi ký dữ thùy ?                      枼上題詩寄與誰?

Tạm diễn nôm như sau :

                                      Hoa rụng cung sâu oanh cũng sầu,
                                      Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau.
                                      Ơn Vua chẳng bế dòng lưu thủy,
                                      Trên lá đề thơ gởi đến đâu ?

 

                                                                               ĐCĐ

 

               Bây giờ thì xin cùng thưởng thức và cùng kính mời tất cả Quý thầy cô, các bạn đồng môn, các em học sinh, chúng ta cùng tìm hiểu và dịch bài thơ 6 chữ đặc biệt dưới đây !

 

 

 

                        歸山作                                      QUY SƠN TÁC

 

                  心事數莖白髮,                    Tâm sự sổ kinh bạch phát

                  生涯一片青山。                    Sanh nhai nhất phiến thanh sơn

                  空林有雪相待,                    Không lâm hữu tuyết tương đãi

                  古道無人獨還。                    Cổ đạo vô nhân độc hoàn

                  桃紅復含宿雨,                       Đào hồng phục hàm túc vũ

                  柳綠更帶朝煙.                       Liễu lục cánh đái triêu yên

                  花落家童未掃,                       Hoa lạc gia đồng vị tảo

                  鳥啼山客猶眠 .                      Điểu đề sơn khách do miên.

 

                              顧 况                                                  Cố Huống.

DCD_Quisontac.png

* Dịch Nghĩa :

                                  SÁNG TÁC KHI VỀ NÚI Ở ẨN,

 

         Tâm sự tịch liêu của tuổi già, chỉ còn biết tỉ tê cùng vài sợi tóc bạc lưa thưa mà thôi. Sinh nhai ư ?. 

Ừ, thì cứ sống nhờ vào cỏ hoa cây trái của một dãy núi xanh xanh kia. Trong cảnh núi rừng vắng lặng nầy, ta chỉ còn bầu bạn với tuyết trắng mà thôi. Mỗi ngày trên con đường xưa lối cũ nầy, ta chỉ đi về với một thân một bóng. Mỗi chiều chiều ngắm hoa hồng còn long lanh với những hạt mưa xuân, và mỗi buổi sáng hàng liễu xanh chập chờn ẩn hiện trong làn hơi sương sớm. Hoa rụng đầy thềm đầy đất, gia đồng còn chưa kịp quét đi. Tiếng chim líu lo của buổi ban mai cũng không đánh thức được người khách núi nhàn nhã còn đang mơ màng giấc điệp.

 

Diễn nôm :

                        Tâm sự : Lơ thơ tóc bạc,

                        Núi xanh một dãi : Sinh nhai !

                        Rừng vắng bạn bầu cùng tuyết

                        Đường xưa vắng vẻ không ai ,

                        Hoa đào hồng vì mưa tối

                        Sương sớm đưa cành liễu bay

                        Hoa rụng gia đồng chưa quét,

                        Chim ca khách núi còn say !

Lục bát :

                         Lơ thơ tóc trắng não nùng,

                         Sinh nhai một dãy chập chùng núi xanh.

                         Bạn cùng tuyết trắng phủ quanh,

                         Đường xưa vắng vẻ độc hành một thân,

                         Đào hồng lóng lánh mưa xuân,

                         Liễu xanh thấp thoáng bâng khuâng sáng trời.

                         Gia đồng chưa quét hoa rơi,

                         Giấc nồng khách núi mặc lời chim ca !

 

                                                                    Đỗ Chiêu Đức

DCD_Quisontac_2.jpg

KHUÊ OÁN 

 VƯƠNG XƯƠNG LINH

(698-756)

dcd_VuongXLinh_2.png

 Vương Xương Linh 王昌齡 tự là Thiếu Bá, người đất Thái Nguyên Sơn Tây, là thi nhân nổi tiếng thời thịnh Đường. Thơ của ông cùng xếp ngang hàng với Cao Thích, Vương Chi Hoán. Ông đậu Tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 15 đời Đường Huyền Tông. Từng giữ các chức vụ như Hiệu Thư Lang, Bác học Hoằng từ Khoa, Huyện úy huyện Phạm Thủy, Huyện thừa huyện Giang Ninh. Sau bị biếm về huyện Long Tiêu. Sau loạn An Lộc Sơn, ông từ quan về quê, Năm Chí Đức thứ 2 bị Thứ Sử Hào Châu Lư Khưu Hiểu giết chết khi mới 58 tuổi.  

       Vương Xương Linh nổi tiếng về thơ biên tái, tả lại những cảnh hùng vĩ hiểm ác của chiến trường. Ông chuyên về thơ Thất ngôn Tứ tuyệt, nên có mỹ hiệu là " Thất Tuyệt Thánh Thủ " và là "Thi Thiên Tử " của đương thời. 

      Sau đây là một bài Thất Ngôn Tứ Tuyệt của ông mà bất cứ người yêu thơ Đường nào cũng biết đến. Không phải là thơ Biên Tái mà là thơ của một thiếu phụ có chồng đang đi tìm chữ công danh ngoài biên tái ... Xin mời đọc :

 

           

                                            

      閨怨                        KHUÊ OÁN
            王昌齡                        Vương Xương Linh

閨中少婦不知愁,   Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,

春日凝妝上翠樓。   Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
忽見陌頭楊柳色,   Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,

悔教夫婿覓封侯。   Hối giao phu tế mịch phong hầu.

 

Chú Thích :

      Ngưng Trang : là Trang điểm hoàn hảo, lộng lẫy.

      Thúy Lâu : là Lầu Thúy, lầu có hoa cỏ xanh biếc chung quanh.

      Hốt : là Bất chợt. Hốt Kiến :là Chợt trông thấy. 

      Mạch Đầu : là Đầu đường, nơi ngã ba ngã tư.

      Hối Giao : Giao vốn là chữ GIÁO 教, có nghĩa là DẠY. Ở đây được sử dụng như Phó Từ, có nghĩa là Thúc Giục, là Thôi Thúc. Nên...

      Hối Giao là Hối hận vì đã thúc giục.

      Mịch : là Tìm kiếm.

      Phong Hầu : là Hầu tước, là Làm quan, ở đây chỉ Công danh.

 

Nghĩa Bài Thơ :

                                  Nỗi Oán Hờn Trong Phòng Khuê

 

      Nàng thiếu phụ trong phòng khuê không hề biết đến sầu muộn là gì. Ngày xuân nàng mới trang điểm lộng lẫy bước lên lầu thúy. Bất chợt nàng trông thấy sắc liễu xanh tươi ở đầu đường, mà động lòng hối tiếc về việc đã thúc giục phu quân của nàng đi tìm chữ công danh.

 

      Đây là bài thơ Khuê Oán nổi tiếng trong văn học cổ, diễn tả lại cái tâm lý biến đổi của những nàng cô phụ trẻ đang tràn đầy sức sống với lòng xuân phơi phới. Câu đầu dùng phép phản diện đi ngược lại với chủ đề bằng 3 chữ " Bất tri sầu " để chỉ cái tâm lý vô tư của nàng thiếu phụ trong nếp sống vàng son. Kịp đến câu 2 khi xuân đến, nàng mới trang điểm thật đẹp để lên lầu thưởng xuân ngắm cảnh. Bài thơ tứ tuyệt 4 câu đã đi hết 2 câu đầu rồi, mà vẫn chưa thấy OÁN ở đâu cả. Nên câu 3 phải đột biến bằng chữ HỐT là Bỗng nhiên, là Bất chợt trông thấy vẻ xanh om tươi tốt tràn đầy sức sống thanh xuân của cây liễu ven đường, mà mình thì cô đơn vò vỏ có một thân một bóng trong cảnh tình xuân phơi phới, đưa đến sự hối hận của câu 4. Hối hận vì trước đây đã lỡ xúi giục, thôi thúc khuyên chàng đi lập chữ công danh, nên giờ mới cô đơn chiếc bóng một mình đơn độc trong cảnh tình xuân tràn đầy nhựa sống !

 

        Bài thơ chỉ sử dụng 3 chữ " bất tri sầu " và không có một chữ Oán nào cả, nhưng oán và sầu lại bàng bạc tràn đầy sau sự hối hận tiếc nuối của nàng cô phụ vọng phu !

 

        Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc đoạn diễn tả nỗi lòng của người chinh phụ, Đặng Trần Côn cũng mượn 2 câu cuối của bài nầy và đã được Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm rất hay như sau :

 

                Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, 
                Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

 

                 

Diễn Nôm :

                              KHUÊ OÁN

          

                Phòng khuê thiếu phụ sầu chưa biết,

                Trang điểm lên lâu ngắm cảnh xanh.

                Chợt thấy ven đường màu liễu thắm,

                Hối khuyên phu tướng lập công danh.

Lục bát :

                Phòng khuê nàng chửa biết sầu,

                Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm xuân.

                Chợt nhìn sắc liễu bâng khuâng,

                Hối khuyên chàng vội tìm đường công danh.

                  

                                                         Đỗ Chiêu Đức

_____________________________________________

DCD_Khueoan.png
DCD_KhueOan_2.png

       CÂU ĐỐI ĐĂNG KHOA

           VƯƠNG AN THẠCH và Chữ SONG HỈ

DCD_SongHi.png

 Sau đây, xin kính mời Quý Thầy Cô, Quý đồng môn Cựu Học Sinh Trung học PTG & ĐTĐ, các bạn Vườn Thơ Thẩn và Các Em học sinh trường TÂN HƯNG cũ, cùng nghe lai lịch của chữ SONG HỈ 囍 rực rỡ đỏ tươi trong các Hôn Lễ Trung Hoa xưa và mãi cho đến ngày nay, bất cứ nơi nào trên thế giới có Lễ cưới của người Hoa, người Việt thì ta sẽ thấy chữ SONG HỈ vui tươi rực rỡ nầy xuất hiện. Nó được viết bằng 2 chữ HỈ 喜 liền nhau, nên gọi là SONG HỈ 囍, ý chỉ đây là ngày vui của 2 HỌ. Nhưng, lúc đầu nó là 2 niềm vui đến cùng một lúc với Văn, Thi Hào và là Tể Tướng VƯƠNG AN THẠCH đời Tống. Xin kính mời Quý vị cùng tiêu khiển với câu chuyện Văn chương lý thú sau đây....

DCD_VuongXuongLinh.png

 Vương An Thạch ( 18-02-1021-- 21-05-1086 ), Tự là Giới Phủ, hiệu là Bán Sơn, được phong là Kinh Quốc Công, nên người đời còn gọi là Kinh Công. Người đất Lâm Xuyên thuộc Vũ Châu đời Bắc Tống. Ông là Thừa Tướng của triều Bắc Tống, lãnh tụ của Tân Đảng ( Đảng Cải Cách ). Âu Dương Tu đã ca ngợi ông như sau :

                Hàn lâm phong nguyệt tam thiên thủ, 翰林風月三千首,

                Lại bộ văn chương nhị bách niên.        吏部文章二百年。

                Lão khứ tự lân tâm thượng tại,           老去自憐心尚在,

                Hậu lai thùy dữ tử tranh tiên.             后來誰與子爭先。  

Có nghĩa :
               Ba ngàn bài gió trăng phong nguyệt,
               Hai trăm năm Lại bộ văn chương.
               Già đi tự cảm thương thân phận
               Hậu thế ai người dám sánh ông ?!


         Tác phẩm gồm có " Vương Lâm Xuyên tập, Lâm Xuyên tập Thập di,... ". Ông còn giỏi về thi, từ. Lưu truyền nổi tiếng nhất trong dân gian là 2 câu thơ trong bài " Bạc thuyền Qua Châu ( Thuyền ghé bến Qua Châu ) là :


         Xuân phong hựu LỤC Giang nam ngạn,  春風又綠江南岸,
         Minh nguyệt hà thời chiếu ngã hoàn ?    明月何時照我還。
Có nghĩa :
         Gió xuân lại thổi làm cho bờ Giang nam XANH biếc,
         Trăng bao giờ mới soi sáng trên đường ta về quê ?!

      Chữ LỤC 綠 là Hình Dung Từ, có nghĩa là : Màu xanh lá cây. Ở đây được tác giả sử dụng làm Động Từ một cách thật khéo léo và thật gợi hình :
                   " Gió xuân lại làm cho XANH cả bờ bãi của xứ Giang Nam."
Có nghĩa :
        Khi gió xuân về tức là mùa xuân cũng đã về làm cho cây cỏ đâm chồi nẩy lộc mang đến màu xanh cho xứ Giang Nam, chớ bản thân gió xuân không thể làm cho xứ Giang Nam xanh lên được. Nên...
          Chỉ một chữ XANH ( Lục ) thôi đã mang lại đầy đủ sức sống của hoa cỏ mùa xuân và như chiếc đủa thần của tạo hóa : Gió xuân thổi tới đâu là mang màu xanh đến nơi đó ngay !

        " 囍 " 的来历

LAI LỊCH CỦA CHỮ SONG HỈ

           Chữ SONG HỈ lớn màu đỏ, treo ở trước cửa phòng Hoa chúc, chẳng những tạo thêm không khí vui tươi mà còn tượng trưng cho SONH HỈ LÂM MÔN ( Hai niềm vui đến nhà cùng một lúc ). Căn cứ theo ghi nhận của Sử liệu, thì lai lịch của chữ SONG HỈ nầy xuất phát từ Tể Tướng Vương An Thạch đời Bắc Tống, Câu chuyện như sau.....
         Tương truyền năm 20 tuổi, khi từ Lâm Xuyên Vũ Châu đến kinh đô Lạc Dương để ứng thí, khi nghỉ ở khách sạn Mã gia trấn để chờ dự thi. Một hôm, sau buổi cơm tối, ông thả bộ ra phố, khi đi ngang qua nhà Mã viên ngoại, thấy phía trước cửa nhà treo 2 cái lồng đèn kéo quân, bên cạnh có đôi câu đối như sau :
                       Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ.

                        走  馬   燈,    燈   走   馬,   燈   熄   馬   停   步。
 Có nghĩa :
        Tẩu Mã Đăng là Đèn Chạy Ngựa, ta gọi là Đèn Kéo Quân.
 Nên câu trên có nghĩa : 
         Đèn chạy ngựa, ngựa chạy trên đèn, đèn tắt ngựa ngừng chạy.
 Theo nghĩa của ta thì là :
         Đèn kéo quân, quân kéo đèn, đèn tắt quân ngừng kéo.

DCD_denkeoquan.jpg

                                                2 loại Đèn Kéo Quân 

      

         Vương An Thạch xem xong trầm ngâm giây lát, bỗng vỗ tay đánh đét một tiếng khen : " Câu đối hay tuyệt, nhưng rất tiếc là không có vế đối lại ! ". Người quản gia nghe thấy vội vàng chạy vào bẩm báo với Mã viên ngoại, nhưng khi Mã viên ngoại ra tới cửa thì Vương An Thạch đã đi xa rồi.
         Sự đời cũng lắm việc trùng hợp ngẫu nhiên, hôm sau khi đi thi, vì văn tài mẫn tiệp,làm bài nhanh nộp quyển sớm, nên được quan chủ khảo chú ý ngợi khen và gọi lên hạch miệng. Ông chỉ ra cột cờ trước sân, nơi có treo lá cờ thêu hình một com hổ bay với đôi cánh vươn ra và đọc :
                          Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.

                          飛  虎 旗, 旗  飛  虎,旗   捲   虎  藏   身。
 Có nghĩa :
                     Cờ cọp bay, cọp bay trên cờ, cờ cuốn cọp ẩn mình.

DCD_Phihoky.jpg

                                                      Phi Hổ kỳ
 
         Vương An Thạch buộc miệng đọc ngay câu đối của Mã viên ngoại :" Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ ", để đối lại.  Quan chủ khảo vô cùng tán thưởng và kinh ngạc trước tài ứng đối mau lẹ và chính xác của Vương An Thạch, và không ngớt lời ngợi khen.
        Rời khỏi trường thi, Vương vô cùng đắc ý, trong lúc hớn hở đi về nhà trọ, thì người Quản gia nhà họ Mã nhận ra Vương và mời về phủ ra mắt viên ngoại. Khi vào đến phòng khách thì đã thấy trên bàn bày sẵn văn phòng tứ bảo, giấy mực hẳn hoi. Mã Viên ngoại đọc ngay câu đối " Tẩu mã đăng..." cho chàng đối . Vương An Thạch chẳng ngần ngừ chút nào cả, hưu bút viết ngay câu đối mà Quan chủ khảo đã ra cho chàng là " Phi hổ kỳ..."  để đối lại. Viên Ngoại vô cùng đẹp dạ, kinh ngạc trước tài ứng đối mau lẹ của Vương và rất vui vẻ mà cho Vương biết rằng, ông ra câu đối nầy là để kén rể, nay mến tài mẫn tiệp của Vương nên quyết định gả con cho chàng. Chọn ngày lành tháng tốt và làm lễ thành hôn ngay tại Mã phủ.
        Trong lúc cô dâu chú rễ sắp làm lễ bái đường, thì có sứ đến tuyên đọc kết quả kỳ thi vừa qua, và cho biết Vương An Thạch vừa đậu Tiến sĩ cập đệ, ngày mai được mời vào cung Quỳnh Lâm dự yến. Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, truyền bày thêm tiệc rượu để khoản đãi quan khách. Riêng Vương An Thạch cũng vui mừng vô hạn, đang cơn hứng chí bèn sẵn giấy bút viết ngay HAI chữ Hỉ sát vào nhau dán lên cửa để mừng cho Hai niềm Vui lớn đến cùng một lúc, Hỉ thượng gia Hỉ, Đại tiểu Đăng Khoa cùng một lúc. 

DCD_cacchuSongHi.jpg

                                                Các kiểu chữ SONG HỈ

 

        Từ đó dân gian mới có lệ, chú rể được mặc áo Trạng Nguyên Tiến Sĩ trong ngày cưới và dán chữ SONG HỈ ở khắp nơi trong nhà khi làm lễ Thành hôn cho đến hiện nay. Ngay cả ở nước Mỹ nầy, trước mắt các nhà hàng đều có sẵn chữ SONG HỈ và hình rồng phụng hai bên trong các phòng ăn rộng dành riêng cho cô dâu chú rể đãi khách trong ngày lễ Tân Hôn.

 

 

                                                                                                    Đỗ Chiêu Đức

___________________________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 52 : 

                                                HỒNG

DCD_Hong.png

                                           Hồng hồng Tuyết tuyết,

                                   Mới ngày nào chửa biết cái chi chi !

 

         Đó là hai câu thơ mở đầu cho bài ca trù "Gặp Cô Đào Cũ" của cụ Dương Khuê, bạn thân của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.  HỒNG, TUYẾT thường dùng để đặt tên cho các cô gái, nên Hồng Hồng Tuyết Tuyết là nhóm từ dùng để chỉ chung các cô gái khi đang độ xuân thì, đẹp như hoa hồng mới hé nhụy và trong sáng như tuyết trắng bay bay. Nên, trong văn học cổ ta thường gặp các từ như...

 

         HỒNG NHAN 紅顏 là Gương mặt ửng hồng, là gương mặt đẹp. Nên HỒNG NHAN thường dùng để chỉ người đẹp, như trong Truyện Kiều khi chị em đi đạp thanh, Thúy Kiều đã nghe Vương Quan kể về Đạm Tiên như sau :

 

                                         Phận HỒNG NHAN có mong manh,

                                   Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

         

         Câu "Phận Hồng Nhan có mong manh" là do câu nói chữ là "HỒNH NHAN BẠC MỆNH 紅顏薄命", chỉ người đẹp thường hay có mạng số truân chiên, lao đao lận đận, như lời của chàng Thúc Sinh nói đỡ cho Thúy Kiều trước mặt Hoạn Thư :

 

                                             Sinh rằng : Thật có như lời,

                                   HỒNG NHAN BẠC MỆNH một người nào vay.

                                             Nghìn xưa âu cũng thế nầy,

                                           Từ bi xin liệu nới tay mới vừa !

 

                                      Còn trong bài Ca trù "Vịnh Thúy Kiều" của cụ Nguyễn Công Trứ thì gọi là MÁ HỒNG PHẬN BẠC :

 

                                      ... Đã biết MÁ HỒNG thời PHẬN BẠC,

                                       Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng,

                                       Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa Kim lang...

 

       Má Hồng thời phận bạc, nên chả trách các người đẹp hay nhỏ lệ sầu thương, khóc cho thân phận mỏng manh của mình, thậm chí đến nỗi "Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao". Máu theo nước mắt là nước mắt đỏ như màu máu, gọi là giọt HỒNG BĂNG 紅冰 như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều Ôn Như Hầu :

                                          Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu,

                                       Giọt HỒNG BĂNG thấm ráo làn son.

      

       HỒNG BĂNG là nước mắt sầu thương của người đẹp. Ngoài ra để chỉ phái đẹp, trong văn học cổ còn có từ HỒNG QUẦN 紅裙 là cái Váy màu đỏ, một loại quần liền 2 ống của phụ nữ ngày xưa thường được nhuộm màu đỏ cho bắt mắt... nam giới.  Nên HỒNG QUẦN cũng tượng trưng cho phụ nữ đẹp. Ta hãy nghe cụ Nguyễn Du giới thiệu về chị em Thúy Kiều Thúy Vân như sau :

 

                                   Phong lưu rất mực HỒNG QUẦN,

                                   Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.    

 

        Các giai nhân ngày xưa còn được gọi là BÓNG HỒNG, chẳng những bắt mắt đối với nam giới mà còn bắt mắt với tất cả mọi người chung quanh. Ta lại nghe cụ Nguyễn Du tả chị em Thúy Kiều trong buổi Đạp thanh như sau :

                                    BÓNG HỒNG nhác thấy nẻo xa, 

                                    Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai !   

DCD_Bonghong.png

HỒNG QUẦN 紅裙 là người đẹp, nhưng HỒNG QUÂN 洪鈞 (không có dấu huyền) thì lại là Ông Trời. Theo Văn Tuyển, Trương Hoa đời Tấn trong bài Đáp Hà Thiệu có câu : 张华《答何劭》:“洪钧陶万类,大块禀群生。HỒNG QUÂN đào vạn loại, Đại khối bẩm quần sinh”. Có nghĩa : Trời thì nhào nặn ra muôn loài, còn Đất thì nuôi sống mọi sinh linh. Nên HỒNG QUÂN là Ông Trời. Trong văn học cổ ta thường nghe nói "Hồng Quân không buông tha cho khách Hồng Quần" như cụ Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều than vãn khi lần thứ hai phải lọt vào lầu xanh :

 

                               HỒNG QUÂN với khách HỒNG QUẦN,

                               Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.

 

      ... và như trong phần mở truyện cụ cũng đã nêu lên thuyết "tài mệnh tương đố" với câu :

 

                                  Lạ gì "Bỉ sắc tư phong",

                       TRỜI xanh quen thói MÁ HỒNG đánh ghen.

 

      ... và cụ cũng đã nói trong phần kết Truyện Kiêù là : 

 

                                 Cho hay muôn sự tại TRỜI,

                            TRỜI kia đã bắt làm người có thân, 

                               Bắt phong trần phải phong trần, 

                         Cho thanh cao mới được phần thanh cao !

 

          HỒNG QUÂN là Trời, là Tạo hóa, như trong Tứ Thời Khúc Vịnh của Hoàng Sĩ Khải, một danh sĩ đời nhà Mạc :

                                    Khéo thay bấy HỒNG QUÂN chuốt vật,

                                    Hình chúc hình chẳng chút mũi lông.  

                                        

         Còn chỗ ở của các giai nhân tiểu thư quyền qúy ngày xưa thì được gọi là HỒNG LÂU như nàng cung nữ của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :

 

                                      HỒNG LÂU còn khóa then sương,

                              Thâm khuê còn dấm mùi hương khuynh thành.

  

         ...Hay như trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái :

 

                                      Qúy canh phỏng độ đôi mươi,

                               Chẳng người tử thất cũng người HỒNG LÂU.

 

                                       

 

     

 

 

 

 

 

 

Tử Thất 紫室 là Căn phòng màu tím, đồng nghĩa với Tử Các 紫閣 là Căn gác màu tím, trong văn học gọi là Gác Tía. Nên Tử Các Hồng Lâu hay là HỒNG LÂU TỬ CÁC 紅樓紫閣, ta nói là LẦU SON GÁC TÍA, chỉ chỗ ở của những nhà quyền qúy cao sang. Như trong Bích Câu Kỳ Ngộ chàng công tử Tú Uyên dọ hỏi về lai lịch của người đẹp Giáng Kiều :

 

                                     Mượn người thăm hỏi gần xa,

                                HỒNG LÂU TỬ CÁC đâu mà đến đây?

 

       Ta lại có từ HỒNG MAO 鴻毛 là Lông của con chim Hồng. MAO 毛 là loại lông rất nhẹ, là lông tơ, lông măng. Theo "Báo nhiệm An Thư 報任安書" trong Sử Ký của Tư Mã Thiên 司馬遷的史記 đời Hán có câu " 人固有一死,或重于泰山,或轻于鸿毛 Nhân cố hữu  nhất tử, hoặc trọng vu thái sơn, hoặc khinh vu hồng mao". Có nghĩa : Là người cố nhiên phải chết, nhưng có những cái chết nặng như thái sơn, có những cái chết nhẹ tợ lông hồng". Nên thường dùng từ HỒNG MAO để chỉ vật gì rất nhẹ hoặc bị xem nhẹ. Như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc chỉ những chàng chinh phu đi chinh chiến xem nhẹ cái chết với câu :

 

                                      Chí làm trai dặm ngàn da ngựa,

                                    Gieo Thái sơn nhẹ tựa HỒNG MAO.

 

        Và vì nhẹ tựa HỒNG MAO nên chim hồng mới bay được thật cao và được ví với những người mang chí lớn có ý chí cao xa muốn làm nên việc lớn như Từ Hải trong Truyện Kiều vậy :

 

                                        Cánh HỒNG bay bổng tuyệt vời,

                                    Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

              

                                   

 

       

 

 

 

 

Chim HỒNG chim NHẠN là hai loại vịt trời hay bay thành từng đàn từng bầy, con lớn bay rước hướng dẫn cho con nhỏ bay sau, nên HỒNG NHẠN 鴻雁 còn dùng để chỉ tình anh em, đồng đội, bằng hữu ... như trong truyện Nôm Hoa Điểu Tranh Năng :

 

                                        Dốc tình bằng hữu chu tuyền,

                               Nghĩa HỒNG NHẠN vẫn còn truyền xưa nay.

 

             Chim HỒNG chim NHẠN còn là hai loại chim dùng để đưa thơ ngày xưa, nên tin thư gọi là TIN NHẠN như trong Truyện Kiều khi Tú Bà dạy nghề cho Thuý Kiều :

 

                                         TIN NHẠN dẫn, lá thư bài,

                                Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.

 

            Còn đưa tin bằng chim HỒNG thì gọi là HỒNG TIỆN như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm :

 

                                        Gió tây thổi không đường HỒNG TIỆN,

                                         Xót nỗi người tuyết quyến mưa sa.  

  

                                       

 

           Hay đão ngược lại là TIỆN HỒNG như khi Thúy Kiều đáp thư hồi âm cho Sở Khanh :

 

                                          Tan sương vừa rạng ngày mai,

                                   TIỆN HỒNG nàng mới nhắn bài gởi sang.

                                     

           Còn HỒNG TRẦN 紅塵 là Bụi màu đỏ, có xuất xứ từ một câu thơ trong bài "Tây Đô Phú" của văn sử gia Ban Cố đời nhà Hán 文学家、史学家班固《西都赋》là : " 紅塵四合,烟雲相連. Hồng trần tứ hợp, yên vân tương liên". Có nghĩa : "Bụi đỏ từ bốn bên họp lại và khói và mây như liền lại với nhau". Câu trên dùng để chỉ cảnh phồn hoa đô hội, ngựa xe đi qua khiến cho những làn bụi đỏ như mây như khói cuốn lên cuồn cuộn. Khi dùng rộng ra HỒNG TRẦN có nghĩa là Cái thế giới nầy, cái cuộc đời nầy, cái cảnh đời trần tục, cỏi trần thế xô bồ xô bộn ... Khi từ giả Vương Ông xong, thì Mã Giám Sinh đã cho đoàn xe ngựa chở Thúy Kiều phi như chạy trốn :

                                           Đùng đùng gió giục mầy vần,

                                     Một xe trong cỏi HỒNG TRẦN như bay !

 

                                         
 

         

 

 

 

 

 

Cũng trong Truyện Kiều, HỒNG TRẦN được diễn Nôm thành BỤI HỒNG để chỉ cỏi đời trần tục, như khi cả nhà đi theo sư Giác Duyên tìm được Thúy Kiều ở thảo am, mọi người đều khuyên nàng về nhà đoàn tụ, thì Thúy Kiều đã lý luận rằng :

 

                                           Sự đời đã tắt lửa lòng,

                                  Còn chen vào chốn BỤI HỒNG mà chi ?!   

 

       Cuối cùng ta có tích HỒNG DIỆP 紅葉 là Lá Đỏ.

      

       Có 3 xuất xứ cho điển tích LÁ ĐỎ như sau :

 

* Theo THỊ NHI TIỂU DANH LỤC 侍兒小名錄 : 

       Con gái nuôi của tài nhân nhà Phụng Ân Vương đời Đường Đức Tôn 唐德宗 là Phượng Nhi 鳳兒 thường đề thơ trên lá đỏ, rồi thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Tiến sĩ Giả Toàn Hư 賈全虛 bắt được lá. Quan Kim Ngô tâu việc ấy lên vua. Nhà vua bèn gả Phượng Nhi cho Giả Toàn Hư và phong cho chức Kim Ngô.

 

* Theo sách VÂN KHÊ HỮU NGHỊ 雲溪友議 :

       Thư sinh Lư Ốc 盧渥 đi ngang qua ngự câu (dòng nước chảy từ cung vua ra ngoài ), Ngẫu nhiên vớt được một chiếc lá đỏ trên đó có đề một bài thơ. Ốc nâng niu và cất vào trong tráp. Khi vua Đường thải cung nữ cho đi lấy chồng. Lư Ốc lấy được một cô, lại đúng là người thả chiếc lá kia. Lúc trông thấy chiếc lá đỏ trong tráp, người vợ nói :” Khi ấy thiếp chỉ ngẫu nhiên đề thơ, rồi thả theo dòng nước, không ngờ chàng lại chính là người đã nhặt được !”.

 

* Theo THANH TỎA CAO NGHI 青瑣高議 và THÁI BÌNH QUẢNG KÝ 太平廣記 :

 

       Cung nhân Hàn Thị 韓氏 đề một bài thơ trên lá đỏ :

 

              Lưu thuỷ hà thái cấp ?         流水何太急 ?

              Thâm cung tận nhật nhàn.   深宮盡日閒。

              Ân cần tạ hồng diệp,           殷勤謝紅葉,

              Hảo khứ đáo nhân gian !     好去到人間!

Có nghĩa :                  

              Nước chảy sao vội thế ?

              Trong cung suốt buổi nhàn.

              Ân cần nhờ là đỏ,

              Đưa đến chốn nhơn gian !

 

             

 

     ...Rồi thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Thư sinh Vu Hựu 于祐 nhặt được đem cất đi. Hựu lại viết hai câu thơ:

              

              Tằng văn diệp thượng đề hồng oán,  曾聞葉上題紅怨

              Diệp thượng đề thi ký A  thùy ?    葉上題詩寄阿誰?

Có nghĩa :

              Từng nghe lá đỏ đề thơ oán,

              Lá đỏ đề thơ gởi đến ai ?

 

   ...Rồi cũng đợi nước lớn thả ngược vào trong cung. Hàn Thị bắt được lá cũng cất vào trong rương. Sau vua Đường Hi Tôn cho thải ba ngàn cung nhân, Hàn Thị được thải ra và rất tình cờ lại lấy được Vu Hựu làm chồng. Khi phát hiện ra lá đỏ của nhau, vợ chồng cùng cảm kích mà nói :"Chúng ta phải tạ ơn cho hai người mai mối, chính là hai cái lá đỏ nầy đây". Hàn Thị bèn từ trong tráp lấy ra thêm một bài thơ nữa và nói với chồng rằng : “Đây là bài thơ của thiếp làm sau khi vớt được chiếc lá của chàng!”. Vu Hựu bèn đọc bài thơ như sau :

 

              Độc bộ thiên câu ngạn,          獨步天溝岸,

              Lâm lưu đắc diệp thì.             臨流得葉時.

              Thử tình thùy khả đắc,           此情誰可得

              Trường đoản nhất liên thi !     腸斷一聯詩 !

Có nghĩa :

              Lẻ loi bước giữa dòng câu,

              Bên bờ vớt lá nghe sầu mênh mang.

              Tình nầy ai thấu can tràng,

              Đau lòng cung nữ đôi hàng thơ ai !

 

               

 

     Vu Hựu cũng cầm bút lên viết ngay một bài thất ngôn tuyệt cú như sau :

 

            Nhất liên giai cú tùy lưu thủy,                   一聯佳句題流水,

            Thập tải u tư mãn tố hoài.                        十載幽思滿素懷.

            Kim nhật khước thành loan phượng hữu,    今日卻成鸞鳳友,

            Phương tri hồng diệp thị lương mai(môi).   方知紅葉是良媒.

 

Có nghĩa :

            Đôi câu thơ đẹp chảy theo dòng,

            Ấp ủ lòng son suốt chục năm.

            May mắn hôm nay loan phụng hợp,

            Mới hay lá đỏ chính mai dong !

 

      Các văn nhân thi sĩ ở Trường An lúc bấy giờ hưởng ứng rất đông. Trong số văn thơ xướng họa, nổi tiếng nhất có bài thất ngôn tứ tuyệt của thi sĩ Cố Huống 顾况 như sau :

 

                Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi,              花落深宮鶯亦悲,

                Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì.  上陽宮女斷腸時。

                Quân ân bất bế đông lưu thủy,                君恩不閉東流水,              

                Diệp thượng đề thi ký dữ thuỳ ?              葉上題詩寄與誰?            

Có nghĩa :

               Hoa rụng thâm cung oanh cũng sầu,

               Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau.

               Ơn vua không bế dòng lưu thuỷ,

               Trên lá đề thơ gởi đến đâu ?!

 

        Điển tích “LÁ THẮM” được sử dụng rất nhiều và rất rộng rãi trong văn chương Việt Nam. Phần đầu Truyện Kiều, khi dò la chỗ ở của Thúy Kiều, Kim Trọng đã đụng phải :

 

                               Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

                         Cạn dòng LÁ THẮM dứt đường chim xanh !

 

                              

 

         

 

 

 

 

 

      Lá Thắm là từ Nôm của từ “Hồng Diệp 紅葉” là Lá đỏ thắm; mà Hồng Diệp lại là từ nói gọn lại của nhóm từ “Hồng Diệp Đề Thi 紅葉題詩” là “Lá Đỏ Đề Thơ”, hay là “Thơ Bài Lá Đỏ” như trong thơ của Hoàng Sĩ Khải :

 

                             Thực nhân tình THƠ BÀI LÁ ĐỎ,

                             Mạch sầu kia hầu tỏ cùng ai.

 

   ... lắm lúc lại được nói trại đi thành “Thả Lá Doanh Câu” như trong Bích Câu Kỳ Ngộ là :

 

                             Trông hoa lặng ngắt giờ lâu,

                       Ấy ai THẢ LÁ DOÀNH CÂU ghẹo người ?!

 

         Hồng Diệp đôi khi còn được nói thành nửa Hán nửa Nôm là “Lá Hồng”, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :

 

                             Gớm nơi ngôi bảng duềnh khơi,

                           LÁ HỒNG bỗng đến chi nơi nổi chìm.

 

         Hồng Diệp còn thường đi chung với Xích Thằng, thành “Hồng Diệp Xích Thằng紅葉赤繩”, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :

 

           Nàng rằng : HỒNG DIỆP Xích Thằng,

           Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri !

 

                             

 

Và như trong Tây Sương Ký :

 

                                 Sự đâu nói gió bàn trăng,

                      Mà nghe HỒNG DIỆP Xích Thằng như chơi !

 

         Hồng Diệp Xích Thằng nói Nôm na thành ra “Lá Thắm Chỉ Hồng”, cũng lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng khi Kim tỏ tình :

 

                               Dù cho LÁ THẮM Chỉ Hồng,

                         Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.  

                               Nặng lòng xót liễu vì hoa,

                          Trẻ thơ đã  biết đâu mà dám thưa ! 

 

          Ta thấy, điển tích Lá Thắm được sử dụng hết sức rộng rãi trong văn học cổ Việt Nam ta, và được biến thể rất đa dạng từ Hồng Diệp đến Lá Thắm, Lá Hồng, Hồng Diệp Đề Thi, Thư Bài Lá Đỏ, Hồng Diệp Xích Thằng … Nên muốn hiểu hết, cảm nhận hết ý nghĩa của các câu thơ trên, ta phải tìm hiểu xuất xứ của điển tích này để thấy được hết cái hay, cái ý vị hàm chứa trong các câu thơ đó.

 

          Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                   Đỗ Chiêu Đức

_____________________________________________________

DCD_Honglau.png
DCD_canhhong.png
DCD_Hongtran.png
DCD_CungnhanHanThi.png
DCD_VuHuu.png
DCD_Latham.png
DCD_Hongdiep.png

CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ

DCD_CTCTinsigna.png

Trước 1975 của thế kỷ trước, tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư Đoàn 3 Không quân Biên Hòa, Phòng Điện Ảnh của Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị, thuộc loại lính Thành phố. Trong Không Quân có lệ, gọi thượng cấp là Ông Thầy, nhất là các loại lính nghề, lính kỹ thuật như chúng tôi.... Các Trung sĩ, Thượng sĩ, nhất là các Chuẩn úy già... đều là " Ông Thầy " cả ! Đặc biệt, chỉ có anh Binh Nhất Đỗ Chiêu Đức , mặc dù là lính, nhưng vẫn được mọi người gọi bằng Ông Thầy !. Tại sao ?!. Xin thưa : Có 3 lý do như sau : Thứ nhất, là vì mọi người đều biết anh ta là thầy giáo xuất thân, là thanh niên nhưng trông đạo mạo như một ông cụ non, tác phong nghiêm chỉnh, chửng chạc. Thứ hai, là mọi người đều biết anh ta rất giỏi chữ Nho và văn chương, có gì thắc mắc về mặt chữ Nho chữ Hán, cứ tìm anh ta là xong ngay. Thứ ba, là lý do quan trọng nhất, vì anh ta là... Chuyên viên Phòng Tối... Chuyên rửa, rọi và tráng phim ảnh. Hễ anh em nào, kể cả cấp chỉ huy, sĩ quan.... nhà có đám ma, đám cưới.... thì sau đó đều phải kiếm anh ta để... rửa dùm vài cuồn phim, nên câu mà anh ta thường nghe nói nhất là : " Ông Thầy.... giúp rửa dùm vài cuồn phim nhen ! ". Lúc bấy giờ, lính Mỹ đã rút hết, giao toàn bộ cơ sở vật chất đã xây dựng lại cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp nhận, trong đó có Phòng Điện ảnh với đầy đủ thiết bị máy móc tráng, rọi và rửa phim ảnh, kể cả máy xấy hình và một lô giấy KODAK khổng lồ gần hết DATE, nên ông Trung Tá Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị cho sử dụng thoải mái, và vì anh ta là lính trẻ, độc thân, nên ở luôn tại phần sở Tham Mưu Phó của mình, vì thế mà ban đêm, thức tráng phim, rửa hình thoải mái , hễ cứ phim đưa ngày hôm nay thì sáng hôm sau đã có hình rồi ! Mau hơn ngoài tiệm nhiều mà lại ... khỏi tốn tiền nữa, nên kêu một tiếng " Ông Thầy " không ai tiếc cả ! 

DCD_CTCTsigns.png

Sau Hiệp Định Ba Lê năm 1973, mọi người đều đinh ninh là... Hòa Bình sắp đến, ai cũng mong chờ và hy vọng, nhưng sau những đợt trao trả tù binh... súng vẫn còn nổ lai rai hoài, thấy mà phát rầu, riêng Tham Mưu Phó CTCT của Sư Đoàn thì lại rộn rịp hẵn lên, cấp trên chỉ thị xuống là thời gian sắp tới đấu tranh Chính Trị là chính trong Hòa Hợp Hòa Giải dân tộc, rồi Tổng Tuyển Cử .v.v... và v. v.... Nhưng, đợi mãi , vẫn không thấy gì, 1973 đi qua, rồi 1974 cũng đi... tuốt, nên Tết đầu năm 1975, anh lính trẻ có làm 2 bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt để gởi đăng báo như sau :

 

         長望和平          TRƯỜNG VỌNG HÒA BÌNH

     機場野草炎黃色     Cơ trường dã thảo viêm hoàng sắc
     難使春風吹又生     Nan sử xuân phong xuy hựu sanh
     不見梅花和燕子     Bất kiến mai hoa hòa yến tử

     年來未覺有何更 !   Niên lai vị giác hữu hà canh !

 

 

     年來未覺又何新 ?   Niên lai vị giác hựu hà tân,?
     烽火猶愁軍與民     Phong hỏa do sầu quân dữ dân
     長望和平長不到     Trường vọng hòa bình trường bất đáo
     不求春至又逢春 !   Bất cầu xuân chí hựu phùng xuân !

Chú thích :
       * " Xuân phong xuy hựu sanh " là lấy ý ở 2 câu thơ của nhà thơ Bạch Cư Dị là " Dã hỏa thiêu bất tận, xuân phong xuy hựu sanh , 野火燒不盡,春風吹又生". Có nghĩa : Sức sống của cỏ ngay cả " Lửa dại đốt cũng không thể chết được, vì khi gió xuân thổi là tất cả cỏ dại sẽ xanh tốt trở lại ngay " ! .

       * " Cơ trường " : là Phi trường. Ta gọi Phi trường nghĩa là Sân bay, Sân để cho máy bay cất cánh bay đi. Còn người Hoa gọi là Cơ Trường, là Sân để cho máy bay đậu. Đây gọi là tập quán ngôn ngữ và là cái khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hoa. Một ví dụ nữa như : Ta gọi Người Xem là Khán Giả 看者, còn người Hoa gọi là Quan Chúng 觀眾.....

DCD_ChuantuongHBTính_KQSign.jpg

           Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính Tư lện Sư đoàn 3 Không quân Biên Hòa

 

Dịch nghĩa :

 

       Cỏ trong phi trường vàng úa như bị cháy xém, khó có thể nào gió xuân thổi mà có thể xanh tốt trở lại được.Cũng chẳng thấy có hoa mai nở và chim én bay lượn , mùa xuân đã đến rồi mà lại chẳng thấy có gì thay đổi cho có vẻ xuân cả !

 

       Chẳng có gì đổi mới cho có vẻ xuân thì xuân đến mà chi ?. Chiến tranh vẫn còn làm cho quân và dân lo rầu buồn bã. Dài cả cổ trông ngóng Hòa Bình, mà hòa bình nào có tới cho đâu, chẳng cầu mùa xuân đến thì lại vẫn phải đón xuân như thường !

 

 

Diễn nôm :

 

                Phi trường cỏ dại vàng như cháy,
                Gió xuân khó khiến lại xanh um.
                Cũng chẳng hoa mai, chim én lượn,
                Xuân sang chẳng thấy có gì xuân !

 

 

               Chẳng có gì xuân sao gọi xuân ?
               Chiến tranh sầu muộn cả quân dân
               Trông ngóng hòa bình trông chẳng thấy
               Chẳng cầu xuân đến lại mừng xuân !

 

 

     Hai câu cuối của bài Tứ Tuyệt sau là nhại ý của hai câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu thời Tiền Chiến :

 

                   Tôi có chờ đâu có đợi đâu
                   Mang chi xuân đến gợi thêm sầu !

 

 

       Được phép của Ngài Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT Phạm Kim Lân, anh ta viết luôn một đôi liễn Tết dán ở phía trước Văn Phòng chánh của TMP CTCT như sau :

 

        戰征 難阻春風至    CHIẾN TRANH nan trở xuân phong chí,
        政治 猶期勝利來    CHÍNH TRỊ do kỳ thắng lợi lai.

 

 

Dịch nghĩa :

 

        Chiến tranh cũng khó mà cản trở được gió xuân thổi đến ,

        (chiến tranh thì chiến tranh, mùa xuân đến thì vẫn cứ đến).

 

        Chính trị thì còn đang kỳ vọng vào thắng lợi sắp đến !

 

        Câu đối trên còn hay ở chỗ dùng được 4 chữ CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ để mở đầu 2 câu đối và nêu được cái nhiệm vụ chính yếu của CTCT trong thời gian sắp tới !

        Rất tình cờ, thằng bạn Nguyễn Hoàng Hưng cũng là Chuyên Viên Điện Ảnh ở Sư Đoàn 4 Không Quân, phi trường Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, gọi điện xin đôi câu đối để dự thi cho Đặc San hay Giai Phẩm xuân gì đó của TMP CTCT Sư Đoàn 4 KQ, tôi bèn gởi ngay 2 câu đối trên cho anh ta với đầy đủ giải thích, rồi quên luôn.... Hai ba tuần sau, Hưng vui mừng gọi điện cho tôi báo tin là đã trúng Giải Nhất và được đăng trên Giai Phẩm Xuân của đơn vị. Rất tiếc là tình hình thời sự... lu bu của lúc ấy, nên tôi cũng không có nhận được báo do Hưng gởi tặng..... 

 

   Đỗ Chiêu Đức

_________________________________________

    1. Phiếm luận:                              

 

           TUỔI TÝ là ... CON CHUỘT NHÀ

dcd_tuoity_3.png

                                             Tuổi Tý là con chuột nhà,

                                     Bắt vịt bắt gà khoét lổ đào hang.

 

        Đó là hai câu mở đầu cho "Bài Vè 12 Con Giáp" ở vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh quê tôi. "Tuổi Tý là CON CHUỘT NHÀ" nghe gần gũi và thân thương làm sao ấy. Ở thôn  quê, nhà tranh vách đất, nên ở dưới sàn trong bếp hay chỗ khuất lấp một chút là thế nào cũng có ổ chuột hang chuột. Như trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú của cụ Nguyễn Công Trứ đã miêu tả :

 

               Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,

               Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó .  

 

        Và nhất là tiếng chuột rút rít kiếm ăn ban đêm là việc thường nghe của các nhà nghèo :

 

                  Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ...  

      

       Dòng họ nhà chuột và nơi ở của chuột được trình bày đầy đủ trong bài Thảo Thử Hịch 討鼠檄 (là Hịch Diệt Chuột) của cụ Nguyễn Đình Chiểu như sau :

 

       Gọi danh hiệu : chuột xạ, chuột lắt, chuột chù, chuột cống - anh em dòng họ nhiều tên;

       Tra quán chỉ : ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở lùm - bầu bạn non sông lắm chỗ.

 

      Không phải như Lục súc là ngựa, trâu, heo, dê, gà, chó, được con người nuôi nấng đàng hoàng, con chuột không được hoan nghênh ở trong nhà, nhưng vẫn ngang nhiên chạy nhảy và sống thoải mái vui vẻ như một thành viên không thể thiếu trong gia đình. Chả thế mà nó còn được ông tổ của Tử Vi là Hi Di Trần Đoàn tôn là con vật đứng đầu cho mười hai con giáp nữa thế mới oai chứ !

 

                   
 

      Đứng đầu Thập Nhị Địa Chi là TÝ 子, cầm tinh THỬ 鼠 là con Chuột. Nhưng Tháng Tý không phải là Tháng Giêng mà là Tháng Mười Một, và giờ Tý không phải là buổi sáng đầu ngày mà là nửa đêm từ 11pm cho đến 01 am của ngày hôm sau, theo như câu nói của dân gian là :

 

                         Nửa đêm, giờ Tý, canh ba...

 

      Nhớ khi xưa trong giờ học Hán Văn với thầy Dương Tự Tam ở trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, thầy đã đọc câu thơ 6 chữ nầy. Lúc đó, trong lớp cũng có một bạn giỏi chữ Nho đã nối câu 8 chữ như sau :

 

                       Vợ ai, con gái, đàn bà, nữ nhi !

      

      "Nửa đêm, giờ Tý, canh ba" đều chỉ cùng một thời điểm là "NỬA ĐÊM", cũng như "Vợ ai, con gái, đàn bà, nữ nhi" cùng chỉ chung một giới tính : "NỮ GIỚI". Nhớ trước năm 1975, dân Miền Nam ghiền hát Cải Lương đã nhận xét về tuồng "Chiều lạnh Tuyết Băng Sơn" của soạn giả THU AN, do Út Hiền, Ngọc Hương, Thành Được, Mỹ Châu thủ diễn là " Tuồng hát có tên giống như là "Nửa đêm, giờ Tý, canh ba". Vì "CHIỀU LẠNH" đã lạnh rồi, "TUYẾT" càng lạnh hơn, rồi "BĂNG SƠN" càng lạnh hơn nữa; tất cả đều xoay quanh chữ "LẠNH" giống như câu "Nửa đêm, giờ Tý, canh ba" vậy ! 

 

                          

       

       Năm Tý là năm Chuột, Chuột là THỬ 鼠, trong "CHỮ NHO...DỄ HỌC" THỬ là chữ Tượng hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :

    GIÁP CỐT VĂN     ĐẠI TRIỆN      TIỂU TRIỆN       LỆ THƯ

DCD_chineseTi.jpg

Ta thấy :

     Giáp Cốt Văn là hình tượng của con chuột và 3 hạt thóc, sang qua Đại Triện, Tiểu Triện là hình con chuột ngồi nhe hai hàm răng chơm chởm với cái mình và 4 chân bên dưới, cuối cùng là cái đuôi từ phải cong  sang trái. Nên, THỬ 鼠 là Chuột.

      Chuột là giống gậm nhấm phá phách, từ nông phẩm, thực phẩm, đến đồ gia dụng không từ thứ nào cả, nên còn được gọi là HAO TỬ 耗子 ( con vật làm Hư Hao đồ đạc ), và vì tính nào tật nấy, cứ thế phá phách, nên lại được gọi là LÃO THỬ 老鼠 = đồng âm với LÃO THỬ 老此, có nghĩa là LÃO THỊ NHƯ THỬ 老是如此 : Cứ vẫn như thế ! (Vẫn cứ phá phách như thế mãi !).

 

      Trong 12 con giáp, có 2 con được gọi là LÃO :

      1, Con Chuột : LÃO THỬ 老鼠. Như đã nói ở trên.       

      2, Con Cọp : LÃO HỔ 老虎. Giới bình dân của ta gọi là "Ông Cọp".

 

      Ta thường nói : Nhát như thỏ đế ! Nhưng người Hoa lại nói : ĐÃM TIỂU NHƯ THỬ 膽小如鼠 : là Mật nhỏ như chuột, nên gọi những người nhát gan là THỬ ĐÃM 鼠膽 : Mật chuột. "Thứ cái đồ Mật Chuột" có nghĩa như là "Thứ cái đồ chết nhát" của ta vậy !

 

      Chuột lại là con vật bị xem thường xem khinh, như ta mắng những kẻ tiểu nhân, những tên đầu trộm đuôi cướp là : Đồ chuột nhắt ! Tương đương với từ THỬ BỐI 鼠輩 : là Lũ chuột. Người ta ghét chuột, nên hễ thấy chuột là đuổi, đánh, ném, chọi, vì thế ta lại có thành ngữ :

      ĐẦU THỬ KỴ KHÍ 投鼠忌器 : Ta nói là " Ném chuột sợ vỡ đồ ".  Thành ngữ nầy có xuất xứ từ Hán Thư, Giả Nghị Truyện, như sau :

      Xưa có người thích sưu tập đồ cổ ngoạn. Ông ta tìm mua được một chiếc bình cổ thật đẹp, đặt trên bàn trong phòng khách, suốt ngày ngắm nghía trầm trồ. Một hôm, vừa từ nhà trong bước ra, ông ta thấy một con chuột đang định nhảy lên trên chiếc bình. Quýnh qúa, ông ta bèn tháo một chiếc guốc đang mang ném con chuột. Không ngờ, con chuột thì chạy mất, nhưng chiếc bình bị guốc ném trúng, rớt xuống đất vỡ tan. Ông ta vô cùng hối hận cho sự nóng nảy thiếu suy nghĩ của mình.

      Giả Nghị, một Thừa Tướng giỏi đời Hán, đã dùng câu truyện ngụ ngôn trên để khuyên ngăn Hán Văn Đế không nên dùng cực hình đối với giai cấp Đại phu Qúy tộc, sẽ ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của nhà vua ... Nên,

       Câu " Đầu Thử Kỵ Khí " có nghĩa làm việc gì đó mà không dám làm thẳng tay, vì còn nghi ngại sẽ ảnh hưởng đến những việc khác có liên quan. Giống như tình trạng diệt tham nhũng hiện nay ở Việt Nam vậy, chỉ làm chiếu lệ, không dám làm thẳng tay, vì ... Ném chuột còn sợ bị " bể " đồ ! Và như cố Phó Tổng Thống Trần Văn Hương của nền Đệ nhị Cộng Hòa ngày trước đã nói :" ...Diệt hết tham nhũng rồi, tôi làm việc với ai đây ?!...".

DCD_danhchuot.png

                              Đâu thử kỵ khí : Ném chuột sợ vỡ đồ.

 

      MIÊU KHỐC LÃO THỬ 猫哭老鼠 : là Mèo khóc Chuột, ý muốn nói : Chỉ làm bộ thương xót mà thôi ! Cả câu là " Miêu khốc lão thử giả từ bi 猫哭老鼠假慈悲 " : Mèo khóc chuột là lòng từ bi giả dối, để che mắt thiên hạ nhằm muốn đạt được một mục đích nào đó. 

 

      Thành ngữ MIÊU KHỐC LÃO THỬ 猫哭老鼠 có xuất xứ từ truyện Thuyết Đường, hồi thứ 62. Đây là câu nói mĩa mai của tướng Trình Giảo Kim nói với Tần Vương Lý Thế Dân, khi Tần Vương đến điếu tang tiểu tướng La Thành vừa mới bị Ân Tề nhị vương hại chết. Trình Giảo Kim cho là Tần Vương chỉ giả bộ thương xót để cho các tướng khác cảm động mà liều mình bán mạng để giúp nhà Đường tạo dựng nên cơ nghiệp mà thôi, chớ chẳng phải thương xót thật tình. Nên câu ...

     Mèo khóc Chuột có nghĩa tương đương như là câu " Nước mắt cá sấu " của ta vậy.

 

     Trong truyện THẤT HIỆP NGŨ NGHĨA 七俠五義 là 7 người Hiệp sĩ và 5 người Nghĩa sĩ đời Tống, thì NGŨ NGHĨA có ngoại hiệu là 5 con chuột theo thứ tự như sau :

 

     1. TOẢN THIÊN THỬ : Lư Phương 鑽天鼠 盧方, là Lão Đại : Chuột chui lên trời, rất giỏi về khinh công.

     2. TRIỆT ĐỊA THỬ : Hàn Chương 徹地鼠 韓彰, là Lão Nhị : Chuột chui xuống đất, giỏi về đào hầm chôn thuốc nổ.

     3. XUYÊN SƠN THỬ : Từ Khánh 穿山鼠 徐慶, là Lão Tam : Chuột xuyên qua núi, người to lớn có sức mạnh vô song.

     4. PHIÊN GIANG THỬ :Tưởng Bình 翻江鼠 蔣平, là Lão Tứ : Chuột vượt qua sông, giỏi thủy tánh, cơ trí hơn người.

     5. CẨM MAO THỬ : Bạch Ngọc Đường 錦毛鼠 白玉堂, là Lão Ngũ : Chuột lông gấm, trẻ và đẹp trai nhất trong 5 con chuột, mặc dù hành hiệp trượng nghĩa, nhưng thủ đoạn cũng khá tàn độc, rất đố kỵ với ngoại hiệu Ngự Miêu 御貓 ( Mèo của vua ) của Nam Hiệp Triển Chiêu.

 

       Đó là những con chuột Tàu...

 

      Ngoài ra, nói đến chuột thì không thể thiếu con chuột Mickey của Mỹ mà trẻ em của cả thế giới đều thích. Người Hoa dịch âm Mickey là MỄ KỲ 米奇, và gọi nó là MỄ LÃO THỬ 米老鼠 : Chuột Mickey, một trong những con vật tiêu biểu của Disney world, Disneyland. Và một con chuột không thể thiếu nữa trong đời  sống điện toán hiện nay, đó là : Con Chuột của Computer 電腦鼠標 là ĐIỆN NÃO THỬ TIÊU.

DCD_mickeyMouse.jpg

                               Chuột Computer và Chuột Mickey

 

      Còn 3 con vật có tên CHUỘT là THỬ, nhưng trông đẹp hơn chuột nhiều, đó là :

 

    * TÙNG THỬ 松鼠 : là Chuột trên cây tùng, cây thông. Ta gọi là Con Sóc.

    * VỊ THỬ 蝟鼠 : là loại chuột to, trên mình có lông mọc thành những mũi gai nhọn chơm chởm. Ta không gọi là chuột mà gọi là Con Nhím.

     * ĐẠI THỬ 袋鼠 : là con Chuột Túi, Kangaroo, biểu tượng của nước Úc, là một con thú hẵn hoi, không giống ... con chuột tí nào cả !   

                        
                           Tùng Thử : Con Sóc   Vị Thử : Con Nhím   Đại Thử : Chuột Túi
         

        Chuột có bốn chân, nhưng trong câu đố vui lại hỏi là : Chuột nào có hai chân ? Đáp là ngoài Chuột Túi (Kangaroo) ra, ta còn có con Chuột Mickey đi bằng hai chân. Thế còn con chuột nào chỉ có một chân ? Thưa, đó chính là con Chuột computer! Cuối cùng, câu hỏi hóc búa nhất là : Chuột nào chạy có ba chân ? Câu trả lời khá dí dõm và mĩa mai là : "Con chuột trong Ký Túc Xá sinh viên; vì các cô cậu sinh viên ăn uống bừa bãi, thức ăn rơi vải, rác rưởi, quần áo, đồ dùng vứt bề bộn đầy phòng, tạo nên mùi hôi khó chịu, nên các chú chuột ở đây chỉ chạy bằng ba chân... còn một chân trước dùng để ...bịt mũi lại cho đỡ hôi !.

 

       Năm 2020 là năm CANH TÝ 庚子. CANH là ngôi thứ 7 của Thiên Can. Kể về âm dương ngũ hành thì Canh Tân thuộc Kim là Vàng; còn Tý thuộc Thử 鼠 là con Chuột. Nên CANH TÝ là con Chuột Vàng. Nhắc đến con chuột bằng vàng lại nhớ đến chuyện cổ tích dân gian của ta :"Ông quan tuổi Tý và con chuột bằng vàng" như sau :

        Ngày xưa, có ông quan nọ nổi tiếng là thanh liêm, xử lý việc công tư đâu đó phân minh, công bình chính trực, không tham ô hối lộ, mặc dù có rất nhiều người đến biếu xén qùa cáp để đền ơn đáp nghĩa, ông đều một mực chối từ. Cho đến lúc về hưu, làng xã dân chúng mới từ miệng bà quan, vợ của ông biết ông tuổi tý, nên mới chung nhau đúc một con chuột bằng vàng đem đến biếu cho bà để làm kỷ vật. 

      Vì làm quan thanh liêm, nên mấy năm sau, khi gia đình túng quẩn, ông lại ngã bệnh, không tiền thuốc men. Cực chẳng đã, bà mới đem con chuột vàng ra bán để có tiền chi dụng và điều trị bệnh cho ông. Bỗng dưng nhà có nhiều tiền để xây xài, ông ngạc nhiên hỏi bà, bà mới tỏ thiệt cho ông biết về con chuột vàng có được vì tuổi con chuột của ông. Bỗng ông buột miệng tiếc rẻ :"Phải chi lúc đó bà bảo là tôi tuổi con trâu, thì chẳng phải bây giờ nhà mình giàu sụ rồi sao !?"

 

      Quả là một câu chuyện ngụ ngôn sâu sắc và thâm thúy đáng cho người ta phải suy gẫm !

DCD_canhty2020.jpg

   Con chuột hiện diện song song với đời sống nông thôn của nông dân ta. Từ khi bắt đầu xuống giống gieo trồng thì đã phải đề phòng chuột ăn vụng hột giống. Đến khi lúa bắt đầu chín thì lại sợ chuột ăn vụng lúa. Chính lúc nầy chuột lại là món ăn ngon lành béo bở của nông dân với các món : Chuột nướng trui, chuột rô-ti, chuột xào lăn, chuột xào bún nấm củ hành ... Bắt được nguyên ổ chuột con còn đỏ hỏn thì cho vào hũ rượu đế ngâm chừng ba tháng là uống được. Nghe nói thứ rượu chuột nầy trị bịnh trật đả thấp khớp rất công hiệu. Theo y học dân tộc cổ truyền thì thịt chuột đực có thể trị bệnh té ngã, tan máu bầm; phân chuột trị được bệnh kinh phong; còn đất của chuột đùn lên cũng có thể trị bịnh co rút, tê thấp như câu thiệu về Nam y :

                         

                     Đất, phân, thịt chuột thuốc thần,

                     Khéo tay trị bịnh muôn lần diệu linh.

 

      Những thứ nêu trên của con chuột, sau nầy được dùng làm cơ sở y lý cho bộ " Lĩnh Nam Bản Thảo" của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. 

 

      Con Chuột cũng hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng với những thành ngữ tục ngữ như :

 

    - ĐẦU VOI ĐUÔI CHUỘT để chỉ việc gì đó mở đầu rất rình rang sôi động mà kết cuộc lại âm thầm lặng lẽ chẳng ra gì.

    - TAI VƠI MẶT CHUỘT để chỉ tướng mạo khuôn mặt của những kẻ tiểu nhân nham hiểm, tâm địa hung ác hay phá phách và hại người khác.

    - CHUỘT ĐỒNG RA PHỐ để chỉ những người nhà quê còn ngơ ngác khi lần đầu tiên chân ướt chân ráo lên thành phố lớn...

    - CHÁY NHÀ MỚI LÒI RA MẶT CHUỘT để chỉ chuyện gì đó hay người nào đó đến nước cuối cùng mới để lộ ra cái xấu, cái âm mưu thâm hiểm của mình...

    - CHUỘT SA HỦ NẾP để chỉ người gặp dịp may đưa đến bất ngờ mà trở nên no đủ giàu sang, thường dùng để mĩa mai những người ở rể cho các nhà giàu. 

      Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng : Có con chuột nọ, ban đêm đi kiếm ăn, bất cẩn, sa vào hũ nếp. Chuột ta mừng lắm, cho là mình số hên, may mắn, từ rày về sau khỏi lo kiếm ăn nữa. Nào ngờ, nếp trong hũ ngày một lưng mà chuột thì lại ngày một béo ra không tài nào nhảy ra khỏi hũ nếp cho nổi, chỉ còn có nước nằm chờ chủ nhà đến bắt đi rô-ti để nhậu mà thôi ! Nghe chuyện nầy lại làm cho ta nhớ đến câu chuyện của "Tái Ông Thất Mã 塞翁失馬" trong sách Hoài Nam Tử 淮南子. Quả thật, ở đời họa phúc không biết đâu mà lường trước được.

DCD_chaynha.jpg

                   CHÁY NHÀ MỚI LÒI RA MẶT CHUỘT

 

      Ngoài ra, còn có những từ ngữ như MÈO CHUỘT, CHIM CHUỘT để chỉ trai gái lén lút đi lại với nhau "bất hợp pháp". DƯA CHUỘT là loại dưa leo đèo, èo ọt, trông giống như con chuột lắt. PHÁO CHUỘT là một loại pháo tiểu rẻ tiền, nổ đì đẹt để bán cho trẻ em đốt chơi, vừa rẻ tiền vừa ít nguy hiểm. NHÀ Ổ CHUỘT  chỉ các xóm nhà nghèo ở chen chút với nhau trong các thành phố lớn. O CHUỘT là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài, người chuyên viết về chuyện loài vật... Nhắc đến chuyện loài vật lại nhớ đến hai sòng bài lớn nhất của Sài Gòn Chợ Lớn trước năm 1954 là Kim Chung và Đại Thế Giới. Người ta đã dùng 36 con vật tiêu biểu cho 36 số đề, gọi là "ĐỀ 36" để dẫn dụ người chơi, hễ đánh trúng con đề mà họ treo ở giữa nhà thì 1 đồng sẽ thành 30 đồng như trong bài "Vè Thua Đề Ba Mươi Sáu" của Thầy giáo Kiến ở Cần Thơ là :

 

                    Phải thời một vốn bỗng liền ba mươi !

 

      Đánh một đồng, chiều xổ trúng sẽ thành ba mươi đồng, ai mà không ham ! 

 

      Trở lại với con chuột. Trong Đề 36, con chuột nằm trong nhóm Thất Sanh Ý 七生意 là : Bảy người buôn bán làm ăn, gồm có :

         - Số 10 tên chữ là Giang Từ, con vật tiêu biểu là con Rồng Bay.

         - Số 11 tên chữ là Phước Tôn, con vật tiêu biểu là con Chó.

         - Số 12 tên chữ là Quang Minh, con vật tiêu biểu là con Ngựa.

         - Số 13 tên chữ là Hữu Lợi, con vật tiêu biểu là con Voi.

         - Số 14 tên chữ là Chỉ Đắc, con vật tiêu biểu là con Mèo Rừng.

         - Số 15 tên chữ là TẤT ĐẮC, con vật tiêu biểu là con CHUỘT.

         - Số 16 tên chữ là Mậu Lâm, con vật tiêu biểu là con Ong.

 

     Con Chuôt số 15, tên chữ là TẤT ĐẮC 必得, có nghĩa là : Chắc chắn sẽ được ! Được hay không thì không biết, nhưng ai theo số đề, ghiền đánh số đề đều tán gia bại sản cả ! Nên khi về Việt Nam chấp chánh, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho dẹp hai sòng bài lớn nầy. Nhưng lực lượng vũ trang người Nùng nói tiếng Quảng Đông có công giúp cho Tổng Thống dẹp yên loạn Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu, nên họ còn tổ chức đánh đề 36 bán chính thức ở vùng Cây Da Xà Phú Lâm để chiêu dụ bà con người Hoa vùng Chợ Lớn chơi đề, và họ lại thêm vào 4 con nữa cho chẵn số 40. Đó là 4 con :

           - 37 Thiên Công là Ông Trời.

           - 38 Địa Chủ là Ông Địa.

           - 39 Thần Tài và 

           - 40 Táo Quân là Ông Táo.

     Vì thế, sau nầy áp dụng vào số kiến thiết đề đánh từ 00 đến 99, thì ta lại có thêm 2 con chuột nữa, đó là :

           - Số 55 con Chuột sồn sồn, và...

           - Số 95 là con Chuột Già, chuột Cống !

     Vì từ 00 đến 99 là 100 con đề, nên MỘT ĐỒNG trúng đến BẢY MƯƠI ĐỒNG, càng khơi dậy lòng tham của con người hơn. Đâu có làm ăn buôn bán nào được như thế đâu, nên dân nghèo cứ đâm đầu vô số đề mà chết, như ở vùng Lục Tỉnh sông nước quê tôi :

 

                                          Lái buôn thua thiếu câu mâu,

                                       Bạn bè đuổi hết ngồi sầu lái ghe.

... và Thầy Kiến đã kết bài vè là :

                                           Lời quê cóp nhặt nên vè,

                                     Ai mà thua lở có nghe đừng buồn !

     

                      
 

      Con Chuột không được hoan nghênh, nhưng vẫn hiện diện ở trong nhà, trong đời sống. Nằm đu đưa trên võng lúc cuối năm khi gió bấc bắt đầu thổi, chàng trai quê tôi thấy lòng lạnh lẽo nhìn hang chuột trong nhà mà cảm khái :

               

                      Gió bấc non thổi lòn hang chuột,

                 Thấy chị hai mầy... tao đứt ruôt đứt gan !

      

       Khi đã được vào làm rể để cùng ngủ chung một nhà rồi,  đến đêm cô gái đã ướm thử lòng và thách thức chàng trai :

 

                      Chuột kêu chút chít trong lò,

                    Lòng anh có muốn thì mò lại đây !

 

      Thách thức xong, cô lại sợ chàng trai hưng phấn quá mà bộp chộp không cẩn thận, nên lại nhắc nhở :

 

                         Chuột kêu chút chít trong rương,

                   Anh đi cho khéo, kẻo...đụng giường má hay !       

             

      Cái anh chàng làm rể nầy cũng lém lỉnh lắm, anh ta đã liệu trước tình huống lở mà xảy ra :

 

                      Má hay má hỏi đi đâu ?   Thì đáp là ...

                Con đi bắt chuột cho mèo con ăn !

 

       Nhưng rồi cũng đến lúc đôi lứa được sum vầy :

 

                           Bỏ công làm rễ bấy nay,

                    Bi giờ mới được vui vầy cùng em.

                          Ðêm nay mới thật là đêm,

                 Chuột kêu chút chít càng thêm vui nhà !

 

       Các câu ca dao trên lại làm cho ta nhớ đến hai câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài thơ "Vịnh Nữ Vô Âm" là :

 

                           Rúc rích thây cha con chuột nhắt,

                           Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.

Theo ý câu ca dao cổ là :

                                Con gái mười bảy mười ba

                            Đêm nằm với mẹ chuột tha mất l...

 

     ...Vì thế, đã "vô âm" thì thây cha con chuột, mặc mẹ cái ong, cho nó vo ve rúc rích chán thì thôi.

 

      Chuột là Thử, trong văn học Việt Nam ta cũng có một giai thoại văn chương độc đáo có nhắc đến con Chuột là Thử của Trang Quỳnh khi ông đối lại câu đối hóc búa của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm :

                   " Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long ",

     Trạng đã đối rất khéo, rất hay và rất " rắn mắt " là :

                  " Qủa dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử !".

 

     Đâu có cô gái nào dám "thử" quả dưa chuột của Trạng đâu, nói chi đến nữ sĩ Đoàn Thị Điểm !

DCD_trangchuot.jpg

  Ngoài ra, cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng có bài thơ “Chuột Đói” do Dương Xuân Đàm diễn Nôm có những câu như sau đây :

 

                 Bọn mi nương xó tường ta.

                 Bấy lâu êm ả trong nhà không sao.

                 Phải khi gạo kém thóc cao,

                 Bọn mi lục đục cắn nhau bao lần...

 

                 Bọn mi nào phải bất nhân,

                 Vì ta của để của ăn không gì.

                 Phải đâu riêng một bọn mi,

                 Vợ con ta cũng nhiều khi eo sèo!...             

 

     Nhà thơ Đoàn Văn Cừ trong bài thơ TẾT cũng đề cập tới pháo chuột:

 

                       Giờ lâu tràng pháo Chuột,

                       Đì đẹt nổ trên hè.

 

    Thi sĩ Bàng Bá Lân nhớ về quá khứ của làng quê khi Tết đến, ông cũng đã có  câu thơ:

 

                     Tết về nhớ bánh chưng xanh

               Nhớ tràng pháo Chuột, nhớ tranh Lợn, Gà.

 

     Dấu ấn rõ nét nhất của Con Chuột trong văn học cổ là truyện thơ Nôm khuyết danh TRINH THỬ 貞鼠 (Con chuột trinh tiết), dài 850 câu lục bát và 2 bài thơ thất ngôn Đường luật. Theo bản in sớm nhất năm Đinh Tỵ (1875) cốt truyện như sau :

      Truyện kể rằng vào năm Long Khánh (niên hiệu của Trần Duệ Tông) đời Trần, ở miền Lộc Đỗng có người Hồ sinh, học rộng biết nhiều, lại nghe được tiếng chim muông cầm thú. Nhân ra chơi kinh thành, chàng ngụ ở gần nhà Thừa Tướng Hồ Quý Ly. Đêm nằm bỗng nghe tiếng chó sủa. Chó sủa làm cho một con chuột bạch góa chồng đang đi kiếm ăn bên nhà Hồ Quý Ly kinh hãi chạy vào nấp ở hang chuột đực. Bị Chuột Đực gạ gẫm, nhưng Chuột Bạch nhất định cự tuyệt, bác lại các lý lẽ của Chuột Đực và quyết liều chết để bảo toàn trinh tiết. Chuột Đực biết không thể lay chuyển nổi Chuột Bạch, bèn lấp liếm để chữa thẹn. Đang khi ấy, Chuột Cái về, ngờ rằng chồng (Chuột Đực) và Chuột Bạch có gian tình, tỏ ý giận dữ. Chuột Bạch giãi bày, biện bạch rồi từ biệt ra về. Nhưng Chuột Cái không tin, nổi ghen, đay nghiến chồng, rồi còn đến nhà Chuột Bạch để xỉ vả. Mèo ở đâu chợt đến. Chuột Bạch chạy thoát vào lu gạo, còn Chuột Cái chạy lạc đường sa xuống ao. Hồ sinh (người biết tiếng muôn thú, đã đứng nghe câu chuyện từ đầu) thấy thế, bèn đuổi mèo đi, vớt Chuột Cái lên, rồi lấy lời lẽ phải trái nói rõ lòng trinh tiết của Chuột Bạch và khuyên nhủ Chuột Cái về đạo cư xử trong gia đình.

 

      Quả là một câu chuyện luân lý đầy tính dân gian của xã hội Việt Nam ngày xưa. Còn ngày nay thì sao ?. Có còn giữ được phụ đạo như lời chuột bạch tỏ bày hay không :

 

                        Chữ rằng "tòng nhất nhi chung",

                    Gái hiền thờ chỉ một chồng chẳng hai.

 

      TÒNG NHẤT NHI CHUNG 從一而終: Có xuất xứ từ Kinh Dịch, có nghĩa : "Theo một người cho đến chết" . Ý là : "Xuất giá theo chồng cho đến hết đời, chồng chết thì thủ tiết thờ chồng cho đến chết chứ không lấy chồng khác". Mặc dù đó là luân lý cổ xưa, nhưng đó chính là cái gốc của đạo làm vợ, là cái cơ bản của đạo đức Khổng Mạnh thuở xưa :

 

                        Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,

                   Tạo đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.

     ...và :

                        Dẫu rằng đá lở non mòn,

                   Tấm lòng tạc sắt ghi son chẳng dời.

 

      Không phải như xã hội ngày nay, hễ động một chút là ly thân, ly dị. Mong rằng trong năm Canh Tý là CON CHUỘT NHÀ nầy, tất cả những cặp đôi vợ chồng người Việt Nam ta đều thương yêu tin tưởng lẫn nhau để xây dựng một mái ấm gia đình như đôi chuột trong truyện TRINH THỬ đã lưu truyền trong dân gian vậy !

 

      Chúc tất cả đồng hương thân hữu trên khắp thế giới đều được AN KHANG THỊNH VƯỢNG trong năm con Chuột 2020 nầy !

DCD_chucmungnammoi.jpg

2. Vịnh Chuột năm TÝ :

 

XƯỚNG :

     
  TUỔI TÝ LÀ CON CHUỘT NHÀ

DCD_tuoitylaconchuotnha.png

Tuổi Tý là con chuột ở nhà,

Đào hang khoét lổ cứ như pha.

Chẳng kiêng chẳng kỵ thây mèo chó,

Không nể không nang mặc chủ gia.

Cắn phá tứ tung còn tưởng bở...

Sinh sôi bừa bãi cứ như là ...

Miếng ăn của sẵn, đêm vừa xuống,

Chút chít đầy nhà tiếng bạn ta !

DCD_tuoiTy_2.jpg

Đứng đầu Hoa Giáp chính là ta,

Tý Thử cùng chung... giống Chuột mà !

Xông đất Địa Chi còn để ngõ,

Cháy Nhà Mặt Chuột Mới Lòi Ra. 

Đầu Voi Đuôi Chuột không nên việc,

Măt Chuột Tai Vơi vốn dĩ tà !

Giả bộ từ bi Mèo Khóc Chuột.

Suốt đời Hũ Nếp sướng thân Sa.

 

                                   Đỗ Chiêu Đức

                                   Canh Tý 2020

 

   

3. Câu đối cho năm CANH TÝ 2020 :

CANH lại tàn canh,  gió Tết xứ người thêm nhớ nước;

 

TÍ ta tí tách, mưa xuân đất Mỹ chạnh lòng quê.              

    

                                                                                                                          Đỗ Chiêu Đức

                                                                                                                          Canh Tý 2020

 

4.  Thư Pháp :

 

     viết ngang :

DCD_lientetcanhty_1.jpg

viết đứng: 

DCD_lientetcanhty_2.jpg

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH : 

                                                GƯƠNG

DCD_Guongnga.png

                                           GƯƠNG NGA chênh chếch dòm song,

                                      Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.

 

           Đó là hai câu thơ chuyển cảnh thật hay, thật nên thơ như trong nghệ thuật điện ảnh của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều, khi diễn tả Thúy Kiều vừa về đến nhà sau buổi đạp thanh với nhiều gặp gỡ : Gặp hồn ma Đạm Tiên và gặp chàng Kim Trọng với "Đề huề lưng túi gió trăng" và dáng vẻ "Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". GƯƠNG NGA là vầng trăng mới mọc "chênh chếch dòm song", còn được cụ Nguyễn Du gọi là BÓNG NGA ở những câu sau đó :

 

                                        Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,

                                        Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.

dcd_guongnga_2.png
dcd_guongquanghan.png

         GƯƠNG NGA hay BÓNG NGA còn được gọi là GƯƠNG QUẢNG HÀN như trong truyện Nôm khuyết danh Lưu Nữ Tướng :

 

                                          Kiệu dừng, hé bức màn sương,

                                  Khác nào non thúy, rạng GƯƠNG QUẢNG HÀN.

 

                                         

             GƯƠNG NGA, BÓNG NGA hay GƯƠNG QUẢNG HÀN đều dùng để chỉ mặt trăng một cách nên thơ trong bầu trời ban đêm, nhưng có những cái gương làm cho người ta phải khiếp đãm kinh hồn, đó chính là Gương Chiếu Yêu (Chiếu yêu kính) làm cho yêu quái bị chiếu vào sẽ hiện nguyên hình như trong truyện Phong Thần; đến đời Tần còn xuất hiện thêm một cái kiếng chiếu thấy cả gan ruột con người, gọi là CHIẾU ĐÃM KÍNH 照膽鏡. Theo sách Tây Lương Tạp Ký đời Đông Tấn của Cát Hồng 东晋葛洪《西京杂记》có ghi : Trong cung Hàm Dương  đời Tần có một cái gương rộng 4 thước (khoảng 1m2 tây), cao 5 thước 9 (gần 2 thước tây), bên trong kiến phát sáng. Người đến trước gương soi sẽ thấy cả lòng dạ ruột gan, ngũ tạng lục phủ.  Tần Thủy Hoàng đã dùng chiếc gương nầy để cho các cung nhân soi vào, người nào tim rung động, mật nở to là có gian tình thì giết chết. Chiếc gương nầy đã gây chấn động và làm khiếp đãm mọi người, nên Tần Thủy Hoàng đã lợi dụng cái tâm lý "Có tật thời Giật mình" đã phát hiện rất nhiều gian tình và nịnh thần trong cung cấm và trong triều đình. Vì những người gian xảo dối trá khi đứng trước gương sẽ không tránh khỏi sợ hãi hoang mang, chính nét mặt, cử chỉ và biểu hiện bất bình thường... của chính bản thân họ đã tố cáo cho sự gian dối của họ với những người chung quanh. 

         Trong văn học cổ của ta gọi cái Chiếu Đãm Kính nầy là GƯƠNG LẦU TẦN, như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc để diễn tả lòng chung thủy của người chinh phụ đối với chồng đang đi chinh chiến ở biên cương xa xôi, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã có câu :

 

                                    Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,

                                    GƯƠNG LẦU TẦN dầu đã soi chung.

dcd_nomlutuong.jpg

 Còn trong truyện thơ Nôm Lưu Nữ Tướng thì gọi là  GƯƠNG TẦN ĐÀI như :

 

                                     Bỗng đâu hẩy trận Đằng Vương,

                                  Thày lay sớm đã tỏ GƯƠNG TẦN ĐÀI.    

 

         Gương soi còn là vật để làm đẹp chốn khuê phòng của các bà các cô ở trên bàn trang điểm, thường được trang trí bởi hình con chim loan, nên thường gọi là GƯƠNG LOAN. Theo sách Thái Bình Ngự Lãm 太平御覽 : Kế Tân Vương 罽賓王 xây nhà ở núi Tuấn Kỳ, bắt được một con chim loan. Vương rất yêu thích cho ăn toàn ngũ cốc, ở lồng vàng, nhưng suốt ba năm chim vẫn không hót. Phu nhân mới hiến kế rằng :"Thiếp nghe nói, khi chim loan gặp được đồng loại thì sẽ vui mừng mà kêu hót". Vương nghe theo. bèn cho dựng một tấm gương lớn trước mặt chim. Quả nhiên chim loan vui mừng kêu hót không ngừng, nhưng kêu mãi mà chim loan trong gương vẫn không bay ra, nên tiếng kêu hót trở nên bi thương. Cuối cùng gục chết trước gương. Sau dùng rộng ra, GƯƠNG LOAN là gương dùng để cho lứa đôi soi bóng và là chiếc gương trang điểm trên bàn phấn của qúy bà qúy cô. Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả lúc nàng cung nữ bị thất sủng có câu :

 

                                         Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,

                                     GƯƠNG LOAN bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi.

 

                                       

 

          Còn trong bài "Mai Rụng" của Jean.Leiba thời Tiền chiến đã diễn tả vẻ sầu thương ủ rủ của nàng thiếu nữ đang mòn mõi chờ đợi tình quân bằng những câu :

 

                                        Sầu đối GƯƠNG LOAN, bóng lạ người,

                                        Chàng không lại nữa, đẹp cùng ai ?

                                        Bơ phờ tóc rối, vành khăn lệch,

                                        Ủ rũ hoa gầy, má đỏ phai !

             

          Nhắc đến câu "GƯƠNG LOAN bẻ nửa, dải đồng xẻ đôi" làm cho ta lại nhớ đến điển tích GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH. Theo  "Bổn Sự Thi" của Mạnh Khải đời Đường 唐.孟棨《本事詩》có kể lại chuyện như sau :

 

                                 

 

                                                    Em gái của Trần Hậu Chúa 陳後主 Nam Triều là                                                          Lạc Xương Công Chúa 樂昌公主 có chồng là Thái                                                        tử Xá nhân Từ Đức Ngôn 徐德言. Vợ chồng rất                                                          mực thương yêu nhau.   

              

                                                        Khi Tùy Văn Đế cử binh đánh nước Trần, thì                                                          Trần Hậu Chủ chỉ lo ở trong cung ăn chơi, làm thơ đề từ. Nên quân Trần thua chạy khắp nơi. Từ Đức Ngôn thấy đại cuộc sắp tiêu vong, nên vô cùng lo lắng. Biết rằng nước Trần sẽ mất trong nay mai, không còn cách gì cứu vãn được nữa. Từ bèn nói với Công chúa rằng : " Với tài hoa và sắc đẹp của nàng, khi nước đã mất rồi, chắc chắn sẽ lọt vào tay những bậc quyền qúy sau nầy. Nếu duyên phận chúng ta chưa dứt, ta rất mong gặp lại nàng sau nầy, nhưng chúng ta cũng phải có một tín vật gì đó để mà nhận ra nhau chứ!". Nói đoạn, Từ Đức Ngôn vói tay lấy chiếc gương đồng trên bàn trang điểm của công chúa, đập bể làm đôi. Đưa cho công chúa một nửa, còn mình thì giữ một nửa còn lại. Hai người cùng ước hẹn nhau rằng, sau nầy nếu có muốn gặp nhau thì vào ngày Tiết Nguyên Tiêu, rằm tháng giêng hàng năm, cứ đem nửa mảnh gương nầy mà rao bán giữa chợ Trường An.

       Qủa nhiên, nước Trần mất vào tay nước Tùy. Lạc Xương Công chúa lọt vào tay của hoàng thân nước Tùy là Dương Tố. Tố rất sủng ái công chúa, nhưng nàng thì luôn luôn buồn bã vì nhớ đến chồng.             

       Những năm sau đó, tuy cuộc chiến đã yên, nhưng Từ Đức Ngôn luôn nhớ đến công chúa qua nửa mảnh gương, nên thường ra dạo chợ Trường an. Tiết Nguyên Tiêu năm đó, Từ cũng mang nửa mảnh gương ra chợ, tình cờ gặp được một gia nhân cũng đang rao bán nửa mảnh gương. Ráp lại thì vừa vặn với nửa mảnh gương của mình.              

       Từ bèn khẩn khoản mời gia nhân về nhà trọ hỏi thăm về tin tức của công chúa. Sau khi biết công chúa luôn thương nhớ đến mình. Từ rất xúc động viết một bài thơ ngũ ngôn gởi cho công chúa như sau :

 

                    鏡與人俱去,   Kính dữ nhân câu khứ,

                    鏡歸人不歸;   Kính quy nhân bất quy;

                    無復嫦娥影,   Vô phục Thường Nga ảnh,

                    空留明月輝!    Không lưu minh nguyệt huy!

Có nghĩa :

                     Gương đi người cũng đi theo,

                     Gương về người chẳng về theo lại nhà.   

                     Đâu còn thấy được bóng Nga,

                     Bơ vơ như ánh trăng tà trống không !

 

                       

         

      Công chúa đọc thơ của Từ Đức Ngôn mà lòng đau như cắt. Suốt mấy ngày liền không ăn uống gì cả. Dương Tố biết chuyện, cảm thông cho tình vợ chồng sắt son gắn bó, mới cho người đi mời Từ Đức Ngôn vào dinh, làm tiệc khoản đãi và mời cả công chúa đến dự. Khi công chúa đến nơi, thấy trong bàn tiệc có cả chồng cũ lẫn chồng mới, nàng vô cùng ngỡ ngàng, nửa mừng nửa lo, xúc động mà ngâm rằng :

 

                       今日何遷次,   Kim nhật hà thuyên thứ,

                       新官對舊官;   Tân quan đối cựu quan.

                       笑啼俱不敢,   Tiếu đề câu bất cảm,

                       方驗作人難!    Phương nghiệm tác nhân nan!

Có nghĩa :

                      Hôm nay khéo đổi dời,

                      Chồng cũ cùng chồng mới.

                      Cười khóc cũng lỡ làng,

                      Khó làm người cho nổi !

Lục bát :

                      Hôm nay sao khéo đổi dời,

                      Chồng cũ chồng mới cùng ngồi chung nhau.

                      Khóc, cười thiếp biết phải sao ?

                Làm người khó lắm phải nào dễ đâu !   

              

                       

       

Từ Đức Ngôn nghe xong cảm động mà rơi nước mắt; còn Dương Tố nghe xong thì cảm động mà cười lớn rằng :"Thôi được rồi, ta sẽ trả nàng về để cho vợ chồng đoàn viên sum họp". 

        Sau tiệc, Dương Tố chẳng những trả Lạc Xương Công Chúa về cho Từ Đức Ngôn mà còn ban thưởng rất nhiều vàng bạc cho vợ chồng về lại Giang Nam để sống yên vui hạnh phúc tới già .

  Câu chuyện PHÁ KÍNH TRÙNG VIÊN 破鏡重圓 từ đó được lan truyền khắp thiên hạ, qua đến Việt Nam ta thì thành "GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH". Thành ngữ nầy thường dùng để chỉ vợ chồng hoặc đôi lứa yêu nhau, vì hoàn cảnh mà phải phân ly cách trở, xa nhau một thời gian, rồi do một cơ duyên nào đó lại được sum họp đoàn viên trở lại. Như Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc vì phải bán mình chuộc cha, "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần", cuối cùng cũng được đoàn viên sum họp với gia đình và Kim Trọng, nên trong buổi tiệc đoàn viên, khi đã "Tàng tàng chén cúc dở say" Thúy Vân mới đứng lên phân bua :

 

                       Rằng : Trong tác hợp cơ trời,

                     Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.

                     ...Những là rày ước mai ao,

                   Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.

                        Bây giờ GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH

                   Khuôn duyên lừa lọc đã dành có nơi ...

 

 

       Xin được kết thúc các GƯƠNG ở nơi đây, và...

 

      Tha thiết mong rằng tất cả những GƯƠNG VỠ trong thiên hạ đều LẠI LÀNH sau những sầu thương lận đận tang thương chìm nổi của cuộc đời !

 

       Đỗ Chiêu Đức

dcd_guongloan.jpg
dcd_phakinhtrung.jpg
DCD_guong_last.jpg

Thành ngữ điển tích:

                                                       ĐÔNG

DCD_Dong_1.png

                                        ĐÔNG QUÂN sao khéo bất tình, 

                                    Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân.

 

        Đó là hai câu thơ oán trách và bất mãn của nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều. ĐÔNG QUÂN 東君 là "Ông Vua ở Hướng Đông", là Chúa Xuân mang lại ánh nắng ban mai  ấm áp cho hoa lá cỏ cây.

        1. Theo Sử Ký, Phong Thiền Thư 史記·封禪書 thì : ĐÔNG QUÂN là thần mặt trời ở hướng đông, với hình tượng của một nam nhân mặt đỏ, tay cầm cung tên, áo xanh quần trắng. Nghĩa phát sinh trong văn học cổ dùng để chỉ nhà vua, như trong "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca" của Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái có câu :

 

                                   Chủ trương mừng thấy ĐÔNG QUÂN,

                                   Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.

 

        2. Theo truyền thuyết dân gian cổ Trung Hoa thì ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, như thơ của Vương Sơ đời Đường trong bài "Lập Xuân Hậu Tác 立春后作" là : 

 

                       Đông Quân kha bội hưởng san san,       東君珂佩響珊珊,

                       Thanh ngự đa thì hạ cửu quan.             青馭多時下九關。

                       Phương tín ngọc tiêu thiên vạn lý,         方信玉霄千万里,

                       Xuân phong do vị đáo nhân gian.          春風猶未到人間".  

       Có nghĩa :

                              ĐÔNG QUÂN đeo ngọc bước đing -đang,

                              Cởi ngựa xuống trần qúa cửu quan,

                              Mới biết trời cao muôn vạn dặm,

                              Gió xuân chưa thổi đến nhân gian.

 

            Trong "Tứ Thời Khúc Vịnh" của một danh sĩ đời Mạc là Hoàng Sĩ Khải cũng có câu :

 

                                        Đâu đâu chịu lệnh ĐÔNG QUÂN,

                                     Cửu giao lừng lẫy đón xuân rước về !

 

        3. ĐÔNG QUÂN 東君 còn dùng để chỉ người đàn ông, người chồng trong gia đình ngày xưa với năm thê bảy thiếp, làm chủ trong nhà như chúa xuân mang đến ân huệ cho tất cả thê thiếp trong gia đình, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :

 

                          Vẻ chi một mảnh hồng quần,

                   Chúa hoa đành đã ĐÔNG QUÂN đây rồi !

 

                                      

 

          Cũng như hai câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc mở đầu cho bài viết nầy, ĐÔNG QUÂN là Chúa Xuân, là Vua, là người đàn ông đầy quyền lực trong gia đình, nên nếu không khéo xử sự thì sẽ rất dễ tạo nên những hờn oán cho thê thiếp vì :

 

                                            Muôn hồng nghìn tía đua tươi,

                                     CHÚA XUÂN nhìn hái một hai bông gần !

 

... để đến nỗi buông lời oán trách như lời thơ sau đây :

 

                                            ĐÔNG QUÂN sao khéo bất tình, 

                                     Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân.

 

          Sau ĐÔNG QUÂN 東君 ta có ĐÔNG CUNG 東宮, là Cung điện được xây dựng ở phía đông cung vua, là chỗ ở của Hoàng Thái Tử, người sẽ kế vị ngôi vua sau nầy. Theo Dịch lý ngũ hành thì Đông phương là Giáp Ất thuộc Mộc, chủ màu Xanh, là biểu tượng của mùa Xuân, nên ĐÔNG CUNG còn được gọi là "Thanh Cung 青宮" 

hay "Xuân Cung 春宮".  Như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái :

 

                                           ĐÔNG CUNG đã lập Duy Tường,

                                     Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao ?

 

         ĐÔNG CUNG 東宮 còn chỉ chỗ ở của Hoàng Hậu là mẹ của Hoàng Thái Tử. Vào đời Hán, hoàng hậu ở cung Trường Lạc nằm ở phía đông của cung Vị Ương là cung của vua ở, nên Hoàng Hậu còn được gọi là  ĐÔNG CUNG HOÀNH HẬU 東宮皇后, khác với Tây Cung là chỗ ở của Thứ Phi, Qúy Phi... Như trong truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa  (dân gian thường gọi là Phạm Công Cúc Hoa) của ta :

 

                                           Thương chồng chẳng quản xấu xa,

                                     Phong làm hoàng hậu chính toà ĐÔNG CUNG.

 

        Còn ĐÔNG PHONG 東風 là "Gió từ Hướng Đông" chớ không phải là "Gió của Mùa Đông". Gió của hướng Đông là gió Xuân. Theo chương Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký 礼记·月令 như sau : Mạnh xuân chi nguyệt, đông phong giải đống 孟春之月,東風解凍. Có nghĩa : Tháng giêng của mùa xuân, gió đông thổi tan băng giá. Nên hai câu thơ cuối trong bài "Đề Tích Sở Kiến Xứ 題昔所見處" (Còn có tựa là Đề Đô Thành Nam Trang 題都城南莊) là : 

                        Nhân diện bất tri hà xứ khứ,           人面不知何處去,

                        Đào hoa y cựu tiếu ĐÔNG PHONG   桃花依舊笑東風.

... còn được viết là : 

                        Nhân diện bất tri hà xứ khứ,           人面不知何處去,

                        Đào hoa y cựu tiếu XUÂN PHONG    桃花依舊笑春風。

 

        Cụ Nguyễn Du đã mượn ý của hai câu thơ trên để tả lúc Kim Trọng trở lại Vườn Thúy tìm Thúy Kiều với hai câu lục bát rất hay là :

                                           Trước sau nào thấy mặt người,

                                      Hoa đào năm ngoái còn cười GÍO ĐÔNG.

                  

                                       
 

       

 

 

 

       Trong truyện Nôm Hoa Tiên ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện đã tả nàng Dương Dao Tiên với hai câu thật gợi cảm :

                                           GIÓ ĐÔNG gờn gợn sóng tình,

                                      Dưới hoa lộng lẫy một cành mẫu đơn.

 

       Còn trong Cung Oán Ngâm Khúc thì Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mượn GÍO ĐÔNG để chỉ sự mơn trớn của nhà vua với nàng cung nữ khi mới được yêu :

 

                                           Cành xuân hoa chúm chím chào,

                                        GÍO ĐÔNG thôi đã cợt đào ghẹo mai.

 

     ... và khi thất sủng, thì nàng cung nữ cũng nhắm vào ĐÔNG PHONG mà trách móc :

 

                                           Thù nhau ru hỡi ĐÔNG PHONG,

                                       Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

 

          Còn cụ Nguyễn Trãi trong Quốc Âm Thi Tập : "Đào Hoa Thi bài một" thì viết như sau :

 

                     Một đoá đào hoa khá tốt tươi,

                     Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười.

                     ĐÔNG PHONG ắt có tình hay nữa,

                     Kín tịn mùi hương dễ động người.

        

                            

 

           Còn trong "Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến" thì nhà thơ Jean Leiba (Lê Văn Bái) đã viết trong bài Mai Rụng như sau :

                                        

                                   Yêu chàng, em cố chuốt hình dong

                                   Tô cặp môi son, điểm má hồng,

                                   Em thấy xuân nay hoa nở đẹp,

                                   Cảm tình Thanh Đế, tạ ĐÔNG PHONG,

 

            Ngoài ĐÔNG PHONG là GIÓ ĐÔNG ra, ta còn có TƯỜNG ĐÔNG là bức tường ở mé đông, do câu nói trong sách Mạnh Tử. Cáo Tử Hạ 孟子.告子下 là : Du đông gia tường nhi lâu kỳ xử tử 踰東家牆而摟其處子. Có nghĩa : Trèo qua bức tường  phía đông nhà hàng xóm mà ôm cô gái còn trong trắng. Ý nói là :  Chọc ghẹo cô gái hàng xóm, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du nói về chị em Thúy Kiều khi vừa đến tuổi câp kê là :

 

                                         Êm đềm trướng rũ màn che,

                                  TƯỜNG ĐÔNG ong bướm đi về mặc ai.

 

            Có nghĩa là : Chị em Thúy Kiều sống êm đềm trong "trướng rũ màn che", mặc cho đám thanh niên lối xóm có tỏ tình trêu ghẹo gì cũng mặc ! Nên TƯỜNG ĐÔNG, ĐÔNG GIA, ĐÔNG LÂN ... đều dùng để chỉ Hàng Xóm, như khi Thúy Kiều tảo mộ xong về lại nhà, cụ Nguyễn Du đã có những câu chuyển cảnh thật hay như sau :

                Kiều từ trở gót trướng hoa,

         Mặt trời gát núi chiêng đà thu không.

                Gương nga chênh chếch vòm song,

         Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.

                 Hải đường lả ngọn ĐÔNG LÂN,

         Hạt sương trĩu nặng cành xuân la đà....

 

                                 
              Chữ ĐÔNG còn đưa ta đến với hai nhân vật trong văn học cổ mà nhắc đến thì mọi người đều quen biết, đó chính là :

        1. ĐÔNG PHA 東坡 : là Tô Thức (1037-1101), chính trị gia, văn thi sĩ đời Tống, tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ, nên người đời quen gọi là TÔ ĐÔNG PHA 蘇東坡. Ông nổi tiếng với nhiều bài Thi Từ Ca Phú, nhất là hai bài Tiền, Hậu Xích Bích Phú với các câu như : Quế trạo hề lan tương, kích không minh hề tố lưu quang, diễu diễu hề dư hoài, vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương... 桂棹兮蘭槳,擊空明兮泝流光。渺渺兮予懷,望美人兮天一方... Có nghĩa : ... Thuyền quế nầy chèo lan, khua vầng trăng sáng nầy theo dòng nước lan man, lòng ta diệu vợi muôn vàn, phương trời người đẹp mơ màng ngóng trông !... Theo sử thi "Mai Đình Mộng Ký 梅亭夢記" của Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 trong đó cũng có câu :

 

                                    Này này quế trạo lan tương,

                             Ví đua Xích Bích, chi nhường ĐÔNG PHA.

 

      2. ĐÔNG SÀNG 東床 : là cái giường nằm ở phía đông. Theo tích Vương Hi Chi 王羲之 trong Tấn Thư 晉書 như sau :

          Vào đời Đông Tấn, có quan Thái Úy là Khước Giám, có một cô con gái vừa tài hoa vừa đẹp đẽ, nên ông luôn muốn kén chọn một chàng rễ cho xứng với con gái mình. Biết được trong nhà của Tể Tướng Vương Đạo có rất nhiều con cháu trai đều văn hay chữ tốt, bèn cho môn sinh đến để cầu thân. 

    Khi người môn sinh của Khước Giám đền ngỏ ý, thì Vương Đạo bèn bảo rằng : Tất cả bọn chúng đều đang ăn ở học tập ở phía đông sương, cứ qua đó mà chọn. Người môn sinh bèn đi về phía đông sương, thấy những chàng trai con cháu của họ Vương người nào cũng mi thanh mục tú, ra vẻ "Nền phú hậu bậc tài danh, Văn chương nết đất thông minh tính trời", lại nghe nói có người nhà của quan Thái Úy đến chọn rễ, nên ai nấy đều ăn mặc chải chuốc bảnh bao, duy chỉ có một chàng nằm phơi bụng ở giường mé đông đọc sách xem như không có gì xảy ra cả. 

     Người môn sinh về kể lại tài mạo của các chàng trai họ Vương bên đó cho quan Thái Úy Khước Giám nghe. Khi nghe xong, Khước Giám liền bảo : "Chính hắn ! Chính cái chàng trai nằm phơi bụng ở giường đông như không có việc gì xảy ra đó, chính là chàng rễ mà ta muốn chọn đó".

 

                        

 

     

 

 

 

Qủa không sai, vì chàng rễ đó chính là Vương Hi Chi, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng với bút pháp của Thiếp Lan Đình để đời cho đến hiện nay. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho Hoạn Thư khen Thúy Kiều khi thấy nàng chép kinh ở Quan Âm Các là :

 

                                      Khen rằng bút pháp đã tinh,

                                So vào với Thiếp Lan Đình nào thua !

 

       Sau nầy, hễ muốn chọn được chàng rễ qúy thì người ta thường gọi là "Kén Rễ Đông Sàng". Nên "RỄ ĐÔNG SÀNG" là chàng rễ qúy. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Nhị Độ Mai" của ta cũng có câu :

 

                                      Con ta yểu điệu khuê phòng,

                                Có Tây Tử đó, thiếu ĐÔNG SÀNG nào ?!   

 

      Còn trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái, một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 của ta thì gọi là GIƯỜNG ĐÔNG :

 

                                     Lẽ đâu dám kẻ GIƯỜNG ĐÔNG,

                                 Tước bình xin đợi, thừa long xứng tài.  

 

                               

 

       

 

 

 

 

            TƯỚC BÌNH là "Tước Bình Trúng Tuyển 雀屏中選"; THỪA LONG là "Thừa Long Khoái Tế 乘龍快婿". Cả hai thành ngữ nầy cùng với "Diệu tuyển ĐÔNG SÀNG 妙選東床" đều là những thành ngữ chỉ kén được chàng rễ quý !

 

           Hẹn bài viết tới !

 

           Đỗ Chiêu Đức                  

DCD_Dongquan.png
DCD_Giodong.jpg
DCD_Dongphong.jpg
dcd_donglan.jpg
dcd_dongsang.jpg
dcd_sokinhtantrang.jpg

Góc Đường Thi : 

                               TÂN NIÊN TÁC

                                                                LƯU TRƯỜNG KHANH

DCD_tanNientac.png

 LƯU TRƯỜNG KHANH 劉長卿 (726-786) tự là Văn Phòng, người huyện Tuyên Thành (thuộc tỉnh An Huy ngày nay) giỏi về thơ ngũ ngôn và ngũ ngôn luật. Ông làm quan đến chức Giám Sát Ngự Sử, có giao tình rất hậu với Thi tiên Lý Bạch.

        Mùa xuân năm Chí Đức thứ 3 (758), vì chính kiến bất đồng, từ chức Trưởng Châu Úy của Tô Châu, ông bị biếm đến Phan Châu tỉnh Quảng Đông lãnh chức Nam Ba Úy. Tết năm đó ông làm bài thơ dưới đây để bày tỏ nỗi lòng của mình.

 

   新年作               TÂN NIÊN TÁC

鄉心新歲切,    Hương tâm tân tuế thiết,

天畔獨潸然。    Thiên bạn độc san nhiên.

老至居人下,    Lão chí cư nhân hạ,

春歸在客先。    Xuân quy tại khách tiên.

嶺猿同旦暮,    Lãnh viên đồng đán mộ,

江柳共風煙。    Giang liễu cộng phong yên.

已似長沙傅,    Dĩ tự Trường Sa Phó,

從今又幾年 ?    Tòng kim hựu kỷ niên ?

      劉長卿               Lưu Trường Khanh

 

 

 

* CHÚ THÍCH :

    - Hương tâm 鄉心 :  là Lòng Quê, là Nỗi lòng tưởng nhớ đến quê hương.

    - Tân Tuế 新歲 : là Tuổi mới, là Năm mới, là Tết đến.

    - Thiên Bạn 天畔 : là Bên trời, ở đây chỉ bị biếm đến nơi xa xôi.

    - San Nhiên 潸然 : chỉ lệ rơi lả chả.

    - Lãnh Viên 嶺猿 : chỉ Vượn trên đĩnh núi.

    - Đán Mộ 旦暮 : ĐÁN là Ngày, là Buổi Sáng. MỘ là Buổi Chiều.

    - Trường Sa Phó 長沙傅 : chỉ GIẢ NGHỊ 賈誼, một nhà tư tưởng, nhà văn học và là một quan Đại Phu nổi tiếng đời Tây Hán, rất được Hán Văn Đế trọng vọng, nhưng bị dèm xiểm đố kỵ, nên có lúc bị đày đến làm Thái Phó của đất Trường Sa, vì thế  mới gọi là Trường Sa Phó. Ở đây Lưu Trường Khanh tự ví mình như là Giả Nghị vì dèm xiểm nên bị đày.

 

* NGHĨA BÀI THƠ :

                                  Sáng Tác Trong Năm Mới

        Nỗi lòng tưởng nhớ đến quê hương càng tha thiết hơn trong những ngày Tết đến. Một mình một bóng nơi chân trời xa xôi nầy mà âm thầm nhỏ lệ. Cái già đã sồng sộc đến nơi rồi mà thân phận vẫn cứ lè tè nhỏ nhoi ở dưới người khác; Cũng như nàng xuân luôn luôn đến trước với những người khách tha hương. Ở đây, sớm chiều chỉ cùng bầu bạn với các chú vượn trên các đĩnh núi xa xa, và ngắm cảnh mờ sương gió với các dãy liễu rũ ven sông. Ta tự thấy mình đã giống như là Đại phu Giả Nghị lúc bị đày ở Trường Sa; không biết là từ nay còn phải chịu đến mấy năm nữa đây ?!

 

      Qủa là nỗi lòng của kẻ tha hương thật bi thiết trong những ngày năm hết Tết đến, khi nhìn lại thân phận của mình vẫn còn nhỏ nhoi không thực hiện được hoài bão và mùa xuân vẫn không chờ đợi ai mà vẫn cứ ập đến qua hai câu thơ thật phũ phàng thực tế :

 

                          老至居人下,    Lão chí cư nhân hạ,

                          春歸在客先。    Xuân quy tại khách tiên.

 

 ... làm cho ta cũng nhớ đến thân phận của những kẻ lưu vong nơi xứ lạ quê người như chúng ta hiện nay. Chưa làm được gì cho quê hương thì cái già đã sồng sộc ập xuống trên đầu rồi. Câu "Xuân quy tại khách tiên" ngoài nghĩa " Người khách tha hương cảm nhận mùa xuân về trước hơn những người khác" ra, còn có nghĩa là :"Mùa xuân đến trước hơn khi người đất khách được về lại quê hương !" Quê hương còn chưa về được, nhưng mùa xuân thì vẫn cứ đến hằng năm không ai có thể cản được như lời thơ của thi sĩ Tiền Chiến Xuân Diệu :

                          Tôi có chờ đâu có đợi đâu,

                      Mang chi xuân đến gợi thêm sầu !

 

* DIỄN NÔM :                            

                   

                            TÂN NIÊN TÁC

 

                   Lòng quê Tết càng bi thiết,

                   Bên trời lả chả lệ rơi.

                   Già đến quan còn bên dưới,

                   Xuân về khách cảm trước người.

                   Sớm chiều cùng nghe tiếng vượn,

                   Sương khói bờ liễu buông lơi.

                   Đã như Trường Sa Giả Nghị,

                   Sức còn biết mấy lăm hơi ?!

    Lục bát :

                   Lòng quê Tết đến ngậm ngùi,

                   Bên trời lả chả bồi hồi riêng ta.

                   Dưới người khi tuổi đã già,

                   Xuân về trước lúc hồi gia khách sầu.

                   Sớm chiều tiếng vượn rầu rầu,

                   Bên bờ liễu rũ nhạt mầu khói sương.

                   Thân như Giả Nghị sầu vương,

                   Từ nay, rồi nữa, miên trường bao năm ?!

 

    Đỗ Chiêu Đức

_________________________________________

DCD_tannientac2.png
DCD_tannientac3.png

Đài

 

 

 

 

 

 

 

Tiện đây xin một hai điều,

ÐÀI GƯƠNG soi đến dấu bèo cho chăng?

 

Đó là lời nói khéo léo ga-lăng của Kim Trọng khi tỏ tình với Thúy Kiều. Kim ví Kiều như là ĐÀI GƯƠNG SEN ở trên cao, còn mình chỉ là những dấu bèo nhỏ nhoi trôi nổi ở bên dưới. "Nịnh đầm" đến thế là cùng. Chả trách cô Kiều nhận lời ngay, nhưng vẫn còn e ngại mà "đổ thừa" rằng : 

 

Đã lòng quân tử đa mang,

Một lời dâng tạc đá vàng thủy chung.

 

... và khi cả nhà Vương Viên Ngoại đi mừng thọ ngoại gia, chỉ còn có một mình Thúy Kiều ở nhà, thì nàng cũng đã nhân cơ hội nầy mà cùng với Kim Trọng thề nguyền gắn bó. Khi nàng đến tìm Kim thì chàng đã:

 

Vội mừng làm lễ rước vào,

ĐÀI SEN nối sáp, lò đào thêm hương.

Tiên thề cùng thảo một chương,

Tóc mây một món dao vàng chia đôi!

 

 

 

ĐÀI SEN là cái giá có hình hoa sen để cắm đèn cầy, đèn sáp.

ĐÀI GƯƠNG còn là ĐÀI GƯƠNG SOI như trong bài kệ của nhà sư Thần Tú đời Tống:

 

Thân tự bồ đề thọ,                 身似菩提樹,

Tâm như minh Kính Đài.      心如明鏡台. 

Thời thời thường phất thức,   時時勤拂拭, 

Mạc sử nhạ trần ai.                莫使惹塵埃.

 

Có nghĩa:

Thân bền vững tựa như cây bồ đề, còn lòng thì trong sáng như ĐÀI GƯƠNG soi. Lúc nào cũng siêng năng lau phủi, không để cho nhuốm phải bụi trần.

 

Thân như cây bồ đề,

Lòng tựa Đài Gương soi.

Siêng năng thường lau phủi,

Không để nhuốm trần ai!

 

Nhưng Lục Tổ Huệ Năng đã chỉnh lại rằng:

 

Bồ đề bổn vô thọ,           菩提本無樹,

Minh kính diệc phi Đài, 明鏡亦非台,

Bổn lai vô nhất vật,       本來無一物,

Hà xứ nhạ trần ai?       何處惹塵埃?

 

Có nghĩa:

Vốn chẳng có cây bồ đề nào cả, cũng không có đài gương nào hết, vốn dĩ chẳng có vật gì cả, thì lấy đâu mà nhuốm bụi trần ai?

 

Không bồ đề nào cả,

Cũng chẳng có Đài Gương,

Vốn không vật gì cả,

Lấy đâu nhuốm bụi đường? 

 

 

 

Sau ĐÀI GƯƠNG ta còn có từ PHẬT ĐÀI, là cái đài cao có hình đức Phật đứng hoặc ngồi trên đó. Khi sư Giác Duyên đưa cả nhà đến gặp mặt Thúy Kiều ở thảo am thì "Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!" và sau khi "Hai em hỏi trước han sau, Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi", thì cả nhà mới:

 

Quây nhau lạy trước PHẬT ĐÀI,

Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. 

 

Trong bài DƯƠNG ta đã có từ DƯƠNG ĐÀI là tích của Sở Vương và Vu Sơn Thần Nữ theo như bài Cao Đường Phú của anh chàng đẹp trai Tống Ngọc; nhưng trong Bích Câu Kỳ Ngộ thì lại gọi là ĐÀI DƯƠNG như hai câu sau đây :

Kìa ai mê giấc ĐÀI DƯƠNG,

Mây mưa là chuyện hoang đường có đâu!

 

Còn ĐÀI LÂN là Kỳ Lân Đài 麒麟臺 cùng với Lăng Yên Các 凌 煙 閣 là nơi vua Đường Lý Thế Dân cho họa sĩ vẽ hình của 24 người có công giúp vua lập nên nhà Đường đem treo ở nơi đây để ghi nhớ công lao của họ. Trong nguyên bản chữ Hán Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn câu 447-448 ghi :

 

凌 煙 閣兮秦 叔 寶, Lăng yên các hề Tần Thúc Bảo, 

麒 麟 臺兮霍 嫖 姚. KỲ LÂN ĐÀI hề Hoắc Phiêu Diêu*

(* Hoắc Phiêu Diêu trong truyện Thuyết Đường gọi là Uất Trì Cung 尉遲恭).

 

Hai câu thơ trên đã được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm một cách rất tài tình là : 

 

Tài so Tần , Hoắc vẹn tuyền 

Tên ghi gác khói, tượng truyền ĐÀI LÂN.

 

 

 

 

 

 

 

 

Lăng Yên Các và Kỳ Lân Đài

 

Trong Văn Tế Chiến Sĩ Trận Vong của Nguyễn Văn Thành cũng có nhắc tới GÁC KHÓI ĐÀI MÂY:

 

Phận dù không GÁC KHÓI ĐÀI MÂY;

Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.

 

ĐÀI MÂY là Vân Đài 雲臺, là nơi Hán Minh Đế treo tranh của hai mươi tám vị công thần của nhà Hán để tưởng nhớ đến công lao của họ. Trong văn học cổ thường dùng để ví cái vinh dự cao nhất của kẻ bề tôi hết lòng với vua dưới thời phong kiến.

 

Ta còn có từ ĐÀI NGÂN tức là Ngân Đài 銀臺, vốn là tên riêng để gọi mặt trăng, nhưng căn cứ vào câu :"Sính Vương Mẫu vu Ngân Đài hề, tu ngọc chi dĩ liệu cơ 聘王母于银台兮,羞玉芝以疗饥。" Có nghĩa : "Mời Vương Mẫu ở Ngân Đài, dùng mè ngọc để đỡ đói" (Ngọc Chi là "Mè ngọc" có thể là một cách để gọi "hạt gạo" mà ta đang ăn). Đó là một câu trong bài "Tư Huyền Phú 思玄赋" của Trương Hành đời Đông Hán, nên sau nầy thường dùng Ngân Đài hay "ĐÀI NGÂN" để chỉ chỗ ở của các nàng tiên. Như trong Truyện Tây Sương có câu :

Trên thì chễm chệ ĐÀI NGÂN,

Mấy lời dạy bảo mười phần đinh ninh.

 

Còn ĐÀI THIÊNG là do chữ Nho là LINH ĐÀI 靈臺 theo tích của một thi nhân đời Đường như sau :

 

BÙI ĐỘ (756-839), đại thần nhà Đường, tự là Trung Lập, người đất Văn Hỉ Huyện Hà Đông, nay thuộc tỉnh Sơn Tây. Ông đậu tiến sĩ năm Trinh Nguyên đời Đường. Lúc ấy phiên trấn làm loạn, triều đình thảo phạt mấy lần đều thất bại, nên triều thần đều muốn bãi binh, duy chỉ có Bùi Độ là muốn đánh tới cùng. Tướng Phiên là Ngô Nguyên Tế phái người hành thích ông nhưng không chết. Sau ông được thăng làm Tể Tương. Năm Nguyên Hòa thứ 12, ông xua quân công phá Thái Châu, bắt sống Ngô Nguyên Tế. Các phiên trấn Hà Bắc kinh sợ đều về qui phục triều đình. Ông lập công to, nên nhiều người dèm xiểm hãm hại, nhiều lần bị biếm xứ xa. Về già, vì hoạn quan chuyên quyền, nên ông xin về hưu ở đất Lạc Dương, thường cùng ngâm vịnh với Bâch Cư Dị, Lưu Vũ Tích. 

Dưới đây là bài đề từ của ông đề dưới bức chân dung của mình, lời lẽ khiêm tốn nhưng lại rất tự hào về phẩm chất hơn người của mình:

 

爾才不長,爾貌不揚,胡為乎將?胡為乎相?一點靈臺,丹青莫狀!Nhĩ tài bất trưởng, nhĩ mạo bất dương, hồ vi hô tướng ? Hồ vi hô tướng* ? Nhất điểm LINH ĐÀI, đan thanh mạc trạng !

(* Có 2 chữ TƯỚNG : 將nầy là TƯỚNG QUÂN 將軍; Còn 相 nầy là TỂ TƯỚNG 宰相)

 

Có nghĩa:

Tài của ngươi không giỏi, tướng mạo cũng bình thường, sao lại có thể làm tướng quân ? Sao lại có thể làm Tể Tướng ? Chỉ còn một điểm tâm linh thần thái (hơn người của ngươi) mà nét đan thanh không thể nào vẽ nên được!

 

Nên LINH ĐÀI hay ĐÀI THIÊNG còn dùng để chỉ con tim, tấm lòng thanh cao trong sạch vượt trội hơn người khác, như trong truyện Nôm Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :

 

Đeo đai trót một tiếng đà,

ĐÀI THIÊNG hổ có trăng già chứng lâm.

 

Cũng trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiên, ta còn bắt gặp từ ĐÀI XUÂN, là ĐÀI trồng cây XUÂN 椿. Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình :

 

Vào hầu lạy trước ĐÀI XUÂN,

Hương đưa chén rót, gấm nhuần tiệc cao.

 

Ngoài ra, ta còn có các từ như DẠ ĐÀI 夜臺, TUYỀN ĐÀI 泉臺 đều chỉ nơi mộ địa chôn người chết, dùng rộng ra có nghĩa là Âm Phủ như các từ Suối Vàng (hoàng tuyền 黃泉), Chín Suối (cửu tuyền 九泉) vậy. Cụ thể là:

 

* TUYỀN ĐÀI 泉臺 : là Cái Đài có Suối chảy. Vốn là tên một cái đài cao do Lổ Trang Công đời Xuân Thu xây dựng nên. Sau dùng để chỉ lăng mộ và mộ huyệt, đến đời Đường do hai câu trong bài thơ "Lạc Đại Phu Vãn Từ" của Lạc Tân Vương 駱賓王〈樂大夫挽詞〉một trong Tứ kiệt buổi sơ Đường là: 

 

忽見泉臺路, Hốt kiến TUYỀN ĐÀI lộ,

猶疑水鏡懸。 Do nghi thủy kính huyền.

Có nghĩa:

Chợt thấy ngõ TUYỀN ĐÀI,

Còn ngờ treo kính nước.

 

Nên TUYỀN ĐÀI còn có nghĩa là Âm ty Địa phủ, nơi của người chết phải đi về. Như khi nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng xong, Thúy Kiều đã than rằng :

 

Nợ tình chưa trả cho ai,

Khối tình mang xuống TUYỀN ĐÀI chưa tan !

 

* DẠ ĐÀI 夜臺 : là cái Đài về Đêm. Đài ở đây chỉ Lăng mộ người chết, nên kín mít bít bùng không có ánh sáng như là ban đêm vậy. Nên dùng rộng ra để chỉ cỏi âm, nơi mà tất cả người chết đều phải đi về nơi đó, như trong bài "Khóc Tuyên Thành Thiện Nhưỡng Kỷ Tẩu" ( Khóc ông lão chuyên ũ rượu ở Tuyên Thành) của Thi Tiên Lý Bạch 唐李白在《哭宣城善酿纪叟》có câu :

 

夜臺無曉日, DẠ ĐÀI vô hiểu nhật,

沽酒與何人? Cô tửu dữ hà nhân? 

 

Có nghĩa:

 

DẠ ĐÀI không ánh ban mai,

Muốn đi mua rượu ai người uống cho?

 

Trong Truyện Kiều, khi bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều đã trối lại với Thúy Vân về mối tình của mình với Kim Trọng rằng:

 

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

DẠ ĐÀI cách mặt khuất lời,

Rải xin giọt mước cho người thác oan.

 

... và khi Kim Trọng trở lại vườn Thúy để tìm Kiều, thì Vương Ông đã kể lể với chàng rằng :

 

...Kiếp này duyên đã phụ duyên,

DẠ ĐÀI còn biết sẽ đền lai sinh.

Mấy lời ký chú đinh ninh,

Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.

Phận sao bạc bấy Kiều nhi...

Chàng Kim về đó, con thì đi đâu ?!!!

 

Đỗ Chiêu Đức

________________________________

DCD_lotus_daisen.jpg
DCD_lotuslanterns.jpg
DCD_guong.png
DCD_langyencac.PNG

Thơ Trương Duyệt

 

 

Trương Duyệt 張說 (667-730):

DCD_TruongDuyet.jpg

Đại thần đời Đường. Tự là Đạo Tế, một tự nữa là Duyệt Chi. Người đất Lạc Dương. Đời Võ Tắc Thiên được phong làm Thái Tử Hiệu Thư, đời Đường Trung Tông giữ chức Hoàng Môn Thị Lang, đời Tuấn Tông được phong chức Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, đến đời Huyền Tông thì giữ chức Trung Thư Lệnh, rồi được truy phong Yến Quốc Công. Ông giỏi về văn từ nên được giao cho soạn thảo hầu hết các văn kiện quan trọng trong triều đình lúc bấy giờ. Thơ của ông thường làm lúc ngẫu hứng. Sau đây là những bài thơ của ông làm khi bị biếm làm Thứ Sử đất Nhạc Dương.

 

1. Bài thơ Tống Lương Lục Tự Động Đình Sơn Tác:

 

 

 

 

 

 

 

 

送梁六自洞庭山作 Tống Lương Lục Tự Động Đình Sơn Tác

 

巴陵一望洞庭秋, Ba Lăng nhất vọng Động Đình Thu,

日見孤峰水上浮。 Nhựt kiến cô phong thủy thượng phù.

聞道神仙不可接, Văn đạo thần tiên bất khả tiếp,

心隨湖水共悠悠. Tâm tùy hồ thủy cộng du du !

張說                      Trương Duyệt 

 

* Chú thích:

- Lương Lục 梁六: Tức Lương Tri Vi, Thứ sử Đàm Châu, nhân về kinh đi ngang qua Nhạc Dương, nên Trương Duyệt lúc bấy giờ là Thứ sử Nhạc Dương mới đưa bạn đi qua hồ Động Đình.

- Động Đình Sơn 洞庭山 : Còn gọi là Quân Sơn, nằm trong Động Đình Hồ về phía tây nam của thành phố Nhạc Dương. Nơi có phong cảnh đẹp đẽ hữu tình.

- Ba Lăng 巴陵: Tên Quận của Nhạc Châu, thuộc Nhạc Dương trong tỉnh Hồ Nam.

- Cô Phong 孤峰 : Đỉnh núi cô độc, chỉ đỉnh Quân Sơn lẻ loi ở giữa hồ Động Đình.

- Văn Đạo 闻道: Nghe nói rằng, Nghe đồn rằng...

- Thần Tiên 神仙: ở đây chỉ Tương Quân và Tương Phu Nhân hai tiên nhân đắc đạo ở núi Động Đình nầy, nên núi còn có tên Quân Sơn là vì thế. Theo Thập Di Ký 《拾遗记》 của Vương Gia đời Đông Tấn thì có đến tám tiên đảo trôi nổi trên mặt sông hồ biển cả, trong số đó có Quân Sơn. Tương truyền dưới núi Quân Sơn có đến mấy trăm gian nhà vàng tráng lệ để cho các tiên đồng ngọc nữ ở trong đó, suốt ngày luôn có tiếng tiêu thiều tơ trúc vang lừng các khúc nhạc tiên vẳng đến cả trên đỉnh núi. Nhưng không mấy ai gặp được thần tiên trên núi đó.

- Du Du 悠悠 : là Dài lâu, là Dằng dặc lơ lửng mãi không thôi.

 

* Nghĩa bài thơ:

Làm Khi Đưa Lương Lục Từ Núi Động Đình.

Từ đất Ba Lăng ta nhìn theo bạn đến mút con mắt trên hồ Động Đình khi trời đã vào thu; dưới ánh nắng lắp lánh ta thấy ngọn núi Quân Sơn cô độc như trôi nổi trên hồ Động Đình (tựa như núi Bồng lai ); Nghe nói thần tiên rất khó mà gặp được để tiếp xúc, nên lòng ta cũng như nước hồ trôi nổi tận xa xăm !

 

* Diễn Nôm:

Cảm Tác Khi Đưa  Lương Lục Từ Động Đình Sơn

 

Ba lăng tiễn bạn Động Đình Hồ,

Dưới nắng Quân Sơn tựa lửng lơ.

Nghe nói thần tiên không dễ gặp,

Lòng theo hồ nước cũng dật dờ! 

 

Lục bát:

Ba Lăng thu ngắm Động Đình,

Núi côi như nổi xinh xinh giữa hồ.

Thần tiên há dễ gặp cơ ?!

Lòng ta theo nước dật dờ xa xa!

 

Đỗ Chiêu Đức

 

Bài thơ nầy đã được thân phụ của Công Tử Bạc Liêu cho người viết và cẩn xà cừ treo trong phòng khách trên lầu bên cạnh hai câu đối chính. Ta thấy nội dung bài thơ diễn tả lại tâm lý tự nhiên của con người trước cảnh chia tay, trước thiên nhiên trời nước bao la của hồ Động Đình, trước sự nhỏ bé của núi Quân Sơn như đang trôi nổi trên mặt hồ như tiên đảo Bồng lai; làm cho lòng người cũng lắng đọng xuống muốn đi tu tiên để sống cảnh sống thanh nhàn của thần tiên, không xô bồ xô bộn như cuộc đời thực tế đang diễn ra trước mắt. Nếu chịu lắng lòng với bài thơ nầy, thì chắc Công Tử Bạc Liêu cũng sẽ bớt ăn chơi hơn. Tiếc thay!

 

2. Bài thơ Thục Đạo Hậu Kỳ:

 

 

 

蜀道后期        Thục Đạo Hậu Kỳ

客心争日月, Khách tâm tranh nhật nguyệt,

来往预期程。 Lai vãng dự kỳ trình.

秋風不相待, Thu phong bất tương đãi,

先至洛陽城。 Tiên chí Lạc Dương thành.

張說                 Trương Duyệt

 

Giữa những năm Tiên Thụ của triều Võ Tắc Thiên (690-692), lúc đó Trương Duyệt đang giữ chức Hiêu Thư Lang, hai lần được cử đi sứ xứ Tây Thục. Các chuyến đi đều đã được dự tính sẵn ngày về, nhưng vì công vụ trễ nãi nên phải về muộn. Vì thế nên mới có bài thơ nầy.

 

* Chú thích:

- Thục Đạo 蜀道 : THỤC là đất Thục thuộc một vùng của tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Thục Đạo là đường đến nước Thục, vì là vùng cao nguyên với các núi non hiễm trỡ nên đường đi lại khó khăn, như trong bài Thục Đạo Nan của Lý Bạch có câu 蜀道之难,难于上青天!Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên ! Có nghĩa : Đường đi đến đất Thục khó khăn, gian nan như đường đi lên trời xanh !

- Tranh Nhựt Nguyệt 争日月 : là Tranh thủ với ngày tháng.

- Dự Kỳ Trình 预期程 : là Dự tính cả hành trình ngày đi lẫn ngày về.

- Bất Tương Đãi 不相待 : là Không chờ đợi nhau.

- Lạc Dương 洛陽 : là Kinh đô của Võ Tắc Thiên lúc bấy giờ.

 

* Nghĩa bài thơ:

Đường Thục Hẹn Sau (Trễ Hẹn)

 

Lòng của kẻ đi đến nơi đất khách xa nhà luôn luôn tranh thủ từng ngày từng tháng, cả chuyến đi lẫn chuyến về đều đã dự tính trước cả rồi.( Nhưng vì đường xá khó khăn và công vụ cho nên trễ hẹn ). Còn ngọn gió thu se sắt thì không chờ đợi ai cả, cứ đến kỳ là thổi vụt vù về đến Lạc Dương thành trước ngay (trong khi ta vẫn còn ở đất Thục chưa kịp quay về !).

 

* Diễn Nôm:

Thục Đạo Hậu Kỳ

 

Lòng khách tranh ngày tháng,

Đi về đúng lịch trình.

Gió thu không chờ đợi,

Đến trước Lạc Dương thành.

 

Lục bát:

Tính ngày tính tháng người đi,

Vãng lai đúng hẹn quy kỳ khích khao.

Gió thu chẳng đợi ai nào,

Một mình phe phẩy thổi vào Lạc Dương.

 

Đỗ Chiêu Đức

 

3. Bài thơ Ung Hồ Sơn Tự:

DCD_Tống Lương Lục Tự Động Đình Sơn Tác.
DCD_Thục Đạo Hậu Kỳ.png
DCD_Ung Hồ Sơn Tự.png

灉湖山寺                Ung Hồ Sơn Tự

空山寂歷道心生, Không sơn tịch lịch đạo tâm sanh,

虛谷迢遙野鳥聲。 Hư cốc điều diêu dã điểu thanh.

禪室從來塵外賞, Thiền thất tòng lai trần ngoại thưởng,

香臺豈是世中情。 Hương đài khởi thị thế trung tình.

雲間東嶺千尋出, Vân gian đông lãnh thiên tầm xuất,

樹裏南湖一片明。 Thọ lý nam hồ nhất phiến minh.

若使巢由知此意, Nhược sử Sào Do tri thử ý,

不將蘿薜易簪纓。 Bất tương la bệ dị trâm anh.

張說                         Trương Duyệt

 

* Chú thích:

- UNG HỒ 灉湖: Còn có tên là Nam Hồ, nằm ở phía nam thành phố Nhạc Dương.

- ĐIỀU DIÊU 迢遙: là Xa xôi diệu dợi.

- THIÊN TẦM 千尋: Theo hệ thống đo đạc ngày xưa, cứ 8 thước vô 1 tầm, nên Thiên Tầm là Một Ngàn Tầm, chỉ khoảng cách rất cao rất xa.

- SÀO DO 巢由: là Sào Phủ và Hứa Do, hai ẩn sĩ cao nhã ngày xưa. Theo Cao Sĩ Truyện: Hứa Do tự là Võ Trọng. Vua Nghiêu nghe tiếng định nhường ngôi cho. Do thoái ẩn bên bờ sông Dĩnh Thủy ở Trung Nhạc dưới núi Cơ Sơn. Vua Nghiêu lại cho triệu ra làm Cửu Châu Trưởng (Người đứng đầu Cửu Châu). Hứa Do không muốn nghe lời triệu đó, nên ra bờ sông Dĩnh Thủy để rửa tai. Nhằm lúc Sào Phủ đang dắt một con nghé con ra bờ sông uống nước, thấy Do đang rửa tai, mới hỏi rõ nguyên nhân , Do đáp :"Vua Nghiêu muốn triệu tôi ra làm Cửu Châu Trưởng, những lời nói về công danh đó làm dơ tai của tôi, nên mới ra đây mà rửa tai." Sào Phủ đáp rằng :"Nếu ông ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc, không người qua lại, thì ai còn gặp được ông mà mời !? Đằng nầy ông ở cạnh bờ sông, là lòng ông còn muốn nghe lời mời mọc của lợi danh. Như thế sẽ làm cho dơ miệng con nghé của ta." Nói đoạn, bèn dắt con nghé lên trên thượng lưu mà uống nước, không cho uống nước mà Hứa Do đã rửa tai, sợ làm cho ô uế miệng con nghé.

- LA BỆ 蘿薜: hay Bệ La cũng thế, là hai giống dây leo BỆ LỆ và NỮ LA 薜荔和女萝 thường sống chùm gởi vào thân cây khác hay các vách nhà hàng rào. Thường dùng để chỉ quần áo hoặc nơi ở của các cao sĩ ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc.

* Nghĩa Bài Thơ:

Chùa Trên Núi Ung  Hồ

Núi non vắng vẻ dàn trải ra trước mắt, khiến cho lòng người cũng nảy sinh ra lòng mộ đạo. Trong sơn cốc trống vắng xa xôi nầy luôn có tiếng chim rừng kêu hót. Thiền thất xưa nay vốn dĩ để cho người ngoài trần thế, và đài niệm hương đâu phải là nơi cỏi tục thế tình. Ngọn núi phía đông cao vút ngàn tầm trong mây trắng, và mặt hồ phía nam in bóng rõ rệt của một dãy cây dài. Nếu như Sào Phủ Hứa Do mà biết được ý của ta muốn quy ẩn nơi nầy, thì chắc cũng sẽ không đem la bệ mà đổi lấy trâm anh (Có nghĩa: Thà ở ẩn nơi nầy còn hơn là ra làm quan). 

 

* Diễn Nôm:

Ung  Hồ Sơn Tự

 

Núi vắng trải dài sanh mộ đạo,

Cốc không chim núi hót bên tai.

Phòng thiền vốn của người trong đạo

Đài niệm không là khách ngoại lai.

Đông lãnh ngàn tầm mây lẫn khuất

Nam hồ một dãy bóng cây dài.

Hứa Do Sào Phủ đều cao sĩ,

Chẳng đổi sô gai lấy mủ đai.

 

Lục bát:

Trải dài núi vắng đạo sanh,

Hư không sơn cốc mặc tình chim ca.

Phòng thiền là chốn ta bà,

Hương đài đâu phải la cà thế nhân.

Nghìn tầm mây vút núi đông,

Nam hồ in bóng cây lồng nước mây.

Sào Do nếu biết lòng này,

Chẳng đem áo vải đổi thay công hầu.

 

Đỗ Chiêu Đức 

 

4. Bài thơ U Châu Dạ Ẩm:

DCD_U Châu Dạ Ẩm.png

幽州夜飲         U Châu Dạ Ẩm

 

涼風吹夜雨, Lương phong xuy dạ vũ,

蕭瑟動寒林。 Tiêu sắc động hàn lâm.

正有高堂宴, Chính hữu cao đường yến,

能忘遲暮心? Năng vong trì mộ tâm ?

軍中宜劍舞, Quân trung nghi kiếm vũ,

塞上重笳音。 Tái thượng trọng già âm.

不作邊城將, Bất tác biên thành tướng,

誰知恩遇深! Thùy tri ân ngộ thâm!

張說                 Trương Duyệt

 

* Chú thích:

- U CHÂU 幽州: Tễn của một châu ngày xưa, gồm có Bắc Kinh, Hà Bắc , Kế huyện của ngày nay.

- CAO ĐƯỜNG YẾN 高堂宴 : Yến tiệc được bày ở nơi nhà cao cửa rộng. 

- TRÌ MỘ TÂM 遲暮心 : Cái lòng của buổi chiều đến chậm. Có nghĩa là : Cái lòng ảm đạm thê lương của người già nua trong buổi chiều xế bóng.

- KIẾM VŨ 劍舞: là Múa kiếm giúp vui trong tiệc rượu.

- GÌA 笳: là Cây kèn được cuốn bằng lá của người Hồ hay thổi.

- BIÊN THÀNH TƯỚNG 邊城將 : Tướng giữ thành ngoài biên ải. Tác giả tự chỉ mình.

- ÂN NGỘ 恩遇: Chỉ cái ân tri ngộ của nhà vua.

 

* Nghĩa Bài Thơ:

Đêm Dự Tiệc Rượu Ở U Châu

 

Trong đêm mưa tối ở U Châu nầy, gió lạnh thổi rít từng cơn qua rừng cây lá lạnh lẽo xạc xào lay động. May thay cũng là lúc trong quân đang có buổi tiệc lớn để ủy lạo tướng sĩ. Nhưng lòng ta sao có thể quên được nỗi thê lương buồn thảm của tuổi già trong buổi chiều xế bóng. Trong tiệc quân thì lấy múa kiếm làm vui, còn ngoài biên tái thì lại trân trọng tiếng kèn lá của người Hồ thổi nghe mà não nuột. Nếu không có làm tướng trấn thủ ngoài biên thành thì sẽ không biết được cái ân tri ngộ của nhà vua dành cho quân tướng ngoài biên ải sâu đậm biết chừng nào!

Năm đầu Khai Nguyên của Đường Huyền Tông (713-741), Trương Duyệt đang là Trung Thư Lệnh, vì bất hòa với Tễ Tướng Diêu Nguyên Sùng, nên bị biếm làm Thứ Sử Tương Châu, rồi Án Sát sứ Hà Bắc. Sau chuyển làm Hữu Vũ Lâm Tướng Quân Kiểm Hiệu U Châu Đô Đốc. Bài thơ nầy được làm ở Kế Huyện trong phủ Đô Đốc ở U Châu, tả lại tình hình của một buổi dạ tiệc trong quân ngũ, lời thơ bi tráng của một tướng ở biên thành ẩn ức những nỗi bất mãn ngấm ngầm của việc bị biếm ra ngoài biên ải. 

 

* Diễn Môm:

 U Châu Dạ Ẩm

 

Lạnh lẽo đêm mưa gió,

Xạc xào rừng lá reo.

Đúng lúc bày diên yến,

Khó quên lúc xế chiều.

Trong quân vui múa kiếm,

Trên ải kèn thay tiêu.

Chẳng phải biên thành tướng,

Ân vua thấm thía nhiều!

 

Lục bát:

 

Vụt vù gió lạnh đêm mưa,

Rừng cây lạnh lẽo gió đưa xạc xào.

Tiệc bày thành lũy lầu cao,

Lòng sao quên được mối sầu chiều rơi.

Trong quân múa kiếm làm vui,

Ngoài biên tái vẳng kèn xuôi đất Hồ

Biên thành tướng ở xa đô,

Ân vua tri ngộ bao giờ cho nguôi!

 

Đỗ Chiêu Đức

___________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH: 

                                                        CHỮ

            TỰ là CHỮ, cắt giàng đầu chữ TỬ là Con, Con ai Con ấy ?

 

           Đó là vế đầu của câu đối mà sứ giả của nhà vua đã ra để thử tài của khai quốc Trạng Nguyên  Nguyễn Hiền. Có nghĩa :

           TỰ 字 có nghĩa là CHỮ,  cắt đi giàng đầu của chữ TỰ 字 là bộ MIÊN 宀,thì chỉ còn lại chữ TỬ 子 bên dưới, có nghĩa là CON, Ý của sứ giả là muốn hỏi : Ngươi là con của ai vậy ?!

    Trạng nghe hỏi vô lễ, bèn đáp lại rằng :

 

                     VU là Chưng, bỏ ngang lưng chữ ĐINH là Đứa, Đứa nào Đứa này ?

 

          Chữ VU 于 có nghĩa là Chưng ( Vì chưng, bởi chưng), bỏ đi nét ngang lưng của chữ VU 于, là chữ NHẤT 一, thì chỉ còn lại chữ ĐINH 丁, có nghĩa là Đứa  (Gia Đinh 家丁 là Đứa ở). Ý Trạng muốn hỏi : Nhà ngươi là ĐỨA NÀO, mà dám hỏi ta là CON của ai ?!

       

         Trong văn học cổ CHỮ được nhắc tới nhiều nhất là CHỮ HIẾU, CHỮ TÌNH, CHỮ TÂM... Xin được lần lược trình bày sau đây.

                          Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ,         天有四時春在首,

                          Nhân sinh bách hạnh HIẾU vi tiên.    人生百行孝為先。 

Có nghĩa :

              - Trời có bốn mùa, xuân là mùa đứng đầu.

              - Người có trăm phẩm hạnh, HIẾU là trước tiên.

 

        Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, trước khi muốn bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều cũng đã cân nhắc :

                                Duyên hội ngộ, đức CÙ LAO,

                          Bên tình bên Hiếu bên nào nặng hơn ?!   

 

        Tự hỏi xong thì Thúy Kiều cũng đã đưa ra câu trả lời :   

 

                                  Để lời thệ hải minh sơn,

                          Làm con trước phải đền ơn sinh thành.  

 

        CÙ LAO 劬勞 : là Cực nhọc lao khổ. Theo chương Tiểu Nhã, Lạo Nga của Kinh Thi 詩經·小雅·蓼莪 có bài như sau :

 

          蓼蓼者莪,匪莪伊蒿。   Lạo lạo giả nga, phi nga y cao.

          哀哀父母,生我劬劳.    Ai ai phụ mẫu, sanh ngã CÙ LAO.

             .........

          父兮生我,母兮鞠我。   Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã.

          拊我畜我,长我育我,   Phủ ngã xúc ngã, trưởng ngã dục ngã,

          顾我复我,出入腹我。   Cố ngã phục ngã, xuất nhập phúc ngã.

          欲报之德,昊天罔极.    Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực.

Có nghĩa :

         Cha mẹ mong ta xanh tốt như rau nga  (giống như rau ngỗ của ta), nhưng ta lại giống như rau cao  (giống như rau đắng của ta. Ý muốn nói là không giống được như cha mẹ mong mõi). Thương thay cha mẹ ta, sanh ra ta thật là vất vả khó nhọc.  

         Cha sanh ra ta, mẹ thì mang nặng ta, vuốt ve ta nâng niu ta, nuôi ta khôn lớn. Chăm sóc chiếu cố ta, ra vào bồng ẵm ta . Muốn báo cái ơn đức đó của cha mẹ. thì như trời cao lồng lộng vô cùng tận. (Ý chỉ không báo nổi ơn của cha mẹ đâu).

         - Diễn Nôm :

                            

                                 Kìa xem xanh tốt rau nga,

                             Hóa ra chẳng phải đó là rau cao. 

                               Thương thương cha mẹ biết bao,

                             Nuôi ta khôn lớn cù lao nhọc nhằn.

                              .......................

                                 Cha sanh mẹ dưỡng khó khăn,

                            Đẻ đau mang nặng ân cần nâng niu.

                                 Ra vào bồng ẳm cưng chìu,

                           Dưỡng nuôi chăn sóc thương yêu vô ngần.

                                 Làm con muốn báo thâm ân,

                           Trời cao lồng lộng khó mong đáp đền !

                                                                           ( ĐCĐ )

 

          9 chữ màu đỏ ở trên (生,鞠 sanh, cúc,拊,畜,Phủ, xúc, 长, 育,trưởng, dục, 顾,复, Cố, phục, 腹 phúc), 
 gọi là Cửu Tự Cù Lao 九字劬劳, ta nói là : CHÍN CHỮ CÙ LAO, như trong Kiều, khi ở lầu xanh, cô kiều đã :

 

                                   Nhớ ơn CHÍN CHỮ cao sâu,

                              Một ngày một ngã bóng dâu tà tà ...         

 

        Còn trong truyện Nôm NHỊ ĐỘ MAI thì gọi là CHỮ HIẾU, CHỮ CÙ :

 

                                   Có ra chi phận má hồng,

                           Khôn đem CHỮ HIẾU đền công CHỮ CÙ.

    

       Từ xưa đến nay, chữ HIẾU chữ TÌNH thường đưa người ta vào những hoàn cảnh khó xử, như Thúy Kiều vừa mới có người yêu, đang đắm đuối trong tình yêu mới chớm thì đã phải bán mình báo hiếu, đến nỗi phải lạy lục cầu cứu Thúy Vân trả hộ "nợ tình":

 

                                 Cậy em, em có chịu lời,

                            Ngồi lên chi chị lạy rồi sẽ thưa !

 

       Tội nghiệp thay ! Nhưng biết phải làm sao, khi : 

 

                         

 

                                 Sự đâu sóng gió bất kỳ,

                          HIẾU TÌNH khôn lẽ hai bề vẹn hai!

                                 Ngày xuân em hãy còn dài,

                          Xót tình máu mũ thay lời nước non. 

 

     ... và như bà Tam Hợp Đạo Cô đã nói với sư Giác Duyên :

 

                                Thúy Kiều sắc xảo khôn ngoan,

                            Vô doan là phận hồng nhan đã đành.

                                 Lại mang lấy một CHỮ TÌNH,

                           Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

 

       Đang lúc yêu nhau thì CHỮ TÌNH nó hành xác con người ta là thế. Nhưng khi đã thành gia thất với nhau rồi, thì chữ TÌNH cũng rất ư là ngọt ngào hạnh phúc như khi Thúc Sinh gặp lại vợ nhà là Hoạn Thư :

 

                                 Lời tan hợp nỗi hàn huyên,

                      CHỮ TÌNH càng mặn chữ duyên càng nồng.

 

       Hay như khi Từ Hải "Om thòm trống trận rập rình nhạc quân" rước Thúy Kiều về đoàn tụ cho ...

 

                                Vinh hoa bỏ lúc phong trần,

                       CHỮ TÌNH ngày lại thêm xuân một ngày.

 

        CHỮ TÌNH lại cũng thường đi chung với CHỮ ĐỒNG như khi Kim Kiều thề nguyền hẹn ước :

 

                                 Vầng trăng dằng dặc giữa trời, 

                            Đinh ninh hai mặt một lời song song.

                                   Tóc tơ căn dặn tấc lòng,

                          Trăm năm tạc một CHỮ ĐỒNG đến xương !

 

                        

 

         

 

 

 

CHỮ ĐỒNG tức là CHỮ ĐỒNG TÂM. Như khi đưa Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, Thúy Kiều đã trấn an Kim Trọng lúc chia tay là :

 

                                  Đã nguyền hai CHỮ ĐỒNG TÂM,

                            Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

         

      Chữ Đồng, Chữ Đồng Tâm đều do từ gốc là ĐỒNG TÂM ĐỚI 同心帶 hay ĐỒNG TÂM KẾT 同心结 mà ra. Đó là những giải lụa ngũ sắc hay màu đỏ ở giữa thắt một cái gút hình 2 trái tim liền nhau. Có xuất xứ từ bài thơ ngũ ngôn Cổ phong "Di Lăng Quận Nội Tự Biệt" của Dương Hành đời Đường. Trong đó có những câu như :

 

            留念同心帶,   Lưu niệm ĐỒNG TÂM ĐỚI,

            贈遠芙蓉簪。   Tặng viễn phù dung trâm.

            撫懷極投漆,   Vũ hoài cực đầu tất,

            感物重黄金。   Cảm vật trọng hoàng câm (kim).

Có nghĩa :

                Lưu niệm này DẢI ĐỒNG TÂM,

            Tặng người xa cách Phù Dung trâm cài.

                Keo sơn yêu ấp lòng này,

            Vật hèn mà cũng sánh tày hoàng kim.

 

            

                                   Dải Đồng Tâm     同心結

 

       Trong Truyện Kiều, lúc Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh hãy suy nghĩ kỹ và trân trọng tình nghĩa vợ chồng hơn khi Thúc muốn chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh :

 

                  Bấy lâu khắng khít DẢI ĐỒNG,

            Thêm người người cũng thêm lòng riêng tây.

                  Xá chi chút nghĩa bèo mây,

                Làm cho bể ái khi đầy khi vơi !...

 

       Ngày xưa, theo đạo Nho thì "Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu 在家從父,出嫁從夫". Nên ta lại có CHỮ TÒNG cho phận gái, như Thúy Kiều là một kỹ nữ, nên đã rất lấy làm hãnh diện khi được Thúc Sinh chuộc ra khỏi lầu xanh và cưới về làm vợ, như cụ Nguyễn Du đã viết :

 

                    Phận bồ từ vẹn CHỮ TÒNG,

               Ðổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

 

       ... và khi về với Từ Hải rồi, trong lúc "Nửa năm hương lửa đang nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương". Từ muốn ra đi làm việc lớn, nên Thúy Kiều cũng muốn đi theo :

 

                  Nàng rằng :"Phận gái CHỮ TÒNG",

                Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

 

       Cuối cùng, ta còn có CHỮ TRINH để chỉ sự trinh tiết của phụ nữ ngày xưa. Xã hội phong kiến đã đặt cái gánh nặng "Trinh Tiết 貞節" lên vai phái nữ với câu " Tòng nhất nhi chung 從一而終" là "Chỉ theo một chồng cho tới chết!". Trải qua mấy ngàn năm, phụ nữ chịu đựng thét... rồi quen, mà còn nghiêm chỉnh chấp hành coi như đó là một thiên chức thiêng liêng của phái nữ nữa... cái mới là tội nghiệp ! Ta hãy nghe Thúy Kiều phân bua khi Kim Kiều Tái Hợp :

 

                  Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,

            Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.

                  CHỮ TRINH đáng giá nghìn vàng,

             Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.

                  Thiếp từ ngộ biến đến giờ.

               Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.

                   Bấy chầy gió táp mưa sa.

             Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.

 

 ... và đành lòng cam chịu :

 

                   Còn chi là cái hồng nhan,

               Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?

                   Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,

                 Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!

                   Đã hay chàng nặng vì tình,

               Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!

 

       Cũng may là Kim Trọng là người cởi mở, có tư tưởng tiến hóa đi trước thời đại lúc bấy giờ, nên đã đáp lời cô Kiều Là :

 

                   Chàng rằng: Khéo nói nên lời,

                  Mà trong lẽ phải có người có ta!

                    Xưa nay trong đạo đàn bà,

               CHỮ TRINH kia cũng có ba bảy đường,

                    Có khi biến có khi thường,

               Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

                    Như nàng lấy HIẾU làm TRINH,

                 Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

 

        Nhưng dù nói thế nào thì Thúy Kiều vẫn "năn nỉ" Kim Trọng đừng "động phòng" trong đêm hôm đó với lý do... có hơi "tự ái" là :

 

                    CHỮ TRINH còn một chút này,

               Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!

                    Còn nhiều ân ái chan chan,

                Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?

 

         Đêm hôm đó chìu lòng Thúy Kiều, Kim Trọng không "động phòng". Nhưng những hôm sau thì sao ?! - Chỉ có cụ Nguyễn Du mới biết được mà thôi !

 

         Và để kết thúc bài viết hôm nay, xin được mượn những câu trong lời kết của cụ Nguyễn Du cho Truyện Kiều với các CHỮ sau đây :

 

                   Ngẫm hay muôn sự tại trời,

              Trời kia đã bắt làm người có thân.

                 Bắt phong trần phải phong trần,

             Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

                   Có đâu thiên vị người nào,

                CHỮ TÀI CHỮ MỆNH dồi dào cả hai,

                    Có tài mà cậy chi tài,

               CHỮ TÀI liền với CHỮ TAI một vần.

                  Đã mang lấy nghiệp vào thân,

              Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

                   Thiện căn ở tại lòng ta,

               CHỮ TÂM kia mới bằng ba CHỮ TÀI.

                         

                   
 

               

 

 

Xin được kết thúc các CHỮ ở đây. Hẹn bài viết tới !

 

 Đỗ Chiêu Đức

DCD_Chu.png
DCD_Chu_2.png
DCD_Chu_3.png
DCD_Chu_4.jpg
DCD_Chu_5.jpg
DCD_Chu_6.jpg

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 37: 

                                        CUNG

DCD_Cung.png

CUNG 弓 là Cung Tên, CUNG 宮 là Cung Điện, CUNG 宮 là Cung Đàn. Ta sẽ lần lượt điểm qua các thứ CUNG nầy trong văn học cổ của Việt Nam ta.

 

      CUNG 弓, chữ Nho còn gọi là HỒ 弧, với từ TANG HỒ 桑弧 là Cây cung làm bằng gỗ cây dâu (Tang 桑 là Cây dâu tằm ăn), nên trong văn học cổ ta có từ CUNG DÂU, như hai câu thơ trong truyện Nôm Phan Trần sau đây :

 

                                     Tới tuần hội cả đua nhau,

                         Bút nghiên phỉ chí CUNG DÂU hằng nguyền.

 

      CUNG DÂU thường được bắn bằng tên làm bằng đường xương sống của cọng cỏ bồng, gọi là BỒNG THỈ 蓬矢 (THỈ đồng nghĩa với TIỂN 箭 là Mũi Tên), nên ta lại có thành ngữ TANG HỒ BỒNG THỈ 桑弧蓬矢 (Cung bằng cành dâu, tên bằng cỏ bồng). Thành ngữ nầy thường bị đọc trại thành HỒ THỈ TANG BỒNG hay TANG BỒNG HỒ THỈ như trong bài hát nói "Nợ Nam Nhi" của cụ Nguyễn Công Trứ :

 

                                   TANG BỒNG HỒ THỈ nam nhi trái

                                   Cái công danh là cái nợ lần

 

        Theo sách Lễ Ký-Xạ Nghĩa hữu vân :"Cố nam tử sanh, tang hồ bồng thỉ lục, dĩ xạ thiên địa tứ phương giả, nam tử chi sở hữu sự dã.《礼记.射义》有云:“故男子生,桑弧蓬矢六,以射天地四方,天地四方者,男子之所有事也。” Có nghĩa : vì thế khi đẻ con trai, thì dùng cung bằng cây dâu, tên bằng cỏ bồng bắn đi bốn phương, bắn lên trời xuống đất nữa là sáu hướng, những nơi mà kẻ làm trai phải tạo dựng nên sự nghiệp". Ý muốn tỏ rõ là Làm trai phải chí ở bốn phương, sau dùng để khuyến khích làm trai phải có chí lớn để tạo dựng nên sự nghiệp.

 

       TANG BỒNG HỒ THỈ còn được gọi tắt là TANG BỒNG như hai câu thơ bảy chữ cũng trong bài hát nói trên là :

 

                                   Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt

                                   Trót đem thân thế hẹn TANG BỒNG.

 

      Hay như trong bài "Chí Nam Nhi" cũng của cụ Nguyễn Công Trứ :

 

                                           Đố kị sá chi con Tạo,

                                Nợ TANG BỒNG quyết trả cho xong.

DCD_tangbonghothi.jpg

                                         TANG HỒ BỒNG THỈ 桑弧蓬矢.

 

           Cung tên để tạo dựng nên sự nghiệp, nhưng khi đã công thành danh toại, thì cung tên thường bị xếp xó bỏ quên như thành ngữ ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 鳥盡弓藏,  có nghĩa : Khi chim đã hết thì cung cũng được cất lên. Theo tích sau đây :         

          Theo Thuyết Lâm Huấn của sách Hoài Nam Tử có câu : "Giaỏ thố đắc nhi lạp khuyển phanh, cao điểu tận nhi cường nỗ tàng 狡兔得而猎犬烹,高鸟尽而强弩藏". Có nghĩa : " Khi những con thỏ khôn lanh đã bị bắt, thì con chó săn bị đem đi nấu thịt cầy; Khi các con chim bay cao bị bắn hạ hết thì cây cung mạnh cũng bị đem đi cất lại". Theo sách Sử Ký, Việt Vương Câu Tiễn Thế Gia《史记·越王勾践世家》thì Phạm Lãi 范蠡 là mưu thần đồng thời cũng là tướng giỏi của Việt Vương Câu Tiễn, ông đã giúp cho Câu Tiễn phục thù và tiêu diệt nước Ngô, xưng bá trung nguyên. Nhưng ông cũng biết rằng Việt Vương Câu Tiễn là người chỉ cùng chung hoạn nạn chứ không thể cùng chung phú qúy được. Để tránh cảnh thỏ hết thì chó săn bị giết, chim hết thì cung bị treo lên, nên ông đã từ quan mà vào đất Ngũ Hồ để kinh thương và đã trở thành một thương gia giàu có, đổi tên là Đào Chu Công. Tương truyền là ông cũng đã dắt theo nàng Tây Thi xinh đẹp để vào đất Ngũ Hồ cùng sống cảnh vinh hoa phú qúy an hưởng tuổi già. Nên...

 

        Câu thành ngữ ĐIỂU TẬN CUNG TÀNG 鳥盡弓藏, ngày xưa dùng để chỉ khi đế nghiệp đã đạt thành thì các vua chúa hay giết hại công thần; Ngày nay cũng dùng để chỉ khi việc gì đó đã thành công rồi, thì quên hết những người trước kia đã từng ra sức giúp đỡ. Trong văn học cổ của ta gọi là CUNG ĐIỂU CA, như trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của vua Lê Thánh Tông có câu :

 

                                       Cổ Kỳ vai ấy còn rành rạnh,

                                   CUNG ĐIỂU CA đâu khéo tỏ tường.

DCD_Cungdieuca.png

 CUNG cũng thường đi liền với KIẾM để chỉ về nghề võ hoặc những người theo võ nghiệp như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :

 

                                      Làng CUNG KIẾM rắp ranh bắn sẻ,

                                      Khách công hầu ngắm nghé mong sao.

 

      Còn trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thì khi Bạc Bà ép Thúy Kiều lấy Bạc Hạnh, nàng đã tỏ lời e ngại dè chừng rằng :

 

                                       Thiếp như con én lạc đàn,

                                    Phải tên giờ đã sợ làn cây cong.

 

      Hai câu thơ trên lấy ý ở câu KINH CUNG CHI ĐIỂU KIẾN KHÚC MỘC NHI CAO PHI 驚弓之鳥見曲木而高飛. Có nghĩa : Con chim sợ cung (vì bị tên bắn hụt một lần rồi), cho nên thấy làn cây cong (giống như cây cung) bèn sợ mà bay cao lên.

DCD_Kinhcungchi.jpg

 CUNG 宮 còn là Cung Điện 宮殿. Cái cung điện nổi tiếng đầu tiên ngày xưa là A PHÒNG CUNG 阿房宮 do Tần Thủy Hoàng sau khi đã gồm thâu lục quốc muốn phô trương thanh thế mà xây nên (212 trước Công nguyên, năm Tần Thủy Hoàng thứ 35). Khi Hạng Võ Sở Bá Vương đem quân đánh chiếm kinh đô Hàm Dương đã cho đốt cung A Phòng. Tương truyền ngọn lửa cháy đến ba tháng mới tắt.

         Trong văn học cổ ta gọi cung A Phòng là CUNG A, như trong "Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn" của Đặng Trần Thường ở cuối đời Lê đầu đời Nguyễn là :

 

                    Sương tỏa CUNG A,

                    Mây lồng đồn Bá.

Có nghĩa :

     Các cung nữ đương ở trong cung A Phòng vắng  vẻ vì Bái Công đến đóng đô tại đồn Bá Thượng.

DCD_cungaphong.jpg

                           Cung A Phòng ngày nay được tái kiến trúc theo tài liệu lịch sử.

       

       Ngoài CUNG A ra, trong bài phú trên cụ Đặng còn đề cập đến tên của một CUNG nữa là CUNG VỊ THỦY là các cung điện nằm dọc theo bờ sông Vị ở Hàm Dương, cũng được xây dựng vào đời Tần :

 

               CUNG VỊ THỦY lúc nỉ non tiếng dế, trướng thu phong lạt bậc quản huyền xưa,

               Cửa Hàm Quan khi chói lói ngọn đào, rèm tà nguyệt ố màu la ỷ cũ.

 

      "Thời lai phong tống Đằng Vương Các 時來風送藤王閣" là "Khi thời vận đến thì gió sẽ đưa đến Gác Đằng Vương" theo tích của người đứng đầu Tứ Kiệt đời Sơ Đường là Vương Bột. Cụ Nguyễn Du đã mượn tích nầy để nói về tình duyên thuận lợi của Hoạn Thư và Thúc Sinh trong Truyện Kiều như sau :

                

                        DUYÊN ĐẰNG thuận nẽo gió đưa,

                     Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày.  

 

      Nhưng, Phạm Thái 範泰 (1777-1813), một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 của ta, không gọi là GÁC ĐẰNG, cũng không gọi là DUYÊN ĐẰNG, mà gọi là CUNG ĐẰNG trong "Sơ Kính Tân Trang" như  sau đây :

 

                        Bây giờ mượn gió CUNG ĐẰNG,

                    Vì duyên đưa mối xích thằng lại đây.  

 

      Trong văn học cổ ta còn gặp rất nhiều CUNG không có thật trên đời như CUNG QUẾ, CUNG QUẢNG, CUNG THIỀM, CUNG NGAO LẦU THẬN ...

 

     -CUNG QUẾ là QUẾ CUNG 桂宮 : Tên cung điện do Hán Vũ Đế năm thứ tư (101 trước Công Nguyên) xây nên, nằm ở tây bắc của thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây hiện nay; cũng là tên của cung điện của Trần Hậu Chúa ở Nam Triều xây cho người đẹp Trương Lệ Hoa ở. Nhưng trong văn học cổ của Việt Nam ta CUNG QUẾ chỉ có nghĩa là CUNG TRĂNG mà thôi, như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ông Như Hầu Nguyễn Gia Thiều viết về nàng cung nữ thất sủng :

 

                      Trong CUNG QUẾ âm thầm chiếc bóng,

                      Đêm năm canh trông ngóng lần lần.

 

    ...hay như trong bài "Muốn làm thằng Cuội" của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu :

 

                      Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

                      Trần thế em nay chán nữa rồi.

                      CUNG QUẾ đã ai ngồi đó chửa?

                      Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

 

     - CUNG QUẢNG là QUẢNG HÀN CUNG 廣寒宮 : Theo thần thoại Trung Hoa là tên của một cung điện trên mặt trăng, nơi mà Hằng Nga ở, như trong Truyện Kiều khi tả Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, Thúy Kiều ở lại một mình đã buồn cho số phân " Sắn bìm chút phận con con" của mình mà than vãn :

 

                       Thân sao nhiều nỗi bất bằng,

                   Liều như CUNG QUẢNG ả Hằng nghĩ nao!

 

     - CUNG THIỀM là THIỀM CUNG 蟾宮 : Cũng như CUNG QUẾ, CUNG QUẢNG, CUNG THIỀM cũng dùng để chỉ NGUYỆT CUNG là Mặt Trăng, vì theo thần thoại Trung Hoa xưa trên mặt trăng có con Cóc ba chân gọi là Thiềm Thừ 蟾蜍. Trong văn học cổ của ta thường dùng để chỉ mặt trăng hay chỗ ở của người đẹp, như trong truyện thơ Nôm Lưu Nữ Tướng :

              

                       CUNG THIỀM bóng đã cao giơ,

                    Mãi vui bẻ quế ngại thưa thớt nhàn.

 

   ... hay như trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện cũng có câu :

 

                       Kêu thương tiếng nhạn lay thềm,

                  Phong thư gửi đến CUNG THIỀM được không ?!

DCD_Cungthiem.jpg

CUNG NGAO LẦU THẬN là HẢI THỊ THẬN LÂU 海市蜃樓. NGAO 鰲 là một loại rùa biển lớn có thể đội cả một hòn đảo lớn trên lưng; THẬN 蜃 là một loại rồng biển như giao long. Theo Sử Ký-Thiên Quan Thư 史记·天官书 : Con thận trên biển thở hơi có thể kết thành những lâu đài thành quách, núi non sông nước, cảnh vật con người hiện lên trên bầu trời của khoảng không mênh mông trên mặt biển. Vì là cảnh ảo nên rất dễ mất đi. Theo khoa khí tượng học hiện nay thì đó là do hiện tượng quang học bức xạ phản chiếu trong thiên nhiên mà tạo nên những ảnh ảo ở những khoảng không trên biển, trên sa mạc hoặc nơi đồng không mông quạnh. Trong văn học cổ ta gọi là CUNG NGAO LẦU THẬN như trong bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh" (1874) của cụ Nguyễn Đình Chiểu có câu :

 

        Người lạc phách theo miền giang hải, CUNG NGAO LẦU THẬN, dành một câu thân thế phù trầm;

        Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, lũy kiến đồn ong, còn bốn chữ "âm dung phảng phất".

DCD_haithithanlau.jpg

                              HẢI THỊ THẬN LÂU 海市蜃樓 : CUNG NGAO LẦU THẬN    
        

       CUNG 宮 còn là cung bậc đứng đầu ngũ âm trong âm nhạc cổ điển là CUNG, THƯƠNG, GIỐC, TRỦY, VŨ 宮商角徵羽. Trong văn học cổ ta hay gặp từ kép CUNG THƯƠNG 宮商 là hai âm đầu trong ngũ âm đi liền nhau để chỉ âm nhạc, như trong truyện Tây Sương Ký :

 

                             Vườn hoa đợi lúc thiên lương,

                   Đêm thanh lựa tiếng CUNG THƯƠNG một bài.

 

       Khi diễn tả tài đàn giỏi của Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du cũng đã hạ câu :

 

                      CUNG THƯƠNG làu bậc ngũ âm,

                  Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương.

 

       Ngoài CUNG THƯƠNG ta còn gặp CUNG CẦM là Cung Đàn như khi nàng Kiều ở lầu xanh :

 

                       ...Đòi phen nét vẽ câu thơ,

                  CUNG CẦM trong nguyệt nước cờ dưới hoa.

                        Vui là vui gượng kẻo là,

                     Tri âm ai đó mặn mà với ai ?!

 

    ...hay như khi Thúy Kiều phân bua với Hồ Tôn Hiến lúc "Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu" và đã " Hỏi rằng này khúc ở đâu, Nghe ra muôn thảm nghìn sầu lắm thay ?" Thúy Kiều đã đáp :

 

                     Thưa rằng : Bạc mệnh khúc này,

                     Phổ vào đàn ấy từ ngày còn thơ.

                     CUNG CẦM lựa những ngày xưa,

                     Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây !

DCD_ThuyKieudan_2.jpg

Xin được kết thúc các CUNG ở đây. Hẹn bài viết tới !

 

 

 Đỗ Chiêu Đức

________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 36: 

                                               CẦU

DCD_Cau.jpg

  CẦU, nghĩa Nôm là Cây Cầu bắt qua sông qua suối; chữ Nho CẦU 求 là Xin, nên ta có từ kép là CẦU XIN. Ông bà ta dạy :

                             Dục CẦU sanh phú qúy,   欲求生富貴,

                             Tu hạ Tử công phu.         须下死功夫.

Có nghĩa : 

          Muốn cầu cho cuộc sống được giàu sang phú qúy, thì...

          Phải bỏ ra cái công sức làm ăn chết bỏ mới có được ! ( cho biết không phải phú qúy tự dưng mà có được một cách dễ dàng !)

     

       Trong văn học cổ, khi nhắc đến CẦU là người ta nghĩ ngay đến khúc PHƯỢNG CẦU KỲ HOÀNG 鳳求其凰 (thường được gọi gọn là khúc Phượng Cầu Hoàng) của Tư Mã Tương Như đời Hán theo tích sau đây :

 

       Theo sách Sử Ký, Tư Mã Tương Như là tài tử nổi tiếng của đời Hán, tự là Trường Khanh, người đất Thành Đô (Thủ phủ của thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) Ở lộ Cầm Đài. Khi đến đất Lâm Cùng , nhờ có người bạn là Tri Huyện Vương Cát tiến cử, nên được nhà cự phú Trác Vương Tôn ở địa phương mời đến nhà khoản đãi. Trong bữa tiệc khách yêu cầu đàn một khúc, Tương Như biết vương tôn có cô con gái mới mười sáu tuổi rất đẹp, lại vừa mới góa chồng là Trác Văn Quân, bèn giở cây lục ỷ cầm ra đờn hai khúc trong bài Phượng Cầu Hoàng như sau :

 

              鳳兮鳳兮歸故鄉,    Phượng hề phượng hề quy cố hương, 

              遨遊四海求其凰...   Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng ...

              有豔淑女守蘭房,   Hữu diễm thục nữ thủ lan phòng,

              室邇人遐毒我腸。   Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường.

              何緣交頸為鴛鴦...   Hà duyên giao cảnh vị uyên ương ...

Có nghĩa :

              Về thôi phượng hỡi, phượng hề !

              CẦU HOÀNG tứ hải bốn bề ngao du.

              Có nàng thục nữ ôn nhu,

              Gần bên mà ngỡ như từ cỏi xa.

              Uyên ương sao được một nhà ?   

 

      Tư Mã Tương Như nghe trong rèm ở phòng bên có tiếng thở dài nhè nhẹ, biết là Trác Văn Quân đang nghe đàn, bèn đàn tiếp khúc thứ hai là :

 

              鳳兮鳳兮從凰棲,    Phượng hề phượng hề tòng hoàng thê,

              得托孳尾永為妃。    Đắc thác tư vĩ vĩnh vi phi.

              交情通體心和諧,    Giao tình thông thể tâm hòa hài,

              中夜相從知者誰?    Trung dạ tương tòng tri giả thùy ?

              雙翼俱起翻高飛,    Song dực câu khởi phiên cao phi,

              無感我思使余悲。    Vô cảm ngã tư sử dư bi.

Có nghĩa :

              Theo hoàng phượng hỡi, phượng hề,

              Theo nhau mãi mãi đi về một phương.

              Giao tình lòng những vấn vương,

              Giữa đêm theo gót người thương bao ngày.

              Chắp đôi cánh phượng cao bay,

              Lòng ta buồn nhớ ai hay chăng là ?!

 

         Khúc ca vừa tỏ lòng ái mộ Trác văn Quân, vừa "xúi giục" nàng "giữa đêm theo gót..." nên, nửa đêm hôm ấy, Trác Văn Quân bỏ nhà trốn theo Tư Mã Tương Như về Thành Đô sinh sống ...

DCD_TracVanQuan.jpg

Do điển tích nầy, nên các từ CẦU HOÀNG, PHƯỢNG CẦU HOÀNG, TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU... được dùng để chỉ tiếng đàn giao duyên, tỏ tình trai gái hoặc tìm hạnh phúc lứa đôi. Như trong Truyện Kiều, khi tả tiếng đàn của Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe, cụ Nguyễn Du cũng mượn ý :

 

                      Khúc đâu TƯ MÃ PHƯỢNG CẦU,

                  Nghe ra như oán như sầu phải chăng ?...

 

         Trong truyện Nôm Tây Sương Ký tả Trương Quân Thụy gặp thôi Oanh Oanh ở Mái Tây cũng đã tự hỏi :

                       Phượng bay bốn bể CẦU HOÀNG,

                  Giai nhân chẳng ở đông tường thì đâu ?

 

   ... và trong Bích Câu Kỳ Ngộ, tả chàng công tử Tú Uyên ướm thử lòng Giáng Kiều cũng có câu :

 

                       CẦU HOÀNG tay lựa nên vần,

                  Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào ?!

DCD_cauhoang.jpg

 Ngoài lộ CẦM ĐÀI là nơi Tư Mã Tương Như ngồi gãy đàn cho nàng Trác Văn Quân bán rượu ra, Thành Đô còn nổi tiếng với một cây cầu nhỏ gọi là TỨ MÃ KIỀU 四馬橋, nằm ở ngã ba đường cái. cây cầu nầy vốn có tên Thăng Tiên Kiều 升仙橋 (Cầu Lên Tiên) nằm cạnh bờ hồ Thăng Tiên. Cầu nằm cách thành bắc khoảng mười dặm đường.  khi còn hàn vi, lúc đi ngang qua cây cầu nầy để vào đất Trường An tìm chữ công danh, Tư Mã Tương Như đã viết lên đầu cầu câu :"Bất thừa cao xa tứ mã, bất qúa nhữ hạ.不乘高车驷马,不过汝下". Có nghĩa : "Không cởi được xe bốn ngựa cao sang sẽ không chui qua dưới cầu nầy nữa" để tỏ rõ quyết tâm làm nên công danh sự nghiệp của mình. Qủa nhiên, ông đã trở thành Trung Lang Tướng 中郎将 của vua Hán, khi trở về Thành Đô, dân chúng rất lấy làm vinh dự mà đổ xô ra đón rước ông. Tư Mã Tương Như vinh quy với xe tứ mã ngang qua Thăng Tiên Kiều như lòng ông mơ ước, nên quan lệnh địa phương đổi tên cầu thành TỨ MÃ KIỀU 四馬橋 từ đó.

 

      Trong văn học Việt Nam ta, cụ Nguyễn Công Trứ trong bài hát nói "Nợ Tang Bồng" đã gọi Tứ Mã Kiều bằng CẦU XE NGỰA :

 

                    Nợ sách đèn đem nghiên bút trả xong,

                    CẦU XE NGỰA lúc đi về mới tỏ !

DCD_cauxengua.jpg

 Phượng Cầu Hoàng là chuyện tốt giữa tình yêu trai gái, nhưng CẦU MỴ GIẾT CON là chuyện ác nhơn sát đức của những kẻ tiểu nhân hèn hạ xu nịnh, theo tích sau đây :

 

      Theo sách Xuân Thu Tả Truyện, Dịch Nha 易牙 còn gọi là Địch Nha 狄牙 là một sủng thần của Tề Hoàn Công, đồng thời cũng là một đầu bếp giỏi biết sáng chế ra các cách gia vị nấu nướng cho ngon. Có một lần, Tề Hoàn Công nói chơi với Dịch Nha rằng:"Các món ngon vật lạ của thế gian nầy, Qủa nhân đã nếm qua hết rồi, chỉ có thịt người là chưa được ăn qua mà thôi !". Người nói vô tình, nhưng người nghe hữu ý. Dịch Nha định trổ tài nấu thịt người cho Tề Hoàn Công ăn, nhưng lại đắn đo, Tề Vương là bậc vương hầu không thể ăn thịt của các tử tù được, lại cũng không thể ăn thịt của hạng dân thường được. Suy đi tính lại bèn giết đứa con 4 tuổi của mình mà hầm thật ngon rồi dâng lên. Tề Hoàn Công thấy món ăn lạ mà rất ngon miệng, bèn hỏi là thịt gì, thì Dịch Nha mới cho biết là thịt của con mình. Tề Hoàn Công vừa thất kinh vừa cảm động, từ đó rất tin dùng tên đầu bếp Dịch Nha nầy mà hư việc lớn.

DCD_DichNha.jpg

                     Tên đầu bếp Dịch Nha nấu con cho Tề Hoàn Công ăn trong điện ảnh

 

      Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh, khi cho ông Sãi luận về chữ Ghét có đề cập đến tích trên đây :

             ... Ghét hoài, ghét huỷ; ghét ngọt, ghét ngon.

                 Ghét đứa CẦU MỴ mà GIẾT CON, 

                 Ghét đứa tham sang mà hại vợ...

 

       Trở lại với chữ CẦU là Cây Cầu, ta có ...

       CẦU CHIẾT LIỄU, Còn gọi là BÁ KIỀU CHIẾT LIỄU 灞橋折柳. Bá Kiều 灞橋 là Cầu bắt qua sông Bá. Chiết Liễu 折柳 là Bẻ nhành dương liễu để tặng người đi xa làm roi ngựa.Theo di tích sau đây :

 

       Thời Xuân Thu Chiến Quốc, khi Tần Mục Công xưng Bá Tây Nhung, cho đổi tên sông Tư Thủy thành Bá Thủy và cho xây một cây cầu đá bắt qua sông, gọi là BÁ KIỀU. Đây là cây cầu mấu chốt cho giao thông giữa đông và tây của đất Trường An, nhất là qua các đời sau như Tùy, Đường, Tống, Nguyên... là nơi tiễn đưa nhau của người thời bấy giờ, đưa đến trường đình ở bên cầu, rồi bẻ một nhành liễu tặng người đi vừa để tỏ lòng quyển luyến, vừa để làm roi ngựa dọc đường.

 

       Nên CẦU CHIẾT LIỄU hay BÁ KIỀU CHIẾT LIỄU đều chỉ cảnh chia tay, ly biệt. Như trong tác phẩm thơ Nôm Lưu Nữ Tướng của ta :

 

                     Tràng đình ngảnh lại xa xa,

                 Khỏi CẦU CHIẾT LIỄU ai là cố nhân ?!

    ... và :

                     BÁ KIỀU CHIẾT LIỄU đến nay,

                Nhớ người cám nghĩa, sầu xây nên thành.

DCD_cauchietlieu.jpg

                             Cầu Chiết Liễu ngày xưa và ngày nay

       

      Sau CẦU CHIẾT LIỄU, ta có CẦU LAM là LAM KIỀU 藍橋 với tích Bùi Hàng gặp Tiên. Mời xem lại bài "ĐIỂN TÍCH VĂN HỌC 4 : CẦU LAM" với chàng Kim Trọng nhớ đến Thúy Kiều trong buổi đầu gặp gở :

 

                       Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều,

                     Xăm xăm đè nẽo LAM KIỀU lần sang.

     hay như :

                       Chày sương chưa nện CẦU LAM,

                     Sợ lần khần qúa ra sờm sở chăng ?!...

   

      Còn cây cầu thần thoại nổi tiếng ở trên trời là CẦU Ô THƯỚC 烏鵲橋 (Ô Thước là Qụa Đen) bắt ngang qua sông Ngân Hà (còn gọi là Ngân Hán) để cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau hằng năm vào đêm mùng bảy tháng bảy Âm lịch mà chữ Nho gọi là Đêm Thất Tịch . Trong Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã nói là :

 

                        Chữ đồng lấy đấy làm ghi,

                   Mượn điều THẤT TỊCH mà thề bách niên, 

DCD_Phamcongcuchoa.jpg

          Trong truyện Nôm Phạm Tải - Ngọc Hoa (Phạm Công - Cúc Hoa) gọi là CẦU Ô :

 

                        Đưa thơ tính đã nhiều lần,

                    CẦU Ô rắp bắt sông Ngân cùng nàng.

 

      Còn trong truyện thơ Nôm Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (Bạch Viên Tôn Các) thì gọi là CẦU THƯỚC :

 

                       CẦU THƯỚC phen này chung dịp bước,

                       Tấc gang riêng giữ nghĩa chung tình.

     

      Chiếc cầu cuối cùng theo quan niện cổ xưa của Đạo Gia và dân gian là CẦU NẠI HÀ, là NẠI HÀ KIỀU 奈何橋. Chiếc cầu nầy không có liên quan gì đến Phật Giáo cả (Kinh Phạn có từ Narakade 那落迦 NA LẠC CA là Địa Ngục chớ không phải Nại Hà).

 

      Theo truyền thuyết dân gian Trung Hoa, khi người đã chết thì hồn phách đều phải đi qua cầu Nại Hà. Người hiền lành nhân đức thì sẽ có bồ tát độ cho qua cầu một cách dễ dàng; còn người dữ dằn hung ác thì sẽ bị trợt chân xuống dưới sông Nại hà và rơi vào Phong Đô Địa Ngục. Một truyền thuyết khác cho là khi chết thì hồn người chết sẽ đi về Huỳnh Tuyền Lộ, là đường đưa đến Suối Vàng; còn khi đi đầu thai thì phải đi ngang qua cầu Nại Hà, bên cầu có một bà lão, tục gọi là Mạnh Bà đang nấu một nồi canh. Ai qua cầu Nại Hà để đi đầu thai đều phải uống một chén canh của Mạnh Bà để quên hết đi những việc của kiếp trước, để bắt đầu cho kiếp sống mới sau nầy.

 

      Trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của cụ Nguyễn Du có đọan viết :

 

                   ...Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,

                      CẦU NẠI HÀ kẻ trước người sau.

                      Mỗi người một nghiệp khác nhau,

                      Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ ?

DCD_vantethaploaichungsinh.jpg

Trong văn học cổ còn có những chiếc cầu rất hào hùng như hình ảnh của chàng chinh phu xuất chinh trong Chinh Phụ Ngâm Khúc với :

                    

                          Giã nhà đeo bức chiến bào,

                          Thét roi CẦU VỊ ào ào gió thu.

 

... và cũng có những chiếc cầu rất nên thơ đã đi vào lòng người, như cây cầu bắt ngang qua ngòi nước cũng trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm diễn Nôm :

               

                       Ngòi đầu CẦU nước trong như lọc,

                       Đường bên CẦU cỏ mọc còn non.

                       

      Hay như cây cầu bên mộ Đạm Tiên, có tơ liễu phủ quanh như lúc chị em Thúy Kiều đi đạp thanh nhân tiết Thanh Minh :

           

                       Dưới dòng nước chảy trong veo,

                    Bên CẦU tơ liễu bóng chiều thướt tha !

 

    ... và khi hiện về để báo mộng cho Thúy Kiều biết cũng là người đồng hội đồng thuyền với mình, Đạm Tiên đã nhắc lại :

 

                           Hàn gia ở mái tây thiên,

                  Dưới dòng nước chảy bên trên có CẦU.

 

       Cuối cùng là cây cầu có vẻ cổ kính của văn học cổ là : Cây cầu trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :

 

                     CẦU THỆ THỦY ngồi trơ cổ độ,

                     Quán thu phong đứng rũ tà huy...

DCD_cauthethuy.jpg

  THỆ THỦY 逝水 : là Nước chảy qua (rồi đi mất hút luôn). CỔ ĐỘ 古渡 : là Bến đò xưa. nên "Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ" là : Nước vẫn chảy qua cầu rồi mất hút bên cạnh bến đò xưa vẫn ngồi đó trơ gan cùng tuế nguyệt ! Hai cảnh tương phản đứng cạnh nhau, nhưng lại cùng tồn tại với nhau suốt những tháng năm dài, như cuộc đời nàng cung nữ thanh xuân cứ mất dần đi theo năm tháng trong cung vàng vẫn hoa lệ như xưa; giống như là đời sống lưu vong của chúng ta hiện nay ...

   ... cứ giương mắt nhìn thời gian mất đi, tuổi già sồng sộc ập đến trong khung cảnh tha hương dị quốc muôn đời cũng không giống được những gì nơi quê hương cố thổ; như quán gió thu hiu hắt đứng rũ buồn trong ánh nắng chiều nghiêng nghiêng khi hoàng hôn dần tắt ... như :

 

                       Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ

                    Quán thu phong đứng rũ tà huy...

    ... và :

                      Phong trần đến cả sơn khê,

                 Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

                                                                     buồn thay ! 

 

 

         Hẹn bài viết tới !

 

 

        Đỗ Chiêu Đức 

_____________________________________

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 35: 

                                               CẦM

DCD_Cam_2.jpg

 CẦM 琴 là Cây Đờn (Đàn). Như Lục Huyền Cầm 六絃琴 là cây Đàn có 6 dây. CẦM SẮC 琴瑟 là Hai loại đàn ngày xưa và như câu thơ đầu tiên trong bài CẨM SẮC 錦瑟 (Đàn gấm) của Lý Thương Ẩn là : CẨM SẮC vô đoan ngũ thập huyền 錦瑟無端五十弦. SẮC là cây đàn có đến 50 dây. CẦM SẮC là hai nhạc cụ thường dùng trong hòa tấu âm nhạc cho ra âm thanh hòa hợp rất hay, nên còn được ví với vợ chồng hòa thuận, chồng hát vợ họa theo ( Phu xướng phụ tùy 夫唱婦隨) với lời chúc nhau trong các đám cưới đám gả là CẦM SẮC HÒA HÀI 琴瑟和諧 hay SẮC CẦM HẢO HỢP 瑟琴好合. Vì các ý nghĩa trên, nên...

 

    CẦM SẮC 琴瑟 còn có nghĩa bóng là tình VỢ CHỒNG, và CẦM KỲ 琴棋 (Đàn và Cờ) có nghĩa là tình bè bạn. Như khi Kim Kiều tái hợp, mặc dù đã bái đường với nhau, nhưng Thúy Kiều năn nỉ Kim Trọng đừng động phòng với lý do :

 

                                     Chữ TRINH còn một chút nầy,

                               Chẳng cầm cho vững lại vầy cho tan ! 

nên cô khuyên Kim Trọng :

                                    Chàng dù nghĩ đến tình xa,

                               Đem tình CẦM SẮC đổi ra CẦM KỲ ! 

DCD_thihoa.jpg

 Kim Trọng đã chìu theo ý của Thúy Kiều không động phòng trong đêm đó, nhưng không biết ngày tháng dài lâu, những đêm sau nầy sẽ ra sao ?!...   

 

        Ta còn có từ CẦM ĐÀI 琴台 là Cái Giá để đặt cây đàn; CẦM ĐÀI còn là nơi mà Tư Mã Tương Như đã đàn khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng để đánh động lòng ái mộ của nàng Trác Văn Quân xinh đẹp. Nên CẦM ĐÀI là từ kép để chỉ Nghề đàn giỏi hoặc Khúc đàn hay, như khi Kim Trọng muốn Thúy Kiều đàn cho mình nghe thì đã khẩn khoản là :

                              Rằng : Nghe nổi tiếng CẦM ĐÀI,

                        Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.

    

       Ngoài CẦM ĐÀI, ta còn có CẦM ĐƯỜNG 琴堂 là Ngồi trên công đường mà gãy đàn, theo xuất xứ với tích sau đây :

       

       Sách Lã Thị Xuân Thu thời Chiến Quốc : Mật Tử Tiện 宓子贱 học trò của Khổng Phu Tử khi làm quan ở đất Đan Phụ (Nam Huyện của tỉnh Sơn Đông hiện nay). Mỗi ngày ông chỉ ngồi trên công đường gãy đàn mà xử lý rất tốt tất cả mọi việc trong huyện. Còn Vu Mã Kỳ thì phải thức khuya dậy sớm, đi sớm về muộn, vất vả bận rộn suốt ngày, cũng xử lý huyện Tứ Phụ rất tốt. Vu Mã Kỳ mới hỏi Mật Tử Tiện là duyên cớ làm sao mà ta thì vất vả còn ông thì an nhàn khi công việc cũng như nhau ? Mật Tử Tiện mới đáp rằng : " Cách của ta làm là biết sử dụng nhân tài, còn cách của ông là sử dụng sức lực. Đương nhiên sử dụng sức lực sẽ vất vả hơn sử dụng nhân tài nhiều !" Mật Tử Tiện giữ cho tâm bình khí ổn, tai mắt tinh tường, tinh thần minh mẫn, nên xử lý mọi việc một cách nhanh chóng ổn thỏa. Vì tích nầy mà phát sinh thành ngữ "MINH CẦM NHI TRỊ 鳴琴而治" Có nghĩa : Chỉ ngồi đàn mà vẫn giữ vững được trị an trong huyện. Vì ngồi trên công đường mà đàn nên gọi là CẦM ĐƯỜNG 琴堂. Sau được dùng rộng ra để chỉ việc làm quan có hiệu qủa tốt, như sau khi Kim Trọng đã thi đậu làm quan, cụ Nguyễn Du đã viết là :

 

                             CẦM ĐƯỜNG ngày tháng thanh nhàn,

                           Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.

       

       CẦM KỲ THƯ HỌA 琴棋書畫 là Tứ nghệ, bốn cái nghề, bốn cái kỹ năng mà tất cả những thư sinh ngày xưa đều phải rèn luyện học tập. Đó chính là : Gãy đàn, Đánh cờ vây (Vi Kỳ 圍棋), Viết thư pháp và Hội họa, vẽ tranh. Ngoài việc ứng phó thi cử để tìm chút công danh ra, bốn kỹ năng trên còn là niềm tự hào, hơn thua nhau trong lúc trà dư tửu hậu. Nhưng sang qua Việt Nam ta thì thành ra Bốn Món Ăn Chơi Tài Tử; hai chữ cuối THƯ HỌA 書畫 được đổi thành THI TỬU 詩酒; Thư pháp và Hôi họa được đổi thành Làm thơ và Uống rượu, như trong bài hát nói bất hủ của cụ Nguyễn Công Trứ :

 

                        CẦM KỲ THI TỬU,

                        Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,

                        Đàn năm cung réo rắt tính tình dây,

                        Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.

                        Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, 

                        Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà...

 

  ...và hai câu thơ chữ Hán trong bài là :

 

                  Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,   琴思瀟然棋思爽,

                  Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng.    詩懷樂矣酒懷濃。

Có nghĩa :

       -  Đàn thì phải thanh thoát tự nhiên, đánh cờ thì phải sảng khoái (không câu mâu quạu quọ),

       -  Thơ thì phải làm vui thỏa lòng ta và rượu thì phải đậm đà nồng ấm.

DCD_NgCTru.jpg

 CẦM 琴 là Đàn, nhưng nếu chữ CẦM 擒 được viết bằng bộ THỦ 扌 bên trái như thế nầy, thì có nghĩa là : Nắm, Bắt, Chụp, Giữ, là Cầm lấy, như từ CẦM MUÔI trong văn học cổ của ta. MUÔI : Miền Bắc gọi là cái Thìa lớn; Miền Nam gọi là Cái Vá để múc cơm canh. Tích CẦM MUÔI như sau :

 

       Hán Cao Tổ Lưu Bang lúc còn hàn vi, có anh là Lưu Bá mất sớm, nên ở với chi dâu. Lưu Bang không thích làm ruộng, suốt ngày rong chơi với các nhóm bạn du thủ du thực, tam giáo cửu lưu, rồi lại kéo cả bọn về nhà ăn cơm. Chị dâu ghét qúa. Một hôm lại kéo đám bạn về nhà. Bà chị dâu dùng cái muôi cạo gỏ vào nồi lóc cóc leng keng để cho biết là đã hết cơm canh. Cả bọn kéo đi nơi khác. Lưu Bang chạy vào bếp thấy cơm canh hãy còn. Từ đó, đâm ra oán hận chị dâu. Khi đã lên làm vua, phong thưởng cho mọi người, nhưng không phong quan chức cho con trai của anh là Lưu Tín. Được Thái Thượng Hoàng nhắc nhở, mới phong cho Lưu Tín làm CANH HIỆT HẦU 羹颉侯 là chức Hầu Cầm Muôi Gỏ Nồi Canh để nhớ cái hận mà chị dâu không cho cơm canh. Quả là một quân vương "nhọn mỏ"(nhỏ mọn!).

 

       Trong văn học cổ từ CẦM MUÔI và từ CẠO CANH thường được dùng để chỉ những ông vua hay chủ tướng lòng dạ hẹp hòi nhỏ mọn. Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, nhà vua Lê Thánh Tông đã hạ hai câu thật mĩa mai như sau :

 

                     Cho tước chẳng quên người chực giỏ,

                     Phong hầu còn nhớ kẻ CẦM MUÔI.

     

        Thi Tiên LÝ BẠCH có một bài thơ thất ngôn cổ phong BẢ TỬU VẤN NGUYỆT 把酒問月 là Nâng Chén Hỏi Trăng, trong đó có những câu rất hay như :

 

                今人不見古時月,   Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt,

                今月曾經照古人。   Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.

DCD_ThitienLyBach.jpg

Có nghĩa :

           Người của ngày hôm nay không thấy được trăng của ngày xưa, nhưng...

           Trăng của ngày hôm nay đã từng soi rọi người của ngày xưa rồi.

 

       BẢ TỬU VẤN NGUYỆT cụ Đào Duy Từ của ta gọi là CẦM CHÉN GỌI TRĂNG trong hai câu thơ sau đây :

 

                             Kìa ai CẦM CHÉN GỌI TRĂNG,

                        Xưa nay rằng cũng mấy vùng tỏ xưa.

 

       Trong bài Xuân Dạ Yến Đào Lý Viên Tự 春夜宴桃李園序 Thi Tiên cũng đã hạ câu "... Nhi phù sinh nhược mộng, vi hoan kỷ hà ? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du, lương hữu dĩ dã... 而浮生若夢,為歡幾何?古人秉燭夜遊,良有以也". Có nghĩa : ...mà cỏi phù sinh như một giấc mộng, vui chơi có được bao lăm ? Nên người xưa (đã tranh thủ) đốt đuốc đi chơi đêm, quả là có lý lắm vậy. Bốn chữ BỈNH CHÚC DẠ DU 秉燭夜遊 là CẦM ĐUỐC CHƠI ĐÊM ý nói : Cuộc đời nầy qúa ngắn ngủi, thời gian vui chơi chẳng được bao nhiêu, nên phải tranh thủ đốt đuốc đi chơi cả ban đêm vì thời gian không còn nhiều nữa, như hai câu thơ của Hoàng Sĩ Khải trong Tứ Thời Khúc Vịnh đã diễn tả :

 

                          Một khắc là ngàn vàng khôn chuộc,

                          Hèn chi mà CẦM ĐUỐC CHƠI ĐÊM.

DCD_camduoc.jpg

Trong bài hát nói Nhân Sinh Thấm Thoát, cụ Cao Bá Quát cũng đã viết :

 

                         Nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ,

                         Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày.

                         Như chiêm bao, như bóng sổ, như gang tay,

                         Sực nhớ chữ “CỔ NHÂN BỈNH CHÚC”...

 

       

        Trở lại với CẦM 擒 là Bắt. Ta có từ kép là CẦM NẢ 擒拿 là Bắt giữ, bắt lấy. Trong nghề võ có những thế CẦM NẢ THỦ 擒拿手 chuyên dùng để nắm bắt và khóa tay chân của đối thủ để không thể động đậy được. SANH CẦM 生擒 là Bắt sống. Đọc truyện Tam Quốc Chí không ai là không biết đến tích "Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch". Có nghĩa : Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần. Mạnh Hoạch là Man Vương có uy tín và cầm đầu các động các chủ tại phương nam. Khổng Minh lập kế bắt được rồi phô trương thanh thế của mình. Mạnh Hoạch vẫn không phục. Khổng Minh tha cho về chỉnh đốn lại binh mã, rồi lại bắt được Mạnh Hoạch lần nữa. Hoạch vẫn không phục. Khổng Minh lại tha cho về. Cứ thế, tha ra bảy lần rồi bắt lại bảy lần, gọi là THẤT CẦM THẤT TÚNG 七擒七縱 là "Bảy lần bắt lấy và bảy lần thả ra". Đến nổi lần sau cùng thả ra, Hoạch không bỏ đi nữa, mà quyết lòng hàng phục nhà Thục, không dám làm loạn nữa.

 

             
            Mạnh Hoạch và Khổng Minh trong điện ảnh

     

       Trong dân gian của ta có một người tên là Nguyễn Xiển, người làng Hoằng Bột, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông được cho là hậu duệ của Trạng Quỳnh (chắt của Trạng Quỳnh). Vì ở làng Hoằng Bột nên mọi người gọi là Xiển Bột. Cũng như Trạng Quỳnh, Xiển Bột nổi tiếng trong dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đả kích vào những thói xấu của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Tương truyền ...

 

       Có một lần vì túng thiếu, Xiển gom một mớ áo quần cũ đến cửa quan xin được CẦM để lấy tiền chi tiêu. Quan biết Xiển muốn phá mình, nên lấy ý một câu trong sách Luận Ngữ mà ra vế đối, hẹn rằng nếu đối hay thì sẽ cho CẦM. Vế ra như sau :

 

                Quân tử cố cùng, quân tử cùng, quân tử cố;       君子固窮,君子窮,君子固;

Có nghĩa :

        Người quân tử phải chịu đựng cái nghèo của mình, khi người quân tử nghèo thì người quân tư phải rán mà chịu đựng.

        Quan có ý trách Xiển Bột là người quân tử sao không biết an phận với cái nghèo của mình, mà còn đèo bồng cầm cố lôi thôi để xài tiền.

 

      Xiển Bột suy nghĩ một lúc, bèn tươi cười mà đối lại rằng :

 

             Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng, Khổng Minh cầm.    孔明擒縱,孔明縱,孔明擒。

 

Theo nghĩa trong Tam Quốc Chí là :

      Khổng Minh bắt rồi tha, Khổng Minh tha rồi Khổng Minh bắt lại !

 

Nhưng, nếu hiểu theo nghĩa Nôm thì có nghĩa là :

 

     -(Dù cho có giỏi như) Khổng Minh cũng phải đi CẦM đồ khi TÚNG thiếu; (và vì) Khổng Minh TÚNG thiếu nên Khổng Minh mới đi CẦM đồ đây !

 

      Quả thật tuyệt vời không chê vào đâu được !

 

                      Xin được kết thúc bài CẦM ở nơi đây. Hẹn bài viết tới !

 

      Đỗ Chiêu Đức

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 34 :

                                                  CAO

DCD_Cao.jpg

Ta thấy :

      Từ Giáp Cốt văn, Kim Văn đến Đại Triện đều là hình tượng mặt trước của một lâu đài, và như một tháp đài cao của một cửa thành. Nên từ Tượng Hình đó đưa đến Chỉ Sự : Đây là một kiến trúc Cao Lớn và chữ CAO 高 có nghĩa ... CAO là vì thế.

      CAO 高 trái nghĩa với Thấp, CAO còn tượng trưng cho cái gì đó vượt trội, đẹp đẽ, hay ho... hơn những cái bình thường, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như ý kiến hay thì gọi là CAO KIẾN 高見. Sau khi nghe Thúy Kiều đờn, Kim Trọng đã góp ý rằng :

 

                      Lựa chi những khúc tiêu tao,

                 Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người !

 

      Thuý Kiều đã đáp :

 

                       Rằng quen mất nết đi rồi, 

                  Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao ?!

                       Lời vàng vâng lĩnh Ý CAO,

                  Hoạ dần dần bớt chút nào được không !

 

      Ý CAO là lời nói khách sáo, khen ý kiến của người khác là CAO KIẾN, là ý kiến hay ho. 

 

        CAO 高 còn chỉ Giỏi, như CAO ĐỒ 高徒 là Học trò giỏi, từ dùng để gọi học trò của người khác là LỆNH CAO ĐỒ 令高徒 (Tự xưng với người khác là TIỂU ĐỒ 小徒: Thằng trò nhỏ của tôi, bất kể tuổi tác đã lớn đã già). CAO 高 còn chỉ Tốt, như CAO BẰNG 高朋 là bạn Tốt, bạn giỏi, bạn qúi. Như trong bài Đằng Vương Các Tự nổi tiếng của Vương Bột đời Đường :

 

                十旬休暇,胜友如云;   Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;

                千里逢迎,高朋满座.    Thiên lý phùng nghinh, CAO BẰNG mãn tọa.

Có nghĩa :

               Trong kỳ nghỉ lễ mười ngày, bạn hiền tụ tập như mây;

               Ngàn dặm đón tiếp chào mời, bạn qúi ngồi đầy cả tiệc.

 

      Nhắc đến CAO, thì người ta cũng nghĩ ngay đến từ CAO ĐƯỜNG 高堂. CAO là Cao lớn; ĐƯỜNG là Phòng rộng. CAO ĐƯỜNG là Phòng lớn rộng nhất ở trong nhà, nơi mà cha mẹ thường ngồi để cho con cháu vấn an, nên trong văn học cổ CAO ĐƯỜNG chỉ Cha mẹ già. Vì ...

       

      CAO 高 ở đây là Cao niên, còn ĐƯỜNG 堂 là Song Đường, tức XUÂN ĐƯỜNG 椿堂 là Cha và HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂 là Mẹ; Nên CAO ĐƯỜNG 高堂 là Cha mẹ già. Trong các phim ảnh cổ trang xưa của Trung Hoa, khi rước dâu về nhà bái đường thì người xướng lễ cho đôi tân hôn xoay ra ngoài và hô to "Nhất bái thiên địa", đoạn quay trở vào hướng về phía cha mẹ hô "Nhị bái CAO ĐƯỜNG", cuối cùng là "Phu thê giao bái". Lạy trời đất, lạy cha mẹ, rồi lạy nhau để mà nên nghĩa vợ chồng !

 

      Trong bài thơ "Bạc Mộ Tư Gia 薄暮思家 là Chiều Hôm Nhớ Nhà" Cao Bá Quát đã hạ một đôi Thực thật hay và cảm khái như sau :

 

                高堂兩處思兒淚,  CAO ĐƯỜNG lưỡng xứ tư nhi lệ,

                薄宦三春感舊心。  Bạc hoạn tam xuân cảm cưụ tâm.

Có nghĩa :

              Nhớ cha mẹ hai nơi nhỏ lệ,

              Chút quan hèn lòng trễ ba xuân.

      Khi viết hai câu nầy, chắc cha mẹ của Cao Chu Thần đang ở với bào huynh của ông là Cao Bá Đạt đang làm tri huyện ở Nông Cống Thanh Hóa.

 

      Nếu thay chữ ĐƯỜNG 堂 là họ ĐƯỜNG 唐, ta sẽ có từ CAO ĐƯỜNG 高唐 là tên của một huyện ở tỉnh Sơn Đông ngày nay, đồng thời cũng là tên của một ngọn núi nổi tiếng trong bài CAO ĐƯỜNG PHÚ 高唐賦, nơi mà thời Chiến Quốc Sở Tương Vương đã mơ thấy thần nữ theo tích sau đây :

    

      CAO ĐƯỜNG THẦN NỮ 高唐神女.

      Theo thần thoại Trung Hoa, con gái của Xích Đế 赤帝 là Dao Cơ 瑶姬, chết trẻ, chôn ở Vu Sơn, hồn phách không tan, biến thành Thần Nữ. Trong bài Cao Đường Phú của Tống Ngọc nước Sở thời Chiến quốc có ghi lại: Sở Vương đi chơi ở Cao Đường, mơ thấy Thần Nữ đến cùng ân ái, khi chia tay còn nói là "Đản vi triêu vân, mộ vi hành vũ 旦为朝雲,暮为行雨"( Thiếp kéo mây ở buổi sáng, làm mưa ở buổi chiều ). Theo quan niệm cổ xưa thì nữ thần và vua giao hợp có thể làm cho phong điều vũ thuận, ngũ cốc phong đăng. Có nghĩa : Mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa. Nhưng dân gian lại không chịu hiểu theo nghĩa đó, hễ nhắc đến Sở Vương và Thần Nữ thì sẽ nghĩ ngay đến " Mây mưa ân ái giữa trai gái " mà thôi ! Vì thế, sau nầy hễ nhắc đến Thần Nữ Vu Sơn, Cao Đường Thần Nữ 高唐神女 là người ta nghĩ ngay đến một giai nhân tuyệt sắc gợi tình, và nói đến kéo mây làm mưa, hay nói gọn thành Mây Mưa, là người ta lại nghĩ ngay đến việc ái ân trai gái. Như cô Kiều đã ngăn Kim Trọng lại trong đêm gặp gỡ khi "Sóng tình dường đã xiêu xiêu",  mà kể lể rằng :

 

                   Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

                Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.

                   Mây Mưa đánh đổ đá vàng,

              Quá chìu nên đã chán chường yến anh...     

DCD_caoduongthannu.jpg

                               Cao Đường Thần Nữ 高唐神女

 

     Trong truyện Nôm khuyết danh Từ Thức của ta, viết theo truyện "Từ Thức Tiên Hôn Lục" của Nguyễn Dữ, cũng có câu :

                              Mộng hồn say giấc mây mưa,

                         Đá Vu Sơn tạc tiếng dư CAO ĐƯỜNG.  

      

     Còn ...

     CAO ĐÌNH 皋亭 là Cao Đình Sơn ở ngoại ô phía bắc của Hàng Châu tỉnh Chiết Giang, nơi có cả một rừng đào rực rỡ, phong cảnh hữu tình và là nơi thường diễn ra các cuộc tiễn đưa lưu luyến với câu "Cao Đình tương biệt xứ 皋亭相別處" là Chia tay ở chốn Cao Đình, như sau khi khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư thì Thúy Kiều đã tiễn đưa chàng Thúc với :

 

                      Tiễn đưa một chén quan hà,

                  Xuân đình thoắt đã dạo ra CAO ĐÌNH !

                       Sông Tần một dãy xanh xanh,

                  Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan...

 

 

                

 

      Còn...

      CAO QÙY 皋夔, CAO là CAO DAO 皋陶 (Đào) là viên quan Hình bộ giỏi dưới thờì Ngu Thuấn; QÙY 夔 là Nhạc quan của vua Thuấn. Trong văn học cổ thường mượn tên của hai người nầy để chỉ bề tôi giỏi. Trong Tứ Thời Khúc Vịnh của Hoàng Sĩ Khải, một danh sĩ đời Mạc, có câu :

 

                      Tung hô ba tiếng kêu rần,

                 Áo xiêm Nghiêu Thuấn, đai cân CAO QÙY.

 

      Khi nhắc đến Tri Âm Tri Kỷ thì người ta cũng nhắc đến ...

      CAO SƠN 高山 là Núi Cao, nhưng trong văn học cổ CAO SƠN là khúc đàn Cao Sơn Lưu THủy 高山流水. Theo sách Liệt Tử chương Thang Vấn 列子·汤问 kể :

 

      Thời Tiên Tần, thuở Xuân Thu Chiến Quốc, có quan Đại Phu nước Tấn là Du Bá Nha rất giỏi về dao cầm. Còn tiều phu Chung Tử Kỳ của nước Sở lại rất giỏi về nghe đờn. Khi Bá Nha đờn mà lòng nghĩ đến núi cao thì Tử Kỳ khen " Nga nga hề nhược Thái Sơn 峨峨兮若泰山"(Vọi vọi thay như ở tận núi Thái Sơn); khi lòng Bá Nha nghĩ đến sông nước bao la thì Tử Kỳ lại khen " Dương dương hề nhược giang hà 洋洋兮若江河"(Mênh mông thay như nước sông giang hà). Bá Nha rất kinh ngạc mà bảo rằng "Thiện tai, Tử chi tâm nhi dữ ngô tâm đồng 善哉,子之心而与吾心同". Có nghĩa : "Giỏi thay, lòng của ông và ta cùng tương đồng nhau". Sau Tử Kỳ bịnh chết, Bá Nha buồn mất tri âm nên đập nát dao cầm suốt đời không đàn nữa. 

 

     Vì tích trên mới có khúc đàn mang tên CAO SƠN LƯU THỦY. Trong truyện Nôm khuyết danh Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng có câu :

                                    Gió đưa nhẹ mái thuyền lan,

                           Điệu xoang LƯU THỦY, cung đàn CAO SƠN.  

DCD_Caosonluuthuy.jpg

      Trong bài hát nói "Nhân Sinh Thắm Thoát" của Cao Bá Quát với đôi câu thơ chữ Hán là :

 

            CAO SƠN LƯU THỦY thi thiên trục,         高山流水詩千柚,

            Minh nguyệt thanh phong tửu nhất thuyền. 明月清風酒一船.

Có nghĩa :

            Núi cao nước chảy thơ ngàn ý,

            Gió mát trăng thanh rượu một thuyền !

   

      Từ "Núi Cao" lại làm cho ta nhớ đến câu "Núi cao còn có núi cao hơn". Câu thành ngữ nầy khuyên ta phải biết khiêm tốn nhún nhường, đừng bao giờ tự kiêu tự phụ, tự cao tự đại, cho mình là giỏi hơn cả thiên hạ. Ông bà ta cũng để lại câu nói chữ Nho là "Cao nhân tất hữu cao nhân trị 高人必有高人治", có nghĩa : Người giỏi sẽ có người giỏi hơn để trị lại mình. Câu chữ Nho trên thuần túy của người Việt, còn người Hoa thì nói là "Nhứt sơn hoàn hữu nhứt sơn cao 一山還有一山高". Một núi đã cao rồi còn có môt núi khác cao hơn nữa !

 

      Phật Giáo cho rằng cuộc đời là bể khổ, chúng sinh cứ ngụp lặn trong bể khổ đó mà mãi vẫn không đến được bến bờ, nên mới khuyên là HỒI ĐẦU THỊ NGẠN 回頭是岸 : Biết quay đầu lại là bờ bến ! Còn Nho Giáo thì bảo là HỌC HẢI VÔ NHAI 學海無涯 là Biển học mênh mông không có nơi tận cùng. DUY CẦN THỊ NGẠN 唯勤是岸 chỉ có sự chuyên cần là bờ bến mà thôi. Ý muốn nói phải luôn luôn siêng năng học tập, bờ bến chính là cái thành qủa gặt hái được trong sự chuyên cần học tập đó mà ra. Và để khuyến khích sự siêng năng chuyên cần học tập, ông bà ta còn dạy rằng :

 

               Học vô tiền hậu,     學無前後,

               Đạt giả vi sư.         達者為師。

Có nghĩa :

           Sự học hành không có phân biệt trước sau gì cả,

           Hễ người nào thành đạt thì người đó đáng bậc thầy.

 

     Thành Đạt ngày xưa có nghĩa là thi đậu làm quan, được trọng vọng như bậc thầy, được nhà vua cử làm quan chủ khảo cho các khóa thi sau, làm thầy của đám hậu sinh ... Còn Thành Đạt ngày nay là sự thành công trong tất cả các mặt hoạt động của xã hội, như văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giáo sư, nhà buôn, nhà báo, nhà thầu, nhà sản xuất ... Và như câu nói "Hàng Hàng Xuất Trạng Nguyên 行行出狀元" nghĩa là : Ngành nghề nào cũng có Trạng Nguyên của ngành nghề đó cả !

      

      Trở lại với những từ được ghép với chữ CAO 高 trong văn học cổ, ta có từ CAO PHI 高飛 là Bay Cao. Khi Thúy kiều bị Bạc Hạnh lừa kết hôn rồi bán vào lầu xanh lần thứ hai, lúc "Đưa nàng vào lễ gia đường, Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh", nên ...

 

                               Thoắt trông nàng đã hay tình,

                         Chim lồng không lẽ cất mình BAY CAO !                              

                                Chém cha cái số hoa đào,

                            Gở ra rồi lại buộc vào như chơi !

 

      Bay Cao là CAO PHI, mà CAO PHI thì luôn đi liền với VIỄN TẨU 遠走, thành ngữ CAO PHI VIỄN TẨU 高飛遠走, mà ta nói thành "Cao chạy xa bay" như các cụ đồ Nho xưa thường răn dạy :

 

                   Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,    善惡到頭終有報,   

                   CAO PHI VIỄN TẨU dã nan đào.       高飛遠走也難逃。

Có nghĩa :

           Hiền lành hay hung ác gì đến kết cuộc rồi cũng sẽ có báo ứng,

           Dù cho có CAO CHẠY XA BAY thì cũng vẫn khó mà trốn cho khỏi.

 

      Năm nay là năm Hợi, thành ngữ dành riêng cho lão Trư như trong bài viết " Năm Hợi Nói Chuyện ... Trư Bát Giới" hồi đầu năm là CAO CHẨM VÔ ƯU 高枕無憂. Có nghĩa : Gối đầu cao cao mà ngủ thoải mái không lo nghĩ gì cả ! Vì "nơi ăn chốn ở" đã có người ta lo sẵn cho hết rồi. Đâu có con nào khỏe hơn con heo, cứ ĂN NO NGỦ KỸ đợi ngày gả bán mà thôi !

 

      Ta lại có từ CAO LÂU 高樓 là Lầu Cao, nhưng từ nầy lại thường dùng để chỉ Nhà Hàng như ở phố cổ Hội An của ta vậy : Đi ăn CAO LẦU tức là đi ăn Nhà Hàng đó. Còn thành ngữ 4 chữ CAO LÂU ĐẠI HẠ 高樓大厦 là chỉ Nhà Cao Cửa Rộng, dịch cho sát nghĩa hơn là "Lầu Cao Nhà Lớn" mà trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du gọi là TÒA RỘNG DÃY DÀI, như khi Khuyển Ưng chụp thuốc mê bắt Thúy Kiều về nhà giao cho Hoạn Bà, lúc tỉnh lại Thúy Kiều mới ngơ ngác :

 

                       Ngước trông TÒA RỘNG DÃY DÀI,

                    Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.

 

             Còn văn học hiện nay, ta có bài thơ "Mùa Xuân Bên Cửa Sổ" của Song Hảo đã được Xuân Hồng phổ nhạc mà giới trẻ hiện nay hay hát nghêu ngao :

 

                 CAO CAO bên cửa sổ,

                 có hai người hôn nhau

                 Đường phố ơi hãy yên lặng,

                 để hai người....

                 hôn nhau...!

 

       Cuối cùng ta có từ ...

 

       CAO THƯỢNG 高尚, CAO THƯỢNG có nghĩa là : Vượt lên trên sự tầm thường của thói đời, của con người, như Tâm hồn CAO THƯỢNG, xử sự CAO THƯỢNG, Con người CAO THƯỢNG, Sống vì một mục đích CAO THƯỢNG ... Cụ thể nhất là hai câu đối trước cổng chính của các Thánh Thất CAO ĐÀI GIÁO nêu rõ mục tiêu CAO THƯỢNG hướng tới của bản giáo là Hoà Bình Dân Chủ và mang lại quyền Tự Do cho cả Trung Nam Bắc ba kỳ, như sau :

 

                   CAO THƯỢNG chí tôn, đại đạo hòa bình dân chủ mục;

                     高       尚        至  尊, 大  道     和   平     民  主    目;          

                   ĐÀI tiền sùng bái, tam kỳ cộng hưởng tự do quyền.

                     臺    前    崇   拜, 三    祈   共      享    自 由     權。

 

     

 

            Xin hẹn bài viết tới !

 

           Đỗ Chiêu Đức

Thành ngữ điển tích 33:

                                                                      CAM

DCD_cam.jpg

 CAM 甘, chữ Nho có nghĩa là Ngọt. Cam là chữ vừa Tượng Hình vừa Hội Ý, theo diễn tiến của chữ viết như sau :

 

               GIÁP CỐT VĂN     ĐẠI TRIỆN  TIỂU TRIỆN     LỆ THƯ

DCD_giapcotvan.jpg

Ta thấy :

       GIÁP CỐT VĂN là Tượng Hình của cái miệng há ra, trong miệng có một gạch ngang tượng trưng cho một thức ăn nào đó được ngậm trong miệng, với Hội Ý : Vật nào đó được ngậm trong miệng tức là thức ăn ngon ngọt (nếu không ngon ngọt thì đã nhả ra rồi); nên CAM có nghĩa NGỌT là thế. Ta có từ TRÂN 珍 là Qúy, ghép với CAM là Ngọt, thành TRÂN CAM 珍甘 là Món ăn ngon ngọt qúy hiếm để con cháu hiếu kính dâng lên cho cha mẹ như lời cô Kiều nhớ đến cha mẹ khi ở lầu xanh :

 

                                Sân Hòe đôi chút thơ ngây,

                          TRÂN CAM ai kẻ đỡ thay việc mình ?!

     

     CAM là ngọt, nên CAM ĐƯỜNG 甘棠 là một loại lê có vị ngon ngọt, ta gọi là cây Đường Lê. CAM ĐƯỜNG còn là tên một bài thơ trong thiên Thiệu Nam 詩經,召南 của Kinh Thi, kể lại tích của Thiệu Bá (Thiệu Công Thích) đời nhà Chu. Ông làm quan thanh liêm, tính tình giản dị, khi đi kinh lý các đất ở phương nam, ông thường hay ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi, làm việc và xử án. Dân chúng cảm mến nên bảo vệ cây cam đường và làm thơ ca ngợi như sau :

 

                蔽芾甘棠,   Tế phế Cam đường,

                勿翦勿伐,   Vật tiễn vật phạt,

                召伯所茇。   Thiệu Bá sở bạt.

    

                蔽芾甘棠,   Tế phế cam đường,

                勿翦勿敗,   Vật tiễn vật bị (bại),

                召伯所憩。   Thiệu Bá sở khí.

 

                蔽芾甘棠,   Tế phế cam đường,

                勿翦勿拜,   Vật tiễn vật bế (bái),

                召伯所說。   Thiệu Bá sở thuế (thuyết).

Có nghĩa :

 

               

 

                    Cây cam đường um tùm, 

                    Chớ cắt xén chớ chặt đốn, 

                    Vì là nơi Thiệu Bá (từng ngồi) ở đấy.

 

                    Cây cam đường um tùm,

                    Chớ cắt xén chớ hũy hoại,

                    Vì là nơi Thiệu Bá từng nghỉ ngơi.

 

                    Cây cam đường um tùm,

                    Chớ cắt xén chớ vin cành,

                    Vì là nơi Thiệu Bá từng dừng chân.

Diễn Nôm :

                    Cam đường cành lá xanh xanh,

                    Xin đừng cắt xén xin đừng đốn cây,

                    Thiếu Bá đã từng ngồi đây.

 

                    Cam đường cành lá xanh um,

                    Xin đừng cắt xén xin đừng phá cây,

                    Thiếu Bá từng nghỉ nơi đây.

 

                    Cam đường cành lá um tùm,

                    Xin đừng cắt xén xin đừng bẻ cong,

                    Thiếu Bá đã từng dừng chân.

                                                              ĐCĐ

 

       Cụ Nguyễn Trãi của ta cũng có bài thơ CAM ĐƯỜNG trong Quốc Âm Thi Tập như sau :

 

                  Thấy bóng CAM ĐƯỜNG nhớ Thiệu Công

                  Ðất dư dời được bạn cùng thông.

                  Bút thơ đã chép hương còn bén

                  Ngâm ngợi nào ai chẳng động lòng.

 

       Trong truyện Nôm NHỊ ĐỘ MAI của ta cũng có câu :

 

                             Tấc lòng xem tựa mẹ cha,

                    Đọc ca mạch tuệ ngâm thơ CAM ĐƯỜNG.

    

       CAM là Ngọt, nên CAM LỘ 甘露 là Sương Ngọt. Theo sách "LÃO TỬ" : Thiên địa tương hợp, dĩ giáng CAM LỘ 天地相合,以降甘露。Có nghĩa : Khi trời và đất hợp với nhau thì sẽ cho rơi những giọt sương ngọt. Ý nói khi thái bình thịnh thế, quốc thái dân an thì giọt sương rơi xuống người ta cũng cảm thấy là nó rất ngọt ngào. Theo Phật Giáo thì CAM LỘ là ví những lời giáo pháp chân lý của đức Nhu Lai là "CAM LỘ CHÂN NGÔN 甘露真言", như đang lúc trời nóng nực mà uống được những giọt nước mát mẽ làm cho tâm thần được sảng khoái vậy. CAM LỘ còn chỉ nước ở trong tịnh bình của Quan Thế Âm Bồ Tát, có thể cứu khổ cứu nạn, cải tử hồi sinh. Ông bà xưa của ta có để lại câu nói :

 

                  Khát thời nhất trích như CAM LỘ,   渴時一滴如甘露,

                Túy hậu thiêm bôi bất như vô.       醉后添杯不如無.

Có nghĩa :

          Khi khát thì chỉ mọt giọt nước thôi cũng có tác dụng như là nước Cam Lộ trong tịnh bình của Phật Bà Quan Âm vậy. Còn...

          Khi đã uống đến say mèm rồi thì có uống thêm một ly nữa cũng như không mà thôi, không có tác dụng gì nữa cả !

 

      Xin giới thiệu đoạn tả cảnh chùa Kim Sơn là đoạn thơ đẹp nhất trong SƠ KÍNH TÂN TRANG của Phạm Thái sau đây : 

 

                   Đầu non vượn hót khỉ treo,

                Cây kê cửa động, hoa leo mái già. 

                   Chim rừng dóng dả tiếng ca,

               Nước tuôn khe biếc, khói pha lá vàng. 

                   Kinh Thủy Sám, kệ Kim Cương,

               Rẩy cành CAM LỘ, thét gươm Đại Hùng ...      

DCD_phatBa.jpg

Đọc truyện Bát Tiên Qúa Hải, khi Bát Tiên đại náo Đông Hải thì lâu đài lầu các của Thủy Tinh Cung đều bị sập đổ tan hoang, cũng nhờ sự hòa giải của Quan Âm Bồ Tát mà đôi bên mới hòa nhau và nhờ nước CAM LỘ trong tịnh bình do Quam Âm Đại Sĩ bay lên trên cao, rồi dùng nhành dương liễu rãi xuống khôi phục lại tất cả lâu đài của Thủy Tinh Cung trở về nguyên trạng như cũ.

 

      Ngoài CAM LỘ, ta còn có CAM TUYỀN 甘泉 là Suối nước Ngọt. Thật ra thì nước suối nào mà chả ngọt, nhưng đây là tên của một ngọn núi và một cung điện nổi tiếng đời Tần Hán nằm ở phía bắc đất Quan Trung, gần địa đầu biên tái, trên Cam Tuyền Sơn của tỉnh Thiểm Tây. Hán Vũ Đế đã cải tạo Lâm Quang Cung của Tần Nhị Thế thành Cam Tuyền Cung. Đây là một ly cung nổi tiếng vì thường diễn ra các hoạt động chính trị quân sự quan trọng và là nơi tiếp đãi các sứ thần ngoại bang, nơi họp bàn các cơ mật của quân cơ ... Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Khúc của ta diễn tả chiến sự nổi lên với các câu thơ mở đầu tác phẩm của Đặng Trần Côn  là :

                     

                     鼓鼙聲動長城月,  Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt,

                     烽火影照甘泉雲.  Phong hỏa ảnh chiếu CAM TUYỀN vân.

 

       Đã được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm thật hay như sau :

 

                      Trống trường thành lung lay bóng nguyệt,

                      Khói CAM TUYỀN mờ mịt thức mây.

 

                 Như ta đã biết, trước khi có chữ viết thì đã có tiếng nói; nên chữ CAM 柑 chỉ Cây Cam, Trái Cam được ghép bởi bộ CAM 甘 là Ngọt với bộ MỘC 木 là Cây lại với nhau mà thành. Trong văn học cổ của ta thì CAM và QUÍT thường đi liền nhau để chỉ Tôi Tớ, người giúp việc trong nhà, theo tích sau đây :

 

     Theo Tương Dương Ký của Tam Quốc Chí chép lại truyện Đơn Dương Thái Thú Lý Hành, vì vợ hay tranh cải trong việc trị gia, cho nên ông cho người cất nhà riêng ở đất Long Dương Võ lăng, trong vườn trồng một ngàn cây quít ngọt. Lúc ông gần chết mới nói với các con rằng : " Mẹ con hay cản trở ta trong việc trị gia, nên nhà ta mới sa sút thế nầy. Trước đây ta đã cho cất nhà riêng và có một ngàn gia nô bằng cây (Ý chỉ một ngàn cây quít), mỗi năm mỗi cây có thể cho hoa lợi bằng một sấp lụa, đủ cho các con sinh sống, không sợ đói nghèo.

 

     Vì tích trên, nên trong văn học cổ có từ QUẤT NÔ 橘奴 (gia nô là cây quít), như trong bài thơ 行天長行宮 Hành Thiên Trường Hành Cung là "Dạo Chơi Hành Cung Thiên Trường" của vua Trần Nhân Tông trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên có câu :

 

                    百步笙歌禽百舌,   Bách bộ sanh ca cầm bách thiệt, 

                    千行奴僕橘千頭.   Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu.

Có nghĩa :

            Trong vòng trăm bước tiếng sanh ca vang vang như có trăm cái lưỡi của chim muông kêu hót.

            Nô bộc đứng xếp cả ngàn hàng như có hàng ngàn cây quít.

 

     Trong TỰ THÁN bài 13 của cụ Nguyễn Trãi cũng có câu :

 

                   Ngoài cửa mận đào là khách đỗ,

                   Trong nhà CAM QUÍT ấy tôi mình.

 

     Trong ngôn ngữ hàng ngày, ta cũng thường hay nghe câu QUÍT LÀM CAM CHỊU để chỉ việc gì đó, người nầy làm mà người kia phải chịu trách nhiệm hay hậu qủa theo như truyện cổ dân gian kể về Trạng Lợn; và cũng cho ta thấy rằng CAM QUÍT là hai loại trái cây bình dân được trồng rộng rãi trong dân gian và thường được dùng để đặt tên cho con cháu.

DCD_quitlamcamchiu.jpg

Trở lại với từ CAM 甘 là Ngọt. Vì Ngọt nên mọi người thường ưa thích, vui vẻ chấp nhận, nên ta lại có thành ngữ CAM LÒNG, CAM TÂM TÌNH NGUYỆN ... để chỉ việc gì đó mà ta chấp nhận đi làm, không bị ai cưởng bức bắt buộc, làm mà trong lòng ... ngọt ngào vui vẻ !

 

     Trong đời sống hằng ngày, ta cũng hay thường gặp thành ngữ ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ 同甘共苦. ĐỒNG là Cùng Nhau, CAM là Ngọt, CỘNG là Cùng Chung, KHỔ là Đắng. Nên nghĩa đen thui của thành ngữ nầy là : "Cùng nhau ngọt và cùng chung đắng"; hiểu rộng ra là Sướng thì cùng sướng; Khổ thì cùng khổ; Giàu sang thì cùng hường, Hoạn nạn thì cùng chịu ... Nhưng ông bà dạy thì dạy thế, chớ con cháu diễn câu thành ngữ đó chỉ có một chìu mà thôi : Ta hay nghe câu " CHIA NGỌT XẺ BÙI ", nghĩa là chỉ chia xẻ khi có NGỌT có BÙI mà thôi, và cũng có nghĩa là chỉ ĐỒNG CAM mà không thấy nhắc tới CỘNG KHỔ, là " Chia Đắng Xẻ Cay " gì cả !

     

     Ở đời, hễ cục MUỐI thì cắn đôi (mặn qúa, nuốt nguyên cục không nổi !), còn cục ĐƯỜNG thì ... lủm hết ! Âu đó cũng là Nhân Tình Thế Thái mà thôi !

 

                 Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                Đỗ Chiêu Đức

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 32 : 

                                                    CÁ

 

                                    

        

       

 

 

 

Trong bài BÓNG, ta đã có thành ngữ BÓNG CHIM TĂM CÁ để chỉ tin tức hay sự việc gì đó rất mơ hồ xa vời không nắm bắt được rõ ràng chắc chắn; như khi Kim Trọng thi đậu làm quan, định đi tìm Thúy Kiều, nhưng : 

                       Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,

                     BÓNG CHIM TĂM CÁ biết đâu mà tìm !?

 

       Mở đầu bài nầy ta có một thành ngữ lấy chữ CÁ làm đầu là "CÁ CHẬU CHIM LỒNG". Cá trong chậu chỉ biết có nước ở trong chậu; Chim trong lồng chỉ biết có cái không gian nhỏ hẹp của cái lồng. Thành ngữ nầy thường dùng để chỉ những hạng người tầm thường với chí khí nhỏ bé hạn hẹp, như lời Từ Hải đã bày tỏ một cách tự hào khi gặp Thúy Kiều :

 

                          Bấy lâu nghe tiếng má đào, 

                     Mắt xanh chẳng để ai vào có không ?

                          Một đời được mấy anh hùng,

                     Bõ chi CÁ CHẬU CHIM LỒNG mà chơi ?!

 

       

 

 

 

 

 

      Từ Hải đã tự hào cho mình là anh hùng hơn người, muốn làm việc lớn, chớ không phải tầm thường an phận với những cái có sẵn như hạng CÁ trong CHẬU, CHIM trong LỒNG, chỉ có mình mới đáng cho Thúy Kiều để vào Mắt Xanh mà thôi ! Và qủa nhiên Từ Hải đã lọt vào mắt xanh của Thúy Kiều. 

 

       CÁ CHẬU CHIM LỒNG còn dùng để chỉ cảnh tù túng trong một không gian hạn hẹp hay còn dùng để chỉ cảnh bị tù tội giam cầm. Theo trang "Văn học Việt Nam" : Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ kể rằng : Có anh nhà giàu thích nuôi chim trong lồng để nghe chim hót và nuôi cá trong chậu để xem cá lội tung tăng. Cá trách chim ở trong lồng bộ vui lắm sao mà hót; chim trách cá ở trong chậu bộ thích lắm sao mà cứ bơi lội tung tăng. Con mèo gần đó bèn lên tiếng rằng : Thân CÁ CHẬU CHIM LỒNG chẳng biết lo còn trách cứ lẫn nhau ! Nên câu thành ngữ nầy cũng dùng để ám chỉ cảnh sống bó buộc, tù túng, mất tự do, như trong ca dao dân gian ta :

 

                                Ai ơi CÁ CHẬU CHIM LỒNG,

                          Một ngày bằng cả năm gông ngồi tù !


               CÁ chữ Nho là NGƯ 魚, Nước chữ Nho là THỦY 水, nên ta có từ CÁ NƯỚC là NGƯ THỦY. Ta thường nói mừng như Cá gặp Nước, chữ Nho gọi là Ngư Thủy Tương Phùng 魚水相逢, là Cá nước gặp nhau, dùng để chỉ sự hòa hợp giữa đôi lứa. Theo tích trong sách Quân Tử thời Chiến Quốc như sau :

 

      Tề Hoàn Công phái Quản Trọng đi hỏi ý của Nịnh Thích. Thích đáp :"Hạo hạo hồ ! 浩浩乎!". Quản Trọng không hiểu là ý gì, đến bữa ăn không vô, cứ ngồi trầm ngâm. Người tì thiếp thấy thế hỏi rằng : Vì cớ gì mà lo lắng ? Trọng đáp " Là chuyện mà nàng không thể biết và lo nổi ! Người tì thiếp thưa rằng :" Xưa nước Ngô và nước Can đánh nhau, quy định ai chưa sạch răng sửa thì không thể tham gia quân ngũ. Có thiếu niên tên Quốc Tử, tài sức hơn người, nhổ bỏ răng sửa để được ra trận, sau đó lập nên rất nhiều chiến công. Còn Bá Lý Hề là người chăn trâu ở nước Tần, được Tần Mục Công biết tài trọng dụng làm Tể Tướng, giúp Tần Mục Công xưng bá chư hầu. Cho nên, người tuổi trẻ không thể xem thường, người nghèo hèn không thể coi rẻ được. Sao thiếp không thể giúp tướng công được chứ ?. Quản Trọng nghe xong ngẩn người ra đáp rằng :" Được ! Ta phụng mệnh Tề Vương hỏi ý Nịnh Thích, nhưng hắn chỉ nói có ba chữ HẠO HẠO HỒ, nên ta không biết là có ý gì ?!. Người tì thiếp đáp rằng :" Chương Bạch Thủy trong Kinh Thi có bài : 浩浩者水,育育者鱼,未有室家,而安召我居?Hạo hạo giả thủy, Dục dục giả ngư, Vị hữu thất gia, Nhi an chiêu ngã cư ?. Có nghĩa : Mênh mông là nước, thung thăng là cá, chưa thành gia thất, kêu ta ở nơi đâu đây ? Chắc là ông ta muốn Tề Vương cưới vợ cho ông ta để ông ta yên lòng theo phò tá mà thôi !

 

       Trong Truyện Kiều, khi Từ Hải đã xưng vương, rước Thúy Kiều về đoàn tụ, cụ Nguyễn Du cũng đã cho Từ Hải nói với Thúy Kiều :

 

                                  Cười rằng : CÁ NƯỚC DUYÊN ƯA,

                               Nhớ lời nói những bao giờ hay không ?

                                   Anh hùng mới biết anh hùng,

                               Giờ xem phỏng đã cam lòng ấy chưa ?!

 

                              

          CÁ NƯỚC DUYÊN ƯA nói theo chữ Nho là NGƯ THỦY DUYÊN HÀI 魚水緣諧. Trong truyện Nôm khuyết danh Hoàng Trừu 皇儲 (Công Chúa Đội Đèn) tả tình duyên giữa hoàng tử Hoàng Trừu và công chúa Nam Việt có câu :

 

                       Trước là NGƯ THỦY DUYÊN HÀI,

                    Sau là hai nước muôn đời giao thông.

        

        Trong truyện Tam Quốc Chí, khi được Khổng Minh Gia Cát Lượng về phò giúp, Lưu Bị cũng đã nói rằng : "Ta mà có được Khổng Minh như là cá mà gặp nước vậy !". Nên trong văn học cổ thường dùng để chỉ sự tương đắc giữa hai người với nhau, như trong bài thơ "Ngoạ Long Cương vãn" của cụ Đào Duy Từ đã thoát dịch thật hay hai câu thơ trong bài Vịnh Vũ Hầu của Bạch Cư Dị là :

               

                            CÁ MỪNG GẶP NƯỚC Nam dương,

                        Rồng bay thiên hán vội vàng làm mưa.                     

 

                       

         

       Theo ý của một bài thơ xưa thời Lục Triều, thì CÁ còn là con vật dùng để đưa tin, nên trong văn học cổ của ta có các từ như CÁ NHÀN hay CÁ NHẠN, CÁ ĐI NHẠN LẠI ... Như ta nói Thư Đi Tin Lại vậy. Trong thơ của Chiêu Lỳ Phạm Thái có câu :

 

                         Bao nhiêu những kẻ bất tài,

                    CÁ NHÀN hãy lánh ra ngoài cho xa.

 

       Hay như trong truyện Quan Âm Thị Kính cũng có câu :

 

                        CÁ ĐI NHẠN LẠI tin hay,

                   Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.

 

       Tin Cá là do một vế trong bài thơ cổ trong Chiêu Minh Văn Tuyển có tựa là 飲馬長城窟行 Ẩm Mã Trường Thành Quật Hành như sau :

 

                 ... 客從遠方來,  Khách tòng viễn phương lai,

                     遺我雙鯉魚。  Di ngã song lý ngư.

                     呼兒烹鯉魚,  Hô nhi phanh lý ngư,

                     中有尺素書。  Trung hữu xích tố thư...

Có nghĩa :

          ... Khách từ phương xa đến,

              Để lại cho ta hai con cá chép,

              Bảo trẻ nấu cá chép,

              Trong cá có lá thư ...

  Còn ...

      Tin Nhạn là theo sách Hán Thư, Tô Vũ đi sứ Hung Nô. Chúa Hung Nô bắt chăn dê ở Bắc Hải. Khi Hung Nô hòa với nhà Hán, vua Hán hỏi tin Tô Vũ. Chúa Hung Nô nói dối là Tô Vũ đã chết. Vua Hán bèn sai sứ sang nói với chúa Hung Nô là Tô Vũ còn sống, đã viết thư buộc vào chân chim nhạn rồi thả cho bay về Hán. Chúa Hung Nô đành phải thả Tô Vũ về.

      CÁ là loài có vảy, nên gọi là LÂN 鱗 (Vảy cá), còn chim NHẠN là HỒNH NHẠN 鴻雁, nên còn gọi là HỒNG. Nên tin tức do Cá và Chim mang đến còn được gọi là SỨ LÂN HỒNG. Trong truyện Nôm Phương Hoa - Lưu Nữ Tướng có câu :

 

                           Phỏng sau điện yết tướng công,

                     Truyền thư sai SỨ LÂN HỒNG nên chăng ?  

 

                     

                        Ngoài thành ngữ CÁ ĐI NHẠN LẠI, ta còn có thành ngữa CÁ LẶN NHẠN SA mà chữ Nho gọi là TRẦM NGƯ LẠC NHẠN 沉魚落雁. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ thiên Tề Vật Luạn của Trang Tử như sau : 毛嫱、丽姬,人之所美也;鱼见之深入,鸟见之高飞,麋鹿见之决骤,四者孰知天下之正色哉?Mao Tường ,Lệ Cơ. nhân chi sở Mỹ dã; ngư kiến chi thâm nhập, điểu kiến chi cao phi, mi lộc kiến chi quyết sậu. Tứ giả thục tri thiên hạ chi chính sắc tai? Có nghĩa : Hai nàng Mao Tường và Lệ Cơ, người đời đều cho là đẹp. Nhưng cá gặp thì lặn sâu, chim gặp thì bay cao, hươu nai gặp thì chạy xa. Bốn thứ đó đâu có con nào biết được cái sắc đẹp chính thức của thiên hạ đâu ? Ý của câu nói là : Cái mà người đời cho là đẹp thì phi cầm tẩu thú đâu có biết đó là đẹp; cái mà giống nầy cho là đẹp thì giống kia đâu có biết đó là đẹp ! Cái triết lý sâu xa của Trang Tử lại bị người đời sau hiểu lầm thành ý ngược lại. Người đời cho là cái đẹp của Mao Tường, Lệ Cơ (những người cùng thời với Tây Thi) đẹp đến nỗi cá thấy phải lặn sâu và chim thấy phải bay cao, thậm chí còn đem áp dụng vào Tứ Đại Mỹ Nhân 四大美人 của Trung Hoa cổ điển ngày xưa là: Trầm ngư, Lạc nhạn, Bế nguyệt, Tu hoa 沉魚,落雁,閉月,羞花 như sau :

 

                               

                             

 

 

 

 

                                       

 

                                          Tem Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung Hoa cổ đại

 

           * TRẦM NGƯ là Tây thi, đẹp đến nỗi khi ra suối giặt lụa, cá thấy phải thẹn thùa mà lặn sâu xuống nước. 

           * LẠC NHẠN là Vương Chiêu Quân, khi ra cửa ải Nhạn Môn Quan, chim nhạn thấy nhan sắc của nàng đều rơi cả xuống sa mạc không bay lên nổi.

           * BẾ NGUYỆT là Điêu Thuyền, khi nàng bái nguyệt lúc đêm trăng, chị Hằng đã phải thẹn thùa mà trốn vào trong mây không dám hé mặt ra.

           * TU HOA là Dương Qúy Phi, khi đi dạo trong ngự hoa viên, đẹp nhất các loài hoa là hoa Mẫu Đơn cũng phải rủ xuống mà không dám khoe sắc trước mặt Dương Qúy Phi.

 

       Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng đã tả sắc đẹp của nàng cung phi dựa vào những tiêu chuẩn trên :

 

                    ... Chìm đáy nước CÁ lờ đờ LẶN,

                        Lửng da trời NHẠN ngẩn ngơ SA,

                        Hương trời đắm nguyệt say hoa,

                      Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình !...

 

       Trong truyện Nôm Hoàng Trừu Công Chúa Đội Đèn thì gọi là CÁ GIÃY NHẠN SA :

 

                           Nào người cợt nguyệt cười hoa,

                      Nào người CÁ GIÃY NHẠN SA đâu rày ?!

 

                        
                                       

 

 

 

 

 

                               Trầm Ngư Lạc Nhạn  沉 魚 落 雁  

         

Nói thêm ...

        Trong Tứ Đại Mỹ Nhân thì ba người Tây Thi, Vương Chiêu Quân và Dương Qúy Phi là người có thật, có sử sách để khảo cứu. Còn ĐIÊU THUYỀN là nhân nhân vật hư cấu của La Quán Trung trong Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa theo dạng tiểu thuyết lúc bấy giờ, chính sử không thấy nhắc đến tên.

        

       Con CÁ cuối cùng trong văn học cổ Việt Nam mà ta thường gặp là CÁ LONG DƯƠNG; không phải là con cá của ông vua dưới biển mà là của một người được phong là Long Dương Quân thời Chiến Quốc theo tích sau đây :

 

       Long Dương Quân cùng Ngụy Vương ngồi chung thuyền câu cá. Long Dương Quân câu được cá nhỏ cá lớn mấy chục con, rồi ngừng câu, ngồi buồn mà khóc. Ngụy Vương lấy làm lạ hỏi vì nguyên do gì mà khóc. Long Dương Quân đáp rằng :" Vì thần câu được nhiều cá cho đại vương mà buồn khóc". Ngụy Vương càng lấy làm lạ hơn hỏi vì sao, thì đáp rằng :" Lúc đầu thần câu được cá thì rất vui, càng về sau cá câu được càng lớn, thì thần lại muốn vứt bỏ số cá nhỏ câu được trước đó. Nay thần là kẻ tài hèn nhan sắc bình thường lại được đại vương trọng dụng, nhưng kẻ tài giỏi hơn, đẹp trai hơn trong thiên hạ lại rất nhiều, họ sẽ kéo đến mà quy thuận đại vương. Lúc đó thì chắc thần sẽ như là số phận của các con cá nhỏ chờ bị dứt đi mà thôi. Nghĩ thế, nên thần cảm thấy buồn mà khóc !". Ngụy Vương đáp :" Nhà ngươi nghĩ thế sao không nói cho ta biết ? Từ nay ta sẽ không tuyển dụng người đẹp khác nữa !". Nên ...

 

       CÁ LONG DƯƠNG là chỉ nhân tình thế thái, lòng người hay thay đổi, nay trọng mai khinh, có mới nới cũ như lời thơ trong Hoài Cổ Khúc :

 

                                   Nửa miếng đào chưa thương đã ghét,

                                   CÁ LONG DƯƠNG ai xét cho chừ ?!

 

                     
                     

 

 

 

 

 

                       Long Dương Quân người yêu của Ngụy An Ly Vương trong điện ảnh

 

 Nói thêm ...

           Long Dương Quân là câu truyện đồng tính luyến ái nổi tiếng trong lịch sử được ghi chép lại trong Ngụy Thư của Chiến Quốc Sách : Long Dương Quân là người đẹp trai nhất hậu cung, cả những cung phi đẹp gái nhất cũng phải ganh tị với anh chàng đẹp trai nầy vì anh ta rất được Ngụy An Ly Vương yêu qúy. Có lẽ đây là mối tình đồng tính luyến ái sớm nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. 

          

         Trở lại với con CÁ trong văn học dân gian, ta có các thành ngữ tục ngữ về CÁ như :

 

        - Cá Hóa Long : là con cá hóa thành con rồng, chỉ sự đổi đời hay sự thành công vượt bực mà khó ai ngờ trước được. Nhưng đối với cô gái Nam bộ chất phác nặng tình nặng nghĩa thì... tình nghĩa vẫn trên hết với câu ca dao :

                    Tiếc thay con cá hóa long,

                Hóa long không hóa hoá lòng thương anh !

 

        - Cá lớn nuốt cá bé : chỉ Quy luật của sự cạnh tranh, hay còn chỉ sự chèn ép ức hiếp của kẻ mạnh đối với kẻ yếu như : " Nước trong leo lẻo cá đớp cá !".

        - Cá mè một lứa : Chỉ sự ô hợp hay cùng một hoàn cảnh đẳng cấp xã hội.

        - Bắt cá hai tay: Chỉ sự tham lam muốn ôm đồm tất cả.

        - Chim trời cá nước: Chỉ hình ảnh của sự tự do phóng khoáng không bị gò bó.

        - Binh tôm tướng cá: Chỉ những người làm tay sai hay trợ thủ tầm thường.

 

  ... Và ví von với những câu ca dao :

 

                        Cá không ăn muối cá ươn,

                    Con cải cha mẹ trăm đường con hư !

 

  ... hay như anh học trò nghỉ hè về quê đi câu... không có cá :

 

                  Con cá không ăn câu...mồ cha con cá dại !

                  Cần câu tay anh cầm...nghĩ lại...con cá khôn !

 

              

              

        

 

 

 

 

       Còn một con CÁ của phương Tây được thả vào xã hội phương Đông mà lại rất được mọi người hâm mộ, nhất là ở Việt Nam ta, đó chính là con ... CÁ THÁNG TƯ : Theo công bố của Ủy ban Khảo sát Phát triển Thế giới của Liên Hiệp Quốc ngày hôm qua : Năm 2020, VIỆT NAM sẽ là con Rồng GIÀU nhất, MẠNH nhất của các nước vùng Đông Nam Á !

 

        Hẹn bài viết tới !

 

                                                                                                 Đỗ Chiêu Đức

DCD_ca.jpg
DCD_cachauchimlong.jpg
dcd_tem.jpg
dcd_tramngulacnhan.jpg
dcd_longduongquan.jpg
dcd_cathangtu.jpg

Thơ NGUYỄN TRÃI 

    C. THƠ TỎ Ý CHÁN NẢN MUỐN VỀ NGHỈ HƯU. 

1. Bài thơ  NGẪU THÀNH :

 

  

 

 

 

 

 

  偶成                   NGẪU THÀNH

世上黃梁一夢餘,   Thế thượng Hoàng lương nhất mộng dư,

覺來萬事總成虛。   Giác lai vạn sự tổng thành hư.

如今只愛山中住,   Như kim chỉ ái sơn trung trú,

結屋花邊讀舊書。   Kết ốc hoa biên độc cựu thư.

 

* Chú Thích :

    - NGẪU THÀNH 偶成 : Ngẫu nhiên mà làm thành bài thơ. Ý muốn nói bài thơ là nỗi lòng của tác giả được hình thành một cách tự nhiên ngẫu hợp với tâm trạng của mình. Lòng đã muốn như thế nên mới hình thành lời thơ như thế. Nói là ngẫu nhiên làm thành chứ thực ra là do từ trong lòng mà làm ra đó vậy.

    - HOÀNG LƯƠNG NHẤT MỘNG 黃梁一夢 : Ta gọi là Một Giấc Kê Vàng, để chỉ những gì hư ảo như một giấc mộng, không thể thực hiện được, và thường dùng để chỉ vinh hoa phú qúy như một giấc mộng, chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc, chớp mắt đã không còn gì cả, theo tích sau đây :

      Năm Đường Khai Nguyên thứ 7 (719), có chàng Lư Sinh thi rớt, cởi lừa về quê. Một hôm đi ngang qua đất Hàm Đan, ghé vào một lữ quán, gặp đạo sĩ Lữ Ông, đàm đạo rất tương đắc. Lư than bất đắc chí, Lữ Ông bèn đưa cho chàng chiếc gối bằng sành, sẵn thua buồn chàng bèn gối đầu lên gối mà ngủ, vừa lúc chủ quán vừa bắt nồi kê vàng (hoàng lương) lên nấu. Lư Sinh mộng thấy mình về quê cưới được Thôi Thị vừa đẹp lại vừa là con nhà giàu, lại thi đậu tiến sĩ, được thăng làm Thiểm Châu Mục, rồi Kinh Triệu Doãn. Cuối cùng vinh thăng Hộ Bộ Thượng Thơ kiêm Ngự Sử Đại Phu, Trung Thư Lệnh và cuối cùng được phong làm Yến Quốc Công. Năm đứa con đều được quan cao lộc cả, con gái thì gả vào nhà quyền qúy, Con cháu đầy nhà, vinh hoa phú qúy đến tột cùng. Đến năm 80 tuổi mới bị bệnh mà mất. Khi vừa đứt hơi, thì cũng chính là lúc Lư Sinh giật mình tỉnh dậy, thấy Lữ đạo sĩ vẫn còn ngồi đó, nồi kê vàng mà chủ quán đang nấu vẫn còn chưa chín. Lư Sinh chợt tỉnh ngộ, mấy mươi năm phú qúy vinh hoa rốt cuộc chỉ là một giấc mộng ngắn ngủi mà thôi !

 

                

   

 

 

 

 

- GIÁC LAI 覺來 : Tỉnh lại (sau giấc ngủ).

   - HƯ 虛 : là Trống không, không có gì cả !

   - KẾT ỐC 結屋 : Kết một căn nhà (bằng cỏ, bằng lá ....)

 

* Nghĩa bài Thơ :

 

        Cuộc sống trên đời nầy giống như là sau một giấc hoàng lương. Sau khi tỉnh lại rồi thì muôn việc đều là con số không. Như hiện nay thì ta chỉ thích ở ẩn trong núi, kết một gian nhà tranh cạnh những khóm hoa mà đọc sách cũ của ngày xưa mà thôi !

 

* Diễn Nôm :

                              NGẪU THÀNH

 

                  Cuộc đời vốn tựa giấc hoàng lương,

                  Tỉnh mộng muôn điều tựa khói sương.

                  Về núi thích sao bên hoa dại,

                  Kết tranh đọc sách chẳng buồn thương .

    Lục bát :

                  Người đời như giấc kê vàng,

                  Tỉnh ra muôn việc tan như mây trời.

                  Chi bằng về núi thảnh thơi,

                  Bên hoa kết mái tranh ngồi đọc thư.

 

                                                     Đỗ Chiêu Đức

 

2. Bài thơ VÃN LẬP :

    

          

   

晚立                   VÃN LẬP

長天漠漠水悠悠,   Trường thiên mạc mạc thủy du du,

黃落山河屬暮秋。   Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.

羨殺花邊雙白鳥,   Hâm sát hoa biên song bạch điểu,

人間累不到滄洲。   Nhân gian lụy bất đáo thương châu !

 

* Chú Thích :

    - VÃN LẬP 晚立 : VÃN là Buổi chiều gần tối; LẬP là Đứng. Nên VÃN LẬP là Đứng ngắm cảnh chiều tối.

    - HOÀNG LẠC 黃落 : là Vàng rụng, là Lá mùa thu vàng rơi rụng.

    - HÂM SÁT 羨殺 : HÂM là Hâm mộ; SÁT là giết, là chết. Sát ở đây là Phó Từ dùng để chỉ mức độ của Động từ. Nên HÂM SÁT là : Hâm Mộ muốn chết; Ý chỉ Rất là hâm mộ, Hâm mộ vô cùng !

    - NHÂN GIAN LỤY 人間累 : là Cái lụy phiền của nhân gian người đời.

    - THƯƠNG CHÂU 滄洲 : là Cồn bãi, thường ngụ ý dùng để chỉ nơi ở ẩn nhàn hạ.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                          ĐỨNG NGẮM TRỜI CHIỀU

 

       Trời rộng thênh thang mơ màng dưới dòng nước chảy lửng lờ. Lá vàng rụng đầy cả núi cả sông trời đã thuộc về cuối mùa thu rồi. Ta vô cùng hâm mộ đôi chim trắng bay lượn bên hoa đang nở rộ. Cái lụy phiền của nhân gian không thể đến được với mảnh đất thương châu nhàn nhã nầy !

 

* Diễn Nôm :

 

                    

                                  VÃN LẬP

 

                    Trời cao lồng lộng nước mênh mông,

                    Lá rụng chiều thu khắp núi sông.

                    Hâm mộ thay đôi chim trắng lượn,

                    Người đời phiền muộn khó chờ trông.

      Lục bát :

                    Trời cao rộng, nước mênh mông,

                    Lá vàng rụng khắp núi sông thu buồn.

                    Bên hoa chim trắng chập chờn,

                    Nhân gian phiền muộn chẳng còn nơi đây !

 

                                                                  Đỗ Chiêu Đức

 

3. Bài thơ ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ

 

   

 

 

 

 

 

題山鳥呼人圖         ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ 

深山寂寂鳥呼人,   Thâm sơn tịch tịch điểu hô nhân,

畫裏看來亦逼真。   Họa lý khán lai diệc bức chân.

閒掛午窗朝退日,   Nhàn quải ngọ song triều thoái nhật,

夢回疑是故園春。   Mộng hồi nghi thị cố viên xuân.

 

* Chú Thích :

    - SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN 山鳥呼人 : là Chim trong núi mời gọi người.

    - BỨC CHÂN 逼真 : Sát với sự thật; (vẽ) Gần như thật.

    - TRIỀU THOÁI 朝退 : là Thoái Triều, lúc tan chầu vua ra về.

    - CỐ VIÊN 故園 : Vườn cũ, chỉ Quê xưa.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                       ĐỀ BỨC HỌA CHIM NÚI GỌI NGƯỜI

       Trong cảnh núi sâu vắng vẻ nầy tiếng chim như mời gọi người. Bức họa rất sống động xem gần như là cảnh thật vậy. Mỗi ngày khi tan chầu rảnh rổi ta treo nó trước song cửa để nhìn ngắm, mà ngỡ như mơ về vườn xuân nơi quê cũ.

 

* Diễn Nôm :

 

                 

 

                   ĐỀ SƠN ĐIỂU HÔ NHÂN ĐỒ

 

                Núi sâu vắng vẻ tiếng chim mời,  

                Tranh vẽ truyền thần cảnh thảnh thơi.

                Treo ở cửa song tan chầu ngắm,

                Ngỡ như quê cũ lúc xuân thời !

     Lục bát :

                Núi sâu vắng, tiếng chim kêu,

                Bức tranh như thật gợi nhiều ước mơ.

                Tan chầu treo ở song thơ,

                Vườn xuân quê cũ ngẩn ngơ mộng hồn !

 

                                                         Đỗ Chiêu Đức

 

4. Bài thơ ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ :

 

      

   

 

 

 

 

 

題東山寺                      ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ 

君親一念久嬰懷,   Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,

澗愧林慚夙願乖。   Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.

三十餘年塵境夢,   Tam thập dư niên trần cảnh mộng,

數聲啼鳥喚初回。   Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.

 

* Chú Thích :

    - ĐÔNG SƠN TỰ 東山寺 : Tên một ngôi chùa tại xã Vĩnh Lũ, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương.

    - QUÂN THÂN 君親 : QUÂN là Vua; THÂN là Cha mẹ; chỉ trung với vua và hiếu thảo với cha mẹ.

    - CỬU ANH HOÀI 久嬰懷 : Vấn vít mãi trong lòng.

    - TÀM QÚY 慚愧 : là Thẹn thùa. GIẢN 澗 là Khe nước trong núi; LÂM 林 là Rừng. Nên GIẢN QÚY LÂM TÀM 澗愧林慚 : là Thẹn với suối thẹn với rừng.

    - TÚC NGUYỆN 夙願 : Nguyện vọng ấp ủ từ lâu, là Lời nguyền cũ.

    - QUAI 乖 : là Láu lỉnh, Trái ngược.

    - SỔ 數 : SỔ (dấu hỏi) Động từ có nghĩa là Đếm; Hình Dung từ có nghĩa là Mấy; Danh từ đọc là SỐ (dấu sắc) : là Con số. Trong bài thơ là Hình Dung từ SỔ THANH 數聲là Mấy tiếng (chim kêu).    

 

* Nghĩa bài Thơ :

                                       ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ

       Cái quan niệm về Quân Thân lâu nay vẫn cứ vấn vít mãi trong lòng. Nên ta mới đành thẹn với suối với rừng mà đi ngược lại cái tâm nguyện lâu nay của mình. Hơn ba mươi năm lăn lóc trong cảnh trần đời thoáng qua như một giấc mộng. Mấy tiếng chim hót gọi dậy trong ta những nguyện ước lúc ban đầu.

 

      Như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói "... Sắp hai chữ QUÂN THÂN mà gánh vác", nên Nguyễn Trải vẫn cứ phải bận lòng mãi với Trung với Hiếu mà đành thẹn với suối với rừng, không thực hiện được tâm nguyện của mình là về sống ấn cư nhàn tản với núi rừng như đã từng ao ước. Ba mươi mấy năm lăn lóc trong trường danh lợi, trong chốn quan trường, chợt nghe tiếng chim hót líu lo mới giật mình mà muốn quay đầu sống với những ước nguyện của buổi ban đầu : Về hưu hưởng nhàn !

 

* Diễn Nôm :

 

                 
                      

       

 

 

 

               ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ 

                 Vấn vít quân thân suốt một đời,

                 Thẹn cùng rừng núi lỡ rong chơi.

                 Ba mươi năm lẻ đời như mộng,

                 Mấy tiếng chim kêu chợt ngẩn người !

     Lục bát :

                 Quân thân ràng buộc một đời,

                 Thẹn cùng rừng núi sai lời nguyền xưa.

                 Ba mươi năm mấy nắng mưa,

                 Chim kêu tỉnh mộng như vừa hôm qua !

 

                                             Đỗ Chiêu Đức

 

5. Bài thơ HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM :

 

     

 

 

 

 

 

 海口夜泊有感        HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM 

湖海年來興未闌,    Hồ hải niên lai hứng vị lan,

乾坤到處覺心寬。    Càn khôn đáo xứ giác tâm khoan.

眼邊春色薰人醉,    Nhỡn biên xuân sắc huân nhân túy,

枕上潮聲入夢寒。    Chẩm thượng triều thanh nhập mộng hàn.

歲月無情雙鬢白,    Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch,

君親在念寸心丹。    Quân thân tại niệm thốn tâm đan.

一生事業殊堪笑,    Nhất sinh sự nghiệp thù kham tiếu,

嬴得虛名落世間。    Doanh đắc hư danh lạc thế gian !

 

* Chú Thích :

    - HỨNG 興 : là Cảm hứng. Nếu đọc là HƯNG thì có nghĩa là Nổi dậy.

    - LAN 闌 : là Sắp hết, sắp tàn. HỨNG VỊ LAN 興未闌 : là Rất còn hứng thú chưa tàn phai. 

    - ĐÁO XỨ 到處 : Nơi mà ta đến, nên có nghĩa là KHẮP NƠI.

    - HUÂN 薰 : Có THẢO ĐẦU nên có nghĩa là một loại cỏ thơm, là Hơi thơm.

    - TRIỀU THANH 潮聲 : là Tiếng sóng.

    - THÙ 殊 : là Đắc biệt, là Chấm dứt. THÙ KHAM TIẾU 殊堪笑 : Là Chấm dứt một cách khá buồn cười.

    - LẠC 落 : là Rụng, Rơi, Rớt. LẠC THẾ GIAN 落世間 : là Còn Rơi rớt lại, còn để lại trên đời.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                             Cảm Hứng Đêm Đậu Thuyền Ở Cửa Biển

        Những năm gần đây sống kiếp hải hồ nhưng cái hứng vẫn chưa tàn; Cảnh trời đất khắp nơi đều làm cho lòng ta cảm thấy khoan khoái. Trước mắt ta mùi hương của sắc xuân làm say đắm lòng người, tiếng sóng trên sông nước đưa ta vào giấc ngủ lạnh lẽo. Ngày tháng qua đi một cách vô tình, khiến cho hai bên tóc mai đà bạc trắng, mà tấc lòng trung hiếu vẫn phải gìn giữ sắt son. Sự nghiệp một đời chấm dứt một cách đáng buồn cười, vì chỉ có được chút hư danh để lại cho thế gian mà thôi !

 

* Diễn Nôm :

                     HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM 

 

                   

 

                   

 

 

                   

 

                   Mấy năm hồ hải hứng chưa tàn,

                   Trời đất khắp nơi thảy chứa chan.

                   Xuân sắc thoảng hương người chếnh choáng,

                   Sóng sông đưa lạnh mộng lan man.

                   Vụt vù năm tháng đầu đà bạc,

                   Canh cánh hiếu trung dạ chửa an.

                   Sự nghiệp một đời cười chấm dứt,

                   Hư danh còn chút để dân gian !

      Lục bát :

                   Giang hồ cảm hứng chưa tàn,

                   Khắp nơi trời đất đều khoan khoái lòng.

                   Hương xuân ngây ngất mênh mông

                   Rì rào bên gối sóng sông mơ màng.

                   Bạc đầu năm tháng thời gian,

                   Hiếu trung giữ vẹn riêng mang tấc lòng.

                   Một đời sự nghiệp hư không,

                   Khẩy cười một tiếng theo dòng thế gian !

 

                                                   Đỗ Chiêu Đức

DCD_NgTrai_NgauThanh_1.jpg
DCD_NgTrai_GiacLai.jpg
DCD_NgTrai_Vanlap_3.jpg
DCD_NgTrai_vanlap2_4.jpg
DCD_Ngtrai_sondieu_5.jpg
DCD_Ngtrai_dongsontu1_6.jpg
DCD_ngtrai_dongsontu2_7.jpg
DCD_Ngtrai_haikhau1_8.jpg
DCD_Ngtrai_Haikhau2_8.jpg

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 31 :  

                                               

BÓNG

 

                                   

 

       

 

 

 

BÓNG chữ Nho gọi là ẢNH 影, nên Bóng của Người gọi là NHÂN ẢNH 人影. Theo Đạo Giáo thì đời sống chính thức của con người là ở trên...Trời, còn đời sống trước mắt ở thế gian nầy chỉ là cái hình chiếu, là Cái Bóng ở trên trời rọi xuống mà thôi, nên Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã viết trong "Cung Oán Ngâm Khúc" là :

 

                          Cái quay búng sẵn trên trời,

                     Mờ mờ NHÂN ẢNH như người đi đêm !

      

       Cái BÓNG đầu tiên mà ta thường thấy trong văn học cổ là BÓNG ÁC, BÓNG ÁC TÀ hay BÓNG TÀ đều có nghĩa giống như nhau. Theo sách Ngũ Kinh Thông Nghĩa 西漢劉向的五經通義 của Lưu Hướng đời Tây Hán đã dùng thuyết âm dương để miêu tả là trong mặt trăng có con Thiềm thừ 蟾蜍 (con Cóc), và Ngọc thố 玉兔 (Thỏ ngọc), còn trong mặt trời thì có con Kim Ô 金烏 (Quạ vàng hay Ác vàng) ba chân. Nên trong văn học cổ gọi mặt trăng là Thiềm Cung (cung của con Cóc ở) như trong truyện Nôm Trinh Thử :

 

                          THIỀM CUNG bóng đã tà tà,

                     Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.

 

                

     ... hay còn gọi mặt trăng là Bóng Thỏ (Ngọc thố) như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :

 

                        Khi BÓNG THỎ chênh vênh trước nóc,

                        Nghe vang lừng tiếng giục bên tai.

 

        Và gọi mặt trời là Ác Vàng (Kim Ô) như bài học thuộc lòng trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư :

 

                        ÁC VÀNG đang lúc tỏ trời,

                    Bỗng đâu mây kéo khắp nơi mịt mù.

                        Giông giục giục, gió vù vù,

                    Cây rung lá đổ lao xao chật đường ...

 

         Hay gọi mặt trời chiều là Bóng Tà như trong Truyện Kiều tả lúc Kim Kiều sơ ngộ trong Hội Đạp Thanh của Tiết Thanh Minh :

 

                        BÓNG TÀ như giục cơn buồn,

                    Khách đà lên ngựa người còn ghé theo !

 

        Vì mặt trời là Vầng Kim Ô, nên còn được gọi là BÓNG Ô, như trong truyện Trinh Thử :

 

                        Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,

                        Mấy lúc lòng vàng chỉ BÓNG Ô.

 

       Hay gọi chung mặt trăng mặt trời là THỎ LẶN ÁC TÀ để chỉ ngày tháng qua đi một cách nhanh chóng vô tình, như khi Vương Quan kể lể về "Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi", nên khi đã "trâm gãy bình rơi" chết rồi thì chẳng ai đoái hoài :

 

                         Trải bao THỎ LẶN ÁC TÀ,

                     Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm !

 

          
                     

 

 

                                 

                                  Thỏ lặn                                     Ác tà

 

       Riêng mặt trăng, do tích Hậu Nghệ Hằng Nga theo sách Hoài Nam Tử 淮南子: Hằng Nga (hay Thường Nga) là vợ của Hậu Nghệ đã lén chồng uống thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu ban cho Hậu Nghệ, nên thành tiên bay lên cung trăng ở trong cung Quảng Hàn, vì thế mặt trăng còn được gọi là Cung Quảng, Cung Nga hay BÓNG NGA ... như Thúy Kiều sau khi viếng mả Đạm Tiên và gặp Kim Trọng xong thì về nhà tối hôm đó đã : 

 

                        Một mình lặng ngắm BÓNG NGA,

                     Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.

                        Người mà đến thế thì thôi,

                     Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi,

                        Người đâu gặp gỡ mà chi,

                     Trăm năm biết có duyên gì hay không ?

 

       BÓNG NGA còn dùng để chỉ người đẹp, như khi anh chàng Sở Khanh gặp người đẹp Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, cụ Nguyễn Du đã viết về Thúy Kiều như sau :

 

                        BÓNG NGA thấp thoáng dưới mành,

                     Trông nàng chàng cũng ra tình đeo đai.

 

        Không gọi là BÓNG NGA thì gọi là BÓNG TỐ, như trong Hoa Tiên Truyện của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :

 

                        Chập chờn BÓNG TỐ trêu ai,

                     Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước rèm ?

   

       Không gọi là BÓNG TỐ thì gọi là BÓNG THỎ, như trong bài Nghĩ Thiên Vấn trong Phó Huyền Tập có câu : "Nguyệt trung hà hữu? Ngọc thố đảo dược 月中何有?玉兔捣药". Có nghĩa : Trong mặt trăng có gì? Có con thỏ ngọc giã thuốc. Như trên đã nói, trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu có câu :

 

                       Khi BÓNG THỎ chênh vênh trước nóc,

                       Nghe vang lừng tiếng giục bên tai.

 

                 

       

 

 

Không gọi là BÓNG THỎ thì còn gọi là BÓNG QUẾ (hay Cung Quế, Đan Quế ...) do tích trong Dậu Dương Tạp Trở, chương Thiên Xích 酉陽雜俎·天咫 : Trong mặt trăng có cây quế, có thiềm thừ. Cây quế cao năm trăm trượng, dưới có một người cầm búa đốn cây quế nầy, nhưng chặt đến đâu thì cây lại liền ngay đến đó, Người đó tên là Ngô Cương, người đất Hà Tây, theo tu Đạo học tiên, nhưng vì phạm lỗi nên mới bị phạt đốn cây quế như thế" (Tương truyền Ngô Cương có tình ý với Hằng Nga, nên đến cung trăng để bày tỏ tình ý của mình, bị Ngọc Đế biết được nên mới phạt cho đốn cây quế ở cung trăng mãi mãi như thế). Trong Thơ Nôm bài 23 của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tả cảnh thiên nhiên cũng có tình ý như người. Ông muốn níu lại từng làn hương thoảng qua song cửa, ban đêm nâng chén rượu, ông hồi hộp sợ bóng trăng tan đi, không ở lại với mình, nên mới hạ câu :

 

                           Nương song, ngày tiếc mùi hương lạt,

                           Nối chén, đêm âu BÓNG QUẾ tan...

 

                   
         

       

 

 

 

     Để nuối tiếc cho thời gian qua nhanh một cách vô tình không chờ đợi vị nễ ai cả, ta có thành ngữ BÓNG CÂU QUA CỬA SỔ, như trong bài Thành Ngữ Điển Tích về chữ BẠCH, ta đã biết qua về câu nói của Trang Tử trong Tri Bắc Du《庄子·知北游: “人生天地之间,若白驹之过隙,忽然而已. Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược Bach Câu chi Qúa Khích, hốt nhiên nhi dĩ ". Có nghĩa :" Con người sống trong trời đất cũng giống như là bóng ngựa trắng thoáng qua khe cửa, chỉ trong chốc lát mà thôi". Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều có câu :

 

                      BÓNG CÂU thoáng qua mành mấy nỗi,

                      Những hương sầu phấn tủi sao xong.

 

       Để tả vẻ đẹp hấp dẫn gợi tình của nàng cung phi trong Cung Oán Ngâm Khúc ta còn đọc thấy câu :

 

                      BÓNG GƯƠNG lấp loáng trong mành,

                      Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

 

       Để chỉ những nàng con gái đẹp, những giai nhân ngày xưa, ta còn thấy từ BÓNG HỒNG. Từ nầy có xuất xứ từ từ Hồng Quần 紅裙 mà ra, vì ngày xưa các nàng con gái Trung Hoa đi ra ngoài hay mặc quần màu hồng, như cụ Nguyễn Du đã nói về chị em của Thúy Kiều là : "Phong lưu rất mực HỒNG QUẦN" vậy, nên BÓNG HỒNG là bóng dáng của những giai nhân, của những nàng con gái đẹp, cũng trong Truyện Kiều, khi Kim Trọng du xuân đạp thanh gặp chị em Thúy Vân Thúy Kiều, cụ Tiên Điền cũng đã viết :

 

                      BÓNG HỒNG nhác thấy nẻo xa,

                    Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai !

 

      BÓNG XUÂN, Xuân là cây Xuân 椿, một loại cây cao bóng cả. Theo sách Trang Tử,chương Tiêu Dao Du 庄子·逍遥游: Thượng cổ hữu đại xuân giả; dĩ bát thiên tuế vi xuân; bát thiên tuế vi thu 上古有大椿者;以八千岁为春;八千岁为秋。Có nghĩa : Đời thượng cổ có cây xuân to; lấy tám ngàn năm là mùa xuân; tám ngàn năm là mùa thu. Nên người xưa lấy cây xuân nầy để chỉ người cha là cột trụ chống chỏi cho gia đình. Trong truyện cổ tích Thạch Sanh có câu :

 

                       Kể sao xiết nỗi khóc than,

                   BÓNG XUÂN lành lạnh, nhà lan rầu rầu.

 

      Thường thì trong văn học cổ gọi cha là XUÂN ĐƯỜNG 椿堂, Đường 堂 tiếng Anh là Hall, tiếng Việt không có từ tương đương để dịch, là cái phòng rộng vừa là phòng khách vừa là nơi thờ phượng tổ tiên, lại vừa nơi cha mẹ hay ngồi để cho con cháu vấn an. Trong Truyện Kiều, lúc đêm, khi Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư, thì Thúc Sinh mới :

  

                      Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,

                  Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.

         

       BÓNG CHIM TĂM CÁ là Bóng dáng của con chim và tăm hơi của con cá, cả hai thứ đều khó thể cầu mà có được, nên để diễn tả cái gì đó cách xa biền biệt không có âm hao tin tức gì cả ! CHIM ở đây là chim Hồng Nhạn, loài chim chuyên dùng để đưa thư; còn CÁ là cá Lý Ngư, theo sách Hán Thư, truyện Tô Võ 汉书·苏武传: Có ghi chép chuyện buộc thư vào chân chim nhạn để truyền tin; Hán. Thái Ung 汉·蔡邕: Trong bài thơ "Ẩm Mã Trường Thành Quật hành" có câu : Khách tòng viễn phương lai, Di ngã song lý ngư, trung hữu xích tố thư 客从远方来,遗我双鲤鱼,呼儿烹鲤鱼,中有尺素书. Có nghĩa : Khách từ phương xa đến, để lại cho ta hai con cá chép, trong bụng cá chép có tờ thư. Người đời sau ghép hai truyện trên vào với nhau thành CHIM CÁ để chỉ thư từ tin tức, nói cho êm tai thành thành ngữ bốn chữ là BÓNG CHIM TĂM CÁ, như trong Truyện Kiều tả lúc Kim Trọng đã thi đậu làm quan rồi muốn đi tìm Thúy Kiều, nhưng ...

 

                          Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,

                     BÓNG CHIM TĂM CÁ biết đâu mà tìm !?

 

           

                                         

 

 

 

 

                                          Bóng chim tăm cá

       

      Trong truyện cổ tích dân gian "Con Tấm Con Cám" của ta thì có câu :

 

                   BÓNG BÓNG BANG BANG,

                   Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,

                   Đừng ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người !

 

      Như phần đầu đã nói...

      BÓNG là Ảnh 影, còn tia Chớp là Điện 電. Bỏ chữ Điện trước chữ Ảnh, ta có từ ĐIỆN ẢNH 電影 là Chớp Bóng. Nhờ Điện Chớp sáng ta mới thấy được Bóng, mà muốn thấy được Bóng cho rõ ràng thì Điện phải được chớp trong phòng tối... Từ đó hình thành thêm một nghệ thuật mới cho cuộc sống nhân sinh : Nghệ Thuật Thứ Bảy : là Điện Ảnh 電影 mà giới bình dân quen miệng gọi là "Đi xem CHỚP BÓNG!".

 

      Xin được kết thúc từ BÓNG ở đây. Hẹn bài viết tới !

 

                                                                              Đỗ Chiêu Đức

DCD_bong.jpg
DCD_ThiemCung.jpg
DCD_Tholan.jpg
DCD_bongtho.jpg
DCD_bongque.jpg
DCD_bongchim.jpg

DỊCH THỦY TỐNG BIỆT

 

                                 

 

         

 

 

 

 

 

 

 

Sau khi đọc Giai Thoại Văn Chương : NGA, NGA, NGA ! Kính mời đọc tiếp 1 bài thơ tiêu biểu nữa của Lạc Tân Vương, một trong Tứ Kiệt ở buổi Sơ Đường :

 

     易水送別         DỊCH THỦY TỐNG BIỆT

 

    此地別燕丹,      Thử địa biệt Yên Đan

    壯士髮衝冠。      Tráng sĩ phát xung quan.

    昔時人已沒,      Tích thời nhân dĩ một,

    今日水猶寒。      Kim nhật thủy do hàn !

              駱賓王                    Lạc Tân Vương

 

* Xuất Xứ của Bài thơ :

       Năm nghi Phụng thứ 3 đời Đường Cao Tông (678), Lạc Tân Vương đang giữ chức Thị Ngự Sử, ông nhiều lần dâng sớ can gián làm phật lòng Võ Hậu, nên bị giam vào ngục. Mùa thu năm sau (679), ông được xá tội. Mùa đông năm đó ông đi về đất Yên (thuộc tỉnh Hà Bắc niện nay) làm Tham Quân trong một doanh trại, quyết lòng ra sức lập công báo quốc. Bài "Dịch Thủy Tống Biệt" được làm trong khoảng thời gian nầy khi ông đưa bạn qua dòng sông Dịch.

                              

                          

                        

 

 

 

                                           Cảnh đưa tiễn Kinh Kha trong phim ảnh

 

* Chú Thích :

    - DỊCH THỦY 易水 : Còn gọi là Dịch Hà 易河, tên một con sông nằm ở phía tây của Dịch Huyện thuộc tỉnh Hà Bắc, chia làm Nam Dịch Thủy và Bắc Dịch Thủy, là ranh giới phía nam của nước Yên thời Chiến Quốc, nơi mà thái tử Đan tiễn biệt Kinh Kha qua sông để đi thích khách Tần Thủy Hoàng.

    - YÊN ĐAN 燕丹 : là Thái tử Đan của nước Yên.

    - PHÁT XUNG QUAN 髮衝冠 : là Tóc dựng đứng đội cả mão trên đầu lên. Chỉ sự bi tráng khảng khái.

 

* Nghĩa Bài Thơ :

                                  Tiễn Đưa Trên Sông Dịch

        Ta đưa bạn ở nơi nầy, nơi mà Kinh Kha đã từng vẩy tay ly biệt với thái tử Đan của nước Yên. Người tráng sĩ ra đi (thích khách Tần Thủy Hoàng) bi hùng cảm khái đến nổi tóc dựng đứng đội cả mão lên. Bây giờ, người xưa tuy đã mất rồi, nhưng dòng nước nơi đây vẫn còn toát hơi lạnh lẽo.

 

        Bài thơ vừa tả thực (tiễn bạn), vừa hoài cổ (nhớ lại chuyện xưa), vừa như Vịnh Sử (nhắc ại một thiên lịch sử bi tráng hào hùng của Kinh Kha qua sông Dịch) và hàm súc cảm khái một cách bi hùng với hình ảnh "Tích thời nhân dĩ một, Kim nhật thủy do hàn !". Cái lạnh của dòng sông Dịch như làm sống lại cảnh đưa tiễn ngày xưa, và cũng làm cho ta nhớ đến bài ca của Cao Tiệm Ly đã hát trên bờ sông khi đưa tiễn bạn :

 

            Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,     風蕭蕭兮易水寒,

            Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn !  壯士一去兮不復還.

Có nghĩa :

            Gió hắt hiu ôi, bờ sông Dịch lạnh,

            Tráng sĩ một đi ôi, không còn trở lại !

 

  ... và lại làm cho ta nhớ đến bài TỐNG BIỆT HÀNH của nhà thơ Thâm tâm thời Tiền Chiến :

 

            Đưa người ta không đưa qua sông

            Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?

            Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

            Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

 

    ... và trong bài VỌNG NHÂN HÀNH cũng của Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình :

 

            Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch

            Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”...

 

                   
  

* Diễn Nôm :

                      DỊCH THỦY TỐNG BIỆT

 

                      Nơi đây biệt Yên Đan,

                      Tráng sĩ giận căm gan.

                      Người xưa tuy đà mất,

                      Nước sông vẫn toát hàn !

        Lục bát :

                     Yên Đan giả biệt nơi nầy,

                     Anh hùng tóc dựng toát đầy bi ca.

                     Người xưa tuy đã lìa xa,

                     Hôm nay dòng nước la đà lạnh căm !

 

                                                          Đỗ Chiêu Đức

DCD_dichthuy_1.jpg
DCD_KinhKha.jpg
DCD_Tongbiet.jpg

                                            

 

                          Nguyễn Trãi

                       

          

 

 

                                         Nguyễn Trãi 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442, hiệu là                                                 Ức Trai 抑齋, là người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa                                               Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của                                               nhà Minh với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công                                               vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành khai quốc công                                                   thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong Lịch sử                                                 Việt Nam.

         

                                         Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan

                                         Tư đồ Trần Nguyên Đán. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự Sử Đài Chính Chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh và ông đầu hàng rồi bị bắt giải về Trung Quốc. Sau khi đất nước rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự thống trị của nhà Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân nhà Minh. Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập Nội Hành Khiển và Thừa Chỉ.

         Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho ông. Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có công đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.

        "Ức Trai Thi Tập" là tập thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi, gồm 105 bài thơ, trong đó có thể chia làm 5 phần sao đây : 

                        A. Thơ trước khi thành danh.

                        B. Thơ sau khi đã thành danh.

                        C. Thơ tỏ ý chán nản muốn về hưu.

                        D. Thơ làm trong thời ở ẩn tại Côn Sơn.

                        E. Thơ làm trong thời sang Trung Quốc.

     Sau đây là các bài thơ tiêu biểu cho các thời kỳ nêu trên.

 

A.  THƠ LÀM TRƯỚC KHI THÀNH DANH.             

1. Bài thơ THÍNH VŨ :

     

  聽雨                         Thính Vũ

寂寞幽齋裏,   Tịch mịch u trai lý,

終宵聽雨聲。   Chung tiêu thính vũ thanh.

蕭騷驚客枕,   Tiêu tao kinh khách chẩm,

點滴數殘更。   Điểm trích sổ tàn canh.

隔竹敲窗密,   Cách trúc xao song mật,

和鐘入夢清。   Hòa chung nhập mộng thanh.

吟餘渾不寐,   Ngâm dư hồn bất mị,

斷續到天明。   Đoạn tục đáo thiên minh !

* Chú Thích :

     - U TRAI 幽齋 : là Thư trai u tịch, là Phòng học yên ắng vắng vẻ.

     - CHUNG TIÊU 終宵 : là Thâu đêm suốt sáng.

     - TIÊU TAO 蕭騷 : Tiếng Xào Xạc của gió khua vào cây lá (làm buồn lòng người nghe) như khi Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe xong, thì Kim đã nhận xét rằng :

                                        Lựa chi những khúc Tiêu Tao,

                               Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người !

    - NGÂM DƯ 吟餘 : là Sau lúc trầm ngâm.

    - HỒN 渾 : là Hầu như, gần như ...

    - BẤT MỊ 不寐 : là Không ngủ được.

    - ĐOẠN TỤC 斷續 : Đoạn là Đứt, Tục là Nối. Ở đây chỉ Mưa tạnh rồi lại mưa, mưa rồi lại tạnh, cứ thế đến trời sáng (Đáo thiên minh).

* Nghĩa Bài Thơ :

                         ĐÊM NGHE MƯA

      Trong cái thư phòng tịch mịch vắng vẻ nầy, ta nghe tiếng mưa rơi suốt cả đêm dài. Tiếng gió thổi cây lá xạc xào luôn kinh động bên gối, từng giọt từng giọt mưa thánh thót như đếm thời gian đến canh tàn. Tiếng các giọt mưa đập rào rào vào song cửa cách bụi tre hoà vào tiếng chuông chùa văng vẳng đưa ta chập chờn vào mộng. Trầm ngâm mãi nhưng hầu như vẫn không ngủ được, tiếng mưa cứ tạnh rồi lại mưa mưa rồi lại tạnh cho đến khi trời sáng hẵn.

* Diễn Nôm :

 

      

                  NGHE MƯA

            Trong thư trai lặng ngắt,

            Suốt đêm nghe mưa rơi.

            Xạc xào kinh động khách,

            Thánh thót suốt canh rồi.

            Đồm độp bên song trúc,

            Văng vẳng tiếng chuông hời.

            Trầm ngâm hoài không ngủ,

            Rả rít đến sáng trời !

   Lục bát :

            Thư trai vắng vẻ đìu hiu,

            Suốt đêm mưa đổ gợi nhiều vấn vương.

            Xạc xào bên gối canh trường,

            Tiếng mưa thánh thót sầu vương canh chầy.

            Ngoài song tre dập mưa rơi,

            Tiếng chuông hòa điệu lơi lơi mộng hồn.

            Trầm ngâm khôn ngủ mưa buồn,

            Chợt rơi chợt tạnh mưa luồn sáng đêm.

                                                       Đỗ Chiêu Đức

2.        Ký Hữu 

        

* BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ :

                         寄友

                  亂後親朋落葉空, 
                  天邊書信斷秋鴻。 
                  故園歸夢三更雨, 
                  旅舍吟懷四壁蛩。 
                  杜老何曾忘渭北, 
                  管寧猶自客遼東。 

                  越中故舊如相問, 

                  為道生涯似轉蓬。

                                                   阮廌

* PHIÊN ÂM:

             Loạn hậu thân bằng lạc diệp không, 
             Thiên biên thư tín đoạn thu hồng. 
             Cố viên quy mộng tam canh vũ, 
             Lữ xá ngâm hoài tứ bích cùng. 
             Đỗ lão hà tằng vong Vị Bắc, 
             Quản Ninh do tự khách Liêu Đông. 
             Việt Trung cố cựu như tương vấn, 
             Vị đạo sinh nhai tự chuyển bồng.

                                                    Nguyễn Trãi  

* CHÚ THÍCH:

    a) THIÊN BIÊN: là Bên trời, chỉ xa xôi cách trở.
    b) THU HỒNG: HỒNG 鴻 ở đây là HỒNG NHẠN 鴻雁 : Loài chim chuyên dùng để đưa thư. THU HỒNG là Cánh hồng nhạn đưa thư trong mùa Thu.
    c) CỐ VIÊN QUY MỘNG: Mơ về vườn cũ, tức là Mơ về quê cũ.
    d) LỮ XÁ NGÂM HOÀI:  là Lòng trầm ngâm ở nơi quán trọ.
    e) TỨ BÍCH CÙNG: TỨ BÍCH là Bốn bức vách tường, CÙNG là Loài Côn Trùng như Dế, Bù Cào, Châu Chấu... TỨ BÍCH CÙNG: là Bốn bề đều có tiếng côn trùng kêu ra rả.      
    f) Đỗ Lão :

       (hay Lão Đỗ) Thi thánh Đỗ Phủ đời Thịnh Đường, đồng thời với Thi Tiên Lý Bạch, được mệnh danh Lão Đỗ để phân biệt với nhà thơ trẻ đời Tàn Đường Đỗ Mục (gọi là Tiểu Đỗ). 
    g) Vị Bắc :

        Bờ bắc sông Vị.  Sông này phát nguyên từ núi Điểu Thử, huyện Vị Nguyên, tỉnh Cam Túc, chảy qua tỉnh Thiểm Tây rồi đổ vào sông Hoàng Hà. Tác giả ngụ ý tình bạn giữa Đỗ Phủ và Lý Bạch, dựa theo hai câu thơ sau đây của Đỗ trong bài Xuân Nhật Hoài Lý Bạch: "Vị Bắc xuân thiên thụ, Giang Nam nhật mộ vân" (Cây cảnh trời xuân bờ Vị Bắc, Ánh mây chiều muộn đất Giang Nam) ý nói có thần giao cách cảm, Đỗ nhìn bờ Vị Bắc nhớ Lý, hẳn Lý cũng nhìn mây đất Giang Nam mà nhớ Đỗ. 
    h) Quản Ninh :

        Tác giả đề cập khí phách của Quản Ninh, dân đất Ngụy thời Tam Quốc. Thiếu thời, đang cùng ngồi học chung chiếu với bạn là Hoa Hâm, bỗng một hôm Hoa Hâm bỏ chạy ra đường nhìn xem kẻ giàu sang cưỡi ngựa đi qua nên Quản Ninh cắt đôi chiếc chiếu, không chịu ngồi chung nữa. Cuối đời Hán, Quản Ninh tỵ loạn 37 năm ở Liêu Đông, từ chối mọi quan chức do hai vua Văn Đế và Minh Đế ban cho ông.

    i) Việt Trung : Kinh đô nước Việt ngày xưa thuộc tỉnh Triết Giang (Trung Quốc), sau bị nhà Hán thôn tính. Tác giả ngụ ý nhắc đến quê hương Việt Nam lúc bấy giờ.

    j) VỊ ĐẠO : là Hãy nói rằng, Hãy đáp rằng.
    k) TỰ CHUYỂN BỒNG: Xoay chuyển giống như là cỏ bồng, dật dờ vô định. 

* DỊCH NGHĨA :

      Sau loạn lạc bà con bạn bè thưa thớt như những chiếc lá mùa Thu rơi rụng.
      Chân trời góc bể dứt hẵn bóng chim hồng nhạn mùa Thu đưa thư. (Chữ ĐOẠN ở đây làm ta nhớ đến câu thơ của NGUYỄN DU trong Kiều: Cạn dòng là thắm DỨT đường chim xanh!)

      Canh ba nửa đêm mưa rả rích làm mộng hồn cứ luôn mơ về quê cũ. 

     Trong quán trọ lòng cứ trầm ngâm mãi giữa bốn bức vách luôn vang dậy tiếng côn trùng.      

      Lão Đỗ đâu có khi nào quên được bờ bắc của sông Vị đâu.
      Quản Ninh vẫn còn là thân đất khách của xứ Liêu Đông.
      Giá có bạn bè thân quen cũ ở đất Việt Trung xưa hỏi thăm.
      Xin hãy đáp rằng cuộc sống còn xoay chuyển giống như là cỏ bồng, dật dờ vô định.

* DIỄN NÔM:

                        GỞI BẠN 

 

          

            Sau loạn bạn bè tựa lá rơi,
            Ngút  trông tin nhạn biệt bên trời.
            Nửa đêm quê cũ lòng luôn nhớ,
            Bốn phía côn trùng dạ chẳng nguôi.
            Vị Bắc Đỗ già hằng khoắc khoải,
            Liêu Đông chàng Quản luống bồi hồi.
            Việt Trung thân hữu như thăm hỏi,
            Hãy đáp cuộc đời lắm nổi trôi !

Lục bát :

           Sau loạn thân hữu dần thưa,

           Bên trời nhạn bặc biếng đưa thư hồng.

           Đêm mưa quê cũ vời trông,

           Bốn bề lữ quán côn trùng ngâm nga.

           Đỗ già Vị bắc nhớ nhà,

           Quản Ninh như khách la cà Liêu Đông.

           Bạn bè thăm hỏi Việt Trung,

           Đáp rằng thân hãy phiêu bồng nổi trôi !

                                                      Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC .         
 

         

 

 

 

 

 

 

 

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC          亂後到崑山感作

Nhất biệt gia sơn kháp thập niên,              一別家山恰十年
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên.                 歸來松菊半翛然
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ,             林泉有約那堪負
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên.                        塵土低頭只自憐
Hương lý tài qua như mộng đáo,               鄉里纔過如夢到
Can qua vị tức hạnh thân tuyền.                干戈未息幸身全
Hà thời kết ốc vân phong hạ,                      何時結屋雲峰下
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên      汲澗烹茶枕石眠


* CHÚ THÍCH :

           Côn Sơn : Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.
1. GIA SƠN家山 : Nhà ở trên núi, thay vì nói GIA HƯƠNG là Quê Hương, thì ông nói là GIA SƠN vì Quê hương của ông là Vùng Núi.
2. KHÁP 恰 : Phó Từ chỉ Vừa Vặn, Đúng Lúc.
3. NA KHAM 那堪 : Đây là từ BẠCH THOẠI lẫn trong VĂN NGÔN, tức là Văn nói lẫn trong Văn Viết. Tiếng Hán Hiện Đại vẫn còn sử dụng từ nầy. Có nghĩa : Làm sao mà..., Làm sao có thể...
NA KHAM PHỤ : Làm sao mà Phụ rãi cho đành. Làm sao mà có thể quên được !
4. TÀI QÚA 纔過 : Phó Từ, cũng là Bạch Thoại, Tiếng Hán Hiện Đại còn rất thông dụng từ nầy trong Đàm Thoại.
TÀI QÚA : là Mới vừa qua. Đáng lẽ phải đọc là TÀI QUÁ, như DƯƠNG QUÁ
trong Thần Điêu Hiệp Lữ của KIM DUNG vậy, có bản
dịch là DƯƠNG QUA. Tất cả đều do bằng trắc mà thôi !
5. CAN QUA 干戈 : CAN là Cái Mộc để đở, QUA là ngọn Giáo để đâm. Một đâm một đở, chỉ sự đánh nhau, nên CAN QUA nghĩa rộng là CHIẾN TRANH.           

* DỊCH NGHĨA :

                           CẢM TÁC ĐẾN CÔN SƠN SAU BUỔI LOẠN LY.
           Rời xa quê hương vùng núi nầy thoắt cái mà đã mười năm rồi. Nay về thăm lại thì hỡi ôi những cây tùng và các khóm hoa cúc ngày xưa đều đã tiêu điều quá nửa. Nhưng vì có ước hẹn trước với rừng xanh và dòng suối nơi đây cho nên phải quay trở lại ( không nở phụ ước ), cúi đầu nhìn xuống đất quê nơi cố thổ mà tự cảm thương thân mình lưu lạc . Làng xóm năm xưa vừa thoáng qua như trong cơn mộng, chiến tranh còn dai dẵng chưa yên, may mà thân mình vẫn còn được bảo toàn. Không biết đến bao giờ thanh bình để được kết một mái tranh dưới đĩnh núi phủ đầy mây trắng nầy, lấy nước suối để pha trà và gối đầu lên các tảng đá mà ngủ ( 1 giấc cho ngon lành !).

* DIỄN NÔM :

Quê nhà cách biệt thoắt mười năm,
Tùng cúc tiêu điều trở gót thăm.
Hẹn ước lâm tuyền sao phụ rãy,
Cúi đầu cố thổ những bâng khuâng.
Xóm làng như mộng vờn qua đó,
Chinh chiến chưa yên chẳng lụy thân.
Ước dưới núi mây ta kết cỏ,
Suối trà gối đá ẩn lều tranh !

Lục bát :

Xa quê thoắt đã mười năm,
Tiêu điều tùng cúc âm thầm xót xa.
Lâm tuyền ước hẹn cùng ta,
Cúi nhìn đất Tổ quê Cha chợt buồn.
Xóm làng như mộng vấn vương,
Chiến tranh dai dẳng xót thương thân mình.
Khi nào dưới núi kết tranh,
Suối trà gối đá rừng xanh ngủ vùi !

                                            Đỗ Chiêu Đức.

 

 
 

 4. Bài thơ : Quy Côn Sơn chu trung tác 

* Bản chữ Hán cổ của bài thơ :

 歸昆山舟中作            QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC

                 阮廌                                           Nguyễn Trãi

十年飄轉嘆蓬萍,   Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,

歸思搖搖日似旌。   Quy tứ dao dao nhật tự tinh. 

幾托夢魂尋故里,   Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,

空將血淚洗先塋。   Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh.

兵餘斤斧嗟難禁,   Binh dư cân phủ ta nan cấm,

客裡江山只此情。   Khách lý giang sơn chỉ thử tình.

鬱鬱寸懷無奈處,   Uất uất thốn hoài vô nại xứ,

船窗推枕到天明。   Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh. 

* Chú Thích :

    - Phiêu Chuyển 飄轉 : Phiêu bạc chuyển động, có nghĩa Trôi nổi không ở yên một chỗ.

    - Thán Bồng Bình 嘆蓬萍 : Than cho thân mình như cỏ bồng bay phất phơ, như cánh bèo trôi nổi.

    - Dao Dao Nhật Tự Tinh 搖搖日似旌 : Phất phơ như cờ bay trong nắng gió.

    - Kỷ Thác 幾托 : Mấy lần gởi gắm, Mấy độ ký thác ...

    - Tẩy Tiên Doanh 洗先塋 : Tẩy rửa quét dọn mồ mả Tổ Tiên.

    - Cân Phủ 斤斧 : là Rìu, Búa. Ở đây chỉ Vũ Khí (rơi rớt).

    - Vô Nại 無奈 : Không biết phải làm gì; Không biết làm sao cho phải...

    - Thôi Chẩm 推枕 : là Đẩy gối; Ý nói trăn trở mãi không ngủ được nên gối bị đẩy lêch sang một bên.

* Nghĩa Bài Thơ :

                   CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN

       Mười năm phiêu bạc trôi nổi đó đây như cỏ bồng như bèo nước. Lòng nhớ quê cứ canh cánh như ngọn cờ mãi phất phơ trong nắng. Đã biết mấy lần gởi gắm mộng hồn tìm về nơi quê cũ. Nhưng cũng chỉ tẩy rửa được mộ phần của Tổ Tiên khơi khơi bằng huyết lệ của kẻ tha hương mà thôi. Sau cuộc binh đao khó mà tránh được sự rơi rớt của búa rìu vũ khí (gây nên cướp bóc bạo lực). Nơi đất khách chút lòng đối với quê hương cũng chỉ có thế nầy mà thôi. Nên chi lòng cứ u uất mãi không biết phải làm sao cho phải, trăn trở mãi lệch cả gối chăn vẫn không ngủ được cho đến khi ngoài khoang thuyền trời đà sáng tỏ. 

*.Diễn Nôm :

                TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN CẢM TÁC

                   Mười năm phiêu bạc tựa bèo trôi,

                   Thôi thúc lòng quê biết mấy hồi.

                   Gởi mộng cố hương hồn kiếm lối,

                   Rửa mồ tiên tổ lệ tuôn rơi.

                   Tàn binh đao kiếm khôn lường được,

                   Đất khách núi sông chỉ thế thôi.

                   U ẩn tấc lòng canh cánh mãi,

                   Suốt đêm trăn trở mặc thuyền trôi !

  Lục bát :

                  Mười năm trôi nổi bình bồng,

                  Cố hương lòng những ngóng trông ngày về.

                  Mấy lần hồn mộng tìm quê,

                  Không tuôn máu lệ nhớ về Tổ tiên.

                  Loạn binh đao kiếm triền miên,

                  Đành thân đất khách chút riêng tình nầy.

                  Lòng buồn biết nói sao đây,

                  Khoang thuyền gối lệch hây hây sáng trời !

                                                                Đỗ Chiêu Đức

                   

5. Bài thơ LONG ĐẠI NHAM :

   龍岱岩                              LONG ĐẠI NHAM

去年虎穴我曾窺,   Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy,

龍岱今觀石窟奇。   Long Đại kim quan thâch quật kỳ.

鰲負出山山有洞,   Ngao phụ xuất sơn sơn hữu động,

鯨遊塞海海為池。   Kình du tái hải hải vi trì.

壼中日月天難老,   Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão,

世上英雄此一時。   Thế thượng anh hùng thử nhất thì.

黎范風流嗟漸遠,   Lê Phạm phong lưu ta tạm viễn,

青苔半蝕璧間詩。   Thanh đài bán thực bích gian thi. 

         

* Chú Thích :

    - Long Đại Nham 龍岱岩 : Nham là Nham Thạch, là Đá núi; nên Long Đại Nham là  Núi Long Đại.

    - Khuy 窺 : là Nhìn, Ngắm, Dòm ngó.

    - Thạch Quật 石窟 : là Hang đá, nghĩa như Thạch Động.

    - Ngao 鰲 : là Cá Ngao, đúng ra là một loại Ba Ba biển khổng lồ.

    - Kình 鯨 : là Cá Ông, cá Voi, loài cá lớn nhất trong các loài cá.

    - Hồ Trung Nhật nguyệt 壼中日月 : là Mặt trăng mặt trời trong hồ lô. Theo sách Lão Giáo, xưa có một người tên là Trương Thân, đặc biệt có một cái bầu lớn có thể hoá thành trời đất, trong có mặt trời mặt trăng, đêm chui vào đấy mà ngủ, gọi là hồ thiên, là trời ở trong bầu, do đó ta mới thường nói là Bầu Trời.

    - Lê Phạm 黎范 : Là hai nhân vật: Lê Quát, tự là Bá Quát, quê tỉnh Hải Dương, và Phạm Sư Mạnh, quê ở tỉnh Thanh Hoá, hai vị quan Nho Gia, thi sĩ thường cùng nhau ngâm vịnh. Do đó thời bấy giờ người ta thường gọi Lê Phạm để nói về đức tài của hai ông, đặc biệt hai ông đều cùng là môn sinh của Chu Văn An, và đều cùng làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển (Thượng Thư).

    - Thực 蝕 : là Bị ăn. Trong bài thơ có nghĩa là Xâm Thực 侵蝕, tức bị bào mòn bởi thời gian và mưa gió.

* Nghĩa Bài Thơ :

                                                 NÚI LONG ĐẠI

      Năm ngoái ta đã từng dòm ngó nơi xào huyệt hang hùm; Năm nay ta lại được nhìn ngắm hang động kỳ bí của núi Long Đại, làm ta chợt nhớ đến những con Ba Ba lhổng lồ có thể nâng nổi núi đá để bày ra hang động, và cá kình lội trong biển làm cho biển giống như là cái ao nhà. Trời đất riêng trong hồ lô nhật nguyệt cũng khó mà già đi, cũng như anh hùng hảo hán ở trên đời nầy cũng chỉ là trong một lúc mà thôi! Và cũng như cái phong lưu tài hoa của Lê Quát và Phạm Sư Mạnh cũng lùi xa vào dĩ vãng một cách đáng tiếc. Tương tự như bài thơ trên vách đá đã bị xâm thực mà mòn mất hết phân nửa đi rồi !

      Nguyễn Trãi đã khéo lợi dụng tên núi Long Đại để đưa vào điển tích Bồng lai với "Người Long Bá câu Ngao trong Bột Hải". Mời đọc lại : THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 19 : BỒNG LAI TIÊN CẢNH. 

* Diễn Nôm :

                       NÚI LONG ĐẠI  

 

               
      

             

 

 

 

              Năm ngoái đã từng dòm hổ huyệt,

             Năm nay Long Đại ngắm non cao.

             Ngao nâng núi đá sanh hang động,

             Kình lội biển sâu trông tựa ao.

             Nhật nguyệt trong bầu trời vẫn trẻ,

             Anh hùng cái thế chẳng ra sao.

             Phong lưu Lê Phạm đà xa tít,

             Vách đá thơ đề đã nửa hao !

   Lục bát :

             Từng dòm hổ huyệt năm qua,

             Năm nay Long Đại ngắm xa động kỳ.

             Ngao nâng núi đá hang chi,

             Kình ra bể lớn khác gì về ao.

             Trong bầu nhựt nguyệt trẻ sao,

             Anh hùng cái thế khác nào thường dân.

             Phong lưu Lê Phạm xa dần,

             Rêu phong hơn nửa vách trần đề thơ.

 

                                                                 ĐCĐ

 

  Mời xem phần "B. THƠ LÀM SAU KHI THÀNH DANH" ở bài kế tiếp.

                                                    

 

                                                                                        Đỗ Chiêu Đức

 

 

 

 

Điển Tích Văn Học 25:

                                Ả                                                         

                              

           

                                     

 

 

 

 

 

 

 

 

Ả vừa là Danh Từ, vừa là Phiếm chỉ Đại từ để chỉ phái yếu, như những câu thơ mà Nguyễn Trãi đã bỡn cợt khi gặp Thị Lộ :

                       Ả ở đâu mà bán chiếu gon,

                       Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn,

                       Xuân xanh phỏng độ chừng bao tuổi, 

                       Đã có chồng chưa được mấy con ?

                                                                             

    Đôi khi Ả được dùng để chỉ sự xem thường, như "Mấy ả bạn hàng", hay tỏ vẻ khinh miệt như "Những Ả gái điếm"... Nhưng trong đàm thoại bình thường thì Ả là từ dùng để chỉ Các Bà, Các Cô, như :

 

                      Tại anh tại Ả, tại cả hai đàng.

 

    Trong Văn học Cổ thì sau từ Ả thường có thêm những Bổ túc từ như : Ả Chức, Ả Hằng, Ả Lý, Ả Tạ ... Ta sẽ lần lược tìm hiểu các Ả sau đây :

 

    * Ả CHỨC : Hay đi với Chàng Ngưu, nên Ả Chức tức là Chưa Nữ đó. CHỨC NỮ 織女 vốn là tên một ngôi sao nằm ở phía bắc sông Ngân Hà, đối diện với sao KHIÊN NGƯU 牽牛 ( dắt trâu ). Chức Nữ và Khiên Ngưu (còn gọi là Ngưu Lang) lại là tên của hai nhân vật thần thoại theo điển tích sau đây :

     

     Theo "Kinh Sở Tuế Thời Ký 荊楚歲時記" : Chức Nữ là cháu của Ngọc Đế, rất giỏi nghề dệt vải. Trốn xuống trần kết duyên cùng Ngưu Lang, Sanh được một trai một gái. Tây Vương Mẫu giận, xuống trần bắt Chức Nữ về trời, Ngưu Lang dắt con đuổi theo. Tây Vương Mẫu rút trâm vạch thành dải Ngân Hà ngăn cách hai người, mỗi năm phải nhờ chim ô thước (Qụa đen, Chim khách) bắt cầu mới gặp mặt được một lần. Đó chính là đêm mùng 7 tháng 7 Âm lịch, nên còn gọi là đêm Thất Tịch 七夕. Vợ chồng gặp nhau, vui mừng than khóc, nước mắt đổ xuống trần gian thành mưa. Nhân gian gọi đó là "Mưa Ngâu tháng bảy" hay " Tháng bảy mưa Ngâu" cũng thế.

                       
                                       

 

 

 

 

 

 

 

 Ngưu Lang Chức Nữ 

 

     Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu có câu :

 

                              Chữ đồng lấy đấy làm ghi, 

                       Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên.  

 

     Trong Lục Vân Tiên của Nguyễ Đình Chiểu cũng có câu :

 

                              Hữu tình chi bấy Ngưu lang,

                      Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.            

      

      Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc khi tả tâm sự của của ngàng chinh phụ thương nhớ chồng, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm cũng đã hạ câu :

 

                   Khác gì ả Chức, chị Hằng,

             Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.

 

      Chị Hằng ở trong câu thơ trên, còn được gọi là ...

 

 * Ả HẰNG tức là Hằng Nga 姮娥, hay Thường Nga 嫦娥, có tích như sau :

                  

      Theo sách Hoài Nam Tử 淮南子, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ, rất đẹp nhưng có tật đảng trí. Nghệ xin được thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm thuốc uống vào, cơ thể bèn nhẹ nhõm bay tuốt lên cung trăng, ở trong cung Quảng Hàn một mình lạnh lẽo, như hai câu thơ của Lý Thương Ẩn 李商隱 đã viết trong bài Thất ngôn Tứ tuyệt có tên là Thường Nga :

 

                         Thường Nga ưng hối thâu linh dược,    嫦娥應悔偷靈藥,

                         Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.          碧海青天夜夜心. 

Có nghĩa :

                        Hằng Nga chừng cũng tiếc hoài,

                    Trót đà trộm thuốc ai hoài đêm đêm !

 

               

 

 

 

 

 

 

 


                     Thường Nga ưng hối thâu linh dược

 

     Trong truyện thơ Nôm khuyết danh của ta ở thế kỷ thứ 18 là Phạm Tải Ngọc Hoa 范載玉花 cũng mượn hình ảnh Hằng Nga để chỉ Mặt Trăng, như :

 

                       Có đêm lặng ngắm Hằng Nga,

                 Tưởng người quân tử dật dờ phương nao !

 

     Hay mượn hình ảnh Hằng Nga để chỉ người đàn bà đẹp, như trong truyện Lâm Tuyền Kỳ Ngộ 林泉奇遇 (Bạch Viên Tôn Các) có câu :

 

                      Từ về qua tới chốn thạch tuyền,

                      Xảy gặp Hằng Nga mới kết duyên.

 

     Trong truyện Nôm lục bát khuyết danh là Phan Trần Truyện 藩陳傳 cũng có câu :

 

                          Bây giờ e lệ chưa tường,

                   Lâu lâu lại lắp lánh gương Ả Hằng.

 

  * Ả LÝ : là nàng Lý Ký 李寄 trong truyền thuyết Sưu Thần Ký 搜神记 đời Đông Tấn như sau :

        Nước Đông Việt ở vùng Mân nam (Quảng Đông, Phúc Kiến hiện nay) có nàng Lý Ký là con gái út thứ sau của gia đình. Nhà nghèo không có con trai, trong nước lại có nạn yêu rắn hoành hành, mỗi năm đều phải tế một cô gái trẻ cho rắn ăn thịt. Lý Ký bèn quyết định bán thân mình cho rắn ăn thịt, lấy tiền để nuôi cha mẹ và các chị. Mặc dù cha mẹ can ngăn, Lý Ký cũng lén đi, nàng yêu cầu nhà vua cấp cho mình một thanh bảo kiếm và một con chó săn, rồi đi thẳng đến động rắn. Sau một đêm chiến đấu quyết liệt với sự hỗ trợ của con chó săn thiện nghệ, nàng đã chém chết con yêu rắn. Quốc vương nước Đông Việt cảm phục trước sự dũng cảm của nàng , nên đã cưới nàng về làm hoàng hậu. 

      Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã cho cô Kiều cân nhắc trước khi quyết định bán mình chuộc tôi cho cha là :

                              Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh,

                            Lại thua Ả Lý bán mình hay sao ?!

 

                        

                                                       

 

 

 

 

 

 

                                               Lý Ký chém rắn  

      

       * Ả TẠ : là TẠ ĐẠO UẨN 謝道韞, con của tướng quân Tạ Diệc, cháu của thừa tướng Tạ An, là vợ của Vương Ngưng Chi con trai thứ của nhà thư Pháp nổi tiếng đời Đông Tấn là Vương Hi Chi. 

        Tạ Đạo Uẩn rất giỏi về văn thơ, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, sắc sảo. Khi Tạ An hỏi các cháu lúc đang ngắm cảnh tuyết rơi là : Có thể lấy gì để ví với tuyết rơi ? Một cháu trai là Tạ Lãng trả lời rằng : Sái viêm không trung sai khả nghỉ 撒盐空中差可拟 (Có thể nói là như rắc muối giữa không trung). Tạ Đạo Uẩn nói rằng : Vị nhược liễu nhứ nhân phong khởi 未若柳絮因风起 !(Chẳng bằng nói là hoa liễu bay đầy trời khi có gió thổi lên). Tạ An khen hay, Tạ Đạo Uẩn nổi tiếng từ đấy.

 

     Trong tác phẩm Sãi Vãi của cụ Nguyễn Cư Trinh, khi cho bà Vãi luận về tài trí của phái nữ có câu :

 

                   Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ,

                   Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc...

 

     Trong Lục Vân Tiên, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã khen tài làm văn thơ của Kiều Nguyệt Nga bằng câu :

 

                        Đã mau mà lại thêm hay,

                  Chẳng phen Tạ  Nữ cũng tài Từ Phi.

 

     Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du đã cho Kim Trọng khen tài làm thơ của Thúy Kiều là :

 

                        Khen tài nhả ngọc phun châu,

                     Nàng Ban Ả Tạ cũng đâu thế nầy !

                         

                                                         

 

 

 

 

 

 

                                         

                                              Tạ Đạo Uẩn  謝道韞

 

     Cũng trong Tuyện Kiều của cụ Nguyễn Du ta lại được gặp thêm một "Ả" nữa, đó là ...

 

  * Ả Tố Nga : Tố Nga 素娥 tức là Thường Nga 嫦娥, là Hằng Nga 姮娥 mà ta đã biết ở phần trên, thường dùng để chỉ Mặt Trăng hay Gái Đẹp. Vì mặt trăng có màu trắng (TỐ 素) nên mới gọi là Tố Nga 素娥, theo như lời chú giải của Lý Chu Hàn cho bài Nguyệt Phú của Tạ Trang đời Tống là : Thường Nga thiết dược bôn nguyệt, nguyệt sắc bạch, cố vân TỐ NGA 嫦娥竊藥奔月,月色白,故云素娥. Có nghĩa : Thường Nga trộm thuốc bay lên cung trăng, trăng lại có màu trắng, nên còn gọi là TỐ NGA. 

 

     Khi tả hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân đều là "người đẹp", cụ Nguyễn Du đã hạ câu :

 

                             Đầu lòng hai Ả TỐ NGA,

                      Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. 

 

          Xin được kết thúc bài viết với từ "Ả ĐÀO 妸陶" hay Cô Đào 姑姚 hoặc Đào Nương 陶娘, còn được gọi là Ca Nương 歌娘, là thuật ngữ của Việt Nam ta thường dùng để gọi một dạng kỹ nữ 妓女 trong thời đại cổ. Theo Từ điển tiếng Việt, Cô Đầu là một danh từ thuộc loại từ cũ, khẩu ngữ để chỉ các Ả đào. Ả ĐÀO còn chỉ thể Hát Nói mà các Đào Nương hay hát, ở Hà Nội khi xưa hay gọi là "đi hát Ả Đào". 

                         

 

                                                 Hẹn gặp lại trong bài viết tới.

 

                                                                                               Đỗ Chiêu Đức

DCD_A.jpg
DCD_NguuLangChucNu.jpg
DCD_HuongNga.jpg
DCD_PhamTai.jpg
DCD_LyKy_2.jpg
DCD_LyKy_1.jpg
DCD_Tadaouan_1.jpg
DCD_Tadaouan_2.jpg
DCD_Adao.jpg
DCD_NguyenTrai.jpg
dcd_thinhvu.jpg
DCD_Nghemua.jpg
DCD_KyHuu.jpg
DCD_goiban.jpg
DCD_Loanhaudaocon.jpg
DCD_Quiconson.jpg
DCD_Longdainam.jpg
DCD_longdainham_2.jpg
DCD_nuiLongDai.jpg

Add Your Title

This is a great place to add a tagline.

Tell customers more about you. Add a few words and a stunning pic to grab their attention and get them to click.

This space is ideal for writing a detailed description of your business and the types of services that you provide. Talk about your team and your areas of expertise. 

bottom of page